Khí phách và hoài bão của người anh hùng của thời đại
mang âm hưởng hào khí Đông A luôn là nguồn cảm hứng
sang tác cho nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đóm không thể không kể đến tác phẩm “Thuật hoài” của nhà thơ Phạm Ngũ Lão. Đây có thể xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất còn được lưu trữ lại của ông, vì nó đã cho người đọc cảm nhận được + ĐỀ. Explain từ ngữ trong đề. Thuật hoài được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh hào hùng với giọng điệu đầy tự hào, Phạm Ngũ Lão đã cho người đọc thấy được khí phách của người anh hùng trong thời đại nhà Trần. Ngay từ dòng thơ đầu tiên, tác giả đã cho ta cảm nhận được vẻ đẹp của con người Việt Nam thời đại xưa: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” Bằng việc sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng, ông đã làm bật lên được tư thế “hoành sóc” của những đấng nam nhi xưa, ấy là tư thế cắp ngang ngọn giáo, một tư thế hiên ngang, tự tin, luôn sẵn sàng, tư thế mang tầm vóc thời đại, sử thi. Ngọn giáo của binh lính nhà Trần như phải đo bằng chiều ngang của non sông, vừa mang tầm vóc về không gian lại vừa mang kích thước thời gian qua từ “kháp kỉ thu”. Chúng ta nhận thấy được chủ nghĩa yêu nước được tác giả biểu hiện qua vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ đất nước, đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Và hình ảnh của đội quân Sát Thát dũng mãnh ấy được thể hiện rất rõ qua câu thơ tiếp theo: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” Bằng việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh và thủ pháp thậm xưng, PNL đã thể hiện được sức mạnh của quân đội nhà Trần lấn át cả thiên nhiên, vũ trụ. Khí thế hào hùng trùng điệp mà ta thấy được trong từ “tam quân” và sức mạnh phi thường, sánh nganng “tì hổ”, quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược non sông. “Tam quân” không chỉ mang hàm ý chỉ quân đội nhà Trần, nó còn biểu tượng cho sức mạnh dân tộc Việt Nam ta, toàn dân đoàn kết một lòng chống giặc. Khí thế ấy đã được so sánh như “khí thôn Ngưu” – nuốt cả sao Ngưu, lấn át, làm mờ cả chòm sao trên bầu trời. Đây là một hình ảnh rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân Sát Thát đánh đâu thắng đó, nó còn khơi nguồn cảm hứng trong nền văn học dân tộc, như trong bài “Bạch đằng giang phú”: “Thuyền bè muôn đội Tinh kỳ phấp phới Tỳ hổ 3 quân, giáo gươm sáng chói.” Nếu như hai câu đầu cho ta thấy giọng điệu sôi nổi, hà hùng thì hai câu cuối lại mang âm hưởng trầm lắng, mang tâm tự của nhà chính trị yêu nước: “Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” Bằng việc sử dụng âm hưởng thâm trầm, da diết, PNL đã cho ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách lý tưởng của người anh hùng. Vẻ đẹp của những người tráng sĩ ấy không chỉ thể hiện ở tư thế, khí phách, mà còn thể hiện ở cái chí, tâm hồn của họ. Theo tác giả, làm trai thường gắn liền với hai chữ công danh, được làm nên bằng máu, bằng tinh thần quả cảm, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời chứ không phải thứ “công danh” tầm thường. Hai chữ “công danh” ấy cũng chính là món nợ đời phải trả, như NCT đã từng khẳng định: “Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông” Người làm trai ngày xưa quan niệm sống trên đời phải lập công, để lại tiếng thơm cho đời. Nhưng PNL lại thấy thẹn, cảm thấy rằng mình chưa trả xong nợ đời. Ông thẹn vì chưa có tài mưu lược như GCL để khôi phục đất nước, trả hết nợ cho núi sông. GCL nổi tiếng với lòng trung thành tuyệt đối. Chính vì thế, ông để câu thơ “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” là câu kết của “Thuật hoài” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo, với nhân dân. Sự thẹn ấy không làm con người ông thấp bé đi mà lại còn nâng cao nhân cách con người, thể hiện được hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường đã làm nên nhân cách cao quý của PNL. Chỉ vỏn vẹn có bốn dòng thơ, bằng việc sử dụng hàng loạt các phép tu từ đặc sắc, tác giả đã bày tỏ được tâm trí cùng hoài bão lớn lao của những người tráng sĩ mang đậm hào khí Đông A. Đã mang chí làm trai thì phải lập công vinh hiển, để lại tiếng thơm cho đời, như Phan Bội Châu đã từng khẳng định: “Làm trai phải lạ ở trên đời Há để càn khôn tự chuyển dời” Bài thơ có ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực, đặc biệt với thanh niên trong mọi thời đại. Nó mang đến tinh thần trách nhiệm của người thanh niên đối với đất nước khi có giặc ngoại xâm. Người thanh niên nói chung trong mọi thời đại phải luôn có ý thức, thấy được trách nhiệm cao cả của mình đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc.