Professional Documents
Culture Documents
Nguyễn Thị Tuyết Trang - Hệ thống chuyển tiền không chính thức - những tác động với hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
Nguyễn Thị Tuyết Trang - Hệ thống chuyển tiền không chính thức - những tác động với hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1 Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................1
2 Tình hình nghiên cứu...................................................................................2
2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới...........................................2
2.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu tại Việt Nam..........................................6
3 Mục đích nghiên cứu...................................................................................8
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................8
4.1 Đối tượng nghiên cứu...............................................................................8
4.2 Phạm vi nghiên cứu:.................................................................................9
5 Phương pháp nghiên cứu.............................................................................9
6 Kết cấu đề tài.............................................................................................10
NỘI DUNG.........................................................................................................11
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG
CHUYỂN TIỀN KHÔNG CHÍNH THỨC TRÊN THẾ GIỚI.........................11
1.1 Tổng quan hệ thống chuyển tiền không chính thức................................11
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản...............................................................11
1.1.2 Đặc điểm của hệ thống chuyển tiền không chính thức..................13
1.1.3 Vai trò của hệ thống chuyển tiền không chính thức......................14
1.2. .Hoạt động của một số hệ thống chuyển tiền không chính thức tại một số
quốc gia tiêu biểu trên thế giới......................................................................17
1.2.1 Hoạt động của hệ thống Hawala....................................................17
1.2.2 Hoạt động của hệ thống Hundi......................................................18
1.2.3 Hoạt động của thị trường chợ đen trao đổi đồng Peso..................20
1.3 Quy định pháp luật của một số nước trên thế giới đối với hệ thống
chuyển tiền không chính thức.......................................................................22
CHƯƠNG 2 HỆ THỐNG CHUYỂN TIỀN KHÔNG CHÍNH THỨC VÀ
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM...28
2.1 Tổng quan hoạt động chuyển tiền của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam...
.......................................................................................................................28
2.1.1 Cơ sở pháp lý về hoạt động chuyển tiền của hệ thống ngân hàng tại
Việt Nam....................................................................................................28
2.1.2 Hoạt động chuyển tiền trong nước................................................29
2.1.3 Hoạt động chuyển tiền quốc tế......................................................34
2.2 Hệ thống chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam............................44
2.2.1 Những quy định pháp lý liên quan đến hoạt động chuyển tiền
không chính thức........................................................................................44
2.2.2 Một số hình thức chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam và
tình hình hoạt động....................................................................................46
2.3 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức:...........................53
2.3.1 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với hệ
thống ngân hàng tại Việt Nam....................................................................53
2.3.2 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với
người sử dụng............................................................................................59
2.3.3 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với nền
kinh tế - xã hội...........................................................................................66
CHƯƠNG 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG VÀ CƠ CHẾ THỰC THI LIÊN QUAN ĐẾN HỆ THỐNG
CHUYỂN TIỀN KHÔNG CHÍNH THỨC TẠI VIỆT NAM..........................71
3.1 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam........................................................71
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện hoàn thiện hệ thống pháp luật...................73
3.3 Một số đề xuất giải pháp đối với cơ chế thực thi pháp luật liên quan đến
hệ thống chuyển tiền không chính thức........................................................75
3.3.1 Đối với chủ thể cung ứng dịch vụ.................................................76
3.3.2 Đối với Nhà nước..........................................................................80
3.3.3 Đối với chủ thể sử dụng................................................................82
KẾT LUẬN.........................................................................................................84
1. Đóng góp của đề tài..................................................................................84
2. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo....................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................86
PHỤ LỤC............................................................................................................90
PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU PHÍ....................................90
PHỤ LỤC 2: BẢNG KHẢO SÁT................................................................96
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng anh Tiếng việt
AML Anti Money Laundring Chống rửa tiền
App Application Ứng dụng
ARS Alternative Remittance Hệ thống chuyển tiền thay thế
Services
ASEAN Association of South East Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Asian Nations
ATM Automated Teller Machine Máy rút tiền tự động
BAFin German Financial Services Cơ quan Dịch vụ Tài chính Đức
Authority
BLHS: Bộ Luật Hình sự
BMPE Black Market Peso Exchange Thị trường chợ đen Peso
1 https://www.gso.gov.vn/
1
Theo số liệu Thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài thì
có hơn 4,5 triệu người dân Việt Nam đang sinh sống, học tập và lao động tại 103 nước
và Vùng lãnh thổ2. Đồng thời, theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) công
bố hồi tháng 4 năm 2018 cho biết, Việt Nam tiếp nhận 13,781 tỷ USD trong năm 2017,
tăng từ 11,88 tỷ USD năm 2016, 13,2 tỷ USD năm 2015 và 12 tỷ năm 2014 3. Các kênh
chuyển tiền hiện tại chủ yếu và phổ biến hiện nay vẫn là qua hệ thống ngân hàng
thương mại, các tổ chức chuyển tiền quốc tế như Western Union, Moneygram... Tuy
nhiên, bên cạnh hoạt động chuyển tiền của các hệ thống này cũng tồn tại một số hệ
thống không chính thức được hình thành tại Việt Nam dưới nhiều hình thức. Chẳng
hạn với dịch vụ chuyển kiều hối về Việt Nam, bên cạnh kênh chuyển tiền phổ biến
nhất là qua hệ thống ngân hàng thương mại (đạt khoảng 72,6% doanh số kiều hối
chuyển về nước), hệ thống chuyển tiền không chính thức đóng góp 28,4 % doanh số
kiều hối chuyển về nước 4. Các hệ thống không chính thức này được phát sinh từ sinh
hoạt truyền thống và thói quen hằng ngày mà người sử dụng thường chưa nhận định rõ
về cách thức hoạt động, hoặc thường nghĩ đến đó là hoạt động ngầm, phi pháp. Do đó,
vấn đề đặt ra là bản chất của hệ thống chuyển tiền không chính thức là gì? Đây có phải
là hệ thống bất hợp pháp hay không? Cơ chế điều chỉnh quan hệ này là gì? Những tác
động của nó đến hệ thống ngân hàng? Giải pháp xây dựng một khung pháp lý điều
chỉnh chặt chẽ đối với hệ thống chuyển tiền không chính thức?.
Với những lý do trên, nhóm tác giả chọn đề tài: “Hệ thống chuyển tiền không
chính thức – Những tác động đối với hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam” để làm đề
tài nghiên cứu. Nghiên cứu này nhằm làm rõ và sâu hơn các vấn đề liên quan đến hệ
thống chuyển tiền không chính thức cũng như các mặt ảnh hưởng của nó đến hệ thống
ngân hàng nói riêng, nền kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung.
2 Tình hình nghiên cứu
2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến hoạt động của hệ thống ngân
hàng nhưng riêng đối với vấn đề liên quan đến hệ thống chuyển tiền không chính thức
2 https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/hon-4-5-trieu-nguoi-viet-song-o-nuoc-ngoai-90272.html
3 Số liệu được nhóm tác giả tổng hợp và trích xuất từ báo cáo của WB được đăng tải trên trang
https://data.worldbank.org/indicator/BX.TRF.PWKR.CD.DT?
locations=VN&view=chart&fbclid=IwAR2AHAGI95mIgcEfZjG9N1DGy7eCJzi1IwLgTfQD5LfRfX2qOQmM
z3o_evw
4 http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/hut-kieu-hoi-truoc-ap-luc-giam-143945.html?
fbclid=IwAR0iO4Euq6iogvVfmfNQrmNwgEZUlcR9RbiW-nb0e1LMsL6GsLuW7_6qmZc
2
còn rất ít và mới mẻ. Tuy nhiên, một số bài nghiên cứu cũng đã đề cập đến việc phân
tích các khía cạnh của hệ thống chuyển tiền không chính thức, mà tiêu biểu là các bài
viết về hoạt động của hệ thống chuyển tiền không chính thức Hawala – hệ thống hình
thành lâu đời ở Trung Đông và Nam Á, ngày một phát triển rộng rãi, phổ biến. Những
công trình này bước đầu đã đặt nền tảng cho mối quan tâm của các nhà nghiên cứu,
đặc biệt là sự quan tâm của Nhà nước trong việc kiểm soát hệ thống chuyển tiền không
chính thức.
Nghiên cứu về vấn đề này ban đầu chỉ là những bài viết về tình hình hoạt động của
hệ thống chuyển tiền không chính thức bằng việc đánh giá các báo cáo và nguồn thông
tin công cộng. Có thể kể đến các báo cáo do Ban Thư Ký Khối thịnh vượng chung -
Commonwealth Secretariat (1998), Lực lượng Tài chính đặc nhiệm hành động – FATF
(1997, 1999) và Bộ Ngoại giao Hoa Kì (1997) đã tiết lộ những thông tin cơ bản về các
thuật ngữ “ngân hàng ngầm” – “underground banking”, các thông tin còn thưa thớt và
nhiều lỗ hỏng.
Bài nghiên cứu “Informal Value Transfer Systems and Criminal Organizations” –
Nikos Passas (tháng 4 năm 1999) – Bộ Tư pháp Hà Lan - “Hệ thống chuyển tiền
không chính thức và các tổ chức tội phạm”
Tác phẩm đã đưa ra khẳng định việc sử dụng thuật ngữ “hệ thống chuyển tiền
không chính thức” - "informal value transfer systems" (IVTS) là thích hợp hơn cho
mục đích nghiên cứu thay vì “ ngân hàng ngầm” - "underground banking". Đây là một
điểm nhấn quan trọng mà N.Passas đã đặt ra đầu tiên khi nghiên cứu về vấn đề này
bằng việc đưa ra định nghĩa cho thuật ngữ IVTS. Tác giả cũng đã nhận định quan
trọng rằng, hệ thống có nguồn gốc khá lành mạnh chứ không phải xuất hiện hoàn toàn
bởi sự bất ổn về chính trị, hay bắt đầu cho một sự vi phạm kiểm soát tiền tệ hay các
luật khác
Nghiên cứu đã đánh giá ưu điểm của hệ thống này đơn giản là vì dịch vụ của họ
nhanh hơn, rẻ hơn, và thuận tiện hơn hơn bất kỳ sự thay thế nào khác. Tác giả cũng
đưa ra đánh giá đầu tiên về những rủi ro của các hệ thống chuyển tiền không chính
thức. Đặc biệt, báo cáo cũng chỉ ra IVTS tạo thuận lợi cho việc phạm tội của các cá
nhân, tổ chức như: trốn thuế, hoạt động bí mật, tham nhũng, lừa đảo tài chính, khủng
bố, rửa tiền, cũng như buôn bán trái phép ma túy, vũ khí hoặc hàng hóa. Báo cáo cũng
cung cấp một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về pháp luật và các biện pháp thực tế được
3
thực hiện bởi một số quốc gia từ sự kết hợp các phân tích pháp lý và lịch sử với việc
phỏng vấn các nhà quản lý, cơ thực thi pháp luật và các chuyên gia học thuật.
Cuối cùng, báo cáo kết thúc với một loạt các vấn đề cải thiện quy định đối với lĩnh
vực ngân hàng chính thức mà chưa đề cập đến các cơ chế đối với kênh chuyển tiền
không chính thức.
Vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 09 năm 2001 đã rấy lên mối quan tâm đặc biệt
đến các vấn đề xoay quanh hệ thống chuyển tiền không chính thức. Từ đây, các nghiên
cứu liên quan đến hệ thống này được mở rộng và phổ biến rộng rãi với các khía cạnh
phân tích khác nhau.
Bài nghiên cứu “Informal Funds Transfer Systems: An Analysis of the Informal
Hawala System” – Mohammed El Qorchi (IMF), Samuel Munzele Maimbo (WB) và
John F. Wilson (IMF) (tháng 3/ 2003) - The World Bank and The International
Monetary Fund “Hệ thống chuyển tiền không chính thức: Phân tích hệ thống Hawala
không chính thức”
Bài viết này trình bày những phát hiện, phân tích và kết luận nghiên cứu về đặc
điểm hoạt động của hệ thống chuyển tiền không chính thức với thuật ngữ “Informal
Funds Tranfer Systems – IFTS” thay vì sử dụng thuật ngữ "hệ thống chuyển tiền thay
thế" - “alternative remittance systems”, "ngân hàng ngầm" - “underground banking”,
"ngân hàng dân tộc" - ethnic banking” và "hệ thống chuyển giá trị không chính thức” –
“informal value transfer system”. Lý do được đưa ra là vì đây là phương tiện bị chi
phối bởi chuyển khoản tài chính và bởi bản chất chuyển giao tài chính tương tự với
ngân hàng thông thường.
Cũng giống như các nghiên cứu trước, nhóm tác giả cũng nhận định Hawala được
sử dụng rộng rãi bởi các đặc điểm về tốc độ, tiện lợi, linh hoạt và tiềm năng về ẩn
danh. Các hệ thống có thể được sử dụng cho cả mục đích hợp pháp và bất hợp pháp,
bắt nguồn từ văn hóa khác nhau của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này,
tác giả bổ sung thêm phần tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với
nền kinh tế của một quốc gia như chính sách tiền tệ và trao đổi, chính sách tài khóa,
mất doanh thu Chính phủ, giảm thông tin có sẵn cho các nhà hoạch định chính sách.
Đặc biệt, điểm quan trọng trong vấn đề này, nhóm tác giả đã xây dựng và mô phỏng
được mô hình định lượng thị phần ước tính của Hawala trong việc nhận kiều hối trong
tổng số kiều hối của từng quốc gia. Mô hình định lượng được ước tính trên sự điều tra
4
nguồn dữ liệu của 15 quốc gia. Và kết luận rằng hầu hết các yếu tố này không dễ dàng
định lượng được.
Phân tích quan điểm về các quy định pháp lý đối với hệ thống Hawala, tác giả đánh
giá dựa trên hai quan điểm giữa nước nhận Hawala và nước thực hiện Hawala. các
nước này, mỗi nước có cách tiếp cận quy định khác nhau giữa đăng ký và cấp phép,
với các mức độ khác nhau của sự thận trọng trong bổ sung, thực thi pháp luật và chống
hoạt động rửa tiền.
Cuối cùng, nghiên cứu đóng góp đề xuất về việc đưa ra sự giám sát, quản lý đối với
hoạt động này dựa vào hoàn cảnh cụ thể của quốc gia và hệ thống pháp luật. Đồng
thời, phát triển ngành tài chính dài hạn, giải quyết tiềm năng rủi ro lạm dụng tài chính
và hoạt động tội phạm.
Bài nghiên cứu “Informal value transfer system, terorism and money laundering”
- Nikos Passas (tháng 11 năm 2003) – Bộ Tư pháp Hoa Kỳ - “Hệ thống chuyển tiền
không chính thức, khủng bố và rửa tiền”.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã phân biệt các loại hình IVTS và cách thức hoạt
động của IVTS. Mặc dù trọng tâm chính là về hawala, các phương pháp khác được mô
tả ngắn gọn để vẽ ra một bức tranh đầy đủ hơn về phạm vi IVTS và cung cấp một bối
cảnh chính xác trong đó chuyển giao giá trị xảy ra trên phạm vi quốc tế. Nghiên cứu
đưa ra các phân tích về các phương thức như Physical transportation – courier service
(dịch vụ vận tải vật lý); In-kind Payments (Thanh toán bằng hiện vật); Hawala and
Hundi.
Các vấn đề thách thức về thực thi pháp luật bắt nguồn từ hoạt động tự nhiên của
Hawala: Trong phần này, tác giả nghiên cứu về các khía cạnh liên quan đến trở ngại
thực thi pháp luật, và chỉ ra khó khăn bắt nguồn từ việc thiếu lưu giữ hồ sơ và những
khó khăn tiềm tàng trong việc giải mã hồ sơ; kết hợp các loại hình khác nhau đi kèm
(kết hợp với vàng, kim cương hoặc các giao dịch hàng hóa khác). Đồng thời, sự kết
hợp của các IVTS truyền thống dẫn đến cơ quan kiểm soát gặp phải trong các loại tội
phạm xuyên quốc gia khác làm nhiệm vụ trở nên đặc biệt thách thức. Nghiên cứu cũng
chỉ ra các đề xuất chính sách cho việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh hệ thống không
chính thức đó là giấy phép/ đăng ký, yêu cầu báo cáo; hướng đến một khung khai thác
quốc tế.
5
Báo cáo “Informal Funds Transfer Systems in the APEC Region: Initial Findings
and a Framework for Further Analysis” – World Bank (tháng 9/2003) – “Hệ thống
chuyển tiền không chính thức trong khu vực APEC: Những phát hiện ban đầu và một
khung phân tích sâu hơn”
Báo cáo được trình bày tại Hội nghị Bộ trưởng tài chính Apec tháng 9 năm 2003.
Bài báo cáo vạch ra khuổn khổ để đánh giá quy mô dòng kiều hối và phân tích các
động cơ đối với việc sử dụng kênh chính thức hay không chính thức. Báo cáo cũng
xem xét vai trò của các tổ chức tài chính chính thức trong việc cung cấp các dịch vụ
chuyển tiền phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về tính thống nhất và minh bạch, như
các tiêu chuẩn có liên quan đến hoạt động chống rửa tiền và đấu tranh chống tài trợ
khủng bố. Bên cạnh đó, báo cáo cũng cung cấp một dấu hiệu đầu tiên và khối lượng về
các luồng tiền đến và đi từ các nền kinh tế APEC thông qua hệ thống chuyển tiền
không chính thức, và đánh giá về mặt thành tựu đã đạt được và những hạn chế còn tồn
đọng. Báo cáo này cũng trang bị khuôn khổ thống nhất để cho các nền kinh tế APEC
thực hiện phân tích chuyên sâu về dòng tiền thông qua hệ thống chuyển tiền không
chính thức.
2.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Các dịch vụ chuyển tiền nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung thường được đại
bộ phận người sử dụng tín nhiệm bởi hệ thống các ngân hàng. Hơn thế nữa, hoạt động
của các hệ thống chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam chưa có các quy định cụ
thể.Do vậy, việc nghiên cứu đầy đủ về hệ thống này vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có một
nghiên cứu cụ thể nào đối với vấn đề này. Một số bài viết nghiên cứu và bài báo có
liên quan đến đề tài này đáng chú ý ở Việt Nam có thể kể đến là:
Tác phẩm “Hành lang chuyển tiền Canada – Việt Nam. Những bài học khi
chuyển từ các hệ thống không chính thức sang chính thức” – World Bank (tháng
11/3004)
Nghiên cứu này thuộc bản quyền của Ngân hàng Thế giới, được thực hiện bởi
Nhóm Công tác về Sáng kiến Hệ thống Chuyển tiền của APEC. Nghiên cứu này đã
củng cố các tài liệu hiện tại về chuyển tiền và nêu bật tiềm năng phát triển của các
luồng chuyển tiền. Nghiên cứu này cũng thúc đẩy việc bảo vệ tính thống nhất của các
6
kênh chuyển tiền trước các kênh có liên quan đến các hoạt động tội phạm, đồng thời
định hướng chuyển đổi từ kênh không chính thức sang kênh chính thức.
Tác phẩm đã đưa ra một bức tranh tổng quát và sơ bộ về hành lang Canada – Việt
Nam, với đóng góp quan trọng của các nhà cung cấp dịch vụ không chính thức. Tác
phẩm cũng đã nghiên cứu về quy trình chuyển tiền với 3 giai đoạn.
Nghiên cứu cũng đã nêu lên những bài học rút ra từ hành lang chuyển tiền Việt Nam
– Canada. Tác giả nhận định thị trường chuyển tiền giữa hai nước còn tương đối nhỏ
xét về giá trị tuyệt đối. Tuy nhiên, các kênh chuyển tiền không chính thức vẫn được sử
dụng rộng rãi trong hành lang Canada – Việt Nam với các lợi thế cạnh tranh về chi phí,
tốc độ, độ tin cậy và sự gần gũi về văn hóa. Ngoài ra, các hệ thống không chính thức
bên cạnh việc gắn liền với các hoạt động thương mại hợp pháp thì còn gắn với các
hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu và các hoạt động tội phạm khác. Từ đó, tác giả
đưa ra các kiến nghị chính sách nhằm khuyến khích sự phát triển chuyển đổi giữa loại
hình không chính thức sang chính thức, đồng thời tăng cường việc thực thi các tiêu
chuẩn quốc tế về tính thống nhất và minh bạch của thị trường.
Bài viết “Đôi nét về hệ thống chuyển tiền ngầm tại Nam Á và Trung Đông” –
đăng tải trên tapchitaichinh.vn. Bài viết đã phân tích về hệ thống chuyển tiền ngầm
Hawala bằng việc đưa ra định nghĩa Hawala, có nguồn gốc ở Ấn Độ, nguyên nhân
Hawala phổ biến rộng rãi. Bên cạnh đó, bài viết còn đưa ra một khía cạnh sử dụng hệ
thống Hawala là lợi dụng để rửa tiền hoặc chuyển tiền để tài trợ khủng bố nhằm tránh
sự phát hiện của các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, bài viết đi đến kết luận về việc
cảnh giác đối với các hệ thống chuyển tiền ngầm, và nhấn mạnh sự cần thiết và quan
trọng của việc tiến hành các biện pháp để đảm bảo cá nhân hoặc pháp nhân cung cấp
dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị phải được đăng ký hoặc cấp phép và là đối tượng chịu
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền với các chế tài hành chính, dân sự
hoặc hình sự.
Bài viết “Tiềm ẩn nguy cơ rửa tiền qua kênh kiều hối phi chính thức” được đăng
tải trên trang infonet.vn. Bài viết này đã đưa ra được nhận định về sự tồn tại của hệ
thống chuyển tiền không chính thức, cung cấp thông tin về hình thức hoạt động
chuyển kiều hối là thông qua nhờ người quen cầm tiền từ nước ngoài về Việt Nam
hoặc qua một đầu mối – bên thứ ba thực hiện hoạt động chuyển kiều hối về tận nhà.
Đánh giá về hoạt động này, tác giả bài viết cũng nhận định về những mặt hạn chế mà
7
kênh chính thức – kênh ngân hàng còn tồn đọng, những ưu điểm của kênh không chính
thức mang lại dẫn đến việc người sử dụng lựa chọn hình thức này.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước đây về hệ thống chuyển tiền không chính thức tại
Việt Nam mới đầu đã khái quát được những thông tin cơ bản về hệ thống và có được
những đánh giá khách quan về tác động của nó. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
còn nhiều lỗ hổng trong việc phân tích các hệ thống chuyển tiền không chính thức tiêu
biểu ở một số quốc gia trên thế giới để rút ra kinh nghiệm đối với hoạt động này tại
Việt Nam. Hơn thế nữa, hoạt động của hệ thống chuyển tiền không chính thức tại Việt
Nam diễn ra phổ biến nhưng đề tài này còn khá mới mẻ đối với nghiên cứu bởi vì ở
Việt Nam các hoạt động này chưa có cơ chế quản lý rõ ràng, chặt chẽ. Do đó, các bài
viết mới chủ yếu đi vào phân tích những nội dung cơ bản về cách thức hoạt động của
hệ thống này mà chưa có nghiên cứu sâu về tác động của nó đối với hệ thống ngân
hàng cũng như những thiếu sót trong việc xây dựng và thực thi các quy định điều
chỉnh hoạt động này. Do vậy, nhóm tác giả muốn tiến hành nghiên cứu này để lấp đầy
những khoảng trống nghiên cứu đó.
3 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận về hệ thống chuyển tiền chính thức và không
chính thức, đồng thời tìm hiểu hoạt động của hệ thống này tại một số quốc gia trên thế
giới và Việt Nam. Từ đó, thông qua tác động của hệ thống chuyển tiền không chính
thức đối với Ngân hàng nói riêng, nền kinh tế và xã hội Việt Nam nói chung để rút ra
bài học kinh nghiệm cũng như đề ra những giải pháp, định hướng để hoàn thiện các
vấn đề pháp lý đối với hệ thống này ở Việt Nam.
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu về các đối tượng sau đây:
- Những vấn đề lý luận và cách thức hoạt động của hệ thống chuyển tiền không
chính thức ở một số quốc gia trên thế giới
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt chuyển tiền của Hệ thống ngân hàng và
hệ thống chuyển tiền không chính thức
- Khung pháp lý đối với hoạt động chuyển tiền của hai kênh chính thức và khung
chính thức
8
- Những tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Với việc thực hiện nghiên cứu về đề tài này, nhóm tác giả thực hiện trong phạm vi
sau đây:
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu hoạt động chuyển tiền của cả kênh chính thức và
không chính thức; Các vấn đề pháp lý về hoạt động chuyển tiền của hai kênh; Tác
động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với Ngân hàng, chủ thể sử dụng
và nền kinh tế - xã hội Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn của hoạt động của các
hệ thống chuyển tiền không chính thức ở các quốc gia trên thế giới kể từ khi các hệ
thống đó được thành lập. Các số liệu chứng minh tại Việt Nam được lấy từ năm 2010
đến nay.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của hệ
thống chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam cũng như một số quốc gia trên thế
giới có các loại hình phổ biến như Hawala, Hundi, và Thị trường chợ đen trao đối
đồng pesco.
5 Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu đã đề ra, trong đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả thực
hiện các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập, phân loại lý thuyết: tìm kiếm các công trình nghiên cứu
trên thế giới và tại Việt Nam về đề tài này và những vấn đề liên quan; sắp xếp các tài
liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng vấn đề khoa học có
cùng dấu hiệu bản chất, có cùng hướng phát triển để dễ nhận biết, dễ sử dụng theo mục
đích nghiên cứu, giúp phát hiện đầy đủ các khía cạnh của đối tượng.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: nghiên cứu các tài liệu, các công trình và
tác phẩm có liên quan trong lĩnh vực chuyển tiền ở trong nước và một số quốc gia trên
thế giới; nghiên cứu những thực tiễn, những thành quả và kinh nghiệm trong lĩnh vực
giải quyết các vấn đề pháp lý còn tồn động đối với hành vi phạm tội thông qua hệ
thống chuyển tiền trên thế giới và ở cả Việt Nam, để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.
- Phương pháp điều tra khảo sát: Thực hiện làm phiếu điều tra online với 100 bản
điều tra đến các đối tượng là sinh viên, người đi làm và người trung niên nhằm tìm ra
9
quan điểm của họ về nhận thức, thực tiễn, và tiềm năng tiếp tục hoạt động của các hệ
thống chuyển tiền không chính thức.
6 Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu,
biểu đồ, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bài nghiên cứu được kết cấu gồm 3
chương như sau
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hệ thống chuyển tiền không chính
thức trên thế giới.
Chương II: Hệ thống chuyển tiền không chính thức và những tác động đối với hệ
thống ngân hàng tại Việt Nam.
Chương III: Bài học kinh nghiệm và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và
cơ chế thực thi liên quan đến hệ thống chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam.
10
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG
CHUYỂN TIỀN KHÔNG CHÍNH THỨC TRÊN THẾ GIỚI
1.1 Tổng quan hệ thống chuyển tiền không chính thức
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
a Hệ thống chuyển tiền chính thức
Một trong những hệ thống và hình thức chuyển tiền chính thức phổ biến nhất là
hệ thống ngân hàng. Đây là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận
tiền gửi và định kênh những tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các thị trường vốn.
Việc dùng từ “chính thức” để chỉ lĩnh vực tài chính được quy định ngoài ngân
hàng ra còn có những công đoàn tín dụng, nhà điều hành chuyển tiền như Western
Union và MoneyGram, dịch vụ bưu chính và công ty thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. Các
hệ thống này được điều chỉnh bởi luật pháp hoặc quy định theo các tiêu chuẩn quốc tế
do FATF cũng như Ủy ban giám sát ngân hàng Basel đặt ra. Do đó, các hệ thống
chuyển tiền không chính thức có thể được xem là những hệ thống không thuộc nhóm
trên.
Nhóm tác giả đã rút ra từ các chức năng và hoạt động của hệ thống chuyển tiền
chính thức và đưa ra được định nghĩa hệ thống chuyển tiền chính thức là bất kỳ hệ
thống, cơ chế hoặc mạng lưới nào nhận tiền trả cho bên thứ ba ở một vị trí địa lý khác.
Chuyển tiền chính thức chỉ diễn ra bên trong hệ thống ngân hàng thông thường hoặc
các tổ chức kinh doanh khác và hoạt động kinh doanh chính là chuyển tiền có thể liên
kết với Ngân hàng.
b Hệ thống chuyển tiền không chính thức
Hệ thống chuyển tiền không chính thức (IVTS) có rất nhiều định nghĩa, một ví
dụ là Dịch vụ chuyển tiền thay thế (ARS) là thuật ngữ được sử dụng bởi Lực lượng
đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF) để mô tả các “dịch vụ tài chính chuyển giá trị hoặc
tiền từ vị trí địa lý này sang địa điểm khác, thường là ngoài khu vực tài chính chính
thức.”
Mặt khác, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), sử dụng thuật ngữ hệ
thống Chuyển tiền không chính thức (IVTS) để mô tả 'các hệ thống tài chính tồn tại
khi không có hoặc song song đến các kênh ngân hàng thông thường '. (APEC, 2003)
Các định nghĩa trên đều có ý đúng, tuy nhiên chỉ nêu một cách chung chung về
hệ thống chuyển tiền không chính thức và đưa ra rằng: những hoạt động chuyển tiền
này không nằm trong khu vực tài chính chính thức hay các kênh ngân hàng thông
thường mà chưa đề cập gì đến việc hoạt động này đối tượng chuyển/giao dịch là gì và
gồm chủ thể nào.
Sau quá trình tìm hiểu định nghĩa của hệ thống chuyển tiền không chính thức,
nhóm tác giả đã lựa chọn dựa trên định nghĩa Nikos Passas đã nêu ra, vì đây là tài liệu
nguồn và căn bản của rất nhiều nghiên cứu về Hệ thống chuyển tiền không chính thức
(IVTS).
Thuật ngữ hệ thống chuyển tiền không chính thức, được đặt ra bởi Giáo sư Nikos
Passas vào năm 1999 định nghĩa IVTS là 'bất kỳ hệ thống hoặc mạng lưới trên cơ sở
toàn thời gian hoặc bán thời gian, chuyển giao giá trị trong nước hoặc quốc tế bên
ngoài các hệ thống tổ chức tài chính được quy định thông thường'. ' Giá trị 'đề cập đến
là ' tiền tệ hoặc giá trị vật chất'.
"Khu vực tài chính thông thường hoặc theo quy định" bao gồm: mạng lưới ngân
hàng, chứng khoán, hàng hóa và thị trường trái phiếu, cũng như các doanh nghiệp dịch
vụ tiền chính thức như Western Union.
Passas đã sửa đổi định nghĩa của mình trong một báo cáo năm 2003 do Ủy ban
Tư pháp và Kho bạc Hoa Kỳ phối hợp thực hiện thành ‘bao gồm bất kỳ mạng lưới
hoặc cơ chế nào có thể được sử dụng để chuyển tiền hoặc giá trị từ nơi này sang nơi
khác mà không để lại dấu vết giấy tờ chính thức của toàn bộ giao dịch hoặc không
thông qua các tổ chức tài chính theo quy định'.
Ngoài ra, định nghĩa năm 2003 mặc nhiên thừa nhận rằng IVTS có thể giao dịch với
hoặc sử dụng các tổ chức tài chính chính thức, nhưng thực hiện điều đó ‘mà không để
lại dấu vết giấy tờ chính thức của toàn bộ giao dịch. ‘Bất kỳ một giấy tờ chính thức
nào’ đề cập đến là tài liệu được tiêu chuẩn hóa cho phép theo dõi việc chuyển khoản từ
người gửi sang người nhận, chẳng hạn như: chứng minh thư nhân dân/căn cước, mẫu
đơn ngân hàng, biên lai nhận tiền,… bắt buộc đối với chuyển khoản ngân hàng thông
thường hoặc các tổ chức chuyển tiền quốc tế như Western Union. ‘Toàn bộ giao dịch’
được ghi nhận cho thấy IVTS có thể sử dụng khu vực tài chính chính thức như là một
phần trong toàn bộ quá trình giao dịch, và do đó chỉ để lại một dấu vết giấy tờ chính
thức cho phần giao dịch đó.
Dựa trên định nghĩa của Nikos Passas, nhóm tác giả đã định nghĩa Hệ thống chuyển
tiền không chính thức (IVTS) là:
Hệ thống chuyển tiền không chính thức (IVTS) là bất kỳ hệ thống, cơ chế hoặc
mạng lưới nhận tiền từ bên gửi với mục đích chuyển tiền hoặc giá trị tương đương
phải trả cho bên nhận ở một vị trí địa lý khác mà thường diễn ra bên ngoài hệ thống
ngân hàng thông thường. Từ đó nhóm tác giả nhận rút ra rằng hệ thống này đóng vai
trò như một bên trung gian thực hiện dịch vụ chuyển tiền và được hưởng lợi nhuận từ
các khoản phí thu được từ một trong hai bên gửi và nhận tiền.
1.1.2 Đặc điểm của hệ thống chuyển tiền không chính thức
a Cơ cấu tổ chức của IVTS
Người gửi chuyển tiền qua một đại lý IVTS cho đối tác của anh ta/cô ta trong khu
vực/quốc gia nhận khác cũng tồn tại cơ sở của đại lý IVTS đó. Người gửi gọi điện
thoại hoặc fax hướng dẫn cho đối tác của mình và tiền sẽ được giao trong vài giờ.
Trong quá khứ, tin nhắn có thể được gửi bằng cách sử dụng các chuyển phát, qua con
người hoặc thậm chí cả động vật (như chim bồ câu). Thanh toán được thực hiện bằng
một dịch vụ giao hàng tư nhân hoặc chuyển khoản theo hướng ngược lại. Một phương
pháp khác để cân bằng sổ sách là dưới hóa đơn được vận chuyển ra nước ngoài, để
người nhận có thể bán lại sản phẩm với giá cao hơn thị trường.
b Quy trình sử dụng IVTS
IVTS được sử dụng bởi nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức và thậm chí cả chính
phủ để chuyển tiền trong nước và nước ngoài. Người lao động, định cư, tạm cư trú tại
nước ngoài thường sử dụng IVTS để gửi lại tiền cho gia đình và bạn bè của họ ở quê
hương. Hoạt động IVTS cũng được sử dụng bởi các công ty, thương nhân, tổ chức và
cơ quan chính phủ hợp pháp cần tiến hành kinh doanh ở các quốc gia có hệ thống tài
chưa đáp ứng nhu cầu chuyền tiền hoặc không có hệ thống chính thức. Ở một số quốc
gia, các mạng lưới IVTS hoạt động song song với các tổ chức tài chính chính thức
hoặc thay thế cho chúng. Bên cạnh công dân của nước sở tại, công dân hoặc người cư
trú bất hợp pháp ở nước sở tại từ có thể ưu chuộng hoặc cần sử dụng IVTS thay cho
các tổ chức tài chính chính thức vì nhiều lý do được nêu trong phần sau.
1.1.3 Vai trò của hệ thống chuyển tiền không chính thức
Có thể nói hệ thống chuyển tiền không chính thức đóng một vai trò không nhỏ trong
đời sống của nhiều cá nhân, vì vậy để nói rằng xóa bỏ hoàn toàn các hệ thống chuyển
tiền không chính thức là không thể, rất nhiều người biết rằng sẽ có những rủi ro nhất
định khi chuyển tiền qua kênh này nhưng vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống chuyển tiền
không chính thức có thể vì sự kém hiệu quả trong hoạt động của những hệ thống
chuyển tiền chính thức khiến IVTS trở thành một lựa chọn hấp dẫn hơn.
Thủ tục đơn giản, nhanh gọn: Hệ thống này hoạt động hiệu quả hơn kênh chuyển
tiền chính thức, một phần vì sự đơn giản của những thủ tục hành chính và cơ chế hoạt
động. Chỉ cần sử dụng điện thoại, fax hoặc điện tử thư và tiền được chuyển trên khắp
thế giới, không cần đặt câu hỏi hay nhận dạng từ người gửi hoặc người nhận và, trên
hết, không để lại bất kỳ dấu vết giấy tờ nào. Người gửi được cung cấp một mã / mật
khẩu, được truyền cho người nhận và tất cả những gì anh ta phải làm là đọc mã/ mật
khẩu để nhận được tiền của mình.
Nhận được tiền một cách nhanh chóng: Yêu cầu về tài liệu và kế toán tối thiểu giúp
giảm thời gian cần thiết để thực hiện hoạt động chuyển tiền. Quá trình chuyển tiền một
cách không chính thức như vậy không để lại bất kỳ dấu vết hay giấy tờ nào; không có
hợp đồng, báo cáo ngân hàng hoặc hồ sơ giao dịch, và những người sử dụng mạng lưới
Hawala có thể di chuyển hàng ngàn đô la trên toàn thế giới trong vài giờ. Ngoài ra, xác
nhận và thanh toán ngay lập tức, và toàn bộ giao dịch có thể được kết thúc sau vài phút
(Maimbo, 2003, trang 28). “Các khoản tiền thường được chuyển đến trong vòng 24
giờ” - bởi một phóng viên đã làm khảo sát tại các ngôi làng tại vùng sâu vùng xa.
Mức phí rẻ: Chuyển tiền không chính thức thường là kênh chuyển tiền rẻ nhất.
chuyển tiền không chính thức thường có chi phí từ 2 đến 10% tiền gốc giao dịch 5.
Chuyển tiền không chính thức không phải đáp ứng chi phí tuân thủ hoặc quy định.
Trong khi đó các tổ chức tài chính chính thức thu phí cao hơn dao động từ 15% đến
25% số tiền được chuyển6 . Chẳng hạn, trường hợp ở Liên minh Châu Âu, lệ phí phụ
thuộc vào số tiền chuyển và dao động trong khoảng từ $ 13, với số tiền không vượt
quá $ 50. Số lượng tối đa có thể được truyền đi thông qua dịch vụ Western Union là
10.000 đô la hoặc Euro kinh tế.
9 Informal Funds Transfer System: An Analysis of the Informal Hawala System, 2003, page 12
của Ấn Độ, năm 1881. Mặc dù thường được coi là hóa đơn hối đoái, chúng thường
được sử dụng như là séc tương đương do ngân hàng bản địa phát hành.
'' Hundi " có thể được hiểu là một hóa đơn trao đổi tiền. Nó xuất hiện thịnh hành
trong thời Trung cổ. Nổi lên sau cuộc chinh phạt của Thổ Nhĩ Kỳ ở Bắc Ấn Độ, việc
sử dụng đã trở nên phổ biến hơn nhiều trong thời kỳ Mughal.
Hundi về cơ bản là một tài liệu giấy hứa hẹn thanh toán tiền mặt sau đó tại một địa
điểm cụ thể. Có rất nhiều vấn đề khi mang theo lượng tiền mặt lớn trên quãng đường
dài. Vì vậy, các thương nhân thường đưa tiền của họ cho Shroff, người cấp Hundi cho
thương gia. Sau đó, tại nơi đến của mình, thương gia se lấy hundi của mình đổi lấy tiền
mặt từ đại lý của Shroff. Trong một khoảng thời gian dài như vậy, Hundi đã trở thành
một phương tiện thanh toán chính. Nó có thể được sử dụng cho bất kỳ giao dịch nào và
có thể được chuyển tự do sau khi chứng thực. Theo Irfan Habib - một nhà sử học Ấn
Độ trong thời kỳ cổ đại và trung cổ: Các thương lượng bằng Hundi đã dẫn đến một
tình huống trong đó một số lượng lớn Hundis được rút ra và trả đúng hẹn thương phiếu
bằng Hundis khác, mà không qua trung gian thanh toán tiền mặt thực tế.
Việc sử dụng Hundi trở nên phổ biến đến mức ngay cả Nhà nước Hoàng gia Mughal
cũng đang sử dụng nó. Năm 1599, Nhà nước Mughal đã gửi 300.000 Rupee cho quân
đội ở Deccan thông qua một Hundi. Các cống phẩm đến từ Golconda Sultan
(10.000.000 Rupee) và Khokhar Chief (50.000 Rupee) đã được gửi qua Hundis tới
Hoàng đế Mughal.
Các Shroff thường có các đại lý của họ tại các trung tâm thương mại quan trọng của
Đế chế để trả phiếu và đổi ra tiền mặt bằng Hundi. Nhìn chung, các thành viên của
cùng một gia đình làm việc như các đại lý ở các thành phố khác nhau. Những Shroff
lớn đã có đại lý ngay cả ở nước ngoài.
Để phát hành Hundi, một khoản hoa hồng sẽ được tính. Số tiền hoa hồng là khác
nhau, và nó phụ thuộc vào lãi suất hiện hành và cung ứng tiền. Nếu cung tiền tốt, phí
hoa hồng sẽ giảm và ngược lại.
Thông thường, đối với một Hundi được cấp tại Patna được quy ra tiền mặt tại Agra,
phí hoa hồng là khoảng 1,5% số tiền. Đối với Patna đến Surat, tỷ lệ là khoảng 7 - 8%.
Hình 2: Biên lai hundi với giá 2500 rupee năm 1951, được đóng dấu ở tỉnh
Bombay với tem thuế được in sẵn10
1.2.3 Hoạt động của thị trường chợ đen trao đổi đồng Peso
Hoạt động diễn ra tại thị trường chợ đen Peso (thường được biết đến với tên gọi
BMPE - The Black Market Peso Exchange) phần lớn là những hoạt động rửa tiền một
cách tinh vi để tẩu tán tiền ‘bẩn’ từ Mỹ đến các tay buôn hàng cấm ở những nơi khác.
Rửa tiền dựa trên giao dịch và trao đổi tiền điện tử trên thị trường chợ đen
Rửa tiền dựa trên thương mại đã được định nghĩa là quá trình ngụy trang tiền thu
được từ tội phạm và di chuyển giá trị thông qua việc sử dụng các giao dịch thương mại
quốc tế. Nói một cách đơn giản hơn, nó sử dụng sự chuyển động các quỹ tiền quốc tế
như thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ để che giấu và vận chuyển đô la bất hợp pháp.
Sàn giao dịch tiền điện tử Colombia (BMPE) của Colombia là hình thức rửa tiền dựa
trên giao dịch phổ biến nhất. BMPE là một phương thức rửa tiền phức tạp dựa trên
giao dịch. Ban đầu nó được sử dụng để phá vỡ các chính sách hạn chế về trao đổi tiền
tệ ở Colombia.
Các doanh nghiệp ở các quốc gia như Colombia cần đô la Mỹ để tiến hành kinh
doanh quốc tế. Để phá vỡ các chính sách hạn chế và luật cấm, các doanh nghiệp đã sử
dụng các nhà môi giới peso giao dịch trên thị trường tiền tệ đen hoặc song song.
Những kẻ buôn bán ma túy Colombia, có thặng dư đô la Mỹ, đã lợi dụng hệ thống này
14 https://baomoi.com/bi-phat-90-trieu-vi-doi-100-usd-trong-tiem-vang-o-can-tho/c/28288433.epi?
fbclid=IwAR16QJamyfQ9wFnoeAQdPoqVOZYcVF3BxVgsF6mh6MEyjTZzRsqF-KlKsMo
Không chỉ chuyển đổi tiền qua tiệm vàng mà hiện nay còn có tình trạng nhờ tiếp
viên hàng không xách tay ngoại tệ từ nước ngoài về Việt Nam. Điển hình như vụ án
mới đây của cựu tiếp viên hàng không Hà Thị Thùy Dương (34 tuổi, làm việc cho
hãng hàng không Asiana Airline) với tội danh “vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên
giới”. Theo cáo trạng, Dương làm việc cho hãng hàng không Asiana Airline từ năm
2008, đã xuất nhập cảnh các cửa khẩu sân bay quốc tế Việt Nam tổng cộng. Ngày
3/11/2015, cô cùng phi hành đoàn từ Hàn Quốc về Việt Nam khi làm thủ tục nhập
cảnh, hải quan phát hiện trong hành lý xách tay của nữ tiếp viên có số ngoại tệ vượt
mức cho phép là 90.000 USD. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định theo Bộ luật Hình
sự 2015 tại khoản 3 điều 189 quy định về vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới như sau: “ Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp trị giá từ 500 triệu
đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1 tỷ đến 3 tỷ đồng; hoặc bị phạt tù từ 5 năm đến 10
năm”. Theo HĐXX, bị cáo Dương đã chứng minh được khả năng tài chính nên có thể
áp dụng quy định mới của BLHS 2015 về việc áp dụng một số quy định có lợi cho
người phạm tội. Từ đó, tòa chấp nhận yêu cầu, buộc cựu tiếp viên hàng không nộp
phạt 1,2 tỷ đồng về hành vi bị truy tố15.
Với những các hình thức chuyển tiền đã nêu trên ta có thể khẳng định rằng: “
hoạt động chuyển tiền không chính thức không đồng nghĩa là bất hợp pháp” chẳng hạn
như chuyển tiền của Bankplus – Viettel hay VNpost đều là những hình thức được nhà
nước cho phép. Bên cạnh những hoạt động hợp pháp thông qua ngân hàng, phi ngân
hàng thì vẫn sẽ có những hoạt động chuyển tiền bất hợp pháp bằng các hoạt động biến
tướng của mua bán, trao đổi ngoại tệ qua tiệm vàng, xách tay của tiếp viên hàng
không, hay mua bán qua “Chợ đen”. Nhìn chung tất cả những hoạt động chuyển tiền
này đều có ưu điểm đó là nhanh, không làm mất thời gian, quan trọng hơn cả là chênh
lệch ngoại tệ và cước phí được tính rẻ hơn so với chuyển tiền qua ngân hàng. Vì thế
nên người sử dụng luôn tìm đến những dịch vụ này trước mà không để tâm đến việc
hành vi của mình là hợp pháp hay không. Và nguồn tiền nhận được còn dễ dàng bị xáo
trộn không rõ tiền thật, tiền giả, thiệt hại cho bản thân, đồng thời còn có khả năng gián
tiếp tiếp tay cho các hành vi vi phạm như trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền, …
15 Nguồn VnExpress.net
2.3 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức:
Từ những vấn đề tổng quan được đề cập ở trên nhóm nghiên cứu đánh giá tác
động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với ba nhóm đối tượng bị ảnh
hưởng trực tiếp và bị tác động nhiều nhất là hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, người sử
dụng và nền kinh tế- xã hội. Sở dĩ nhóm nghiên cứu lựa chọn ba đối tượng này để
đánh giá tác động là bởi:
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng là hệ thống chịu sự cạnh tranh trực tiếp từ hệ thống
chuyển tiền không chính thức đặc biệt là ở mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền bao
gồm chuyển tiền trong nước và chuyển tiền quốc tế. Chưa kể hiện nay ở nước ta cũng
đã hình thành nhiều kênh chuyển tiền không chính thức nhằm kinh doanh dịch vụ
chuyển tiền trong nước, do đó, thị phần chuyển tiền trong nước của các ngân hàng
cũng sẽ bị giảm xuất phát từ sự ra đời của các kênh chuyển tiền này.
Thứ hai, người sử dụng sẽ là những chủ thể chịu ảnh hưởng trực tiếp thông qua
việc sử dụng các kênh chuyển tiền không chính thức. Người sử dụng là những người bị
ảnh hưởng đầu tiên bởi những rủi ro mà hệ thống chuyển tiền không chính thức mang
lại. Do đó, sau hệ thống ngân hàng nhóm nghiên cứu lựa chọn đánh giá tác động của
hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với người sử dụng
Thứ ba, hệ thống chuyển tiền không chính thức là một phần của nền kinh tế xã
hội, do đó hoạt động của hệ thống này có những ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh
tế-xã hội. Thông qua việc đánh giá tác động chúng ta có thể tiếp cận đến hoạt động của
hệ thống chuyển tiền không chính thức ở phạm vi rộng hơn và nhìn nhận dưới góc độ
sâu hơn.
2.3.1 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam
Nhóm nghiên cứu lựa chọn hệ thống ngân hàng của Việt Nam là đối tượng đầu
tiên để đánh giá tác động bởi hoạt động chính và chủ yếu của các ngân hàng hiện nay
là kinh doanh dịch vụ liên quan đến tiền. Thông qua phần tổng quan về hoạt động của
hệ thống chuyển tiền không chính thức ở phần trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng
hoạt động chính của hệ thống này là kinh doanh dịch vụ chuyển tiền. Ở nước ta, các
ngân hàng thương mại kinh doanh hai hình thức chuyển tiền chính là chuyển tiền trong
nước và chuyển tiền quốc tế và chiếm thị phần lớn ở hai mảng kinh doanh này. Tuy
nhiên, các hệ thống chuyển tiền không chính thức đang dần có chỗ đứng nhất định
trong thị trường nhận và chuyển kiều hối. Chính nhờ ưu điểm nhận tiền tại nhà cũng
như có thể được hưởng mức chênh lệch tỷ giá hối đoái tương đối lớn cùng với mức phí
thấp đã khiến cho hệ thống chuyển tiền không chính thức đang được nhiều người lựa
chọn đặc biệt là những người lao động Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước
ngoài có nhu cầu gửi tiền về cho gia đình. Do vậy dưới đây nhóm nghiên cứu xin được
đưa ra những quan điểm cá nhân về những tác động mà các ngân hàng thương mại
hiện nay có thể sẽ gặp phải do hoạt động của hệ thống chuyển tiền không chính thức.
a Cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ chuyển tiền trong nước
Hiện nay, ở nước ta thị phần chuyển tiền trong nước chỉ là sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng thương mại và hệ thống chuyển tiền không chính thức. Các Ngân hàng
nước ngoài không kinh doanh loại hình dịch vụ này. Theo như tìm hiểu của nhóm
nghiên cứu, các ngân hàng hiện nay kinh doanh dịch vụ chuyển tiền trong nước thông
qua hình thức cung ứng dịch vụ chuyển tiền thông qua tài khoản ngân hàng. Tức là
khách hàng sẽ phải mở một tài khoản ở ngân hàng thì mới có thể thực hiện việc
chuyển tiền thông qua ba hình thức dịch vụ chính mà các ngân hàng thương mại cung
cấp là chuyển tiền tại quầy, chuyển tiền qua Internet banking/Mobile Banking/ATM,
hay chuyển tiền liên ngân hàng. Ngược lại đối với hệ thống chuyển tiền không chính
thức bạn không cần có tài khoản ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện các giao dịch
chuyển tiền của mình, thậm chí có một số hệ thống còn cung cập dịch vụ chuyển tiền
đến tận tay người nhận hay còn gọi là chuyển tiền tận nhà, tiêu biểu chúng ta có thể kể
đến ở đây chính bankplus của Viettel. Do ưu điểm có thể nhận tiền mặt tại nhà cũng
như thủ tục không phức tạp như chuyển tiền ở ngân hàng cộng với thời gian nhận được
tiền nhanh mà nhiều người ở những vùng sâu vùng xa thường lựa chọn hệ thống
chuyển tiền không chính thức thay vì lựa chọn chuyển tiền thông qua hệ thống ngân
hàng. Những nguyên nhân cơ bản dưới đây sẽ nêu rõ hơn lý do tại sao nhiều người
Việt Nam lựa chọn chuyển tiền trong nước thông qua hệ thống chuyển tiền không
chính thức hơn là hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, do ở những vùng sâu vùng xa ít có ngân hàng đặt trụ sở hoặc là khó
khăn về khoảng cách địa lý có thể gây trở ngại đối với người dân ở những vùng này
nếu bạn muốn thực hiện việc chuyển tiền tại quầy ở ngân hàng. Thêm vào đó, ở nhiều
địa phương số lượng những cây ATM đặt rất hạn chế, mật độ không nhiều như ở các
thành phố lớn, do đó, việc chuyển tiền thông qua cây ATM cũng gặp nhiều bất tiện
Thứ hai, đối với một số bộ phận người trung niên hay người già việc tiếp cận với
công nghệ còn hạn chế nên sẽ gặp khó khăn trong việc sử dụng những thiết bị như
máy tính hay smart phone để thực hiện dịch vụ chuyển tiền thông qua Internet banking
hay Mobile Banking. Khi bạn giao dịch thông qua Internet banking hay Mobile
banking của ngân hàng bạn cũng có thể gặp những phiền toái nhất định như: chuyển
nhầm tài khoản, ghi nhầm tên người nhận, hay chọn nhầm ngân hàng chuyển,… trong
những trường hợp như vậy bạn sẽ phải chờ từ 3-5 ngày làm việc để tiền có thể về lại
tài khoản của bạn. Giao dịch chuyển tiền thông qua hai hình thức kể trên bắt buộc bạn
phải có mạng internet để sử dụng, hơn nữa, đối với những giao dịch liên ngân hàng
bạn sẽ phải chờ thời gian nhận được tiền lâu hơn so với giao dịch trong cùng hệ thống
đặc biệt là vào ngày thứ bảy chủ nhật ở một số ngân hàng. Hơn nữa vấn đề về bảo mật
thông tin cá nhân người sử dụng khi sử dụng Internet banking, Mobie banking của các
ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt phổ biến của người Việt trong
việc thanh toán cũng là cơ hội phát triển cho hoạt động chuyển tiền trong nước của các
hệ thống chuyển tiền không chính thức.
Cuối cùng, những thủ tục đơn giản khi giao dịch chuyển tiền cũng như thời gian
làm việc cả thứ Bảy và Chủ nhật chính là một trong những điểm cộng của hệ thống
chuyển tiền không chính thức so với ngân hàng bởi vì hệ thống Ngân hàng làm theo
giờ hành chính của Nhà nước nên không làm việc vào thứ Bảy và Chủ nhật.
Tuy nhiên hiện nay, các ngân hàng vẫn đang chiếm thị phần lớn trong việc kinh
doanh hoạt động chuyển tiền trong nước so với hệ thống chuyển tiền không chính
thức. Theo số liệu thống kê từ Website chính thức của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
tính đến nay ở Việt Nam có 147,3 triệu thẻ đã được phát hành từ hệ thống các ngân
hàng. Cũng theo nguồn số liệu nêu trên, tính đến 30/09/2018 số lượng giao dịch thông
qua thẻ ngân hàng là 51.409.641 lượt giao dịch với số tiền là 143.360 tỷ đồng. 16Từ các
thống kê trên, chúng ta có thể thấy đây là số lượng giao dịch tương đối lớn cho thấy sự
chiếm lĩnh thị phần cao trong mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền trong nước của các
ngân hàng thương mại hiện nay. Thêm vào đó, theo quyết định phê duyệt đề án thanh
toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 của thủ tướng chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc đưa ra mục tiêu cụ thể đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên
tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10%, nâng tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở
16 Thống kê từ Website Ngân hàng Nhà nước sbv.gov.vn
lên có tài khoản tại ngân hàng lên mức ít nhất 70% 17. Nhờ đó, các ngân hàng có khả
năng nâng cao tỷ lệ người có tài khoản ngân hàng cũng như chiếm được thị phần
chuyển tiền trong nước nhiều hơn. Do nhóm người sử dụng hệ thống chuyển tiền
không chính thức tương đối nhỏ cũng như độ phổ biến của phương thức chuyển và
nhận tiền thông qua tài khoản ngân hàng như hiện nay nên những tác động mà hệ
thống chuyển tiền không chính thức đối với hệ thống ngân hàng ở mảng kinh doanh
dịch vụ chuyển tiền nội địa là không cao. Một số tổ chức thuộc hệ thống chuyển tiền
không chính thức kinh doanh dịch vụ chuyển tiền trong nước với mức phí cao hơn
nhiều so với ngân hàng, do đó, xét trên phương diện cạnh tranh về giá, những tổ chức
này không cạnh tranh được với các ngân hàng thương mại.
b Cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ chuyển tiền quốc tế
Khác với mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền trong nước, các hệ thống chuyển
tiền không chính thức hoạt động mạnh hơn ở mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền
quốc tế. Do đó, các ngân hàng cũng phải chịu những tác động lớn hơn bởi những hoạt
động của hệ thống chuyển tiền không chính thức. Như đã đề cập ở phần tổng quan
hoạt động của hệ thống ngân hàng, các ngân hàng thương mại hiện nay kinh doanh
dịch vụ chuyển tiền quốc tế dưới hai hình thức: chuyển từ Việt Nam ra nước ngoài và
chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam. Đối với mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền
từ Việt Nam ra nước ngoài, các ngân hàng Việt Nam không chỉ phải cạnh tranh với các
hệ thống chuyển tiền không chính thức mà còn phải cạnh tranh với những ngân hàng
có vốn nước ngoài. Hiện nay nhà nước ta đang có những chế tài quản lý việc chuyển
tiền từ Việt Nam ra nước ngoài một cách chặt chẽ nhằm phòng chống rửa tiền, do vậy
hoạt động của những hệ thống chuyển tiền không chính thức trong mảng chuyển tiền
từ Việt Nam ra nước ngoài chưa thật sự rõ rệt.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với dịch vụ chuyển tiển từ Việt Nam
ra nước ngoài, tổ chức kinh doanh cần phải được cấp phép và cá nhân muốn gửi tiền ra
nước ngoài cần đảm bảo là để phục vụ những mục đích, nhu cầu hợp pháp.
Do những quy định chặt chẽ của nhà nước nêu trên nên hoạt động kinh doanh ở
thị phần chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài của hệ thống chuyển tiền không chính
thức không mấy nổi bật. Những hoạt động “chuyển tiền chui” ra nước ngoài hầu hết
được thực hiện qua tiệm vàng với những rủi ro vô cùng lớn, cơ chế hoạt động hầu hết
17 Quyết định 2545/QĐ-TTg về phê duyệt đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai
đoạn 2016-2020
dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, rất nhiều trường hợp người sử dụng thậm chí mất toàn
bộ số tiền gửi nhưng không thể làm gì. Ngược lại, khi chuyển tiền tại các ngân hàng
thương mại mức độ rủi ro hầu rất thấp nhưng với biểu phí khá cao cho các hoạt động
chuyển tiền quốc tế mà nhiều người vẫn lựa chọn “chuyển tiền ngầm”. Các ngân hàng
thương mại Việt Nam hầu như chuyển tiền thông qua SWIFT CODE với sự nhanh
chóng và chính xác gần như tuyệt đối. Bên cạnh đó rất nhiều ngân hàng đang là đại lý
cho Western Union hoặc liên kết với Money Gram tạo ra sự lựa chọn hết sức đa dạng
cho người sử dụng. Với nhiều sự lựa chọn khác nhau cộng với sự đảm bảo chính xác,
an toàn từ phía ngân hàng, người sử dụng hầu như có xu hướng lựa chọn dịch vụ của
các ngân hàng thay vì dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức trong hệ thống chuyển
tiền không chính thức. Từ đó ta nhận thấy rằng ở thị phần này ngân hàng vẫn đang
chiếm ưu thế.
Tuy nhiên, đối với mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền từ nước ngoài về Việt
Nam thì lại là một khía cạnh khác, đây chính là thế mạnh của hệ thống chuyển tiền
không chính thức. Các ngân hàng liên tục ra những chính sách để thu hút kiều hối bởi
đây là một trong những mảng kinh doanh quan trọng giúp gia tăng lợi nhuận, tăng
cung ngoại tệ và ổn định nguồn tiền. Kiều hối vào Việt Nam hàng năm được thực hiện
ổn định ở mức cao. Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước đứng đầu thế giới, thứ hai
trong ASEAN (chỉ sau Philippines) về mặt tiếp nhận kiều hối – chiếm 2,5% tổng khối
lượng kiều hối toàn cầu năm 2017. Hàng năm, lượng kiều hối về Việt Nam vào khoảng
6-8% GDP trong cả giai đoạn 2006-2017, cao hơn nhiều so với các nước phát triển
khác (bình quân 1-2% GDP), tương đương với lượng FDI và cao gấp 4 lần so với
lượng ODA vào Việt Nam18. Hơn nữa, theo thống kê từ Ngân hàng Thế giới (World
Bank) lượng kiều hối đổ về Việt Nam tăng đều qua các năm từ năm 2006-2017, tăng
từ 3,8 tỷ USD lên 13,781 tỷ, tăng gần 10 tỷ USD19. Do đó, kiều hối chính là một trong
những mảng kinh doanh mang lại lợi nhuận cao cho các ngân hàng. Mặc dù đã thực
hiện nhiều hoạt động cũng như ra những chính sách hợp lý nhằm thu hút kiều hối, hoạt
động kinh doanh này của các ngân hàng vẫn vấp phải sự cạnh tranh khá lớn từ các tổ
chức thuộc hệ thống chuyển tiền không chính thức bởi những lý do sau:
Thứ nhất, mức phí của các ngân hàng đối với người sử dụng dịch vụ này khá cao
do vậy nhiều người lựa chọn chuyển tiền thông qua hệ thống chuyển tiền không chính
18 Báo cáo tài chính cho phát triển bền vững – UNDP – 2018
19 World Bank Data
thức. Thêm vào đó, tỷ lệ quy đổi ngoại tệ của ngân hàng thấp hơn so với các tổ chức
không chính thức cùng kinh doanh dịch vụ này, nên nhiều người lựa chọn chuyển tiền
thông qua con đường không chính thức để được hưởng mức chênh lệch tỷ giá hối đoái
cao hơn.
Thứ hai, chuyển tiền thông qua một số tổ chức uy tín của hệ thống chuyển tiền
không chính thức cũng nhanh và an toàn không kém so với ngân hàng. Kiều hối đổ về
Việt Nam trong năm nhiều nhất vào dịp Tết nguyên đán, đây cũng là thời điểm người
Việt Nam ở trong nước thực hiện nhiều giao dịch trong hệ thống ngân hàng dẫn đến bị
quá tải hệ thống, do vậy nhiều người phải chờ rất lâu để nhận được khoản tiền của
người thân ở nước ngoài gửi về, chuyển tiền qua hệ thống chuyển tiền không chính
thức đã khắc phục được điều đó. Người sử dụng không cần mất thời gian chờ đợi lâu
để nhận được tiền của mình. Với mức giá thấp hơn và chất lượng dịch vụ tương đồng,
đương nhiên sẽ có một bộ phận lớn người Việt Nam lựa chọn dịch vụ chuyển tiền được
cung cấp bởi hệ thống chuyển tiền không chính thức.
Thứ ba, thủ tục đơn giản và dịch vụ chuyển tiền tại nhà chính là một lợi thế của
hệ thống chuyển tiền không chính thức so với hệ thống ngân hàng. Việc phải khai báo
thông tin đầy đủ cũng như thực hiện hiều thủ tục khá khiến nhiều người e ngại khi sử
dụng dịch vụ của ngân hàng. Một lượng lớn người Việt Nam ở nước ngoài là các lao
động thông qua con đường xuất khẩu hầu hết họ xuất thân từ các vùng quê, người thân
vì khoảng cách địa lý đối với các ngân hàng hoặc do không muốn phải thực hiện các
thủ tục phức tạp nên không lựa chọn giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng. Dịch vụ
chuyển tiền tận nhà chính là một giải pháp của hệ thống chuyển tiền không chính thức.
Một lý do khách quan khác khiến chuyển tiền không chính thức phát triển xuất phát
từ đạo luật phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố của một số quốc gia trên thế giới.
Các quốc gia này đưa ra những đạo luật nhằm hạn chế lượng tiền gửi từ trong nước ra
nước ngoài, do đó, người sử dụng buộc phải lựa chọn con đường không chính thức để
gửi tiền.
Theo thông kê từ Vụ Quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước trong dòng kiều
hối đổ về Việt Nam, chỉ có 72,6 % là thông qua hệ thống ngân hàng, còn lại là qua
kênh không chính thức20. Thông qua số liệu thống kê chúng ta có thể thấy rằng, thị
phần của hệ thống chuyển tiền không chính thức ở mảng chuyển và nhận kiều hối là
20 http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/hut-kieu-hoi-truoc-ap-luc-giam-143945.html?
fbclid=IwAR0iO4Euq6iogvVfmfNQrmNwgEZUlcR9RbiW-nb0e1LMsL6GsLuW7_6qmZc
khá lớn. Có thể thấy rằng đây chính là mảng kinh doanh gây sức ép lớn nhất và có sự
cạnh tranh mạnh nhất của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với các ngân
hàng thương mại. Kinh doanh nhận và chuyển ngoại hối cũng đem lại lợi nhuận cao
hơn hẳn so với những mảng chuyển tiền còn lại. Tác động đối với hệ thống ngân hàng
ở mảng kinh doanh này cũng rõ ràng nhất, hệ thống chuyển tiền không chính thức với
thị phần khá cao và lượng người sử dụng ổn định đang khiến cho các ngân hàng phải
nỗ lực thay đổi và thiết lập nhiều chính sách ưu đãi hơn để thu hút thêm kiều hối.
Như vậy, ta thấy rằng trong tất cả những tác động ở thị phần kinh doanh dịch vụ
chuyển tiền, tác động ở mảng nhận và chuyển kiều hối là ở mức cao nhất đối với các
ngân hàng bởi nó liên quan đến doanh thu, lợi nhuận cũng như nguồn cung ngoại tệ
của ngân hàng.
2.3.2 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với người sử
dụng
Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù mức độ phổ biến của dịch vụ chuyển tiền qua ngân
hàng là rất lớn, nhiều người Việt vẫn lựa chọn sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi các
hệ thống chuyển tiền không chính thức vì nhiều những lý do khác nhau mà nhóm
nghiên cứu đã đề cập ở trên. Theo khảo sát được thực hiện bởi chúng tôi, những người
thực hiện khảo sát hầu hết đánh giá những người ở nơi có điều kiện ít phát triển và
Việt kiều, người đi làm ăn ở nước ngoài là những người thường xuyên sử dụng dịch vụ
chuyển tiền của kênh phi chính thức. Tầng lớp cán bộ trung niên và học sinh/sinh viên
được nhận định là có thể thỉnh thoảng thực hiện giao dịch thông qua hệ thống chuyển
tiền không chính thức. Cuối cùng, người già được cho là bộ phận hiếm khi sử dụng
loại hình dịch vụ này. Từ đó có thể thấy rằng đánh giá từ những người thực hiện khảo
sát khá gần với thực tiễn. Điều đó thể hiện sự hiểu biết nhất định của người sử dụng
đối với hệ thống chuyển tiền không chính thức. Do người sử dụng là đối tượng trực
tiếp sử dụng dịch vụ nên đồng nghĩa với điều này họ cũng chịu những tác động trực
tiếp từ hoạt động của hệ thống chuyển tiền. Chính vì lý do trên, nhóm nghiên cứu lựa
chọn người sử dụng là đối tượng tiếp theo để thực hiện đánh giá.
a Đánh giá những tiện ích tích cực mà hệ thống chuyển tiền không chính thức mang
lại cho người tiêu dùng
Khi thực hiện khảo sát, nhóm nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi: “Theo bạn chuyển
tiền thông qua các hệ thống chuyển tiền không chính thức có ưu điểm gì so với thông
qua hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay?”, hầu hết người thực hiện cho rằng
những ưu điểm đó là: chuyển/nhận tiền nhanh, phí thấp hơn so với ngân hàng, không
phải trải qua nhiều thủ tục như ở ngân hàng. Nhóm tác giả nhận thấy rằng những ưu
điểm trên của hệ thống chuyển tiền không chính thức lại chính là nhược điểm của hệ
thống ngân hàng. Hệ thống chuyển tiền không chính thức đã tận dụng những lợi thế
này để thu hút người sử dụng.
Như nhóm nghiên cứu đã đề cập ở phần đánh giá những tác động của hệ thống
chuyển tiền không chính thức đối với hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, hệ thống
chuyển tiền không chính thức cạnh trạnh trực tiếp với ngân hàng ở mảng kinh doanh
dịch vụ chuyển tiền. Nhờ có sự xuất hiện của các kênh không chính thức, người sử
dụng có nhiều lựa chọn hơn khi họ có nhu cầu sử dụng dịch vụ chuyển tiền. Hệ thống
chuyển tiền không chính thức cung cấp các dịch vụ chuyển tiền dựa trên những nhược
điểm của hệ thống ngân hàng hiện nay. Những khó khăn về thủ tục, công nghệ, địa lý,
…đối với người sử dụng khi họ lựa chọn chuyển tiền thông qua ngân hàng đều được
các tổ chức thuộc hệ thống này khắc phục. Phát triển dịch vụ dựa trên hai đặc điểm cơ
bản chính là thủ tục đơn giản và chuyển tiền tận nhà, hệ thống chuyển tiền không
chính thức chính là một sự bù đắp cho những nhược điểm của hệ thống ngân hàng hiện
nay.
Người sử dụng chính là những người chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh giữa
hai hệ thống này. Sự tồn tại và phát triển của chuyển tiền không chính thức đòi hỏi các
ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để nâng cao chất lượng dịch vụ của mình bởi giờ
đây thị phần của mảng chuyển tiền không chỉ còn là sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
với nhau nữa, thị trường này hiện nay đã có sự tham gia và cạnh tranh mạnh mẽ từ các
tổ chức của hệ thống chuyển tiền không chính thức.
Xét trên phương diện cạnh tranh, như chúng ta đã biết, giá cả là phương tiện cạnh
tranh quan trọng và hữu hiệu nhất cho tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp dựa trên quy luật giá trị của thị trường. Ở phương diện về chi phí, hiện nay
ngân hàng đang chiếm ưu thế ở mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền trong nước
nhưng đối với mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền quốc tế đặc biệt là dịch vụ chuyển
và nhận kiều hối hệ thống chuyển tiền không chính thức lại được nhiều người sử dụng
ưa chuộng hơn.
Mặt khác, cạnh tranh bằng giá cũng nằm trong sự tương quan với các phương
tiện cạnh tranh khác như chất lượng hay dịch vụ kèm theo. Chúng tôi đã thực hiện một
khảo sát trong hai tuần trên một trăm người sử dụng khác nhau về việc đánh giá chất
lượng dịch vụ của các ngân hàng Việt Nam hiện nay, thông qua các tiêu chí: thủ tục,
thời gian nhận tiền, chi phí chuyển tiền và sự an toàn.
Theo số liệu thống kê có đến 52 người đánh giá thủ tục của các ngân hàng là
nhanh, 38 người cho rằng bình thường, chỉ có 5 người nhận thấy thủ tục của ngân hàng
là rất nhanh. Về thời gian nhận tiền, có 48 người cho rằng nhận tiền thông qua việc
chuyển tiền ở các ngân hàng là nhanh, 34 người nhận thấy bình thường và số người
đánh giá thời gian nhận tiền rất nhanh và chậm là bằng nhau 4 người. Xét về chi phí
chuyển tiền, có 51 người cho rằng chi phí chuyển tiền thông qua các ngân hàng cao, 15
người đánh giá là rất cao, 30 và 4 lần lượt là số người nhận thấy chi phí chuyển tiền
của các ngân hàng bình thường và thấp. Cuối cùng đối với sự an toàn, 54 người đánh
giá tốt đối với yếu tố an toàn khi chuyển tiền tại các ngân hàng, 21 người thấy rằng rất
tốt, và 24 người nhận thấy bình thường, chỉ có người nhận định là kém. Thông qua các
số liệu thống kê nêu trên, chúng ta nhận thấy rằng, phần đông người sử dụng có những
đánh giá tích cực về thủ tục, thời gian nhận tiền và sự an toàn. Chi phí chuyển tiền của
các ngân hàng được đánh giá vẫn còn cao. Một vấn đề cần lưu ý đó là phần lớn người
tham gia khảo sát là các sinh viên, do không bị ảnh hưởng nhiều bởi vấn đề thủ tục và
thời gian cũng như mức thu nhập còn thấp nên những đánh giá về 4 yếu tố trên vẫn
còn mang nhiều sự chủ quan. Do đó các ngân hàng vẫn cần có những điều chỉnh hợp
lý để cải thiện chất lượng dịch vụ chuyển tiền ngày một tốt hơn để thu hút thêm nhiều
người sử dụng.
Tuy nhiên, ở nước ta có rất nhiều ngân hàng và tổ chức thuộc hệ thống chuyển
tiền không chính thức đang hoạt động nên người sử dụng đôi khi có thể gặp khó khăn
trong việc đưa ra quyết định nên lựa chọn sử dụng dịch vụ từ nhà cung cấp nào. Mỗi
ngân hàng thường đưa ra các chính sách ưu đã khác nhau đối với khách hàng của họ,
chưa kể đến những ưu đãi đến từ các tổ chức thuộc hệ thống chuyển tiền không chính
thức. Từ đó dẫn đến việc khách hàng bị bối rối trước vô vàn các thông tin đến từ các
nhà cung ứng dịch vụ, những thông tin về biểu phí, thủ tục, hạn mức, chính sách ưu
đãi,… Mỗi người sử dụng dịch vụ cần đưa ra những cân nhắc để có thể chọn được nhà
cung cấp dịch vụ phù hợp với mình.
Theo tìm hiểu của nhóm nghiên cứu các tổ chức thuộc mạng lưới chuyển tiền
không chính thức có mặt ở khắp các vùng trên cả nước, thậm chí là ở nhiều nước trên
thế giới, khoảng cách về mặt địa lý không của là vấn đề đối với những tổ chức thuộc
hệ thống này. Hầu hết những tổ chức kinh doanh dịch vụ chuyển tiền không chính thức
đều có một phương thức hoạt động chung đó là khi một người đến một đại lý của hệ
thống chuyển tiền không chính thức để giao dịch, sau khi gửi tiền và thông báo địa chỉ
người nhận, họ sẽ được cung cấp một mã code, tiền sẽ được chuyển đến địa chỉ mà
người gửi cung cấp trong ngày và người nhận tiền chỉ cần đọc mã code chính xác để
lấy tiền. Phương thức này được sử dụng với cả hai dịch vụ là chuyển tiền trong nước
và chuyển tiền quốc tế. Đối với hai dịch vụ chuyển tiền không chính thức tiêu biểu
hiện nay là Bưu điện và Bankplus Viettel người nhận đều có thể nhận tiền tại nhà ngay
trong ngày, tuy nhiên, biểu phí chuyển tiền của hai nhà cung ứng dịch vụ này khá cao
so với ngân hàng. Ở Việt Nam còn xuất hiện dịch vụ chuyển tiền Gutina theo mô hình
Uber. Tuy nhiên cả Gutina và Bankplus đều không kinh doanh dịch vụ chuyển tiền
quốc tế do không thể có chi nhánh phủ khắp các nước trên thế giới. Bưu điện chuyển
tiền quốc tế thông qua việc liên kết với các Bưu điện trên thế giới tuy nhiên biểu phí
khá đắt và thời gian nhận được không nhanh hơn so với ngân hàng. Chính những điều
này đã tạo điều kiện cho “chuyển tiền chui” phát triển với những tiêu chí: nhanh
chóng, đơn giản, phí thấp, có mặt ở hầu hết các vùng miền của Việt Nam thậm chí là ở
nhiều nước trên thế giới. “Chuyển tiền chui” khắc phục được hầu hết các nhược điểm
của chuyển tiền không chính thức hợp pháp và chuyển tiền thông qua ngân hàng.
“Chuyển tiền chui” đồng nghĩa với bất hợp pháp, khi chấp nhận sử dụng dịch vụ được
cung cấp từ những tổ chức “chuyển tiền ngầm” này, người sử dụng phải đối mặt với
rất nhiều rủi ro khác nhau mà họ không thể nào lường trước được.
b Đánh giá những rủi ro mà người tiêu dùng sẽ gặp phải khi sử dụng những kênh
chuyển tiền không chính thức
Sau đây, nhóm nghiên cứu đề cập đến một số điểm bất lợi cơ bản mà người sử
dụng có thể gặp phải khi lựa chọn chuyển tiền bất hợp pháp.
Dựa trên số liệu thống kê từ khảo sát của nhóm nghiên cứu, hầu hết người thực
hiện (83/100 người) đều cho rằng chuyển tiền thông qua các kênh không chính thức
chứa đựng nhiều rủi ro, hơn nửa số người (67/100 người) cho rằng không kiểm soát
được các hành vi vi phạm pháp luật khi thực hiện giao dịch thông qua hệ thống chuyển
tiền không chính thức. Đây cũng là một thống kê đáng lưu ý bởi chúng ta đều biết
rằng, “chuyển tiền chui”, “chuyển tiền ngầm” là một hoạt động bất hợp pháp và không
được nhà nước thừa nhận. Do đó, khi một người lựa chọn sử dụng dịch vụ được cung
cấp bởi những tổ chức kinh doanh dịch vụ chuyển tiền này nghĩa là người đó đang tiếp
tay cho một hoạt động phi pháp. Thêm vào đó, những người sử dụng dịch vụ này chính
là đang thực hiện hành vi bất hợp pháp. Do đó, họ hoàn toàn có thể bị xử phạt hành
chính số tiền với giá trị lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ giao dịch, thậm chí là xử lý
hình sự. Thông qua “chuyển tiền chui” nhiều hoạt động phi pháp khác cũng diễn ra
như: rửa tiền, buôn lậu, buôn ma tuý, …Như vậy, người sử dụng dễ bị lợi dụng khi
thực hiện hành vi chuyển tiền thông qua những hệ thống này, hay thậm chí còn vô tình
tiếp tay cho những hoạt động bị nhà nước nghiêm cấm nêu trên. Đặc biệt là với hoạt
động chuyển và nhận kiều hối hay một số nơi còn nhận đổi ngoại tệ sang VND, những
hoạt động này còn tiềm ẩn rủi ro cao hơn do Nhà nước ban hành những cơ chế pháp
luật chặt chẽ nhằm quản lý ngoại hối cũng như phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố,
…Một ví dụ điển hình cho trường hợp này chính là vụ việc anh thợ điện ở Cần Thơ bị
xử phạt 90 triệu đồng khi đổi 100 USD tại tiệm vàng mà nhóm nghiên cứu đã đưa ra ở
phần tổng quan tại chương II. Mức phạt ở ví dụ nêu trên cao hơn rất nhiều lần so với
số tiền mà hai bên đã thực hiện giao dịch, hành động đổi tiền thông qua tiệm vàng đã
khiến người sử dụng rơi vào hoàn cảnh tiền mất tật mang. Đây là hậu quả mà chắc
chắn không người sử dụng nào muốn gặp phải.
Thêm vào đó, do thủ tục chuyển tiền tại các hệ thống chuyển tiền không chính
thức và thậm chí là chuyển tiền bất hợp pháp rất đơn giản, các giấy tờ về các giao dịch
chuyển tiền hầu như không có, nếu như chuyển qua tiệm vàng thì hầu như các bên giao
dịch dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Lo ngại của người sử dụng về những rủi ro này đã
được thể hiện trực tiếp thông qua số liệu khảo sát nhóm nghiên cứu cung cấp ở trên.
Bởi vậy, nhiều trường hợp người sử dụng bị mất tiền nhưng không đòi lại được bởi:
Thứ nhất, hoạt động chuyển tiền là bất hợp pháp và người sử dụng dịch vụ bất
hợp pháp cũng có thể bị phạt
Thứ hai, những giấy tờ làm bằng chứng cho giao dịch giữa hai bên ngay từ đầu
không có, trong nhiều giao dịch người sử dụng sau khi gửi tiền chỉ được cung cấp một
mã code.
Thứ ba, hiện nay hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa có nhưng quy định rõ
ràng về hệ thống chuyển tiền không chính thức cùng với đó là không có những cơ chế
để bảo vệ người sử dụng - những người yếu thế hơn trong mối quan hệ này.
Do đó, khi chấp nhận sử dụng dịch vụ của hệ thống chuyển tiền không chính
thức, người sử dụng là những người phải chịu rủi ro cao hơn, khi xảy ra mất mát về tài
sản trong quá trình chuyển tiền, cũng không có những cơ chế đền bù tương ứng nếu
người sử dụng lựa chọn “chuyển tiền chui”. Bên cạnh các tổ chức hợp pháp được nhà
nước cấp phép hiện nay, số còn lại được thành lập bất hợp pháp hoặc lách luật bằng
các đặt trụ sở ở nước ngoài chứ không phải ở Việt Nam do vậy, chúng ta không thể
quản lý được hết nhưng tổ chức như vậy nếu không có cơ chế pháp luật chặt chẽ.
Không chỉ người sử dụng mà cả Nhà nước cũng bị mất một nguồn thu lớn bởi do
những tổ chứ kể trên hoạt động chui nên sẽ không có mã số thuế đầy đủ dẫn đến việc
trốn thuế. Như vậy, việc có những quy định pháp luật để điều chỉnh trực tiếp vấn đề
này là hết sức quan trọng, thông qua đó sẽ Nhà nước sẽ có cơ chế quản lý chặt chẽ hơn
đối với “chuyển tiền chui”, “chuyển tiền ngầm” và đồng thời người sử dụng cũng được
bảo vệ.
Tuy nhiên, dù đã có những cảnh báo về rủi ro mà người sử dụng có thể gặp phải
khi chuyển tiền qua những kênh chuyển tiền không chính thức cũng như rất nhiều
trường hợp thực tế về việc này, nhiều người sử dụng vẫn lựa chọn chuyển tiền thông
qua hệ thống chuyển tiền không chính thức đặc biệt là ở mảng chuyển tiền quốc
tế.Trong bản khảo sát, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi: “Khi đã tìm hiểu và biết đến hệ
thống chuyển tiền không chính thức liệu bạn có muốn chuyển tiền thông qua hệ thống
này không hay tiếp tục lựa chọn chuyển tiền thông qua hệ thống ngân hàng”, có 42
người cho rằng sẽ tiếp tục sử dụng cả hai hệ thống, do hai hệ thống này có sự bổ trợ
cho nhau giúp khắc phục nhược điểm nên việc sử dụng cả hai hệ thống giúp cho người
sử dụng đạt được mục đích của mình trong từng trường hợp cụ thể. Cũng có 10 người
sẽ tiếp tục sử dụng hệ thống chuyển tiền không chính thức. Có đến hơn một nửa số
người thực hiện khảo sát bày tỏ muốn tiếp tục sử dụng hệ thống chuyển tiền không
chính thức, điều này có thể xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, một bộ phận người Việt rất nhẹ dạ cả tin, họ dễ bị đánh lừa bởi những
thông tin quảng cáo được những hệ thống chuyển tiền không chính thức và bất hợp
pháp đưa ra dẫn đến việc lựa chọn những hệ thống “chuyển tiền ngầm” để thực hiện
các giao dịch chuyển tiền. Hiện nay, trên Google có rất nhiều kết quả tìm kiếm liên
quan đến website của những hệ thống chuyển tiền bất hợp pháp mà không có sự kiểm
duyệt rõ ràng. Thông qua quảng cáo trên Google những hệ thống chuyển tiền này có
thể dễ dàng tiếp cận với người sử dụng hơn. Hầu hết những trang website này đều
không đưa ra căn cứ pháp lý rõ ràng về việc thành lập và hoạt động của các tổ chức
này. Hơn nữa, hiểu biết về kiến thức pháp luật cũng một số người cũng không cao, do
đó họ không phân biệt được đâu là hợp pháp, đâu là bất hợp pháp.
Thứ hai, nhiều tổ chức kinh doanh dịch vụ không chính thức đặc biệt là các tiệm
vàng đã đánh đúng vào tâm lý của người sử dụng với mức phí rẻ và tỷ lệ chênh lệch tỷ
giá hối đoái có lợi hơn cho người sử dụng. Nhiều người vì tham lợi trước mắt vẫn chấp
nhận lựa chọn những hình thức này để có thể nhận được số tiền lớn hơn bất chấp
những rủi ro không lường trước được mà họ có thể gặp phải, chưa kể đến đây là một
hoạt động phi pháp chính họ cũng có thể bị phạt cùng với tổ chức cung ứng dịch vụ
nếu bị phát hiện.
Thứ ba, chính cách thức hoạt động dựa trên sự khắc phục những ưu điểm của hệ
thống ngân hàng đã khiến nhiều người cân nhắc lựa chọn hệ thống chuyển tiền không
chính thức trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, chẳng hạn một người muốn nhận tiền của
người thân gửi về để có thể giao dịch mua bán nhà trong ngày nhưng nếu giao dịch
thông quan ngân hàng thì người đó chưa thể nhận tiền được ngay trong ngày hôm đó
bởi họ còn phải trải qua nhiều thủ tục khác nhau và phải chờ đợi thêm thời gian thì hệ
thống chuyển tiền không chính thức chính là lựa chọn thay thế hiệu quả. Thậm chí họ
chỉ cần ở nhà và chờ người mang tiền đến ngay trong ngày hôm đó.
Trên đây là những nguyên do hiện nay vẫn có nhiều người lựa chọn hệ thống
chuyển tiền không chính thức mặc dù giao dịch thông qua đó luôn tiềm ẩn những rủi
ro nhất định. Chính vì vẫn có nhiều người lựa chọn sử dụng nên hệ thống chuyển tiền
không chính thức vẫn tồn tại và cạnh tranh manh mẽ với hệ thống ngân hàng.
2.3.3 Tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với nền kinh tế
- xã hội
Hệ thống chuyển tiền không chính thức được xem như một phần của nền kinh tế.
Do vậy, hoạt động của nó cũng tạo ra những tác động nhất định đối với nền kinh tế
Việt Nam qua đó ảnh hưởng đến xã hội. Có thể thấy, hệ thống chuyển tiền không chính
thức hoạt động trong lĩnh vực tài chính, một khía cạnh của nền kinh tế, hơn nữa, đối
tượng kinh doanh chính của hệ thống này chính là tiền mặt và hưởng lợi bằng cách thu
phí đối với chuyển tiền trong nước, đối với chuyển tiền tiền quốc tế là cả phí chuyển
tiền và chênh lệch tỷ giá hối đoái. Tài chính là một trong những động lực để thúc đẩy
kinh tế phát triển, hơn nữa kiều hối mảng kinh doanh quan trọng của hệ thống chuyển
tiền không chính thức chính là một trong nhưng nguồn tài chính góp phần đem lại sự
phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam 21. Do vậy xét trên khía cạnh tích cực, hệ thống
chuyển tiền không chính thức cũng đóng góp và sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội
ở nước ta. Tuy nhiên, do nhiều tổ chức thuộc hệ thống chuyển tiền không chính thức
tồn tại và hoạt động phi pháp dẫn đến đây là một kênh thuận lợi để diễn ra hoạt động
rửa tiền, gây nên nhưng bất ổn cho nền kinh tế. Từ những căn cứ nêu trên, nhóm
nghiên cứu lựa chọn nền kinh tế - xã hội là đối tượng cuối cùng để thực hiện đánh giá
tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức.
a Đánh giá thông qua những tác động tích cực đối với nền kinh tế- xã hội mà hệ
thống chuyển tiền không chính thức đem lại
Theo thống kê từ WDI trong khoảng từ năm 2000-2017, kiều hối chiếm khoảng
12% tổng nguồn tài chính, quy mô kiều hối tăng nhanh cùng với tốc độ tăng trưởng
hàng năm cao hơn mức bình quân thế giới khoảng 10% 22. Có thể thấy rằng kiều hối
chính là một trong những thành phần quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam
phát triển, nhờ có kiều hối, Việt Nam có thêm nguồn thu ngoại tệ ổn định, tăng dự trữ
ngoại hối quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc nguồn vốn nước ngoài cũng như sức ép tỷ
giá của đồng đô la Mỹ, góp phần cân đối trong cán cân thanh toán thương mại. Mặt
khác, kiều hối giúp tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống cho người dân thông qua
đầu tư, kinh doanh của Việt kiều, đồng thời góp phần cải thiện ngân sách cho nhà ở, ý
tế, giáo dục, …. Hơn nữa, trong nhiều giai đoạn, giá trị của kiều hối còn tăng vượt so
với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). So với các nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) thì kiều hối vào Việt Nam luôn có
giá trị lớn hơn và luôn có tính ổn định cao hơn cả.
Do kiều hối có tầm quan trọng lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam, nhà nước luôn có những chính sách thu hút kiều hối, điều này được thể hiện rõ
rệt trong những văn bản quy phạm pháp luật được chính phủ ban hành để khuyến
khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Việt Kiều muốn gửi tiền về
21 Báo cáo tài chính cho phát triển bền vững – UNDP – 2018
22 Báo cáo cho phát triển bền vững – UNDP – 2018
nước cần phải thông qua các kênh chuyển tiền trong đó không thể không kể đến hệ
thống chuyển tiền không chính thức. Cùng với hệ thống ngân hàng, hệ thống chuyển
tiền không chính thức đã góp phần đưa kiều hối về nước, nhờ mạng lưới rộng lớn cũng
như phạm vi rộng, các kênh chuyển tiền không chính thức được khá nhiều Việt kiều ưa
chuộng để chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam.
Sự xuất hiện của các kênh chuyển tiền này cũng khiến cho lượng kiều hối
chuyển về Việt Nam gia tăng hơn bởi như đã đề cấp đến ở phần trên, nhiều nước trên
thế giới có nhưng giới hạn nhất định về số tiền gửi ra nước ngoài để phòng chống rửa
tiền hay tài trợ khủng bố. Do vậy, khi số tiền gửi qua hệ thống ngân hàng bị hạn chế,
người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay có thêm lựa chọn nữa là chuyển tiền thông qua
các kênh chuyển tiền không chính thức. Từ đó dẫn đến việc gia tăng lượng cung ngoại
tệ cho nền kinh tế Việt Nam. Như vậy, xét trên khía cạnh về tài chính đặc biệt là kiều
hối, hệ thống chuyển tiền không chính thức cũng có những đóng góp tích cực nhất
định góp phần thúc đẩy kinh tế phát triền và ổn định xã hội.
Trong phần đánh giá tác động của hệ thống chuyển tiền không chính thức đối với
hệ thống ngân hàng, nhóm nghiên cứu đã đề cập rằng, hai hệ thống này cạnh tranh trực
tiếp với nhau ở mảng kinh doanh dịch vụ chuyển tiền. Sự xuất hiện ,hoạt động và
phát triển mạnh mẽ của hệ thống chuyển tiền không chính thức thúc đẩy các ngân hàng
thương mại cần phải nỗ lực để cải thiện chất lượng dịch vụ nhằm giữ chân các khách
hàng trung thành và thu hút khách hàng mới. Như những phân tích của chúng tôi ở
trên các hệ thống chuyển tiền phi ngân hàng xuất hiện như một sự khắc phục hầu hết
những nhược điểm ở các ngân hành thương mại hiện nay. Thông qua đó, các ngân
hành có thể học tập để cải tiến phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm để giữ
vững vị trí của mình trên thị trường chuyển tiền. Khi mà sự cạnh tranh về giá không
còn là yếu tố có thể thu hút khách hàng thì chất lượng và dịch vụ kèm theo chính là
yếu tố mà cả hệ thống chuyển tiền không chính thức cũng như hệ thông ngân hàng cần
phải quan tâm.
Hiện nay, chất lượng dịch vụ giữa các ngân hàng thương mại cũng chưa thực sự
đồng nhất. Nhờ đó, hệ thống chuyển tiền không chính thức vẫn có thể tồn tại và phát
triển dựa trên việc khắc phục những nhược điểm này. Khi có sự cạnh tranh giữa hệ
thống chuyển tiền không chính thức và hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc ngân hàng
phải cải tiến nhiều hơn người sử dụng chính là những người có lợi đầu tiên, đối tượng
hưởng lợi tiếp theo không thể không kể đến nền kinh tế-xã hội. Hệ thống ngân hàng
cũng là một phần của nền kinh tế, hơn nữa so với hệ thống chuyển tiền không chính
thức, các ngân hàng là tổ chức hợp pháp và được sự thừa nhận của nhà nước, hoạt
động của các ngân hàng có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế. Ngân hàng
hoạt động kinh doanh tốt là một trong những nhân tố tạo nên động lực phát triển kinh
tế, ổn định xã hội. Một số tổ chức thuộc hệ thống chuyển tiền không chính thức đặt trụ
sở hoạt động ở nhiều nơi trên thế giới, do đó, nhằm mục đích rút ngắn thời gian hay
thủ tục trong chuyển tiền quốc tế, các ngân hàng thương mại có thể gia tăng hợp tác
quốc tế, đầu tư quốc tế. Điều này tạo điều kiện cho hội nhập và giao lưu của kinh tế
Việt Nam. Ngân hàng phát triển thu hút nhiều khách hàng, chiếm ưu thế hơn so với
các tổ chức thuộc hệ thống chuyển tiền không chính thức có thể góp phần đẩy lùi
nhưng tổ chức mà có hoạt động kinh doanh bất hợp pháp – những tổ chức mà đem đến
những tác động tiêu cực cho nền kinh tế-xã hội.
b Đánh giá thông qua những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế-xã hội mà hệ
thống chuyển tiền không chính thức đem lại
Bên cạnh những tác động tích cực, chúng ta cũng không thể bỏ qua những tác
động tiêu cực mà hệ thống chuyển tiền không chính thức đem lại cho nền kinh tế.
Dưới đây, nhóm nghiên cứu xin được đề cập một số vấn đề cơ bản mà hoạt động của
hệ thống chuyển tiền không chính thức có thể gây nên tác động tiêu cực cho nền kinh
tế - xã hội Việt Nam.
Thứ nhất, chúng ta đều thấy rằng hiện nay nhiều tổ chức thuộc hệ thống chuyển
tiền không chính thức là bất hợp pháp nhưng nhà nước chưa có quy định pháp luật rõ
ràng để quản lý những tổ chức này. Do đó, thông qua những tổ chức phi pháp, nhiều
hoạt động tội phạm có thể diễn ra điển hình trong số đó có thể kể đến buôn lậu, buôn
ma túy, tham nhũng,…cuối cùng dẫn đến những hoạt động rửa tiền gây những ảnh
hưởng xấu cho nền kinh tế. Do không có giấy tờ cho các giao dịch cũng nhưng không
quan tâm đến nguồn gốc của số tiền sẽ được lưu thông trong hệ thống, “chuyển tiền
ngầm” chính là kênh chuyển tiền lý tưởng được tội phạm, tổ chức tội phạm hợp pháp
hóa số tiền phi pháp của chúng. Những ảnh hưởng của rửa tiền đối với nền kinh tế là
rất lớn. Loại hình tội phạm này có ảnh hưởng tiêu cực bao trùm lên nhiều lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng,…Thông qua hệ thống chuyển
tiền không chính thức các luồng tiền sẽ được lưu chuyển gây ra những đột biến trong
cầu tiền tệ, bất ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái. Hoạt động rửa tiền làm giảm tính
hiệu quả của các công cụ tiền tệ của chính phủ, kích thích các hành vi tội phạm kinh tế
như trốn thuế, tham ô, mua bán nội gián, gian lận thương mại, tăng tính bất ổn định
của nền kinh tế. Rửa tiền còn làm cho các con số thống kê bị bóp méo dẫn đến khó
khăn trong việc hoạch định chính sách và làm giảm hiệu quả điều tiết của chính phủ.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy rằng những hoạt động phi pháp như
“chuyển tiền chui”, “chuyển tiền ngầm” - một phần của các hệ thống chuyển tiền
không chính thức đã có những tác động tiêu cực gián tiếp đến nền kinh tế khi trở thành
môi trường thuận lợi cho rửa tiền phát triển. Từ một hành động bất hợp pháp này dẫn
đến một hành động bất hợp pháp khác, tạo ra những tác động tiêu cực dẫn đến những
hệ lụy không đáng có đối với nền kinh tế kéo theo đó là sự bất ổn định của xã hội.
Không một xã hội nào có thể ổn định phát triển với sự hoạt động của các loại tội phạm
kể trên. Điều này cho thấy sự cấp thiết của việc cần có các quy định pháp luật để điều
chỉnh trực tiếp đối với hệ thống chuyển tiền không chính thức.
Thứ hai, ”chuyển tiền ngầm”, “chuyển tiền chui” là bất hợp pháp, hầu hết những
tổ chức như vậy đều được thành lập chui và không có đăng ký, do đó, những tổ chức
này không đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Điều này dẫn đến hành vi trốn thuế gây
thất thu cho ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước chính là nguồn chính để chi cho
các nhu cầu văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển,…Đây là
nhóm những nhân tố chính của xã hội. Ngân sách nhà nước bị thiếu hụt cũng dẫn đến
việc giải ngân cho các nhu cầu trên bị giảm. Khi những nhu cầu trên được đảm bảo ổn
định, đồng nghĩa với đó là xã hội ổn định và phát triển hơn, đời sống người dân cũng
được nâng cao. Đồng thời trốn thuế còn làm chậm việc thực thi những chính sách xã
hội của chính phủ. Xã hội chính là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi điều này. Như
vậy, nhà nước cần có những quy định hợp lý để quản lý loại hình này, nhằm tránh thất
thu ngân sách nhà nước. Nhà nước cũng cần đưa ra những chế tài mạnh mang tính chất
răn đe kết hợp với hoạt động quản lý nhằm đưa những hệ thống chuyển tiền không
chính thức đặt dưới sự giám sát của mình.
Thứ ba, chúng ta hiểu rằng một tổ chức bất hợp pháp ngang nhiên hoạt động và
không chịu bất cứ chế tài xử phạt nào từ phía nhà nước sẽ gây ra nhưng hậu quả xấu
cho xã hội. Khi một tổ chức thuộc hệ thống chuyển tiền chui được thành lập và thuận
lợi hoạt động, sản sinh ra nhiều lợi nhuận sẽ tạo tiền đề cho nhiều tổ chức khác ra đời.
Mạng lưới này càng rộng lớn thì càng tạo ra sự cạnh tranh gay gắt đối với hệ thống
chính thức thậm chí có thể thay thế một số tổ chức chính thức khác. Sẽ rất nguy hiểm
nếu những hệ thống “chuyển tiền ngầm” này tạo nên một thói quen giao dịch đối với
người Việt, chuyển hướng giao dịch hoàn toàn của một bộ phận người dân từ chính
thức sang không chính thức. Các hoạt động phi pháp khác cũng nhờ thế được hưởng
lợi từ sự phát triển của những hệ thống chuyển tiền này. Một xã hội thừa nhận những
hoạt động phi pháp diễn ra mà không bị quản lý hay xử phạt không thể nào là một xã
hội phát triển và ổn định, điều này kéo theo rất nhiều hệ lụy xấu cho nước ta. Từ đó có
thể hình thành nên tư duy và lối suy nghĩ chung cho người dân rằng những hệ thống
chuyển tiền trên không bất hợp pháp nên mới không phải chịu những chế tài xử phạt
của Nhà nước, do trình độ học vấn và dân trí của người dân không thực sự đồng đều
nên rất cần sự phổ cập kiến thức thực tế cũng như pháp luật về vấn đề này. Nếu không
có thể dẫn đến việc nhiều người không hiểu rõ vẫn sử dụng những hệ thống chuyển
tiền phi pháp này và qua đó vô tình tiếp tay cho những hoạt động tội phạm. Như vậy
tầm quan trọng của pháp luật điều chỉnh và việc phổ cập kiến thức pháp luật đối với
vấn đề này là rất lớn.
CHƯƠNG 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
HỆ THỐNG VÀ CƠ CHẾ THỰC THI LIÊN QUAN ĐẾN HỆ THỐNG
CHUYỂN TIỀN KHÔNG CHÍNH THỨC TẠI VIỆT NAM
3.1 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc phân tích và tìm hiểu về các hệ thống chuyển tiền không chính thức tại
một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, mỗi quốc gia
có những quy định, quan điểm khác nhau đối với hình thức này. Từ các quy định đó,
cùng với việc đánh giá về thực trạng hoạt động của hệ thống chuyển tiền không chính
thức ở Việt Nam, nhóm tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, Tăng cường sự hợp pháp của các kênh chuyển tiền không chính thức.
Cũng giống như các nước trên thế giới, hoạt động chuyển tiền qua các kênh không
chính thức của người sử dụng thông qua mối quan hệ - người thân quen, vận tải, chợ
đen, ... Do vậy, nhằm đẩy mạnh việc quản lý chặt chẽ trong các giao dịch chuyển tiền,
một số nước như Ấn Độ và Pakistan đã thực hiện việc cấm các hoạt động chuyển tiền
qua các kênh không chính thức, các giao dịch chuyển tiền, đặc biệt là ngoại hối và kiều
hối phải được thực hiện qua kênh ngân hàng thông thường hoặc công ty ngoại hối có
đăng ký thành lập. Tuy nhiên, việc cám hoàn toàn các hoạt động của các kênh không
chính thức là điều không dễ dàng bởi hoạt động vốn dĩ của nó là ẩn danh. Thay vào
đó,cách lựa chọn tốt nhất để vận hành hoạt động của hệ thống này đó là tăng sự hợp
pháp hóa hoạt động của chúng. Các biện pháp gần đây bao gồm đăng ký hoặc cấp
phép, báo cáo khách hàng và yêu cầu lưu trữ hồ sơ.hoạt động dịch vụ chuyển tiền, đặc
biệt đối với chuyển và nhận kiều hối là biện pháp nhằm tăng cường sự hợp pháp hóa,
tăng sự kiểm soát đối với việc tuân thủ các quy tắc và yêu cầu khi thực hiện giao dịch.
Việc đăng ký và lưu giữ hồ sơ đầy đủ được thực hiện theo khuyến nghị của Nhóm Đặc
trách tài chính về rửa tiền (FATF). Nỗ lực để cải thiện mức độ minh bạch trong các hệ
thống này bằng cách đưa chúng đến gần hơn với khu vực tài chính chính thức mà
không làm thay đổi bản chất cụ thể của chúng.
Thứ hai, Nâng cao chất lượng và cải tiến dịch vụ của kênh Ngân hàng. Không thể
phủ nhận sự thuận lợi mà các hệ thống chuyển tiền không chính thức đem lại đối với
các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là nền kinh tế Việt Nam, cho nên một số quốc gia
đã lựa chọn giải pháp hoàn thiện hệ thống ngân hàng thay vì cấm hoàn toàn các giao
dịch chuyển tiền thông qua hệ thống chuyển tiền không chính thức. Cụ thể, tại
Philipines, thay vì nhắm trực tiếp vào hoạt động của IVTS, Ngân hàng Trung ương,
thông qua Hiệp hội Ngân hàng Philippines, đã khuyến khích các ngân hàng đổi mới và
nhân rộng các lợi thế do hệ thống không chính thức mang lại. Ngoài ra, tiện ích của
các kênh không chính thức đó là việc chuyển và nhận tiền tận nhà, do đó các ngân
hàng ở các nước đã cung cấp dịch vụ giao tiền tận nơi. Đặc biệt, với việc sử dụng công
nghệ mạnh mẽ, các ngân hàng đẩy mạnh việc mở rộng các tài khoản ngân hàng tại khu
lao động đồng thời tăng sự tương tác với người sử dụng dịch vụ tại ngân hàng khi họ
đến thực hiện giao dịch. Bên cạnh đó, các ngân hàng mở rộng hoạt động của mình
bằng việc đã thành lập các chi nhánh trong các khu vực được cộng đồng người nước
ngoài cư trú và giảm phí cho các dịch vụ liên quan đến chuyển tiền. Các chi nhánh
ngân hàng đã thay đổi giờ làm việc để phù hợp với nhóm khách hàng mà họ hướng
đến và đã bắt đầu cung cấp dịch vụ chuyển tiền nhanh hơn cho các quốc gia.
Thứ ba, Xây dựng khung pháp lý chặt chẽ, đầy đủ. Trước hết, các kênh chuyển
tiền không chính thức là nơi bị các tội phạm lợi dụng để thực hiện các vấn nạn như
tham nhũng, buôn lậu, rửa tiền và tài trợ khủng bố. Những hành vi vi phạm này
thường thiếu kiểm soát bởi các hoạt động chuyển tiền thông qua các kênh này không
có sự điều chỉnh, diễn ra dưới sự trá hình của một loại hình kinh doanh. Vì vậy, một số
nước đã thực hiện việc đặt ra quy định đưa ngân hàng trung ương là chủ thể giám sát
đối với các hệ thống chuyển tiền không chính thức đã đăng ký kinh doanh dịch vụ
chuyển tiền. Từ đó, hệ thống chuyển tiền không chinh thức phải chịu sự giám sát
thường xuyên giống như kênh chính thức thông qua việc thực hiện các yêu cầu và
kiểm tra về các vấn đề hồ sơ, quyền sở hữu, hoạt động kiểm toán thường xuyên. Bên
cạnh đó, các vấn đề tội phạm tiềm tàng đặc biệt là rửa tiền và khủng bố được thực hiện
qua các kênh chuyển tiền không chính thức. Vì thế, tăng cường, bổ sung các quy định
về xử lý vi phạm bằng các chế tài dân sự, hành chính và đặc biệt là hình sự nhằm răn
đe đối với các chủ thể có ý định thực hiện hành vi vi phạm. Ả rập Saudi là một trong
những nước chịu tác động mạnh mẽ bởi tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố, do đó
nước này đã đặt ra một đạo luật cấm các giao dịch Hawala bất hợp pháp, tức là cấm
mọi người không có giấy phép tham gia vào bất kì hoạt động kinh doanh nào. Người
nào vi phạm sẽ bị xử lý bằng chế tài hình sự, đó là phạt tù với thời hạn không quá hai
năm và phạt tiền không quá 5000 SRI.
Cuối cùng về thực thi pháp luật, cần thiết lập một cơ quan chủ quản quản lý chặt
chẽ vấn đề này là điều quan trọng. Chẳng hạn như UK đã đặt vai trò quản lý này cho
Cục hải quan và Tiêu thụ đặc biệt hơn là Cơ quan dịch vụ tài chính. Các nhà hải quan
nhấn mạnh rằng các nhà khai thác sẽ chịu trách nhiệm xác định những điểm đáng ngờ
và lưu giữ tài liệu cho mục đích nhận dạng khách hàng. Bên cạnh đó, cần có sự kết
hợp của các cơ quan quản lý của liên bang, của một nhà nước. Việc hợp tác sẽ làm
giảm thiểu rủi ro do vi phạm, đảm bảo tốt hơn rằng các đối tượng đáp ứng được các
yêu cầu, tạo ra thông tin bổ sung, ngăn chặn các cố gắng bị chồng chéo. Cụ thể, tại
Canada, Nhà nước đã thực hiện tăng cường sự phối hợp giữa OSFI, FINTRAC và các
cơ quan quản lý khác. Trong khi FINTRAC không phải là một cơ quan quản lý thì nó
vẫn có thể chịu trách nhiệm về điều tra các giao dịch và hành động cụ thể liên quan
đến hành động bất hợp pháp. Ngược lại, OSFI không điều tra các trường hợp cụ thể
nhưng cơ quan này quan tâm đầu tiên đến quản lý chất lượng quản lý và hệ thống điều
hành. OSFI có thể chuyển mối quan tâm của mình cho FINTRAC để có thể trợ giúp
đánh giá tốt hơn về các nỗ lực AML/CFT được thực hiện như thế nào. FINTRAC có
thể chuyển các quan tâm của mình cho OSFI để được giúp đỡ xác định và định hướng
accs nguồn lực đến các lĩnh vực được quan tâm. Phối hợp giữa các cơ quan thực thi
pháp luật, đặc biệt trong vấn đề giám sát quản lý sẽ là phương pháp tối ưu đấu tranh
chống lại các tội phạm thực hiện thông qua cả kênh chính thức và không chính thức.
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện hoàn thiện hệ thống pháp luật
Thứ nhất, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa xây dựng một văn bản nào
quy định cụ thể, chi tiết các vấn đề liên quan đến hệ thống chuyển tiền không chính
thức. Các quy định liên quan được quy định bởi các văn bản dưới luật. Chẳng hạn,
Điều 3 Thông tư số 20/2011/TT-NHNN quy định về việc mua bán ngoại tệ tiền mặt
của cá nhân chỉ được thực hiện tại các địa điểm được phép mua/bán ngoại tệ; Điều này
quy định về việc mua và bán ngoại tệ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng được
phép. Hay về hạn mức giao dịch tiền mặt tại Việt Nam không được vượt qua mức 300
triệu đồng (theo Quyết định số 20/2013/QĐ-TTg ngày 18/4/2013 của Thủ tướng Chính
phủ quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo). Việc đưa ra các quy
định ở những văn bản dưới luật là rất khó tìm và gây ra vấn đề các nội dung bị rời rạc
khi tìm hiểu về vấn đề này. Do đó, nhóm tác giả đề xuất việc xây dựng một quy phạm
riêng biệt điều chỉnh các vấn đề liên quan đến cơ chế hoạt động, phạm vi hoạt động,
… phù hợp với Hiến pháp, Điều ước quốc tế và phù hợp với nền kinh tế - xã hội Việt
Nam.
Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về bảo mật thông tin khách hàng sử dụng
dịch vụ chuyển tiền. Nghị định 80/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số
101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt
ra đời đã đưa ra nhiều chủ trương , chính sách điều hành đối với hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt. Từ đây, hoạt động của các ví điện tử, các phần mền chuyển tiền
online, chuyển tiền nhanh phát triển nhanh chóng, đem lại hiệu quả cho các ngân hàng
và các tổ chức kinh doanh dịch vụ chuyển tiền, đặc biệt mang lại nhiều tiện ích cho
người sử dụng. Điển hình, cho vấn đề này là sự tăng nhanh chóng số lượng thẻ ngân
hàng được phát hành và số lượng truy cạp của khách hàng. Tuy nhiên, một vấn đề xảy
ra đó là các ngân hàng và các tổ chức chuyển tiền không chính thức vì cạnh tranh nhau
mà bỏ qua tính an toàn và bảo mật thông tin khách hàng. Do đó, vấn đề câp thiết là
Ngân hàng Nhà nước cần có quy định cụ thể đối với việc lưu giữ hồ sơ khách hàng ,
tăng cường số hóa thông tin, đồng thời kết nối các dữ liệu thông tin trên một hệ thống
để tránh việc lợi dụng nguồn thông tin bị đánh cắp thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài
sản.
Thứ ba, xây dựng và bổ sung các quy định xử lý chặt chẽ đối với hành vi vi
phạm. Trong vụ cựu tiếp viên hàng không Hà Thị Thùy Dương (34 tuổi, làm việc cho
hãng hàng không Asiana Airline) với tội danh “vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên
giới” được đưa ra trong phần II, phân tích ở trên. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định
theo Bộ luật Hình sự 2015 tại khoản 3 điều 189 quy định về vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới như sau: “Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp trị giá
từ 500 triệu đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1 tỷ đến 3 tỷ đồng; hoặc bị phạt tù từ 5 năm
đến 10 năm”. Theo HĐXX, bị cáo Dương đã chứng minh được khả năng tài chính nên
có thể áp dụng quy định mới của BLHS 2015 về việc áp dụng một số quy định có lợi
cho người phạm tội. Từ đó, tòa chấp nhận yêu cầu, buộc cựu tiếp viên hàng không nộp
phạt 1,2 tỷ đồng về hành vi bị truy tố. Các quy định về xử lý các hành vi vi phạm cũng
đã được đưa ra quy định trong Bộ luật Hình sự với các chế tài xử lý là phạt tiền, phạt
tù đối với giá trị chuyển tiền lớn về hoạt động chuyển tiền quốc tế. Tuy nhiên, Cơ quan
Nhà nước cần bổ sung thêm các quy định hướng dẫn thi hành biện pháp hành chính,
dân sự hoặc hình sự đối với vấn đề xử phạt lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
3.3 Một số đề xuất giải pháp đối với cơ chế thực thi pháp luật liên quan
đến hệ thống chuyển tiền không chính thức
Hệ thống chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam đã có những tác động
không nhỏ đến hệ thống ngân hàng, chủ thể sử dụng và nền kinh tế xã hội. Bên cạnh
những mặt tích cực mà hệ thống chuyển tiền không chính thức đem lại, nó còn tồn tại
những mặt hạn chế đối với ba chủ thể này. Đặc biệt, vấn đề về các tội phạm lợi dụng
hình thức này để thực hiên các hành vi vi phạm như trốn thuế, buôn lậu, rửa tiền, …
chưa có sự kiểm soát chặt chẽ, do đó biện pháp nhóm đưa ra chung quy về một mục
đích cuối cùng là để quản lý, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động chuyển tiền không
chính thức. Việc nhóm tác giả đưa ra đề xuất dành cho ba chủ thể là chủ thể cung ứng
dịch vụ, Nhà nước và chủ thể sử dụng dịch vụ với các lý do sau:
Thứ nhất, chủ thể cung ứng dịch vụ được đưa ra trong bài nghiên cứu đó là các
hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng và hệ thống chuyển tiền không
chính thức. Hai chủ thể này là các tổ chức cung cấp dịch vụ chuyển tiền, có sự cạnh
tranh với nhau trên thị trường Việt Nam. Hệ thống chuyển tiền không chính thức xuất
hiện là để đáp ứng những nhu cầu mà hệ thống Ngân hàng còn thiếu sót như dịch vụ
chuyển tận nhà, khả năng khó tiếp cận đến các chi nhánh Ngân hàng ở vùng núi và sâu
xa, quy trình thủ tục chuyển tiền,… Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra chủ thể Ngân hàng là
chủ thể đầu tiên để đề xuất giải pháp bởi hệ thống này trực tiếp bị ảnh hưởng từ sự
cạnh tranh của kênh chuyển tiền không chính thức. Bên cạnh đó, các hệ thống Ngân
hàng đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền kinh tế của Việt Nam trong
việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định thị trường tiền tệ, đẩy lùi lạm phát. Do vậy,
các đề xuất của nhóm đưa ra đối với chủ thể này tập trung vào việc cải thiện và nâng
cao chất lượng dịch vụ, đồng thời tăng cường sự quản lý thanh tra các hoạt động dịch
vụ nhằm kiểm soát những sai phạm. Ngoài ra, không thể phủ nhận những tiện ích mà
hệ thống chuyển tiền không chính thức đem lại cho người sử dụng. Do đó, nhóm tác
giả nhận định tiếp tục phát triển hệ thống chuyển tiền không chính thức bằng việc tăng
cường những ưu điểm đó và hạn chế những ngược điểm, đặc biệt là vấn đề tội phạm
xảy ra thông qua hoạt động của hệ thống này.
Thứ hai, hệ thống chuyển tiền không chính thức hình thành theo hai con đường:
Một là hình thành tự phát dự trên văn hóa, truyền thống dân tộc, thói quen sinh hoạt
vùng miền; Hai là hình thành dưới sự cấp phép của Nhà nước tức là có sự can thiệp
của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển của hệ thống này trên thị trường tài chính nói riêng, nền kinh tế thị trường nói
chung. Hơn thế nữa, Nhà nước là cơ quan thiết lập khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các
hoạt động của cả hệ thống chuyển tiền chính thức lẫn hệ thống chuyển tiền không
chính thức. Ngoài ra, Nhà nước còn là cơ quan giám sát, quản lý quá trình thực thi
pháp luật cũng như các hoạt động liên quan đến hoạt động tài chính – ngân hàng, mà
trọng tâm trong nghiên cứu này nhấn mạnh đến sự quản lý đối với hoạt động chuyển
tiền. Từ đây, nhóm tác giả đưa ra đề xuất kiến nghị đến chủ thể Nhà nước nhằm mục
đích tăng cường việc quản lý, kiểm soát thực thi pháp luật của các cơ quan ban ngành,
đồng thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Cuối cùng, chủ thể người sử dụng cũng là chủ thể chịu tác động trực tiếp bởi cơ
chế hoạt động của cả hai kênh chuyển tiền này. Việc lựa chọn hình thức nào trong giao
dịch chuyển tiền chính là từ quyết định của cá nhân người sử dụng. Bên cạnh đó, họ
cũng là người liên quan đến sự phát triển của các loại hình dịch vụ chuyển tiền và
mang đến lợi nhuận cho cả hai hình thức này. Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức
chuyển tiền qua hệ thống không chính thức đem đến những rủi ro, tổn thất về vật chất
đối với người sử dụng khi họ chưa thực sự hiểu rõ về cách thức hoạt động và sự quản
lý điều chỉnh của pháp luật cụ thể. Bởi vậy, bên cạnh việc các hệ thống cung ứng dịch
vụ đã có những biện pháp khắc phục những hạn chế, Nhà nước cũng đã có những cơ
chế quy định và quản lý riêng, thì chủ thể sử dụng dịch vụ cũng cần có những biện
pháp để trở nên phù hợp đối với hai đối tượng trên. Do đó, nhóm tác giả cũng đưa ra
một số đề xuất nhằm đưa đến cho người sử dụng cách tốt nhất để có một giao dịch
hiệu quả, an toàn và tiện ích.
3.3.1 Đối với chủ thể cung ứng dịch vụ
a Đối với hệ thống Ngân hàng
Hệ thống Ngân hàng cũng cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước,
tạo ra sự thuận tiện đối với người sử dụng, đồng thời mang đến lợi nhuận từ các khoản
thu từ phí, lệ phí hay hoa hồng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của hệ thống chuyển tiền
không chính thức song song với hệ thống ngân hàng mang đến sự cạnh tranh trong
dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế. Dần dần, sự lớn mạnh trong cách thức hoạt
động và những điểm tiện ích được người tiêu dùng ghi nhận đã đánh dấu sự xâm
chiếm thị phần, tạo một chỗ đứng nhất định trong dịch vụ chuyển tiền, đặc biệt là trong
thị trường chuyển và nhận kiều hối. Bởi vậy, để thu hút và khả năng tiếp cận người sử
dụng tiếp tục sử dụng hoạt động chuyển tiền của các Ngân hàng thương mại, thì nhóm
chủ thể này có thể áp dụng các giải pháp được nhóm tác giả đề xuất như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng hợp lý cơ cấu tổ chức chi
nhánh, lĩnh vực kinh doanh
Một là, cải thiện và cung cấp mức phí hợp lý. Mặc dù, như đã phân tích ở trên, sự
chênh lệch về mức phí giữa hai hệ thống chuyển tiền chính thức và không chính thức
là không đáng kể đối với dịch vụ chuyển tiền trong nước nhưng lại có sự chênh lệch
đáng kể đối với dịch vụ chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam đã khiến nhiều người
từ bỏ sử dụng dịch vụ của các ngân hàng mà lựa chọn qua các kênh chuyển tiền ngầm,
không chính thức. Theo anh Trần Văn Toàn (quê Nghi Lộc - Nghệ An), làm việc tại
Hàn Quốc cho hay: “Hồi mới sang lao động tại Hàn Quốc, tôi phải đi 40 km mới tìm
được ngân hàng để chuyển tiền và phí rất đắt (chuyển 2.000 USD về Việt Nam mất
hơn 100 USD tiền phí). Sau đó, tôi chỉ chuyển tiền qua các đường dây ngầm. Khi có
nhu cầu, tôi chỉ thông báo số tiền cần gửi, ở Việt Nam sẽ có người mang đến tận nhà
cho gia đình. Khi gia đình báo tin sang, tôi mới thanh toán cho bên chuyển tiền với
mức phí rẻ hơn hoặc tương tự ngân hàng mà không mất nhiều thời gian” 23. Tuy nhiên,
việc các ngân hàng áp dụng mức phí tương đối cao này là bởi vì phải duy trì các
chương trình tuân thủ đi kèm, đảm bảo an toàn cho đồng tiền. Bên cạnh đó, các tổ
chức chuyển tiền còn phải chia sẻ phí với các đại lý. Do vậy, để cải thiện và cung cấp
mức phí hợp lý cho người sử dụng thì các hệ thống Ngân hàng cần có củng cố năng
lực tài chính, cải thiện về vốn, quản trị rủi ro, xử lý nợ xấu, tạo nền tảng tài chính vứng
chắc nhằm có những khuyến mãi dịch vụ và mức biểu phí phù hợp với điều kiện phát
triển của người sử dụng.
Hai là, cải tiến quy trình, tăng mức độ thuận tiện cho người sử dụng. Mạng lưới
giao dịch các ngân hàng tại các thành phố lớn hiện nay khá dày đặc, trên những con
phố sầm uất và phát triển có thể thấy sự xuất hiện của 4-5 phòng giao dịch ngân hàng.
Theo báo cáo thường niên năm 2018 của Ngân hàng Vietcombank, tính đến
31/12/2018, VCB hiện có 106 Chi nhánh với 431 phòng giao dịch hoạt động tại 54/63
tỉnh thành phố trong cả nước riêng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có 32 Chi
nhánh, chiếm 30%24. Hay những ngân hàng nhỏ như TP bank có khoảng 75 chi nhánh
23 http://ndh.vn/chuyen-tien-chui-lam-kho-ngan-hang-20151210090724762p4c149.news
24 Thống kê từ http://www.vietcombank.com.vn/upload/2019/04/19/20190419%20-%20Vietcombank%20-
%20AR%202018%20lan%202.pdf?7
phòng giao dịch thì gần 50 điểm tập trung ở 2 thành phố lớn nhất nước Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh25. Có thể thấy, các ngân hàng ngày càng mở rộng các chi
nhánh, điểm giao dịch nhưng tốc độ mở rộng đến các vừng nông thôn, vùng sâu xa còn
hạn chế. Mặt khác có đến 65% dân số Việt Nam sinh sống tại các vùng nông thôn do
đó nhu cầu việc chuyển và nhận tiền là tương đối cao. Do vậy, để tăng mức độ thuận
tiện cho người sử dụng, các ngân hàng cần đẩy mạnh việc mở rộng thêm các chi nhánh
và điểm giao dịch tại vùng nông thôn. Bên cạnh đó, trong thời đại Công nghệ 4.0, các
Ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ chuyển tiền hiện
đại, cải tiến các thủ tục, quy trình thực hiện giao dịch trên nền tảng di động, Internet.
Ngoài ra, với hình thức giao dịch tại quầy, mỗi ngân hàng cần có sự hướng dẫn cụ thế
và chi tiết đầy đủ đến người sử dụng nhằm mang đến cung cấp quy trình, thủ tục một
cách nhanh chóng và thuận tiện.
Ba là, tăng cường sự an toàn, bảo mật, giảm thiểu rủi ro. Việc sử dụng công nghệ
thông tin vào trong các giao dịch chuyển tiền không dùng tiền mặt gây ra sự thất thoát
thông tin, “hack” tài khoản và ăn cắp tiền gây ra những bất lợi cho người sử dụng khi
thực hiện các giao dịch Internet banking/Mobile Banking/ATM. Bởi vậy, các Ngân
hàng cần chú trọng vào công tác đảm bảo an ninh, an toàn để tranh những rủi ro tiêu
cực, tội phạm từ mặt trái công nghệ. Để làm được điều này, các Ngân hàng cần mở ra
các Dự án nghiên cứu tăng khả năng quản trị rủi ro và ứng phó với rủi ro hệ thống,
đồng thời cần thường xuyên quản lý, kiểm tra hệ thống thông tin quản lý tiền ảo, tiền
điện tử để đảm bảo an toàn.
Thứ hai, Tăng cường công tác quản lý, giám sát tổ chức hoạt động
Trước hết, hệ thống Ngân hàng tiếp tục năng cao vai trò tổ chức, quản lý, kiểm
soát chặt chẽ các hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động chuyển tiền. Để thực hiện
được điều này, các Ngân hàng cần thường xuyên xây dựng các Đề án thanh tra, giám
soát hoạt động của các chi nhánh, phòng giao dịch để phát hiện kịp thời và hạn chế tối
đa những sai phạm.
Sau là, các Ngân hàng cần quan tâm đến việc xây dựng phẩm chất cán bộ, mở
rộng đội ngũ nhân sự tài giỏi, kỷ cương thông qua việc đẩy mạnh công tác giáo dục,
đào tạo các cán bộ, nhân viên. Các Ngân hàng có thể thực hiện các buổi học đào tạo
thường xuyên theo Quý hoặc theo năm về chuyên môn hoặc các vấn đề khác như tham
nhũng và các vấn đề liên quan đến tội phạm, các vấn đề pháp lý liên quan như Luật
25 http://s.cafef.vn/BID-279000/mang-luoi-cua-cac-ngan-hang-viet-nam-hien-nay-ra-sao.chn
phòng, chống rửa tiền, Pháp lệnh Ngoại hối, … để nhằm cung cấp các kiến thức pháp
luật cho cán bộ, công nhân viên. Ngoài ra, việc tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề,
trao đổi kinh nghiệm từ các bộ phận cấp cao giúp cán bộ, nhân viên trong tổ chức có
thể rút ra kinh nghiệm xảy ra trong thực tiễn nhằm có được sự ứng phó kịp thời, tránh
những vi phạm. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần đẩy mạnh việc quản lý theo cơ chế khen
thưởng – xử phạt rõ ràng, nghiêm minh, siết chặt kỷ cương để có một cơ cấu tổ chức
hoàn chỉnh.
b Đối với hệ thống chuyển tiền không chính thức
Hệ thống chuyển tiền không chính thức mang đến cơ hội cho người sử dụng tiếp
cận và sử dụng loại hình này rộng rãi và phổ biến bên cạnh sự đơn giản trong thủ tục,
thời gian nhanh chóng và mức phí rẻ. Bởi vậy, hệ thống này cần tăng cường công tác
cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ. Cũng giống như các hệ thống Ngân hàng,
các công ty đăng ký cấp phép thực hiện dịch vụ chuyển tiền đều sử dụng công nghệ
4.0 trong thực hiện giao dịch. Đó là việc đăng ký một tài khoản của người sử dụng với
việc kết nối đến số tài khoản ngân hàng được liên kết trong một ứng dụng trên điện
thoại d động có kết nối Internet. Mọi giao dịch được thực hiện khi có sự xác thực của
chủ thể về mã OPT được cung cấp bởi nhà mạng. Do đó, các hệ thống chuyển tiền
không chính thức cũng cần có sự nâng cao tính an toàn trong bảo mật thông tin khách
hàng bằng việc xây dựng đội ngũ hệ thống mạng đảm bảo tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, các
hệ thống chuyển tiền không chính thức cần tiếp tục mở rộng các chi nhánh, cơ sở giao
dịch để có thể tiếp cận khách hàng gần gũi hơn, đồng thời có thể nâng cao chất lượng
dịch vụ bằng việc đưa ra những giải đáp thắc mắc kịp thời đến người sử dụng khi có
vấn đề phát sinh. Hơn thế nữa, bộ phận sử dụng loại hình này đa số là người nông dân
vùng núi, vùng sâu xa mà các Ngân hàng khó tiếp cận bởi vấn đề tạo ra lợi nhuận ở
những vùng này khá khó khăn và tầng lớp chủ yếu là người già nên việc sử dụng các
yếu tố là vô cùng khó khăn. Do đó, các hệ thống này bên cạnh việc mở rộng cở sở giao
dịch thì cũng cần có đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục tài chính cộng đồng
để nâng cao nhận thức người sử dụng, tránh việc chuyển nhầm, chuyển sai gây mất
thời gian. Điều này có thể thực hiện bằng việc các giao dịch viên tại cơ sở của các hệ
thống sẽ đưa ra những hướng dẫn chi tiết và giải đáp cặn kẽ các vấn đề còn khúc mắc
bởi người sử dụng.
Một trong vấn đề gây ra sự lo ngại lớn nhất khi lựa chọn hình thức này là bởi rủi
ro cao có thể xảy ra. Bởi lẽ, bên cạnh các hình thức hoạt động dựa trên sự cấp phép
của Nhà nước thì đa số các hoạt động dựa trên văn hóa vùng miền, truyền thống dân
tộc và thói quen của người sử dụng. Do đó, các hệ thống chuyển tiền không chính thức
cần tăng cường tính minh bạch trong các hoạt động chuyển tiền bằng việc lưu trữ các
hồ sơ giao dịch, hồ sơ khách hàng. Bên cạnh đó, các giao dịch được thực hiện dựa trên
sự thỏa thuận, trao đổi giữa các bên, do vậy, hệ thống chuyển tiền không chính thức –
chủ thể cung ứng dịch vụ cần đảm bảo sự nhất quán trong các giao dịch bằng việc xác
lập sự thỏa thuận bằng một hình thức cụ thể, để trong trường hợp có vi phạm hay tranh
chấp xảy ra có thể đảm bảo được quyền lợi cho người sử dụng. Từ đây, các hệ thống
này có thể tăng mức độ tin cậy đối khách hàng, thu hút người sử dụng tiếp cận đến các
dịch vụ được cung ứng.
Sự cần thiết trong việc xây dựng các đạo luật, quy định nhằm phù hợp với thực
tiễn hoạt động chuyển tiền tại Việt Nam là điều quan trọng. Tuy vậy, việc thực thi pháp
luật là do ý thức trách nhiệm của chủ thể này. Mặt khác, việc tiếp tay cho tội phạm
thực hiện các hành vi vi phạm là bởi chủ quan của người cung ứng dịch vụ. Do đó, hệ
thống chuyển tiền không chính thức càn có cơ chế quản lý, giám sát, điều phối chặt
chẽ đối với hoạt động chuyển tiền nhằm theo sát và ngăn chặn tội phạm lợi dụng cho
các hành vi phi pháp. Để làm được điều này, trước hết các hệ thống chuyển tiền không
chính thức ở dạng bất hợp pháp cần tự giác chuyển đổi thành hợp pháp, có sự điều
chỉnh của Nhà nước. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng công,
nhân viên trong tổ chức. Đặc biệt những người đứng đầu cần gương mẫu trong việc tự
giác thực thi pháp luật, thường xuyên đánh giá, kiểm tra sổ sách, giấy tờ đảm bảo minh
bạch, hợp pháp. Ngoài ra, việc áp dụng ký luật nghiêm minh trong việc xử lý các
trường hợp vi phạm là biện pháp răn đe ngăn chặn hành vi vi phạm diễn ra trong nội
bộ tổ chức.
3.3.2 Đối với Nhà nước
Thứ nhất, tăng cường sự quản lý, giám sát, điều hành các hoạt động của hệ thống
chuyển tiền không chính thức. Thông qua hệ thống pháp luật cùng các cơ quan chuyên
trách, đặc biệt là chủ thể Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng thanh tra các hoạt
động giao dịch tại các trụ sở của hệ thống này, bên cạnh đó, kiểm tra, đối soát giấy tờ
liên quan đến tài chính, các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong các giao dịch
chuyển tiền. Khi phát hiện các nghi vấn hay sai phạm cần đưa vào xử lý nghiêm nhặt
với các quy định đề ra.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác phòng chống các hoạt động phi pháp thông qua hệ
thống chuyển tiền phi chính thức. Trốn thuế, buôn lậu, rửa tiền được xem là một trong
các hoạt động phi pháp mà các tổ chức cá nhân thực hiện thông qua kênh chuyển tiền
phi chính thức. Hoạt động này là một trong các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng và
khủng bố. Và vấn đề phòng chống tham nhũng ở Việt Nam vẫn chưa được diễn ra một
cách triệt để vì nó liên quan đến nhiều giao dịch thuộc nhiều cấp, ở những vị trí khác
nhau mà dường như được tạo thành một hệ thống cụ thể. Do vậy, vấn đề đặt ra và hữu
hiệu nhất chính là đánh vào ý thức trách nhiệm mà điều này được tạo nên từ vấn đề
chú trọng đến công tác giáo dục con người. Nhà nước cần thực hiện các chủ trương,
chính sách khuyến khích giáo dục thông qua công tác tuyên truyền giáo dụcphổ biến
pháp luâtj và nâng cao dân trí tăng sự hiếu biết cho người sử dụng để nhận thức rõ về
các vấn đề phi pháp và hậu quả pháp lý của việc thực hiện các hoạt động trốn thuế, rửa
tiền.
Thứ ba, Tăng cường sự phối hợp quản lý, điều tra, giám sát hoạt động thực thi
pháp luật của các Cơ quan, ban ngành có thẩm quyền. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan
đầu mối về chính sách và chiến lược quản lý, kiểm tra sự tuân thủ đã đặt ra. Bộ công
an là cơ quan ngăn chặn các vấn đề vi phạm và điều tra, xử lý các vấn đề để đưa ra
thông tin đến công chúng, người sử dụng. Do vậy, Nhà nước cần thiết lập một cơ chế
phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn để đảm
bảo sự thắt chặt, xử lý triệt để việc phòng chống các hoạt động phi pháp.
Cuối cùng, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các quốc gia trong khu vực.
Việc kiểm soát và quản lý vấn đề liên quan đến tội phạm liên quan đến hệ thống
chuyển tiền không chính thức không chỉ đảm bảo an ninh quốc gia mà còn đảm bảo
cho cả quốc gia khác khi quốc gia đấy có dấu hiệu nghi ngờ về hành vi phạm tội. Do
đó, việc mở rộng quan hệ hợp tác nhằm có sự phối hợp và trợ giúp trong vấn đề điều
tra và xử lý vi phạm. Để có thể làm được điều này, Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển
nền kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng lực lượng an ninh chất lượng bên
cạnh việc tổ chức các buổi giao lưu hữu nghị, hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, …mang đến sự hợp tác lâu dài - hữu nghị.
3.3.3 Đối với chủ thể sử dụng
Sự hình thành và mở rộng của hệ thống chuyển tiền phi chính thức đã giúp người
sử dụng có thêm nhiều sự lựa chọn. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, hệ thống này
có tác động không nhỏ đến người sử dụng. Từ đây, nhóm tác gỉa đề xuất một số giải
pháp đối với chủ thể sử dụng dịch vụ nhằm hạn chế rủi ro khi sử dụng các dịch vụ của
hệ thống chuyển tiền:
Thứ nhất, sự nhẹ dạ cả tin, cùng với tâm lý tham rẻ - có hời đã khiến một bộ phận
người Việt dễ bị đánh lừa bởi những thông tin quảng cáo được những hệ thống chuyển
tiền không chính thức nhưng bất hợp pháp.Chỉ cần một “click” vào Google, hay thông
qua người quen, chủ thể sử dụng đã có thể giao một lượng tiền lớn để chuyển đến một
chủ thể khác. Người sử dụng có thể tiếp cận một cách dễ dàng đến thông tin của các
kênh chuyên kinh doanh dịch vụ chuyển tiền. Do vậy, sự sáng suốt trong việc chọn lọc
nguồn thông tin chính xác là hết sức cần thiết.để tìm hiểu từ nhiều nguồn, xác định nó
có hợp khác hay không. Chủ thể sử dụng cần tìm hiểu rõ nguồn gốc hoạt động, cũng
như đưa ra đánh giá khách quan trước khi chọn hình thức chuyển tiền này.
Thứ hai, những rủi ro đa số đều bắt nguồn bởi sự thiếu hiểu biết về kiến thức
pháp luật, do đó họ không phân biệt được đâu là hợp pháp đâu là bất hợp pháp. Người
sử dụng cần trang bị cho mình kiến thức vững chắc về cách thức hoạt động của các
loại hình này. Bên cạnh đó tìm hiểu về quyền, lợi ích hợp pháp trong việc thực hiện
giao dịch. Việc tiếp cận kiến thức pháp luật ngày càng trở nên dễ dàng hơn bởi công
nghệ thông tin lan rộng. Người sử dụng cũng cần tham gia các buổi định hướng,
hướng dẫn sử dụng dịch vụ tương tự bởi Ngân hàng nhà nước, hệ thống các Ngân hàng
thương mại. Sự trang bị kiến thức pháp luật cho riêng mình sẽ là công cụ hữu hiệu
nhất để tự bảo vệ chính bản thân người sử dựng, nhằm tránh việc các kênh phi hợp
pháp lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, Kênh ngân hàng – kênh chính thức đang ngày càng thay đổi phù hợp với
điều kiện sống của người sử dụng. Các dịch vụ và giá sử dụng ngày càng được cân
bằng. Hệ thống chi nhánh càng được mở rộng đến các vừng sâu xa. Công nghệ số
trong chuyển khoản liên ngân hàng, chuyển khoản nhanh ngân hàng ngày được phổ
cập rộng rãi. Một giải pháp hữu ích có thể đưa ra đó là, thay vì sử dụng các tổ chức phi
chính thức bất hợp pháp, hoặc chưa rõ cách thức hoạt động, người sử dụng có thể quay
về lựa chọn dịch vụ tại các Ngân hàng ở địa phương – biện pháp an toàn . Sự an toàn
trong cơ chế hoạt động ngân hàng là cách tốt nhất giảm thiểu rủi ro cho khách hàng,
đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người sử dụng.
Cuối cùng, điều quan trọng nhất đó chính là trách nhiệm người sử dụng. Nâng
cao hiểu biết đi cùng với nâng cao ý thức trách nhiệm trong khi thực hiện giao dịch là
biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn cho chính người sử sụng, hạn chế những rủi
ro không đáng có. Đặc biệt hơn, ý thức trách nhiệm được nâng cao là cơ sở hạn chế
các hành vi vi phạm pháp luật thông qua các hoạt động như buôn lậu, trốn thuế, rửa
tiền, … Để thực hiện được điều đó, mỗi người sử dụng cần đặt sự phát triển của đất
nước trở thành nguyên tắc cần có khi tiến hành các giao dịch.
KẾT LUẬN
1. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu đem lại nguồn lý luận cơ bản về bản chất và cách thức hoạt động
thực tiễn của các hệ thống chuyển tiền tiêu biểu tại một số quốc gia. Nhóm tác giả từ
sự phân tích sâu về quan điểm pháp lý của các nước này đối với việc tiếp nhận hệ
thống này đã đúc kết rằng hệ thống chuyển tiền không chính thức bắt nguồn bởi mục
đích hợp pháp, tuy nhiên với sự phát triển và phổ biến của nó diễn ra trên hầu hết các
nước trên thế giới mà nó bị biến tướng với những mục đích bất hợp pháp như sự bất ổn
về chính trị hay sự xuất hiện các hình thức tội phạm liên quan khác. Các hình thức này
ngày càng được kiểm soát và được chấp nhận bởi nhiều quốc gia với việc xây dựng
các quy định về cấp phép, quản lý kiểm soát bằng viêc lưu giữ hồ sơ khách hàng bên
cạnh việc nâng cao chất lượng ngân hàng thay vì việc loại bỏ hoàn toàn loại hình này.
Nhận thấy những điểm ưu việt của hệ thống này cũng như những vấn đề còn tồn
đọng, nghiên cứu đã xây dựng lại định nghĩa về thuật ngữ “Hệ thống chuyển tiền
không chính thức” dựa trên những quan điểm của các nghiên cứu trước, đó là một hệ
thống đóng vai trò bên trung gian thực hiện hoạt động nhận tiền của bên gửi và gửi
tiền hoặc giá trị tương đương đến bên nhận bằng việc hưởng lợi từ khoản phí và hoa
hồng thu được từ hoạt động này. Nghiên cứu là một tài liệu tốt bởi nghiên cứu đã tổng
hợp đầy đủ các vấn đề lý luận liên quan đến hệ thống chuyển tiền ở Việt Nam, đồng
thời cũng đã đưa ra và phân tích được các loại hình thức của cả hai hình thức chuyển
tiền chính thức và không chính thức. Hệ thống chuyển tiền không chính thức tác động
đến hệ thống ngân hàng Việt Nam từ chính sự cạnh tranh trong hoạt động chuyển tiền
trong và ngoaig nước. Ngoài ra, hệ thống này còn mang đến những lợi ích cho người
sử dụng, và đóng góp vào vấn đề nhận kiều hối về Việt Nam. Bên cạnh đó hệ thống
này còn tồn tại những rủi ro về bảo mật thông tin, về tài khoản khách hàng sử dụng và
những vấn đề vi phạm liên quan như trốn thuế, rửa tiền và buôn lậu gây ra những tệ
nạn xã hội đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đã điều
tra khảo sát đến các đối tượng có khả năng cao sử dụng hệ thống chuyển tiền. Từ đó
giải quyết ba vấn đề lớn: (1) Hệ thống chuyển tiền không chính thức đã được nhận
thức bởi người sử dụng nhưng chưa thực sự đúng đối với bản chất của nó; (2) cộng
đồng còn thiếu kinh nghiệm trong việc kiểm soát hành vi vi phạm thực hiện qua hệ
thống chuyển tiền; (3) còn nhiều ý kiến trái chiều trong quan điểm có hay không nên
duy trì và phát triển hình thức này tại Việt Nam.
Cuối cùng, nghiên cứu cũng đề xuất một số kiến nghị đối với Nhà nước trong
việc hoàn thiện các hệ thống pháp luật, đồng thời đề xuất giải pháp đối với cơ chế thực
thi pháp luật của ba chủ thể: Chủ thể cung cấp dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước,
chủ thể sử dụng dịch vụ nhằm tiếp tục phát triển hệ thống chuyển tiền không chính
thức với những cơ chế quản lý trong quy định của Nhà nước. Vấn đề quan trọng và cấp
thiết nhất là nâng cao sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm của người dân đối với các vấn
đề vi phạm pháp luật liên quan đến hệ thống chuyển tiền không chính thức.
2. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu được nhóm tác giả tiến hành với mục đích tìm hiểu về hệ thống
chuyển tiền không chính thức tại Việt Nam và những tác động của nó đối với hệ thống
ngân hàng, từ đó hướng đến hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật
đối hệ thống này tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu không tránh khỏi những hạn
chế nhất định.
Thứ nhất, phương pháp chủ yếu của nghiên cứu là tổng hợp và phân tích số liệu
từ các bài nghiên cứu trước nên không tránh khỏi thông tin số liệu chưa được cập nhật
đầy đủ.
Thứ hai. các phân tích, đánh giá trong nghiên cứu xuất phát từ việc tổng hợp các
lý luận từ các nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý, chủ thể sử dụng nên không tránh khỏi
những quan điểm chủ quan.
Để khắc phục những hạn chế của nghiên cứu nói trên, nhóm tác giả có đề xuất
đối với những nghiên cứu tiếp theo đối với những vấn đề liên quan đến hệ thống
chuyển tiền không chính thức:
- Các nghiên cứu có thể bổ xung việc xây dựng mô hình định lượng các luồng tiền
được giao dịch thực hiện qua các hệ thống chuyển tiền không chính thức, đặc biệt là
đối với loại hình ở dạng phi pháp, để có được định lượng chính xác nhất đối với thực
tế xảy ra.
- Các nghiên cứu có thể tham khảo, khảo sát ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh
vực tài chính – ngân hàng và cơ quan thực hiện xử lý vi phạm, đồng thời khảo sát đến
các tổ chức chuyển tiền không chính thức được cấp pháp để đưa ra ý kiến khách quan
và chính xác nhất về bản chất hoạt động và cơ chế quản lý, giám sát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mohammed El Qorchi, Samuel Munzele Maimbo, and John F. Wilson August 18,
2003 “Informal Funds Transfer Systems:An Analysis of the Informal Hawala System.
International Monetary Fund
2. Jost and Sandhu, 2000. Alternative Remittance Systems and Terrorism
Financing: Issues in Risk
3. Buencamio & Gorbunov, 2002 Informal Money Transfer Systems: Opportunities
and Challenges for Development Finance . United Nations
4. Mohammed El-Qorchi, 2002. Hawala. Volume 39, Number 4 on Finance &
Developmant - A quarter magazine of the IMF
5. Anad Ajay Shad. The international regulation of Informal Value Transfer
Systems
6. Robert J. Becerra no. 03 winter 2015 The Black Market Peso Exchange and the
Small Exporter. International Law quarterly
7. Matteo Vaccani, 2009. Alternative Remittance Systems and Terrorism
Financing. World Bank Working Paper
8. Shima Keene, 2007. Hawala and related informal value transfer system – an
assesment in the contact of Organise Crime and Terrorist Finance. The Defence
Academy Journal of the United Kingdom
9. Ion Pohoata&Irrina Caunic. Informal Value Transfer System – Hawala.
Alexandru Ioan Cuza” University. Iasi
10. Om Prakash. Cashless Payment Mechanism in Mugal India: The Working
of the Hundi Network. University of Delhi
11. Marina Bernadette Victoria Martin. An Economic History of Hundi: 1858 –
1978. The London School of Economics and Political Science.
12. Nikos Passas, 1999. Informal Value Transfer Systems and Criminal
Organizations.
13. Nikos Passas, 2003. Informal value transfer system, terorism and money
laundering. Northeastern Unniversity.
14. The World Bank anh The International Monetary Fund, 2003. Informal
Funds Transfer Systems: An Analysis of the Informal Hawala System.
15. Thống kê tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Truy xuất từ
<https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/hdchtctctd/tkmsctcb?
_afrLoop=11996034300396577#%40%3F_afrLoop
%3D11996034300396577%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth
%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader
%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D166n1e1ha_1477> [truy cập ngày 06/04/2019]
16. Thống kê số lượng thẻ phát hành. Truy xuất từ
<https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/hdtt/sltnh?
centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0%25&showFooter=false&sho
wHeader=false&_adf.ctrl-state=166n1e1ha_1206&_afrLoop=11996710619472577 >
[truy cập ngày 06/04/2019]
17. Thống kê số lượt giao dịch qua thẻ và số tiền. Truy xuất từ
<https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/hdtt/gdqatmpos?
_afrLoop=11996695045078577#%40%3F_afrLoop
%3D11996695045078577%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth
%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader
%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D166n1e1ha_1560 > [truy cập ngày 06/04/2019]
18. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, 2018. Tài chính cho phát triển bền
vững ở Việt Nam. Báo cáo.
19. Hoàng Hà, 2018. Hút kiều hối trước áp lực giảm. Tạp chí tài chính. Truy
xuất từ <http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/hut-kieu-hoi-truoc-ap-luc-giam-
143945.html> [truy cập ngày 13/04/2019]
20. Nhóm Công tác về Sáng kiến Hệ thống Chuyển tiền của APEC, 2005. Hành
lang chuyển tiền Canada – Việt Nam. Những bài học khi chuyển từ các hệ thống
không chính thức sang chính thức. Ngân hàng Thế giới.
21. Hải An, 2014. Đôi nét về hệ thống chuyển tiền ngầm tại Nam Á và Trung
Đông. Tạp chí tài chính. Truy xuất từ < http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/tin-
tuc/doi-net-ve-he-thong-chuyen-tien-ngam-tai-nam-a-va-trung-dong-89087.html >.
[Truy cập ngày: 10/04/2019]
22. Nguyễn Hoài, 2014. Tiềm ẩn nguy cơ rửa tiền qua kênh kiều hối phi chính
thức. Tạp chí tài chính. Truy xuất từ < https://infonet.vn/tiem-an-nguy-co-rua-tien-
qua-kenh-kieu-hoi-phi-chinh-thuc-post154510.info> [Truy cập ngày: 10/04/2019]
23. Báo đầu tư, 2015. Chuyển tiền “chui” làm khó ngân hàng. Người đồng
hành. Truy xuất từ < http://ndh.vn/chuyen-tien-chui-lam-kho-ngan-hang-
20151210090724762p4c149.news> [truy cập này 10/04/2019]
24. Hải Vân, 2018. Mạng lưới của các ngân hàng Việt Nam hiện nay ra sao.
CAFEF. Truy xuất từ < http://s.cafef.vn/BID-279000/mang-luoi-cua-cac-ngan-hang-
viet-nam-hien-nay-ra-sao.chn?
fbclid=IwAR1qMmUra8MiGqy54kvxgAA2gbN4CqoqLSHoJlSVGykeF5rtstIhqy-
YHvY> [truy cập ngày 10/04/2019]
25. Hải Duyên, 2017. Nữ tiếp viên hàng không nộp phạt 1,2 tỷ đồng để khỏi
ngồi tù. VnExpress. Truy xuất từ < https://vnexpress.net/phap-luat/nu-tiep-vien-hang-
khong-nop-phat-1-2-ty-dong-de-khoi-ngoi-tu-3561359.html?
fbclid=IwAR1dDORgzXtFasp0NvVNAjsqv-VYbThr3l_u-
ejeO0Ktc6fWBMZFdKBLDGg> [truy cập ngày 13/04/2019]
26. Minh Tuấn, 2018. Bị phạt 90 triệu vì đổi 100USD trong tiệm vàng ở Cần
Thơ. Báo mới. Truy xuất từ < https://baomoi.com/bi-phat-90-trieu-vi-doi-100-usd-
trong-tiem-vang-o-can-tho/c/28288433.epi?
fbclid=IwAR2iWl4mKSPgjmlL75MgZDqZI2bdlCHb6ProDFPoGq4YYgQV8pmAIS
Vj_TE> [truy cập ngày 13/04/2019]
27. Tin tức tài chính, 2018. Cập nhật biểu phí chuyển tiền các ngân hàng uy tín
hiện nay. The Bank. Truy xuất từ < https://topbank.vn/tu-van/cap-nhat-bieu-phi-
chuyen-tien-cac-ngan-hang-uy-tin-hien-nay> [truycập ngày 13/04/2019]
28. Thị trường tài chính Việt Nam, 2019. Bất ngờ với tính năng nhận tiền từ
nước ngoài qua thẻ Visa trong vài phút. The Bank. Truy xuất từ <
https://thebank.vn/blog/13708-bat-ngo-voi-tinh-nang-nhan-tien-tu-nuoc-ngoai-qua-
the-visa-trong-vai-phut.html?fbclid=IwAR1W1J13-
NOiEVAHi0UcB0X_tgh061BOVDnhNazBjkMe4X3Za6olwPhdCEE> [Truy cập ngày
15/04/2019]
29. Dịch vụ chuyển tiền qua Bankplus. Truy xuất từ <
http://bankplus.com.vn/DetailProductView!getDetailProductGoIn.do?
categorygoinNeedShow=101&fbclid=IwAR2iWl4mKSPgjmlL75MgZDqZI2bdlCHb6
ProDFPoGq4YYgQV8pmAISVj_TE> [truy cập ngày 15/04/2019]
30. Dịch vụ chuyển tiền bưu điện. Truy xuất từ < http://www.vnpost.vn/vi-
vn/dich-vu/chi-tiet/id/161/key/dich-vu-chuyen-tien-trong-nuoc?
fbclid=IwAR2D49Z4qRXdgziR4dV6omaVr9QcJ2KO1QK_DO2MPdukzK3Py_PYG
BT31gI> [truy cập ngày 15/04/2019]
31. Vietcombank, 2018. Bứt phá cùng cách mạng ngân hàng số. Báo cáo
thường niên.
32. Luật các tổ chức 2010
33. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
34. Nghị định số 70/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lện sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại
hối
35. Nghị định số 101/2012/NĐ-CP Về thanh toán không dùng tiền mặt
36. Nghị định số 80/2016/NĐ-CP Sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
số 101/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ về thanh toán không
dùng tiền mặt
37. Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn nghiệp vụ trung gian thanh toán
38. Quyết định số 2545/QĐ-Ttg Phê duyệt đề án thanh toán không dùng tiền
mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU PHÍ
Bảng 1: Biểu phí chuyển tiền nội bộ các ngân hàng26
Ngân Biểu phí chuyển tiền nội bộ các ngân
hàng hàng
Vietcomb Dưới 50 triệu: 2.200 đồng
ank Trên 50 triệu: 5.500 đồng
Dưới 1 triệu: 1.100 đồng
Vietinban 1 triệu – 3 triệu: 2.200 đồng
k 3 triệu – 50 triệu: 3.300 đồng
Trên 50 triệu: 0.011%
Dưới 30 triệu: 1.100 đồng
BIDV
Trên 30 triệu đồng: 5.500 đồng
Dưới 20 triệu: 3.300 đồng
MB
Trên 20 triệu: 5.500 đồng
1.7. Theo bạn, Western Union, Monye Gram có là hệ thống chuyển tiền chính
thức không?
Có
Không
1.8. Western Union, Money Gram hoạt động tại các Ngan hàng dưới hình thức
nào?
Ngân hàng đại lý
Ngân hàng liên kết hoạt đông chuyển tiền
Phần II: Hệ thống chuyển tiền không chính thức
2.1. Bạn có từng nghe nói đến hoặc từng biết đến hệ thống chuyển tiền không chính
thức (Informal value transfer system) không?
Có
Không
2.2. Theo bạn, hệ thống chuyển tiền chính thức là gì?
Hệ thống chuyển tiền thông qua hệ thống ngân hàng
Hệ thống chuyển tiền qua các hệ thống không phải ngân hàng
Một hệ thống chuyển tiền ngầm bất hợp pháp
Khác:……….
2.3. Theo bạn hệ thống nào dưới đây thuộc hệ thống chuyển tiền không chính thức
(có thể lựa chọn nhiều phương án)
Bankplus – Viettel
Chuyển tiền thông qua tiệm vàng (ví dụ các tiệm vàng ở Hà Trung, Hà Nội)
Chuyển tiền qua bưu điện
Chuyển tiền qua xe khách
Chuyển tiền qua người thân
Khác:……
2.4. Bạn đã từng tiếp cận hay sử dụng hệ thống chuyển tiền không chính thức chưa?
Sử dụng thường xuyên
Đã từng sử dụng
Chưa sử dụng bao giờ
2.5. Nếu bạn đã từng sử dụng hệ thống nào bên trên, có thể cho chúng mình biết đó
là hệ thống nào không?
(trả lời)................................................................................................................
2.6. Theo bạn chuyển tiền qua hệ thống chuyển tiền không chính thức có hợp pháp
không?
Có
Không
2.7. Theo bạn, đối tượng nào thường xuyên sử dụng dịch vụ chuyển tiền của kênh
phi chính thức?
1 – Hiếm khi, 2 – Thỉnh thoảng, 3 – Thường xuyên
1 2 3
Học sinh/sinh
viên (trong/ngoài
nước)
Tầng lớp cán bộ
trung niên
Người già
Những người ở
nơi có điều kiện ít
phát triển
Việt Kiểu, người
đi làm ăn ở nước
ngoài
2.8. Theo bạn chuyển tiền thông qua những hệ thống kể trên có ưu điểm gì so với
chuyển tiền thông qua hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay? (có thể chọn nhiều
phương án)
Chuyển/nhận tiền nhanh
Phí thấp hơn so với ngân hàng
Không phải trải qua nhiều thủ tục như ở hệ thống ngân hàng
Có thể nhận tiền mặt
Khác:……
2.9. Theo bạn đâu là nhược điểm của hệ thống chuyển tiền không chính thức (có thể
lựa chọn nhiều đáp án)
Rủi ro cao
Khóc kiểm soát các hành vi vi phạm pháp luật như rửa tiền, trốn thuế, tham
nhũng,…
Nguồn tiền không rõ ràng
Khác:…….
2.10 Khi đã tìm hiểu và biết đến hệ thống chuyển tiền không chính thức liệu bạn có
muốn chuyển tiền thông qua hệ thống chuyển tiền không chính thức hay tiếp tục lựa
chọn chuyển tiền thông qua hệ thống ngân hàng
Tiếp tục sử dụng hệ thống ngân hàng
Tiếp tục sử dụng hệ thống không chính thức
Tiếp tục sử dụng cả 2 hình thức
2.11. Bạn đánh giá như thế nào về tương lai của các hệ thống chuyển tiền không
chính thức
Tiếp tục tồn tại và dần chiếm thị phần mảng chuyển tiền của các ngân hàng
thương mại
Tiếp tục tồn tại và giữ thị phần nhỏ và ổn định như hiện nay
Sẽ dần không được sử dụng và mất hoàn toàn thị phần cho các ngân hàng thương
mại
Tồn tại và hoạt động cầm chừng
Khác:….
2.12. Đề xuất của bạn cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh chuyển tiền
không chính thức
(Đáp án)..............................................................................................................
1.2 Nội dung trả lời
12.61%
25.23%
62.16%
21.00%
79.00%
Có Không
Các loại hình chuyển tiền trong nước của Ngân hàng
13.00%
87.00%
Có Không
20
15
15
10
6
5
1 1 1
0
T n sa rd i n
IF io m
Vi Ca
SW Un
ra r i tco
a rn e yG Th
ẻ
at
e B
qu te on a
es M M
W a
a Qu
qu
Đánh giá chất lượng dịch vụ chuyển tiền của ngân hàng (số người lựa chọn)
60
52
50 48
40 38
34
30
20
14
10 6
4 4
0
thủ tục thời gi a n nhận tiền
rất nhanh nha nh bình thường chậm
50
50
40
31
30
20
15
10
0
chi phí chuyển tiền
rất cao cao thấp
Đánh giá chất lượng dịch vụ chuyển tiền của Ngân hàng
60
50
40
30
20
10
0
Sự a n toàn
rất tốt tót bình thường kém
27
73
Có Không
Nhận định về hệ thống chuyển tiền là gì
12 15
72
44.30%
55.70%
Chuyển tiền thông qua tiệm vàng (ví dụ cá c tiệm vàng ở Hà Trung, Hà Nội ) 50
Bankplus – Viettel 34
0 10 20 30 40 50 60 70
Chủ thể sử dụng hình thức chuyển tiền không chính thức
70
60 58
49 49
50
40
40 38
36
33 33 32
30 28 28
26
20 18 18
14
10
0
Học s i nh/s i nh vi ên (trong/ngoài nước) Người gi à Vi ệt Ki ều, Người đi l àm ă n ở nước ngoài
hi ếm khi thỉnh thoả ng thường xuyên
Ưu điểm của hệ thống không chính thức so với hệ thống Ngân hàng
Không phải trải qua nhi ều thủ tục như ở hệ thống ngân hàng 56%
Đánh giá việc tiếp tục sử dụng hệ thống chuyển tiền không chính thức
42
48
10
Ti ếp tục s ử dụng hệ thống ngân hàng Ti ếp tục s ử dụng hệ thống không chính thức
Ti ếp tục s ử dụng cả 2 hình thức
Ưu điểm của hệ thống chuyển tiền không chính thức
Khó kiểm soát các hành vi vi phạm pháp luật như Rửa tiền, trốn thuế, tham nhũng,... 67
Rủi ro cao 83
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90
Seri es 1
18
20
1.2
42
Trong quá trình khảo sát, phiếu khảo sát thu được những đề xuất giải pháp từ phía
nhà sử dụng như sau về việc hoàn thành hệ thống pháp luật điều chỉnh hệ thống
chuyển tiền không chính thức:
Cần có quy định pháo luật về việc kiểm soát chặt chẽ dòng tiền ra vào
Cần có quy định pháp luật để giảm thiểu sự rủi ro của hệ thống chuyển tiền
không chính thức
Kiểm soát chặt chẽ ở các cửa khẩu, nghiêm túc trong việc giới hạn lượng tiền
mang theo khi qua cửa khẩu, khuyến khích khác du lịch sử dụng thẻ tín dụng
thay cho chi tiêu tiền mặt,…
Nhà nước cần đưa ra những quy định pháp lý chặt chẽ và xử lý nghiêm minh
những hành vi chuyển tiền phạm pháp
Không cần có quy định pháp luật điều chỉnh, miễn là tổ chức kinh doanh dịch vụ
chuyển tiền không chính thức uy tín
Không nên duy trì hệ thống chuyển tiền không chính thức
Cũng có người cho rằng chuyển tiền thông qua hệ thống chuyển tiền không chính
thức giống như dịch vụ ship hàng trong đó hàng hóa thay bằng tiền dẫn đến rủi
ro cao do đó cần có quy định pháp luật để hạn chế điều này
Nên có hệ thống pháp luật đề điều chỉnh hệ thống chuyển tiền không chính thức
Nên dần hạn chế hoặc không nên duy trì hoạt động của hệ thống chuyển tiền