Professional Documents
Culture Documents
ghi việt bắc 11
ghi việt bắc 11
ghi việt bắc 11
868
1|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Phần 1 được đánh giá là tập trung thành công nghệ thuật của toàn tác phẩm.
Đọạn trích có một kết cấu rất đặc biệt, đó là kết cấu đối đáp “mình – ta”, với kết cấu này,
tác giả đã thể hiện kết cấu mềm mại và uyển chuyển giữa cán bộ miền xuôi và đồng bào
Việt Bắc. Tác giả đã thể hiện tình cảm lớn trong một mối quan hệ cá nhân gần gũi và thân
thiết.
2|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
****************************
Tác giả: Nhà thơ Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ cách mạng Việt
Nam, đồng thời là một chính trị gia. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ
thống chính trị Việt Nam: ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam… Ông còn là nhà thơ đã chọn con đường cách mạng từ thời thanh
niên. Thơ của ông tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật cách mạng “thơ phải xứng đáng là
người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Ông sở hữu nhiều tác phẩm giá
trị: “Từ ấy”, “Ra trận”, “Máu và Hoa”, “Ta với ta”… đặc biệt là bài thơ “Việt Bắc” - lời
tổng kết chiến tranh qua những năm tháng gian khổ mà hào hùng.
Tác phẩm: Việt Bắc là khu căn cứ địa cách mạng thành lập năm 1940 sau khởi nghĩa
Bắc Sơn bao gồm sáu tỉnh gọi tắt là Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái. Nơi đây cán
bộ chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã có 15 năm gắn bó keo sơn nghĩa tình. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Trung ương Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc
về Hà Nội, tiếp tục nhiệm vụ cách mạng. Lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố
Hữu đã viết bài thơ này vào tháng 10/1954. Toàn bộ bài thơ là một niềm hoài niệm lớn,
hoàn cảnh sáng tác bài thơ đã tạo nên sắc thái tâm trạng đặc biệt, xúc động bâng khuâng,
3|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
day dứt không nguôi của người đi kẻ ở. Đây là cuộc chia tay lịch sử của những người đã
từng sống, gắn bó suốt 15 năm gian khổ mà biết bao tình người. Việt Bắc đã trở thành
máu thịt của người cách mạng nên cuộc chia tay này chính là cuộc chia tay với chính
lòng mình.
Mở đầu bài thơ là tám câu thơ khơi gợi tình cảm đẹp đẽ giữa quân và dân Việt
Bắc, những nốt nhạc ban đầu tấu nên bản tình ca, hùng ca cách mạng:
1. Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người ở lại, người dân Việt Bắc nói với người
ra đi – Trung ương Đảng, Chính phủ và Chiến sĩ cách mạng về xuôi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
2. Ở hai câu thơ đầu tiên tác giả khơi gợi khoảng thời gian của lịch sử dân tộc
“mười lăm năm” gắn bó tình nghĩa.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Câu hỏi tu từ khơi gợi về kỷ niệm kháng chiến, về quãng thời gian “mười lăm
năm ấy” biết bao vui buồn, biết bao gian khổ, quân và dân ta đã từng chia ngọt
sẻ bùi. Nhà thơ mở đầu bằng một câu hỏi không nhằm mục đích kiếm tìm câu
trả lời mà để khơi gợi niềm nhớ nhung, tình cảm đang dâng lên trong lòng của
những người ở lại thiết tha, nồng nàn.
Tác giả sử dụng đại từ xưng xô “mình – ta” quen thuộc của ca dao dân ca:
4|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
hay:
“Mình” là người cán bộ về xuôi còn “ta” là nhân dân Việt Bắc, cách xưng hô “mình-
ta” tựa như mật ngọt khiến tình cảm thêm sâu sắc. Tác giả sử dụng ngôn ngữ của tình
yêu để chỉ về tình cảm son sắt, nghĩa tình của người miền ngược và người miền xuôi
qua cụm từ “thiết tha mặn nồng”.
Cụm từ “ thiết tha mặn nồng “ thật đẹp, thật hay bởi vì tác giả đã sử dụng ngôn ngữ
của tình yêu để chỉ về tình cảm của người miền ngược và người miền xuôi. Gợi một
hình ảnh gắn bó,keo sơn, sâu đậm, sâu nặng tình nghĩa thuỷ chung son sắt
“Mười lăm năm” là khoảng thời gian từ năm 1940, khởi nghĩa Bắc Sơn mở đầu cuộc
kháng chiến chống Nhật đến năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc kháng
chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Biết bao
nhiêu buồn vui, gian khổ giữa nhân dân và cán bộ diễn ra trong vòng những năm
tháng ấy, khoảng thời gian không ngắn, không quá dài nhưng đủ để tình cảm đong
đầy. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: “Mười lăm năm ấy” không
chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó
chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn.”
3. Hai câu thơ gợi nhớ những hình ảnh quen thuộc đã từng gắn bó với quân dân
Việt Bắc.
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Thiên nhiên đã từng che chở, cùng người chiến sĩ đánh giặc kiên cường:
5|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
4. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ
thương, bịn rịn:
6|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Hai từ láy “bang khuâng” và “bồn chồn” có giá trị biểu đạt khác nhau và đều
góp phần diễn tả tâm tư của người ra đi, đã gợi những cảm nhâ ̣n về những nỗi
lưu luyến, nhớ nhung, buồn vui lẫn lô ̣n. Vui vì sau bao năm tháng xa cách được
trở về quê hương, buồn bởi phải chia tay Viê ̣t Bắc- nơi đã gắn bó với các chiến
sĩ 15 năm mă ̣n nồng. Viê ̣t Bắc đã trở thành mô ̣t phần kỷ niê ̣m trong cuô ̣c đời của
người ra đi.
Có lẽ, “người ra đi” trong dạ bang khuâng, vì vừa có sự náo nức trên đường trở
về quê hương, cũng có những giằng níu tâm can với kỉ niê ̣m ở nơi chất chứa biết
bao tình cảm…nên bước chân mới “bồn chồn”, tâm trạng mới hồi hô ̣p, nôn nao,
âu lo, đứng ngồi không yên, bịn rịn, không muốn chia xa, lưu luyến.
5. Tác giả khắc họa khung cảnh chia tay giữa người đi và kẻ ở dạt dào cảm xúc ở
hai câu thơ:
“Áo chàm chia buổi phân ly đi
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” được sử dụng với phân tích hoán dụ, gợi nhớ về
nhân dân Việt Bắc trong màu áo quen thuộc đã in sâu trong tâm trí của người về
xuôi. Người dân nơi đây với màu áo chàm giản dị, mô ̣c mạc, họ nghèo khổ lam
lũ, tảo tần nhưng lại có tình nghĩa thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Hình ảnh “buổi phân li” là hình ảnh đô ̣c đáo, vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang
nét đẹp hiê ̣n đại. Cổ điển ở chỗ “phân li” là từ Hán Viê ̣t tạo nên không khí trang
trọng, cổ kính trong buổi chia tay, làm ta nhớ đến cuô ̣c chia tay trong văn
chương cổ như:
“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi mô ̣t bước giây giây lại dừng”
(Chinh phụ ngâm)
7|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Cả người ra đi và người ở lại tiễn biệt nhau bằng ngôn ngữ không lời “biết nói gì
hôm nay” -không phải là không có gì để nói mà là không thể nói thành lời, tình
cảm trào dâng đến lắng đọng trong cảm xúc.
Tất cả những gì cần nói đều gửi gắm trong hình ảnh “cầm tay nhau”, hình ảnh
gợi cảm về tình yêu thương gắn bó, san sẻ, đoàn kết gợi tình cảm nồng ấm. Chỉ
cần cái “cầm tay” là đủ thấy sự chân thành, nồng ấm thay cho tất cả mọi lời có
thể nói ra trong giờ phút từ biệt.
Dấu ba chấm cuối câu như một khoảng trống cần lấp đầy bởi những tình cảm
ngọt ngào, sự lặng im nhưng đông đầy cảm xúc, một nét vẽ dẫn lối người đọc
khám phá từng ngóc ngách trong trái tim con người.
Tóm lại, chỉ qua hai khổ thơ đầu này tưởng không chỉ diễn tả tâm trạng của người
ra đi và kẻ ở xúc động, mà còn diễn tả được truyền thống tốt đẹp đã từng ăn sâu
vào tâm thức của bất kỳ người viết nào, đó là tình cảm thuỷ chung, ân tình.
Qua tám câu thơ trên, ta cảm nhận được giọng điệu nghệ thuật của nhà văn.
Đối với thơ, hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng,
những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn từ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có
nhịp điệu thì giọng điệu nghệ thuật lại càng thể hiện rõ nét.
Tố Hữu đã đem giọng điệu nghệ thuật riêng vào bài thơ “Việt Bắc” với những
dư âm thiết tha, sâu lắng. Ở tám câu thơ đầu, ta cảm nhận giọng điệu tâm tình
ngọt ngào, dạt dào tình cảm tha thiết qua lớp ngôn từ thân mật, gần gũi, gợi
hình gợi cảm.
Thể thơ lục bát truyền thống uyển chuyển, bộc lộ tình cảm đằm thắm, thiết tha
giữa người đi và kẻ ở.
8|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Đại từ “mình - ta” quen thuộc trong ca dao dân ca của đôi lứa yêu đương, đã
hóa thành tình cảm lớn của đồng bào Việt Bắc với cán bộ chiến sĩ cách mạng và
chính nhà thơ.
Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày
của nhân dân nhưng rất giàu hình ảnh, cảm xúc và nhạc điệu.
****************************
Tác giả: Nhà thơ Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ cách mạng Việt
Nam, đồng thời là một chính trị gia. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ
thống chính trị Việt Nam: ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam… Ông còn là nhà thơ đã chọn con đường cách mạng từ thời thanh
9|Page
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
niên. Thơ của ông tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật cách mạng “thơ phải xứng đáng là
người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Ông sở hữu nhiều tác phẩm giá
trị: “Từ ấy”, “Ra trận”, “Máu và Hoa”, “Ta với ta”… đặc biệt là bài thơ “Việt Bắc” - lời
tổng kết chiến tranh qua những năm tháng gian khổ mà hào hùng.
Tác phẩm: Việt Bắc là khu căn cứ địa cách mạng thành lập năm 1940 sau khởi nghĩa
Bắc Sơn bao gồm sáu tỉnh gọi tắt là Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái. Nơi đây cán
bộ chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã có 15 năm gắn bó keo sơn nghĩa tình. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Trung ương Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc
về Hà Nội, tiếp tục nhiệm vụ cách mạng. Lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố
Hữu đã viết bài thơ này vào tháng 10/1954. Toàn bộ bài thơ là một niềm hoài niệm lớn,
hoàn cảnh sáng tác bài thơ đã tạo nên sắc thái tâm trạng đặc biệt, xúc động bâng khuâng,
day dứt không nguôi của người đi kẻ ở. Đây là cuộc chia tay lịch sử của những người đã
từng sống, gắn bó suốt 15 năm gian khổ mà biết bao tình người. Việt Bắc đã trở thành
máu thịt của người cách mạng nên cuộc chia tay này chính là cuộc chia tay với chính
lòng mình.
1. Kháng chiến là công cuộc của quân và dân vì thế quân dân luôn gắn bó và san
sẻ với nhau mặc dù phải đối mặt với thiếu thốn, khó khăn. Bốn câu thơ đầu đã
gợi nhớ về kỉ niệm kháng chiến gian khổ giữa quân và dân, giữa người đi và kẻ
ở:
10 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Nhân vật trữ tình xưng “mình” để thể hiện mối quan hệ gắn bó, thân mật với những
người đã từng cùng nhau chịu đựng gian khổ thiếu thốn.
Vì nhớ nhung quá khứ nên người dân Việt Bắc mới hỏi người chiến sĩ “có nhớ những
ngày”, “có nhớ chiến khu” để gợi mở kỉ niệm gắn bó của quân dân trong những năm
tháng chiến đấu gian khổ và khó khăn.
Điệp từ “có nhớ” thể hiện mong muốn của nhân dân Việt Bắc đối với người cán bộ dù
đã chia xa chiến khu, tiếp tục nhiệm vụ mới nhưng hãy luôn nhớ về quê hương cách
mạng, nhớ về kỉ niệm gian khổ cùng nhau chia ngọt sẻ bùi.
Thiên nhiên khắc nghiệt “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” còn vật chất lại
thiếu thốn nên quân dân phải cùng nhau san sẻ “miếng cơm chấm muối” nhưng rất ấm
lòng, tình nghĩa mà Chế Lan Viên từng viết trong “Ta chào Việt Bắc về xuôi”:
“Mẹ nghèo vẫn cố nuôi con
Lúc bùi măng nứa, khi ngon củ mài,
Sẻ từng hạt muối cắn đôi,
Nhà sàn chung ở, chăn sui đắp cùng”
Cách nói độc đáo “mối thù nặng vai” đã cho thấy sự tâm huyết, đồng lòng của quân và
dân trong cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng. Đồng thời những kỉ niệm kháng
chiến chắng những không bị lớp bụi thời gian làm cho phai nhòa mà đã nằm trọn trên
những vần thơ trữ tình bởi “Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật.”
(Bêlinxki)
2. Mười lăm năm gắn bó với mảnh đất anh hùng, người chiến sĩ đã cùng nhân
dân Việt Bắc có những kỉ niệm khó quên và tất cả đã trở thành hoài niệm thật
đẹp, ý nghĩa:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
11 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Nhưng dù thời gian có làm cho thời thế thay đổi, những kỉ niệm dần chìm vào quá
khứ thì người dân nơi đây vẫn “đậm đà lòng son” luôn quý mến, nhớ nhung những
người chiến sĩ đã từng gắn bó với mảnh đất anh hùng, một lòng hướng về cách mạng và
kháng chiến.
3. Cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau chiến đấu với ý chí kiên cường, quân
và dân Việt Bắc không thể nào quên những năm tháng chiến đấu khó khăn
gian khổ gắn liền với những địa danh lịch sử thân thuộc:
“Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
12 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
13 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Đại từ “mình - ta” quen thuộc trong ca dao dân ca của đôi lứa yêu đương, đã
hóa thành tình cảm lớn của đồng bào Việt Bắc với cán bộ chiến sĩ cách mạng và
chính nhà thơ.
Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày
của nhân dân nhưng rất giàu hình ảnh, cảm xúc và nhạc điệu.
Đề 5: Phân tích bức tranh tứ bình được thể hiện trong đoạn thơ sau:
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời là
một chính trị gia. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt
Nam: ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
… Chọn con đường cách mạng từ thời thanh niên, trải qua những năm tháng tù đày, thơ
của ông tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật cách mạng “thơ phải xứng đáng là người
chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Ông sở hữu nhiều tác phẩm giá trị:
14 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
“Từ ấy”, “Ra trận”, “Máu và Hoa”, “Ta với ta”,… đặc biệt là bài thơ “Việt Bắc” - lời
tổng kết chiến tranh qua những năm tháng gian khổ mà hào hùng.
Việt Bắc là khu căn cứ địa cách mạng thành lập năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn bao
gồm sáu tỉnh gọi tắt là Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái. Nơi đây cán bộ chiến sĩ
và người dân Việt Bắc đã có 15 năm gắn bó keo sơn nghĩa tình. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ năm 1954, Trung ương Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội,
tiếp tục nhiệm vụ cách mạng. Lấy cảm hứng từ cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã viết
bài thơ này vào tháng 10/1954. Toàn bộ bài thơ là một niềm hoài niệm lớn, hoàn cảnh
sáng tác bài thơ đã tạo nên sắc thái tâm trạng đặc biệt, xúc động bâng khuâng, day dứt
không nguôi của người đi kẻ ở. Đây là cuộc chia tay lịch sử của những người đã từng
sống, gắn bó suốt 15 năm gian khổ mà biết bao tình người. Việt Bắc đã trở thành máu thịt
của người cách mạng nên cuộc chia tay này chính là cuộc chia tay với chính lòng mình.
1. Trước khi vén mở những cảnh sắc tuyệt đẹp của thiên và con người Việt Bắc, Tố
Hữu khéo léo khơi gợi xúc cảm trong lòng người đọc bằng những nỗi nhớ nhung
về “hoa” và “người” để những hình ảnh tiếp theo hiện lên sâu sắc:
“Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu hỏi tu từ vang lên cùng với điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ nhung da diết
của người cán bộ từng gắn bó với mảnh đất Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy không chỉ gắn
liền với “hoa” - thiên nhiên thơ mộng, tươi tắn mà còn song hành với “người” -
nhân dân Việt Bắc đã từng gắn bó nghĩa tình:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chănsui đắp cùng”.
15 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Điệp từ “ta” ở hai dòng thơ nhấn mạnh nỗi nhớ, tình cảm chân thành của người
về xuôi đối với Việt Bắc.
“Ta” với “mình” là cách xưng hô quen thuộc, gần gũi, tình cảm bởi “Ta với
mình tuy hai mà một, tuy một mà hai”.
Điê ̣p từ “nhớ” láy đi láy lại có tác dụng tô đâ ̣m nỗi nhớ nhung da diết, thiết tha.
Người chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã có một khoảng thời gian đông đầy tình
cảm tạo nên niềm thương nỗi nhớ da diết, khôn nguôi.
“Hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho thiên nhiên tươi đẹp còn “người” là để chỉ người
dân Việt Bắc nên “hoa cùng người” là hình ảnh về vẻ đẹp thiên nhiên sóng đôi
với vẻ đẹp của con người.
Trong cái nhìn của nhà thơ, thiên nhiên và con người là hai yếu tố hòa quyện
lẫn nhau, thiên nhiên là cái nền để cho con người tỏa sáng và con người cũng đã
làm cho thiên nhiên thêm gần gũi, thân thương.
2. Những nét vẽ đầu tiên về bức tranh tứ bình chính là một mùa đông với thiên
nhiên hoang sơ, con người lao động khỏe khoắn:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Từ tầm quan sát xa, nhân vật trữ tình đã bao quát được một không gian “rừng
xanh” mênh mông rộng lớn, vời vợi sắc xanh. Gam màu này gợi vẻ đẹp trầm
tĩnh của rừng già, gợi về một vùng đất êm đềm, hoang sơ.
Sự lạnh lẽo của mùa đông dường như tan biến với sự xuất hiện của “hoa chuối
đỏ tươi”, điểm nhấn độc đáo giữa không gian rộng lớn. Sắc đỏ của hoa chuối
như ngọn đuốc đang bừng sáng xua tan giá lạnh và khiến không gian trở nên ấm
áp hơn. Cảnh nên thơ, cảnh có hồn chứ không vô hồn như bức tranh mùa đông
mà ta thường thấy:
“Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa
16 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
17 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Một miền cổ tích với sắc trắng “hoa mơ” dẫn lối người đọc đến không gian
thanh cao, đẹp đến ngỡ ngàng của màu trắng tinh khôi.
Màu trắng là gam màu tinh khiết, thanh cao khiến tâm hồn con người như giải
tỏa mọi lo âu, phiền muộn và trở nên thư thái hơn. Sắc trắng ấy đã từng được Tố
Hữu nhắc đến trong bài thơ “Theo chân Bác” để diễn tả mùa xuân lịch sử:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
Đô ̣ng từ “nở” gợi mô ̣t sức sống mùa xuân lan tỏa, gợi ra mô ̣t bức tranh vô cùng
sống đô ̣ng. Câu thơ đi nhịp 2/2/2 châ ̣m rãi theo đó từng cánh hoa mơ nở ra rồi dần
lan rô ̣ng khắp núi rừng. Không gian rừng già bừng sáng bởi sắc trắng trẻ trung của
hoa mơ.
Mùa xuân – mùa của lễ hội vui chơi nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến, đồng bào
Việt Bắc đã gác lại nhu cầu ấy để cần mẫn làm việc phục vụ cho kháng chiến. Quả
thật:
“Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
(Hoàng Trung Thông)
Những người thợ thủ công ở Việt Bắc đã dùng đôi tay khéo léo của mình “chuốt
từng sợi giang”.Động từ “chuốt” kết hợp với từ “từng” thể hiện sự tỉ mĩ của
người lao động. Đón một mùa xuân mới, người lao động luôn luôn cần cù, siêng
năng làm việc với sự kĩ lưỡng, điêu luyện. Đan nón là một công việc đòi hỏi sự
khéo léo, công phu bằng những đôi bàn tay kĩ xảo. Thiên nhiên tinh khôi làm
nền để cho con người nổi bật bởi sự tỉ mĩ, thuần phục trong công việc bởi “trăm
hay không bằng tay quen”.
18 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
Qua đó nhà thơ thể hiện sự trân trọng, ngợi ca những con người lao động cần
mẫn trong công việc để tận hưởng mùa xuân ấm no, hạnh phúc.
5. Mùa xuân vừa khép lại thì mùa hạ đã chào đón chúng ta với một thiên nhiên
sống động, con người trẻ trung:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Mở màn mùa hè là âm thanh quen thuộc của tiếng ve rừng “Ve kêu rừng phách đổ
vàng” - giai điệu đặc trưng gợi nhớ cho người đọc về mùa hè. Phải chăng đó là
tiếng ve đón chào mùa hè được nhà thơ miêu tả trong bài “Khi con tu hú”:
“Vườn râm dạy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào”
Hình ảnh “rừng phách đổ vàng” là sự cảm nhận tinh tế của nhà văn đối với chuyển
động tinh vi của sự vật.
Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác “đổ vàng”, rừng phách
chuyển đổi màu sắc đột ngột tạo nên không gian sắc vàng long lanh của mùa hè. Ở
đây như có mô ̣t sự giao cảm thâ ̣t thần kì! Tiếng ve ngân lên như mô ̣t hiê ̣u lê ̣nh của
thiên nhiên thì ngay lâ ̣p tức rừng phách đổ vàng.
Tác giả không sử dụng động từ chuyển hay đổi mà lại sử dụng động từ “đổ” để làm
nổi bật thay đổi đột ngột của rừng phách đồng thời tạo ấn tượng cho người đọc
nhằm diễn tả sự mau lẹ nhưng cũng rất chính xác khoảnh khắc hè sang. Dưới cái
nắng hè và sự rô ̣n rã của tiếng ve, bức tranh mùa hè Viê ̣t Bắc thâ ̣t náo nhiê ̣t, vui
tươi, rô ̣n ràng.
Giữa thiên nhiên ngập tràn sắc vàng, con người hiện lên với vẻ đẹp trẻ trung, tươi
tắn:
19 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
20 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
- Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, người cán bộ luôn luôn nhớ về những
ngày tháng gian lao với âm thanh ngọt ngào, tấm lòng thủy chung son sắt của
nhân dân Việt Bắc.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Người dân Việt Bắc luôn nặng tình với người cán bộ, những tiếng hát của họ chính là
những lời tâm tình ngọt ngào mà họ muốn gửi tặng cho người ra đi. Một mùa thu thanh
bình bởi ánh trăng đầy hi vọng, ngọt ngào bởi những tiếng hát thủy chung.
Qua tám câu thơ trên, ta cảm nhận được giọng điệu nghệ thuật của nhà văn.
Đối với thơ, hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng,
những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn từ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có
nhịp điệu thì giọng điệu nghệ thuật lại càng thể hiện rõ nét.
Tố Hữu đã đem giọng điệu nghệ thuật riêng vào bài thơ “Việt Bắc” với những
dư âm thiết tha, sâu lắng. Ở tám câu thơ đầu, ta cảm nhận giọng điệu tâm tình
ngọt ngào, dạt dào tình cảm tha thiết qua lớp ngôn từ thân mật, gần gũi, gợi
hình gợi cảm.
Thể thơ lục bát truyền thống uyển chuyển, bộc lộ tình cảm đằm thắm, thiết tha
giữa người đi và kẻ ở.
Đại từ “mình - ta” quen thuộc trong ca dao dân ca của đôi lứa yêu đương, đã
hóa thành tình cảm lớn của đồng bào Việt Bắc với cán bộ chiến sĩ cách mạng và
chính nhà thơ.
Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày
của nhân dân nhưng rất giàu hình ảnh, cảm xúc và nhạc điệu.
21 | P a g e
Đăng kí “Khóa học live môn văn cô Đường Mai” inbox facebook Đường Mai - 0345.777.868
22 | P a g e