Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 30

Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Lời mở đầu

Hệ thống tài chính ngân hàng của nước Mỹ là một hệ thống đã tồn tại lâu đời và và là
một thể chế lớn mạnh nhất trên thế giới. Nó đã từng trải qua một số cuộc khủng hoảng
lớn trong lịch sử và kể từ 13 tháng trước đây, nước Mỹ lâm vào một cuộc khủng hoảng
tài chính nhưng có lẽ cuộc khủng hoảng này đã bước vào một giai đoạn mới thậm chí còn
u ám hơn trước. Đây có lẽ là cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ sau đại khủng hoảng năm
1931.

“ Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm
vào một trong những cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan.
Cuộc lây lan vẫn chưa chấm dứt, và hậu quả vẫn chưa lường hết “ . Đó là những nhận
xét của các chuyên gia kinh tế về cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ xảy ra trong thời gian
gần đây.

Một số các kinh tế gia hàng đầu của Mỹ cho rằng tình trạng hỗn loạn mới đây ở Phố
Wall phát sinh từ một vụ khủng hoảng niềm tin và có phần chắc là sẽ tác động đáng kể
tới nền kinh tế toàn cầu và cuộc sống của mọi người trên khắp thế giới.

Hiện tại tác động của cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Mỹ đối với nền kinh tế
thế giới vẫn chưa quá lớn. Tuy nhiên khả năng nguy cơ nền kinh tế thế giới gánh chịu hậu
quả nghiêm trọng từ nền kinh tế Mỹ là rất hiện hữu. Trong thời đại tòan cầu hóa, sự liên
kết giữa các nền kinh tế rất mạnh mẽ. Các nhà đầu tư nước ngoài đã mua hàng trăm tỷ
USD trái phiếu, cổ phiếu của các công ty lớn của Mỹ. Nếu các công ty Mỹ phá sản hoặc
gặp khủng hoảng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chịu các khoản lỗ lớn . Cuộc khủng
hoảng có những điểm chúng và khác biệt so với các cuộc khủng hoảng trước đó, bài tiểu
luận đưa ra nội dung : ” Toàn cảnh khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2008” để nhằm
làm rõ về vấn đề này.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -1-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Nội dung
Chương I: Lý thuyết về “khủng hoảng tài chính”

I.Định nghĩa về khủng hoảng tài chính:

Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của Khủng
hoảng tài chính là:
- Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi
tiền.
- Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng
không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.

Một số nguyên nhân của việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán là do
gặp phải vấn đề thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc do cố tình chiếm dụng vốn vì
điều này có thể có lợi ở khía cạnh nào đó. Tình trạng mất khả năng thanh toán bắt nguồn
từ các vụ phá sản, kinh doanh thua lỗ và các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Bản thân
Chính phủ cũng gặp khó khăn trong việc tìm tài trợ khi gặp khó khăn về thanh toán do
những kỳ vọng không sáng sủa mặc dù trong điều kiện bình thường nền kinh tế hoàn toàn
có khả năng chi trả. Sự mất khả năng thanh toán thường có tính dây chuyền. Vì vậy,
khủng hoảng tài chính là điều không mong muốn.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, có một sự tương quan giữa nỗ lực nhằm tự do hoá
các thị trường tài chính và số lượng các cuộc khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng tài
chính thường đi kèm với những nỗ lực nhằm tự do hoá thị trường tài chính. Vậy tự do
hoá tài chính có nhất thiết dẫn đến khủng hoảng tài chính và việc xảy ra các cuộc khủng
hoảng tài chính có thể là một lý do phản đối việc bãi bỏ các quy định và tự do hoá tài
khoản vốn.

Thành phần chính của các cuộc khủng hoảng tài chính là các thông tin không đối
xứng. Thông tin không đối xứng có vai trò chính yếu trong các giao dịch tài chính. Nó
đưa người vay tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là mầm mống cho những kỳ vọng
xấu của người cho vay về người đi vay. Thông tin không cân xứng khiến cho người đi
vay và người gửi tiền do họ khó khăn trong việc phân biệt giữa vấn đề thanh khoản và
tình trạng mất khả năng thanh toán, qua đó dẫn đến việc người sở hữu bán đi những tài
sản bằng ngoại tệ của nước gặp khó khăn. Vì vậy, để hạn chế những thông tin không đối
xứng thì hai bên đi vay và cho vay cần có càng nhiều thông tin càng tố về nhau thông qua
những câu hỏi và người cho vay hỏi người đi vay để tránh sự lựa chọn bất lợi cho nhà
đầu tư.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -2-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Vậy những gì cần làm để giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính?

Trước hết. chúng ta phải giải toả được những hoảng sợ về thanh khoản, về tính
lỏng bằng 2 chiến lược là cung cấp thanh khoản cho thị trường và thuyết phục các thành
viên thị trường rằng họ không cần phải ngay lập tức bán đi các tài sản của mình. Để thị
trường yên tâm thì cần có một cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoạt động tốt.
Người đóng vai trò là cho vay cuối cùng là Ngân hàng trung ương sẽ cung cấp
thanh khoản cho thị trường và để thị trường tự phân bổ, điều tiết lượng thanh khoản đó.
Khi đó, côn cụ chính sách tiền tệ gián tiếp hữu hiệu giúp NHTW cho vay là nghiệp vụ thị
trường mở với các giao dịch mua bán lại tín phiếu Kho bạc do Chính phủ phát hành.
Ngoài công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp là cho vay trên nghiệp vụ thị trường mở, cho
vay trực tiếp với lãi suất phạt.

Thứ hai, NHTW ở tình thế rất khó khăn do phải bảo vệ tỷ giá trong khi thị trường
cho rằng cuối cùng thì việc bảo vệ tỷ giá không quan trọng bằng các mục tiêu vĩ mô và
đến một lúc nào đó thì đồng tiền sẽ giảm giá.
Phải chăng để ngăn chặn khủng hoảng tài chính thì hạn chế các dòng vốn? Tuy
nhiên, thuế và các hạn chế khác có thể không khuyến khích các nhà đầu tư dài hạn và có
khi còn làm trầm trọng thêm tình hình.Việc cần làm là giải quyết khủng hoảng thanh toán
để hạn chế thiệt hại bằng cách: loại bỏ những không chắc chắn của nhà đầu tư về tính
trong sạch của các thể chế cá nhân. Thêm vào đó, buộc các thể chế này phải xử lý những
vấn đề về tài sản của mình như định giá thấp… và bán cho cơ quan cơ cấu lại nợ của
Chính phủ. Điều này làm tăng tính lỏng và giảm bớt khó khăn cho người cho vay – ngân
hàng. Tuy nhiên, để giải quyết khủng hoảng tài chính triệt để thì cần phải ngăn chặn nó
bằng cơ chế giám sát, thanh tra và các công cụ, kỹ thuật thích hợp.

II. Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng
hoảng:

Vào những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển
được mô tả với nét tiêu biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các
trung gian tài chính như các ngân hàng. Có lập luận cho rằng các cuộc khủng hoảng này
thực chất là khủng hoảng tiền tệ. Lập luận khác lại cho rằng đây là khủng hoảng ngân
hàng vì cơ chế tỷ giá cố định không có vai trò nguyên nhân chính. Nhưng suy cho cùng
thì khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tẹ có mối quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2
liên quan đến việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam kết hỗ trợ ổn định
giá trị đồng tiền, lạm phát trong nước không còn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ của
chính phủ mất đi hoặc tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân hàng sẽ
mất khả năng thanh toán.

Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ thì những nghiên cứu đầu tiên chỉ
ra rằng chính sự mâu thuẫn trong chính sách của Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ
giá cố định bởi Chính phủ phát hành tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân
không tin vào bản tệ nên đã chuyển sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của
Chính phủ cạn dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -3-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Các nhà đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng của Chính phủ. Cuộc chuyển
giao khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu thuẫn, trái ngược
của Chính phủ.
Mặc dù nguyên nhân trên đúng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ nhưng
không đúng với cuộc khủng hoảng gần đây ở Châu Á. Chính phủ các nước này đã giữ
được cân bằng chi tiêu ngân sách và không theo đuổi quá mức tăng trưởng tín dụng. Thực
ra, một vài mô hình khủng hoảng ở thế hệ thứ ba tập trung vào vai trò đảm bảo của Chính
phủ trong việc tăng cường đầu tư chỉ đơn thuần đưa thông điệp của mô hình ở thế hệ thứ
nhất vào một bộ những mâu thuẫn chính sách thôi.
Thế hệ thứ hai của mô hình khủng hoảng tiền tệ đã nhận được sự quan tâm đáng
kể sau cuộc tấn công vào đồng tiền chung châu Âu và đồng Pêso của Mêhicô ở đầu thập
kỷ 1990. Mô hình này xuất phát từ cơ sở không có sự mâu thuẫn cơ bản nào về chính
sách trước các cuộc khủng hoảng. Cơ sở của mô hình là sự tương tác giữa hành vi của
Chính phủ và hành vi của khu vực tư nhân dẫn đến một vài kết quả có thể xảy ra. Về
nguyên tắc, nền kinh tế có thể chuyển từ trạng thái cân bằng không chịu sự công kích
sang trạng thái chịu sự công kích khi có sự chuyển dịch bất ngờ về kỳ vọng của thị
trường.
Thường thì nguồn gốc vấn đề là mâu thuẫn cơ bản giữa nhiều mục tiêu của Chính
phủ. Ví dụ, Chính phủ muốn giữ ổn định giá cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định
theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Chính phủ có thể đạt các mục tiêu
này với mức giá cố định. Mặt khác, nó cũng có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ
lệ thất nghiệm hay bơm vốn cho hệ thống ngân hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo
đuổi chính sách tiền tệ mở rộng.

Nguyên nhân của khủng hoảng ngân hàng là gì? Gần 20 năm trước, Flôd và
Garber đã điều chỉnh mô hình dự báo trước được cuộc tấn công vào tỷ giá hối đoái với
trường hợp phá sản ngân hàng ở các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa học đã mô
tả tình trạng các ngân hàng chuyển đổi các tài sản nợ danh nghĩa cố định. Các ngân hàng
nhất trí trả lãi không kỳ hạn đối với một đơn vị tiền dự trữ tương ứng với một đơn vị
đồng bản tệ gửi tại NHTW. Khi không có bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng có thể duy trì
kế hoạch ổn định lãi suất chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản tiền gửi. Flood
và Garber cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy trước của
các chính sách không nhất quán. Chính sách theo đuổi giảm phát của NHTW sẽ phá huỷ
các cam kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng
thương mại phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra chi phí nắm giữ các
tài sản hiện tại vượt quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy, giảm phát làm giảm thu nhập
và cuối cùng các NHTM không thể có lãi từ việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng
thanh khoản thì khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở
những nước có nền kinh tế đóng mà không có sự hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ
không làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW mà chỉ tạo ra sự chuyển đổi
nguồn lực từ các ngân hàng sang các thành phần tư nhân.

Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ giống nhau ở khía cạnh
sau cùng cả hai đều làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những chính sách không
nhất quán. Tuy nhiên, khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính sách của NHTW còn
khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ yếu tố chi tiêu Chính phủ.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -4-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Chương II: Nguyên nhân và diễn tiến cuộc khủng hoảng tài
chính Mỹ

Năm 1932, trong bài diễn văn nhậm chức đọc trước một nước Mỹ đang hoảng loạn vì
cuộc Đại Suy Thoái, tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nhận định: “Sự sợ hãi
chính là điều duy nhất chúng ta phải sợ". Có lẽ đó là điều mà người Mỹ phải suy ngẫm
khi "bóng đen" của cuộc khủng hoảng kinh tế đang lừ lừ tiến tới.
Gần tám mươi năm sau những cải cách của chính phủ Franklin D. Roosevelt, nước
Mỹ lại đang đứng trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng niềm tin trầm trọng. Các nhà
đầu tư không chỉ lo ngại về môi trường đầu tư mà còn mất niềm tin vào khả năng giám
sát thị trường của chính phủ.

Thực tế, chính những nhà quản lý và chính khách gia hàng đầu của nước Mỹ cũng bị
bất ngờ bởi quy mô và sự nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính. Đến tháng 2
năm 2008, sau sự sụp đổ của Bear Stearns và những cảnh báo liên tục về sự đổ vỡ của thị
trường bất động sản, Ben Bernanke, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, vẫn tỏ ra tin
tưởng vào sự phát triển ổn định của thị trường.

Chỉ vài ngày trước khi chính phủ Mỹ buộc phải cứu Fannie Mae và Freddie Mac,
Hank Paulson, Bộ trưởng Bộ Ngân khố Mỹ còn tuyên bố là hai công ty này có đủ vốn để
chống chọi với khủng hoảng.
Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp luật về sự
minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã không bắt kịp
với những biến đổi sâu rộng của thị trường trong hơn hai mươi năm qua.

Kể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát triển
các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ
và đầu tư. Chứng khoán phái sinh và chứng khoán hóa, mặc dù giúp tăng nguồn tài chính
và phân tán rủi ro, đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa rời giá
trị đích thực của tài sản bảo đảm.

Không một cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có
đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh
giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm trên sổ sách của các
công ty tài chính và ngân hàng.

Thêm vào đó nhiều thao tác này lại được che đậy qua hoạt động đầu cơ của các quỹ
đầu tư, một loại hình quỹ đầu tư nắm giữ tới gần 3000 tỉ đô la giá trị tài sản nhưng không
hề phải cáo bạch tài sản với công chúng và gần như không chịu sự giám sát của bất kì
một cơ quan nhà nước nào.

Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật bắt đầu từ thập niên 1980, chẳng hạn như việc

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -5-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

hủy bỏ đạo luật Glass-Steagal vốn tách biệt ngân hàng thương mại chuyên thực hiện
những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư chuyên thực hiện những nghiệp
vụ đầu tư rủi ro cao, đã góp phần khuyến khích những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện
cho xung đột lợi ích phát triển. Chính môi trường thiếu minh bạch và thiếu giám sát đã
thổi bùng lên bong bóng đầu cơ bất động sản.

Đó là những những nguyên nhân chính mà các nhà kinh tế đã đưa ra phân tích .
Nhưng nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng nằm ở chính lòng tham của các ngân hàng,
các nhà môi giới… :

I. Tại các chủ ngân hàng:

Điều mà nhà chức trách ở Mỹ hiện đang ráo riết thực hiện là tìm ra những ngân hàng
đầu tư nào đã giới thiệu với các nhà đầu tư những quỹ đầu tư mạo hiểm khổng lồ, ngay cả
khi biết rằng các quỹ này sắp sửa nổ tung. ác chủ ngân hàng tham lam đã chơi trò lừa đảo
lớn. Họ cho rằng nếu có thể thuyết phục nhà đầu tư mua một thứ thực sự chẳng đáng giá
gì, thì thứ đó sẽ lại trở nên đáng giá, và khiến nhà đầu tư thuyết phục nhiều người khác
đổ tiền ra mua. Và khi sự thổi phồng này vỡ như bong bóng bị bơm quá căng, nhà đầu tư
mất trắng, các chủ ngân hàng vẫn giữ được khoản hoa hồng béo bở và lãi suất cao.

Tuy nhiên, điều các chủ nhà băng không tính đến chính là niềm tin cần thiết sau này
để thuyết phục khách hàng tiếp tục đầu tư. Niềm tin chính là thứ hàng hoá quý giá nhất.
Và nó đang hoen gỉ nhanh – đó là nguyên do gây ra cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay.

II. Tại cá nhân ông Alan Greenspan:

Theo William Fleckenstein, tác giả cuốn Greenspan’s Bubbles: The Age of Ignorance
at the Federal Reserve (Bong bóng của Greenspan: Thời đại ngu xuẩn của cục Dự trữ liên
bang), chính ông Alan Greenspan, khi còn là chủ tịch cục Dự trữ liên bang (FED), ngay
từ đầu đã quyết định rằng những ngân hàng trung ương như FED không nên cố sức kìm
hãm những dạng đầu cơ có thể dẫn đến tình trạng bong bóng, vì làm như thế là cản trở
hoạt động kinh tế, là không thể chấp nhận được.

Nhưng khi bong bóng đầu cơ vỡ tan tành, sau khi giá của các công ty không còn thể
hiện chút gì tương đương với giá trị cơ bản của nó, Alan Greenspan lại giải cứu cho hệ
thống tài chính. Từ năm 2000 trở đi, những gì ban đầu là những biện pháp cứu vớt nhỏ đã
trở thành khổng lồ. Lãi suất đã bị đẩy xuống mức thấp 1% và giữ ở mức đó quá lâu. Điều
này tạo ra bong bóng địa ốc, vốn được nuôi dưỡng nhờ hệ thống ngân hàng không hề có
định chuẩn trong việc cho vay. Kiểu đầu tư bằng nguồn tiền từ chính giá trị tài sản thế
chấp là do Alan Greenspan phát động và bảo vệ.

Giải pháp cho bất kỳ hiện tượng mất cân đối tài chính nào lẽ ra phải là việc bãi bỏ các
quy định, để cho thị trường tìm ra những cơ sở yếu kém và trừng phạt những quyết định
tồi trước khi toàn bộ hệ thống thối ruỗng. Điều đáng buồn là một tai hoạ quy mô cỡ này
hoàn toàn có thể tiên đoán trước, ngay cả khi thị trường địa ốc đang phát triển mạnh nhất.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -6-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

III. Tại các nhà môi giới bất động sản:

Theo Norma Garcia, luật sư trưởng của Liên minh người tiêu dùng Mỹ: Việc mua nhà
trả góp cần phải có những người môi giới uy tín. Các nhà môi giới bất động sản lẽ ra phải
cho khách hàng những lời tư vấn đúng đắn.

Nhưng có quá nhiều người môi giới sốt sắng với việc đẩy khách hàng tiềm năng vào
các căn nhà để kiếm hoa hồng, đến mức họ chỉ quan tâm đến việc hoàn tất hợp đồng hơn
là bảo đảm rằng khách hàng có khả năng thanh toán.

Hệ quả của sự cẩu thả này là hàng triệu người mua nhà theo giới thiệu của người môi
giới lâm vào cảnh mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng dây chuyền và nghiệm trọng đến
hệ thống ngân hàng. Cơn khủng hoảng hiện nay là bài học cảnh tỉnh cho những ai mua
nhà trả góp. Ngân hàng Credit Suisse đã dự đoán khoảng 6,5 triệu căn nhà sẽ bị tịch biên
trong vòng năm năm tới.

Theo cựu bộ trưởng Lao động Mỹ, giáo sư Robert Reich của đại học Berkley (bang
California): Một chút lòng tham là điều cần thiết để giữ cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
Nhưng lòng tham quá mức sẽ hạ gục chính thể này.

IV. Phân tích nguyên nhân:

Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ mà giá nhà tăng trong thời gian dài và đến mức
cao như vậy. Trong thời gian dài, giá nhà tăng mạnh cũng vì các thủ thuật tài chính của
toàn bộ khu vực tài chính nhằm khuyếch tán ảo tưởng giá nhà lên không có chỗ ngừng,
vượt cả khả năng chi trả của rất nhiều người đầu tư vào địa ốc. Nhưng nếu giá cứ lên thì
có gì phải lo, đó là tâm lý đại chúng cho đến thời gian vừa qua. Thủ thuật tài chính này là
sự ra đời của CDO và phát tán rộng rãi trong thị trường địa ốc. Vậy CDO là gì?

CDO (collaterized debt obligation) có thể dịch tạm là trái phiếu hay nghĩa vụ nợ có
thế chấp. Thế chấp có' thể là trái phiếu (bonds) hay các khoản nợ cho vay mua nhà
(mortgage). Trường hợp sau được gọi là CMO (collaterized mortgage obligation hay
security) có thể tạm dịch là trái phiếu hay chứng khoán thế chấp bằng nợ cho vay mua
nhà, nói chung là địa ốc.

Cách làm khá đơn giản. Thí dụ ngân hàng A cho nhiều người vay mua địa ốc với tổng
số tiền là 100 tỷ. Để có số tiền này, ngân hàng phải thu hút tiền ký gửi ít nhất 100 tỷ. Đây
là cách làm rất thông thường. Ngân hàng thu hút tiền gửi ngắn hoặc trung hạn và cho vay
dài hạn. Ngân hàng có thể chịu rủi ro nếu như người ký gửi rút tiền ra mà ngân hàng
không có để trả. Do đó để giảm rủi ro, họ cần đa dạng hoá người vay và đa dạng hoá
vùng hoạt động của người vay. Tất nhiên nếu cho vay nhiều người, không chỉ để mua nhà
mà để tài trợ nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, thì độ rủi ro giảm. Khách hàng có người
gặp khó khăn, nhưng hầu hết là không. Một vài hoạt động kinh tế có thể có rủi ro cao
nhưng hầu hết các hoạt động kinh tế khác thì không.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -7-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Người Mỹ luôn luôn tìm tòi cách làm mới để sinh lợi. Một cách làm khác, được coi là
khám phá thần kỳ, là ngân hàng có thể tập hợp nhiều giấy nợ đó lại thành một gói, thí dụ
ở đây là 100 tỷ, rồi dùng chúng làm thế chấp, chia ra nhiều giấy nợ nhỏ tức là chứng
khoán (cổ phiếu cũng là một loại chứng khoán, security) đem bán đại trà cho người đầu
tư nhỏ. Làm như vậy ngân hàng thu lại 100 tỷ và biến người mua chứng khoán thành
người cho vay. Ngân hàng ăn phí nhiều chặng (phí tính trên người đi vay mua nhà, phí
tính vào việc tổ chức đóng gói nợ tức là tính vào người đầu tư nhỏ, và phí tính vào việc
thu nợ từ người đi vay và chia lại số thu này cho người đầu tư chứng khoán. Ngân hàng
đẩy toàn bộ rủi ro sang cho người đầu tư chứng khoán. Người ta mua chứng khoán vì lãi
suất cao hơn, có thể dễ dàng bán ra và tin là nó có độ rủi ro thấp. Các chứng khoán này
thường có thời gian chuộc lại từ 5 đến 30 năm, ngân hàng hoặc công ty dịch vụ tài chính
nào đó sẽ làm việc thu tiền trả nợ của người vay gồm cả khoản vay gốc và lãi đem chia
đều cho các chứng khoán. Tất nhiên họ tính phí.

Cách làm này được coi là một sáng kiến diệu kỳ của Michael Milken, một ông trùm
tài chính, trở nên giàu sụ vì chuyện này, nhưng rồi sau đó bị bắt tù về tội về tội gian lận
trong buôn bán trái phiếu vì dùng thông tin nội gián. Ông ta mua những trái phiếu công ty
dưới chuẩn, được mệnh danh là rác (junk bonds), đóng thành gói, dùng chúng làm thế
chấp, tạo ra các chứng khoán mới. Ngân hàng thương mại (cho vay tiền) chỉ mới bắt tay
vào hoạt động này trong vài năm gần đây, còn chủ yếu việc làm này là của công ty tài
chính thường được gọi là ngân hàng đầu tư (chỉ làm chuyện đóng gói, buôn bán chứng
khoán). Ngân hàng thương mại nhảy vào vùng cấm trước đây vì luật Mỹ thay đổi cho
phép đa dạng hoá họat động tài chính. Cũng vì thế mà thị trường tài chính thế giới trở nên
bấp bênh, dễ khủng hoảng hơn trước. Hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ đang lỗ to vì theo
chân sang kiến của Michael Miken

Hiện nay số tiền đầu tư vào trái phiếu ở Mỹ lên tới 25,9 ngàn tỷ tính tới tháng 5 năm
2006 trong đó CMO liên quan tới địa ốc chiếm tới 6,1 ngàn tỷ (theo Research Quarterly
của Hội buôn trái phiếu). Tiền làm nhanh, rủi ro tưởng ít vì các công ty đánh giá chúng
cao ở mức cao AAA (cần biết là họ đánh giá Việt Nam ở mức BB, thấp hơn A). Nói
chung, CMO có thể lành mạnh nếu chúng không phát triển ồ ạt vào khu vực dân cư ít khả
năng trả nợ chỉ vì mục đích làm tiền.

Các nhà đầu tư địa ốc đã mở rộng thị trường bất kể quyền lợi của người tiêu dùng,
gây vốn cho vay cả những người thu nhập thấp ít khả năng trả nợ, bằng cách khuyến
khích vay với lãi suất lúc đầu thật thấp, và sau đó ít lâu tăng lên theo lãi suất thị trường.
Những người đi vay này tưởng rằng giá nhà sẽ lên mãi mãi, lãi suất sẽ thấp mãi, nên họ
đâm đầu thi nhau mua nhà. Đây là thị trường được gọi là thị trường dưới chuẩn. Không
những dân chúng mua, mà các ngân hàng, công ty tài chính, quĩ tín dụng, nhà đầu tư
nước ngoài cũng tin tưởng mù quáng vào tương lai của thị trường nhà cửa. Ngân hàng
thay vì hoạt động môi giới giữa người ký gửi tiền và người đi vay thì họ cũng xông vào
đầu tư, mua giữ các CMO rác này. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, 8 ngân hàng
lớn và công ty tài chính lớn của Mỹ như Merrill Lynch, Golden Sachs, City Group,
Morgan Chase, Bank of America đã phát hành 286 tỷ CMO dưới chuẩn.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -8-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Và việc phải đến đã đến. Khi lãi suất tăng, dù không nhiều, tiền mượn mua nhà mất
khả năng chi trả, các CMO trở thành rác thật, không còn mang giá trị gì nữa vì chúng chỉ
có giá khi có tiền chi trả của người đi vay. Các ngân hàng, công ty tài chính, không
những ở Mỹ mà ở khắp thế giới đang mất vốn lớn và có thể đi đến phá sản. Tháng 10 và
11 vừa qua, tập đoàn City Group khai mất 8,4 tỷ vốn, công ty Morgan-Stanley mất 3,7 tỷ
vốn và nhiều ngân hàng như Bank of America và nhiều quĩ tài chính khác mất vốn lên
hàng tỷ. Nhiều tên tuổi khác sẽ tiếp tục khai mất vốn vì đây chỉ là khởi đầu của khủng
hoảng.

V.Diễn tiến của cuộc khủng hoảng:

* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và
không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ
ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất
động sản dưới chuẩn ở Mỹ.

* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại
châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn
ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.

* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây
để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock
- ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.

* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ
USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.

* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập
đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi
tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70%
tại các giao dịch ở Sydney.

* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn
hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng
cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.

* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD,
nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc
khủng hoảng cho vay cầm cố.

* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.

* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của
cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng -9-


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với
giá 2 đôla một cổ phiếu.

* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ
trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các
chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.

* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau
khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.

* 31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD,
nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong
10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.

* 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai
tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
nhà đất Mỹ.

* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính
mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.

* 14/9/208: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi
từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.

* 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại
sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ
đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm;
American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh
toán do những khoản thua lỗ liên qua

* 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị
trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ
thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85
tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một
phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.

* 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn
Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình
trạng bán khống.

* 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch
mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ
thống tài chính.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 10 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

* 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng
Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng,
đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.

* 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt
động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và
Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.

* 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra
liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận
trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.

* 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ
đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo
hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài
sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD.
Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong
lịch sử Mỹ.

Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về
những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.

* 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ.
Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần
780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.

* 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25)
với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho
doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo
hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000
USD.

* 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ
hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó, Tổng
thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.

* Ngày 4/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh
khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Ý.
Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng không thống nhất
được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ.

* Ngày 5/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định của
Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, ngày Chủ
nhật 5/10 Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng
tại Đức sẽ được bảo hiểm không có giới hạn.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 11 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

* Ngày 6/10/2008: Trong đêm Chủ nhật 5/10, ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi
email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 19,8 tỷ USD) để mua lại
ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP
sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của
Fortis tại Bỉ.

* Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang
Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước
khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng
hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.

Đối với những người theo dõi kinh tế Mỹ, những yếu kém của nền kinh tế này đã bộc lộ
rõ từ trước năm 2000 nhưng đến nay mới bùng nổ. Thiếu hụt cán cân thanh toán nước
ngoài đã tới trên 400 tỷ từ 2000, trên 4% GDP và tiếp tục tăng mức thiếu hụt, đạt 811 tỷ
năm 2006 bằng 6% GDP. Năm 2007, đồng đô la mất giá, có làm giảm mức thiếu hụt
xuống 734 tỷ nhưng cũng ở mức rất cao. Các nước khác nếu thiếu hụt ở mức 3% GDP thì
đã phải lo lắng bằng mọi cách nhằm điều chỉnh để giảm mức thiếu hụt này.

Nền kinh tế Mỹ trong hơn 10 năm, có lợi thế là được sự tin tưởng của cả thế giới, nên
tiền đổ vào để cho dân chúng đầu tư và tiêu sài. Để dành của dân chúng vào năm 2006
chỉ có 34 tỷ, gần như 0% GDP, và tỷ lệ để dành thấp này chỉ khoảng 1-2% đã kéo dài từ
cả chục năm nay. Đầu tư của Mỹ bằng 19% GDP, chủ yếu dựa vào lợi nhuận công ty,
nhưng đến 30% số tiền đầu tư là do vay mượn nước ngoài. Tình hình tài chính của Mỹ
chẳng khác gì một nước đang phát triển không kiểm soát nổi hầu bao mình. Các nước ở
châu Mỹ Latin và ở châu Á sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 90 đã cố gắng
làm sạch sẽ tài chính, tăng cường để dành, và trở thành nguồn tài chính tài trợ tiêu dùng
của Mỹ. Mỹ đang mất vốn vì giá xuống thì đầu tư của các nền kinh tế của những nước
này cũng sẽ không thể không bị cụt vốn theo. Nói thế không có nghĩa là mọi người có
tiền trên thế giới đầu tư vào Mỹ sẽ lo sợ, ồ ạt rút khỏi Mỹ vì thực sự họ cũng sẽ khó kiếm
chỗ thay thế an toàn và tạo ra lợi nhuận, nhưng việc rút ra một phần cũng tạo ảnh hưởng
không nhỏ.

Tiền đổ vào làm thị trường chứng khoán và tài sản lên giá quá mức giá trị của nó. Điều
này thì ai cũng biết, nhưng rất nhiều người vẫn không tin là giá có thể xuống. Đặc biệt là
các nhà kinh doanh tiền tệ, họ phải thổi phồng vì càng lên giá, càng say sưa với thị trường
thì giao dịch càng tăng, vay mượn càng nhiều và phí dịch vụ càng lớn. Giá cổ phiếu Mỹ
đã qua thời kỳ điều chỉnh, đặc biệt là giá các công ty công nghệ thông tin được thổi
phồng, chỉ số Nasdaq lên trên 5000 năm 2000 và hiện nay chỉ còn trên 2000, bằng ½
trước đây. Chỉ số Dow Jones ít bị ảnh hưởng của việc thổi phồng, cũng giảm từ cao điểm
gần 12000 năm 2000, xuống tới mức 7540 và sau đó phục hồi để sau 7 năm mới trở lại
thời năm 2000. Bong bóng thị trường chứng khoán đã tự nó giải quyết bằng cách xuống
giá, và để nhằm giữ nền kinh tế khỏi tuột dốc, Cục dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ lãi suất
ở mức rất thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu, đầu tư vào nhà cửa tiếp tục tăng, giá nhà
cửa trở thành bong bóng. Trong 5 năm qua giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các bang

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 12 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

hẻo lánh nhiều đất cũng tăng ít nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ tăng hơn gấp đôi. Nếu
kể từ năm 1980, giá nhà ở những bang như New York, California, Massachussets tăng 5,
6 lần, trong khi lương danh nghĩa ở những vùng trên chỉ tăng gần 3 lần. Kể từ năm 1997
đến nay những nơi này tăng giá 3 lần.

Nước Mỹ đang gặp phải 3 vấn đề lớn về tài chính:

Thứ nhất sự phát triển không kiểm soát của thị trường cho vay địa ốc dưới chuẩn, có
nghĩa là không cần đặt cọc, không cần đủ thu nhập để chi trả mà vẫn được vay.

Thứ hai cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng quá mức mà tuần qua City Group là nạn nhân
đầu tiên về thẻ tín dụng, lỗ 18 tỷ, mà chỉ một phần nhỏ là nợ dưới chuẩn vì tháng 9 vừa
qua họ chỉ có 2,7 tỷ nằm trong khoản dù hiện nay giá trị còn lại chỉ còn 5%.

Thứ ba, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng đế cả khu vực đầu tư địa ốc văn phòng, chứ
không chỉ tập trung vào khu nhà ở. Các công trình xây dựng có thể trở thành dở dang vì
không kiếm được tiền cho xây dựng tiếp tục. Giá nhà nói chung trong thời gian vừa qua
đã xuống 7%, nhưng nhiều nhà kinh tế cho rằng giá nhà sẽ tiếp tục xuống vào năm 2008
và có thể tiếp tục vào năm 2009, và có thể tới mức 30%. Tất nhiên những bang lên giá
nhiều sẽ xuống giá nhiều, bang lên giá ít sẽ xuống giá ít. Chưa biết được rõ nền kinh tế sẽ
suy thoái mạnh yếu như thế nào, nhưng suy thoái là điều khó tránh.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 13 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Chương III: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế
của Mỹ và thế giới

I .Ảnh hưởng tới nền kinh tế Mỹ:

Nhiều dấu hiệu cho thấy kinh tế Mỹ đã đi vào suy thoái. Theo nguyên tắc thông
thường, được gọi là suy thoái khi GDP giảm liên tục 2 quí. Tuy nhiên cơ quan có thẩm
quyền xác định là NBER (Phòng Nghiên cứu Kinh tế là một tổ chứ vô vị lợi phi chính
phủ) cũng có thể du di như cho rằng khủng hoảng đã xảy ra năm 2001 dù GDP chỉ giảm
1 quí, và khi tuyên bố thì nền kinh tế đã ra khỏi suy thoái. Cuối tuần qua, công ty tài
chính Bear and Sterns coi như phá sản, giá có lúc lên tới 6 tỷ đã được JP Morgan cứu vớt,
mua với giá 270 triệu và với bảo đảm của FED về việc trả nợ. Rõ ràng khi nhà nước Mỹ
ra tay cứu như thế này thì tình hình tài chính rất trầm trọng. Giá các chứng khoán đã giảm
trên một ngàn tỷ và hiện nay đang có 900 ngàn các căn hộ phá sản vì mất khả năng chi
trả, bằng 10% số nhà cửa ở Mỹ. Không những thế con số này đang tăng.

Hoạt động sản xuất cũng rõ ràng đang bị ảnh hưởng. Theo một cuộc điều tra lấy ý
kiến giám đốc tài chính 475 công ty (13/3/08) của báo tài chính Wall Street Journal, hơn
một nửa đã tin rằng kinh tế Mỹ đã suy thoái vào lúc này và sẽ tiếp tục cho đến hết năm
2009, với lý do là công ty của họ có khó khăn trong việc mượn tiền và do đó họ chỉ có ý
định tăng chi đầu tư khoảng 3,3% năm nay, tức là chỉ đủ thay thế tài sản cố định thải hồi.
Một cuộc điều tra khác, cũng của tờ báo trên, với 51 nhà kinh tế chuyên làm dự báo, 70%
cho rằng kinh tế Mỹ đã đang suy thoái. Đây là những phán đoán chủ quan của chuyên
gia.

Về chứng cớ khách quan từ các cơ quan thống kê Mỹ, GDP quí 4 năm 2007 đã giảm
mức tăng đáng kể, chỉ tăng 0,6%, so với mức tăng 4,9% quí 3. Giá tiêu dùng tăng vào
tháng giêng là 0,4% (so với cùng tháng năm 2007 là 4,3%) nhưng giá sản xuất tăng 1%
như thế khả năng giá tiêu dùng sẽ tăng mạnh hơn vào những tháng tới, dù rằng giá tiêu
dùng không tăng vào tháng hai. Số việc làm ngoài khu vực nông nghiệp không tăng vào
tháng 1 và giảm 63.000 vào tháng 2. Doanh thu bán lẻ cũng giảm 0,6% vào tháng 2.

Thiếu thanh khoản (liquidity) ở Mỹ

Nói chung, nền kinh tế Mỹ đang thiếu thanh khoản. Theo báo chí, hiện nay Mỹ có
khoảng 6.000 tỷ cho vay địa ốc, trong đó 2.000 tỷ là dưới chuẩn. Khoảng 700 tỷ dưới
chuẩn hiện là do hệ thống ngân hàng Mỹ nắm giữ trong tổng tích sản là 11 ngàn tỷ, phần
còn lại là các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và nước ngoài nắm giữ.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 14 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Riêng ngân hàng Mỹ nếu các khoản cho vay dưới chuẩn mất hết (tức là giá trị hiện bằng
zero) thì vốn tự có cũng sẽ gần bằng zero. Coi bảng dưới ta thấy thí dụ nếu chứng khoán
dưới chuẩn mất giá, chỉ còn bằng zero chẳng hạn (thực ra hiện nay gần như không bán
được), thì vốn tự có ở bên trái cũng giảm một giá trị tương tự vì tổng tích sản luôn luôn
bằng tồn tiêu sản + vốn tự có.

Bảng cân đối tài sản ngân hàng Mỹ vào cuối tháng 12 năm 2007

Tiêu sản
Tích sản (asssets)
(liabilities)

Cho vay 6,8 Tiêu sản 10,7

Vốn tự có
Chứng khoán 4,8 0,9
(equity)

Trong đó dưới
0,7
chuẩn

Tổng tích sản 11.6 Tổng tiêu sản 11,6

Vốn tự có của ngân hàng theo luật phải bằng ít nhất 6% tổng tiêu sản (liability) tức là
cũng khoảng 600 tỷ. Như vậy thì ngân hàng phải nâng vốn tự có để đáp ứng được việc rút
tiền của khách hàng. Chính vì thế hiện nay ngân hàng phải giảm mức cho vay, thu hồi các
khoản vay ngắn hoặc trung hạn đã đến kỳ phải trả. Nền kinh tế do đó thiếu thanh khoản.
Làm sao để giải quyết? Phải chăng nhà nước sẽ phải cứu, hoặc là ngân hàng sẽ phải tăng
số cổ phiếu, bán ra thị trường, nhằm gây thêm vốn. Những cổ phiếu hiện tại tất sẽ giảm
giá, lợi nhuận cổ phiếu trong tương lai giảm và do đó giá giảm. Đây là điều ngân hàng
phải trả cho hành động phiêu lưu của mình. Tất nhiên họ muốn chính phủ cứu hơn là tự
bán ra thêm cổ phiếu. FED đang cố tạo niềm tin để từ đó nâng giá các trái phiếu dưới
chuẩn, nhưng cho đến nay chưa thành công. Đây là tình trạng khủnh hoảng bảng cân đối
tài sản ở Nhật, thậm chí vốn tự có của doanh nghiệp nói chung âm vì giá trị tài sản (đặc
biệt là địa ốc) giảm mạnh. Lãi suất do đó là zero cũng không thúc đẩy nổi doanh nghiệp
tăng vay mượn để sản xuất, họ phải giảm vay mượn để gây dựng lại vốn tự có. Khủng
hoảng ở Nhật kéo dài hơn 10 năm mới tạm được giải quyết.

Ở Mỹ hiện nay, không phải chỉ hệ thống ngân hàng thiếu thanh khoản, mà các công
ty tài chính đầu tư phiêu lưu với độ rủi ro cao (được gọi là hedge funds) cũng thiếu thanh
khoản để trả cho những người đầu tư muốn bán phần chứng khoán của mình để rút vốn,
nhưng điều này khó thực hiện vì không biết giá chúng là bao nhiêu, bởi vì các loại dưới
chuẩn hiện nay gần như không có người mua. Các công ty này hiện nay có tổng tích sản

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 15 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

bằng ½ tổng tích sản hệ thống ngân hàng và nhiều công ty lớn đã phá sản và đang trong
giai đoạn phá sản. Mới nhất là Bear and Sterns, Quỹ đầu tư Carlyle.

Khủng hoảng tài chính hiện nay ở Mỹ ở mức độ hiện nay là điều chưa từng xảy ra ở
Mỹ.

Các hành động giảm liên tục lãi suất để người vay mượn có thể trả nợ chưa làm thị
trường khá hơn. Ngay cả FED cho ngân hàng vay bằng 200 tỷ US bằng trái phiếu (nhằm
tránh đẩy mạnh lạm phát) thị trường vẫn chưa chịu tin. Điều chính là hệ thống ngân hàng
thiếu thanh khoản mà FED không thể tăng tín dụng quá đáng vì sẽ đẩy mạnh lạm phát,
hiện đã đang ở mức trên 4% (đối với Mỹ là cao).

Vốn nước ngoài cũng có dấu hiệu tháo chạy và đồng đô la mất giá mạnh thêm

Sự kiện khủng hoảng kinh tế Mỹ có nguồn gốc từ tiêu nhiều hơn có, kéo dài từ ít nhất
từ 1990 đến nay. Vì tiêu nhiều, nhập ngày càng cao hơn xuất, thiếu hụt đã lên tới gần 6%
GDP (800 tỷ một năm) và để tiếp tục chi tiêu, Mỹ cần thu hút nguồn tài chính nước
ngoài. Chính sách FED cũng đã phạm sai lầm trước đây là giữ lãi suất quá lâu sau khi
giảm để cứu cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán, gây ra do sự tụt giá mạnh
của chứng khoán công nghệ thông tin (được thổi phồng quá đáng). Chính sách lãi suất
thấp cùng với tình trạng mở rộng các phương tiện tài chính quá tự do mà không có kiểm
soát đã đẩy giá nhà đất lên tận trời và việc phải đến đã đến: nó phải trở về giá trị thực của
nó.

Nhu cầu thu hút tiền nước ngoài để tiêu đã từ từ làm mất giá trị đồng đô la, và do đó
khi khủng hoảng xảy ra, các đồng ngoại tệ khác bỏ chạy, đồng đô lại càng mất giá. Thanh
khoản lại càng thiếu hụt. Đó là tình trạng hiện nay.

Sự kiện đổ tiền vào Mỹ đã chuyển chiều khá rõ vào quí 3 năm 2007, là thời gian có
thông tin mới nhất từ Cục Phân tích Kinh tế Mỹ (cơ quan trách nhiệm biên soạn Tài
khoản Quốc gia, nhưng độc lập với Cục Thống kê). Trước đây nước ngoài mua nợ, không
phải là trái phiếu Bộ tài chính, đã là (243 tỷ), thì bây giờ họ bán tống đi (44 tỷ). Cổ phiếu
cũng vậy, họ bán cổ phiếu Mỹ thay vì mua vào. Do khó khăn, đầu tư tài chính của Mỹ ra
nước ngoài cũng giảm: lượng mua chứng khoán nước ngoài giảm từ 40,4 tỷ xuống 35,7
tỷ; mua trái phiếu giảm 82,2 tỷ xuống 78,8 tỷ. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ
giảm từ 78 tỷ xuống 56,3 tỷ. So sánh thông tin quí 3 với quí 2 năm 2007 cho thấy cảnh
tượng khó khăn của kinh tế Mỹ và thế giới; nói chung, tài sản (tài chính và phi tài chính)
do đầu tư của Mỹ ra nước ngoài chỉ tăng 156 tỷ so với quí trước đó là 465 tỷ. Ngược lại
tài sản nước ngoài đầu tư vào Mỹ chỉ tăng 249 tỷ so với 619 tỷ vào quí 2. Điều này cho
thấy trao đổi về tài chính qua lại giữa Mỹ và thế giới đều giảm mạnh. Tuy nhiên đầu tư
tài chính của nước ngoài vào Mỹ giảm mạnh hơn.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 16 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

II. Ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu:

Chưa đầy một tuần sau khi châu Âu từ chối lời khẩn cầu của Mỹ trong kế hoạch 700
tỷ USD ứng cứu hệ thống ngân hàng, châu lục này đang phải đương đầu với cuộc khủng
hoảng có mức độ trầm trọng không kém Mỹ là mấy. Điều này cho thấy cuộc khủng
hoảng đã lan nhanh chóng từ Mỹ sang châu Âu như thế nào.

Hai ngày qua, chính phủ Ireland và nhiều nước châu Âu đã thâu tóm hoặc phải hỗ trợ
5 ngân hàng trong tình cảnh cực kỳ khó khăn. Tại Ireland, khi lời đồn về việc rút tiền
hàng loạt từ ngân hàng khiến thị trường chứng khoán lâm vào tình cảnh khó khăn, chính
phủ đã buộc phải đưa ra chính sách bảo đảm đối với tất cả các loại hình tiền gửi.

Châu Á cho đến nay chịu ít ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này hơn so với châu Âu.
Tuần trước, vụ bê bối tại Ngân hàng Hồng Kông đã khiến người ta nhớ lại ký ức đau
buồn vào tháng 6/1997 khi sự đầu cơ đối với đồng nội tệ Thái trở thành ngòi nổ gây ra
cuộc khủng hoảng lan ra toàn châu Á và sau đó là Brazil và Nga.

Chuyên gia kinh tế nhìn thấy sự trùng hợp giữa hai cuộc khủng hoảng này, một khi
người gửi tiền hoảng loạn và bắt đầu rút tiền ra, sức khỏe của ngành ngân hàng và cả
nước đó nói chung chịu ảnh hưởng tiêu cực. Trong hệ thống tài chính toàn cầu, biên giới
quốc gia không có quá nhiều ý nghĩa.

Ông Thomas Mayer, chuyên gia kinh tế trưởng tại ngân hàng Deutsche Bank, nhận
xét trong thời đại ngày nay, tin tức tiêu cực về một ngân hàng sẽ lan ra toàn thế giới chú
không phải chỉ nội vùng đó. Bất chấp khoản nợ của ngân hàng bạn là nợ đạt tiêu chuẩn
hay nợ xấu, khách hàng mất lòng tin.

Trong bối cảnh Nga chuẩn bị sẽ là nạn nhân tiếp theo của khủng hoảng tín dụng, các
quan chức kinh tế nước này tạm thời phải ngừng giao dịch trên sàn khoảng hai tiếng
trong buổi sáng ngày thứ Ba (ngày 30/09) do lo ngại nhà đầu tư sẽ trở nên quá hoảng loạn
sau khi kế hoạch 700 tỷ USD thất bại. Khi giao dịch được khôi phục trở lại, Tổng thống
Bush đã nhận được thêm sự ủng hộ về kế hoạch này, cổ phiếu tăng điểm trở lại.

Ông Roland Nash, chuyên gia phân tích tại ngân hàng Renaissance – Nga, nhận xét
Nga đang nỗ lực ứng phó với hiểm họa chưa từng có của khủng hoảng tài chính từ nước
Mỹ.

Cơn sóng này có thể sẽ dội lại về Mỹ bởi một số nhà đầu tư giàu có của Nga đã rót
tiền đầu tư vào thị trường Mỹ, trong đó có một trong hai công ty cho vay thế chấp lớn
nhất là Fannie Mae. Nga còn rất nhiều vấn đề nữa đó là giá dầu mất ổn định và chính
sách ngoại giao không được lòng nhà đầu tư.

Nguyên nhân sâu xa khiến thị trường châu Âu mất lòng tin như hiện nay là quyết định
của Bộ Tài Chính để ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ. Ảnh hưởng lan sang châu Âu,
chấn động các ngân hàng và nhà đầu tư có công việc kinh doanh liên quan đến ngân hàng
Lehman Brothers.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 17 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Thứ Ba (ngày 30/09) Pháp và Bỉ đã phải rót 9 tỷ USD vào ngân hàng Dexia. Hành
động này chỉ được tiến hành một ngày sau khi Bỉ, Hà Lan và Lucxembua rót 16,2 tỷ USD
để cứu ngân hàng Fortis.

Sự hoảng loạn tại châu Âu cũng sẽ gây tác động ngược lại đối với Mỹ, bởi sẽ thêm
nhiều ngân hàng rơi vào khủng hoảng. Nếu Bộ Tài Chính có thể giành được sự ủng hộ
của từ Quốc Hội để mua chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp, cách định giá những tài
sản này sẽ ảnh hưởng đến tình hình thanh khoản tại tổ chức tài chính châu Âu.

Những nước dễ chịu ảnh hưởng nhất là Ireland, Anh và Tây Ban Nha, một vài nước
Đông Âu và một số nước đang phát triển.

Nga là tâm điểm chú ý hiện nay, giá dầu đang trong xu thế giảm và các ngân hàng
ngập chìm trong khủng hoảng, áp lực đối với ngành tài chính Nga ngày một tăng. Nếu
người Nga bán số tài sản họ đang nắm tại các công ty Mỹ, đồng USD sẽ suy yếu và chi
phí ứng cứu ngành tài chính sẽ còn tăng cao hơn.

Một số nước khác như Trung Quốc có tiềm lực tài chính tốt hơn. Nhưng ngay tại đây,
tăng trưởng kinh tế cũng đang chững lại bởi thương mại xuất khẩu giảm. Nếu kinh tế
Trung Quốc tiếp tục đi xuống, nhà đầu tư Trung Quốc có thể sẽ bán số tài sản họ đang
nắm tại Mỹ.

USD gần đây không thay đổi quá bất thường ngay cả khi biến động trên phố Wall hết
sức tệ hại, đây là dấu hiệu cho thấy nhà đầu tư nước ngoài vẫn chưa mất hoàn toàn lòng
tin vào Mỹ. Điều này đồng thời cũng phản ánh trên thế giới hiện nay thật ra có không
nhiều nơi đầu tư an toàn.

III. Ảnh hưởng tới Việt Nam:

Theo các chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã lan ra khắp toàn cầu,
từ châu Âu, Mỹ Latinh, Trung Đông, Nga, châu Á và việc ảnh hưởng đến nền kinh tế
Việt Nam là điều không thể tránh khỏi.

Vấn đề khó khăn kinh tế Việt Nam ở một mức nhất định khá giống Mỹ: tiêu nhiều
hơn có (ngân sách thiếu hụt lớn, có thể là 6%), xuất ngày càng thấp hơn nhập (thiếu hụt
lớn tới 10% GDP), giá địa ốc lên tới trời. Đáng lẽ thiếu thanh khoản như Mỹ, nhưng do
đầu tư tài chính nước ngoài đổ vào nên làm lạm phát tăng mạnh, đồng tiền thay vì mất giá
như ở Mỹ lại lên giá, càng làm cho thiếu hụt cán cân thanh toán lớn hơn và các mất cân
đối phình to thêm. Việc tăng giá đồng tiền Việt là điều khó tránh, nó giúp giảm áp lực
lạm phát nhưng nó không thể là công cụ thị trường đưa nền kinh tế đến chỗ tự cân đối
như ở Mỹ. Bởi vì các mất cân đối lớn về ngân sách và xuất nhập khẩu là do bàn tay nhà
nước tạo ra, nằm ngoài sự điều động của thị trường. Thu hút dòng vốn nước ngoài vào có
tác dụng như đổ thêm dầu vào lửa khi cơ chế không có khả năng xử lý. Có lẽ một cơ hội
nữa lại bị bỏ lỡ chăng? Và điều này không phải do chính sách thù nghịch của nước ngoài
gây ra.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 18 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Trong khi đó thị trường chứng khoán Việt Nam hôm 17/09 giảm sâu xuống gần 450
điểm. Các chuyên gia tài chính cho rằng những chấn động của thị trường tài chính Mỹ và
thế giới phần nào có ảnh hưởng tới sự giảm sút này. Một điều khá chắc chắn là khủng
hoảng tài chính Mỹ sẽ khiến các luồng đầu tư trên thế giới bị ảnh hưởng, trong đó có Việt
Nam. “Các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ khó huy động vốn hơn, hoặc họ sẽ có xu hướng
thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi những thị trường lớn của họ đang có vấn đề”,
ông Trịnh Hoài Giang, phó giám đốc công ty Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh nhận định.

Ngay cả đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy không ảnh hưởng trực tiếp bởi những diễn biến
trên thị trường tài chính, cũng có thể sẽ bị tác động một khi kinh tế đình trệ và đầu tư bị
cắt giảm toàn cầu.

Luồng tiền đầu tư nóng vào VN cũng có thể bị ảnh hưởng. Đầu năm nay, tổng lượng
tiền đầu tư nóng (tiền gửi bằng ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài vào hệ thống ngân
hàng trong nước) là khoảng 4 tỉ USD. Hiện nay, luồng tiền này được cho rằng đang ở
mức 8 tỉ USD. Các chuyên gia tài chính nhận định luồng tiền này có khả năng sẽ chảy
ngược ra nếu tình hình tài chính thế giới tiếp tục xấu đi. Trái phiếu Việt Nam có khả năng
bị bán ra nhiều hơn mua vào, có khả năng đồng tiền Việt Nam sẽ giảm giá so với USD.
Hôm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã tăng cường bán trái phiếu, trong khi trong nước
mua vào.

Tuy nhiên, những thay đổi của chỉ số VN-Index thường không liên quan trực tiếp đến
những thay đổi của các thị trường chứng khoán quốc tế. Chỉ số VN-Index được cho là sẽ
“dập dình” giữa 400 – 500 điểm. “Lãi suất ngân hàng sẽ vẫn là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến chỉ số chứng khoán”, ông Nguyễn Trung Hà, chủ tịch hội đồng quản trị công ty
chứng khoán Thiên Việt phân tích. “Lãi suất giảm, chỉ số VN-Index sẽ giữ hoặc tăng nhẹ.
Lãi suất giữ ở mức hiện nay, chỉ số sẽ đi xuống”.

Khả năng lãi suất ngân hàng tiếp tục giảm là rất thấp, mặc dù ngân hàng Nhà nước đã
có chỉ đạo sẽ tăng lãi suất cho phần vốn dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại.
Với mức lãi suất tiền gửi cao như hiện nay, các ngân hàng khó có thể giảm lãi suất cho
vay. Thay đổi đáng kể về lãi suất chỉ có thể xảy ra nếu ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất
cơ bản. Và hiện nay chưa có dấu hiệu cho thấy ngân hàng Nhà nước sẽ đi theo hướng đó.

Tóm lại "Cuộc khủng hoảng thế kỷ" của nền kinh tế Mỹ rõ ràng đã và đang tác động
mạnh mẽ đến nền kinh tế trên thế giới, kéo theo đó là các cuộc khủng hoảng với quy mô
rộng trên thị trường chứng khoán, bất động sản, tài chính, tín dụng... đang có nguy cơ
bùng nổ. Tuy nhiên các chuyên gia kinh tế nhận định: Cuộc khủng hoảng mới chỉ tác
động ở một mức độ chậm chưa đủ mức có thể làm "khuynh đảo" đối với nền kinh tế Việt
Nam.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 19 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Chương IV: Giải pháp và bài học cho Việt Nam

I. Về giải pháp và tương lai kinh tế Mỹ:

Làm thế nào để giải quyết? Có thể nói đây là cuộc khủng hoảng dường như ngày
càng trầm trọng hơn, nhưng không ai rõ nó tiếp tục vỡ bùng thêm ở chỗ nào, vì bản thân
của vấn đề là mới và vì như đã nói, các “sáng tạo tài chính” không nằm trong tầm phải
minh bạch trong báo cáo tài chính, và do đó nằm ngoài tầm kiểm soát và hiểu biết của các
cơ quan điều hành thị trường tài chính như Cục Dự trữ Liên bang.

Vào tháng 1 năm 2008,Tổng thống Bush, nhiều ứng cử viên tổng thống, nhiều
nghị sĩ gần như đồng thanh phải nhanh chóng bỏ ra khoảng 150 tỷ đô la để giảm thuế,
nhằm tăng tiêu dùng, giảm bớt khả năng suy thoái. Đây thực ra chỉ là hành động mị dân,
vỗ về dân chúng. Số tiền này chỉ là liều thuốc bổ cho người bị sốt rét. Lý thuyết kinh tế
của hai nhà kinh tế lớn là Milton Fridman (bảo thủ) và Franco Modigliani đã chứng minh
rằng (và được nhiều lần kiểm nghiệm) là tiêu dùng là phương trình của thu nhập được coi
là vĩnh viễn (permanent income). Khuynh hướng của người tiêu thụ là không tiêu nhiều
thu nhập nhất thời. Do đó chi tiêu như trên sẽ không có kết quả. Cái có kết quả là giảm lãi
suất, là chi đầu tư của nhà nước. Mà hai thứ trên thì cần thời gian mới có tác dụng. Và
chưa chắc nó đã liều thuốc đúng, Mỹ đang cần tiền từ các nước, giảm lãi suất sẽ giảm sức
hút tiền vào Mỹ, đồng thời đẩy mạnh thêm lạm phát, hiện nay đã lên trên 4% năm. Vấn
đề là Mỹ đang tiêu xài nhiều hơn cái họ có. Các giải pháp ngắn hạn và cả suy thoái cũng
không thể giải quyết được vấn đề dài hạn này.

Nếu chỉ tính là số chứng khoán dưới chuẩn là 2.000 tỷ thì việc bỏ ra 700 tỷ để nhà
nước mua nhằm nâng giá chúng lên là hết sức phức tạp, vì nếu không nâng lên giá cũ thì
tất nhiên phải có người mất. Nó đặt ra vấn đề cứu ai, ở giá nào và cứu như thế nào khi
chứng khoán phản ánh giá trị tổng hợp của nhiều món nợ vay của nhiều người và ở nhiều
địa phương khác nhau. Và tại sao những người đầu tư rủi ro làm giầu lại được nhà nước
bỏ tiền cứu? và họ phải trả giá như thế nào? Việc tìm ra 700 tỷ để xử lý vấn đề trên cũng
là vấn đề. In tiền sẽ tạo ra lạm phát. Phát hành trái phiếu nhà nước cũng sẽ đẩy lãi suất
lên, tạo thêm khó khăn cho kinh tế và đồng thời phải tăng thuế để chi trả. Nhưng đây là
vấn đề ngắn hạn. Số chứng khoán vay nợ nhà dưới chuẩn mất giá cũng làm toàn bộ các
loại chứng khoán xuất phát khác không bảo chứng (derivatives), gấp 7 lần số chứng
khoán nợ mua nhà, mất giá. Người ta chưa bàn rõ việc xử lý các loại chứng khoán xuất
phát khác này, có lẽ vì đánh gía cứu loại này sẽ cứu loại kia. Nhưng vấn đề vẫn là làm

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 20 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

sao lấy lại lòng tin, mà như hiện nay thì khó, và cũng chỉ ngắn hạn vì những yếu kém cơ
bản của kinh tế Mỹ chưa được giải quyết.

Đề nghị lập một công ty mua nợ với số vốn nhà nước bỏ ra có thể lên tới 700 tỷ
đã bị Quốc hội Mỹ bác. Nhiều đại biểu đã bỏ phiếu như thế vì cuộc tranh cử sắp tới; 18
trong 21 đại biểu Đảng Cộng hòa, và 12 trên 15 đại biểu Đảng Dân chủ gặp khó khăn
trong lần tranh cử lại lần này đều chống, vì dự luận dân Mỹ chống lại việc cứu các đại gia
giầu có phố Wall, “xã hội hoá” làm ăn thất bát của tư nhân. Nếu không thông qua nổi giải
pháp trên, Fed vẫn có thể dễ dàng in tiền, cho vay những công ty làm ăn tốt nhưng có thể
phá sản, và sau đó thu hút tiền về bằng phát hành tín phiếu. Những công ty nào dù được
vay vẫn phá sản thì nhà nước có thể phát mãi tài sản. Có thể giải pháp này đơn giản hơn,
nhưng có thể không tạo lại nhanh chóng thị trường chứng khoán mất giá.

Tình hình kinh tế Mỹ đã từ lâu có những yếu kém cơ bản chưa được giải quyết.
Đó là tiêu quá cái mình có. Dân chúng không có để dành, thậm chí nhiều năm âm. Số nợ
của hộ gia đình lên tới 139% thu nhập năm. Chính phủ Mỹ cũng chi quá nhiều so với thu,
thiếu hụt năm 2008 sẽ lên tới 410 tỷ, chủ yếu vì cuộc phiêu lưu vào Iraq.

Nói chung, nền kinh tế Mỹ tiêu quá nhiều, do đó phải dựa vào vay mượn nước
ngoài. Hàng năm, nền kinh tế Mỹ phải vay nợ nước ngoài, trên 300 tỷ từ năm 2000 và
tăng dần lên mức 700 tỷ năm 2006 và 800 tỷ năm 2007. Thế giới đổ tiền vào Mỹ vì tin
tưởng vào sự ổn định của nền kinh tế Mỹ. Nếu tư bản nước ngoài rút ra, đồng đô la sẽ
xuống giá mạnh và các nước sẽ gặp khó xuất khẩu vào Mỹ để phát triển. Điều này không
chóng thì chày sẽ xảy ra vì nước Mỹ không thể nhập khẩu tư bản mãi mãi.

Cuộc khủng hoảng hiện nay làm rúng động mạnh nước Mỹ và tất nhiên là nhiều
nước có đầu tư vào Mỹ vì nó ảnh hưởng mạnh đến nguồn tư bản tài chính cần cho hoạt
động sản xuất phi tài chính. Nhiều ngân hàng ở Mỹ đang thi nhau phá sản vì dân chúng
mất tin tưởng rút tiền ra. Fed hiện nay kiếm cách chữa cháy, nhưng giải pháp có thể có
ảnh hưởng nguy hại lâu dài. Thí dụ, Fed đã nhanh chóng cho phép những quĩ đầu tư rủi
ro bỏ tiền vào ngân hàng, có thể sở hữu đến 30% cổ phiếu mà không bị coi là công ty
mẹ/con và do đó không phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Điều này cũng có thể trở nên
ngòi nổ cho khủng hoảng trong tương lai, khi mà sở hữu chủ lạm dụng nắm ngân hàng rồi
tự cấp tín dụng cho mình. Đây cũng là vấn đề đang đặt ra cho nhà nước Việt Nam hiện
nay, cho phép công ty phi tài chính lập và nắm ngân hàng.

II. Thế giới chung tay giải cứu thị trường tài chính:

Cuối tuần qua, khi Nhóm các nước công nghiệp (G7) nhóm họp tại Washington,
nhóm 20 nước thành viên IMF (G20) chiếm tới 85% nền kinh tế toàn cầu cũng có cuộc
họp tại thủ đô của Mỹ và đạt được thỏa thuận trong việc sử dụng “mọi công cụ kinh tế và
tài chính” để ổn định hệ thống tài chính trên toàn thế giới.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 21 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Các nhà lãnh đạo thuộc 185 thành viên của IMF phê chuẩn “Kế hoạch hành động”
5 điểm của G7 với hi vọng có thể thu hút được sự ủng hộ rộng rãi nhằm trấn an giới đầu
tư trên toàn thế giới.

Bộ trưởng Tài chính Ai Cập Youssef Ghali, người đang giữ ghế Chủ tịch Ủy ban
Chính sách của IMF, khẳng định rằng 185 thành viên, bao gồm những nền kinh tế mới
nổi và các nước đang phát triển đều ủng hộ “Kế hoạch hành động” của G7.

Tổng Giám đốc IMF, ông Dominique Strauss Kahn cũng tuyên bố ủng hộ nỗ lực
của G7 và gọi đây là “sự hợp tác đầu tiên giữa những nước tiên tiến và phần còn lại của
thế giới”.

Được hỏi liệu kế hoạch của G7 đã đủ chưa, ông Strauss Kahn nói: “Trong những
ngày tới, điều tôi mong chờ là phản ứng của các định chế tài chính khác”.

Tổng thống Mỹ George Bush cũng kêu gọi sự hợp tác xuyên lục địa để ứng phó
với những diễn biến ngày càng xấu trên thị trường tài chính.

Ngày 12/10, lãnh đạo 15 nước sử dụng đồng tiền chung euro và Anh quốc đã
không nghỉ cuối tuần như thường lệ mà gặp nhau tại Pháp để thảo luận những biện pháp
khẩn cấp mới nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của các ngân hàng trong cơn bão tài chính đang
ngày càng trầm trọng.

Thủ tướng Đức Angela Merkel và Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy tuyên bố
hợp tác là vấn đề sống còn để ngăn chặn khủng hoảng tài chính, nhưng mỗi quốc gia
cũng nên có những biện pháp linh hoạt riêng để đối phó. Ngoài việc bày tỏ sự ủng hộ đối
với kế hoạch của G7, các lãnh đạo tham dự cuộc họp khẩn cấp còn đề xuất giải pháp cụ
thể để nhanh chóng ổn định tình hình của mỗi quốc gia.

Sau cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Bush và Bộ trưởng Tài chính các nước tại
Washington, Tổng giám đốc IMF Strauss Kahn cảnh báo rằng hệ thống tài chính thế giới
đang đứng bên “bờ vực của sự đổ vỡ hệ thống”. Chỉ riêng các phiên giao dịch trong tuần
qua, bão tài chính đã làm bốc hơi khoảng 4.600 tỷ USD giá trị chứng khoán trên thế giới.

Tuy nhiên, người đứng đầu IMF còn cảnh báo rằng chứng khoán thế giới có thể
tiếp tục tuột dốc thêm 20% trong những ngày tới nếu các chính phủ không ban hành ngay
những biện pháp cụ thể để ngăn chặn khủng hoảng.

Về vai trò của IMF, ông Strauss Kahn khẳng định định chế tài chính này có đủ
nguồn lực để hỗ trợ cho bất kỳ quốc gia nào rơi vào khủng hoảng. Cách đây ít ngày, ông
Strauss Kahn từng cho biết IMF sẵn sàng giải ngân 200 tỷ USD cho những nền kinh tế
gặp khó khăn về tài chính. Theo Tổng giám đốc IMF, giải pháp của các nền kinh tế lớn
nhất thế giới như bơm tiền vào hệ thống tài chính, cắt giảm lãi suất ngân hàng chưa đạt
được mục tiêu ổn định thị trường và củng cố lòng tin của nhà đầu tư. Vì thế, theo ông
Strauss Kahn, các quốc gia và định chế tài chính khác cần có thêm nhiều biện pháp trong
những tháng tới.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 22 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

III. Pháp, Đức thống nhất chống khủng hoảng tài chính:

Tại họp báo chung sau cuộc hội đàm ngày 11/10, Tổng thống Sarkozy khẳng định
Pháp và Đức có cùng quan điểm trong việc đối phó với khủng hoảng tài chính.

Ông Sarkozy cho biết, Pháp và Đức sẽ đưa ra những kiến nghị chung nhằm giải
quyết cuộc khủng hoảng hiện nay tại cuộc họp của 15 nước thành viên khu vực đồng tiền
chung Euro.

Tổng thống Pháp cho rằng, sau khi các nước khu vực đồng tiền chung Euro thống
nhất ý kiến, toàn bộ châu Âu nên cùng chia sẻ quan điểm.

Trong lúc đó, Thủ tướng Merkel cho rằng, châu Âu nên chấp nhận các biện pháp
đồng bộ nhằm đối phó với khủng hoảng nhưng tiếp tục bác bỏ việc thành lập một quỹ
cứu trợ khẩn cấp chung của cả EU.

Theo bà Merkel, các nước nên có những giải pháp riêng dựa trên tình hình kinh tế
của nước mình nhưng phải đồng bộ với các biện pháp chung của cả châu Âu.

Tổng thống Sarkozy ủng hộ ý kiến của Thủ tướng Đức và cho rằng một quỹ cứu
trợ chung sẽ chỉ tạo ra “những rắc rối khổng lồ” trong khi việc đồng bộ các giải pháp là
cần thiết hơn.

Theo kế hoạch, ngày hôm nay, 12/10, hội nghị của các nước khối đồng tiền chung
Euro sẽ nhóm họp tại Paris, nhằm vạch ra những giải pháp khẩn cấp ứng phó với khủng
hoảng tài chính đang ngày càng tồi tệ tại châu Âu.

IV. Nhật Bản: Các biện pháp đối phó với tình hình bất ổn tài chính:

Tại thị trường chứng khoán Tokyo, khoảng cách giá các cổ phiếu đã thu hẹp hơn
vào ngày 9/10, phản ánh những diễn biến lẫn lộn của các nhà đầu tư về tình hình tài chính
và kinh tế hiện nay

Các nhà đầu tư đã lựa chọn các cổ phiếu của ngân hàng và các công ty chứng
khoán trong khi bán ra các cổ phiếu lẻ. Chỉ số Topix của tất cả các cổ phiếu trong phiên
giao dịch đầu tiên đứng ở mức 905, tăng 6 điểm so với lúc đóng cửa ngày trước đó. Chỉ
số Nikkei trung bình của 225 mã rớt 45 điểm xuống sát đáy 9.157.

Mặc dù có lo ngại của các nhà đầu tư về kinh tế thế giới sụt giảm, tính lạc quan
vẫn lan rộng sau khi Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry Paulson cho biết quỹ công cộng có
thể được đầu tư cho các tổ chức tài chính. Nguồn tin thị trường cho biết các nhà đầu tư
đang chờ đợi khoản cứu trợ này được thực hiện như thế nào cũng như kết quả của Hội
nghị bộ trưởng Tài chính và thống đốc ngân hàng nhóm các nước công nghiệp phát triển
G7 diễn ra tại Washington ngày 10/10.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 23 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Trước những bất ổn trên thị trường tài chính Mỹ và châu Âu đang diễn ra khó
lường, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) tiếp tục “bơm” một khoản tiền kỷ lục trị
giá 4.000 tỷ yên (khoảng 40 tỷ USD) ra thị trường tiền tệ ngắn hạn nhằm giúp các tổ chức
tài chính huy động vốn. Các tổ chức tài chính nước ngoài và ngân hàng địa phương Nhật
Bản đang trong thời điểm khó khăn về vốn do thị trường lo ngại rằng sẽ có nhiều ngân
hàng có thể bị phá sản trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đây là ngày thứ 17
liên tiếp BOJ có hành động cứu trợ khẩn cấp kể từ khi Ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của
Mỹ, Brothers Lehman tuyên bố phá sản và làn khoản cứu trợ lớn nhất được BOJ tung ra
kể từ tháng 3/2006. 6 ngân hàng trung ương của Mỹ và châu Âu cũng đã đồng loạt cắt
giảm lãi xuất trong nỗ lực hành động nhằm giảm nhiệt của cuộc khủng hoảng tín dụng
toàn cầu.

Thủ tướng Nhật Bản Taro Aso cũng đã chỉ thị cho các quan chức cấp cao phe cầm
quyền đề ra các biện pháp kinh tế cả gói mới nhằm giải quyết khủng hoảng tài chính thế
giới đang lan rộng. Ông Aso nhấn mạnh rằng Quốc hội cần thông qua ngân sách bổ sung
sớm để vực dậy kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên kế hoạch này vẫn chưa đủ để đối phó với
khó khăn kinh tế đất nước hiện nay vì chúng được đưa ra trước khi khủng hoảng tài chính
Mỹ xảy ra. Các biện pháp mới nhằm giúp hỗ trợ các nhà xuất khẩu giải quyết khó khăn
do đồng yên tăng giá và kích thích nội nhu. Các biện pháp mới cần được đưa ra trước
ngày 24/10 khi các lãnh đạo châu Á và Âu gặp nhau tại Bắc Kinh.

Trong khi đó đảng Dân chủ đối lập lớn nhất Nhật Bản (DPJ) cũng có kế hoạch
đưa ra chính sách kinh tế cả gói của mình. Phó chủ tịch DPJ Nato Kan cho biết đảng của
ông sẽ sớm hoàn thành các biện pháp kinh tế cả gói nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng
hiện nay. Phát biểu trước giới báo chí, ông Kan cho biết chính sách này sẽ bao gồm nâng
cao khả năng bảo đảm tín dụng ngân hàng từ khoản 10 triệu yên, tương đương với 99.000
USD đồng thời xây dựng điều luật nhằm cho phép chi quỹ công cộng cho các tổ chức tài
chính như một bước đi nhằm ổn định thị trường tài chính tại Nhật Bản./.

V. Sáu nhóm giải pháp tránh khủng hoảng tài chính:

Tham dự Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ hai (19-20/9, tại Hà Nội), Thứ
trưởng Tài chính - Trần Xuân Hà cho rằng, để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính
hiện nay, sẽ thực hiện 6 nhóm giải pháp quan trọng để tránh khủng hoảng tài chính có thể
xảy ra đối với Việt Nam.

Tiếp tục thắt chặt chính sách tài chính - tiền tệ

Theo Thứ trưởng Trần Xuân Hà, trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế vĩ mô
đã có những chuyển biến và cải thiện rõ nét. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng 8 tháng đầu năm
2008 so với 8 tháng đầu năm 2007 tăng 22,14% nhưng tốc độ tăng giá trong những tháng
gần đây đã chậm lại.

Tháng 7 chỉ tăng 1,13% so với tháng 6; tháng 8 tăng 1,56% so với tháng 7 nhưng
chủ yếu là do ảnh hưởng chính của chính sách tăng giá xăng dầu vào cuối tháng 7 để
giảm bù lỗ ngân sách và khuyến khích sử dụng tiết kiệm xăng dầu.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 24 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Về cán cân thương mại, mặc dù trong 8 tháng đầu năm mức thâm hụt đã lên đến
16 tỷ USD nhưng mức thâm hụt đã giảm hẳn qua các tháng (tháng 7 và 8, thâm hụt
khoảng 800-900 triệu USD).

Nguồn kiều hối chuyển về trong nước vẫn tiếp tục đà tăng mạnh từ các năm trước
và khá ổn định (đạt khoảng 4,5 tỷ USD nửa đầu năm 2008) cũng đã hỗ trợ lớn tài khoản
vãng lai không bị thâm hụt nặng như cán cân thương mại.

Về tài khoản vốn, nguồn tài trợ cho thâm hụt tài khoản vãng lai thông qua vốn
FDI, ODA; tiền gửi ngoại tệ và đầu tư gián tiếp khá dồi dào và ổn định. Tổng số vốn đầu
tư nước ngoài đăng ký trong 8 tháng đầu năm 2008 đã đạt trên 47 tỷ USD với số vốn thực
hiện đạt khoảng 7 tỷ USD. Vốn ODA đã ký kết trong 8 tháng đạt 1,7 tỷ USD với số vốn
giải ngân đạt 1,3 tỷ USD.

Theo ông Hà, trong những tháng cuối năm 2008 và năm 2009, các ngành, lĩnh
vực sản xuất kinh doanh vẫn sẽ còn chịu tác động đáng kể từ chính sách thắt chặt tiền tệ,
chính sách giảm chi tiêu công…

Sáu nhóm giải pháp tránh khủng hoảng tài chính

Để tránh sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và tránh cuộc khủng
hoảng tài chính xảy ra đối với Việt Nam, Bộ Tài chính đưa ra 6 nhóm giải pháp quan
trọng.

Thứ nhất, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tài chính - tiền tệ
thắt chặt để thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; trong đó, đặc
biệt chú trọng đến việc sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc và các
công cụ thị trường mở cùng với cắt giảm chi đầu tư công, bao gồm cả việc kiểm soát chặt
chẽ đầu tư của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.

Chính phủ sẽ tiếp tục kiên trì thực hiện chính sách giá cả theo cơ chế thị trường,
linh hoạt theo lộ trình phù hợp để kiểm soát giá các mặt hàng thiết yếu.

Thứ hai về thị trường tài chính, tín dụng, thị trường chứng khoán, quan điểm quản
lý nhà nước là không can thiệp trực tiếp vào thị trường mà tập trung vào thực hiện chức
năng tăng cường kiểm tra, giám sát hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính để tránh
rủi ro hệ thống và khủng hoảng tài chính; tiếp tục thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, xem xét thời điểm phù hợp của các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu của các
Tổng cty, tập đoàn kinh tế lớn cùng với việc đẩy mạnh tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả và
khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.

Thứ ba, đối với thị trường bất động sản, tập trung nâng cao chất lượng tín dụng
bất động sản thông qua việc kiểm soát quy trình, giám sát nghiêm việc cho vay bất động
sản của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 25 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Thứ tư, giải quyết hợp lý bài toán nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần được
coi là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa chiến lược đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời
gian tới.

Về đầu tư công, trong thời gian tới cùng với nỗ lực cơ cấu lại chi tiêu công, tập
trung cho an sinh xã hội, Chính phủ sẽ tiếp tục điều chỉnh lại cơ cấu chi đầu tư phát triển,
trong đó tập trung vào khu vực nông nghiệp và nông thôn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
kết hợp với khu vực tư nhân nhưng tránh đầu tư chồng chéo vào những khu vực tư nhân
có thể tự đầu tư và thu hồi vốn.

Thứ năm, tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp là yếu tố
cơ bản và gốc rễ của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững; trong đó, các doanh
nghiệp cần chủ động, tích cực trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro về tỷ
giá-lãi suất...

Vai trò thúc đẩy, hỗ trợ của Nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực hỗ trợ nguồn
vốn tín dụng, hỗ trợ khoa học, công nghệ cơ bản; hỗ trợ cung cấp và đào tạo nguồn nhân
lực; hệ thống thông tin thị trường và cơ sở hạ tầng.

Cuối cùng, cần đẩy mạnh cải cách hành chính là điều kiện quan trọng trong việc
góp phần phát triển sản xuất, tăng cung và điều hoà thị trường trong nước; tăng cường
pháp chế, chống tham nhũng và đảm bảo thực thi pháp luật nghiêm để tăng uy tín của
Chính phủ.

Việc bảo đảm hệ thống hành chính hoạt động có chất lượng và hệ thống pháp luật
thực thi có hiệu quả có thể được coi là cú hích quan trọng để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, đảm bảo cơ chế thị trường vận hành hiệu quả. Góp phần đưa nền kinh tế thoát
khỏi tình trạng khó khăn và hướng tới quỹ đạo phát triển bền vững.

VI. Bài học cho Việt Nam từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ:

Rất nhiều nhà làm chính sách Việt Nam đã cổ võ thái quá cho một nền kinh tế thị
trường tự do bởi vì họ nghĩ nó sẽ tự điều chỉnh, chẳng cần gì đến vai trò của nhà nước.
Tập đoàn kinh tế là một ví dụ của sự tự do đó. Các tập đoàn này quên rằng mình là do
nhà nước, tức là dân sở hữu, cứ tưởng là chỉ cần giữ vững mục tiêu làm ra lợi nhuận là đủ
rồi. Lãnh đạo ngồi ghế chỉ một thời gian ngắn nên lợi nhuận cần đạt cũng phải được thực
hiện nhanh chóng, bất kể những gì có thể xảy ra sau đó. Thế là họ tự do tung hoành đầu
tư vào nhà đất, chứng khoán, ngân hàng, dù mục tiêu mà tập đoàn được lập ra có thể là
sản xuất điện, vận tải biển, v.v. vì họ biết rõ những hoạt động này chỉ cần thân quen, lại
được bật đèn xanh ở trên nên nguồn tín dụng không phải là điều cần quan tâm. Kết quả
mới chỉ là lạm phát cao, đánh vào đời sống của dân nghèo, chứ chưa đến mức khủng
hoảng trầm trọng đến các đại gia như ở Mỹ hiện nay. Và cũng may là tình trạng lạm phát
phi mã vừa qua đã làm nhiều người tỉnh ngộ. Vấn đề thiết lập một hệ thống kiểm tra hữu
hiệu và thường xuyên tài chính của cả ngân hàng và doanh nghiệp quốc doanh lớn cần
được nhanh chóng đặt ra. Hệ thống này cần đòi hỏi các ngân hàng và doanh nghiệp công
bố trên mạng bản báo cáo tài chính, cũng như các chỉ tiêu hoạt động cơ bản theo qui định

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 26 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các thông số này. Chỉ có thế Việt Nam mới hy
vọng không phải bắt chước Mỹ xã hội hoá thất bại của tư nhân, để còn sức chấm dứt việc
xã hội hoá trách nhiệm của nhà nước.

Tình trạng coi như phá sản của AIG (nếu chính phủ Mỹ không nhảy vào cứu
nguy), là điển hình của các thói tham lam, bỏ ngành chuyên môn của mình, tức là bảo
hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, các hoạt động có hệ thống kiểm tra chặt chẽ của cơ quan
chuyên môn, để xông vào đánh bạc, bảo hiểm các chứng khoán rác. Bảo hiểm loại này
cam đoan giá chứng khoán ghi trên hợp đồng, dù chứng khoán rác này mất hết giá trị.
AIG tưởng rằng giá nhà sẽ lên mãi mãi. Không những thế để tăng lợi nhuận, vì tưởng
rằng tình hình kinh tế sẽ tốt đẹp mãi, AIG cũng bảo hiểm nhiều loại giấy nợ mang tính rủi
ro cao khác.

Đúng là chính sách của nhà nước Mỹ cho đến vừa qua là tạo mọi cơ hội để các
nhà đầu tư mang tính rủi ro cao làm giầu nhanh chóng mà không cần có một hệ thống
kiểm tra nào cả, và khi chúng gặp thất bại thì bắt toàn bộ xã hội chia sẻ. Đây mới là chính
sách xã hội hoá “thất bại của tư sản” theo đúng nghĩa của từ này. Dân chúng Mỹ chỉ có
thể hiểu được sự cần thiết của hành động xã hội hoá này nếu như hệ thống tài chính có
khả năng lớn bị sụp đổ. Nhưng chính vì tự hỏi như thế, câu hỏi mà nhiều nguời, trong đó
có tôi, cũng phải đối mặt là: vậy thì khả năng chi trả của hệ thống ngân hàng hiện nay
như thế nào?

Chính vì sự lo sợ trên mà thị trường chứng khoán rớt giá mạnh thêm, gần 450
điểm chiều hôm 17/9. Khả năng chi trả của chính các ngân hàng Mỹ hiện nay đang bị đặt
thành vấn đề. Đây mới là vấn đề lớn. Các công ty tài chính so với hệ thống ngân hàng
thương mại, dù là nói quá một tý, chỉ giống như mảnh băng cứu thương dán trên lưng con
voi. Thông tin hiện nay về tình hình tài chính ở Mỹ và trên thế giới liên quan đến ai nắm
chứng khoán rác bao nhiêu rất mù mờ, và giá trị của chúng cũng không rõ. Mọi người do
đó phải tìm chỗ trú an toàn. Họ rút tiền ra khỏi các loại quỹ đầu tư gián tiếp. Chỉ trong
ngày thứ hai vừa rồi, đã có 11 tỉ rút ra các quĩ đầu tư tài chính (7 tỉ là ở Mỹ và 4 tỉ ở các
nước khác). Số rút vẫn còn ít, nhưng đây có thể là dấu hiệu cho cuộc tháo chạy lớn hơn.

Tất nhiên tác giả không tin rằng thị trường tài chính sẽ sụp đổ vì, không như đại
khủng hoảng năm 1930, chính phủ Mỹ và chính phủ các nước bắt buộc phải can thiệp với
bất cứ giá nào. Nhưng như thế thì với số nợ chồng chất của nhà nước, thuế không thể
không tăng, lạm phát cũng vẫn có khả năng tăng, tốc độ phát triển kinh tế những năm tới
khó lòng khả quan.

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 27 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Kết luận

Cuộc khủng hoảng tài chính lần này xuất phát trước hết từ sự quản lý, giám sát lỏng
lẻo các ngân hàng trong việc cho vay dưới chuẩn cùng với long tham của thị trường .
Wall Street, vừa là nguyên nhân vừa là nạn nhân của chinh nó. Nói như chuyên mục kinh
tế của báo Lemonde thì “Wall street a fauté, Wall street doit payer” (Wall street phạm
lỗi thì Wall Street tự phải trả giá. Nhưng vì đó là định chế tài chính quá lớn nên nếu đổ sẽ
gây ra hiệu ưng domino đổ vỡ toàn cầu. Du rằng phải lấy thuế người dân nghèo để cứu
mấy anh nhà giàu thì việc đó rồi cũng phải làm. Nói như báo Economist “too big to fail”.

Các công cụ tài chính thông minh và tinh vi như nghiệp vụ chứng khoán hóa
(securization) là cần thiết để đáp ứng sự phát triển của ngân hàng. Các công cụ do con
người nghĩ ra và điều khiển. Nhưng không vì thề mà lợi dụng nó để gây ra nhưng hậu quả
khôn lường (phân tán rủi ro bằng cách che đậy trái phiếu bằng tầng tầng lớp lớp các quá
trình chứng khoán hóa, làm cho việc đinh rõ rủi ro nhiều khi là không thể) Các nhà đâu tư
cần hết sức cảnh giác với các sản phẩm tài chính phức tạp. Đó là điều cần thiết không chỉ
đối với người đầu tư nhỏ lẻ, mà cho cả các quốc già khi tham gia vào thị trường tài chính
thế giới

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 28 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

Mục Lục

Lời nói đầu…………………………………………………………………………1

Nội dung……………………….……………………………………………………2

Chương I: Lý thuyết về “khủng hoảng tài chính”………………………………… 2


I. Định nghĩa về khủng hoảng tài chính: ”…………………………………………….2
II. Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và
hậu quả của các cuộc khủng hoảng:……………………………………………3

Chương II: Nguyên nhân và diễn tiến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ……...…..5
I. Tại các chủ ngân hàng:……………………………………………………………...6
II. Tại cá nhân ông Alan Greenspan:………………………………………………….6
III.Tại các nhà môi giới bất động sản:…………………………………………………7
IV. Phân tích nguyên nhân:…………………………………………………………….7
V. Diễn tiến của cuộc khủng hoảng:………………………………………………..…9

Chương III: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế của Mỹ và thế giới
I . Ảnh hưởng tới nền kinh tế Mỹ:……………………………………………………..14
II. Ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu:………………………………………………..17
III.Ảnh hưởng tới Việt Nam:…………………………………………………………..18

Chương IV: Giải pháp và bài học cho Việt Nam……………………………………20


I. Về giải pháp và tương lai kinh tế Mỹ:………………………………………………20
II. Thế giới chung tay giải cứu thị trường tài chính:……………………………………21
III.Pháp, Đức thống nhất chống khủng hoảng tài chính:………………………………23
IV.Nhật Bản: Các biện pháp đối phó với tình hình bất ổn tài chính:…………………..23
V. Sáu nhóm giải pháp tránh khủng hoảng tài chính:…………………………………..24
VI.Bài học cho Việt Nam từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ:…………………………….26

Kết luận………………………………………………………………………………28

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 29 -


Tiểu luận Tài chính- Tiền tệ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


- KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG -

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Đề tài: Khủng hoảng tài chính Mỹ


2007- 2008

Nhóm sinh viên : Võ Trần Hùng


Hồ Vũ Linh
Đoàn Văn Tùng
Lớp : A4 TCQT B K46
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Chí Thọ

- Hà Nội 10/2008 -

Võ Trần Hùng- Hồ Vũ Linh- Đoàn Văn Tùng - 30 -

You might also like