là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc."

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

I. TIỂU DẪN
1. Nhà văn Tô Hoài
- Tô Hoài (1920-2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội tỉnh Hà Đông. Xuất
thân trong gia đình thợ thủ công, thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều
nghề và đôi khi thất nghiệp
- Tô Hoài đến với văn chương bằng một số bài thơ lãng mạn và một cuốn truyện võ
hiệp. Sau đó, ông chuyển sang viết văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ
những sáng tác đầu tay, trong đó có “Dế Mèn phiêu lưu ký-1941”. Năm 1943, ông
gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Năm 1966 được tặng giải thưởng HCM
- Tác phẩm tiêu biểu : ”, “O chuột-1942”, ‘Truyện Tây Bắc-1953”,…
- Điểm nổi bật:
+ Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục (gần 200 đầu sách) trong văn học
VN hiện đjai
+ Tô Hoài có quan niệm nghệ thuật “vị nhân sinh” độc đáo và quyết liệt: “Viết văn
là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường,
cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.”
+ là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về con người và phong tục tập
quán của nhiều vùng khác nhau
+ Văn Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động trên
cơ sở vốn sống, vốn từ vựng giàu có.
2. Truyện ngắn “vợ chồng A Phủ”
a. Hoàn cảnh ra đời
- Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn,
Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc
- Truyện Tây Bắc là tập truyện được giảu Nhất, giải thườn hội văn nghệ VN 1954-
1955. Tập truyện là kết quả của chuyến đi dài tám tháng của Tô Hoài cùng bộ đội
vào giải phóng Tây Bắc năm 1952
- Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần. Phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở
Hồng Ngài . Phần sau viết về cuộc sông nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của
Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích thuộc phần đầu
b. Tóm tắt truyện
- Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời của hai thanh niên người Mông: Mị, A Phủ,
- Mị là cô gái nghèo, đẹp, có tài thổi sáo. Vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lý Pá Tra nên
Mị bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ. Ở nhà thống lý, cô bị đối xử như một súc nô, bị
hành hạ về cả thể xác lẫn tâm hồn. Cô làm việc quần quật, bị đánh đập tàn nhẫn.
Dần dần, Mị sống âm thâm như “con rùa nuôi trong xó cửa”, mặt cô “lúc nào
cũng buồn rười rượi”..
- Vào đêm tình mùa xuân, tiếng sáo thiết tha bồi hồi đã đánh thức niềm khao khát tự
do và hạnh phúc ở Mị. Mị muốn đi chơi, cô sửa soạn đi chơi nhưng. A Sử (chồng
Mị) đã tần nhẫn trói đứng cô vào cột nhà. Mị bị trói đến khi A Sử bị đánh mới
được thả ra để đi hái thuốc cho A Sử.
- A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi, siêng năng. Vì đánh A Sử, nên anh bị
thống lí bắt phạt vạ và bắt làm người ở không công. Trong một lần trong bò ngựa,
A Phủ vì mải mê bẫy nhím đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí trói
đứng vào cột đến kiệt sức gần chết.
- Trong những phút sưởi lửa Mị chứng kiến tình cảnh của A Phủ và nhận thức được
tội ác của cha con thống lí. Thương mình, thương người, Mị đã cắt dây trói cứu A
Phủ. Và, hai người cùng chạy trốn khỏi Hồng Ngài
- Hai người thành vợ chống và chốn sáng Phiềng Sa. Họ gặp A châu, cán bộ Đảng.
A Phủ kết nghĩa anh em với A Châu. Rồi A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích,
cùng với Mị và đồng đội bảo vệ quê hương
II. VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện in trong tập Truyện Tây
Bắc-1953, được tặng giải nhất – giải thưởng hội văn nghệ VN 1954-1955. Nhiều
tác phẩm được trao thưởng thời đó, sau nửa thế kỉ, đã không còn sức hấp dẫn.
Riêng Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong số không nhiều truyện vẫn giữ
nguyên sức thu hút đối với nhiều thế hệ độc giả. Điều gì đã giúp cho sức hấp dẫn
của tác phẩm trường tồn như thế?
- Một trong những yếu tố tạo nên sức sống lâu bền ấy của tác phẩm là ở chỗ, tác giả
đã thành công…
B. NỘI DUNG
1. Nhân vật Mị
a. Những đọa đày, tủi cực của Mị
Mị xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với
một thân phận nghiệt ngã.
Một cô gái âm thầm, sống như gắn vào những vật vô trị, vô giác: “một cô con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Một cô con dâu nhà thống lí
quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” nhưng
lúc nào cũng “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Rõ ràng, hình ảnh của Mị hoàn toàn
tương phải với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản áy báo hiệu một cuộc đời
không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền
núi cao Tây Bắc.
Thực chấy về kiếp “con dâu gạt nợ” của Mị càng chua xót hơn
Bề ngoài, Mị là con dâu nhà thống lí, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ. Điều
đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ : nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị
hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã
được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất, công lao động). Nhưng Mị lại là con dâu, bị
cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lí. Linh hồn Mị đã bị con “ma” ấy “cai
quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát,
được tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.
Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lí là một quãng đời thê thảm, tủi cực,
sống mà như đã chết.
- Mị dường như đã tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng. Đến
cái chết, Mị cũng chẳng còn nghĩ đến nữa vì “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi”. Bây giờ, dường như Mị chỉ có một ý niệm duy nhất về thân phận trâu, ngựa
của mình: “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”
- Mị giờ đây chỉ là một công cụ lao động : “tết xong: hái thuốc phiện – giữa năm:
giặt đay, xe đay – đến mùa: đi nương bẻ bắp…” Thua cả con trâu, con ngựa, Mị
làm việc tất bật “cả đêm, cả ngày”. Cứ bao nhiêu việc lặp đi lặp lại ngày này qua
ngày khác, năm này qua năm kia.
- Thế là, Mị cứ âm thầm như một cái bóng:”Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thân phận Mị giờ đây chẳng khác nào tù nhân
của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống :”cái buồng Mị nằm, kín
mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trong ra cũng chỉ
thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”
- Qua đây, nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ
phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót: Dưới ách thống trị của
cường quyền bao lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc
bị chà đạp một cách tàn nhẫn
Sức sống tiềm tàng của Mị
- Đọc vợ chồng A Phủ, ta dễ dàng nhận ra những đọa đày, tủi cực của cô Mị. Tuy
nhiên, ở Mị ta vẫn thấy một sức sống tiềm tàng. Sức sống đó thể hiện ở chỗ Mị là
cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết và khát khao tự do, khao khát hạnh phúc. Đây là
tiền đề để khi gặp “thời cơ” thì sức sống ấy trỗi dậy một cách mạnh mẽ và tàn bạo.
- Trước hết, có thể thấy Mị là một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo. Chỉ qua một
vài chi tiết đạm tính phong tục của người dân miền núi Tây Bắc, nhà văn đã giúp
bạn đọc hình dung được vẻ đẹp của Mị: “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu
buồng Mị”. Chưa hết, Mị thổi sáo giỏi đến mức: “có biêt bao nhiêu người mê,
ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”
- Ở Mị, ta còn thấy cô là một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản
ngại khó khắn. Mị đã “biết cuốc nương làm ngô” và sẵn sàng “làm nương ngô
giả nợ thay cho bố”. Những chi tiết trên đã cho thấy Mị biết làm ăn và dám gánh
vác công việc lao động trong gia đình.
- Hơn nữa, Mị còn là một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu
sang phú quý. Mị đã xin bố đừng bán cô cho nhà giàu. Khi bị ép về nhà Pá Tra,
Mị đã định ăn lá ngón để tìm đến cái chết hòng giải thoát khỏi cuộc sống tù túng,
thiếu tự do và không có tình yêu thực sự.
- Ngoài ra, Mị còn là một người con hiếu thảo. Mị sẵn sàng lao động vất vả và để
trả món nợ truyền kiếp thay cho cha mẹ. Và, nếu chỉ biết sống cho riêng mình, Mị
đã chết. Nhưng vì thương cha nên Mị đã chấp nhận một cuộc sống mà cô không hề
mong muốn, sống mà như đã chết (chấp nhận về nhà thống lí).
Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị toát
lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi
rừng.
b. Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát khao hạnh phúc của Mị (diễn biến tâm
lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân)
Cuộc sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó của” của Mị cứ thế diễn ra nếu như
không có đêm tình mùa xuan ở Hồng Ngài. Khi mùa xuân đến, sức sống vốn tiềm
tàng của Mị sẽ trỗi dậy mạnh mẽ. Ta có thể thấy rõ sự trỗi dậy ấy qua diễn biến
tâm lí và hành động của Mị.
Những yếu tố ngoại cảnh – mùa xuân ở Hồng Ngài – đã có những tác động
tích cực đối với cuộc đời tối tăm và giá lạnh của Mị
- Trước hết là khung cảnh mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống và đầy màu sắc:
“trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đam ra phơi trên mỏm đá xòe
như con bướm sặc sỡ”, “đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà”.
- Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào
tâm hồn Mị “thiết tha bồi hồi”. Từng lời gát giản dị, mộc mạc nhưng lại có mời gọi
lớn lao đối với Mị: “ta không có con trai con gái – ta đi tìm người yêu”. Và bay
theo tiếng sao, “những đêm tình mùa xuân đã tới”…
- Ngoài ra, bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa
rượi tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa cũng làm cho Mị hồi sinh trở lại.
- Những yếu tố ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo.
Bởi vì, ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi
theo Mị. Tiếng sao gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của
hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào giá lạnh
bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống
vẫn tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
Và, với những tác động của ngoại cảnh ấy, ở Mị đã có những chuyển biến về
tâm lí và hành động, báo hiệu sức sống đã trỗi dậy.
- Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Cô Mị đã cất tiếng,
dù đó chỉ là những lời “thì thầm mùa xuân”. Bản “tình ca Tây Bắc” của những kẻ
yêu nhau, của những người tự do, khát khao hạnh phúc đã cất lên trên đôi môi của
Mị, đánh dấu một bước trở lại của người con gái yêu đời, yêu sống ngày nào.
- Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu
ngày Tết, “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái cách
uống rượu của Mị khiến người đọc phải ngạc nhiên nhưng không cảm thấy vô lí.
Mị uống như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, để sống lại mạnh mẽ cai
phần đời tươi trẻ đã có. Chẳng phải thế mà trong Mị lúc này đang sống lại những kỉ
niệm của ngày trước, những ngày tươi đẹp, hạnh phúc và đầy kiêu hãnh của tuổi
trẻ.
- Tình trạng sống mà như chết ở Mị đã được cởi bỏ, Mị “thấy phơi phới trở lại,
trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Cảm xúc của Mị
lúc này đã cho thấy cô đã tiến thêm một bước nữa trên hành trình tìm lại chính
mình.
- Mị cũng đã ý thức và cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
Rõ ràng lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy, khát vọng hạnh phúc thuở nào trong
Mị đã bừng tỉnh. Mị ý thức rất rõ quyền được sống, được “đi chơi ngày Tết” của
mình như bao người phụ nữ có chồng khác.
- Như một lẽ tự nhiê, khi ý thức sống đã trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm thẩy rõ hơn
bao giờ hết cái vô nghĩa lí của cuộc sống thực tại. Nên, Mị nghĩ “nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này. Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Đây
chính là biểu hiện của sự phản khán với hoàn cản, của sự xung đột gay gắt giữa
một bên là khát vọng sống chân chính, mãnh liệt với một bên là thực tại nghiệt ngã
đang hiện hữu.
- Tiếng sao vẫn đang “lửng lơ bay ngoài đường”, tiếng sao như nhứn “nốt nhạc”
trong tâm hồn Mị: “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Và tiếng sáo nội tâm ấy
giống như một chất “xúc tác” để “phản ứng đi chơi” của Mị diễn ra nhanh hơn:
“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, tiếp
luôn đó, “quấn lại tóc”, “với lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”.
Có thể thấy, những chuyển động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã dẫn đến những
hành động nối tiếp nhau.
- Nhưng, giữa lúc những hoạt động sống trong Mị trào sôi thi cũng là lúc nó bị vùi
dập một cách dã man bởi A Sử. Hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, quấn tóc Mị lên
cột khiến Mị “không cúi, không nghiêng được đầu”. Tuy nhiên, hành động ấy của
A Sử chỉ có thể trói buộc thân xác Mị, ngăn cản hành động “đi chơi” của Mị chứ
không thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt vẫn đang dâng lên trong người cô gái
Tây Bắc này. Dù đang bị trói, Mị “như không biết mình đàn bị trói. Hơi rượu còn
nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám
chơi…”
- Cũng như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Mị của Tô Hoài đã không mất
đi hoàn toàn bản chất người tốt đẹp. Cái khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn
tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Nó giống như ngọn lửa vẫn đang ầm ĩ cháy
dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một trận gió mát mành thổi tới là nó có thể
bùng cháy một cách mãnh liệt. Chiều sâu tư tưởng nhân đạp của truyện là ở sử phát
hiện này của Tô Hoài.
(vài nét về thành công nghệ thuật: nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên; nghệ
thuật miêu tả tâm lí và phát triển tính cách nhân vật đắc sắc; nghệ thuật tả cảnh đặc
sắc…)
c. Hành động táo bạo của Mị (diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong cảnh
A Phủ bị trói)
- Có thể thấy đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã giúp ta nhận ra những bí ẩn trong
cuộc đời và con người Mị nói riêng và đời sống tâm hồn, tình cảm của con người
nói chung. Tuy nhiên, vẫn chưa dừng lại ở đó. Đây dường như mới chỉ là bước
chân chuẩn bị cho những hành động phản kháng mạnh mẽ và táo bạo hơn diễn ra
tiếp theo. Sự phản kháng táo bạo của Mị có thể thấy qua diễn biến tâm lí và
hành động của Mị khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, hành động cắt dây trói
cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài.
- Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng: cô “thản
nhiên thổi lửa hơ tay…”. Phản ứng này của Mị cũng là hiển nhiên vì những cảnh
trói người đến chết như thế ở nhà thống lí là chuyện bình thường. Vả lại, có lẽ “ở
lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên cái khổ của người khác cũng thế thôi.
- Sau đó, nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại của
A Phủ, Mị đồng cảm, thương mình, thương người. Mị nhớ lại đêm năm trước,
“Mị cũng phải trói đứng thế kia”. Có thể nói, lòng thương mình của Mị là nền tảng
của lòng thương người, để sau đó Mị hành động một cách mạnh mẽ.
- Từ sự thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống
lí: “chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết”. Khi nhận ra sự độc ác của bọn cường quyền, chắc
chắn một điều con người đau khổ sẽ vùng lên kháng cự lại. Mị chắc cũng vậy!
- Cuối cùng, sức mạnh của tình thương cùng với niềm khát khao tự do trỗi dậy
đã khiến Mị vượt qua nỗi sợ hãi để quyết định và hành động táo bạo: cắt dây
trói cứu A Phủ và theo sau A Phủ để bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Điều này đã cho thấy
tâm hồn Mị hoàn toàn hồi sinh và sáng suốt, sự trưởng thành trong nhận thức cộng
với lòng thương người của Mị.
- Hành động của Mị là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình
mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và
tự giải thoát mình khỏi những “gông xiềng” của cường quyền bạo lực và thần
quyền lạc hậu. Đó cũng chính là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng
tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc
(vài nét về nghệ thuật: nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên; nghệ thuật miêu tả
tâm lí và phát triển tính cách nhân vật đặc sắc; nghệ thuật tả cảnh đặc sắc,…)
VỢ CHÔNG A PHỦ - TÔ HOÀI
I. Giói thiệu chung
1. Tác giả
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của văn học VN hiện đại. Ông có vốn hiểu
biết phong phúc, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác của đất nước.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
Truyện “vợ chồng A Phủ-1952” in trong tập “Truyện Tây Bắc”, được tặng giải nhất –
giải thưởng hội văn nghệ VN 1954-1955, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ gần như
nguyên vẹn giá trị và sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc
II. Đọc hiểu văn bản
Truyện “vợ chồng A Phủ” là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người
dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, tay sai của thực dân
Pháp
1. Nhân vật Mị
a. Trước khi làm dâu gạt nợ
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm đó là một cô gái Mèo có nhiều phẩm chất tốt
đẹp: múa hay, hát giỏi, biết thổi sáo, thổi kèn lá được nhiều trai làng theo đuổi
“trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị đã từng được yêu và có
những đêm tình mùa xuân hạnh phúc. Bên cạnh đó, Mị còn là cô gái chăm chỉ và hiếu
thảo, Mị cũng là một cô gái rất có ý thức về giá trị sống của mình.
b. Cuộc đời làm dâu gạt nợ - cuộc sống thống khổ
- Thế nhưng chỉ vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ Mị với nhà thống lí Pá Tra mà Mị
đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Ở đây nhà văn đã gián tiếp lên án tội ác của bọn quan
lang miền núi, bóc lột dã man và xem mạng người như cỏ rác.
- Mị đã bị tước đoạt cả tuổi thanh xuân tươi đẹp, mang tiếng là vợ A Sử, dâu thống lí
Pá Tra nhưng Mị bị đày đọa phải sống kiếp nô lệ, tù ngục còn khổ hơn trâu ngựa:
“con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Hoàn cảnh sống
của Mị chẳng khác gì tù ngục “ở cái buồng Mị kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ
vuông bằng bàn tay”. Mị cứ lặng lẽ làm việc như cái xác không hồn “lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị đau khổ định hái lá ngón để tự tử nhưng rồi vì
thương cha Mị đành quay trở lại nhà thống lí. Mị sống căm lặng, lầm lũi, quanh
năm vùi đầu vào những công việc khổ sai. Mị còn bị ràng buộc bởi mê tín thần
quyền. Mị nghĩ rằng mình đã bị đem ra cúng trình ma nhà nó rồi thì chỉ đợi ngày
chết ở đây thôi. Cho nên biết khổ, biết nhục, biết mình bị đày đọa mà không dám
phản kháng chống lại sự đày đọa khổ nhục ấy, đáng thương biết bao!
- Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian” của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết dần, chết
mòn theo ngày tháng, Mị “lúc nào cũng cúi mặt,mặt buồn rười rượi”, không nhớ
đến cả tuôi của mình nữa. Mị đâng bị tê liệt dần về cảm giác lẫn ý thức, tâm hồn,
tình cảm. Cái ác của bọn thống trị không những bóc lột, đày đọa con người về thể
các mà còn giết chết dần những gí trị nhân bản tốt đẹp trong tâm hồn con người.
c. Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc trong đêm tình mùa xuân (giá trị
nhân đạo)
- Bên cạnh giá trị hiện thực, khi viết về đồng bào Tây bắc, ngòi bút Tô Hoài thể hiện
một giá trị nhân đạo rõ nét. Nhà văn cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của những kiếp
người bất hạnh như Mị và A PHủ, nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất quý
giá- đó là sức sông, là khát vọng tự do-vẫn còn tiềm tàng trong đáy sâu tâm hồn
của những con người nô lệ như Mị. sức sống tiềm tàng ấy khi có cơ hội sẽ bùng
lên. Và cơ hội ấy chính là cái đêm tình mùa xuân. Trong cõi sâu tâm hồn người
đàn bà tưởng đâu suốt đời câm lặng, cơ cực khổ đau (đợi ngày rũ xương ở đây thôi)
tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa trẻ đẹp như đóa hoa rừng đầy sức sống trẻ trung hiếu
thảo. Mị nghe tiếng sáo gọi văng vẳng đầu làng. Tác giả đã tập trung khắc họa diễn
biến tâm lí của Mị. Mị nhớ lại thời tươi trẻ, trai làng thổi sáo đi theo Mị. “Mị lén
lấy rượi ra uống ừng ực từng bát để cho say”, cho say, cho hết buồn tủi. Nhưng rồi
Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. “Mị còn trẻ lắm, Mị
muốn đi chơi. Rồi Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng”. Đây là chi tiết giàu ý nghĩa, ánh sáng sẽ bừng lên xua tan bóng đêm, Mị
muốn thay đổi cuộc đời mình. Mị quân lại tóc với tay lấy cái váy hoa trên vách thì
A Sử bắt gặp, A Sử đã trói đứng Mị vào cột bằng một thúng sợi đay – một cách
hành hạ theo kiểu trung cổ rất tàn bạo. Khi ấy tâm hồn Mị vẫn còn bay theo tiếng
sáo, như đang hát hò vui chơi cùng đám bạn. Mị vùng bước đi, nhưng rồi tay chân
không cựa quậy được Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngực.
- Thật đáng thương cho Mị. Hành động của A Sử quá tàn bạo. Nguồn sống vừa mới
trổi dậy trong Mị đã bị dập tắt một cách tàn nhẫn bởi vòng dây trói của A Sử. Từ
đây Mị chìm sây vào chai sạn hơn trước. Nhưng sự chịu đựng của con người cũng
có giới hạn và khi con người bị áp bức quá độ thì họ sẽ phản kháng, đó là lẽ tất
nhiên
d. Sức phản kháng mạnh mẽ của Mị trong đêm mùa đông trên núi cao (giá trị
nhân đạo)
- Bước ngoặt lướn nhất trong cuộc đời Mị diễn ra trong một đêm mùa đông trên núi
cao, dài và buồn. Mị dậy sớm ra sưởi lửa. Mị nhận ra A Phủ bị trói đứng ngoài sân
nhưng hai đêm đầu Mị không quan tâm. Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A
Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mĩ vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết , chỉ
còn ở với ngọn lửa. Nhà văn lột tả hình ảnh một người vô cảm, hành động theo thói
quen. Chìm trong nỗi đau của mình, Mị không để ý đến nghịch cảnh của người
khác, vả lại những cảnh này đã quá quen thuộc ở nhà thống lí: lửa sáng mà lòng
tối!
- Nhưng đến đêm thứ ba, khi ngọn lửa bùng lên cũng là lúc A Phủ mở mắt. Mị nhận
ra “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ- đó
là dấu hiệu của nỗi uất ức tuyện vọng, dấu hiệu kiệt sức của một chàng trai gan lì
biết mình sắp chết. Tâm lí Mị diễn biến, thay đổi nhanh chóng. Quá khứ ùa về, Mị
nghĩ nếu Mị cởi trói cho A Phủ, Mị sẽ bị trói vào thay. Mị sẽ chết trên cái cọc ấy.
Mị thấy sợ. Mị xúc động “nhớ lại cảnh mình bị trói, đồng cảm vơi A Phủ, nhân ra
tội ác của bọn thống trị”, “chàng trai này tội tình gì phải chết như thế”. Chính nỗi
sợ và lòng ham sống đã giúp Mị vượt lên sự sợ hãi, dẫn bước chân Mị và giục tay
Mị cắt dây trói cho A Phủ. “Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cũng là giải thoát
cho cuộc đời mình”. Đó cũng là nhát cắt định mệnh, cắt luôn sợi dây trói vô hình
giữa Mị và gia đinh thống lí Pá Tra. Một nhát cắt đã cứu thoát hai con người, và
cũng mang đến hạnh phúc cho hai người bất hạnh. Đây là một tình tiết đặc sắc thể
hiển tài năng dựng truyện của tác giả làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Bản
năng sinh tồn trỗi dậy, Mị vụt chạy theo A Phủ, tự giải thoát cho chính mình. Cả
hai trốn sang Phiềng Sa, kết thành vợ chồng và tìm lại được hạnh phúc.
Tô Hoài đã đồng cảm, trên trọng vẻ đjep tâm hồn, sức sống mãnh liệt và tình yêu
tự do, hướng về cách mạng của người dân miền núi.
2. Nhân vật A Phủ
- A Phủ có số phận không khác gì Mị, được miêu tả song hành với Mị.
- A Phủ là một thanh niên nghèo suốt đời làm thuê, làm mướn. Cha mẹ chết trong
một trận dịch đậu mùa. Chính vì cuộc sống cùng khổ ấy đã hun đúc ở A Phủ một
sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do, một tính cách gan góc cùng tài năng
lao động đáng quý. A Phủ là đứa con của núi rừng, hồn nhiên, trung thực chỉ vì
dám đánh con quan mà bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị phạt vạ và trở thành nô lệ
cho nhà thống lí. Cuộc đời A Phủ và cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng mở ra một khía
cạnh khác trong giá trị hiện thực của tác phẩm: trong xã hội phong kiến miền núi
trước cách mạng, chân lí, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về “con quan”, thuộc về kẻ
giàu, kẻ mạnh, kẻ thống trị. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí càng tăng
thêm sức tố cáo của tác phẩm
- A Phủ đã phải làm việc cật lực, suốt ngày ở trên núi chắn dắt đàn bò, ngựa đông
hàng mấy chục con. Rồi một hôm, một con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói thống lí
trừng phạt, trói đứng vào cột chờ chết. Trong tay bọn thống trị, tính mạng con
người thật không bằng một con vật. A Phủ tiêu biểu cho những chàng trai Mông
nghèo, bị áp bức dươi tay bọn cường hào nhưng không sợ uy quyền và có ý thức
vươn lên đấu tranh.
- Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động, chân thực nét tính
cách con người lao động miền núi. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng
bên trong sôi nổi, ham sống, khao khát sống tự do, hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan
góc mà chất phát, tự tinn. Cả hai là nạn nhân của bọn chúa đẩ, quan lại thống trị tàn
bạo, độc ác nhưng tiềm ẩn trong họ là sức mạnh phản kháng mãnh liệt, dữ dội. Tô
Hoài đã phát hiện phẩm chất độc đáo của tính cách người Mông : âm thầm mà
mãnh liệt, mộc mạc, đơn sơ mà dữ dội, lối sống tự do, phóng khoáng, hồn nhiên.
- “vợ chồng A Phủ” là đoạn trích đặc sắc, khắc họa chân thực những nét riêng biệt
về phong tục tập quán tính cách, tâm hồn người dân Tây Bắc, với một giọng văn
nhẹ nhàng, tinh tế, đượm phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất
thơ. Tác phẩm đã phơi bày hiện thực khốn khổ của đồng bào dân tộc dưới ách
thống trị tàn bạo của bọn thực dân – phong kiến. Họ không cam chịu bị áp bức, đọa
đày, đã vùng lên phản kháng giành lại quyền sống, quyền hạnh phúc cho chính
mình, đó cũng là gí trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm
Giá trị hiện thực
- “vợ chồng A Phủ” là tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc;
miêu tả chân thực số phận khốn khổ của người dân nghèo và phơi bày bản chất tàn
bạo của giai cấp thống trị tàn bạo ở miền núi. Giá trị hiện thực của truyện ngoài
việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ còn nói lên hai sự thật xót xa:
người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc
bởi tây lý nô lệ. bạo lực cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan làm cho họ
không cất đầu dậy nỗi. nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức,
có đấu tranh, mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng,
giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau củ vợ chông A Phủ đã chứng minh quy
luật muôn đời ấy
Giá trị nhân đạo
- Thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người
dân lao động miên núi trước cách mạng, tác giả tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời
sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi.
- Lên án bản chất xấu xa tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi
- Mở ra con đường tự giải phóng cho họ thoát khỏi áp bức, tìm thấy cuộc sống tốt
đẹp hơn. “vợ chồng A Phủ” đặt ra vấn đề số phận con người – những người dưới
đáy xã hội – những người bị tước đoạt hết tài sản, bị boc lột sức lao động và bị xúc
phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã
thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
3. Những nghệ thuật chính của truyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tả và miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động, có cả tính
đậm nét (với Mị, tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập
chờn,… với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc họa qua hành động, công việc, những đối
thoại giản đơn)
- Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng
(cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ,
cảnh cắt máu ăn thể,….)
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm
chất thơ
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn
- Ngôn ngữ tonh tế, mang đậm sắc màu miền
4. Ý nghĩa văn bản của truyện
- Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người
dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống
tiềm tàng, mãnh liệt của họ
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
Tác giả: Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học VN hiện đại. Ông sớm
bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều
thể loại và thể loại nào cũng gặt hái được những thành công rực rỡ. Đặc biệt là những tác
phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, bởi ông rất am hiểu về
phong tục tập quán cũng như văn hóa nhiều vùng miền khác nhau. Tô Hoài luôn có những cố
gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần
làm nên sự hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh
thần của ngưởi đọc nhiều thế hệ
Tác phẩm: truyện ngắn “vợ chồng A Phủ” được rút trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm
1952, là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân
thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, thống trị dã man của
bọn chúa đất phong kiến, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của
con người.
Truyện có hai phần: phần đầu kể về cuộc sống đầy tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài-
nơi bọn thống lý ngự trị độc tôn, người dân cực khổ có đấu tranh nhưng chỉ là đấu tranh tự
phat; phần sau là thời kì ở Phiềng Sa – nơi thực dân là kẻ thống trị cao nhất, con người đấu
tranh tự giác để tự giải phóng đời mình, dưới sự giác ngộ và lãnh đạo của Đảng.
Lời dẫn: đến với “vợ chồng A Phủ” chúng ta không thể tìm được những cá tính đặc sắc
trong nhân vật như Xuân tóc đỏ trong “Số đỏ”, Tràng trong “vợ nhặt” hay Chí Phèo trong
truyện cùng tên của nhà văn Nam Cao… bởi đó không phải là chủ đích của Tô Hoài khi viết
thiên truyện này. Nhà văn muốn dành sự quan tâm cho một vấn đề khác, cấp bách hơn: đó là
“vấn đề số phận” – số phận của con người, số phận của cả một cộng đồng người nông dân
lao động dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến trên những triền núi Tây Bắc heo
hút.
Thiên truyện đặc sắc này gồm 2 phần: nửa đầu là ở Hồng Ngài, nửa sau là ở Phiềng Sa.
Đứng về mặt biểu hiện chủ đề, phần ở Phiềng Sa hết sức cần thiết để mang đến cho tác
phẩm màu sắc và hơi thở của thời đại, là “quá trình phát triển cách mạng” khi Mị và A Phủ
gặn cán bộ A Châu rồi trở thành du kích. Thế nhưng, xét trên vẻ đẹp văn chương thì nửa
Phiềng Sa nhất định phải chịu nhường nửa ở Hồng Ngài. Chính nửa ở Hồng Ngài là nơi tập
trung những tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài. Nó không chỉ mang hương sắc lạ về cảnh trí, con
người mà là sự kết đọng tình cảm nhân đạo sâu sắc, khả năng phân tích diễn biến tâm lý tinh
tế của nhà văn. Điều mà sau này ông gọi là “một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật và nhân
vật của núi rừng thơ mộng Tây Bắc thân yêu”
NỘI DUNG QUAN TRỌNG
I. Nhân vật Mị - người con gái có sức sống tiềm tàng mãnh liệt
1. Mị, người con gái tài năng, xinh đẹp, giàu nhân phẩm nhưng lại có cuộc sống
đầy bất hạnh
- Tài năng, xinh đẹp, giàu nhân phẩm:
+ Mị tài năng, xinh đẹp: “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”
+ Mị giàu nhân phẩm: khi biết cha con thống lý Pá Tra có ý định bắt cô về làm
dâu gạt nợ Mị đã rất gay gắt phản đối.
+ Mị là người yêu lao động, yêu tự do: Mị cầu xin bố: “con nay đã biết cuốc
nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho
nhà giàu”. Nhưng dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, Mị vẫn ngang
nhiên bị bắt về làm dâu gạt nợ: đau đớn đến tận cùng Mị chỉ muốn chết

You might also like