Professional Documents
Culture Documents
Pestel
Pestel
Pestel
Hồ Chí Minh
------------------------
Xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng bận rộn nên nhu cầu sử dụng thực
phẩm đóng hộp, đóng chai hay các sản phẩm được chế biến sẵn của mọi người ngày càng
gia tăng. Một trong số đó có là ngành nước giải khát. Ngày nay con người uống nươc
không chỉ để đáp ứng nhu cầu bổ sung nước cho cơ thể mà còn vì dinh dưỡng và giá trị
cảm quan, mà nước giải khát đáp ứng được tất cả nhu cầu đó nên ngành nước giải khát
không thể thiếu trong đời sông hiện nay. Chính vì thế ngày càng có nhiều doanh nghiệp
đăng ký gia nhập, hoặc chuyển hướng sang kinh doanh ngành nước giải khát. Thế nhưng
cũng chỉ có số ít trong đó là có thể trụ lại với ngành. Kinh doanh trong ngành nước giải
khát có nhưng thuận lợi và khó khăn gì, tại sao có doanh nghiệp điêu đứng khi tham gia
ngành, lại có nhưng doanh nghiệp thì doanh thu không ngừng gia tăng qua các năm?
Nhóm chúng em xin phân tích PESTLE ngành nước giải khát ở Việt Nam để có cái nhìn
toàn diện hơn về những cơ hội cũng như thách thức phải đối mặt khi kinh doanh kinh
doanh trong ngành.
1. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH NƯỚC GIẢI KHÁT VIỆT NAM.
1.1. Khái quát tình hình kinh doanh nước giải khát ở Việt Nam.
Liên tục tăng trưởng mạnh trong nhiều năm qua nhưng từ đầu năm 2011 đến nay,
thị trường bia, rượu, nước giải khát trong nước gặp không ít khó khăn.
Nguyên do tình hình thời tiết diễn biến bất lợi, lạm phát tăng cao, kinh tế trong nước
nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng và làm giảm nhu cầu tiêu
thụ các sản phẩm bia, rượu và giảm sản lượng sản xuất.
Số liệu từ Bộ Công thương cho biết: sản phẩm bia tháng 10/2011 ước đạt 240,4 triệu
lít, chỉ tăng 4,6% so với tháng 9 và tăng 13,9% so với tháng 10/2010, tính chung 8
tháng đầu năm đạt 2,17 tỷ lít, chỉ tăng 8,3% so với cùng kỳ.
Do vậy, Bộ Công thương khuyến cáo các doanh nghiệp cần nỗ lực tái cơ cấu, xây
dựng chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp, củng cố và nâng cao hệ thống phân
phối nhằm mở rộng và tăng thị phần cho sản phẩm, tìm giải pháp đổi mới cải tiến
công nghệ, quy trình sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện
tích cực các cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và
chương trình “Đưa hàng Việt về nông thôn”… góp phần nâng cao sức mua của thị
trường trong nước, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Thị trường nước giải khát có gas đang bất lực nhìn sự lấn át của các loại nước
không gas với tốc độ tăng trưởng 10%/năm. Nắm bắt xu thế này, các nhãn hiệu quen
thuộc Tribeco, Delta, Vinamilk cùng những đối thủ mới Annam, Uni-President đang
lên kế hoạch cho ra đời nhiều sản phẩm không gas mới.
Theo kết quả điều tra thị trường năm 2010 do Công ty cổ phần nước giải khát
Tribeco đặt hàng một công ty nghiên cứu thị trường thực hiện, thị trường nước giải
khát không gas tăng 10%/năm trong khi sản lượng nước ngọt có gas tiếp tục sụt giảm
5%.
Báo cáo này cũng cho thấy, để duy trì khả năng cạnh tranh, các công ty nước giải
khát hầu như không tăng giá trong suốt năm qua, mặc dù giá nguyên vật liệu đầu vào
tăng cao. Các công ty đã phải đầu tư lớn cho việc nghiên cứu để gia tăng thị phần các
sản phẩm cũ và đưa thêm ngày càng nhiều sản phẩm mới ra thị trường.
Theo giới kinh doanh, sự chuyển dịch tiêu dùng sang lựa chọn nước giải khát
không gas (nước uống trái cây và nước tinh khiết) cho thấy người tiêu dùng ngày càng
cẩn trọng hơn trong việc bảo đảm sức khỏe của mình. Bên cạnh đó, người tiêu dùng
đang có xu hướng chú trọng nhiều hơn đến sản phẩm thiên nhiên.
Anh Lê Xuân Hà, cán bộ Tổng công ty Xây dựng Cầu II, quan niệm nước hoa quả
không chỉ mang tính giải khát mà còn rất bổ dưỡng, nhiều vitamin, tốt cho cơ thể.
Theo anh, trong tất cả các sách báo, thông tin về dinh dưỡng hiện nay đều khuyến
khích uống nước hoa quả hoặc ăn trái cây tươi. "Kể từ khi vợ tôi mang bầu, nếu
không có điều kiện xay hoa quả tươi, tôi toàn mua nước trái cây về cho cô ấy uống",
anh Hà cho biết. Một số người tiêu dùng khác cho rằng uống nước có gas bị ợ hơi,
đầy bụng, không tiêu.
Xu hướng này thể hiện rõ khi khảo sát sự mua sắm qua các siêu thị. Ông Nguyễn
Ngọc Hòa, Phó Tổng Giám đốc Saigon Coop cho biết, thống kê trong hệ thống 13
siêu thị Coop Mart cho thấy trong 10 người chọn mua nước giải khát hiện nay thì có 6
người mua các loại nước không gas, cụ thể là sữa tươi, nước trái cây, nước khoáng.
Tỷ lệ này có khác so với 3 năm trước, khi có đến 7/10 người chọn mua nước ngọt có
gas.
Nếu chỉ tính riêng các sản phẩm của Tribeco, sản lượng nước giải khát không gas
tăng bình quân từ 19 đến 22% tùy theo chủng loại. Nước ép Cam cà rốt TriO có sản
lượng tăng tới 8,5 lần, sữa đậu nành Canxi Somilk bịch và hộp giấy tăng hơn 2,3 lần,
nước tinh khiết Tri tăng hơn 75%. Các sản phẩm khác như sữa đậu nành Tribeco, trà
bí đao, nước yến ngân nhĩ... đều có tỷ lệ tiêu thụ tăng cao hàng năm. Hiện tại Tribeco
có 54 chủng loại sản phẩm, trong đó có đến 32 loại là nước giải khát không gas thuộc
dòng thức uống dinh dưỡng giàu vitamin và khoáng chất.
Cũng từ đầu năm nay, Uni-President đã bắt đầu đưa ra thị trường 3 loại sản phẩm
nước giải khát không gas là nước rau quả trái cây hỗn hợp, nước chanh dây - cà rốt,
nước dứa tươi. "Đây là những sản phẩm có tính chất thăm dò thị trường, trong tháng 6
công ty sẽ đưa ra thị trường thêm một số chủng loại nước giải khát không gas nữa", bà
Lê Việt Hoa, Phòng nước giải khát của Công ty nói.
Theo bà Hoa, mùa nóng là thời điểm thích hợp để tung ra thị trường những sản
phẩm nước trái cây mới. "Khẩu vị mới lạ càng hấp dẫn người tiêu dùng nên Uni-
President tập trung nghiên cứu khẩu vị sản phẩm", bà Hoa nhận định.
Bên cạnh việc ổn định giá bán, các công ty kinh doanh nước giải khát cũng tăng
cường đầu tư nghiên cứu khẩu vị người tiêu dùng để thường xuyên đưa ra những sản
phẩm mới với hương vị đặc trưng. Là doanh nghiệp mới lần đầu tiên tham gia thị
trường, Công ty Ânnam gây ấn tượng với người tiêu dùng bằng sản phẩm si rô
Teisseire nổi tiếng nhập khẩu từ Pháp.
Với sản phẩm này, khách hàng có thể pha chế thành nhiều loại thức uống khác
nhau mà vẫn giữ nguyên mùi vị trái cây đặc trưng của từng loại bằng cách thêm một
chút si rô với tỷ lệ tùy thích vào rượu vang, nước khoáng có gas hoặc không gas, cà
phê sữa, sô đa, kem, sữa chua, thậm chí bia và rượu mạnh....
Sự ổn định về chính trị và sự nhất quán về quan điểm chính sách lớn khiến các nhà
đầu tư có cái nhìn lạc quan vào thị trường, đây là yếu tố thu hút đầu tư nước ngời vào
Việt Nam. Mặt khác, nền chính trị ổn định cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp. Doanh nghiệp không phải chịu sức ép về bất ổn chính trị, có các
điều kiện cơ sở để phục vụ sản xuất. Chính trị ổn định làm cho nguồn đầu tư nước
ngoài đổ nhiều vào doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể dựa vào nguồn vốn đó để phát
triển sản xuất kinh doanh, mở rộng thị phần.
Việt Nam được đánh giá là một nước có môi trường chính trị ổn định, ít có các vấn
đề liên quan đến tôn giáo và xung đột sắc tộc. Sự ổn định đó luôn được coi là cơ hội
thuận lợi và hấp dẫn đối với hoạt động chiến lược của các nhà đầu tư, các nhà sản
xuất kinh doanh trong và ngoài nước.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến sức khỏe của người dân, đồng
thời cũng đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ ngành nước giải khát phát triển, bảo đảm
quyền tự chủ trong kinh doanh, là điều kiện thiết yếu để thực hiện tốt nguyên tắc:
Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cạnh tranh lành mạnh.
2.2. Văn hóa – Xã hội (Social-Cultural)
VN hiện nay vẫn là một nước đang phát triển, bởi vậy các nhu cầu tiêu dùng thiết
yếu trong cuộc sống vẫn còn chiếm tỉ lệ rất cao trong cơ cấu tiêu dùng (khoảng 50%)
và sẽ càng cao trong nhiều năm nữa khi đời sống người dân được cải thiện. Theo một
số đánh giá của các nhà đầu tư trong ngành giải khát, hiện nay VN tiêu thụ một khối
lượng lớn sản phẩm đồ uống, khoảng 4,2 tỷ lít/ năm và đang là thị trường phát triển
rất mạnh. Đặc biệt là nhu cầu tiêu thụ nước giải khát không có gas và các thức uống
trái cây ngày càng tăng mạnh, đạt gần 30%/năm. . Khảo sát trên các hộ gia đình ở
thành thị cũng cho thấy 70% quan tâm đến sức khỏe của mình hơn trước đây, 74%
muốn sử dụng các loại vitamin và khoáng chất, và 80% thích mua các loại sản phẩm
có các hoạt chất có lợi cho sức khỏe như nhân sâm, calcium... Xu hướng sử dụng các
loại nước uống giải khát có lợi cho sức khỏe đang bùng nổ ở Việt Nam, đặc biệt ở các
thành phố lớn. Nghiên cứu của AsiaPanel cũng chỉ ra rằng bao bì đang ảnh hưởng rất
lớn đến sự chọn lựa của người tiêu dùng bởi 57% số người được hỏi đã trả lời sẽ chọn
mua sản phẩm có thể uống ngay được từ trong hộp.
Nhịp sống hối hả và phong cách sống hiện đại làm cho con người không có nhiều
thời gian để chăm sóc cho sức khỏe gia đình và bản thân. Vì vậy người tiêu dùng đang
dần chuyển sang lựa chọn các sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên bổ dưỡng cho
sức khỏe như sữa, các chế phẩm từ sữa, nước trái cây, sinh tố, nước uống đóng chai...
Ngày nay, việc tụ tập bạn bè và đồng nghiệp ở các quán nước giải khát sau giờ học
giờ làm việc là thói quen thường xuyên của mọi người. Đáp ứng được nhu cầu của các
đối tượng này, doanh nghiệp đã và đang có hướng phát triển đúng đắn và mang lại lợi
nhuận.
Việt Nam xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, điều này làm cho VN có một
văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau, củ, quả... Vì vậy từ lâu, người Việt đã rất
gần gũi với những sản phẩm đồ uống từ thiên nhiên như trà xanh, bí đao, nước cốt
dừa.... Đặc biệt uống trà là một nét văn hoá lâu đời trong phong tục của người Việt.
Và một trong những sản phẩm nổi bật và được ưa chuộng đó là các loại thức uống
mang hương vị trà xanh thiên nhiên.
Dân số:
Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số khoảng 85,7 triệu người (đứng
thứ 13 trên thế giới). Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong giai đoạn 1999-2009 là
1,2%/năm. Do vậy, đây vừa là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng và triển vọng,
vừa là nguồn nhân lực dồi dào với giá nhân công rẻ. Đồng thời, tỷ lệ người trẻ và
trung niên là khá cao, mang lượng khách hàng khá lớn. Như vậy, nước ta với dân số
đông, sự đô thị hoá nhanh, tỷ lệ giới trẻ lớn là 1 thị trường tốt với lượng khách hàng
dồi dào.
Mục tiêu của việc quy hoạch ngành bia - rượu - nước giải khát nhằm phát triển
theo hướng bền vững, chú trọng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường
sinh thái, phát triển ngành dựa trên cơ sở huy động nguồn lực từ tất cả các thành phần
kinh tế, dưới mọi hình thức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội; áp dụng công
nghệ, thiết bị tiên tiến, tập trung xây dựng một số thương hiệu mạnh quốc gia để cạnh
tranh hiệu quả trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngành Bia- Rượu- Nước giải khát là mô ̣t ngành đang phát triển nhanh và được nhà
nước ưu đãi đưa ra các chính sách, luâ ̣t pháp để các doanh nghiê ̣p trong ngành có thể
canh tranh, phát triển, mở rô ̣ng quy mô so với các đối thủ cạnh tranh.
Ngày 21/5/2009, tại Quyết định số 2435/QĐ-BCT, Bộ Công Thương đã phê duyệt
Quy hoạch phát triển Ngành Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2025.
Theo đó, Ngành công nghiệp sản xuất Bia- Rượu- Nước giải khát sẽ được phát
triển theo hướng bền vững, thành một ngành kinh tế quan trọng, chú trọng sản xuất ra
nhiều sản phẩm đa dạng về mẫu mã và chủng loại, có uy tín, bảo đảm vệ sinh, an toàn
thực phẩm cho người dùng và bảo vệ môi trường sinh thái. Công nghệ, thiết bị tiên
tiến trong sản xuất Bia- Rượu- Nước giải khát sẽ được Ngành áp dụng để nâng cao
chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, vật liệu, năng lượng, nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm. Bên cạnh đó, Ngành cũng tập trung xây
dựng một số thương hiệu quốc gia đối với sản phẩm Bia- Rượu- Nước giải khát để
cạnh tranh hiệu quả trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển ngành công nghiệp sản xuất bia, rượu, nước giải khát theo hướng bền
vững, chú trọng bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm cho người dùng và bảo vệ môi
trường sinh thái.
Áp dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến trong sản xuất bia, rượu, nước giải khát để
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, vật liệu, năng lượng, nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm; tập trung xây dựng một số thương
hiệu quốc gia đối với sản phẩm bia, rượu, nước giải khát để cạnh tranh hiệu quả trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Huy động mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế, dưới mọi hình thức để đẩy
mạnh sản xuất bia, rượu, nước giải khát đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng
của xã hội.
2.6. Đạo đức (Ethical)
Vấn đề đạo đức kinh doanh là mô ̣t trong những vấn đề đau đầu hiê ̣n nay của ngành
sản xuất, kinh doanh bia rượu- nước giải khát. Những công ty vì theo đuổi lợi nhuâ ̣n
đã không từ bỏ mọi cách để tăng phần lợi nhuâ ̣n đạt được bằng cách dùng các nguyên
liê ̣u đầu vào kém chất lượng để sản xuất sản phẩm gây nguy hại rất lớn đến sức khỏe
của người tiêu dùng.
Ngoài ra còn có sản xuất và bán những sản phẩm nhái, kém chất lượng làm người
tiêu dùng mua nhầm sản phẩm và có thể nguy hại đến tính mạng khi sử dụng sản
phẩm đó.
Viê ̣c sản xuất bia rượu- nước giải khát cũng gây ảnh hưởng đến môi trường sinh
thái. Hiê ̣ng nay các nhà máy sản xuất cũng đã lắp đă ̣t và đưa vào sử dụng hê ̣ thống xử
lý nước thải nhằm bảo vê ̣ môi trường sinh thái.
3. KẾT LUẬN.
Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường tiêu thụ nước giải khát
không cồn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trung bình mỗi năm, một người
Việt Nam mới chỉ uống khoảng 3 lít nước giải khát đóng chai không cồn, trong khi
mức bình quân của người Philippines là 50 lít/năm. Theo dự báo, đến cuối năm 2012,
tổng lượng đồ uống bán lẻ ở Việt Nam sẽ tăng gần 50% so với năm 2007. Đây là cơ
hội lớn cho các doanh nghiệp đang kinh doanh ngành nước giải khát hiện nay. Bên
cạnh đó thì các yếu tố thuận lợi khác như các chính sách ưu đãi của nhà nước, dây
chuyền công nghệ… Tuy nhiên, do có quá nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nên
ngày càng có nhiều doanh nghiệp gia nhập vào ngành hơn khiến cho miếng bánh thị
trường và lợi nhuận của ngành dần bị thu hẹp hơn, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt.
Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng, nhằm đem đến những sản phẩm tốt nhất cho
người tiêu dùng cũng như không ngừng đẩy mạnh nghiên cứu, nhằm đưa ra những sản
phẩm mới có chất lượng cao là những việc cấp thiết mà các doanh nghiệp cần phải
làm hiện nay.