Professional Documents
Culture Documents
PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
A. Cơ sở ra đời:
Có 3 nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của thuyết Pháp Trị của Hàn Phi Tử.
Đầu tiên đó là xã hội loạn lạc thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Đây là thời kỳ xã hội Trung
Quốc có rất nhiều biến động, trật xã hội bị đảo lộn “Lễ”, “nhạc” không còn được giữ gìn
như trước nữa. Ngũ Bá (Tề, Sở, Tần, Tấn, Tống) vẫn tiếp tục dùng bạo lực để thôn tính
lẫn nhau. Chiến tranh diễn ra triền mien đã làm cho xã hội càng thêm suy tàn, kinh tế
lạc hậu, người dân nghèo đói trong một nền kinh tế bất ổn định dẫn đến một xã hội loạn
lạc bi ai. Trước tình hình đó, trong thời kỳ này đã xuất hiện học thuyết Pháp Trị để ổn
định lại nền xã hội cũng như chính trị. Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu
nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế
của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ
pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ
bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không
xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành,
biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.
Thứ hai đó là bản chất ích kỷ và tính ác con người trong xã hội. Giáo dục, thuyết phục
không thể là phương tiện thay đổi tính ác của con người thành tính thiện được, mà phải
lấy cái ác để chế ngự cái ác. Ông đứng trên quan điểm vị lợi của con người để giải
thích về mọi quan hệ xã hội, kể cả quan hệ huyết thống. Ông cũng giải thích lòng vị kỷ,
vụ lợi của con người lấy cơ sở là những chuẩn mực giá trị mà xã hội coi trọng, đó chính
là hệ thống chuẩn mực giá trị liên quan tới quyền lợi vật chất, địa vị xã hội như tiền bạc,
nhà cửa ruộng vườn, chức tước, quan lại. Bản chất con người là độc ác nên con người
luôn tranh giành dẫm đạp lên nhau để có được những gì mình muốn. Vì vậy cần phải
có một hệ thống pháp luật để phạt thật nặng và thưởng thật hậu để làm tiền đề thúc
đẩy con người sợ mà tránh phạm pháp cũng như tham mà tuân theo.
Thứ ba, Đức trị trong thời chiến không hiệu quả. Thời cuộc khi đó diễn biến rất phức
tạp, bầu phong khí khốc liệt chết chóc; chiến tranh giữa các quốc gia chư hầu nổ ra liên
miên hết năm này qua năm khác, xã hội loạn lạc chết chóc tan thương. Hàn Phi (và Lý
Tư) là học trò chân truyền của Tuân Tử - người nổi tiếng với triết lý “Lễ trị” - tin vào chữ
Lễ, hay lấy chữ Lễ làm trung tâm (cho sự quản trị). Tuân Tử (học thuyết Lễ trị), cũng
như Lão Tử (học thuyết Vô trị) và Khổng Tử (học thuyết Nhân trị), trước đó đã thất bại
trong việc thuyết phục các ông vua (vua thiên tử và vua chư hầu) vận dụng học thuyết
của mình.; Xã hội nhiễu nhương; các ông vua – mà người đời sau gọi là “hôn quân”–
ứng dụng hết chiến thuật này đến chiến thuật kia, quan tâm đến quyền lực làm sao trở
thành vua thiên tử - thống nhất và bá chủ Trung Hoa, thông qua sách lược bá quyền.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc đương thời đòi hỏi tư
tưởng pháp trị phải được thống nhất và phát triển lên một trình độ mới. Đón nhận sứ
mệnh này, Hàn Phi đã tiến hành tổng kết toàn bộ tư tưởng của các pháp gia tiền bối và
phát triển lý luận pháp trị trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu đó.