Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

I.

Các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam
1. Các công cụ điều tiết cung tiền
a. Quy định dự trữ bắt buộc
- Khái niệm: Là số tiền mà các ngân hàng phải giữ lại theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước, gửi tại Ngân hàng Nhà nước, không hưởng lãi, không được dùng
để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền
gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và sự ổn định của hệ thống
ngân hàng. 
- Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số
nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các Ngân hàng thương mại. Mặt khác khi
tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các Ngân hàng thương
mại giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung
ứng tiền giảm (tăng).
- Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp Ngân hàng
Nhà nước chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó
cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng
tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc
tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và có thể ảnh hưởng không tốt tới
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
b. Công cụ tái cấp vốn
 Khái niệm: 
 Tái cấp vốn: là hình thức Ngân hàng nhà nước cho các ngân hàng
thương mại vay tiền, thực hiện vai trò người vay cuối cùng.
 Lãi suất tái cấp vốn được coi là lãi suất trần, lãi suất chiết khấu được
coi là lãi suất sàn
 Hình thức:
 Tái chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá trị
 Cho vay dưới hình thức cầm cố
 Thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn  
 Cơ chế tác động:
 Ngân hàng nhà nước thay đổi lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn phụ
thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ ( thắt chặt hoặc mở rộng)
 Cắt giảm lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn sẽ khuyến khích các
ngân hàng thương mại sử dụng nguồn vốn này => tiền từ Ngân hàng
nhà nước sẽ được bơm vào lưu hành nhiều hơn, làm tăng tín dụng và
cung tiền trong nền kinh tế

c. Nghiệp vụ thị trường mở


- Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do Ngân hàng Nhà
nước thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó
đIều tiết lượng tiền cung ứng.
- Cơ chế tác động: Khi Ngân hàng Nhà nước mua (bán) chứng khoán thì sẽ
làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên
(giảm đi) và làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các Ngân hàng thương mại.
- Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là
một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng
chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều
chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực
hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác
tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có
sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.

2. Lãi suất
- Khái niệm: Là tỷ lệ % trên khoản tiền mà người vay phải trả người cho vay trên
tiền vốn trong khoảng thời gian nhất định. Lãi suất được Ngân hàng Nhà nước sử
dụng như công cụ để tác động lên lượng tiền tệ trong lưu thông, đó không phải là
lãi suất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước có thể ấn định mức lãi suất trần, lãi suất
sàn hoặc lãi suất cơ bản tương ứng với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại
tiền gửi. Căn cứ vào quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất, các
tổ chức tín dụng sẽ hoạch định lãi suất kinh doanh.
- Cơ chế tác động: Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ
bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng
lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà
nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín
dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.

3. Tỷ giá hối đoái


 Khái niệm: là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai nước, là giá cả một
đơn vị tiền tệ của một nước được tính bằng tiền của nước khác hay nói khác
đi, là số lượng đơn vị tiền tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ.
 Phân loại:
 Tỷ giá thả nổi: là một chế độ trong đó giá trị của một đồng tiền được
phép dao động trên thị trường ngoại hối. 
 Tỷ giá cố định: là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của
một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với
một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác.
 Tỷ giá thả nổi có điều tiết: là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai
chế độ thả nổi và cố định
 Cơ chế tác động: 
 Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu: Nếu
đồng tiền nội tệ mất giá (tỷ giá tăng) đồng nghĩa với giá cả hàng xuất
khẩu của quốc gia đó trở nên rẻ hơn dẫn đến sức cạnh tranh của hàng
hoá trên thị trường quốc tế sẽ được nâng cao. Sự tăng lên của tỷ giá
làm nền kinh tế thu được nhiều ngoại tệ, từ đó giúp cán cân thương
mại và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện.
 Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tới tình hình lạm phát và tăng trưởng
kinh tế: Khi sức mua nội tệ giảm (tỷ giá hối đoái tăng) làm giá hàng
nhập khẩu đắt hơn, dễ dẫn đến khả năng lạm phát có thể xảy ra.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm (giá đồng nội tệ tăng lên), hàng
nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn. Từ đó lạm phát được kiềm
chế nhưng lại dẫn tới sản xuất thu hẹp và tăng trưởng thấp.

III. CSTT từ năm 2010- 2020

Những năm đầu của giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế thế giới xuất hiện thêm nhiều
bất ổn mới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 và khủng hoảng
nợ công ở châu Âu. Tăng trưởng kinh tế thế giới và ở nhiều nước đã chậm hơn so
với kỳ vọng, chứa đựng nhiều rủi ro. Toàn cầu hóa vẫn là xu hướng chủ đạo nhưng
sự thay đổi của khoa học và công nghệ và tương quan lực lượng giữa các cường
quốc đã tác động mạnh mẽ đến xu thế hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tăng
cường các liên kết kinh tế song phương.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, kinh tế trong nước
giai đoạn 2011-2020 cũng đã bị ảnh hưởng đáng kể. Trong nửa đầu giai đoạn 2011
- 2020, kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới, do khủng
hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa được giải quyết, tác động
tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư. Tăng trưởng GDP
đã giảm xuống dưới 6% vào các năm 2012 - 2014, riêng năm 2011 lạm phát tăng
cao đến 18,13%. Trong bối cảnh đó, ổn định kinh tế vĩ mô được ưu tiên với các
giải pháp về tài khóa và tiền tệ đã được triển khai đồng bộ nhằm kiềm chế lạm
phát. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, đặc biệt là từ năm 2012 đến nay. Sau
khi đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, các giải pháp nhằm thúc đẩy sản
xuất kinh doanh được ban hành và thực thi đã hỗ trợ cho sự phục hồi của tăng
trưởng. Tốc độ tăng GDP đã quay trở lại mức trên 6% kể từ năm 2015 và đến năm
2018 đạt 7,08% - mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Tăng trưởng kinh tế
vẫn tiếp tục duy trì trong 9 tháng đầu năm 2019 với mức 6,98%.

 Hiệu quả của chính sách tiền tệ 2011-2020

Đánh giá chung trong giai đoạn 2011-2020, kinh tế Việt Nam đã đạt được những
kết quả nhất định khi vượt qua các bất ổn và phục hồi tốc độ tăng trưởng GDP.
Đóng góp vào kết quả này phải kể đến vai trò của chính sách tiền tệ (CSTT).

Trong 5 năm (2011-2015), mục tiêu của điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô( cụ
thể là CSTT) có sự thay đổi trong từng thời kỳ: Kiềm chế lạm phát năm 2011-
2012; Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ sản xuất – kinh doanh năm
2013-2015; Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và đẩy mạnh các cải
cách 2016-2020

A. Kiềm chế lạm phát năm 2011-2012

Năm 2010 2011 2012


Tỷ giá Chưa định <1 2-3
hướng
Tốc độ tăng trưởng M2 (tiền tệ) 29,71 12,08 18,85
Tín dụng 27,6 10,9 8,85
Tỷ lệ lạm phát (CPI) 9,19 18,58 9,21
Tăng trưởng kinh tế(GDP) 6,42 6,24 5,25

Từ năm 2011 kiềm chế lạm phát là mối quan tâm hàng đầu trong điều hành kinh tế
vĩ mô ở nước ta. Tuy nhiên chính sách tiền tệ được triển khai chưa thực sự mang
lại hiệu quả tốt. Theo số liệu của Tổng cục thóng kê, chỉ số giá tiêu dùng tăng từ
9,19% năm 2010 lên 18,58% năm 2011( tăng gần 10% ) sau đó mới trở lại mức
9,21% năm 2012.

Về lãi suất : Tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% trong tháng 5/2010 và tiếp tục duy
trì đến quý I/2014; giảm tăng trưởng cung tiền năm 2011 xuống còn khoảng 15 -
16%, giảm mức tăng tín dụng năm 2011 xuống 10,9%
Về tỷ lệ dự trữ bắt buộc : phản ứng đầu tiên của chính sách tiền tệ để đối phó với
lạm phát tăng cao những năm 2010-2011 là Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã
quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD

Điều chỉnh tỷ giá và thu hẹp biên độ dao động từ 3% xuống 1% từ ngày
11/2/2011… Theo đó, tăng trưởng tín dụng đã giảm còn 10,9% năm 2011và 8,85%
năm 2012, tăng trưởng M2 cũng giảm còn 12,08% năm 2011.

Mặc dù, CSTT thắt chặt được tăng cường nhằm ứng phó với lạm phát, tuy nhiên,
tác đô ̣ng của CSTT thắt chặt đã làm giảm tốc đô ̣ tăng trưởng kinh tế. Kết quả là
lạm phát năm 2012 giảm xuống còn 9,21%; tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ
6,24% của năm 2011 xuống còn 5,25% vào năm 2012. Trước thực tế đó, CSTT
chuyển sang hướng tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN

B. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ sản xuất kinh


doanh các năm 2013-2015

Năm 2013 2014 2015


Tỷ giá 2-3 1-2 2
Tốc độ tăng trưởng M2 (tiền tệ) 18,85 17,69 16,23
Tín dụng 12,52 14,16 17,26
Tỷ lệ lạm phát (CPI) 6,6 4,09 0,63
Tăng trưởng kinh tế (GDP) 5,42 5,98 6,68

Từ năm 2013 , NHNN đã điều hành quyết liệt, chủ động và đồng bộ các công cụ
chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với mục tiêu ổn định
kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Theo đó, kỷ luật, kỷ cương
thị trường được củng cố vững chắc, thanh khoản của toàn hệ thống từng bước được
ổn định và đảm bảo an toàn; thị trường tiền tệ ổn định và thông suốt; lạm phát từ
9,21% năm 2012 xuống 6,6% năm 2013; 4,09% năm 2014 và năm 2015 được kiểm
soát ở mức 0,63%.
Về tín dụng, NHNN đã điều hành các giải pháp tín dụng linh hoạt phù hợp với mục
tiêu điều hành chính sách tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn vay
ngân hàng; triển khai các chính sách tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực để hỗ
trợ các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo chủ
trương của Chính phủ, hỗ trợ công tác an sinh-xã hội. Giai đoạn 2013-2014, tín
dụng tăng tăng bình quân khoảng 12,6%/năm, năm 2015 tăng khoảng 18%, thấp
hơn rất nhiều so với mức tăng bình quân 33,3%/năm của giai đoạn 2006-2010,
nhưng phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh
tế hợp lý. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung vào lĩnh vực sản xuất
kinh doanh, nhất là 5 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp nông thôn, lĩnh vực xuất khẩu,
doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
cao.

Về tốc độ tăng trưởng tiền tệ : với chính sách tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tốc
độ tăng trưởng tiền tệ giữ ổn định ở mức 16-18% các năm 2013-2015

Về tăng trưởng kinh tế : với chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh của chính phủ ,
tốc độ tăng trưởng tăng đều qua các năm 2013 với mức tăng trưởng 5,42% , năm
2014 với 5,98% , năm 2015 là 6,68%

Về tỷ giá : Điều hành chính sách tỷ giá mặc dù phải chịu nhiều sức ép và các cú
sốc bên ngoài, song NHNN đã thể hiện được bản lĩnh và kiên định trong từng thời
điểm, đồng thời phối hợp đồng bộ với chính sách lãi suất và các công cụ chính
sách tiền tệ, quản lý ngoại hối và công tác truyền thông để ổn định thị trường ngoại
tệ, nâng cao niềm tin vào đồng Việt Nam. Cụ thể : tỷ giá dao động từ 2-3 năm
2013, từ 1-2 năm 2015 và giữ ổn định 2 từ năm 2015 cho đến nay

Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến cung-cầu ngoại tệ, NHNN điều hành linh hoạt tỷ
giá, kết hợp với các biện pháp như giảm trạng thái ngoại tệ, thu hẹp đối tượng cho
vay bằng ngoại tệ, kịp thời mua bán ngoại tệ để can thiệp ổn định thị trường, tăng
cường công tác truyền thông để ổn định tâm lý thị trường, hỗ trợ ổn định tỷ giá và
thị trường ngoại hối. Tiếp tục triển khai các biện pháp để góp phần ngăn chặn tình
trạng đô la hóa, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tăng cường công tác thanh tra,
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Nhờ đó,
tỷ giá và thị trường ngoại tệ trong những năm qua liên tục ổn định, các nhu cầu
ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân được các TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp
thời. Vị thế và lòng tin vào VND ngày càng được củng cố, tăng cường. Tình trạng
đô la hóa giảm mạnh, ngoại tệ tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng và
NHNN đã mua được số lượng ngoại tệ lớn, gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.

C. Giai đoạn ổn định các kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và


đẩy mạnh các cải cách 2016-2020

Năm 2016 2017 2018 2019 2020


Tỷ giá 2 2 2 2 2
Tốc độ tăng trưởng M2 (tiền tệ) 18,38 16-18 16 13 12,83
Tín dụng 18,25 18,24 14 13,65 11,65
Tỷ lệ lạm phát (CPI) 2,66 3,53 3,54 2,79 3,23
Tăng trưởng kinh tế (GDP) 6,21 6,81 7,08 7,01 2,91

Giai đoạn 2016 - 2020, kinh tế thế giới biến động phức tạp. Chủ nghĩa bảo hộ leo
thang, kéo theo căng thẳng gay gắt và chia rẽ thương mại giữa các nước lớn (Mỹ -
Trung Quốc, Hàn Quốc - Nhật Bản, Úc - Trung Quốc, Mỹ - EU), tác động tiêu cực
đến niềm tin, thương mại, đầu tư, kìm hãm đà phục hồi mong manh của kinh tế
toàn cầu; hệ lụy càng trầm trọng khi đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng toàn
thế giới từ đầu năm 2020, kinh tế toàn cầu suy thoái sâu - 4,4% (theo IMF,
10/2020). Thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế đầy bất ổn, chính sách tiền tệ các
quốc gia lớn đảo chiều từ “bình thường hóa”, tăng lãi suất sang giảm mạnh lãi suất
và nới lỏng một cách “chưa có tiền lệ”. Dòng vốn vào các thị trường mới nổi và
đang phát triển biến động phức tạp do nhà đầu tư lo ngại rủi ro và trong bối cảnh
đồng nội tệ nhiều nước mất giá so với USD.

Về lạm phát : NHNN kiên định đề xuất chỉ tiêu lạm phát hàng năm để Chính phủ
trình Quốc hội thông qua, ở mức khoảng 4% nhằm đảm bảo ổn định, neo giữ kỳ
vọng lạm phát. CSTT phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác để điều tiết
thanh khoản, điều chỉnh các mức giá do Nhà nước quản lý nhằm đạt được mục tiêu
lạm phát đặt ra. Kết quả cho thấy, tổng phương tiện thanh toán (M2) giai đoạn này
được kiểm soát hợp lý, hàng năm chỉ tăng trong khoảng 12,21 - 15%, qua đó ổn
định lạm phát cơ bản trong khoảng 1,41 - 2,31%, tạo dư địa để Chính phủ điều
chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ Nhà nước quản lý mà vẫn nằm trong mục tiêu
kiểm soát lạm phát Quốc hội đặt ra.
Về vấn đề nợ xấu , xử lý nợ xấu được đẩy mạnh với những khó khăn pháp lý gặp
phải trong quá trình xử lý nợ xấu dần được tháo gỡ. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ
thống TCTD năm 2018 là 1,89%, giảm so với mức 2,46% cuối năm 2016 và mức
1,99% cuối năm 2017.

Về tỷ giá : Kể từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chuyển sang điều hành
tỷ giá theo cơ chế tỷ giá trung tâm. Cơ chế tỷ giá trung tâm và các công cụ điều tiết
thị trường ngoại hối đã phát huy được hiệu quả hạn chế hành vi đầu cơ, găm giữ
ngoại tệ. Nhờ đó, tỷ giá cơ bản được duy trì tương đối ổn định dù chịu nhiều áp lực
từ các biến động của kinh tế thế giới. Tỷ giá ổn định có tác động tích cực đến nợ
nước ngoài của quốc gia, giúp NSNN tránh được các áp lực trả nợ, do đồng nội tệ
mất giá.

Về tín dụng : Giai đoạn 2016 - 2019, tăng trưởng tín dụng chậm lại từ mức 18,25%
năm 2016 xuống 13,65% năm 2019 , trong khi tăng trưởng kinh tế được đẩy mạnh
tương ứng từ 6,21% lên trên 7% năm 2018 và 2019. Năm 2020, NHNN đã khẩn
trương triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ nền kinh tế khắc phục tác
động của đại dịch Covid-19 với việc kịp thời ban hành Thông tư số 01/2020/TT-
NHNN ngày 13/3/2020 tạo hành lang pháp lý, cơ chế đột phá để TCTD tháo gỡ
khó khăn về vốn vay cho khách hàng (cơ cấu lại nợ gốc và lãi, không chuyển nợ
xấu, không tính lãi phạt; miễn giảm lãi, phí); đồng thời, liên tục tổ chức Hội nghị
kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên toàn quốc, khảo sát thực địa, tiếp nhận và
giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp. Đến ngày
28/12/2020, tín dụng tăng 11,08% so với cuối năm trước và tăng 11,65% so với
cùng kỳ 2019, hỗ trợ tích cực cho sự phục hồi kinh tế trong đại dịch. . Kết quả,
tăng trưởng tín dụng đã đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phù hợp với mục
tiêu kiểm soát lạm phát, hiệu quả tín dụng cải thiện.

Về lãi suất : Giai đoạn 2016 - 2018, xu hướng lãi suất thế giới tăng mạnh, dẫn đầu
là Fed với chu kỳ “bình thường hóa CSTT”, tăng lãi suất liên tục nhưng mặt bằng
lãi suất trong nước vẫn tương đối ổn định. Từ nửa cuối năm 2019 và năm 2020,
căng thẳng thương mại giữa các quốc gia lớn tác động tiêu cực lên triển vọng kinh
tế toàn cầu và dưới tác động của đại dịch Covid-19, NHNN đã chủ động, kịp thời
04 lần giảm liên tục các mức lãi suất điều hành, tổng mức giảm 1,75 - 2,25%/năm
nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay. Giải pháp điều hành lãi suất thực hiện
song song với việc đảm bảo thanh khoản cho các TCTD và ổn định thị trường tiền
tệ; định hướng các TCTD rà soát, cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi
suất cho vay hợp lý đảm bảo an toàn hoạt động, đẩy nhanh xử lý nợ xấu để giảm
chi phí. Những giải pháp đồng bộ này giúp lãi suất nước ta hiện nay chỉ bằng
khoảng 40% so với mức lãi suất nửa cuối năm 2011.

Việc thành công trong CSTT giai đoạn 2016-2020 dẫn đến tăng trưởng kinh tế
tăng đều qua các năm, từ 2016-2019. Đặc biệt năm 2020 Việt Nam có mức tăng
trưởng dương và là một trong những quốc gia có mức tăng trưởng lớn nhất thế
giới.

You might also like