Professional Documents
Culture Documents
SUY THẬN MẠN DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG - NHÓM 4 - ĐỢT 1
SUY THẬN MẠN DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG - NHÓM 4 - ĐỢT 1
NHÓM 4
Margot Thames là một phụ nữ 38 tuổi, mắc bệnh đái tháo đường type I trong 21 năm.
Mười hai năm trước, một lượng nhỏ protein đã được tìm thấy trong nước tiểu của cô ấy,
và sáu năm trước, tình trạng có protein niệu đã trở nên tệ hơn khi xét nghiệm dipstick cho
kết quả dương tính. Trong sáu năm qua, bác sĩ chuyên khoa thận của Margot đã theo dõi
chặt chẽ chức năng thận và sự bài tiết protein trong nước tiểu của cô. Suốt trong sáu năm
qua, lượng protein niệu và nồng độ creatinin huyết thanh của cô đã tăng dần đến các giá
trị cao hơn nhiều so với bình thường. Bác sĩ đã chẩn đoán cô bị suy thận mạn do đái tháo
đường. Margot đang được điều trị bằng insulin, furosemide, quinapril và thuốc gắn kết
Phosphate (phosphate binder)
Trong lần khám sức khỏe gần đây nhất, Margot cảm thấy mệt mỏi, da niêm nhợt, huyết
áp 155/95 và phù 2 chân ở mức 2+. Kết quả xét nghiệm được trình bày trong bảng sau:
1. Nguyên nhân nào khiến ĐTĐ type I lại gây nên bệnh suy thận mạn ở bệnh nhân
này.
2. Giải thích nguyên nhân bị phù ở cả 2 chân? Trong số những thuốc bệnh nhân đang
sử dụng, loại nào có tác dụng giúp giảm phù chân?
3. Tại sao nồng độ K+, nồng độ Phosphate trong máu tăng?
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
I. TÓM TẮT
Margot Thames là một phụ nữ 38 tuổi, mắc bệnh đái tháo đường type I trong 21
năm. Mười hai năm trước, một lượng protein vi thể đã được tìm thấy trong nước tiểu của
cô ấy, và sáu năm trước, tình trạng có protein niệu đã trở nên tệ hơn khi xét nghiệm
dipstick cho kết quả dương tính. Trong sáu năm qua, bác sĩ chuyên khoa thận của Margot
đã theo dõi chặt chẽ chức năng thận và sự bài tiết protein trong nước tiểu của cô. Suốt
trong sáu năm, lượng protein niệu và nồng độ creatinin huyết thanh của cô đã tăng dần
đến các giá trị cao hơn nhiều so với bình thường. Bác sĩ đã chẩn đoán cô bị suy thận mạn
do đái tháo đường. Margot đang được điều trị bằng insulin, furosemide, quinapril và
thuốc gắn kết Phosphate (phosphate binder).
Trong lần khám sức khỏe gần đây nhất, Margot cảm thấy mệt mỏi, da niêm nhợt,
huyết áp 155/95 và phù 2 chân ở mức 2+.
Ở bệnh nhân đái tháo đường type 1, các giai đoạn lâm sàng của bệnh thận do đái
tháo đường (DKD-Diabetic Kidney Disease) bắt đầu từ tăng lọc cầu thận, tiếp theo là sự
phát triển của tiểu đạm vi lượng (xuất hiện ở Margot vào 12 năm trước), tiểu đạm đại thể,
và sau đó giảm GFR.
Ở giai đoạn sớm của bệnh, thận phì đại và độ lọc cầu thận tăng khoảng 20-50%
chủ yếu qua trung gian làm giãn tiểu động mạch đến. Sự giãn nở này do một số cơ chế
trong bệnh thận do đái tháo đường:
- Thứ nhất, quá trình lọc glucose ở thận dẫn đến tăng cường đồng vận chuyển
natri-glucose trong ống lượn gần và gây ra tăng vận chuyển natri đưa đến tăng
lưu lượng máu đến thận. Bên cạnh đó, sự gia tăng tái hấp thu vùng gần cũng
dẫn đến giảm sự phân phối chất lỏng ở vùng xa, kích hoạt phản hồi của cầu
thận với hệ thống renin-angiotensin cũng có tác dụng làm tăng GFR.
- Thứ hai, tăng áp lực thẩm thấu máu cũng dẫn đến tăng áp lực trong cầu thận,
làm tăng mức lọc cầu thận.
Theo thời gian, những thay đổi mô học bắt đầu xảy ra ở cầu thận của những người
bị bệnh thận do đái tháo đường gây tiểu đạm vi thể.
- Các thay đổi chuyển hóa dần dần làm tăng sinh collagen, fibronectin và lamini
ở gian mạch gây ra hiện tượng dày màng đáy (GBM).
- Sự giãn nở trung mô trực tiếp gây ra bởi sự tăng đường huyết (có thể do tăng
sản xuất chất nền hoặc quá trình glycation hóa các protein nền) chèn ép mao
mạch gây giảm lọc cầu thận.
Ở những giai đoạn bệnh tiến triển nặng, quá trình viêm và xơ hóa cầu thận, xơ hóa
ống thận diễn ra mạnh mẽ dẫn đến tiểu đạm đại thể và độ lọc cầu thận giảm mạnh. Xơ
cứng cầu thận là do tăng huyết áp nội cầu gây ra bởi sự giãn nở của tiểu động mạch tới
hoặc tổn thương do thiếu máu cục bộ.
- Protein niệu được ống lượn gần tái hấp thu và bắt đầu quá trình viêm
- Ảnh hưởng của tăng đường huyết kéo dài gây ra sự biểu hiện của renin và
angiotensinogen trong tế bào thận thông qua ROS và thụ thể chuyển hóa kết
hợp với protein G đặc hiệu của thận GPR91. Kích hoạt hệ thống Renin-
angiotensin-aldosterone (Renin-angiotensin-aldosterone system) nội thượng
thận làm trầm trọng thêm tình trạng suy thoái của DKD. Bằng chứng từ các
nghiên cứu trên mô hình động vật và các thử nghiệm lâm sàng cho thấy hiệu
quả của việc ức chế RAAS để làm chậm sự tiến triển của DKD. Cả hai yếu tố
tăng trưởng biến đổi-β1 (TGF-β1) và angiotensin II tham gia vào quá trình xơ
hóa mô thận, bao gồm rối loạn chức năng và teo ống thận, giảm số lượng
mạch nhỏ và thiếu oxy mãn tính.
- Aldosterone cũng được cho là đóng vai trò quan trọng trong sinh lý bệnh của
DKD, thông qua việc điều chỉnh biểu hiện gen và các cơ chế khác, bao gồm
điều chỉnh các yếu tố tăng trưởng tiền xơ cứng, chẳng hạn như chất ức chế
hoạt hóa plasminogen 1 (PAI-1) và TGF-β , và thúc đẩy thâm nhiễm đại thực
bào và hậu quả là xơ hóa thận.
- Một số cytokine cũng tham gia vào quá trình gây viêm và xơ hóa thận. Sự gia
tăng yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), yếu tố tăng trưởng biến
đổi beta (TFG-β), và các protein profibrotic làm tăng tổn thương các nephron
ở các mức độ khác nhau, kích hoạt việc thu hút các tế bào sản xuất chất nền
ngoại bào, thúc đẩy quá trình xơ cứng và xơ hóa thận, cơ chế cụ thể chưa rõ
ràng.
❖ Nguyên nhân bệnh nhân bị phù ở cả 2 chân? Bệnh nhân đang sử dụng loại thuốc
nào có tác dụng giúp giảm phù chân?
Trước khi tìm hiểu cơ chế phù, hãy xem lại Định luật Starling - thể hiện sự chuyển
động của chất lỏng qua màng mao mạch - được đại diện bởi bốn lực khác nhau:
- Áp suất mao mạch (Capillary fluid Pressure - CP) đẩy chất lỏng ra khỏi mao
mạch (còn được gọi là áp suất thủy tĩnh).
- Áp suất dịch kẽ (Interstitial fluid Pressure –IP) đẩy chất lỏng vào trong mao
mạch
- Áp suất thẩm thấu của huyết tương (Plasma colloid osmotic pressure - PCOP)
kéo chất lỏng vào mao mạch.
- Áp suất thẩm thấu của dịch kẽ (Interstitial fluid colloid osmotic pressure -
IFCO) kéo chất lỏng ra khỏi mao mạch. Áp lực lọc được tính như sau
- Net Filtration Pressure = [(CP – IP0)] – (PCOP – IFCO)]
Ngoài các lực trên, bản thân mao mạch còn có hệ số riêng Kf của nó đại diện cho
tính thấm & diện tích bề mặt của mao mạch. Vậy lượng dịch đi qua mao mạch là:
Phù (edema) là từ dùng để đề cập đến hiện tượng dư thừa chất lỏng trong mô cơ
thể. Trong hầu hết trường hợp, phù chủ yếu xảy ra ở khoang dịch ngoại bào – phù ngoại
bào nhưng cũng có thể liên quan đến dịch nội bào.
- Phù nội bào thường do 3 nguyên nhân: (1) hạ natri máu, (2) suy giảm hệ thống
trao đổi chất của các mô; và (3) thiếu dinh dưỡng cung cấp cho các tế bào.
- Phù ngoại bào có thể được chia thành 2 nhóm nguyên nhân lớn là (1) do dịch
bất thường đi từ mao mạch hoặc (2) do ngăn chặn dòng bạch huyết khi đưa
dịch kẽ về lại vòng tuần hoàn cơ thể.
Sau đây là những điều kiện được liệt kê dựa trên 2 nguyên nhân gây phù ngoại
bào:
Đối chiếu với bệnh nhân này, ta thấy nguyên nhân phù là do nguyên nhân (I) và
(II):
- Do thận giảm bài tiết Na+ và nước: dẫn đến làm tăng áp suất mao mạch và
dẫn đến tăng lượng dịch ngoại bào. Hầu hết lượng muối và nước này sẽ đi từ
máu vào các khoảng kẽ, nhưng một số vẫn còn trong máu - tăng thể tích dịch
kẽ.
- Ở bệnh nhân này còn có lượng protein trong nước tiểu tăng vượt ngưỡng
chứng tỏ lượng protein huyết thanh đã giảm nhiều => giảm áp suất thẩm thấu
của huyết tương => tăng lượng dịch đi qua mao mạch – phù ngoại bào.
Loại thuốc có tác dụng giúp giảm phù chân
Trong các loại thuốc bệnh nhân sử dụng, Furosemide là thuốc có tác dụng giúp
giảm phù chân.
● Furosemide được sử dụng để kiểm soát việc tăng huyết áp và phù nề (do suy tim
sung huyết, xơ gan và bệnh thận - bao gồm cả hội chứng thận hư).
● Furosemide là một thuốc lợi tiểu quai mạnh. Tác dụng lợi tiểu này đạt được thông
qua sự ức chế cạnh tranh kênh NKCC2 (đồng vận chuyển natri-kali-clorua) ở
thành dày của quai Henle - ngăn cản sự vận chuyển của các ion natri từ lòng ống
sang mặt đáy để tái hấp thu. Sự ức chế này dẫn đến tăng bài tiết nước cùng với các
ion natri, clorua, magie, canxi, hydro và kali.
Sự hấp thu: Sau khi uống, furosemide được hấp thu qua đường tiêu hóa. Sinh khả
dụng thay đổi từ các dạng bào chế uống, dao động từ 10 đến 90% (Sinh khả dụng đường
uống của furosemide từ viên nén hoặc dung dịch uống là khoảng 64% và 60%).
Sự phân phối: Thể tích phân phối sau khi tiêm tĩnh mạch 40 mg furosemide là
0,181 L / kg ở người khỏe mạnh và 0,140 L / kg ở bệnh nhân suy tim.
Sự chuyển hóa: Furosemide chuyển hóa chủ yếu ở thận và gan. Thận chịu trách
nhiệm về khoảng 85% tổng độ thanh thải furosemide, trong đó khoảng 40% liên quan đến
chuyển đổi sinh học.
Thời gian bán thải: Liều 40 mg furosemide là 4 giờ sau khi uống và 4,5 giờ sau khi
tiêm tĩnh mạch.