Professional Documents
Culture Documents
Tư Tưởng Hồ Chí Minh ROMEO
Tư Tưởng Hồ Chí Minh ROMEO
Tư Tưởng Hồ Chí Minh ROMEO
NHÓM ROMEO
Lớp: 113-TMQT44
THÀNH VIÊN:
Biện pháp:
Đối với tập thể Đảng:
Phải kịp thời phát hiện và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, không để
chúng lây ngấm vào cơ thể sống của Đảng. Người kết luận: “Chủ nghĩa cá nhân là
một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.
Các tổ chức đảng phải hết sức quan tâm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên, không để cho chủ nghĩa cá nhân tồn tại trong hàng
ngũ những người cộng sản.
Xây dựng cho cán bộ, đảng viên tinh thần trách nhiệm và ý thức chính trị,
nhận thức rõ về sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân đối với cơ quan, đơn vị và xã
hội. Tuyên truyền sâu rộng cuộc vận động “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, xác định các tiêu chí về đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Thực hiện tốt giải
pháp này sẽ góp phần giáo dục, răn đe đối với cán bộ, đảng viên, đấu tranh, ngăn
chặn các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, góp phần xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo
dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước”.
“Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau
khuyết điểm nhất định bớt đi”. Theo đó, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần coi
trọng công tác kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên. Công tác
kiểm tra phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm và phải bám sát nhiệm vụ chính
trị của cơ quan, đơn vị. Thông qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, sửa sai;
đồng thời, phòng ngừa, ngăn chặn những trường hợp vi phạm khuyết điểm. Thi
hành kỷ luật Đảng phải tự giác, nghiêm minh, tránh bao che, đơn giản, phiến diện
hoặc trù dập, trả thù lẫn nhau; kiên quyết sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng những đảng
viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những phần tử cơ hội, thực
dụng, mang nặng chủ nghĩa cá nhân.
Người dành nhiều bài nói, bài viết về rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên, đó là hệ thống những quan điểm, biện pháp hữu hiệu để
chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng.
Đối cho cá nhân mỗi cán bộ:
Chống chủ nghĩa cá nhân trước hết phải chống từ trong Đảng và trong bộ
máy chính quyền. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc về
bản chất cũng như sự nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân, phải tự sửa mình bằng
cách “mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải tự
rửa mặt”. Người cán bộ phải biết rèn luyện nhân cách, thực hành đạo đức cách
mạng, phải “chí công vô tư”, không sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho
Ðảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.
Giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống
cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân chỉ thực sự có hiệu quả
khi mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ mục tiêu lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng; tiêu chuẩn, tư cách, đạo đức cách mạng của người cộng sản.
Người nêu lên nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, cho dù cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ bằng nhiều
hình thức phong phú gắn với những điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về suy thoái tư tưởng chính trị.
a) Suy thoái về tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị,
trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng. Ngay từ tháng 10-1947,
hai năm sau khi giành được chính quyền, Người đã yêu cầu cán bộ, đảng viên sửa
đổi lối làm việc, chỉ rõ phải đấu tranh với những hiện tượng thờ ơ trước những
nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái: “Nghe những lời bình luận không đúng,
cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng
không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ
Người phê phán những đảng viên dao động, thiếu lý tưởng cách mạng: “Nếu
chỉ có công tác thực tế, mà không có lý tưởng cách mạng, thì cũng không phải là
người đảng viên tốt. Như thế, chỉ là người sự vụ chủ nghĩa tầm thường”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì
không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc
đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời
cách mạng”. Người kiên quyết chống những nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm
quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác -
Lênin, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
Biện pháp:
Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống xã hội chủ nghĩa cho
cán bộ, đảng viên. Việc này phải tiến hành thường xuyên, quản lý chặt chẽ, nội
dung giáo dục phải toàn diện. Trong đó, tập trung nâng cao nhận thức trong toàn
Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Hằng năm, từng cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch giáo dục, học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc
cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng
ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ
Chính trị (khóa XII) gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng.
Trong tiến hành, cấp ủy các cấp cần coi trọng nâng cao chất lượng công tác
giáo dục; vận dụng sáng tạo lý luận phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp.
Tích cực đổi mới phương pháp giáo dục, bảo đảm đa dạng, phong phú; gợi
mở để cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tự kiểm điểm là quan trọng
nhất. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh học tập, làm theo
tác phong và phong cách Hồ Chí Minh, thể hiện cụ thể trong công việc hằng ngày,
trong quan hệ với nhân dân; tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa trong ý
thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng
c) Hiện tượng bộ máy nhà nước trong quá trình hoạt động không quan
tâm đến lợi ích nhân dân, không gắn bó mật thiết với nhân dân, lãng quên bản
chất của nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân”
Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động. Ngay
sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã nêu bật sự khác nhau
căn bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các loại hình nhà
nước trước đó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho
đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân,
chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến
nghị, đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu
mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện
cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo,
phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”
Biện pháp:
Mỗi cán bộ phải ý thức rõ về trách nhiệm, bổn phận của bản thân trước nhân
dân, đất nước. Phải nhận thức rõ, “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không
phải để đè đầu dân”. Vì thế phải dốc lòng, dốc sức phục vụ nhân dân, “việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta
phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Bởi lẽ “nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
d) Thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc tự phê bình và phê bình.
Trong tự phê bình, phê bình, Người kiên quyết chỉ ra và đấu tranh với những
biểu hiện không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn,
không tự giác nhận kỷ luật: “Thái độ của một số khá đông cán bộ là: Đối với người
khác thì phê bình đúng đắn, nhưng tự phê bình thì quá “ôn hòa”. Các đồng chí ấy
không mạnh dạn công khai tự phê bình, không vui lòng tiếp thu phê bình, nhất là
phê bình từ dưới lên, không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của mình… Nói tóm
lại: Đối với người khác thì các đồng chí ấy rất “mácxít”, nhưng đối với bản thân
mình thì mắc vào chủ nghĩa tự do”. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va
chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh: “Có đồng chí đáng phải
trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong
chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối cấp trên,
giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không những
không biết sửa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn nữa nếu kỷ luật
của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta
để phá hoại đoàn thể ta”. Người lấy ví dụ: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng
chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán
thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói
cho người ta sửa tức là hại người… Thấy cái xấu của người mà không phê bình là
một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát
triển”. “Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa
vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không
chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình
chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình”.
Người cũng chỉ ra nhiều biểu hiện lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng
nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân
không trong sáng: “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ,
không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù tiểu khí”.
“Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê
bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm
ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa.
Biện pháp:
Phát huy dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình nhằm tạo sự thống nhất về
ý chí và hành động, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, tăng cường sự giám
sát của tập thể đối với đảng viên. Người khẳng định: “Mở rộng dân chủ phê bình
trong cơ quan và ngoài quần chúng, từ trên xuống và từ dưới lên. “Trên đe dưới
búa” của phê bình thì nhất định tẩy được bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí”. Người
chỉ rõ, trong tự phê bình và phê bình phải thực hiện một cách thường xuyên,
nghiêm túc; tự phê bình và phê bình có lý, có tình, trên tinh thần thương yêu đồng
chí, tôn trọng nhân cách của mỗi con người. Theo đó, trong hoạt động lãnh đạo của
tổ chức đảng phải thực sự phát huy dân chủ; mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Thông qua tự phê
bình và phê bình để đấu tranh khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân;
góp phần thiết thực xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo cơ
quan, đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Cán bộ phải không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao phẩm chất
chính trị, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng, vì sự phát triển của quốc gia, dân
tộc. Trong Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, ngày 20/2/1947, khi bàn về
đức tính, phẩm chất của người cán bộ, Người cho rằng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
người cán bộ cũng phải đặt mình trong những mối quan hệ để đối sánh xem xét bổn
phận, trách nhiệm của bản thân với chính mình (không tự mãn, không kiêu ngạo,
cầu thị để tiến bộ, siêng năng, tiết kiệm); với đồng chí (thân ái, thẳng thắn phê bình,
học những điều hay, không ghen ghét, đố kỵ, không tranh giành ảnh hưởng, không
hiếu danh, hiếu vị); với công việc (phải nghĩ kỹ, có kế hoạch, cẩn thận); với nhân
dân (hiểu nguyện vọng của dân, thấu nỗi cực khổ của họ, học tập nhân dân, giải
thích cho dân hiểu, tôn kính dân, làm cho dân tin, làm gương, thanh khiết); với
đoàn thể (phải loại bỏ sự tự do cá nhân, hiểu mục đích vào đoàn thể, phục tùng
mệnh lệnh, tuyệt đối trung thành, tận tụy làm việc, giữ gìn danh dự của đoàn thể,
của chính bản thân mình).
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
a) Suy thoái đạo đức, lối sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn khá nhiều về suy thoái đạo đức, lối sống. Người
thẳng thắn đấu tranh với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng,
cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh
ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Người gọi đó là các
căn bệnh: “Óc hẹp hòi” - Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ
người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng,
không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những
người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ta uất ức và mình thành
ra cô độc”; và “Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của
mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của
công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình.
Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì
xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của
Đảng, không sợ mất danh giá của mình”. “Còn có những đồng chí chỉ lo ăn ngon,
mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công làm của tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư
luận chê bai thế nào cũng mặc”.
b) Tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ.
Ngay từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn hết sức non trẻ, gặp
muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với những vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình
thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng,
thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải thật sự mở
rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng
thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú
lấp miệng em” ngăn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì
càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”.
Sau cách mạng Tháng Tám, mặc dù những biểu hiện “chạy thành tích”,
“chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu” chưa phổ biến, nhưng nhiều biểu hiện của
bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên
tuổi; thích được đề cao, ca ngợi, đã bị Người chỉ ra và phê phán, như các bệnh:
“Ham chuộng hình thức: việc gì không xét đến cái kết quả thiết thực, cần kíp, chỉ
chăm về hình thức bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai”. “Bệnh “hữu danh, vô
thực”- Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm
lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản
báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”. “Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại,
ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tăng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến
người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai
cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta
phê bình. Việc gì cũng làm thầy người khác”. Người cũng đấu tranh với các biểu
hiện che giấu khuyết điểm: “Báo cáo thì chậm trễ, làm lấy lệ. Báo cáo dối, giấu cái
dở cái xấu, chỉ nêu cái tốt cái hay. Báo cáo bề bộn - chỉ góp báo cáo các ngành, các
cấp dưới, rồi cứ nguyên văn chép lại gửi lên, v.v.”.
Biện pháp:
Cấp ủy các cấp phải thường xuyên rà soát, nắm chắc chất lượng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý thuộc quyền và xử lý nghiêm những trường hợp không bảo
đảm về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác
thấp, nhất là những trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp. Đây là biện pháp rất cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
và là vấn đề sống còn của Đảng.
Cần phải xây dựng quyết tâm chính trị cao ở từng tổ chức đảng đến toàn xã
hội để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên
Lựa chọn để bố trí đúng cán bộ, nhất là người đứng đầu, có đức, có tài, có
bản lĩnh, có tâm huyết chống chạy chức, chạy quyền. Trong công tác cán bộ cần có
chương trình hành động cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian, phù
hợp với từng ngành, từng địa phương, đơn vị, nêu cao trách nhiệm của người đứng
đầu ở mỗi cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện bảo đảm tính kế thừa và phát
triển, chống cục bộ, bè phái.
Biện pháp:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị và của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền trong đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã
hội.
Bổ sung, hoàn thiện các chính sách, pháp luật một cách đồng bộ.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử, vai trò giám sát
Biện pháp:
Phòng, chống, đấu tranh với mọi biểu hiện cục bộ, bè phái là một trong
những nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách nhằm làm trong sạch bộ máy công quyền
hiện nay. Để đẩy lùi biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống này, cần
Một mặt cần đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong việc “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”; mặt khác luôn quan tâm chăm lo xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh, giữ vững và phát huy truyền thống dân chủ, thương yêu
đồng chí lẫn nhau trong Đảng;
Muốn vun đắp tinh thần đoàn kết thật sự, cần chú trọng giáo dục nâng cao
bản lĩnh chín chắn, thái độ trung thực, đức tính khiêm nhường, tinh thần cao
thượng cho mỗi cán bộ, đảng viên.
Một điều không kém phần quan trọng là mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ chủ chốt cần chú trọng giải quyết hài hòa, xử lý đúng đắn các mối quan hệ
chung-riêng, tập thể-cá nhân, xã hội-gia đình; không để tư duy, quan niệm, lối sống
duy tình, thân hữu chi phối vào việc công, lợi ích công và ảnh hưởng đến các mối
quan hệ, đoàn kết thống nhất trong tổ chức, cơ quan, đơn vị.