Professional Documents
Culture Documents
Long Centric
Long Centric
NGUYÊN LÝ
Long centric thật sự chỉ là một “đoạn đưa ra trước ngắn”
- Frank Celanza
Long centric dùng để chỉ một điểm trên răng để tương ứng với “vùng”
chính xác, khi đó phức hợp lồi cầu – tương quan ở lồi cầu. Cũng vì quan
dĩa khớp được ôm bởi xương ở vị trí niệm sai lầm như vậy về sự ổn định
cao nhất có thể, tựa vào lồi khớp. Ở vị của điểm chặn ở cực trong lồi cầu,
trí chịu được tải lực này -đạt được do quan niệm tương quan trung tâm
sự co của cơ nâng hàm, dĩa khớp bị “phía trong nhất” cũng được xem xét
nén lại và trục lồi cầu đạt mức mà trong 1 khớp xốp. Từ đó long centric
chúng ta hay gọi là vị trí đỉnh lực. Nó lại thường được kết hợp với một
là một vị trí có thể tái lập nhiều lần và trường tự do theo chiều ngang gọi là
ghi nhận được với độ chính xác cao. “wide centric” (centric rộng). Ngược
Do đó, sẽ hơi khó hiểu làm sao một lại với thuyết long centric, có những
điểm chính xác như vậy lại có thể người tin rằng tương quan tâm là một
“long” (dài). Thuật ngữ “long centric” vị trí cực kỳ chính xác nên các điểm
có thể dễ gây hiểu lầm vì không thể chạm mặt nhai phải được mài chỉnh
có thứ gì đã gọi là điểm chính xác mà để tạo ra trường tự do theo chiều
lại “dài” cả. Khái niệm “long centric” ngang trước tương quan tâm. Những
lại càng khó chấp nhận hơn với những người ủng hộ thuyết này thường mài
hiểu biết đương thời là cực gần của chỉnh mặt nhai sao cho có thể khóa
phức hợp lồi cầu-dĩa khớp bị chặn lại răng vào một tương quan răng hạn
bởi xương, không nén ép gì được, ít chế, với ba điểm chạm trên ba sườn
nhất trong giới hạn chức năng bình của mỗi múi, muốn mở khóa tương
thường. Khái niệm nguyên thủy về quan tâm kiểu này chỉ có thể dựa hoàn
long centric vốn nhận được một số toàn vào chuyển động xuống dưới của
ủng hộ nhưng lại vì những lý do sai lồi cầu. Phải rất vất vả mới chỉnh
lầm, bởi những quan niệm lệch lạc được độ nghiêng của múi tương ứng
rằng lồi cầu hoặc nằm trong một khối với đường đi chính xác của lồi cầu,
mô mềm hoặc chỉ đơn giản treo lơ mà lúc đó thì hướng dẫn răng trước đã
lửng trong không. Vì cả hai thuyết bị chỉnh áp đặt cho thật dốc hoặc thật
này đều mô tả lồi cầu nằm nghỉ trong phẳng để phù hợp với góc độ đường
một khớp khá xốp, dẫn đến suy luận đi của lồi cầu. Việc này dẫn đến
rằng một tương quan khớp cắn chính tương quan khớp cắn phải cực kỳ
xác không thể nào tương thích đươc chính xác và có thể bị giới hạn
với một tương quan tâm không chính khoảng tự do theo chiều ngang trong
xác như thế. Từ đó mới nghĩ rằng phải các vận động chức năng của hàm. Vì
tạo ra một “vùng” tương quan tâm các chuyển động xuống dưới của lồi
cầu thật sự có thể mở khóa các điểm Tóm tắt lại, những quan điểm thường
chạm 3 điểm ở phía sau, hiệu ứng giới gặp nhất về khái niệm long centric có
hạn khớp cắn như vậy phụ thuộc vào thể rút về hai trường phái chính như
việc áp đặt khóa các diện trong của sau:
răng trước hàm trên. Bệnh nhân
1. Cần có một độ tự do theo chiều
thường than phiền là răng cửa bị chạm
ngang trên toàn bộ khớp cắn để
mạnh hoặc va đập, mặc dù không có
tương thích với tương quan đàn
cản trở nào ở tương quan tâm. Những
hồi ở phần các diện khớp.
than phiền kiểu như “ngồi dậy cắn lại
2. Chẳng cần độ tự do theo chiều
có vẻ khác” thường bị phớt lờ.
ngang ở tương quan khớp cắn
vì vùng khớp chẳng có tính đàn
hồi gì cả ở tư thế tương quan
tâm
Chúng ta cần phải hiểu rõ ý nghĩa của
cụm từ long centric ngay cả khi không
được đồng tình lắm với cách dùng từ
này. Có lẽ chỉ khi đó, một số hiểu lầm
mới có thể được gỡ bỏ. Tôi sẽ định
nghĩa thuật ngữ long centric như thế
này: tự do đóng hàm vào tư thế tương
quan tâm hoặc hơi ra trước đó một
chút mà không làm thay đổi kích
thước dọc vùng răng trước.
Hai điểm chính về long centric cần
được làm rõ để hiểu được dễ dàng
hơn:
1. Long centric liên quan chủ yếu
đến các răng trước. Ở một khớp
Hình 19-1 Không cần có long centric phẳng ở vùng răng sau ngay lồi cầu khỏe mạnh, răng sau
cả khi nó có tham gia vào hướng dẫn răng trước. A, lồi cầu không
thể di chuyển theo chiều ngang ra trước vì vướng lồi khớp ở tương không có đường di chuyển ra
quan tâm. B, Chúng phải di chuyển xuống dưới từ tương quan tâm trước theo chiều ngang. Ngay
để đưa hàm dưới ra trước. Răng cối lớn cũng di chuyển xuống cả khi hoàn toàn không có
dưới cùng lồi cầu.
hướng dẫn răng trước, lồi cầu
vẫn phải di chuyển xuống dưới
thì hàm mới đi về trước được.
Theo đó răng sau hàm dưới khác nhau, nhưng có thể gây
cũng phải di chuyển xuống cản trở tiến trình đóng hàm
dưới như vậy (Hình 19-1). Do dáng bộ bình thường.
đó không cần thiết phải có một
Việc tạo ra long centric đơn giản là
vùng phẳng lì ra trước ở các
di chuyển các mặt nghiêng lưỡi
răng sau, đặc biệt ở vùng răng
này ra trước để hàm có thể tự do
cối lớn.
đóng lại không bị cản trở bất kể là
2. Long centric ý chỉ tự do từ
về tương quan tâm hoặc hơi ra
tương quan tâm, không phải tự
trước một chút tùy thuộc vào việc
do ở tương quan tâm. Mối quan
đóng từ những tư thế đầu dáng bộ
ngại chính về long centric là
khác nhau. Một long centric phẳng
các giới hạn do mặt nghiêng
lì ở vùng răng sau là không cần
phía lưỡi của các răng trước
thiết ngay cả khi nó có tham gia
trên. Nếu những bờ cắn răng
vào hướng dẫn răng trước. Lồi cầu
cửa dưới tiếp xúc với những
không thể di chuyển ra trước theo
mặt lưỡi nghiêng dốc ở tư thế
chiều ngang vì vướng lồi khớp ở
tương quan tâm, chính những
tương quan tâm. Từ tương quan
mặt nghiêng này sẽ cản trở
tâm chúng phải đi xuống thì hàm
đường đóng hàm dáng bộ, điều
dưới mới ra trước được. Răng cối
này không phù hợp với trục
lớn phải đi xuống cùng với lồi cầu.
tương quan tâm. Khi đóng hàm
dáng bộ ra trước nhẹ, nếu Một quy tắc cơ bản để tối ưu hóa
không có chút trường tự do sự thoải mái và vững ổn của bất kỳ
theo chiều ngang nào, bờ cắn tương quan khớp cắn nào là:
răng cửa dưới sẽ đập vào các Khi răng đóng lại từ một tư thế
mặt nghiêng lưỡi của răng dáng bộ, răng cửa hàm dưới không
trước trên. Nếu những mặt được va vào mặt nghiêng nào
nghiêng này đủ dốc, ngay từ trước khi đạt được đóng khít hoàn
tiếp xúc đầu tiên nó sẽ gây ra toàn.
hiệu ứng chêm ở nhiều mức độ
Tiếp xúc ở tương quan tâm
Muốn ghi nhận long centric, trước tiên cần loại hoàn toàn
bỏ cản trở ở răng sau trên đường về tương quan tâm để có
thể đánh giá các tiếp xúc răng trước ở tương quan tâm.
Bệnh nhân khi ngồi ở tư thế thẳng, thả lỏng, dáng bộ, răng
khi nhẹ nhàng bập vào nhau không được đập vào mặt
nghiêng phía lưỡi hàm trên trước khi đóng hoàn toàn vào vị
trí khít nhất.
Nếu có đường dốc trước dấu tương quan tâm, cần mài
chỉnh để đường dốc không bị chạm trong suốt quá trình
đóng nhẹ hàm không hướng dẫn. Mức độ mài chỉnh
không bao giờ vượt quá 0.5mm, cho nên thật sự không
cần thiết phải mài răng thật nhiều để đạt được long
centric.
Hình 19-3 Bập nhẹ (không hướng dẫn) Hình 19-4 Hướng dẫn đóng hàm về Hình 19-5 Nếu dấu đỏ hiện lên trên dốc trước
trên giấy cắn đỏ cho thấy các cản trở tương quan tâm cho những điểm điểm chạm tương quan tâm (mũi tên), cần mở
đóng hàm dáng bộ chạm tương quan tâm màu đen đè rộng điểm chạm tương quan tâm về phía
lên điểm chạm dáng bộ đỏ trước
lệch khỏi trục, ghi dấu và mài chỉnh có chọn lọc các cản trở sẽ đưa đến những
điểm chạm tương quan tâm ở càng nhiều răng trước càng tốt. Những điểm chạm
tương quan tâm được chỉnh đúng sẽ đủ vững ổn để không có răng nào bị lung
lay khi răng chạm mạnh vào nhau ở đóng hàm bản lề tận cùng. Khi đạt tới điều
này, cơ chuyển động hàm sẽ tự do đóng hàm bằng bất cứ cách nào thích hợp
nhất. Vì không có cản trở nào đến trục đóng hàm tận cùng, hàm dưới tự do di
chuyển đến nơi nào hoạt động sinh lý của cơ cho phép. Nếu cơ đóng hàm dưới
vào vị trí nào đó khác tương quan tâm, rất dễ quan sát thấy được bằng cách
kiểm tra vùng răng trước với giấy cắn mỏng. Từ đó, đây là thời điểm lý tưởng
để xác định liệu bệnh nhân phục hình có cần long centric không và nếu có là
bao nhiêu. Nếu điểm chạm tương quan tâm vùng răng trước đã hoàn hảo, bệnh
nhân sẽ được ngồi dậy ở tư thế dáng bộ bình thường. Bỏ tựa đầu đi, rồi bệnh
nhân bập nhẹ nhàng răng vào nhau từ tư thế hàm thư giãn. Giấy cắn đỏ mỏng
được đặt giữa hai hàm răng, rồi bệnh nhân lập lại quá trình bập nhẹ (Hình 19-
3). Dấu đỏ từ quy trình này sẽ chỉ ra những mặt lưỡi trên răng trước trên ở
những điểm chạm đầu tiên của răng dưới khi hàm dưới đóng nhẹ bởi các hoạt
động cơ không bị giới hạn, không trợ giúp, hoàn toàn sinh lý khi bệnh nhân ở tư
thế dáng bộ. Để so sánh với sự đóng hàm tương tự với trục tận cùng tương tự về
tương quan tâm, cần giữ bệnh nhân mở miệng để giữ dấu cắn đỏ trong khi từ từ
nằm xuống để ghi dấu tương quan tâm bằng một giấy cắn sậm màu (Hình 19-4).
Nếu dùng giấy cắn đen để ghi nhận tiếp xúc ở tương quan tâm sẽ dễ dần nhận ra
khác biệt giữa đóng hàm bản lề tận cùng có hướng dẫn và đóng nhẹ không
hướng dẫn từ tư thế nghỉ dáng bộ. Nếu bệnh nhân cần khoảng tự do long
centric, dấu đỏ sẽ kéo dài phía trước dấu đen. Nếu có dấu đỏ chèn trên sườn
dốc, những điểm chạm tương quan tâm cần được kéo dài ra phía trước ở cùng
kích thước dọc với độ dài của dấu đỏ (Hình 19-5).
Khi kéo dài điểm chạm tương quan tâm để phủ qua đường đóng từ tư thế nghỉ
dáng bộ, nha sĩ không bao giờ được mài trên điểm tương quan tâm đen. Mũi đá
mài chóp ngược bờ nhọn rất tiện để dùng mài chỉnh chính xác.
Tư thế dáng bộ
Hình 19-6 Hình này dùng giấy cắn màu hơi ngược ( xanh lá
dùng cho đóng hàm dáng bộ; đỏ cho tương quan tâm). Hãy chú
ý hiệu ứng chèn do đập mạnh vào sườn dốc mặt lưỡi trong quá
trình đóng hàm dáng bộ (màu xanh lá)