Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 104

Mục lục

1. Mở đầu 3
1.đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của môn lịch sử đảng cộng sản
việt nam. 3
2. Chức năng, nhiệm vụ của môn lịch sử đảng cộng sản việt nam. 6
3. Ý nghĩa của việc học tập môn lịch sử đảng cộng sản việt nam. 7
2. Sự ra đời đảng cộng sản việt nam 8
4. Tại sao nguyễn ái quốc lại khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc việt
nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản. 8
5. Nội dung và ý nghĩa những tư tưởng cách mạng của nguyễn ái quốc được truyền
bá vào việt nam từ năm 1920 đến năm 1929. 9
6. Các yếu tố dẫn tới sự ra đời của đảng và mối quan hệ giữa các yếu tố đó 11
7. Cương lĩnh chính trị đầu tiên và ý nghĩa của sự kiện đảng cộng sản việt nam ra
đời 13
8. Vai trò của nguyễn ái quốc trong trong quá trình vận động thành lập đảng cộng
sản việt nam. ( cde 3 tháng 9) 15
3. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) 18
9. So sánh luận cương chính trị tháng 10-1930 với cương lĩnh chính trị đầu tiên
(6.1.1930) của đảng. ( cde 1 tháng 10) 18
10. Chủ trương của đảng trong cuộc vận động dân chủ 1936- 1939. Thành quả và
kinh nghiệm của cuộc vận động này. 20
11: phân tích chủ trương chiến lược mới của đảng trong giai đoạn 1939-1945 22
12. Phân nguyên nhân thắng lợi, tính chất và kinh nghiệm của cách mạng tháng tám
năm 1945 26
4. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và can thiệp mỹ (1945 -
1954) 28
13. Chủ trương và diễn biến của cuộc đấu tranh bảo vệ & xây dựng chính quyền
cách mạng thời kỳ 1945 - 1946 28
14. Phân tích nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân pháp và
can thiệp mỹ của đảng. 31
15. Phân tích nội dung cơ bản của chính cương đảng lao động việt nam (2-1951) 34
16. Những diễn biến chính của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và can thiệp
mỹ (1945 – 1954) 36
5. Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và kháng chiến chống
mỹ, cứu nước (1954 - 1975) 39
17. Phân tích ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp của đảng (1945 – 1954). 39
18. Phân tích đặc điểm của miền bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. 40

1
19. Phân tích tính chất của xã hội miền nam sau năm 1954 và nội dung cơ bản nghị
quyết 15 tháng 1/1959. Ý nghĩa của nghị quyết này với cách mạng miền nam. ( cde 1
tháng 12) 41
20. Phân tích nội dung cơ bản đường lối chiến lược chung của cách mạng việt nam
được đại hội iii (9-1960) của đảng vạch ra. ( cde 2 tháng 12) 44
hoàn cảnh 44
21. Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng cnxh trong thời kỳ quá độ
ở miền bắc được đại hội iii (9/1960) của đảng vạch ra. ( cde 2 tháng 12) 46
22. Quá trình hình thành, phát triển và nội dung đường lối kháng chiến chống mỹ
cứu nước (Câu 20) 49
23. Các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954–1975) và ý nghĩa
của mỗi giai đoạn. (Câu 20) 52
24. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống mỹ,
cứu nước (1954 – 1975). Câu 22 52
6. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975-
2006) 55
25. Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng xhcn trong thời kỳ quá độ
được đại hội iv (12/1976) của đảng vạch ra. 55
26. Phân tích nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa của hai cuộc chiến tranh bảo vệ chủ
quyền biên giới phía tây nam và phía bắc của tổ quốc. 57
27. Phân tích nội dung công nghiệp hóa xhcn của chặng đường đầu tiên được đại
hội v (3/1982) vạch ra. 65
28. Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy quản lý kinh tế của đảng từ
năm 1979 đến năm 1985 66
29. Phân tích yêu cầu và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành
công cnxh và bảo vệ vững chắc tổ quốc việt nam xhcn của đại hội v (3/1982) 68
30. Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm
xây dựng cnxh trên phạm vi cả nước (1976 – 1985) (Câu 24) 69
31. Phân tích nội dung bốn bài học kinh nghiệm của thời kỳ xây dựng cnxh trước đổi
mới được đại hội lần thứ vi (12/1986) của đảng đưa ra. 69
32. Phân tích nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới xây dựng nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên cnxh của đại hội vi (12/1986) 73
33. Phân tích những đặc trưng cơ bản của cnxh ở việt nam được đại hội vii (6/1996)
đưa ra và đại hội xi (1/2011) bổ sung, phát triển. 74
34. Phân tích những cơ hội và thách thức lớn của cách mạng việt nam được hội
nghị toàn quốc giữa nhiệm ký (4/1994) đưa ra. 77
35. Phân tích quan điểm, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước của đại hội viii (7/1996). 80
36. Phân tích luận điểm “động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh công nông trí thức do đảng lãnh đạo..” Của đại hội ix
(4/2001). Để thực hiện được luận điểm đó, chúng ta phải làm gì? 81
37. Phân tích những bài học lớn của 20 năm đổi mới (1986 – 2006) được đại hội x
(4/2006) của đảng đưa ra 82

2
38. Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng cnxh ở việt nam của cương
lĩnh năm 2011 được đại hội xi (1/2011) thông qua. 84
41. Phân tích những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thời đại của cách mạng việt nam
dưới sự lãnh đạo của đảng 89
42. Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của đảng với cách mạng việt nam từ
năm 1930 đến năm 2018 92

39. Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì cnxh do đảng khởi
xướng và lãnh đạo.
40. Phân tích những kinh nghiệm chủ yếu của công cuộc đổi mới vì cnxh của đảng.

1. Mở đầu
1.ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA MÔN LỊCH SỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
a. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong cách
mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ và hy sinh, giành nhiều thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược và mang tính thời đại, làm cho đất nước, xã hội và con người Việt Nam ngày
càng đổi mới sâu sắc. Lịch sử của Đảng là một pho lịch sử bằng vàng. Hồ Chí Minh nói: "Với tất
cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ
đại!"
Để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và phát huy truyền thống vẻ vang của mình,
Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác nghiên cứu lịch sử Đảng và tổng kết những bài
học lịch sử trong từng thời kỳ cũng như trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Nghiên cứu và tổng kết các bài học lịch sử của Đảng là một phương pháp tốt để nâng cao
trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, góp phần khắc
phục những xu hướng giáo điều và kinh nghiệm chủ nghĩa trong Đảng. Trên cơ sở nghiên cứu và
khái quát sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm lịch sử đã tích lũy được trong cuộc đấu tranh cách
mạng của Đảng, nếu không hiểu được mối liên hệ lịch sử tất yếu và qua đó hiểu tiến trình phát
triển có thể có của các sự kiện, Đảng mới có thể đề ra được một đường lối chính trị hoàn chỉnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị có quy luật hình thành, phát triển vai
trò lịch sử riêng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Do đó, lịch sử Đảng là đối tượng nghiên cứu
của một khoa học riêng - khoa học lịch sử Đảng.
Lịch sử Đảng gắn liền với lịch sử dân tộc. Theo đó, lịch sử Đảng là một khoa học chuyên
ngành của khoa học lịch sử và có quan hệ mật thiết với các khoa học về lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

3
Mỗi ngành khoa học có một phạm vi nghiên cứu cụ thể trong mối quan hệ biện chứng với
các khoa học khác. Khoa học lịch sử nghiên cứu về xã hội và con người xã hội, nghiên cứu về
cuộc sống đã qua của nhân loại một cách toàn diện trong sự vận động, phát triển, với những quy
luật phổ biến và đặc thù của nó. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 là lịch sử đấu tranh cách mạng
kiên cường và anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm
xóa bỏ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, xây dựng chế độ mới. Đảng Cộng sản
Việt Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Do đó, lịch sử Việt Nam
(từ năm 1930 trở đi) và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó hữu cơ với nhau.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Đảng là người đề ra đường lối cách
mạng và tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối. Do đó, khoa học lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam là một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa dạng và phong phú của Đảng trong
mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của dân tộc và thời đại. Với tư cách là một khoa học,
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có đối tượng nghiên cứu là tổ chức và hoạt động của Đảng và
các phong trào cách mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng.
b. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu gắn liền với đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đường lối
chính trị, hoạt động của Đảng là sự biểu hiện cụ thể lý luận đó trong hoàn cảnh Việt Nam với tất
cả đặc điểm vốn có của nó. Do đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư
tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với khoa học lịch sử nói chung và khoa
học lịch sử Đảng nói riêng. Đó là những cơ sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử
Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhờ có hoạt động lý luận dựa vào chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã đi đến nhận thức được những điều kiện khách quan và sự
chín muồi của những nhân tố chủ quan của sự phát triển xã hội thông qua hệ thống công tác tổ
chức và tư tưởng của Đảng đối với quần chúng.
Do đó, đối với khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, quan niệm duy vật về lịch sử
là chìa khóa để lý giải sự xuất hiện và phát triển của Đảng như là một kết quả tất yếu của lịch sử
đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Chỉ có đứng trên quan điểm lịch sử mới có thể đánh giá được
một cách khoa học các giai đoạn phát triển của Đảng, trên cơ sở làm sáng tỏ địa vị khách quan
và vai trò lịch sử của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, cũng như mới lý giải được rằng lý tưởng cách mạng và những mục tiêu cao cả xuất
phát từ lý tưởng đó, mà Đảng đã kiên trì theo đuổi từ ngày mới ra đời không phải là do ý muốn
chủ quan của một cá nhân hoặc của một nhóm người tài ba lỗi lạc nào, cũng không phải do

4
"nhập cảng" từ bên ngoài vào, mà xét cho cùng là sự phản ánh khách quan của sự phát triển lịch
sử - tự nhiên trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Với phương pháp luận khoa học, các nhà sử học chân chính có thể nhận thức được lịch
sử một cách chính xác, khoa học. Họ có thể nhận thức và phản ánh đúng hiện thực khách quan
khi nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng, một quá trình lịch sử nào.
Nghiên cứu lịch sử Đảng đòi hỏi phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể mới có thể
xem xét các sự kiện lịch sử trong những điều kiện và thời điểm cụ thể và trong mối quan hệ giữa
chúng với nhau. Việc nắm vững và vận dụng quan điểm lịch sử trong khoa học lịch sử Đảng cho
phép lý giải được tính sáng tạo cách mạng trong đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như làm
rõ được cơ sở phương pháp luận của hoạt động lý luận của Đảng trong quá trình nghiên cứu để
quyết định những đường lối, chủ trương.
Khoa học lịch sử Đảng sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
lịch sử nói chung, như các phương pháp lịch sử và logic, đồng đại và lịch đại, phân tích và tổng
hợp, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hóa và trừu tượng hóa... trong đó quan trọng nhất là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic cùng sự kết hợp hai phương pháp ấy.
Nhiệm vụ đầu tiên của khoa học lịch sử Đảng là phải làm sáng tỏ nội dung các giai
đoạn lịch sử đấu tranh của Đảng, với những sự kiện cụ thể sinh động và trong mối liên hệ có tính
nhân quả giữa chúng với nhau, cho nên phương pháp được đặt lên hàng đầu trong khoa học lịch
sử Đảng là phương pháp lịch sử.
Song nếu phương pháp lịch sử không có sự kết hợp với phương pháp logic thì sẽ giảm
đi tính chất khái quát của nó, không thể vạch ra được bản chất, khuynh hướng chung và những
quy luật khách quan chi phối sự vận động lịch sử. Hoạt động của Đảng trong quá khứ cơ bản là
hoạt động lãnh đạo, lên lịch sử của Đảng chính là lịch sử của sự lãnh đạo cách mạng, lịch sử của
hoạt động nhận thức quy luật, đề ra đường lối, chủ trương cách mạng. Hoạt động đó đã được ghi
lại, được thể hiện trong các cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, qua phát ngôn của các lãnh
tụ của Đảng.
Hoạt động xây dựng Đảng trong lịch sử về tư tưởng và tổ chức cũng được thể hiện qua
Điều lệ của Đảng. Do đó, để nghiên cứu lịch sử của Đảng, phương pháp quan trọng có tính đặc
thù, bắt buộc là phải nghiên cứu các văn kiện Đảng, nhất là văn kiện các Đại hội và Hội nghị
Trung ương. Nắm vững nội dung các văn kiện Đảng sẽ hiểu được đường lối, chủ trương lãnh đạo
cách mạng của Đảng trong các thời kỳ lịch sử, tức là nắm được hoạt động chính yếu của Đảng
trong quá khứ, hiểu được lịch sử của Đảng. Tính đúng đắn của sự lãnh đạo của Đảng đã được
kiểm nghiệm qua hành động thực tiễn của cán bộ, đảng viên, qua hoạt động của hệ thống chính
trị do Đảng tổ chức, qua phong trào cách mạng của quần chúng. Vì vậy, để đánh giá đúng đắn

5
lịch sử của Đảng, rút ra những kinh nghiệm lịch sử phải căn cứ vào phong trào thực tiễn của
nhân dân, vào thành bại của cách mạng
2. Chức năng, nhiệm vụ của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
a. Chức năng
Với tư cách là khoa học về những quy luật phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng, lịch
sử Đảng có hai chức năng: chức năng nhận thức khoa học và chức năng giáo dục tư tưởng chính
trị.
Chức năng nhận thức khoa học lịch sử có mục đích trước hết là để phục vụ việc cải tạo
xã hội theo đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam như một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Việc hiểu biết thấu đáo những kiến thức và kinh nghiệm lịch sử Đảng là cơ sở khoa học để có
thể dự kiến những xu hướng phát triển chủ yếu của xã hội và những điều kiện lịch sử cụ
thể có tác động đến những xu hướng đó. Bằng cách đó, khoa học lịch sử Đảng cùng với các môn
khoa học lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực tạo cơ sở lý luận để
Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Chức năng giáo dục tư tưởng chính trị: lịch sử Đảng tham gia vào việc giải quyết
những nhiệm vụ hiện tại. Những kiến thức khoa học về các quy luật khách quan của sự
phát triển lịch sử cách mạng Việt Nam có tác dụng quan trọng đối với cán bộ, đảng viên, nhân
dân trong việc trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng
lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó có quyết tâm phấn đấu thực hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.
b. Nhiệm vụ
Để thực hiện chức năng đó, trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ làm rõ những quy luật của cách mạng
Việt Nam, nghiên cứu, trình bày các điều kiện lịch sử, các sự kiện và quá trình hình thành, phát
triển và hoạt động của Đảng, nổi bật là những nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt
Nam - bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.

Trong thời gian đầu không phải là toàn bộ giai cấp công nhân đã tiếp thu được chủ nghĩa
Mác - Lênin, mà chỉ có một bộ phận tiên tiến nhất tiếp thu được lý luận đó. Bộ phận này đứng
ra thành lập đảng cộng sản, do vậy đảng cộng sản là một bộ phận của giai cấp công nhân và giai
cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua đảng cộng sản là đội tiền
phong của mình.Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là quy luật chung
cho sự ra đời của các đảng cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp đó không theo một khuôn
mẫu giáo điều, cứng nhắc, mà nó được thực hiện bằng con đường riêng biệt, tuỳ theo điều kiện
cụ thể về không gian và thời gian.
Yêu cầu của cách mạng thuộc địa khác với yêu cầu của cách mạng ở các nước tư bản
chủ nghĩa. Đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phải lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống giai cấp tư sản, còn đảng cộng sản ở thuộc địa trước hết phải lãnh đạo cuộc
đấu tranh dân tộc chống chủ nghĩa thực dân. Vấn đề giai cấp ở thuộc địa phải đặt trong vấn đề

6
dân tộc, đòi hỏi sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đảng cộng sản trong
điều kiện một nước thuộc địa.
- Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây
dựng một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Khoa học xây dựng Đảng có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật xây dựng đảng, xác
định những nguyên tắc, mục đích, yêu cầu; những nguyên lý và hệ thống các biện pháp phải
tuân theo để xây dựng một chính đảng cách mạng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; hình thành
nên lý luận về xây dựng đảng.
Lịch sử Đảng có nhiệm vụ làm rõ những hoạt động cụ thể của Đảng để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng. Đó là sự thực hiện
các nguyên lý, vận dụng những nguyên tắc, tiến hành các biện pháp để làm cho Đảng trong
sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đương nhiên giữa hai ngành khoa học đó có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
- Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các
giai đoạn cách mạng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Đó là quá trình đi sâu nắm vững phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù
hợp với bối cảnh quốc tế và thực tiễn của xã hội Việt Nam, để định ra cương lĩnh, vạch ra
đường lối, xác định những chủ trương và biện pháp cụ thể cho mỗi giai đoạn cách mạng.
Đó là quá trình đấu tranh về quan điểm tư tưởng trong nội bộ Đảng để xác định một
đường lối đúng đắn, đấu tranh bảo vệ đường lối cách mạng của Đảng, chống mọi biểu hiện của
tư tưởng hữu khuynh và "tả" khuynh, chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng duy ý chí, chủ quan,
giáo điều và các loại tư tưởng phi vô sản khác.
Đó cũng là quá trình chỉ đạo và tổ chức quần chúng hành động thực tiễn, giành thắng lợi
từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, thực hiện triệt để các mục tiêu cơ bản của cách
mạng Việt Nam do Đảng vạch ra.
- Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Nhằm theo những phương hướng cơ bản do Đảng xác định, phong trào cách mạng của
quần chúng diễn ra một cách tự giác, hết sức sinh động, phong phú và sáng tạo. Sức sáng tạo của
các tổ chức đảng và quần chúng rất lớn. Nó làm cho quyết tâm của Đảng trở thành hành động cách
mạng, làm cho đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng trở thành thực tiễn, và do đó, tạo cơ sở
cho việc bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng. Một đường lối cách
mạng đúng sẽ được quần chúng nhân dân ủng hộ và quyết tâm thực hiện.

- Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng


Khoa học lịch sử Đảng có nhiệm vụ góp phần tổng kết những kinh nghiệm từ
những thành công và không thành công của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, góp phần
làm phong phú thêm kho tàng lý luận của Đảng.
3. Ý nghĩa của việc học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri thức khoa học về lịch sử Đảng có ý nghĩa rất to lớn
trong việc giáo dục phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trước tình hình
chính trị quốc tế có những diễn biến phức tạp và trong việc giáo dục đạo đức cách mạng,

7
mà Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam là một mẫu mực
tuyệt vời.
- Việc nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng cũng có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục về
truyền thống cách mạng, về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, về lòng
tự hào đối với Đảng và đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời còn có tác dụng bồi dưỡng ý
chí chiến đấu cách mạng, thôi thúc ở người học ý thức biết noi gương những người đã đi
trước, tiếp tục cuộc chiến đấu dũng cảm ngoan cường, thông minh, sáng tạo để bảo vệ và
phát triển những thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã tốn biết bao xương
máu để giành được, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
4. TẠI SAO NGUYỄN ÁI QUỐC LẠI KHẲNG ĐỊNH: MUỐN CỨU NƯỚC VÀ GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ
SẢN.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước, chống thực dân, đế quốc ở nước ta
diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ nhưng tất cả đều không thành công do không có một đường lối đấu
tranh phù hợp. Trước thực tế đó, vượt qua lối mòn và những hạn chế trong đường lối cách mạng
của các nhà yêu nước đương thời, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành quyết định sang
phương Tây - nước Pháp, quê hương của tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và cũng là nước
đang thực hiện chế độ thực dân đối với dân tộc Việt Nam để xem xét, nghiên cứu, học hỏi.
Quyết định sang nước Pháp của Nguyễn Tất Thành là sự lựa chọn đúng đắn đầu tiên, thể hiện
một tư duy độc lập và tầm nhìn mới mẻ về hướng đi và con đường cứu nước cho dân tộc Việt
Nam đang trong vòng nô lệ, lầm than. Khát vọng và hoài bão lớn nhất là tìm ra một con đường
cứu nước đúng đắn để giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho nhân
dân. Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin; từ khát vọng độc lập, giải phóng đất nước, Người đã tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc là một trong số ít các nhà yêu nước đầu tiên ở các nước thuộc địa tiếp thu được
“ánh sáng kỳ diệu” từ bản Luận cương của V.I.Lênin, nhận thức và nắm bắt được xu hướng phát
triển của thời đại mới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Sự kiện Người bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (tháng 12/1920) có ý nghĩa quan
trọng: trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam,
chính thức đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế
giới, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đây là “sự khẳng định một hướng đi
mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với
các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc
vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng”(3).
Cũng chính từ đây, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập trung mọi nỗ lực, hướng mọi hoạt động, kiên
trì và quyết tâm truyền bá lý luận Mác - Lênin, tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga về
nước, tiến hành cuộc vận động đấu tranh giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
Những luận điểm chủ yếu của con đường cách mạng Việt Nam được hình thành qua những bài
báo đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc trên báo Nhân đạo, báo Người cùng khổ, báo Thanh niên, qua
các tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường Kách mệnh”, những bài giảng tại các lớp
huấn luyện chính trị ở Quảng Châu - Trung Quốc và được kết tinh trong Chánh cương vắn tắt,

8
Sách lược vắn tắt của Đảng tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (tháng 02/1930). Thành
công của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tầm cao tư tưởng, bản lĩnh
chính trị và tinh thần chủ động, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc.
Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: làm thế nào để giải
phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân;
lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với xu
thế đi lên của thời đại mới. Nói cách khác, với việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, chủ
trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”,
Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo
dài 2/3 thế kỷ: “Lịch sử dường như đã chuẩn bị sẵn cho dân tộc Việt Nam đi vào thời kỳ hiện đại
bằng miếng đất sẵn sàng được gieo trồng, và bằng những nông phu sẵn hạt giống trong tay.
Miếng đất ấy là nhân dân có truyền thống đấu tranh bất khuất; giống đó là chủ nghĩa Mác -
Lênin; người thứ nhất gieo giống đó là Nguyễn Ái Quốc”(4).
Sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Nguyễn Ái Quốc dựa
trên cơ sở lý luận và khoa học, dựa trên thực tiễn vận động và đòi hỏi của phong trào cách mạng
Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Người đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(5). Đường lối
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được nêu lên trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, phản ánh
sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử, phù hợp với sự vận động của cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa
số các tầng lớp nhân dân Việt Nam: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc
lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn
của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta trong lúc các
phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo
nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”(6).
Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, không còn con đường nào khác ngoài con đường đi lên
CNXH; cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, vận động và phát
triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản và trào lưu phát triển của thời đại mới từ sau Cách mạng
Tháng Mười Nga: “Hồ Chí Minh đã chọn con đường Lênin, con đường Cách mạng Tháng Mười
Nga. Đối với Người, đó là “cẩm nang thần kỳ” đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến thành
công; và trên thực tế, thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã xác nhận tính đúng đắn của sự lựa
chọn đó”(7).
Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam sau năm 1930 cho thấy: sự lựa chọn
con đường cách mạng vô sản theo tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga, độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH là sự lựa chọn sáng suốt, duy nhất đúng đắn, với vai trò to lớn của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc Việt
Nam.
5. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA NHỮNG TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI
QUỐC ĐƯỢC TRUYỀN BÁ VÀO VIỆT NAM TỪ NĂM 1920 ĐẾN NĂM 1929.
Năm 1920, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước.
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có ''Đảng cách mệnh'' để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi''.
Từ nhận thức đó, Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng
vô sản ở Việt Nam.
Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa
phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác, đưa phong trào yêu nước
chuyển dần sang lập trường cộng sản. Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ

9
thực dân Pháp (Le procès de la colonisation francaise) năm 1925, Đường Kách mệnh năm 1927,
các tờ báo do Người sáng lập như báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1922, báo Thanh niên 21-
6-1925 và nhiều bài báo Người viết về Lênin, về Cách mạng Tháng Mười Nga, về giai cấp công
nhân... là những tài liệu truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam đầu tiên. Những tài liệu
này đã có tác dụng thức tỉnh lòng yêu nước của người dân đất Việt, chỉ rõ con đường cách mạng
đúng đắn phải theo. Các tài liệu này đã có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với các tầng lớp trí thức
tiến bộ và những người tiên tiến trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động lúc bấy giờ, bởi
nó không chỉ vạch trần bộ mặt áp bức, bóc lột tàn bạo của bọn thực dân Pháp và phong kiến tay
sai, kêu gọi nhân dân ta vùng lên đấu tranh xóa bỏ gông cùm nô lệ, mà còn chỉ ra con đường đi
đến thắng lợi, chỉ ra xu thế tất yếu của dân tộc và thời đại, đó là con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, ''chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''.
1. Nội dung 
- Con đường cách mệnh: Nguyễn Ái Quốc xác định, định hướng cho cách mạng Việt Nam
là đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”.
- Về lực lượng cách mạng: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ: Công nông là người chủ
cách mệnh “là vì công nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên
sức mạnh hơn hết, là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. “Học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ
là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
- Về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn kết
với các lực lượng cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn: Cách mạng Việt
Nam phải đứng hẳn về phía phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế
giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới; Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc
và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này;
Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác động qua lại.
Cách mạng thuộc địa không thụ động ngồi chờ cách mạng chính quốc. Những luận điểm
đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế của Đảng, và đặt cơ sở cho sự giúp đỡ
của quốc tế trong thời kỳ thành lập Đảng.
- Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách mạng
giữ vai trò hết sức quan trọng. Đó là: Phải làm cho dân giác ngộ; Phải giảng giải lý luận
và chủ nghĩa cho dân hiểu; Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân;
Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của

10
một hai người”; Phải biết tổ chức dân chúng lại; Phải giành chính quyền bằng bạo lực
cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.
- Về Đảng Cộng sản, Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thắng lợi của cách
mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”. Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
“Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
2. Ý nghĩa 
- Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính Đảng cách mạng ở Việt
Nam.
- Về tư tưởng: giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc cho cán
bộ và đông đảo quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng sự thống nhất trong nhận thức tư
tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng, khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa
cải lương, chủ nghĩa quốc gia; xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Về chính trị: xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân cho cán bộ và quần
chúng công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cơ
sở cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng, chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào công nhân
phát triển mạnh mẽ.
- Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị cho việc thành lập
Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng như
công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để Đảng tập hợp quần chúng, chuẩn bị về mặt tổ
chức cho sự ra đời của Đảng.
=> Những tư tưởng truyền bá của Nguyễn Ái Quốc có giá trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự
chuyển biến căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động cách mạng của cán bộ
và đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
6. CÁC YẾU TỐ DẪN TỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC
YẾU TỐ ĐÓ
- Hoàn cảnh đất nước
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay
gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Những cuộc khởi nghĩa (phong trào Cần Vương, phong trào Đông
Du, khởi Nghĩa Yên thế,...); những Đảng hội (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt
cách mạng Đảng,...) lần lượt khởi xướng. Tuy đã xác định đúng kẻ thù là thực dân Pháp nhưng
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì

11
thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức
mạnh của toàn dân tộc.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức hết
sức nặng nề khi rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, các
phong trào yêu nước của nhân dân ta đã liên tiếp diễn ra theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến
và dân chủ tư sản nhưng đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân chính của sự thất bại đó là do
thiếu đường lối và một tổ chức lãnh đạo đúng đắn. Trong khi đó, giai cấp công nhân Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XX do chưa được trang bị lý luận tiên phong là chủ nghĩa Mác -
Lênin nên các cuộc đấu tranh vẫn còn tự phát, chưa trở thành phong trào độc lập. Vì vậy, đầu thế
kỷ XX, đất nước ta bị lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước đúng đắn.
Trước tình hình đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi tư tư tưởng HCM
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Và đó là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Trải qua quá trình bôn ba đến hàng loạt các nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu
nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng ở trên thế giới và khi bắt gặp ánh
sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đó là
con đường cách mạng vô sản, từ đó Người đi đến khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ
nghĩa Lênin”. Chính vì vậy, sau khi bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn và trở thành người cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao, hoàn thiện tư tưởng cách mạng của mình, vừa
tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị những điều kiện cho việc thành lập Đảng
cộng sản ở nước ta.
- Nguyễn Ái Quốc tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác Lenin vào trong nước và chuẩn
bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng
Trên cơ sở nắm rõ nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân cư và trong những năm đầu thế kỷ XX, các cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn lẻ tẻ, rời rạc, đang hòa chung vào trong phong trào yêu
nước của các giai cấp tầng lớp khác chứ chưa trở thành một phong trào độc lập. Trong khi đó,
chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có vai trò cực
kỳ to lớn và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ngay từ
khi thực dân Pháp xâm lược và cai trị nước ta thì các phong trào yêu nước của nhân dân đã diễn
ra liên tiếp và sôi nổi. Phong trào yêu nước là yếu tố có trước phong trào công nhân và cả sự ra
đời của giai cấp công nhân. Cho nên, trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá trước hết đến những người yêu nước, vào phong trào yêu nước và
qua phong trào yêu nước tiếp tục truyền bá vào giai cấp công nhân để giác ngộ giai cấp công
nhân.
Nội dung truyền bá:
+ Về tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến
nhận thức của quần chúng, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước theo lập trường của
giai cấp công nhân. Người tuyên truyền bằng các tác phẩm ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình
12
độ quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp; khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân xâm lược.
+ Về chính trị
Nguyễn Ái Quốc phác thảo hệ thống những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam và sau này trở thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng. Người chỉ ra rằng phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần
chúng đấu tranh từ thấp đến cao; cách mạng muốn thành công, trước hết phải có một đảng cách
mạng nắm vai trò lãnh đạo..
+ Về tổ chức 
Người tiến hành đào tạo, huấn luyện ở Quảng Châu tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên (6/1925). Chính những thanh niên trong hội này đã tham gia phong trào “vô sản
hoá” để được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện sự ra đời của Đảng.

Bằng những hoạt động tích cực của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân, trang bị cho những người
yêu nước, những người công nhân Việt Nam một cách nhìn mới về cái đích cần đi tới và về vai
trò, trách nhiệm của họ trước vận mệnh của đất nước và dân tộc. Đồng thời, trên cơ sở thấm
nhuần lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã từng bước vạch ra những quan điểm chính trị về đường lối cứu nước đúng
đắn cho dân tộc và truyền bá vào trong nước, khai thông sự bế tắc về đường lối chính trị trong
phong trào yêu nước ở nước ta đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, vào những năm 20 của thế kỷ XX,
chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến được
với những người yêu nước Việt Nam, thâm nhập vào phong trào yêu nước và phong trào công
nhân, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách
mạng vô sản, cụ thể: trong phong trào yêu nước, những người yêu nước và các tổ chức yêu nước
dần ngả hẳn theo khuynh hướng tư tưởng vô sản; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thì
phát triển từ tự phát lên tự giác.
Điều đó cho thấy, lúc này, hệ tư tưởng vô sản đã hoàn toàn chiếm ưu thế trong phong trào
cách mạng Việt Nam, điều kiện để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân đã hoàn
toàn chín muồi và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nước ta vào cuối năm 1929 đầu năm 1930
chính là sự phản ánh nhu cầu phát triển tất yếu của phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc bấy
giờ. Tuy nhiên, một nước không thể cùng một lúc tồn tại nhiều tổ chức cộng sản mà mục tiêu
đấu tranh cơ bản là thống nhất.
Vì vậy, từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản. Hội nghị đã nhất trí thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ KIỆN ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Bối cảnh quốc tế: 
 Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ
nghĩa đế quốc. 
 Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
13
 Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra thời đại mới cho lịch sử loài
người, cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh.
 Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.  
- Bối cảnh trong nước:
 Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân: tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại
của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, cấu kết với giai cấp địa chủ cướp đoạt ruộng đất,
chính sách thuế khoá nặng nề, tiến hành chính sách ngu dân. 
 Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
 Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm
lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường
lối cách mạng.
- Sau chính biến ngày 12/4/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu qua Bỉ, đến Thái Lan,
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối cứu nước, Hội Việt Nam thanh niên cách
mạng tiếp tục truyền bá tư tưởng trong quần chúng nhân dân
- Từ nửa cuối năm 1929, Hội việt Nam thanh niên cách mạng bị phân hoá. Nhiệm vụ hợp
nhất các nhóm cộng sản lại với nhau đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc
 Từ 3-7/2/1930, Hội nghị thành lập Đảng diễn ra ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng-
Trung Quốc)
2. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị
Hội nghị họp đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7
tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của
Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành
nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Nội dung của Cương lĩnh:
Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
- Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt
Nam đượchoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công
nông.
- Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công
nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân nghèo, mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm
8h.
- Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo
dục theo công nông hóa.
- Về lực lượng cách mạng:
+ Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng
dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất.
+ Lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp.
+ Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản VN mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng,ít hơn mới làm cho họ đứng trung lập.
+ Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ.
+ Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong khi liên lạc với các giai

14
cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi
vào con đường thỏa hiệp.
+ Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
→ Đánh giá: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng
đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh:
- Phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới.
- Đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử.
- Nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do.
- Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản
là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
- Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã chứng
minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng
3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất -
Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư
tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, Hồ Chí Minh viết: Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất
đối với cách mạng Việt Nam.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị được xây dựng ngay từ
khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản) chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam – môt Đảng vừa
mới được thành lập nhưng đã giương cao được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam; giải quyết tốt nhất tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo
cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất
nước và dân tộc Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự
đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để hoàn thành thắng lợi
cuộc cách mang dân tộc dân chủ, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, con đường cách mạng
Việt Nam trong suốt 88 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương coi cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế
giới, đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại và đã làm nên những thắng lợi vẻ
vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước
phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam, được mở đầu bằng
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
 Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử có ý nghĩa  trọng đại, là một
bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là một sự kiện đánh
dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

15
8. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. ( CDE 3 THÁNG 9)
Sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước, lớn lên từ một miền quê có truyền thống đấu
tranh quật khởi, Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã có “chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng
bào”. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ. Xuất phát
từ lòng yêu nước với khát vọng giải phóng dân tộc, cùng với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị
sắc bén và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng tiền bối, ngày 5/6/1911,
Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới hữu hiệu hơn. 
Trên hành trình đi và tìm được con đường cứu nước NAQ đã đi qua 4 châu lục, 28 quốc
gia và đã trải qua 12 nghề để kiếm sống. Sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng và lập
trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc trên cuộc hành trình lao động, tìm kiếm, khảo nghiệm con
đường cứu nước mới cho dân tộc diễn ra vào tháng 7/1920, NAQ được đọc bản sơ thảo lần thứ
nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Lý luận của Lênin và lập
trường đúng đắn của quốc tế cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa đã giải đáp
những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
NAQ tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác -Lênin về VN nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời
chính đảng tiên phong ở VN.
- Về tư tưởng: Truyền bá chủ nghĩa Mác –Lênin thông qua báo chí (tờ báo Le Paria - người cùng
khổ với tác phẩm nổi tiếng của NAQ là Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản năm 1925, Đường
Kách Mệnh xuất bản năm 1927).
Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị, cụ thể:
• Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là : Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
• Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới.Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước.
thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau nhưng không
phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính
quốc góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
• Nguyễn Ái Quốc nhận rõ, trong nước nền nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng
đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi
cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng.
• Cách mạng muốn dành được thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai trò
lãnh đạo. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa Mác – Lênin : 
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
củng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong đảng ai cũng phải hiểu ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác –
Lênin”.
• Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và
từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.
         Những tư tưởng và quan điểm trên của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá qua Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên truyền bá trong nước(qua phong trào vô sản hóa từ 1928 - 1929) làm cho
phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.
-Về chính trị:Đã hình thành 1 hệ thống luận điểm chính trị (gồm 5 luận điểm chính, sau này phát
triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng). Hệ thống này có một số
nội dung cơ bản sau:

16
+, Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả 2 cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
+,  Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là 1 bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách
mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách
mạng chính quốc.
+,  Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến
áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng
khối công-nông làm động lực cách mạng.
+,  Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng nắm vai trò lãnh
đạo. Đảng muốn vững phải trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin: trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô
sản mọi nơi. 
+,  Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Cách mạng là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc của 1 người. Vì vậy cần phải hợp tác, giác ngộ và từng bước tổ
chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.
Những quan điểm đó được truyền bá qua hội VNCM thanh niên truyền bá trong nước làm cho
quần chúng nhân dân và các phong trào yêu nước VN chuyển biến mạnh mẽ.
- Về tổ chức: 
+ Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung QUốc)- nơi có rất đông
người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng
Mác xít.
+ Tháng 2/1925, Nguyễn Ái QuỐC lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã để lập
ra nhóm Cộng sản đoàn.
+ Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin cho
những người trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Ngoài ra hội còn cử người đi
học trường đại học Cộng sản Phương Đông (Liên Xô), trường Quân chính Hoàng Phố (Trung
Quốc). Để tuyên truyền Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ.
+ Tháng 7/1925 tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. 
+ Năm 1927, xuất bản cuốn Đường Cách Mệnh – đây là cuốn sách giáo khoa chính trị đầu tiên
của cách mạng Việt Nam, tập hợp tất cả các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc. Trong cuốn sách
này, tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt lên vị trí hàng đầu với cuộc vận động cách
mạng và đối với cách mạng tiên phong.
Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở trong nước,
đầu  năm 1927 các kỳ bộ được thành lập, ngoài ra còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt Kiều
ở Thái Lan.
Như vậy, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản nhưng chương
trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công nhân – là tổ chức tiền thân
dẫn tới sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
+ Sau khi lựa chọn con đường cứu nước – con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện “lộ trình” đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết
họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập. Trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử
thách với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn
trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề về tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn tới
sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam – đẩy bánh xe lịch sử của cách mạng Việt Nam phù
hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.
+ Với không khí dâng lên cao mạnh mẽ của phong trào đấu tranh cách mạng, chỉ trong vòng 7
tháng (từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930), cả nước lần 
lượt đã ra đời ba tổ chức cộng sản. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam
Cộng sản Đảng (tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 1/1930). Lúc này,
việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, đủ khả năng lãnh đạo

17
phong trào cách mạng cả nước vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là chỉ thị của Quốc tế
Cộng sản. 
Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta, đặc biệt là phong
trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó,
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đủ sức để lãnh đạo nữa. Cần phải thành lập một
Đảng Cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng
yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành lấy độc lập và
tự do.
+ Trước tình hình cấp bách đó, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm (Thái Lan) trở lại Hương Cảng (Hồng
Kông) triệu tập ngay hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất các tổ chức đó lại và
thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất. Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, tại Hương Cảng, sau
một thời gian ngắn gấp rút chuẩn bị, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một tổ chức duy nhất,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tất cả các tài liệu
này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Nội dung Cương lĩnh chính trị đã
nêu rõ đường lối chiến lược và sách lược phù hợp với tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam,
đó là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng và tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Kết luận: ĐCSVN ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử CMVN. Sự kiện lịch sử vĩ đại
ấy đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước
VN đầu thế kỷXX, đáp ứng khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân VN, là nền tảng vững
chắc cho dân tộc VN tiếp nối trên con đường độc lập dân tộc và CNXH.
3. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
9. SO SÁNH LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10-1930 VỚI CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (6.1.1930) CỦA ĐẢNG. ( CDE 1 THÁNG 10)
Cương lĩnh chính trị 2/1930 của Hồ Chí Minh và Luận cương chính trị 10/1930 của Trần Phú là
những văn kiện thể hiện đường lối cách mạng của Đảng, đều được xây dựng trên cơ sở lý luận và
cơ sở thực tiễn, xác định rõ phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách
mạng, phương pháp cách mạng, đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong mỗi khía
cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận cương chính trị(10/1930) có
những điểm giống nhau sau:
- Về phương hướng chiến lược của cách mạng: cả 2 văn kiện đều xác định bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản
-> Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của
nhân dân Việt Nam.
- Về nhiệm vụ đều là đánh đổ phong kiến, đánh đổ đế quốc.
- Về lực lượng cách mạng: đều có sự tham gia của công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng
nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc
nước ta.
- Về vị trí quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể
hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản.
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.
18
Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô
sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận cương chính trị(10/1930) có
những điểm khác nhau sau:
Thứ nhất, về phương hướng chiến lược của cách mạng:

Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị

Đối tượng: Việt Nam Đối tượng: cả 3 nước Đông Dương


Chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và Chiến lược: “ Cách mạng tư sản dân quyền”
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” mang tính chất thổ địa và phản đế

3 giai đoạn: 2 giai đoạn:


- Cách mạng tư sản dân quyền - Cách mạng tư sản dân quyền (thổ
- Thổ địa cách mạng địa cách mạng + phản đế)
- Tiến tới xã hội cộng sản - Tiến tới cách mạng XHCN

Dù cả hai văn bản đều sử dụng chiến lược mang tên: “cách mạng tư sản dân quyền” nhưng tính
chất của “cách mạng tư sản dân quyền” ở hai văn bản là khác nhau. (Quan điểm này sẽ được
phân tích kỹ hơn tại mục nhiệm vụ)
Cương lĩnh và Luận cương đều nhắc đến thổ địa cách mạng song chỉ có Luận cương là phân tích
kỹ về vấn đề này và kết hợp với con đường phản đế trong CMTS dân quyền, còn Cương lĩnh thì
chỉ mới là bước đầu nhắc đến nhưng chưa hề nêu cụ thể về vấn đề này, nhiệm vụ thổ địa cách
mạng sẽ được giải quyết sau khi vấn đề CMTS dân quyền được giải quyết một cách hoàn chỉnh.

Thứ hai, về nhiệm vụ của CMTS dân quyền và thổ địa CM:

Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị

- Phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa - Khẳng định nhiệm vụ: đánh đổ phong
xã hội trong Chánh cương vắn tắt đều kiến và đánh đổ đế quốc Pháp
hướng về vấn đề độc lập dân tộc → coi hai nhiệm vụ có mối quan hệ khăng
Ví dụ: 1.Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và khít với nhau
bọn phong kiến. Đồng thời xác định “vấn đề thổ địa là cái cốt
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập của CMTS dân quyền”
2. Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công
nông binh quản lý.
Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm
của công chia cho dân cày nghèo

Từ đó ta có thể thấy, CMTS dân quyền của Cương lĩnh chính trị thực chất là quá trình giải
phóng dân tộc khỏi đế quốc còn CMTS dân quyền của Luận cương chính trị thực chất là quá
trình vừa đấu tranh giai cấp vừa đấu tranh vì độc lập dân tộc. Dù cùng nhắc đến độc lập dân
tộc nhưng ở Luận cương thì đây chỉ là vai trò thứ yếu do Trần Phú quan trọng vấn đề giai cấp
hơn nên đã xác định “vấn đề thổ địa là cái cốt của CMTS dân quyền”

19
Nguyên nhân: Do cách nhìn nhận xã hội của Hồ Chí Minh và Trần Phú khác nhau. Hồ Chí
Minh cho rằng mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội chính là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam
và đế quốc Pháp. Trong khi đó Trần Phú, do bị ảnh hưởng từ khuynh hướng tả, coi mâu thuẫn
chính ở đây là mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (giữa một bên là
thợ thuyền, dân cày, phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc).

Thứ ba, về lực lượng cách mạng:

Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị

Lực lượng chính: Công nhân và nông dân Lực lượng chính: Công nhân và nông dân
Ngoài ra: “hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí Chỉ coi những người bán hàng rong, thợ thủ
thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. công nhỏ mới đi theo, loại bỏ hoàn toàn vai
để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. trò của các tầng lớp khác trong xã hội
Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập.
Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”

Hồ Chí Minh đã đề cao về sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội, phát
huy khối đại đoàn kết nhân dân trong khi đó Trần Phú lại quên mất đi vai trò của những tầng lớp
khác, cho rằng những địa chủ, tiểu tư sản là những người mà không thể giác ngộ được. Đây có
thể nói là một quan điểm sai lầm của Trần Phú vì khi thiếu đi sự ủng hộ, đoàn kết từ những tầng
lớp khác trong xã hội thì cách mạng khó lòng mà có thể thực hiện được.

Thứ tư, về phương pháp cách mạng

Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị

Đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, bạo Phương pháp nhà binh
lực quần chúng

Luận cương cho rằng khởi nghĩa "không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế
trực tiếp cách mạng, mà lại theo khuôn phép nhà binh… Trong khi không có tình thế trực tiếp
cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu; nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức
những cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo động quá sớm, mà cốt là để suy động đại quần
chúng ra thị oai, biểu tình bãi công, v.v., để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này"
Luận cương cũng nhắc nhở nguy cơ chiến tranh đế quốc ngày càng gần, cần làm cho khẩu hiệu
đấu tranh ăn sâu vào tiềm thức nhân dân như “ phản đối bình dị’’..., đồng thời tăng cường công
tác vận động binh lính địch, tổ chức tự vệ của công nông

Thứ năm, về quan hệ của CMVN với phong trào CMTG

Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị

20
- Đảng liên kết với những dân tộc bị áp - Nhấn mạnh: vô sản Đông Dương phải
bức và quần chúng vô sản trên thế liên lạc mật thiết với vô sản thế giới,
giới, nhất là với quần chúng vô sản nhất là vô sản Pháp, với quần chúng
Pháp. cách mạng ở các nước thuộc địa, bán
thuộc địa, nhất là Tàu và Ấn Độ.

10. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ 1936- 1939.
THÀNH QUẢ VÀ KINH NGHIỆM CỦA CUỘC VẬN ĐỘNG NÀY.
Hoàn cảnh lịch sử
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới của CNTB đẩy những mâu thuẫn vốn có của chúng
ngày càng sâu sắc. Đó là nền chuyên chính độc tài nhất, tàn bạo nhất, hiếu chiến nhất của
bọn tư bản tài chính phản động. Chuyên chính phát xít đã được thiết lập, tiêu biểu ở Đức
– Ý – Nhật và 1 số nước khác. Phong trào chống Phát xít nhanh chóng lan rộng ở nhiều
nước đã thu hút các lực lượng có xu hướng chính trị khác nhau.
- Ở Pháp: Mặt trân Nhân dân Pháp được thành lập 5/1935 đã giành được thắng lợi trong
cuộc Tổng tuyển cử năm 1936, một chính phủ tiến bộ - chính phủ Mặt trận Nhân dân
Pháp ra đời.
- Ở nước ta: Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống nhân dân,
bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn thi hành chính sách bóc lột, đàn áp dã man
phong trào cách mạng của nhân dân ta.
Chủ trương của Đảng:
Tháng 7/1936 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải nhận định:
˗ Đảng ta xác định kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là bọn phản
động Pháp cùng bè lũ tay sai không chịu thi hành chính sách của Mặt trận Nhân dân
Pháp tại các thuộc địa, yêu cầu trước mắt của nhân dân Đông Dương là tự do, dân chủ,
cải thiện đời sống.
˗ Tạm thời hoãn các khẩu hiệu "Đánh đổ đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc
lập","Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" và nêu những nhiệm vụ trước
mắt của nhân dân Đông Dương là "Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống
bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình"
˗ Thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương (đến tháng 3 - 1938, đổi thành Mặt
trận Dân chủ Đông Dương) bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị
và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước, dân chủ tiến
bộ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và bảo vệ hòa bình thế giới.
˗ Về hình thức và phương pháp đấu tranh, tận dụng mọi khả năng hợp pháp và nửa hợp
pháp, công khai và nửa công khai.

21
 Hội nghị đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ
thể trước mắt của cách mạng nước ta. Do đó đã nhanh chóng đưa phong trào cách mạng
của quần chúng lên một giai đoạn mới.
Kết quả:
- Lợi dụng thời cơ thuận lợi, Đảng đã lãnh đạo quần chúng và phát động một phong trào
đấu tranh công khai, bán công khai mạnh mẽ và rộng lớn, vượt qua được khó khăn do sự
đàn áp của kẻ thù, những xu hướng sai lầm, tả hữu khuynh trong nội bộ phong trào.
- Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng, thấm sâu vào từng tầng lớp quần chúng
rộng rãi; đã động viên, giáo dục chính trị, xây dựng tổ chức đoàn kết đấu tranh cho hàng
triệu quần chúng. Nhờ vậy mà Đảng đã tập hợp được một lực lượng đông đảo quần
chúng nhân dân làm cơ sở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam sau này
- Tổ chức Đảng có điều kiện để củng cố và phát triển sau khi phục hồi, tích lũy được nhiều
bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức, lãnh đạo
quần chúng đấu tranh công khai… Đồng thời Đảng thấy được những hạn chế của mình
trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc…
- Chủ nghĩa Mác-Lênin và các chủ trương, đường lối của Đảng đã được phổ biến, tuyên
truyền một cách rộng rãi và công khai trong một thời gian dài thông qua sách báo và các
hoạt động khác của phong trào dân chủ.
Bài học kinh nghiệm:
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt, xác
định đúng kẻ thù, nhiệm vụ cụ thể và khẩu hiệu sát hợp để động viên quần chúng lên trận
tuyến cách mạng.
- Kết hợp hoạt động bất hợp pháp và hoạt động công khai hợp pháp, sử dụng mọi hình
thứu tổ chức và đấu tranh, chống khuynh hướng bảo thủ, rụt rè, đồng thời chống chủ
nghĩa công khai, hợp pháp, không coi trọng xây dựng Đảng bí mật và hoạt động bất hợp
pháp của Đảng, sẵn sàng về tư tưởng và tổ chức để chuyển hướng hoạt động khi tình hình
thay đổi đột ngột.
- Đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng và với các đảng phái phản động. Phải giữ vững sự
lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng, giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, nâng cao tinh
thần trách nhiệm, năng lực tự công tác, phát huy sáng kiến của từng Đảng viên, từng chi
bộ Đảng, thấy được hạn chế trong công tác mặt trận, dân tộc…
- Phấn đấu xây dựng một mặt trận thống nhất dân chủ rộng rãi, vững mạnh do Đảng lãnh
đạo. Có đường lối sách lược liên minh đúng đắn với các bạn đồng minh, đập tan mọi âm
mưu và thủ đoạn xuyên tạc, phá hoại của bọn phản động.
- Là một cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

22
11: PHÂN TÍCH CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC MỚI CỦA ĐẢNG TRONG GIAI
ĐOẠN 1939-1945
1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a. Tình hình thế giới và trong nước
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
· Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến.
Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và
phong trào cách mạng thuộc địa.
· Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941,
quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến
tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ
cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
- Tình hình trong nước:
· Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay
đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản
Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của
phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.
· Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm
lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh
“một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần
cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày
càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Thể hiện qua:
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) – quan trọng nhất
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình
hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như
sau:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu
ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng,
giảm tô, giảm tức.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương
Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau
đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm
của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực
lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của
Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

23
- Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một
của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.
- Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến
lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho
nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng
cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.
- Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời.
- Chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940),
đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên thành Cứu Quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ở Nguyên Bình (Cao Bằng) do đồng chí Võ
Nguyên Giáp lãnh đạo.
- Đảng và Hồ Chí Minh chỉ đạo việc thành lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu
là căn cứ Bắc Sơn-Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a. Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước:
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới II đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quân đồng minh chuẩn bị
tiến vào Đông Nam Á. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ
súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta. Nội dung:
– Chỉ thị đã nhận định: Nhật đảo chính Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,
nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy nhiên nó sẽ làm cho những điều kiện
tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.
– Xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa.
– Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ
địa
– Dự báo thời cơ:
+ Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng
minh để phía sau sơ hở.
+ Cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập hoặc
Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Cao trào kháng Nhật cứu nước đã thu được những kết quả quan trọng, là tiền đề trực tiếp đưa tới
thắng lợi của tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
– Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôI nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung, hình thức.
– Tháng 3/1945 tù chính trị nhà giam Ba Tơ khởi nghĩa, đội du kích Ba Tơ ra đời. Đây là lực
lượng vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.
– Để chỉ đạo phong trào, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập (5/1945) đã quy
định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang. Đồng thời, đẩy mạnh
chiến tranh du kích, xây dựng 7 chiến khu trong cả nước: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hoàng Hoa
Thám, Quang Trung ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ; Nguyễn Tri Phương
ở Nam Kỳ.

24
– Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Tuyên Quang. Ngày 4/6/1945 theo chỉ thị của Người
“Khu giải phóng” được thành lập gồm Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà và một số vùng phụ cận.
Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của
nước Việt Nam mới.
b. Đảng phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước
– Điều kiện phát động tổng khởi nghĩa (thời cơ tổng khởi nghĩa) :
+ Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng
Đồng minh không điều kiện (9-5-1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn, chính
phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang cực độ.
+ Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí
quân Nhật.
Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh.
– Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết
định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng
minh vào Đông Dương.
– Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của
Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí Minh làm Chủ tịch
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa giành chính
quyền.
+ Từ ngày 14-8: Giải phóng quân tiến công các đồn Nhật ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 14 đến ngày 18: Giành chính quyền ở Bắc Giang, Hải Dương, Hà
Tĩnh, Quảng Nam, Phúc Yên, Thanh Hoá, Thái Bình.
+ Ngày 19-8: Giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8: Khởi nghĩa giành chính quyền ở
Huế.
+ Ngày 25-8: Quân Nhật ở Sài Gòn thất thủ. Ngày 28-8: Ta giành chính quyền trong cả nước. Uỷ
ban dân tộc giải phóng tuyên bố tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả
nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 30-8: vua Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm, áo bào cho đại diện Chính phủ Lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngày 2-9: Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
c. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám
Kết quả và ý nghĩa:
– Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiền xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong
hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế suốt 1000 năm và ách thống trị
của phát xít Nhật.
– Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành
người tự do, người làm chủ vận mệnh của mình.
– Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một đảng
cầm quyền và hoạt động công khai.
– Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho phong trào đấu tranh
giành độc lập và chủ quyền.
– Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.

25
– Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và những sáng tạo của Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Nguyên nhân thắng lợi:
– Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại,
quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã.
Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành thắng lợi mau
chóng, ít đổ máu.
– Có sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta, của Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng
đúng đắn, dày kinh nghiệm, đoàn kết, thống nhất, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo.
– Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và thống nhất trong Mặt
trận Việt Minh.
– Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lâu dài (15 năm), được tập dượt qua ba cao trào
cách mạng rộng lớn, tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến.
Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công-nông.
Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra bộ máy Nhà
nước của nhân dân.
Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Sáu là, xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
12. PHÂN NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, TÍNH CHẤT VÀ KINH NGHIỆM CỦA
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1. Nguyên nhân thắng lợi
- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực
tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng minh đánh bại, quân
đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim
rệu rã. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên
đã giành được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
- Cách mạng Tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-
1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu; từng
bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có
chỗ đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng cốt,
xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

26
- Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu
trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng với nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn
đúng thời cơ, phương pháp bạo lực cách mạng kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị,
đấu tranh vũ trang và kết hợp chặt chẽ đấu tranh nông thôn với đấu tranh thành thị và đấu
tranh linh hoạt là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Chúng ta đã xây dựng một đảng MacLenin có đường lối đúng đắn, bảo đảm thông suốt
và quán triệt đường lối đó trong thực tiễn chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa, làm cho tổ
chức đảng có chất lượng cao, tinh gọn, trong sạch, vững mạnh và ăn sâu bám rễ trong
quần chúng. Đó là kết quả của quá trình xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc trong điều kiện mà tình hình thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi.
- Truyền thống đánh giặc, tinh thần yêu nước, đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã được nhân
dân thấm nhuần, tiếp thu, kế thừa và phát triển, tiếp bước.
- Được sự cổ vũ của đông đảo tầng lớp yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
2. Tính chất và ý nghĩa lịch sử
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước thoát khỏi sự đô hộ của các nước đế
quốc, thực dân, là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong
gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót
nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân độc lập, tự do, người
làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập
và tự do. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở
thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử
tiến hóa của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc
lập tự do.
- Về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng
trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không
gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải
trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh và
đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
- Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh
nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc.
2. Những kinh nghiệm lịch sử

27
- Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống
đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng nước
ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến.
- Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi
nghĩa thắng lợi.
- Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng
ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít
và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Như vậy, Cách
mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một
cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân
dân
Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính
trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả
nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp
thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và
kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở
nước ta
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền
phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể
sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị
sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ
quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành
chính quyền

28
Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không
ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta rất coi trọng việc
quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần
chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm
lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất
chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch.
4. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 -
1954)
13. CHỦ TRƯƠNG VÀ DIỄN BIẾN CỦA CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ & XÂY
DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG THỜI KỲ 1945 - 1946
- Chủ trương Kháng chiến kiến quốc của Đảng:
+ Ngày 25/11/1945 Ban chấp hành trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc"
vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là
dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng
không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
+ Về xác định kẻ thù: thực dân Pháp xâm lược
→ Vì vậy phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt
trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt Minh Lào chống
Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập tự do hạnh phúc dân tộc
+ Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn
trương thực hiện là:
1. Củng cố chính quyền cách mạng.
2. Chống thực dân Pháp xâm lược.
3. Bài trừ nội phản.
4. Cải thiện đời sống nhân dân.
+ Những biện pháp cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ trên: Xúc tiến bầu cử Quốc hội,
thành lập chínhphủ chính thức, lập hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân; động
viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu
dài; kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa Việt thân thiện" đối
với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối
với Pháp.
+ Về bảo vệ chính quyền cách mạng: ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân
dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam bộ,

29
ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu
thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng, Chính phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng với
quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chống
Pháp ở miền Nam. Khi Pháp Tưởng ký hiệp ước Trùng Khánh (28/2/1946 ), thỏa thuận
mua bán quyền lợi với nhau, cho pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo
chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp
định sơ bộ 6/3/1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, tạm ước 14/9/1946 đã tạo điều kiện cho
quân dân có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
- Diễn biến của cuộc đấu tranh bảo vệ & xây dựng chính quyền cách mạng: Xây dựng
chế độ dân chủ cộng hoà và tổ chức kháng chiến ở miền Nam
Để sự nghiệp kháng chiến kiến quốc giành được thắng lợi, nhiệm vụ trung tâm là củng cố
chính quyền nhân dân. Ngay từ những ngày đầu, Đảng đã chú trọng lãnh đạo, xây dựng nền
móng của chế độ dân chủ mới, xóa bỏ toàn bộ tổ chức bộ máy chính quyền thuộc địa, giải tán
các đảng phái phản động...
Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, bọn đế quốc phản động ra sức ngăn trở, quấy phá, Đảng kiên
quyết lãnh đạo, tổ chức cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 để nhân dân tự mình chọn lựa bầu
những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất đã bầu Hồ Chí
Minh giữ chức Chủ tịch Chính phủ và trao quyền cho Người lập chính phủ chính thức – Chính
phủ liên hiệp kháng chiến. Tại kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến
pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quyền làm chủ nước nhà, quyền và nghĩa vụ của
mọi công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Nhân dân cũng đã khẩn trương bầu Hội đồng nhân
dân và Hội đồng nhân dân đã bầu Uỷ ban hành chính các cấp.
Đảng chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể yêu nước. Mặt trận dân tộc thống nhất được mở
rộng, đưa đến sự ra đời của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (tháng 5- 1946) gọi tắt là Liên
Việt. Các tổ chức quần chúng được củng cố, mở rộng thêm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... lần lượt ra đời. Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập
nhằm đoàn kết những trí thức yêu nước Việt Nam.
Đảng ta coi trọng việc xây dựng và phát triển công cụ bảo vệ chính quyền cách mạng như
quân đội, công an. Lực lượng vũ trang tập trung được phát triển về mọi mặt. Cuối năm 1946,
lực lượng quân đội thường trực mang tên Quân đội quốc gia Việt Nam có 8 vạn người. Việc vũ
trang quần chúng cách mạng, quân sự hoá toàn dân được thực hiện rộng khắp.
Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn văn hóa nô dịch của
thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình dân học vụ để chống nạn mù chữ,

30
diệt "giặc dốt". Một năm sau Cách mạng Tháng Tám đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Các
trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt được khai giảng.
Thắng lợi bước đầu trong cuộc đấu tranh xây dựng nền móng chế độ mới, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ rằng,
nếu "nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"
Nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ, dân sinh càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm
bảo vệ chế độ mới. Đó là sức mạnh để bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ vững quyền lãnh đạo
của Đảng, là sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng thù trong giặc ngoài.
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng tiến công ra các tỉnh Nam
Bộ, Thường vụ Trung ương Đảng đã nhất trí với quyết tâm kháng chiến của Xứ uỷ Nam Bộ và
kịp thời lãnh đạo nhân dân đứng lên kháng chiến. Trung ương Đảng đã cử một phái đoàn do
Hoàng Quốc Việt, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng và nhiều cán bộ tăng cường cho Nam
Bộ để cùng Đảng bộ Nam Bộ chỉ đạo kháng chiến. Ngày 25-10-1945, Hội nghị Cán bộ Đảng bộ
Nam Bộ họp ở Thiên Hộ - Cái Bè - Mỹ Tho (Tiền Giang). Hội nghị chủ trương phát động chiến
tranh du kích rộng khắp để tiêu hao sinh lực và chặn bước tiến của giặc; xây dựng, củng cố cơ
sở cách mạng trong thành phố và các vùng địch chiếm; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh,
trong đó bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống tổ chức, chỉ huy thống nhất. Như vậy, Đảng
bộ Nam Bộ đã có những quyết định quan trọng để phát triển chiến tranh nhân dân.
Đảng đã phát động phong trào cả nước hướng về Nam Bộ. Hàng vạn thanh niên nô nức lên
đường Nam tiến. Nhân dân miền Nam "thành đồng Tổ quốc" chiến đấu với sức mạnh của chiến
tranh nhân dân, sức mạnh của cả dân tộc đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của
thực dân Pháp.
14. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ CỦA ĐẢNG.
● Hoàn cảnh
- Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng do, nguy cơ
một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân
dân Việt Nam tiếp tục kìm chế, kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn và bầy tỏ thiện chí hòa
bình, đồng thời cố gắng cứu vãn mối quan hệ Việt-Pháp đang ngày càng xấu đi và ngăn chặn
một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không cân sức với Pháp. Con đường ngoại giao với đại
diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa đến kết quả tích cực. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt
Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước, tiếp tục đẩy mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ,
xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự trị; gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng quân ở
Bắc Bộ Việt Nam; đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào, chia rẽ ba nước Đông Dương.
- Cuối tháng 11-1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm Hải Phòng,
Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công vào các vùng tự do của
ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, và triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương. Ngày 18-12, đại
diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đưa liên
31
tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp. Đến ngày 19-12-1946, thiện chí hòa bình
của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp thẳng thừng cự tuyệt.
- Ngày 12-12-1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Ngày 18-12-1946, Hội
nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời đề ra chủ trương đối phó và quyết định phát
động toàn dân, toàn quốc tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp với tinh thần “thà hy
sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
- Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định
quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do
- Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thực hiện mệnh lệnh của Chính phủ, bắt đầu từ 20 giờ ngày 19-12-1946, dưới sự
chỉ đạo của các cấp ủy đảng, quân và dân Hà Nội và ở các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra
đã đồng loạt nổ súng, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.Cuộc chiến đấu ở mặt trận Hà Nội
là quyết liệt nhất, diễn ra liên tục trong suốt 60 ngày đêm khói lửa. Đến ngày 17-2-1947, Trung
đoàn Thủ đô và các lực lượng quân sự đã chủ động rút lui ra ngoài thành phố, lên chiến khu an
toàn để củng cố, bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài...
● Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó được thể hiện
trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng
● Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự
do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...
● Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích
cực tham gia kháng chiến. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh
giặc.
● Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân
sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự,
đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định.
● Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Kháng chiến lâu dài nhưng
không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc
kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
● Kháng chiến dựa vào sức mình là chính. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy
nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu,
nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy
cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều
kiện.
→ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn,
trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên.
Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành
một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
● Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
- Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Trung ương Đảng quyết định chia cả nước thành các khu và
sau này thành các chiến khu quân sự để phục vụ yêu cầu chỉ đạo cuộc kháng chiến
- Ngày 6-4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương, nhấn
mạnh việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp, củng cố chính quyền nhân

32
dân ở vùng địch tạm chiếm, phát động chiến tranh du kích, đẩy mạnh công tác ngoại giao và tăng
cường công tác xây dựng Đảng với việc mở đợt phát triển đảng viên mới “Lớp tháng Tám”.
- Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong trào tăng gia
sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân dân. Duy trì phong trào
bình dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông các cấp.
- Về quân sự, Thu Đông 1947, Pháp đã huy động khoảng 15.000 quân hình thành ba mũi tiến
công chính tiến lên vùng ATK Việt Bắc. Các mũi khác tiến theo đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao
Bằng. Để đối phó với cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc, ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, trong đó nêu
rõ quyết tâm của quân và dân ta. Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21-12-
1947, quân và dân ta đã lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp. Ta đã
bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh
nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
- Đầu năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ
Nguyên Giáp cùng 1 Trung tướng và 9 Thiếu tướng. Sự kiện đó là bước phát triển mới của cuộc
kháng chiến.
- Từ năm 1948, tình hình quốc tế có những chuyển biến có lợi cho các lực lượng cách mạng và
tác động tích cực đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đặc biệt, ngày 1-10-1949, Nhà nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Nước Pháp liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thế
chiến lược quân sự của Pháp ở Đông Dương bị đảo lộn...
- Phát huy thắng lợi, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để làm thất
bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt
đánh người Việt” của thực dân Pháp. Tàn tích văn hóa thực dân, phong kiến từng bước được xóa
bỏ, hình thành các giá trị văn hóa mới; công tác cải cách nền giáo dục quốc gia cũng thu được
những kết quả tích cực.
- Trên mặt trận ngoại giao, Đảng và Chính phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở rộng quan hệ
ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.
- Tháng 11-1949, Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Trong quân đội có
cuộc vận động “luyện quân lập công” và tiếp theo là phong trào thi đua “rèn cán, chỉnh quân”.
Lực lượng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) được phát triển
nhanh chóng và trưởng thành về mọi mặt. Tháng 2-1950, Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương tổng
động viên, ra sắc lệnh huy động nhân lực, vật lực, tài lực của toàn dân để phục vụ đẩy mạnh
công cuộc kháng chiến tiến lên giành thắng lợi lớn hơn. Trong vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo
tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du kích để “biến hậu phương của địch thành tiền phương của
ta”.
● Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương để tìm cơ
hội thay thế Pháp. Ngày 9-1-1950, 3.000 sinh viên Sài Gòn biểu tình, Trần Văn Ơn hy
sinh. Ngày 19-3-1950, hơn 500.000 người dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ khi Mỹ đưa
tàu chiến tới Cảng Sài Gòn. Xứ ủy Nam Bộ có vai trò quan trọng trong chỉ đạo đấu tranh,
luật sư Nguyễn Hữu Thọ tham gia lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh.
- Địa bàn Nam Bộ, vốn là nơi địch thực hiện “chiến thuật mạng nhện”, xây dựng hệ thống tháp
canh dầy đặc và đã gây cho ta nhiều khó khăn. Nhận thức được điều đó, Xứ ủy Nam Bộ đã kịp
thời chỉ đạo khắc phục, đưa phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát triển.

33
- Từ giữa năm 1949, tướng Revers (Rơve) -Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp đề ra kế
hoạch mở rộng chiếm đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt biên giới Việt-
Trung. Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch quân sự
lớn tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt-Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (Chiến
dịch Biên giới Thu Đông 1950), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng
căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên giai đoạn mới. Đây là
chiến dịch quân sự lớn, quan trọng đầu tiên do quân ta chủ động mở; đích thân Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của quân
và dân ta diễn ra không nghỉ trong suốt 30 ngày đêm liên tục và đã giành được thắng lợi to lớn,
“đạt được mục tiêu diệt địch, kết thúc thời kỳ chiến đấu trong vòng vây”. Chiến thắng này đã mở
ra cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn.
15. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM (2-1951)
Hoàn cảnh lịch sử:
*Thế giới:
- Sau chiến tranh thứ hai, chế độ phát-xít sụp đổ, cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư
bản thêm trầm trọng, Liên-xô ngày càng cường thịnh, phong trào dân chủ lên cao. Thế
giới chia làm hai phe: phe dân chủ chống đế quốc do Liên-xô lãnh đạo, phe đế quốc phản
dân chủ do Mỹ cầm đầu.
- Dưới sự lãnh đạo của Liên-xô đứng đầu là Thống chế Xít-ta-lin, phe dân chủ mở rộng
thành mặt trận hòa bình thế giới, kiên quyết chống bọn gây chiến.
- Phong trào hòa bình sâu rộng, mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử. Đế quốc gây ra chiến
tranh thứ ba tức là tự sát.
- Cách mạng dân chủ nhân dân lan rộng và đã thành công ở nhiều nước Trung Đông Âu và
Viễn đông sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ dân chủ nhân dân thành lập, tách
những nước đó ra khỏi hệ thống đế quốc chủ nghĩa.
- Phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa sôi nổi làm lay chuyển hệ thống đế
quốc chủ nghĩa đến tận nền tảng.
*Việt Nam:
- Trước khi Pháp thuộc, Việt Nam là 1 nước xã hội phong kiến, vua là người nắm quyền,
ruộng đất nằm trong tay vua và địa chủ phong kiến.
- Từ khi bị đế quốc Pháp xâm lược, Việt Nam biến thành một thị trường độc chiếm, một
nguồn cung cấp nguyên liệu một nơi cho vay lấy lãi và một căn cứ đóng quân của thực
dân Pháp
- Sau chiến tranh thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam trưởng thành nhanh chóng. Tư
bản Việt Nam ra đời nhưng không phát triển nhiều(do tư bản Pháp chèn ép).
- Trong chiến tranh thứ hai phát xít Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ thuộc địa của Pháp
ở Việt Nam cũng phát xít hóa. Nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn —> Nhiều cuộc
khởi nghĩa bùng nổ. Các khu căn cứ du kích phát triển và chính quyền nhân dân thành lập
ở khu giải phóng Việt Bắc.
- Năm 1945, bị quân đội Xô-viết đánh bại, phát xít Nhật đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Đông dương, nhân dân Việt Nam tổng khởi
nghĩa thắng lợi. Nước cộng hòa dân chủ Việt Nam thành lập.

34
- Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và
nửa phong kiến. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ
nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình cuộc
kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.
Nội dung chính cương
- Xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu lúc này ở nước ta: mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ
nhân dân và tính chất thuộc địa.
+ Xã hội Việt Nam lúc này đang tồn tại 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa
và nửa phong kiến. Các tính chất này mâu thuẫn với nhau và đấu tranh lẫn nhau.
+ Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân
dân với các thế lực phản động- chủ nghĩa đế quốc xâm lược
→ Cách mạng VN có hai đối tượng: Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược- đế quốc
Pháp và bọn can thiệp Mỹ, đối tượng phụ là phong kiến-phong kiến phản động
- Nhiệm vụ:
+ Nhiệm vụ chính: đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập, hoàn thành giải phóng
dân tộc,
+ Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, phát
triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân
+ Xây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội
→ Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Tuy nhiên lúc này cần tập trung vào nhiệm vụ chính,
tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược.
- Lực lượng:
+ Xác định lực lượng của cách mạng VN gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai
cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc
+ Ngoài ra còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ
→ Các giai cấp, tầng lớp hợp lại thành nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức.
→ Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Tính chất: cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo
- Do giai cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nông dân và lao động trí óc, lại
được sự giúp đỡ của Liên-xô và các nước dân chủ nhân dân, nhất là Trung Quốc, cách
mạng Việt Nam không thể đi con đường nào khác ngoài con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
- Ba giai đoạn của của cách mạng Việt Nam
+ Giai đoạn thứ nhất: hoàn thành giải phóng dân tộc
+ Giai đoạn 2: xoá bỏ di tích phong kiến, làm người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân
+ Giai đoạn 3: chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội.
→ Ba giai đoạn quan hệ mật thiết với nhau và mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm
- Chính cương cũng nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng.
Chính cương chỉ rõ: hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ phong kiến, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kháng chiến là thực hiện
một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kháng chiến đến cùng để
giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt
trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công
nhân lãnh đạo.

Chính cương còn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển kinh tế
tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối với tôn giáo, chính
sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách ngoại giao, chính sách đối với
Việt kiều... Về ngoại giao, Chính cương khẳng định nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền

35
lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới,
chống bọn gây chiến"; mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính phủ
nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo
nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hòa bình thế giới.
- Đại hội thông qua Điều lệ mới của Đảng và xác định rõ:
+ Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động việt
Nam
+ Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam và xây dựng
Đảng theo nguyên tắc một Đảng vô sản kiểu mới
- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự
khuyết; Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức, 1 uỷ viên dự khuyết và ban bí thư; Hồ
Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng; Trường Chinh được bầu lại làm tổng Bí thư
→ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về mọi mặt,
đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn. Cùng với các văn kiện đã thông qua tại đại hội, “Chính cương Đảng Lao động VN”
thể hiện sự hoàn chỉnh them 1 bước đường lối CM dân tộc dân chủ nhân dân được vạch
rõ, soi đường dẫn đến thắng lợi của cuộc CM kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ.

16. NHỮNG DIỄN BIẾN CHÍNH CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ (1945 – 1954)
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 1945-1946
- Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám
+ Thuận lợi
Quốc tế: sau khi Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội, đã có sự hỗ trợ của họ cũng
như phong trào của các nước đi theo chủ nghĩa xã hộ.
Trong nước: Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; hình thành hệ thống chính quyền cách
mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở.
+ Khó khăn
Trên thế giới các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn gần như không thừa nhận sự động lập
của Việt Nam
Trong nước là tình hình trong nước về các mặt như kinh tế nghèo nàn, chính trị non trẻ, giáo dục
yếu kém. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại
thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp
- Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng
+ Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói
+ Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ
+ Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng:
+ Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ
Với Pháp: Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài
Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ). Chống lại sự gây hấn của quân Pháp bằng những phương pháp đấu
tranh quyết liệt của quân và dân miền Nam.
Với Tưởng: Thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có
nguyên tắc” với quân Tưởng. Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật; Chính phủ Việt Nam
nhượng bộ một số lợi ích cho quân Tưởng.

36
- Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để Chính phủ Pháp và Chính phủ
Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh, Pháp thay Tưởng giải giáp quân
Nhật tại Việt Nam.
- Ngày 6-3-1946, ta ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản Hiệp định sơ
bộ.
- Ngày 14-9-1946, ta ký với Chính phủ Pháp một bản Tạm ước 14-9 tại Marseill (Mácxây,
Pháp), đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt
Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm phán...
2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm
1950
- Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
+ Sự hung hăng cũng như ngang nhiên xâm phạm các cam kết của Pháp như: Cuối tháng 11-
1946, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương,
tấn công vào các vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hay ngày 18-12, đại diện Pháp
ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam.
→ Một sự lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ
nền độc lập và chính quyền cách mạng
+ Ngày 12-12-1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển
qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường
lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa
vào sức mình là chính.
+ Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do,
thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...
+ Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực
tham gia kháng chiến.
+ Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự
mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ
trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định.
+ Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một
quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm
chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất
để chuyển hóa yếu thành mạnh.
+ Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn
sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu
của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự
ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện.
- Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
+ Về lĩnh vực quân sự,
Mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp, củng cố chính quyền nhân dân ở
vùng địch tạm chiếm, phát động chiến tranh du kích, gia tăng sứ mạnh quân sự của quốc gia.
Phá tan cuộc tấn công Thu Đông 1947 của quân thù.

37
→ Bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh
nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
Phát huy thắng lợi, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để làm thất
bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt
đánh người Việt” của thực dân Pháp.
+ Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm
bảo đời sống cho bộ đội và nhân dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các
trường phổ thông các cấp.
+ Trên mặt trận ngoại giao
Đảng và Chính phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong
phe xã hội chủ nghĩa. Đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Trung Quốc (18-1-1950), Liên Xô
(30-1-1950) và các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên (2-1950)
Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương để tìm cơ hội thay
thế Pháp.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch quân sự lớn tiến
công địch dọc tuyến biên giới Việt-Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (Chiến dịch Biên
giới Thu Đông 1950), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa
Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên giai đoạn mới.
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 1951-1954
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)
Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam..
+ Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ
nhân dân với các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Đối tượng đấu tranh
chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, và phong
kiến phản động.
+ Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành
độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến,
làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội”.
+ Động lực của cách mạng Việt Nam được xác gồm có bốn giai cấp là: giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ yêu nước và
tiến bộ. Trong đó lấy nền tảng là giai cấp công, giai cấp nông và lao động trí óc; giai cấp công
nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
+ Quân sự
Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự có quy mô tương đối lớn đánh vào các
vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực
địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Tiếp đó ta mở Chiến
dịch Hòa Bình (12-1951) và Chiến dịch Tây Bắc Thu Đông 1952,
+ Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội

38
Đảng, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh việc chăm lo phát triển thực lực, củng cố và tăng cường sức
mạnh hậu phương kháng chiến.
Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trị-quân sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava” hòng
biến Điện Biên Phủ trở thành một “pháo đài khổng lồ không thể công phá”.
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông
Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Kết quả vào hồi 17 giờ 30 phút chiều 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm
hầm chỉ huy, bắt sống tướng Chiristian de Castries (Đờ Cátơri) chỉ huy trưởng và Bộ chỉ huy tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc đã đưa cuộc Tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953-1954 và cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp
xâm lược đến thắng lợi vẻ vang..
Chính phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác, buộc phải đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ bàn
về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trong quá trình diễn ra Hội nghị Mỹ đã
gây sức ép buộc Pháp chấp nhận đưa Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng trong chính quyền
Bảo Đại nhằm xây dựng một chính quyền thân Mỹ thay thế chính quyền thân Pháp.
Tổng thống Mỹ Dwight D Eisenhower (Ai xen hao) quyết tâm thúc đẩy quá trình Mỹ thay thế
Pháp ở Việt Nam và Đông Dương.

5. Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975)
17. PHÂN TÍCH Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢNG (1945 – 1954).
Nguyên nhân thắng lợi: câu 17
a. Ý nghĩa lịch sử: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta thành công là nhờ
các yếu tố
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, có
sức mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.
- Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi - Mặt trận Liên Việt - được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí
thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững
mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên
chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và
lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng
chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa, của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ
Pháp. Nhân dân ta cùng với nhân dân Lào và Campuchia đã đập tan ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở đầu sự
sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp, cổ vũ mạnh
mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
39
- Ý chí "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ", nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu kiên cường và chiến
thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ. Chúng ta đã bảo
vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều
kiện tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước.
- Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là, một thắng lợi vẻ vang của nhân dân
Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ

b. Kinh nghiệm
- Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
- Kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong
kiến, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ chống đế quốc.
- Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững
mạnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài chủ động đề ra và thực
hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
Đảng trong chiến tranh.
18. PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CỦA MIỀN BẮC KHI BƯỚC VÀO THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
˗ Hoàn thành cải cách ruộng đất (1954-1957)
₊ Sau khi hoàn toàn được giải phóng, miền Bắc tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất, thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”.
₊ Cuộc cải cách ruộng đất: từ cuối 1953 đến năm 1956 đã thực hiện 5 đợt cải cách. Kết quả:
thu 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ từ tay địa chủ chủ cho 2 triệu
nông hộ. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã hoàn thành.
₊ Ý nghĩa: Mặc dù có những hạn chế, việc cải cách ruộng đất đã đưa đến xoá bỏ triệt để chế
độ sở hữu ruộng đất phong kiến. Sau cải cách, bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay
đổi, khối liên minh công nông được củng cố.
˗ Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961 – 1965)
˗ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960):
₊ Xác định nhiệm vụ chiến lược chung của cách mạng cả nước: Tăng cường đoàn kết các
dân tộc, quyết tâm đấu tranh giữ vững hoà bình; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng, dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam;
tiến tới hoà bình thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập và dân chủ; xây dựng một nước

40
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình thế giới.
₊ Xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng mỗi miền:
Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng miền Bắc vững mạnh là tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của đế quốc
Mĩ và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất đất
nước.
₊ Xác định vai trò của cách mạng mỗi miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách
mạng cả nước.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam.
Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau, và đều nhằm thực hiện
một nhiệm vụ chiến lược chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình
thống nhất đất nước.
₊ Thông Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965); bầu Ban Chấp hành Trung
ương mới.
₊ Ý nghĩa
Nghị quyết của Đại hội đã soi sáng những vấn đề chủ yếu của cách mạng Việt Nam ở cả hai
miền Nam, Bắc, hướng dẫn và thúc đẩy nhân dân hai miền hăng hái phấn đấu giành thắng lợi
trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam; thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
˗ Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 – 1965)
₊ Mục tiêu: bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.
₊ Nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi dã diễn ra trên miền Bắc: Duyên hải, Đại
phong, Thành công, Ba nhất, Hai tốt…, đặc biệt là phong trào Mỗi người làm việc bằng
hai vì miền Nam ruột thịt.
₊ Công nghiệp: được ưu tiên xây dựng. Giá trị sản lượng ngành công nghiệp nặng năm 1965
tăng 3 lần so với năm 1960;
₊ Nông nghiệp: thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao,
nhiều hợp tác xã đã đạt năng suất 5 tấn thóc/ha…
₊ Thương nghiệp quốc doanh được ưu tiên phát triển, góp phần củng cố quan hệ sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân.

41
₊ Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông, đường hàng không được củng cố.
Việc đi lại trong nước và giao thông quốc tế thuận lợi hơn;
₊ Hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh;
₊ Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe được phát triển;
₊ Mặc dù kế hoạch này phải bỏ dở, vì từ ngày 5 – 8 – 1964, đế quốc Mĩ tiến hành chiến
tranh phá hoại miền Bắc, nhưng những kết quả đạt được là rất đáng tự hào, nhờ đó,
miền Bắc đứng vững trong thử thách của chiến tranh và hoàn thành nghĩa vụ hậu
phương đối với tiền tuyến miền Nam.
19. PHÂN TÍCH TÍNH CHẤT CỦA XÃ HỘI MIỀN NAM SAU NĂM 1954 VÀ NỘI
DUNG CƠ BẢN NGHỊ QUYẾT 15 THÁNG 1/1959. Ý NGHĨA CỦA NGHỊ QUYẾT
NÀY VỚI CÁCH MẠNG MIỀN NAM. ( CDE 1 THÁNG 12)
Tính chất xã hội miền Nam
Mỹ và bè lũ tay sai:
- Mỹ đã hất cảng Pháp hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của chúng, lập phòng tuyến ngăn chặn CNXH lan xuống Đông – Nam châu Á, đồng thời
lấy miền Nam làm căn cư để tiến công miền Bắc, tiền đồn của CNXH ở Đông – Nam châu
Á, hòng đè bẹp và đẩy lủi CNXH ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước XHCN khác, phá
hoại phong trào độc lập và hòa bình dân tộc dân chủ ở Đông Dương.
- Mỹ và chính quyền Ngô Ðình Diệm tìm mọi cách phá bỏ Hiệp định, cự tuyệt hiệp
thương tổng tuyển cử, đàn áp đẫm máu những người cộng sản, cán bộ kháng chiến và người
dân yêu nước sử dụng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình. Tình hình này
diễn ra trong một thời gian dài làm cho phong trào đấu tranh cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Xã hội miền Nam có những mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với bọn đế quốc xâm lược, chủ yếu là đế
quốc Mỹ
- Mâu thuẫn giữa nhân miền Nam, trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ
Mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với bọn đế quốc Mỹ xâm lược cùng tập đoàn thống trị
Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản
thân Mỹ phản động nhất.
Lực lượng tham gia cách mạng ở miền Nam là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản
dân tộc và những nhân sĩ yêu nước.
Động lực cách mạng miền Nam là giai cấp công dân nông dân, tiểu tư sản lấy liên minh công
nông làm cơ sở.
Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân.

42
Đối tượng của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ. Nhưng trong giai cấp tư sản mại bản có bọn
thân Mỹ và có bọn thân Pháp. Trong giai cấp địa chử có bọn dựa hẳn vào Mỹ - Diệm, ít nhiều
tán thánh đọc lập và dân chủ. Do đó, giữa chúng có mâu thuẫn về quyền lợi và phân hóa về chính
trị ở các mức độ khác nhau.
=> Đường lối chung của cách mạng VN: Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến
lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thống nhất tổ quốc. Về cách mạng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Về cách
mạng miền Nam,
Trình bày hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 15 ( 1/1959)
I. Nguyên nhân dẫn đến hội nghị
1. Tình hình đất nước lúc bấy giờ
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã kết thúc thắng lợi, Hiệp nghị Giơnevơ (20/7/1954)
được ký kết. Tuy nhiên nước ta bị tạm thời chia làm hai miền:
+ Miền Bắc đã được giải phóng và độc lập hoàn toàn, bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH
+ Còn miền Nam vẫn là một thuộc địa (kiểu mới) của đế quốc Mỹ
=> Nhân dân Việt Nam chẳng những phải củng cố và phát huy thắng lợi đã giành được, phải
củng cố miền Bắc đã được độc lập, mà còn phải giải phóng miền Nam.
2. Sự cần thiết của Nghị quyết 15
Trong hai năm 1957-1958, Ðảng đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam
nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị
Nhận được những kiến nghị khẩn thiết của các tổ chức Ðảng và của cán bộ, đồng bào,
chiến sĩ Miền Nam yêu cầu phải nhanh chóng thay đổi hình thức đấu tranh, trên cơ sở xem xét
thực tế tình hình, Bộ Chính trị đã cử ra một tổ tập trung nghiên cứu, đề xuất chủ trương, hình
thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng Miền Nam để đưa phong trào cách mạng
thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, phát triển đi lên.
II. Nội dung hội nghị trung ương lần thứ 15:
· Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15. Dưới
sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị đã kiểm điểm tình hình trong nước từ khi
Hiệp định Geneva được ký kết và đề ra nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà
cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta.
· Dựa vào những đặc điểm tình hình của nước ta lúc bấy giờ, Hội nghị đã chỉ ra 2 mâu
thuẫn cơ bản :
1. Mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến,
và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và một bên là dân tộc Việt Nam, nhân
dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam.
2. Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền
Bắc.
=> 2 mâu thuẫn trên thể hiện sự đối kháng rất gay gắt.
- Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó
tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc
lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện
thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.

43
· Hội nghị Trung ương đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hoà bình
· Cụ thể:
1. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã
giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà.
2. Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong
kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà.
· Hội nghị xác định: "Miền nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
đế quốc Mỹ
· Xã hội miền Nam có hai mâu thuẫn
· Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc phong kiến,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thanh cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh.
· Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết nhân dân đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và
gây chiến tranh, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ,
thành lập một chính quyền liên hiệp dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hòa
bình độc lập, thực hiện thống nhất yêu nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
· Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính tị của quần chúng chủ yếu là kết hợp với lực lượng vũ trang
để đánh đổ ác thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền Cách mạng của
nhân dân.
· Phải thành lập một Mặt trận dân tộc dân chủ thật rộng rãi ở miền Nam, lấy liên minh
công nông làm cơ sở, cần có sách lược lợi dụng mâu thuẫn giữa các bộ phận trong hàng ngũ
kẻ thù, phân hóa và cô lập cao độ đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình diệm.
· Củng cố và xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh, không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo của các cấp các đảng bộ đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam, đảm bảo
hoạt động bí mật, tang cường mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và quần chúng.
· Về khả năng phát triển của tình hình, Nghị quyết dự báo: đế quốc Mỹ là tên đế quốc
hiếu chiến nhất, cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam
cũng có khả năng chuyển thành cuộc khởi nghĩa vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng
nhất định về ta
· Về lực lượng cách mạng, Nghị quyết xác định: lực lượng cách mạng là giai cấp công
nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, lấy liên minh công nông làm cơ sở.
III. Ý nghĩa của hội nghị
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 BCH Trung ương khoá II (tháng 1-1959) có tầm quan trọng đặc
biệt trong sự phát triển của cách mạng miền Nam. Nó phản ánh đúng và giải quyết kịp thời yêu
cầu của cách mạng miền Nam trong việc khẳng định phương pháp đấu tranh dùng bạo lực cách

44
mạng để tự giải phóng mình là đúng đắn, phù hợp với tình thế cách mạng đã chín muồi, khi địch
đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ và nhân dân ta.
- Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, thể hiện sâu sắc tinh thần độc lập tự chủ,
năng động sáng tạo trong đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, trong vận đụng lý luận Mác
- Lênin vào cách mạng miền Nam.
- Nghị quyết 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình thế, dẫn
đến cuộc "Đồng khởi" oanh liệt của toàn miền Nam năm 1960, là tiền đề quan trọng dẫn đến
thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
=> Đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử, là căn cứ để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc, tạo điều kiện đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
20. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC CHUNG CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM ĐƯỢC ĐẠI HỘI III (9-1960) CỦA ĐẢNG VẠCH RA. (
CDE 2 THÁNG 12)
Hoàn cảnh
- Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam đã
chuyển sang một giai đoạn mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc đang tiến những
bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tǎng cường lực lượng về mọi mặt, trở thành thành
trì của cách mạng cả nước.
- Miền Nam:  Cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai mặc dù bị khủng bố rất dã man nhưng vẫn giữ vững và không ngừng mở rộng.
Sự nghiệp đấu tranh của nhân dân cả nước ta nhằm thực hiện thống nhất nước nhà phát
triển mạnh mẽ. Tình hình ấy đã hình thành ở nước ta hai chiến lược cách mạng khác nhau
đòi hỏi Đảng ta phải khẳng định đường lối, bước đi, chính sách và kiện toàn sự lãnh đạo
của Đảng về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng.
Đại hội III
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày
5 đến ngày 10-9-1960 tại Hà Nội. Đại hội đã thảo luận và đánh giá cách mạng hai miền
đang có những bước tiến quan trọng. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách
mạng từng miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
- Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
- Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn
nhau.
- Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cho

45
miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách mạng giải
phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng trong cả nước, cho việc gìn giữ và
củng cố hòa bình ở Đông Dương, Đông - Nam á và thế giới. Vì vậy, tiến hành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong khi ở miền Nam phải ra sức tập
hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, mở rộng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, cô lập
đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh củng cố hòa bình,
thống nhất Tổ quốc. Vì vậy phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc là: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.
- Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực
hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Cuộc đấu
tranh cách mạng của đồng bào miền Nam còn có tác dụng ngǎn chặn âm mưu của Mỹ -
Diệm gây lại chiến tranh, tích cực góp phần giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, Đông -
Nam á và thế giới.
- Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến
lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn
cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung
của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục
tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
- Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam hiện nay là: tǎng cường đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tǎng cường phe xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam á và thế giới.
Nhược điểm: chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH
Ưu điểm: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam có một ý nghĩa
rất trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là
ngọn đèn pha sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới
thống nhất nước nhà, tiến tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn Đảng và toàn dân ta
đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng
ta tiến lên”

46
21. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN ĐƯỜNG LỐI CHUNG XÂY DỰNG CNXH
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở MIỀN BẮC ĐƯỢC ĐẠI HỘI III (9/1960) CỦA
ĐẢNG VẠCH RA. ( CDE 2 THÁNG 12)
1. Từ khi hòa bình được lập lại, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Đại hội nhận định rằng: miền Bắc nước ta có đủ điều kiện vượt qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm ấy được đề ra trong bản Luận cương
chính trị nǎm 1930, ngày nay đang được thực tiễn chứng minh là đúng.
Đường lối chung của Đảng ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là:
- Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh
dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tǎng cường đoàn kết với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc
và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà, góp phần tǎng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở
Đông - Nam á và thế giới.
- Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch
sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa; phát triển thành phần
kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và kỹ
thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, vǎn hóa và khoa học tiên tiến.
2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa
miền Bắc nước ta từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ tiến
lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu tiến lên một nền
kinh tế cân đối và hiện đại.
- Một mặt, cần phải đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm cải tạo những
quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong
đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa để giải
phóng sức sản xuất, mở đường cho sức sản xuất phát triển.
- Mặt khác, cần đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm phát triển sức sản
xuất đã được giải phóng, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xoá

47
bỏ tình trạng lạc hậu, cải biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
không ngừng phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
- Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa.
- Cải tạo thủ công nghiệp theo chủ nghĩa xã hội là tạo điều kiện cơ bản cho thủ công
nghiệp phát triển mạnh mẽ theo hướng có lợi cho kinh tế quốc dân và cho thợ thủ công.
=> Cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một cuộc đấu tranh cách mạng gay go và phức
tạp giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa.
3. Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
- Công nghiệp:
+ Chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng một
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy
công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông
nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại.
+ Đồng thời với việc phát triển công nghiệp nặng, chúng ta phải ra sức phát triển công nghiệp
nhẹ, bảo đảm sản xuất hầu hết những vật phẩm tiêu dùng của nhân dân và sản xuất những hàng
xuất khẩu có phẩm chất tốt.
- Nông nghiệp: giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cần phải ra
sức phát triển nông nghiệp đi đôi với việc phát triển công nghiệp. Chúng ta chủ trương
lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm, đồng thời phát triển nông nghiệp một cách toàn
diện.
- Giao thông vận tải: ra sức phát triển để phục vụ kịp yêu cầu của các ngành kinh tế quốc
dân, phục vụ yêu cầu củng cố quốc phòng và mở rộng giao thông liên lạc với các nước
anh em.
- Thương nghiệp: tǎng cường lực lượng của thương nghiệp quốc doanh và của hợp tác xã
mua bán, củng cố thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất, thực hiện thu mua và cung
cấp có kế hoạch các loại hàng nông sản và hàng công nghiệp chủ yếu.
- Quốc phòng: tang cường phát triển, tích cực bảo vệ công cuộc lao động hòa bình ở
miền Bắc.
- Ngoại giao: sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước bạn bè, đồng thời phải phát huy đến
cao độ tinh thần tự lực cánh sinh để xây dựng một nền kinh tế tự chủ và phải góp phần
tích cực của ta vào sự hợp tác với các nước bạn bè.

48
4. Đi đôi với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, cần phải đẩy mạnh cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và kỹ thuật: làm cho nhân dân lao động có trình độ
vǎn hóa ngày càng cao, nắm được những hiểu biết cần thiết về khoa học và kỹ thuật, và
áp dụng được những hiểu biết đó vào việc xây dựng một nền vǎn hóa, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến, thiết thực phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời
sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân ta.
5. Trên cơ sở những thành tựu to lớn về cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển vǎn hóa đã giành
được, cǎn cứ vào đường lối chung do Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đã thông qua, Ban
Chấp hành Trung ương có nhiệm vụ định ra kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất (1961-1965)nhằm
mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực
hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội.
Sau đây là những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất:
a) Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công
nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tǎng cường thương nghiệp quốc doanh và thương
nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên, biến nước ta thành một nước công nghiệp và
nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
b) Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh, tǎng cường mối quan hệ
giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
c) Nâng cao trình độ vǎn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ,
nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao nǎng lực quản lý kinh tế của
cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh
thǎm dò tài nguyên thiên nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và
vǎn hóa.
d) Cải thiện đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta
được ǎn no, mặc ấm, tǎng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp
phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
đ) Đi đôi và kết hợp với việc phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tǎng cường trật
tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

49
Nǎm nhiệm vụ nói trên liên hệ chặt chẽ với nhau và đều nhằm tǎng cường lực lượng mọi mặt
của miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc của nhân dân cả nước
trong cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Nhược điểm: chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH
Ưu điểm: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam có một ý nghĩa
rất trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là
ngọn đèn pha sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới
thống nhất nước nhà, tiến tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn Đảng và toàn dân ta
đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng
ta tiến lên”
22. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(câu 20)
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ
nghĩa thực dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, chính quyền của
Tổng thống Mỹ Lyndon B. Jonhson (L.Giôn xơn) quyết định tiến hành chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam. Ngày 8-3-1965 quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng trực tiếp tham chiến ở
miền Nam, Việt Nam. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của
miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên
phạm vi toàn quốc và hạ quyết tâm chiến lược
● Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa
và phát triển sáng tạo đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được
Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960), gồm các nội dung lớn là:
- Quyết tâm chiến lược: Lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến
tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế
chủ động trên chiến trường; cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền
Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Trung ương khẳng định chúng
ta có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đảng quyết định phát động
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc.
- Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
- Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết
tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị

50
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục
xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh,
tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo
vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để
chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề
phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra
cả nước.
- Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Miền Nam là tiền tuyến lớn,
miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền
Bắc và giải phóng miền Nam.
→ Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính
trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới
thắng lợi vẻ vang

nội dung cơ bản và ý nghĩa đường lối kháng chiến của mỹ cứu nước 1965-1975

1. Làm cho toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ những vấn đề sau:
- Sự chuyển biến của tình hình, miền Bắc không còn ở trong thời kỳ xây dựng hoà bình nữa, mà
đã bắt đầu ở vào thời chiến.
- So sánh lực lượng giữa ta và địch. Nhấn mạnh những thuận lợi của ta và thất bại nghiêm trọng
của Mỹ, cho nên ta nhất định sẽ thắng, Mỹ nhất định sẽ thất bại hoàn toàn.
- Giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước và cả nước đều phải tham
gia đánh giặc. Cần phải xác định rõ “Miền Bắc dù có bị ném bom bắn phá đến đâu cũng phải vì
giải phóng miền Nam mà không chút nao núng, nâng cao chí khí căm thù và quyết tâm thắng
địch”(3). Phải đẩy mạnh phong trào “ba sẵn sàng” với nội dung và yêu cầu mới. Cần phải xây
dựng tác phong tích cực, khẩn trương của thời chiến.
2. Phải ra sức xây dựng tư tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và
tay sai, tư tưởng sẵn sàng chiến đấu và công tác ở bất cứ nơi nào theo tiếng gọi của Đảng và của
Tổ quốc; tư tưởng sẵn sàng đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của địch, sẵn sàng khắc phục
mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu lâu dài chống Mỹ với tinh thần tự lực cánh sinh cao;
chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch quá cao, hoặc chủ quan khinh địch; tư tưởng hoang mang,
dao động, cầu an; tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi, muốn kết thúc chiến
tranh với bất cứ giá nào; tư tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài và không tin vào sức
mình.
- Như vậy, “chuyển hướng tư tưởng” ở đây có thể hiểu một cách ngắn gọn là: chuyển từ nội
dung và phương pháp tư tưởng ở thời bình sang nội dung và phương pháp tư tưởng ở thời chiến,
trong đó bao gồm những nội dung cụ thể là đế quốc Mỹ dù có mạnh đến mấy chúng ta cũng nhất
định thắng; miền Bắc dù có bị bắn phá đến đâu cũng phải quyết tâm cùng miền Nam đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược. Cốt lõi của vấn đề chuyển hướng tư tưởng là làm cho nhân dân miền Bắc
thấy rõ tình hình mới của đất nước, từ đó có sự đồng thuận tuyệt đối với Đảng, quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ tình huống nào.
- Chủ trương “chuyển hướng tư tưởng” của Hội nghị Trung ương 11 được tiếp tục khẳng định và
bổ sung ở Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (12-1965). Và Hội nghị xác định nhiệm vụ của
công tác tư tưởng là:

51
- Giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ nhiệm vụ lịch sử vô cùng vẻ vang của nhân dân ta là
chiến đấu chống một kẻ thù mạnh nhất và nguy hiểm nhất của loài người là đế quốc Mỹ, làm cho
mọi người tin tưởng vững chắc rằng với đường lối đúng đắn của Đảng, với tinh thần dũng cảm
chiến đấu của quân và dân ta, chúng ta có thể đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của đế quốc
Mỹ.
- Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho nhân dân, nhất là cho bộ đội và thế hệ thanh niên,
làm cho mọi người sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, khắc phục mọi khó khăn để hoàn
thành bất cứ nhiệm vụ nào, chiến đấu anh dũng với bất cứ kẻ thù nào, đánh bại bất cứ loại chiến
tranh nào của địch.
- Làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân ta
ở miền Bắc là phải tích cực tham gia sự nghiệp giải phóng miền Nam, phục vụ không điều kiện
cho tiền tuyến miền Nam và hết sức giúp đỡ cách mạng Lào, làm cho mọi người hăng hái dốc
sức ra làm tròn bất cứ nhiệm vụ nào của Đảng và chính phủ giao phó.
-Như vậy, chủ trương “chuyển hướng tư tưởng” ở miền Bắc được Đảng ta xác định từ Hội
nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và tiếp tục được khẳng định, bổ sung, cụ thể hoá ở Hội
nghị Trung ương lần thứ 12 (12-1965) cùng các chỉ thị, nghị quyết sau đó của Trung ương về
công tác tư tưởng. Nội dung cơ bản của chủ trương là chuyển hướng công tác tư tưởng của Đảng
theo hướng: Làm cho toàn thể nhân dân miền Bắc hiểu rõ tình hình miền Bắc không còn ở trong
thời bình nữa mà đã chuyển sang thời chiến; nhiệm vụ thiêng liêng nhất của toàn Đảng toàn quân
và toàn dân ta lúc này là nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước; toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
phải quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trong bất kể tình huống nào. Nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách nhất được Trung ương nhấn mạnh nhiều lần, đó là công tác tuyên truyền của Đảng phải tập
trung khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân; giáo dục chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và tư tưởng quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, dù phải hy sinh, gian khổ đến mấy.
- Đó là một chủ trương đúng đắn và có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo công tác tuyên truyền,
cổ động của Đảng ở miền Bắc thời gian này. Từ chủ trương này, những vấn đề căn bản nhất của
công tác tư tưởng nói chung, công tác tuyên truyền, cổ động nói riêng được xác định kịp thời và
chính xác. Nhờ đó, công tác tuyên truyền, cổ động chính trị của Đảng ở miền Bắc được triển
khai mạnh mẽ, rầm rộ và liên tục trong suốt những năm ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, góp phần to lớn vào việc động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu và sản xuất của
nhân dân miền Bắc, biến sức mạnh tinh thần đó thành sức mạnh vật chất vượt qua mọi gian nan,
thử thách, giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến đấu không cân sức giữa dân tộc ta và đế
quốc Mỹ. Chuyển hướng tư tưởng của Đảng ở miền Bắc những năm 65-75 là một bài học vô
cùng quý giá, thiết nghĩ chúng ta cần nghiên cứu sâu sắc và vận dụng trong giai đoạn hiện nay –
giai đoạn hội nhập và phát triển đất nước vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.

23. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954–
1975) VÀ Ý NGHĨA CỦA MỖI GIAI ĐOẠN.
Câu 20 trang 55

52
24. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO THẮNG LỢI CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975). Câu 22
1. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử
Nguyên nhân
- Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả
dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo.
- Thắng lợi đó là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và quân
đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền
Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc".
- Thắng lợi đó cũng là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc
nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Thắng lợi đó còn là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ
trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.
Ý nghĩa:
Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân
dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta
như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ
đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc" .
- Với thắng lợi này, nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống
trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta. Cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên
chủ nghĩa xã hội.
- Bằng thắng lợi vĩ đại của mình, nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy
mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của
chúng ở khu vực Đông Nam á, mở đầu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa

53
thực dân mới, góp phần tăng cường lực lượng của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào
độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
 Đây là 1 thắng lợi đi vào lịch sử thế giới như 1 chiến công vĩ đại của TK XX, 1 sự kiện
có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

2. Những kinh nghiệm lịch sử

- Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức
mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam,
được Đảng xác định ngay từ ngày mới ra đời. Đường lối đó của Đảng thể hiện ý chí và nguyện
vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng hùng hậu của
nhân dân cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta
với sức mạnh của thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm
lược.
- Hai là, Đảng đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo.
Đó là phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm: lực lượng chính trị quần
chúng kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân, bắt đầu khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ
khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị, và đến một giai đoạn nào đó thì kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh
chính trị với đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng, kết
hợp nổi dậy với tiến công, tiến công với nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn
đồng bằng và đô thị, đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận, kết hợp ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với chiến tranh của các binh đoàn chủ lực, kết hợp
đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ;
nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ mở những cuộc tiến
công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt, đè bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã kế thừa tài đánh giặc đầy mưu lược
của tổ tiên, đồng thời phát huy kinh nghiệm phong phú của cuộc Cách mạng Tháng Tám và cuộc
kháng chiến chống Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh giặc Mỹ bằng mọi
phương tiện và vũ khí có trong tay, từ vũ khí thô sơ đến vũ khí hiện đại, đánh giặc với khí thế cả
nước lên đường, toàn quân ra trận. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân đã được phát triển đến
một đỉnh cao mới. Tất cả những hình thức, phương pháp đấu tranh trên đây là một thể thống

54
nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thành chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến
tranh cách mạng Việt Nam.
- Ba là, sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác tổ chức
chiến đấu tài giỏi của Đảng qua các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân đội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam và chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, Trung ương
Đảng ta luôn luôn theo dõi âm mưu của địch, đánh giá đúng so sánh lực lượng, đề ra những chủ
trương chỉ đạo chính xác, sắc bén, linh hoạt, kịp thời, nhằm đánh bại từng bước âm mưu và hành
động của địch, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Song, đứng trước một cuộc
chiến tranh mà đế quốc Mỹ vừa đánh, vừa thăm dò, vừa thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật,
một cuộc chiến tranh leo thang từng bước không có tiền lệ trong lịch sử, thì việc tìm hiểu về địch
và về ta là cả một quá trình. Phải thông qua thực tế chiến đấu với những diễn biến cụ thể trong
cuộc đọ sức trên chiến trường mà nhận thức của ta ngày càng sâu sắc, rõ ràng hơn. Một trong
những bài học về chỉ đạo chiến lược mà Đảng ta rút ra được là “trên cơ sở phương hướng chiến
lược đúng, hãy làm đi rồi thực tiễn sẽ cho phép ta hiểu rõ sự vật hơn nữa”
- Bốn là, Đảng ta hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách
mạng ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.
Lực lượng cách mạng đó là các Đảng bộ miền Nam được tôi luyện thành các bộ tham mưu dày
dạn trên tiền tuyến lớn, là khối liên minh công - nông được Đảng dày công xây đắp trong suốt
quá trình cách mạng dân tộc dân chủ, là đội quân chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang
nhân dân, hai lực lượng cơ bản hùng hậu trong chiến tranh cách mạng, là Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam cùng với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam đã động viên, tập hợp ngày càng rộng rãi, đông đảo các tầng lớp nhân dân, không phân biệt
giai cấp, tôn giáo, dân tộc vào cuộc kháng chiến, cứu nước; đồng thời tranh thủ được sự đồng
tình ủng hộ ngày càng to lớn của nhân dân và chính phủ nhiều nước yêu hòa bình và công lý trên
thế giới.

6. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-2006)
25. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN ĐƯỜNG LỐI CHUNG XÂY DỰNG XHCN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ được Đại hội IV (12/1976) của Đảng vạch ra.
Đại hội đại biểu toàn quốc thứ IV của Đảng từ 14-20/12/1976 là Đại hội toàn thắng của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Đặc điểm của đất nước khi bước vào sự nghiệp xây dựng CNXH:
Một là, sau 20 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu: Xoá bỏ
giai cấp bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất XHCN, xây dựng được cơ sở bước đầu của nền sản
xuất lớn XHCN, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên sản xuất
nhỏ vẫn là đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế miền Bắc. Miền Nam vừa thoát ra từ một xã hội
thuộc địa kiểu mới, kinh tế về cơ bản vẫn còn là sản xuất nhỏ. 
55
Vì vậy, nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất
nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. 
Hai là, cả nước hoà bình độc lập, thống nhất đang tiến lên CNXH với nhiều thuận lợi cơ bản
song cũng gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân
mới gây ra. 
Ba là, hoàn cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách mạng và
phản cách mạng còn diễn ra rất gay go phức tạp. Các thế lực phản cách mạng quốc tế có nhiều
âm mưu, hành động tinh vi thâm độc chống phá phong trào cộng sản quốc tế.
Xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn
này là:
- Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
- Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu
- Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính
trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa
- Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội”. 
Cụ thể
 Thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Trong đó, nắm vững chuyên
chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân.
 Về kinh tế, đại hội nêu rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở vật chất –
kĩ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Với nội dung quan trong là kế hoạch năm năm 1976-1980.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ
cấu kinh tế công-nông nghiệp
- Vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, két hợp kinh tế trung
ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát
triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng
thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền
và các bên cùng có lợi
- Làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công – nông
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời
sống văn minh, hạnh phúc”. 
 Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp: ra sức phát triển để giải quyết một cách vững
chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng, xây
dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang giao thông
vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật; sử dụng hết lực lượng lao động;

56
hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc,
 Về đối ngoại: cần ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn
gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá,
khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, cùng các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc trên
thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chống chủ
nghĩa đế quốc, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa, làm hết sức mình để góp phần làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa
Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ. Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa
nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng
có lợi. Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc té thuận lợi hàn gắn vết thương chiến tranh,
phát triển đất nước về mọi mặt.
 Về xây dựng Đảng: Báo cáo đã tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ
Đảng, nêu lên những thay đổi và nhiệm vụ chủ yếu của công tác xây dựng Đảng trong
thời kỳ mới. 
 Trong Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng đã trình bày những kinh nghiệm tích luỹ
được trong mấy chục năm qua, xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác
Đảng trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân cả
nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. 
Khó khăn và hạn chế
- Đại hội chưa tổng kết được những kinh nghiệm xây dựng CNXH ở miền Bắc
- Đại dội chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc phục hậu quả
chiến tranh.
- Đại hội vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan, nóng vội,
giáo điều, thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng
thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương
cải tạo, quản lý kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
- Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng,
không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăn cấm triệt để. Sản xuất chậm
phát triển, thu nhập quốc dân, năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy
sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Ý nghĩa:
- Đây là Đại hội đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi được
thống nhất từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.[4]
- Kế hoạch 5 năm 1976-1980 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trong khôi phục kinh
tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Tầng lớp tư sản mại bản ở miền Nam bị xóa bỏ.
26. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN VÀ Ý NGHĨA CỦA HAI CUỘC
CHIẾN TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM VÀ PHÍA
BẮC CỦA TỔ QUỐC.
CHIẾN TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM
1. Bối cảnh và nguyên nhân của cuộc chiến tranh
a.Tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia và phá hoại
truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia, thực hiện chính
sách diệt chủng ở Campuchia và xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam

57
- Từ lâu, nhân dân Việt Nam – Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết
cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho dân tộc.
- Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động, thù địch nước ngoài kích động, lợi dụng,
từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 -1975), quân Pôn Pốt đã tiến
hành một số vụ tiến công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến
trường Campuchia, đồng thời gây chia rẽ nội bộ những người cộng sản Campuchia.
- Thực hiện âm mưu chiến lược phá hoại mối quan hệ liên minh đoàn kết chiến đấu
giữa 3 nước Campuchia - Việt Nam - Lào nói chung và giữa hai nước Việt Nam -
Campuchia nói riêng; tháng 4/1975, sau khi lên nắm quyền, tập đoàn Pôn Pốt đã phản
bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn
kết, hữu nghị của nhân dân hai nước, thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia
và xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.
- Đêm ngày 30/4/1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm ngày giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tập đoàn Pôn Pốt đã mở cuộc tiến
công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh
xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.
b. Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên thực hiện quyền tự vệ
chính đáng của mình, đập tan hành động xâm lược của kẻ thù, bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ
quốc và cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt
- Sau chiến thắng năm 1975, nhân dân Việt Nam tha thiết mong muốn hòa bình để
khôi phục và phát triển đất nước. Chúng ta đã thực hiện chủ trương giảm quân thường
trực kể cả các quân khu ở phía Nam để tập trung cho nhiệm vụ hàn gắn vết thương
chiến tranh, khôi phục và xây dựng, phát triển đất nước.
- Trước những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pôn Pốt, đáp
lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, của nhân
dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện
quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng của mình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; đồng thời cùng với lực
lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, giúp đỡ những
người cách mạng chân chính Campuchia làm lại cuộc cách mạng đã bị phản bội.
2. Tóm tắt diễn biến cuộc chiến tranh
Cuộc chiến tranh diễn ra theo 2 giai đoạn:

58
a. Giai đoạn 1 (từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978): Quân Pôn Pốt mở các cuộc tiến công
quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam; cùng với việc tổ chức lực lượng vũ trang đánh lui quân
địch, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục nỗ lực ngoại giao nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình
- Với dã tâm xâm lược, mở đầu cuộc chiến tranh, Pôn Pốt liên tiếp mở 3 cuộc tiến
công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam:
· Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang . Trước
hành động xâm lược trắng trợn của quân Pôn Pốt, các lực lượng biên phòng và dân
quân, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia, Nhân Hưng… đã anh dũng chiến đấu,
ngăn chặn địch.
Ngày 23/5/1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho lực lượng vũ trang ở phía
Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm
lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời
tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia”.
· Từ ngày 25/9/1977, quân Pôn Pốt tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng địa
phương mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên
Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân
Việt Nam.
· Ngày 15/11/1977, quân Pôn Pốt lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã
Tây Ninh.
- Ngày 31/12/1977, chúng ra tuyên bố vu khống Quân đội Việt Nam “tiến công xâm
lược Campuchia dân chủ” nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
- Cũng trong ngày 31/12/1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt
Nam - Campuchia, nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là: Kiên quyết bảo vệ độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mình; luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đoàn kết chiến đấu
và hữu nghị Việt Nam - Campuchia; vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man
rợ của tập đoàn Pôn Pốt đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam.
- Tinh thần xây dựng, lập trường chính nghĩa của Đảng, Nhà nước ta mong muốn
giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia thông qua đàm phán
hòa bình, tôn trọng lẫn nhau được dư luận thế giới đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, mọi
nỗ lực ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới của Chính phủ ta
đều bị tập đoàn Pôn Pốt từ chối. Chúng tiếp tục phát động chiến tranh xâm lược biên
giới Tây Nam nước ta.

59
b. Giai đoạn 2 (từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979): Tập đoàn phản động Pôn Pốt tiến
hành xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân tình nguyện Việt Nam mở cuộc tổng
phản công và cùng quân dân Campuchia tiến công đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt
- Tháng 01/1978, Pôn Pốt đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, tiếp tục gây xung đột,
liên tục tiến công lấn chiếm, bắn pháo vào những nơi đông dân cư, gây nhiều tội ác
với đồng bào ta.
- Ngày 05/02/1978, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên
bố ba điểm: (1) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách biên
giới 5km; (2) Hội đàm tiến tới kí hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, kí hiệp ước
về biên giới; (3) Thoả thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thông lệ quốc tế và
giám sát quốc tế.
- Phớt lờ thiện chí của ta, quân Pôn Pốt tiếp tục huy động lực lượng áp sát biên giới
và cho quân tiến công, xâm nhập nhiều điểm trên địa phận nước ta; lực lượng của ta
đã kiên quyết đánh trả, giành lại các khu vực bị lấn chiếm.
- Từ ngày 26/3/1978, các đơn vị Quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân Pôn
Pốt lùi xa dần biên giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó.
- Ngày 15/6/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại cuộc
chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và tình hình căng thẳng ở biên giới phía
Bắc, quyết định phát động chiến tranh nhân dân.
- 14/6 đến 30/9/1978, ta mở tiếp đợt tiến công lớn trên các hướng đường 1, đường
7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường 19 kéo dài nhằm tiêu diệt một bộ phận
quan trọng sinh lực địch, làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chủ lực quân Pôn Pốt,
đẩy lùi hầu hết quân Pôn Pốt ra khỏi đất Việt Nam.
- Ngày 06 và 07 tháng 12/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua
quyết tâm tổng phản công - tiến công chiến lược tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
- Ngày 23/12/1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách
mạng Campuchia mở cuộc tổng phản công - tiến công trên toàn tuyến biên giới.
- Ngày 26/12/1978, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn Pốt bị phá
vỡ. Đến ngày 31/12/1978, quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân
Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm.
- Ngày 02/01/1979, ba cụm quân chủ lực của Pôn Pốt, mỗi cụm 5 sư đoàn, án ngữ
các trục đường tiến về Phnôm Pênh cơ bản bị tiêu diệt và tan rã. Ngày 05 và 06 tháng
01/1979, trên tất cả các hướng, quân Pôn Pốt không cản được Quân tình nguyện Việt
Nam truy kích và tiến sát Thủ đô Phnôm Pênh.

60
- Ngày 06/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt trận
Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia bắt đầu tổng công kích vào Thủ đô Phnôm
Pênh. Sau 2 ngày tổng công kích, ngày 07/01/1979, Thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn
được giải phóng.
- Ngày 08/01/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập và ra
tuyên bố: Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập toàn Pôn Pốt, thành lập chế độ
Cộng hòa nhân dân Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã công nhận nước Cộng
hòa nhân dân Campuchia.
- Ngày 17/01/1979, toàn bộ đất nước Campuchia được giải phóng; phần lớn lực
lượng Pôn Pốt bị tiêu diệt và tan rã, số còn lại lẩn trốn vào rừng trên tuyến biên giới
phía Tây, Tây Bắc Campuchia.
- Từ ngày 23/12/1978 đến 17/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực
lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đoàn quân Pôn
Pốt, diệt 12 nghìn tên, bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã tại chỗ 44 nghìn
tên; giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương
tiện kỹ thuật quân sự của quân Pôn Pốt; đập tan bộ máy thống trị của tập đoàn phản
động Pôn Pốt từ trung ương đến cơ sở.
- Trong thời gian gần hai năm chiến tranh, quân Pôn Pốt giết hại và bắt hơn 30
nghìn dân thường tại các xã biên giới của Việt Nam, 400 nghìn người dân mất nhà
cửa, trên 3 nghìn nhà bị bỏ hoang; nhiều nhà thờ, trường học, chùa chiền bị chúng đốt
phá...
3. Ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng
a. Đối với Việt Nam
Thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc có ý nghĩa rất to lớn đối
với Việt Nam: Một lần nữa khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần
đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động
chống phá nào của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; đồng thời thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, mối quan hệ truyền thống gắn bó
thủy chung, lâu đời, sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, Quân đội và
nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.
b. Đối với Campuchia
Chiến thắng ngày 7/01/1979 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt to lớn đối với vận mệnh đất nước
Campuchia: Đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập toàn Pôn Pốt, thành lập chế độ Cộng
hòa nhân dân Campuchia; cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa diệt chủng, giành lại quyền

61
được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và
dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình, tươi đẹp.
c. Đối với quốc tế
- Thắng lợi vĩ đại ngày 7/01/1979 là thắng lợi chung của nhân dân hai nước Việt Nam -
Campuchia, thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình
giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia. Với thắng lợi ngày 7/01/1979, quan hệ hai nước Việt
Nam - Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị
truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát triển
và phồn vinh của mỗi nước.
- Chiến thắng chế độ diệt chủng Pôn Pốt đã góp phần giữ vững hoà bình, ổn định ở khu vực
Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc
tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại cảnh giác trước nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi và chủ nghĩa phát xít mới.

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC


I. Nguyên nhân
- Trung Quốc từ lâu luôn coi Việt Nam như vùng đất màu mỡ muốn xâm chiếm nên
luôn tìm đủ mọi phương pháp để nuốt chửng và bành trướng , âm mưu trở thành cường quốc
khống chế Châu Á- Thái Bình Dương.
- Trong khoảng thời gian Việt Nam tiến hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược,
bảo vệ nền độc lập, trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc tuy có những va vấp
nhất định, nhưng nhìn tổng thể, quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản vì hòa bình, ổn định và lợi ích của hai nước vẫn là dòng chủ
đạo.
- Sau khi đất nước Việt Nam được thống nhất, thái độ của Trung Quốc với Việt Nam có
nhiều chuyển biến tiêu cực. Trung Quốc chú trọng tăng cường xung đột biên giới như một
trong ba mũi giáp công gây sức ép với Việt Nam sau 1975: Pol Pot tấn công ở Tây Nam,
xung đột biên giới và vấn đề Hoa kiều, cắt viện trợ, bỏ qua các dự án công trình hợp tác và
triệu hồi Chuyên Viên từ thời điểm ngày 3/7/1978 gây nên tình hình căng thẳng, phức tạp
giữa hai nước trên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam.
II. Diễn biến
1. Bất chấp nỗ lực giải quyết căng thẳng bằng con đường hòa bình của ta, dưới sự chỉ đạo của
nhà cầm quyền Trung Quốc, từ 3 giờ 30 phút ngày 17/2/1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo
binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động lực lượng lớn (hơn
600 nghìn quân) tiến công sang
- Hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai
(Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu
hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Tuyên.

62
- Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ ta đã
ra tuyên bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá
hoại nghiêm trọng tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước và khẳng định:
“Quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng quyền tự vệ chính đáng
của mình để đánh trả”.
Trên mặt trận Lạng Sơn (Quân khu 1)
· Mở đầu cuộc tiến công, quân xâm lược Trung Quốc sử dụng 3 Quân đoàn dự bị, có
160 xe tăng, xe bọc thép, 350 pháo cơ giới, chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chắt (Đình
Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn
Đồng Đăng.
· Các lực lượng vũ trang địa phương của Việt Nam ở Lạng Sơn đã tổ chức chặn đánh
các mũi tiến công của quân Trung Quốc suốt ba ngày (từ 17 đến 20/2) ở phía Tây đường 1A
và đường 1B. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt.
· Ngày 27/2, phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 54 dự bị vào hỗ trợ các Quân đoàn
43, 55 tiến công từ ba hướng Đồng Đăng, Cao Lộc, Lộc Bình, nhằm mục tiêu thị xã Lạng
Sơn Các đơn vị chủ lực Quân khu 1 và lực lượng vũ trang địa phương đánh chặn quyết liệt,
gây cho đối phương nhiều thiệt hại.
· Ngày 2/3/1979, Bộ Chính trị quyết định thành lập Quân đoàn 5 thuộc Quân khu 1
nhằm tăng cường lực lượng, nâng cao sức mạnh đột kích, sức cơ động cao, bảo đảm chiến
đấu liên tục, mở những trận phản công quy mô lớn trên mặt trận Lạng Sơn.
· Dựa vào thế quân đông, chiều ngày 4/3, quân Trung Quốc sử dụng bộ binh có xe tăng
hỗ trợ mở đơt tiến công đánh chiếm thị xã Lạng Sơn. Các đơn vị chủ lực Quân khu 1 cùng bộ
đội địa phương tỉnh Lạng Sơn và các huyện chiến đấu rất anh dũng, kiên cường, giữ vững
trận địa.
Trên mặt trận Cao Bằng (Quân khu 1):
· Sáng ngày 17/2/1979, quân xâm lược Trung Quốc chia làm hai cánh: Một cánh do
Quân đoàn 41 đảm nhiệm tiến công vào Thông Nông, Hà Quảng và một cánh do Quân đoàn
42 đảm nhiệm tiến công Phục Hòa, Đông Khê. Mục tiêu chủ yếu là đánh vào thị xã Cao
Bằng và tiêu diệt Sư đoàn 346 của ta.
· Cuộc chiến đấu trên mặt trận Cao Bằng diễn ra quyết liệt. Các đơn vị thuộc Sư đoàn
346, bộ đội địa phương tỉnh Cao Bằng cùng lực lượng dân quân tự vệ đã chiến đấu anh dũng,
lập chiến công oanh liệt, buộc đối phương chịu nhiều thiệt hại.

63
· Bộ Tư lệnh Quân khu 1 điều động Trung đoàn bộ binh 852 lên phòng ngự ở đèo Tài
Hồ Sìn; huy động 1.300 chiến sĩ mới lên huyện Ngân Sơn, tăng cường lực lượng cho quân và
dân Cao Bằng chiến đấu.
· Ngày 24/2/1979, quân Trung Quốc tiến công đánh thị xã Cao Bằng và mở rộng đánh
chiếm một số vùng xung quanh; tuy nhiên không thực hiện được ý định bao vây tiêu diệt Sư
đoàn 346. Cao Bằng trở thành chiến trường đánh giặc khắp nơi.
Trên mặt trận Hoàng Liên Sơn
· Từ 4h đến 6h sáng ngày 17/2, quân Trung Quốc dùng pháo binh bắn phá một số mục
tiêu trong lãnh thổ nước ta. Sau đó, Trung Quốc chia làm hai cánh, một cánh đánh vào thị xã
Lào Cai và thị xã Cam Đường; một cánh đánh vào Mương Khương, Bản Phiệt, Phố Lu.
· Cuộc chiến đấu trên mặt trận Hoàng Liên Sơn diễn ra rất quyết liệt. Do bị quân và dân
địa phương kiên quyết đánh chặn, ngày 19/2, quân Trung Quốc mới vào được thị xã Lào Cai.
· Ngày 25/2, Trung Quốc chiếm được thị xã Cam Đường. Được tăng cường lực lượng,
ngày 5/3, đối phương chiếm các mục tiêu Cốc San, Phố Lu và Sa Pa.
· Như vậy, sau 17 ngày tiến công trên hướng Hoàng Liên Sơn, đối phương tiến sâu được
40km, nhưng cũng không còn khả năng để tiếp tục tiến công do quân và dân ta chặn đánh.
Trên mặt trận Lai Châu
· Phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 11 đánh vào Pa Nậm Cúm, Nậm Cáy, Nậm Xe
nhưng mục tiêu chính là thị trấn Phong Thổ. Sáng ngày 17/2, hai sư đoàn thuộc Quân đoàn
11 cùng lực lượng dân binh, có xe tăng và pháo binh hỗ trợ, chia làm ba mũi tiến vào Lai
Châu.
· Bị lực lượng vũ trang địa phương Việt Nam chặn đánh, sau 3 ngày đối phương mới tạo
được bàn đạp ở khu vực biên giới.
· Ngày 5/3/1979, đối phương chiếm được thị trấn Phong Thổ; nhưng sau đó bị quân và
dân ta đánh trả, buộc phải rút quân.
o Trên mặt trận Hà Tuyên
· Trung Quốc huy động 2 sư đoàn và một số trung đoàn địa phương chia làm 3 mũi tiến
công vào các khu vực Thanh Thủy, Đồng Văn và Mèo Vạc.
· Ngày 18/2, phía Trung Quốc huy động bộ binh có pháo binh hỗ trợ mở cuộc tiến công
vào các chốt do Đội Tự vệ 784 Lâm trường Mèo Vạc và nhân dân Thượng Phòng (huyện
Mèo Vạc) trấn giữ.

64
· Sau hơn chục ngày chiến đấu, quân và dân Hà Tuyên đã lập nhiều chiến công, bẻ gãy
các mũi tiến công của đối phương vào các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Thanh Thủy.
Trên mặt trận Quảng Ninh
· Quân Trung Quốc huy động 2 sư đoàn bộ binh, chia làm hai mũi: Một mũi tiến công
vào Thán Phán (huyện Móng Cái) và một mũi tiến công vào Cao Ba Lanh (huyện Bình Liêu)
đồng thời, dùng pháo bắn dữ dội vào thị xã Móng Cái và các khu vực Hoành Bồ, Đồng Văn,
hòng phối hợp với cánh quân hướng chủ yếu ở Lạng Sơn.
· Cuối tháng 2, đầu tháng 3/1979, quân Trung Quốc mở nhiều đợt tiến công vào các địa
bàn, điểm cao giáp biên giới. Bộ đội địa phương, Công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ
chiến đấu dũng cảm, đẩy lùi các đợt tiến công, buộc quân Trung Quốc phải rút về bên kia
biên giới.
- Ngày 4/3/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi quân và dân cả nước
quyết tâm “giữ vững biên cương của Tổ quốc”.
- Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên trong cả nước để bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Do không đạt được mục đích đề ra, bị quân và dân các tỉnh biên giới giáng trả mạnh
mẽ, bị tổn thất nặng nề, đồng thời bị dư luận tiến bộ trên thế giới và trong nước lên án mạnh
mẽ, ngày 05/3/1979, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân trên tất cả các hướng.
- Ngày 18/3/1979, về cơ bản Trung Quốc đã rút quân khỏi nước ta.
- Mặc dù tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế, từ sau ngày 18/3/1979, phía Trung
Quốc vẫn chiếm đóng trái phép một số điểm cao thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Tuyên, thường xuyên gây xung đột vũ trang, làm cho tình hình luôn căng thẳng, kéo dài đến
năm 1989.
Kết quả
- Từ 17/2/1979 – 18/3/1979, quân và dân ta gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại
khỏi vòng chiến đấu 62500 quân, tiêu diệt và đánh thiệt hại 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn.
- Quân ta phá hủy 550 xe quân sự, 115 khẩu pháo, cốt hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ
dùng quân sự.
- Tuy nhiên, ta cũng bị tàn phá nặng nề về sức người và sức của, nhiều công trình bị
phá hủy.
III. Ý nghĩa
- Là một sự kiện hết sức quan trọng trong lịch sử dân tộc của đất nước ta, làm dày thêm
truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta.
- Cuộc đấu này nhắc nhở ta về bài học kinh nghiệm cảnh giác.
- Nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc

65
- Cuộc chiến tranh biên giới 1979 được ví như một vết hằn lịch sử dân tộc, là một chiếc
hố ngăn cách quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc. Với thắng lợi của cuộc chiến
tranh biên giới 1979, quân và dân Việt Nam đã viết tiếp trang sử hào hùng chống ngoại xâm
của dân tộc bản địa, bảo vệ bờ cõi, nền hòa bình và độc lập dân tộc bản địa của đất nước.
27. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CÔNG NGHIỆP HÓA XHCN CỦA CHẶNG ĐƯỜNG
ĐẦU TIÊN ĐƯỢC ĐẠI HỘI V (3/1982) VẠCH RA.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm
1982 tại Thủ đô Hà Nội. 
Nội dung:

- Đại hội đã kiểm điểm, tự phê bình về những sai lầm chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; chỉ trích về tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thể hiện
ở việc "duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, bao cấp'', nên cơ sở đó đã điều chỉnh
một bước đường lối chung và đường lối kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội xác định nước ta ở
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ nội dung công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa.
+ Trước mắt phải coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải ra sức phát triển hàng tiêu
dùng... Đại hội đã đề ra một số chủ trương về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, để
phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam, thể hiện cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, nhằm cơ bản ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
+ Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là: Vũ trang cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý
thức kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm tròn cả hai nhiệm
vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Về các nhiệm vụ cụ thể,
trước hết là: làm quán triệt đường lối các mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai
cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường.
+ Đại hội cũng chỉ rõ công tác tư tưởng cần khắc phục các yếu kém, phải hướng mạnh
vào việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ
nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục những
biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, tự do vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái hóa về lối
sống, mất dân chủ, quan liêu hóa về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của
một bộ phận cán bộ, đảng viên… Đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ
thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng.
+ Để cải tiến công tác tư tưởng phải sâu sát thực tế, nhạy cảm với cuộc sống, nghiên cứu,
tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến, cổ vũ, vun xới cho những nhân tích cực sớm

66
được nhân lên. Toàn Đảng phải làm công tác tư tưởng. Mọi đảng viên đều phải làm công
tác tư tưởng. Phối hợp tất cả các cơ quan, các ban, ngành đoàn thể, sử dụng tất cả các
công cụ thông tin, văn hoá, văn học, nghệ thuật, giáo dục... để làm công tác tư tưởng; gắn
chặt công tác tuyên truyền giáo dục với công tác tổ chức và tổng kết thực tiễn để làm
công tác tư tưởng...
Nhược điểm:
- Chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH
- Chưa xác định những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản
lý lưu thông, phân phối vẫn 1 chiều do kế hoạch nhà nước quyết định
- Đại hội coi nông nghiệp là mặt trân hàng đầu nhưng chưa có những chính sách, giải pháp
cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp
Ưu điểm:
- Đường lối CNH trong giai đoạn 76 85 là đường lối toàn diện, đầy đủ về các mặt kinh tế,
chính trị , xã hội…
- Đảng đã vạch ra những chủ trương, đường lối, mục tiêu và nhiệm vụ phải thực hiện trong
giai đoạn trên.
- Đảng cũng thừa nhận tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời gian nhất định ở MIền
Nam (Quốc Doanh, Tập thể, cá nhân, tư bản, tư doanh, hợp doanh) và Đảng đã đưa ra
biện pháp để sửa chữa và khắc phục những sai lầm.
Bài học: Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công
nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Nội dung chính của
công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ là lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển
công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có
hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
28. LÀM RÕ NHỮNG BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG ĐỔI MỚI TƯ DUY QUẢN LÝ
KINH TẾ CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1979 ĐẾN NĂM 1985
Trong suốt giai đoạn 1979-1985, Đảng đã có nhiều đột phá trong tư duy quản lý kinh tế:
- Sau năm 1975, đất nước còn vô vàn những khó khăn. Đó là: Hậu quả của 30 năm chiến
tranh đối với cả nước và chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam phải giải quyết vô cùng
nặng nề; miền Nam hậu quả của chiến tranh và chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; miền Bắc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội bị tàn phá nặng nề trong hai cuộc chiến tranh phá hoại năm 1964-1968 và năm
1972; Nền kinh tế quốc dân mất cân đối một cách gay gắt, nhất là cung-cầu lương thực,
sản xuất không đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường chống
phá cách mạng nước ta. Nhân dân VN phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ

67
quốc ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc. Các nước XHCN gặp nhiều khó khăn, đã
bộc lộ trì trệ, đòi hỏi phải cải cách, cải tổ....
- Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa, “tìm kiếm lối thoát” cho nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng, trì trệ với
những chủ trương, biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết
thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”; tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tự do lưu thông hàng hóa, xóa
bỏ “ngăn sông, cấm chợ”. Đặc biệt là Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư ngày 13/01/1981
về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp...
- Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau
khi tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị,
mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và
thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán
sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ,
nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành
phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về
quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc
doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản
phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà
nước. Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất
công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
- Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách
về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu
mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá
cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
- Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận
sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực
phẩm.
- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình
tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để
chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc
đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ
nghĩa là: Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng
hoá-tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân
biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh

68
doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống
nhất của Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên
địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
 Đây là những đột phá về tư duy nhằm mở đường cho phát triển kinh tế, xã hội, cơ sở
quan trọng để Đảng ta đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế, khẳng
định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng
Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất
nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy
và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà
hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống
trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh”.

29. PHÂN TÍCH YÊU CẦU VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NHIỆM VỤ CHIẾN
LƯỢC XÂY DỰNG THÀNH CÔNG CNXH VÀ BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ
QUỐC VIỆT NAM XHCN CỦA ĐẠI HỘI V (3/1982)
Đại hội V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
-Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thế giới
trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới.
+ Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”.
+ Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân
tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba
nước Đông Dương.
+ Trong nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.
- Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với
nhau. “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng
ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
- Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ
yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu của
công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
- Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là: Vũ trang cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý thức kiên cường,
quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm tròn cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Về các nhiệm vụ cụ thể, trước hết là: làm quán triệt đường
lối các mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa
hai con đường.
- Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu

69
dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý. Nhận
thức đó phù hợp với thực tiễn nước ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước
về lao động, đất đai, ngành nghề..., làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường
đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo.
- Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng cường Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại. Tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong
của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ
vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn
bó chặt chẽ với quần chúng. Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi
mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế.
Nhược điểm:
- Chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH
- Chưa xác định những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản
lý lưu thông, phân phối vẫn 1 chiều do kế hoạch nhà nước quyết định
- Đại hội coi nông nghiệp là mặt trân hàng đầu nhưng chưa có những chính sách, giải pháp
cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp
Ưu điểm:
- Đường lối CNH trong giai đoạn 76 85 là đường lối toàn diện, đầy đủ về các mặt kinh tế,
chính trị , xã hội…
- Đảng đã vạch ra những chủ trương, đường lối, mục tiêu và nhiệm vụ phải thực hiện trong
giai đoạn trên.
- Đảng cũng thừa nhận tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời gian nhất định ở MIền
Nam (Quốc Doanh, Tập thể, cá nhân, tư bản, tư doanh, hợp doanh) và Đảng đã đưa ra
biện pháp để sửa chữa và khắc phục những sai lầm.
Bài học: Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công
nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Nội dung chính của
công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ là lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển
công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có
hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

70
30. PHÂN TÍCH NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ
CỦA THỜI KỲ 10 NĂM XÂY DỰNG CNXH TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC (1976 –
1985) Câu 24
31. PHÂN TÍCH NỘI DUNG BỐN BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA THỜI KỲ XÂY
DỰNG CNXH TRƯỚC ĐỔI MỚI ĐƯỢC ĐẠI HỘI LẦN THỨ VI (12/1986) CỦA
ĐẢNG ĐƯA RA.
1. Hoàn cảnh
Đại hội họp từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986 tại Hà Nội (Đại hội nội bộ từ ngày 05 đến ngày 14-
12-1986).
Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối
năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn (tháng 12- 1986, giá bán lẻ hàng hoá
tăng 845,3%). Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế
- xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế nước ta
lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý
kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản xuất; cải tạo xã hội
chủ nghĩa; cơ chế quản lý kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống
còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự chuyển biến có ý
nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy phải đổi mới tư duy.
2. Nội dung
Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai
lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa
hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
- Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”.

- Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.

- Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu
của đổi mới. Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân.

71
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ
hưởng thành quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát
huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.
- Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan.

- Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị;
từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.

- Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách
làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định,
thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới;
đồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo
thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.

- Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở
để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn.
Phải bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ
sung, phát triển đường lối đổi mới.

- Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều
chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát
triển; thực hiện nói đi đôi với làm.
- Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp
phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức
mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng
có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân
tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

72
- Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

- Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.

- Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng
lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.

- Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân
lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là
vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.

 Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt
Nam. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, thể hiện quan
điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những
giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông.

(Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế
lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội
dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong
sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập
cho người lao động.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
73
- Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân
chủ, giữ kỷ cương phép nước.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống
các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế
kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; phát huy động lực của
khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trong hệ thống các giải pháp, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực vào việc thực hiện được
ba chương trình, mục tiêu: 1. Lương thực - thực phẩm; 2. Hàng tiêu dùng; 3. Hàng xuất khẩu.
Đây là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại nhằm góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông
Nam á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai
nước, vì hòa bình ở Đông Nam á và trên thế giới.
Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, thực hiện khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tăng
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của
quần chúng.
Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội nêu rõ Đảng phải
đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội
ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.)
32. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH CỦA ĐẠI HỘI VI
(12/1986)
- Đại hội lần thứ VI của Đảng Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu một bước chuyển
hướng và đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh
vực kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi mới các chính
sách kinh tế và cơ chế quản lý, nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng
năng lực sản xuất, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thực hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh
tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

74
- Vấn đề quan trọng trước tiên là phải xác định lại mục tiêu sát hợp với quy luật đi lên chủ
nghĩa xã hội từ sản xuất nhỏ. Đại hội xác định rằng, công cuộc xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa ở nước ta phải trải qua nhiều chặng đường: “Nhiệm vụ bao trùm , mục tiêu
tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế – xã hội , tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”
- Đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ
+ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất
+ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất .
+ Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội
+ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh,
- Đại hội đã đề ra một hệ thống giải pháp để thực hiện các mục tiêu nói trên:
+ Bố trí lại cơ cấu sản xuất , cơ cấu đầu tư về xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới,
sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế ....Đại hội nhấn mạnh giải pháp tập
trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực-
thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu. Đại hội nhấn mạnh ba chương trình mục
tiêu đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
+ Đại hội khẳng định cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, nhằm khai thác mọi khả năng phát triển
sản xuất, nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp và mở mang dịch
vụ.
→ Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ là một giải pháp có ý
nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản
xuất , từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo, nhằm khai thác mọi khả năng phát triển sản xuất, nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp,
tiểu, thủ công nghiệp và mở mang dịch vụ.
+ Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đại hội khẳng định dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung,
quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ . Những quan điểm về vấn đề
kinh tế quan trọng nói trên là một sự đổi mới rất cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng.

75
33. PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CNXH Ở VIỆT NAM ĐƯỢC
ĐẠI HỘI VII (6/1996) ĐƯA RA VÀ ĐẠI HỘI XI (1/2011) BỔ SUNG, PHÁT
TRIỂN.
Đại hôi VII: Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
có 6 đặc trưng cơ bản là:
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đâ ̣m đà bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh năm 2011 nêu rõ
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
l/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
2/ Do nhân dân làm chủ;
3/ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp;
4/ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
5/ Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
6/ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng.
7/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
8/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) có một số điều chỉnh quan trọng.
Thứ nhất:
Trong các đặc trưng, ngoài đặc trưng “Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” không
đổi, Cương lĩnh năm 2011 có bổ sung hai đặc trưng bao trùm, tổng quát:
- “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ
được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự
văn minh.
-“có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Các đặc trưng khác diễn đạt mới rõ hơn, không chỉ là thay đổi từ ngữ mà

76
chứa đựng những nội dung mới, với ý nghĩa phù hợp hơn với mục tiêu khi nước ta đã xây dựng
xong chủ nghĩa xã hội.
Thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống
chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng
tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ
thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai: nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao
động làm chủ'' thì trong Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân
dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” có nội hàm rộng hơn so với khái niệm ''nhân dân
lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn
kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và
đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình
thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ
sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một
trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan
hệ sản xuất.
Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư
của Cương lĩnh 1991 được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi
điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao
hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.
Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển
toàn diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc
bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển
của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Cương lĩnh năm
2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ
''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này
có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết,  tôn trọng và giúp nhau),
bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” về cơ bản, có nội dung như nhau.
Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì
trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng
rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ
hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà
nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.
77
 Mọi kết quả nhận thức đều do thực tiễn quy định: Phải xuất phát từ thực tiễn và
được chính thực tiễn kiểm nghiệm. Đó là biện chứng của quá trình nhận thức.
Đặc biệt, việc xác định đúng và trúng những đặc trưng bản chất, cốt lõi của chủ
nghĩa xã hội - một xã hội hoàn toàn mới và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử
phát triển xã hội của dân tộc ta, như cách nói của V.I.Lênin, chỉ có thể dựa trên
cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của hàng triệu
người khi họ bắt tay vào hành động. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động, biến đổi
không ngừng; do đó, lý luận cũng phải có sự thay đổi tương ứng nhằm phản ánh
đúng thực tiễn, phù hợp với thực tiễn. Nghĩa là, sự điều chỉnh, bổ sung và phát
triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội cho sát với thực tế khách quan luôn
là việc làm cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên. Đó cũng chính là ý
nghĩa của nguyên tắc mang tính phương pháp luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu ra: lý luận phải gắn liền với thực tiễn.
34. PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC LỚN CỦA CÁCH MẠNG
VIỆT NAM ĐƯỢC HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC GIỮA NHIỆM KÝ (4/1994) ĐƯA
RA.
Thực hiện Điều lệ Đảng, từ ngày 20 đến ngày 25-01-1994, tại Hà Nội đã tiến hành Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng. Tham dự Hội nghị có 647 đại biểu, thay mặt
cho 64 Đảng bộ trong cả nước.
Hội nghị đã phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế - xã hội nước ta từ sau
Đại hội VII; nêu rõ sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta đang đứng trước các cơ hội lớn
và cả những thách thức lớn.
Bốn nguy cơ thách thức lớn đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ
quan liêu; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
Thứ nhất, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
là một thực tế
- Tụt hậu về kinh tế được biểu hiện trên rất nhiều mặt như thu nhập bình quân theo
đầu người; năng suất lao động; năng lực cạnh tranh... Tất cả các mặt này chúng ta vẫn
còn có nhiều hạn chế. Năng suất lao động vẫn còn thấp so với nhiều nước trên thế
giới, do nền kinh tế vẫn đang trong mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, dựa trên
khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ.
- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam
đang phải đối mặt với sức ép cạnh tranh rất gay gắt mà nếu không đáp ứng được có
thể bị thua ngay trên sân nhà. Thu nhập bình quân đầu người của nước ta tăng lên,
chúng ta đã bước vào các quốc gia có thu nhập trung bình nhưng vẫn còn khoảng
cách lớn về thu nhập so với thế giới.
Thứ hai, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tiềm ẩn
- Nguy cơ chệch hướng về chính trị là sai lầm về đường lối, xa rời chủ nghĩa Mác -
Lênin và những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.

78
- Về văn hóa thể hiện ở xu hướng coi nhẹ văn hóa, không giữ gìn và phát huy được
bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc, chạy theo giá trị bên ngoài.
- Về mặt kinh tế, nguy cơ chệch hướng thể hiện ở chỗ nhiều doanh nghiệp, kể cả tư
nhân và nhà nước thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước, chỉ biết làm giàu, thu lợi
nhuận bằng mọi cách, không gắn vì lợi ích của đất nước, dân tộc và nhân dân. Doanh
nghiệp vì lợi nhuận của mình mà xả thải gây ô nhiễm môi trường, gian lận thương
mại, trốn thuế, không đảm bảo lợi ích của người lao động và người tiêu dùng, doanh
nghiệp móc nối với một bộ phận công chức thoái hóa biến chất trong cơ quan quản lý
nhà nước để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành lợi ích nhóm không trong sáng. Kinh tế
nhà nước chưa thể hiện được vai trò chủ đạo, đầu tàu và dẫn dắt nền kinh tế.
Thứ ba, nguy cơ từ những âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch vẫn
thường trực và có những biểu hiện mới
- Thuật ngữ “diễn biến hòa bình” xuất hiện lần đầu trong đời sống chính trị thế giới
vào năm 1949 để chỉ sự chuyển hóa các nước XHCN thành tư bản chủ nghĩa. “Diễn
biến hòa bình” sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn chỉnh thành chiến lược vào cuối
thập niên 80 của thế kỷ XX. Ban đầu chiến lược này được coi như biện pháp hỗ trợ,
bổ sung cho các hành động tiến công quân sự sau đó trở thành chiến lược toàn cầu và
là biện pháp chính trong cuộc tấn công của các nước tư bản chủ nghĩa vào các nước
xã hội chủ nghĩa.
- Bản chất của “diễn biến hòa bình” là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn
và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ chính trị mà họ coi là không phù hợp
với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội, ngoại giao, an ninh... để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo
quỹ đạo có lợi cho họ.
- Chiến lược “diễn biến hòa bình” được tiến hành bằng tăng cường tiếp xúc, giao
lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa, thông tin, khoa học, giáo dục; đổ tiền của vào các nước
XHCN để làm cho các giá trị Mỹ xâm nhập vào các nước này, đồng thời dùng mọi
biện pháp để làm cho nhân dân, đảng viên ở các nước này chán ghét, căm phẫn Đảng
Cộng sản và nhà nước XHCN, làm xuất hiện những nhân tố mới xa lạ dần với giá trị
chuẩn mực của chủ nghĩa Cộng sản để thay đổi chế độ.
- Chiến lược “diễn biến hòa bình” thực chất là từng bước chuyển hóa tư duy, nếp
nghĩ, tư tưởng, tâm lý của cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là thế hệ trẻ, từ chỗ tin
theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vào con đường đi lên
CNXH đến chỗ phủ nhận, cổ xúy cho chủ nghĩa tư bản, tham gia vào các hoạt động
chính trị để lật đổ chế độ XHCN.

79
Thứ tư, tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
- Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, mưu lợi cá nhân.
- Đảng ta dùng các từ phổ biến, nghiêm trọng, kéo dài để nói về tình trạng tham
nhũng ở nước ta. Tham nhũng ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi, liên kết thành
các lợi ích nhóm. Do đó, phòng, chống chống tham nhũng là một cuộc chiến cam go,
quyết liệt, kéo dài nhằm chống lại kẻ thù “nội xâm” từ chính trong nội bộ của chúng
ta, thậm chí là những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nếu không chiến thắng trong
cuộc chiến này thì chúng ta không thể hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH.
- Tham nhũng làm suy thoái tư tưởng đạo đức, kỷ luật, làm thất thoát nguồn thu
ngân sách nhà nước, làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế đất nước,
giảm năng suất lao động do lãng phí sức lực, trí tuệ, tiền của của nhân dân, làm hỏng
môi trường kinh doanh và các quan hệ kinh doanh đúng đắn, quan hệ cạnh tranh lành
mạnh.
- Tham nhũng phát triển càng thúc đẩy nguy cơ chệch hướng XHCN ở nước ta bộc
lộ rõ, đặc biệt là chệch hướng trong phát triển kinh tế. Tham nhũng làm cho bộ phận
kinh tế nhà nước ngày càng yếu đi, không thể hiện tốt vai trò chủ đạo của mình.
Tham nhũng phát triển tạo cơ hội, mảnh đất màu mỡ cho các thế lực thù địch thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình.
=> Có thể nói, các nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam mà Đảng
ta khẳng định có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu một nguy cơ nào đó tăng hoặc
giảm sẽ làm cho các nguy cơ khác tăng và giảm theo. Điều này đòi hỏi chúng ta cần
phải quan tâm xóa bỏ tất cả các nguy cơ, không được xem nhẹ nguy cơ nào.
Cơ hội: Đảng và nhân dân Việt Nam ta kiên trì công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế,
xã hội, mở rộng dân chủ, giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại, từng bước phá thế bao vây, cấm vận.
- Đảng có bước tiến bộ và trưởng thành mới, nắm bắt được yêu cầu phát triển của đất
nước và nguyện vọng của nhân dân, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm sai lầm trước
đây, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn được nâng lên.
- Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong
việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát
được kiềm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần
được cải thiện.
- Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
- Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm.

80
- Từng bước phá thế bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế,
tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị.
- Quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí nước ta trên thế giới được nâng
lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hội nghị đã xác định: "Trong những năm còn lại của nhiệm kỳ, phải động viên toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân đồng tâm nhất trí, nỗ lực vượt bậc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, mở rộng hợp tác quốc tế; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, ra sức khai thác thuận lợi,
nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát,
thúc đẩy nhanh nhịp độ thực hiện những mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội; phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".
Hội nghị khẳng định cần phải làm tốt 8 nhiệm vụ chủ yếu là:
- Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường
thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh và có
hiệu quả cao.
- Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội.
- Tăng cường quốc phòng và an ninh.
- Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo, củng cố mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
35. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI VIII (7/1996).
˗ Nhận định của Đảng:
Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới, từ tiền đề đã được tạo ra, Đảng đã nhận định nước ta đã
chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là
nhận định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc đưa ra phương hướng, nhiệm vụ.
˗ Chủ trương, mục tiêu:
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an
ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020, Đại hội xác định: Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH và xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh

81
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ
đó đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhiệm
vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh
công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Phấn
đấu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức
xúc của xã hội; bảo đảm an ninh, quốc phòng; cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Đại hội đề ra hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong
những năm còn lại của thập kỷ 90. Trong đó, đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn; nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế; xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết; mở rộng thương
nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại; hình thành dần một số
ngành mũi nhọn như khai thác và chế biến dầu - khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp
điện tử và công nghệ thông tin; phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ.
36. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM “ĐỘNG LỰC CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRÊN CƠ SỞ LIÊN MINH CÔNG
NÔNG TRÍ THỨC DO ĐẢNG LÃNH ĐẠO..” CỦA ĐẠI HỘI IX (4/2001). ĐỂ
THỰC HIỆN ĐƯỢC LUẬN ĐIỂM ĐÓ, CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung chủ yếu của
đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, nhân dân hạnh phúc.
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức phân phối, chủ yếu phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội; làm cho chủ nghĩa

82
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân;
góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo
đức, thể chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển.

37. PHÂN TÍCH NHỮNG BÀI HỌC LỚN CỦA 20 NĂM ĐỔI MỚI (1986 – 2006)
ĐƯỢC ĐẠI HỘI X (4/2006) CỦA ĐẢNG ĐƯA RA
Đại hội X của Đảng họp tại Hà Nội, họp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, vào thời điểm đất nước
đã trải qua 20 năm đổi mới, đạt những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta có những thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng gặp nhiều khó
khăn. Ðại hội X đã tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của 20 năm đổi mới. Đại hội đã chỉ
ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện đường lối chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
trong những năm tiếp theo.
1.Thành tựu:
Đất nước đã thoát khỏi chiến tranh, KT-XH có sự biến đổi cơ bản về toàn diện.
+Kinh tế tăng trưởng khá nhanh.
+CNH-HĐH,phát triển kinh tế thị trường,định hướng XHCN được đẩy mạnh.
+Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
+Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân đc củg cố và tăng cường.
+Chính trị xã hội ổn định.
+Quốc phòng an ninh được giữ vững.
Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều tạo ra thế lực mới, đất nước tiếp tiếp tục đi
lên với triển vọng mới.
Xã hội XHCN mà nước ta xây dựng là:
+Một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng dân chủ văn minh do dân làm chủ.
+LLSX hiện đại, QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+Con người đc giải phóng khỏi áp bức bất công.
+Cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, phát triển toàn diện.
+Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau.
+Có nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
+Quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới.
2. Bài học lớn
- Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ
bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và
được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng
của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
- Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất

83
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống
xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
- Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân
dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân,
xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm
ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.
- Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết
định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập
và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân
tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà
nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát
huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi
mới.
→ Đại hội X có sự tiếp thu, bổ sung hai đặc trưng mới của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng so với Cương lĩnh năm 1991 là: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; có
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, diễn đạt lại các đặc trưng khác.
Ðại hội X, lần đầu tiên đặt chú trọng hàng đầu đến nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn
Ðảng. Mọi thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều
gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Ðảng. Cái mới của Đại hội X là làm sáng tỏ
bản chất của Ðảng: Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Nội dung mới trong thành tố thứ hai chủ đề Đại hội X là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”.
Điểm mới từ đây là xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai
cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và
đồng thuận xã hội. Điểm mới của Đại hội là chỉ ra nhiều biện pháp, hình thức, nhằm phát huy
dân chủ, có chính sách bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng
xã hội.
Nội dung mới trong thành tố thứ ba chủ để Đại hội X là “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới”. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công

84
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế.
⇒ Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội X là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng,
toàn dân quyết tâm đổi mới toàn diện, phát triển với tốc độ nhanh và bền vững hơn trong thời kỳ
mới.
38. PHÂN TÍCH NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT
NAM CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM 2011 ĐƯỢC ĐẠI HỘI XI (1/2011) THÔNG QUA.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá theo hướng hiện
đại. Còn Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh năm 1991 đã xác định mô hình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Qua
các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã chuyển từ “phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước”, sang “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI khẳng
định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong bảy phương hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến xây dựng con
người. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về nhân
tố con người; phát triển con người giữ vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng ta cũng nhận thức rõ hơn về thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

85
Về phương hướng trên, ở Cương lĩnh năm 1991 không xác định thành một phương hướng cơ bản
riêng. Việc bổ sung, phát triển phương hướng “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” là đúng
với thực trạng hội nhập của nước ta hiện nay và là phương hướng cơ bản, lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; khẳng định đại đoàn kết toàn
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
sự nghiệp đại đoàn kết.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên
được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Các đại hội VIII,
IX và X đều nhấn mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Vì vậy, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một trong tám phương
hướng cơ bản là đúng đắn, phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh năm 1991 xác định “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Đại hội X đã viết gọn lại là “xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh”.
Khái quát lại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bổ sung, phát triển này đã được thực tiễn kiểm nghiệm là
đúng đắn, chính xác.
39. PHÂN TÍCH NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÌ
CNXH DO ĐẢNG KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNH ĐẠO.
I- THÀNH TỰU
1- Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch 5 năm.
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong  nước (GDP)
đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp
4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỉ trọng công nghiệp và xây
dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm 1995; dịch vụ từ 39,6% lên 41,9%. Bắt đầu
86
có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP;
năm 1995 là 27,4% (trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP). Đến cuối năm 1995,
tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD, gần 1/3 đã
được thực hiện. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995.
Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi
dần với cơ chế thị trường.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.
2- Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ
giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm. Nhiều nhà ở và
đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và thành thị.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng,
công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những  mặt phát triển và tiến
bộ.
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được
quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham
gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng, phong
trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở thành một nét
đẹp mới trong xã hội ta.
Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà nước được nâng
lên.
3- Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước,
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Các
nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt
hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được tăng cường.
4- Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã
từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ
chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992,
sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một
bước nền hành chính Nhà những, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp
nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại
nghĩa ấy.
5. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc; tăng
cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát
triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng

87
cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang
Nga, các nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng quan hệ
với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và mở rộng quan
hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh; mở rộng
quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các
phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với
các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ
chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.
Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100
nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều
chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hòa bình, phá thế
bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào
sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
II- KHUYẾT ĐIỂM VÀ YẾU KÉM
Cùng với việc đánh giá đúng thành tựu, cần nhận rõ những khuyết điểm và yếu kém.
1- Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong
sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển.
Đến nay nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới; trình độ phát triển
kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc
hậu, nợ nần nhiều. Trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn và cấp bách, một số cơ quan
nhà nước, đảng, đoàn thể, tổ chức kinh tế, một bộ phận cán bộ và nhân dân lại tiêu xài lãng phí,
quá mức mình làm ra, chưa tiết kiệm để dồn vốn cho đầu tư phát triển. Nhà nước còn thiếu chính
sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Năm 1995, đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn
trong nước (kể cả nguồn vốn khấu hao cơ bản) chỉ chiếm 16,7% GDP, trong đó phần vốn ngân
sách chỉ chiếm 4,2% GDP, còn rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế. Sử dụng nguồn lực còn
phân tán, kém hiệu quả, chưa kiên quyết tập trung cho các chương trình, dự án kinh tế - xã hội
cấp thiết.
2- Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà
nước, đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây
dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của nhiều cơ quan thi
hành pháp luật,… nghiêm trọng kéo dài. Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hóa giàu
nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời
sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng
đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn. Chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp.
Người nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó các nguồn tài
chính từ ngân sách và những nguồn lực khác có thể huy động được cho yêu cầu phúc lợi xã hội
vừa rất hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi
trường sinh thái, hủy hoại tài nguyên ngày càng tăng. Văn hóa phẩm độc hại lan tràn. Tệ nạn xã
hội phát triển. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.
3- Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng.
Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết
thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hớp tác, để hợp tác xã ở nhiều
nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển; chưa kịp thời đúc kết kinh
nghiệm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính
sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần
kinh tế này. quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài có nhiều sơ hở.

88
4- Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu.
Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn
nhiều yếu kém; thủ tục hành chính… đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số
trận địa quan trọng chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có
nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất . Chế độ phân phối
thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm
chế nhưng chưa vững chắc.
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động khoa học và công nghệ, bảo vệ tài nguyên và môi
trường sinh thái, giáo dục, đào tạo, thông tin, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ chưa tốt.
5- Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.
Năng lực và hiện quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả
hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình. Bộ máy
đảng, nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại, tinh giản và nâng cao chất lượng; còn nhiều
biểu hiện quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn,
bồi dưỡng, thay đổi, trẻ hóa cán bộ, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là
không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức
chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu.
40. PHÂN TÍCH NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ YẾU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÌ
CNXH CỦA ĐẢNG.
Năm bài học kinh nghiệm
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, rút ra một
số bài học sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đây là bài học về “chủ động” và
“sáng tạo”.
Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống
còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những khó
khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng
tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài,
nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên
định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức
đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất
để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với
Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là bài học về “nhân dân” và “phát
huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc”.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích của
nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.

89
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi
mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi mới.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi,
chống suy thoái, biến chất.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan,
xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập
trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây là bài học về đổi mới
toàn diện, đồng bộ, tôn trọng quy luật khách quan và thực tiễn.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương
đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm phù
hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo
cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ động, năng
động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi
mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, coi
trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải
giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các
thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi đôi
với làm.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đây là bài học về “lợi ích dân tộc” và “phát huy sức mạnh tổng hợp”.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên
định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ
sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật
thiết với nhân dân. Đây là bài học về “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn,
tự đổi mới.

90
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát huy
vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên từ
sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp
thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
41. PHÂN TÍCH NHỮNG THẮNG LỢI TO LỚN, CÓ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Kể từ ngày có sự lãnh
đạo của Đảng, cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đó của nhân dân ta mới từng bước giành được
thắng lợi, trước hết là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, đưa lại độc lập tự do cho
đất nước, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đầu tiên
của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong nước:
- Với thắng lợi này, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực
dân Pháp và hàng trăm năm chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đưa lại độc lập, thống
nhất cho đất nước ta
- Đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người làm chủ xã hội, đất nước
- Lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam Á
- Đưa Đảng ta từ hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc
- Khẳng định trong thực tiễn tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc,
khởi nghĩa toàn dân của Hồ Chí Minh và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của
Đảng vạch ra là đúng đắn
- Nâng cao niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và
nhân dân ta
- Mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thế giới:
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới
- Tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới
- Góp phần đánh bại chủ nghĩa đế quốc và phát xít
- Chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành công vào cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đây là
lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản ở một nước
thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền
trong cả nước.

91
=> Cách mạng 8/1945 được coi là một trong những cuộc cách mạng điển hình nhất trong
phong trào giải phóng dân tộc
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975
Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, với ý chí "Thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã phát
động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đi tới thắng lợi vẻ vang mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với
nước ta và với thế giới.
Đối với nước ta:
- Thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp đối với
Việt Nam
- Bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ
nhân dân;
- Giải phóng được một nửa đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên
chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng miền
Nam trong giai đoạn sau;
- Tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín
cho dân tộc và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó...
Đối với quốc tế:
- Thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa
bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam, Lào và Campuchia;
- Nhân dân Việt Nam trở thành người đi tiên phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa
thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc bị áp bức chống
chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc;
- Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa
bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa cố vấn quân sự
rồi quân viễn chinh xâm lược miền Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân
dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc, đánh bại
các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi tới đại thắng mùa Xuân 1975.
Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn.
Đối với dân tộc ta:
- Thắng lợi này kết thúc hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm chiến tranh cách
mạng, hơn một thế kỷ chống xâm lược nước ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất trọn
vẹn cho đất nước ta;
- Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc;
- Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội;
- Tăng thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam;
- Nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế;
92
- Để lại nhiều bài học có giá trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...
Đối với thế giới:
- Thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế
quốc Mỹ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ;
- Cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc dân chủ của nhân dân thế giới; mở rộng địa
bàn và tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
=> Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng,
người không đông nếu có Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối
đúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành
chiến tranh sáng tạo, được sự ủng hộ của nhân dân thế giới hoàn toàn có thể chiến
thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới
Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong bối cảnh có những thuận lợi to lớn, song cũng gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chậm phát triển,
cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị Mỹ phong tỏa
cấm vận, tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi, phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai
đầu biên giới phía nam, phía bắc, đòi hỏi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải
trải qua nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng
được tôi luyện qua thử thách đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kiên trì tìm
tòi đề ra đường lối đổi mới đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giành được
những thành tựu to lớn, toàn diện.
Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị
tại Đại hội X của Đảng đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận: Hai mươi năm qua, với
sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta
đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và
an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
=> Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ một
nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạchậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thắng lợi đó là minh chứng sinh động về năng lực lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức mạnh to lớn của nhân dân ta.

93
42. PHÂN TÍCH NHỮNG BÀI HỌC LỚN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 2018
Những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Học thuyết cách mạng, khoa học Mác-Lênin soi sáng sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp
công nhân, giải phóng các dân tộc, giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công để
xây dựng một xã hội tốt đẹp vì con người, đó là chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm giải phóng dâ tộc và giải phóng giai cấp là hai cuộc giải phóng vĩ đại, quan hệ mật thiết với
nhau như hai cánh chim. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung hàng đầu
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930) xác định rõ mục tiêu:
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập và để đi tới xã hội cộng sản. Suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững và kiên định các mục tiêu chiến lược đó.
- Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vị chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, cũng là quy luật dựng nước gắn
liền với giữ nước, là lý tưởng cao cả và hiện thực trong thời đại Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch sử, là chủ
thể của lịch sử, đó là quan điểm cơ bản trong lý luận Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về
cách mạng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công thì
phải lấy dân chúng làm gốc; có dân thì có tất cả, nghĩa là phải dựa vào dân, tổ chức, vận động để
nhân dân hiểu rằng cách mạng là công việc của chính nhân dân. Người mong muốn, cách mạng
thành công thì quyền giao cho dân chúng số nhiều.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch
sử từ Cách mạng Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng chiến và công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Ngoài lợi ích của dân tộc, giai cấp và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
từ khi thành lập (1930), Đảng đã xác định luôn luôn gắn bó với nhân dân, từng trải đấu trang mà
trưởng thành. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Nhân dân là người bảo
vệ Đảng, giúp đỡ Đảng về mọi mặt trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và chính phong
trào cách mạng của nhân dân đã hiện thực hóa mục tiêu cách mạng do Đảng đề ra.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải phòng ngừa nguy cơ sai lầm về đường lối, nguy cơ xa
rời quần chúng nhân dân và cả nguy cơ suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cương lĩnh
của Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ, quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ
dẫn đến tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của
Đảng. Ở mọi thời kỳ cách mạng, nhất là trong điều kiện hiện nay, Đảng đặc biệt chú trọng công
tác vận động quần chúng nhân dân, lấy dân làm gốc, Đảng chú trọng thực hiện phương châm:
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đảng và các cơ quan nhà nước các cấp phải thật sự hiểu
dân, tin dân, gần dân, bàn bạc với dân và thật sự vì dân.

94
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
- Đoàn kết là nguyên tắc của Đảng chân chính cách mạng. Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết là
truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng nêu cao ngọn cờ dân tộc, lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc
là điểm căn bản và nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành
công. Người coi giữ gìn đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Người cũng
là hiện thân của tinh thần đoàn kết quốc tế.
- Nhờ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh
đạo, toàn dân Việt Nam đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm nên thành công của Cách mạng
Tháng Tám và các cuộc kháng chiến cứu nước, tranh thủ được sự đoàn kết và ủng hộ của đồng
chí, bè bạn và nhân dân thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển
đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng nhấn mạnh chiến lược đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu chung
của lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, tôn trọng lợi ích của các tầng lớp, giai cấp
không trái với lợi ích chung, Khép lại quá khứ, xóa bỏ định kiến, hận thù, mặc cảm, hướng tới
tương lai. Đại đoàn kết dân tộc, nhân dân luôn luôn gắn liền với phát huy và hoàn thiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng quyền con người, quyền và
trách nhiệm công dân.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế
- Chủ nghĩa Mác-Lênin mang bản chất quốc tế, cách mạng của giai cấp vô sản không chỉ giải
phóng giai cấp lao động trong một nước mà giải phóng toàn nhân loại. Đoàn kết và ủng hộ lẫn
nhau giữa các cuộc cách mạng và nhân dân các nước là yêu cầu khách quan tất yếu. Trong thế
giới hiện đại, nhiều vấn đề không thể giải quyết trong phạm vi một nước mà cấn đến sự hợp tác
quốc tế. Hồ Chí Minh là lãnh tụ dân tộc, lãnh tụ của Đảng đồng thời là chiến sĩ quốc tế. Người
thấy rõ sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. “Nhưng muốn người ta
giúp cho, thì trước minh phải tự giúp lấy mình đã”. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kết
hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế, tạo nên nhân tố quyết định thắng lợi.
- Cách mạng Tháng Tám 1945 đã phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, với ý chí đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta đồng thời tận dụng cơ hội thuận lợi khi phe Đồng minh chiến thắng phát xít
Nhật. Trong hai cuộc kháng chiến, sức mạnh của dân tộc được huy động cao nhất với tinh thần
tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của
Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế. Trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Đảng huy động cao nhất nguồn lực trong nước đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực từ bên ngoài. Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã tạo được sự hội nhập thành công đồng thời vẫn
giữ vững độc lập, tự chủ và con đường phát triển của đất nước.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng Cộng sản-đội
tiền phong của giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản phải được trang bị lý luận tiền phong, khoa học,

95
có Cương lĩnh chính trị rõ ràng, được tổ chức theo những nguyên tắc cơ bản và với kỷ luật chặt
chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng để tổ chức
phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, Đảng không có chủ
nghĩa (lý luận) cũng giống như người không có trí khôn. Đảng phảo hoàn thành sứ mệnh giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước vì hạnh phúc của nhân dân. Người nhấn mạnh, Đảng và từng
cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng, nhằm nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng phát triển, bổ sung Cương lĩnh chính
trị, đường lối, nắm vững và kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, đồng thời chú
trọng các nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết
với nhân dân và nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chú trọng công tác cán bộ, coi cán bộ
là cái gốc của mọi công việc. Rèn luyện đạo đức cách mạng là nội dung cơ bản trong xây dựng
Đảng. Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối và những quyết sách đúng đắn và thông qua hệ thống tổ chức
đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên trên tất cả các
lĩnh vực nhằm hiện thực hóa đường lối của Đảng. Chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn và không ngừng làm rõ những vấn đề đặt ra trong khoa học lãnh đạo quản lý.
- Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng không ngừng đổi mới, tự chỉnh
đốn; phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân và cả nguy cơ suy
thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII (30-10-2016) đã ban hành Nghị quyết Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII
gắn liền với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (15-5-2016) về đẩy mạnh học tập, làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII (25-10-2017)
về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII (19-5-
2018) về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, thật sự làm cho Đảng vững
mạnh, tiếp tục hoàn thành sữ mệnh lãnh đạo xã hội và Nhà nước, đưa đất nước phát triển nhanh
và bền vững trong thời kỳ mới.
Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực
tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nổi bật những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của Đảng vì lý tưởng cách mạng cao cả, vì
nước, vì dân, với sự hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, đảng viên kiên trung của
Đảng. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thống nhất nhận thức, ý chí và hành động.
Truyền thống tự phê bình, phê bình nghiêm túc và quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, hạn
chế, yếu kém. Truyền thống gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn
dân tộc. Truyền thống rèn luyện phẩm chất, đạo đức, nâng cao bản lĩnh tự vượt qua mọi khó
khăn, thách thức. Truyền thống của chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tôn vinh sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cán bộ, đảng viên
trong toàn Đảng, của đồng bào cả nước trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh cách mạng do

96
Đảng lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo tiêu biểu của Đảng đã anh dũng hy sinh như: Trần Phú, Lê
Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Châu Văn Liêm, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức
Cảnh, Ngô Gia Tự, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Phùng Chí Kiên, Tô
Hiệu, Hoàng Văn Thụ và nhiều đồng chí khác. Rất nhiều tấm gương hy sinh của chiến sĩ cách
mạng trẻ tuổi vì lý tưởng và con đường cách mạng của Đảng và dân tộc như: Lý Tự Trọng,
Nguyễn Hoàng Tôn, Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Lê Bình, Mạc Thị Bưởi, Bùi Thị
Cúc, Nguyễn Thị Lợi, Cù Chính Lan, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn
Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Bùi Ngọc Dương, Lê Thị Riêng, Lê Anh Xuân, Nguyễn Thị Út (Út
Tịch), Quách Thị Trang, Nguyễn Phan Vinh, Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Thái Bình, Phạm Ngọc
Thảo, Vũ Xuân Thiều, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng
Chiêm và nhiều tấm gương kiên cường khác.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (30-10-2016) khẳng
định: “Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và
lịch sử vẻ vang của Đảng ta-Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt
Nam anh hùng”.
VẤN ĐỀ KINH TẾ:
1. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc xác định cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối phát triển
kinh tế do Đảng đề ra được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch của Nhà nước để toàn dân thực hiện. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố
quyết định đối với thành tựu phát triển kinh tế đất nước trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua.
Khi xây dựng đường lối, để đường lối được đề ra đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ
cũng bắt đầu bằng việc phân tích bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, tình hình đất nước, trong
đó rất quan trọng là phân tích, đánh giá, xác định đúng cơ hội và thách thức đối với phát triển
kinh tế đất nước trong những năm tới. Đánh giá, xác định đúng cơ hội và thách thức là căn cứ,
cơ sở khoa học để đề ra được đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đúng đắn, là cơ sở để
bố trí, sắp xếp tổ chức, cán bộ phù hợp, để xây dựng kế hoạch, những trọng tâm cần tập trung
thực hiện.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1-2016) đề ra đường lối phát triển đất nước nói
chung, phát triển kinh tế nói riêng trong nhiệm kỳ 5 năm 2016-2020 đã có những đánh giá:
“Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp
đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ
tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục
là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược quan trọng; đồng
thời cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn… Ở
trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước
được nâng cao; thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn,
thách thức… Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm: Tăng cường xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công việc đổi mới…”[1].

97
Cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc cả vào tình hình bên trong
và bên ngoài đất nước, trong đó đặc biệt quan trọng là nội lực, thế và lực, sức mạnh tổng hợp,
trình độ phát triển kinh tế, uy tín của đất nước. Cùng trong một bối cảnh thế giới và khu vực, cơ
hội chỉ mở ra đối với những nước đã có sự chuẩn bị, có đủ thế và lực để nắm bắt cơ hội. Nội
lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước cũng là cơ sở để đất nước vượt qua thử thách, thậm chí
có thể biến thách thức thành cơ hội khi thách thức đó tạo ra động lực, áp lực buộc đất nước
phải nỗ lực phấn đấu, vượt qua. Nhật Bản, Israel là những tấm gương tiêu biểu của những quốc
gia đã vượt qua thách thức, biến thách thức thành cơ hội để phát triển. Ngược lại, một số nước
được thiên nhiên ưu đãi, có nguồn tài nguyên phong phú, có trữ lượng và giá trị lớn, có cơ hội
lớn để phát triển kinh tế, nhưng đã không tận dụng có hiệu quả các cơ hội này, chỉ khai thác tài
nguyên để bán, tuy có mức sống cao nhưng không phải là quốc gia có nền kinh tế phát triển, ẩn
chứa nhiều thách thức về ổn định chính trị, xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và đang bắt tay vào
chuẩn bị các văn kiện cho Đại hội XIII ,dự kiện tổ chức vào đầu năm 2021. Để xác định mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp cho phát triển kinh tế đất nước trong 5 năm của nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng
cũng bắt đầu từ việc phân tích bối cảnh tình hình, cả trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó xác
định cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế.
2. Về cơ hội                                  
Đầu tiên, phải nói tới cơ hội do tính chất của thời đại, do bối cảnh tình hình quốc tế ngày nay
tạo ra. Đảng CSVN luôn xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt Nam thắng lợi phải phát huy
cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh của thời đại. Việt Nam là một nước
kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nhưng Việt Nam có
thể phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là do tính chất của thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nguyên lý
mà C.Mác, đã nêu ra: loài người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải
quyết vấn đề đó đã xuất hiện. Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
đã tạo ra cơ hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có thể phát
triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung của tất cả các
quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các nước đều có thể lưu
thông, luân chuyển trên quy mô toàn cầu; phân công và hợp tác sản xuất cũng có thể diễn ra ở
nhiều quốc gia trên quy mô toàn cầu; doanh nghiệp của một nước có thể tham gia vào chuỗi giá
trị toàn cầu… Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội cho mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm
phát triển. Việt Nam, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã sớm chủ trương hội nhập quốc tế, bắt đầu từ hội
nhập kinh tế quốc tế, từng bước mở rộng ra các lĩnh vực khác. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, có quan hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới; tham gia, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín, toàn cầu
và khu vực (Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc
tế, tổ chức ASEAN…), đã ký 16 hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, trong đó
có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng thị
trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn
vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm
qua. Trong những năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế quốc tế đã xây dựng được, những
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết sẽ có hiệu lực và những hiệp định sẽ được ký
kết mới, sẽ tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp tục phát triển.
Những biến động phức tạp gần đây trên thế giới, trong quan hệ quốc tế, sự nổi lên của chủ
nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ trương bảo hộ thị trường trong nước, cản trở toàn cầu
hóa ở một số nước lớn, nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, đang và sẽ ảnh

98
hưởng lớn tới lưu thông hàng hóa, đầu tư quốc tế, tăng trưởng kinh tế thế giới. Bối cảnh này có
những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam, tạo ra những khó khăn, thách thức cho Việt Nam;
nhưng đồng thời, cũng tạo ra cơ hội cho Việt Nam, khi Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào
thị trường Mỹ, vào thị trường Trung Quốc thay thế cho hàng hóa của một số nước bị cản trở
xuất khẩu vào những thị trường này. Việt Nam có cơ hội thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rút
khỏi Trung Quốc và thu hút cả các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam sản xuất
hàng hóa để xuất khẩu vào Mỹ, đi vòng, tránh thuế quan cao và hàng rào thương mại của Mỹ
với hàng hóa Trung Quốc.
- Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, trực tiếp hiện nay là cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những bước phát triển nhảy
vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học – công nghệ, tri thức trở thành nguồn lực
và động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển. Vai trò của các yếu tố sản xuất khác, như
vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, trước đây từng là yếu tố quyết định đối với sự phát triển
của các quốc gia, giảm xuống. Với sự phát triển của hệ thống internet và các mạng thông tin kết
nối toàn cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và truyền bá tri thức. Những điều này
tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm tới phát triển giáo dục, có nền giáo dục phát
triển; có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, tỷ lệ người sử dụng internet cao so với nhiều
nước có thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam, cơ hội để có thể đi ngày vào hiện đại,
phát triển theo hình thức rút gọn, đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng
cách về phát triển kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, trở thành khu vực phát
triển năng động, có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế thế giới. Trong khu
vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học – công nghệ mạnh, phát triển
năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, có những thị trường lớn, các
nguồn vốn đầu tư lớn. Là một nước nằm trong khu vực phát triển năng động nay, thu hút được
sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho Việt Nam.
- Việt Nam là đất nước có sự ổn định chính trị - xã hội cao, con người thông minh, nhân hậu,
mến khách, có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều
bãi biển đẹp, nhiều di sản văn hóa - lịch sử có sức thu hút lớn, có nhiều món ăn và nghệ thuật
ẩm thực được bạn bè quốc tế yêu thích. Sau nhiều năm phát triển, đã xây dựng được hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay, cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ
thông tin, viễn thông khá đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay
là nền kinh tế thị trường đã có nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng
phù hợp với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy
mạnh, các quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được thu hẹp,
ngày càng công khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thông
thoáng, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín. Nền kinh tế năng động,
đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức cao hàng đầu các quốc gia trên thế giới; dân số
Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức thu nhập ngày càng được cải thiện, đang ở giai
đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng để
phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng
cao… Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong
những năm tới.
3. Về thách thức
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam không chỉ có cơ hội, mà còn có không
ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là nhiều thách thức trong đó lại xuất
phát từ những mặt khác của chính những yếu tố tạo ra cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước.

99
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản phẩm hàng hóa
của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp, các sản phẩm
hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong
nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp
lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng
trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay,
phần lớn là ở những công đoạn có trình độ công nghệ thấp, gia công, lắp ráp.
Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực tiếp, nhanh
chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động trên thị trường khu vực,
thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn;
từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là
chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và
trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất nước sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam không chủ
động có biện pháp ứng phó và nếu nội lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp
Việt Nam còn đối mặt với những thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống
quản lý, hệ thống dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh
doanh, nhất là của những đối thủ cạnh tranh.
Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất
nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu vào cho hoạt động
của nền kinh tế (vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu) là nhập khẩu từ nước
ngoài và thị trường bên ngoài có vai trò rất lớn, rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm,
hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam sẽ góp
phần làm phong phú hơn hàng hóa trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân,
nhưng sẽ trở thành thách thức nếu hàng hóa nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa
Việt Nam ra khỏi thị trường, bóp chết sản xuất trong nước. Những điều kiện vay vốn nước
ngoài (vay chính phủ các nước, vay các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái
phiếu quốc tế…) càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ nước ngoài cũng càng có khả năng, điều kiện
tăng nhanh, sẽ trở thành thách thức lớn khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Các dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế đất nước, tạo việc làm cho
người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, nhưng
có thể trở thành thách thức lớn nếu quản lý thiếu chặt chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường,
nước ta trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu cho các nước phát triển, để các nhà đầu tư nước
ngoài lợi dụng các chính sách ưu đãi, khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước,
khi hết thời hạn ưu đãi, không còn có thể khai thác tài nguyên và tận dụng lao động rẻ, họ sẽ bỏ
đi, để lại nhiều gánh nặng mà đất nước phải giải quyết…
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải chỉ tạo ra cơ hội cho kinh tế Việt
Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà cũng tạo cho Việt
Nam nhiều thách thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua những thách thức này mới nắm
bắt được cơ hội, chuyển cơ hội thành hiện thực. Thách thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn đề
tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi,
phát triển công nghệ diễn ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với
Việt Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt
động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu
dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách
mạng công nghiệp lần thứ tư còn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực,
phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển
kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ
đơn giản, dễ dàng.

100
Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - công nghệ rất cao, rất mới, diễn ra trên
diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả
các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công
nghệ, có nguồn nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ,
thiết kế sản phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp
sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các
ngành; đây không phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là những thách thức. Không vượt qua
được những thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa
hơn, so với các nước khác
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á phát triển năng động,
nhưng cũng là khu vực có sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng mạnh mẽ, kìm chế lẫn nhau
giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đặc biệt là tranh chấp chủ quyền Biển Đông
giữa các nước trong khu vực hết sức căng thẳng, có nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững
chủ quyền biển, đảo của đất nước, đồng thời phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển kinh tế đất nước là thách thức lớn đối với Việt Nam.
- Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân sách nhà nước
cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ thấp.
Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên,
lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ
và nguồn nhân lực chất lượng cao còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
kinh tế thấp, chuyển biến chậm.
Hiện nay, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, nhưng theo dự báo, thời kỳ dân số vàng của
Việt Nam sẽ kết thúc sớm hơn so với một số nước, dân số già nhanh. Kinh nghiệm các nước cho
thấy, các nước cất cánh được trở thành nước phát triển, vượt qua bẫy thu nhập trung bình đều
diễn ra trong thời kỳ dân số vàng. Nếu kinh tế Việt Nam không cất cánh được trong thời kỳ dân
số vàng, Việt Nam sẽ khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, chưa giàu đã già. Đây là một
thách thức lớn.
Đời sống nhân dân được cải thiện, nhưng khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã hội có xu
hướng mở rộng không chỉ ảnh hưởng tới ổn định xã hội mà còn ảnh hưởng tới sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế. Tình trạng ô nhiễm môi trường được quan tâm ngăn
ngừa, xử lý, nhưng chưa ngăn chặn được, vẫn có xu hướng tăng lên, nguồn lực, chi phí cho bảo
vệ môi trường cũng ngày càng tăng lên. Kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng
lên, điều kiện sống được cải thiện, nhưng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội bị suy thoái,
xuống cấp; tình trạng tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức
làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hoạt
động của các doanh nghiệp. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng xấu tới phát triển kinh tế, là
những thách thức phải vượt qua.
- Đặc biệt, Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
của biến đổi khí hậu toàn cầu (theo đánh giá của các tổ chức quốc tế). Hiện nay, biến đổi khí
hậu toàn cầu đang diễn ra nhanh, tình trạng nước biển xâm nhập sâu vào các tỉnh vùng đồng
bằng Sông Cửu Long; sạt lở đê biển, sói lở bờ biển xảy ra ở nhiều vùng; thiên tai, bão lũ cường
độ lớn xảy ra nhiều hơn, mức độ tàn phá lớn hơn. Nhiệt độ trung bình hằng năm ở Việt Nam
tăng lên, tình trạng hạn hán, thiếu nước khá nghiêm trọng đã xảy ra ở nhiều vùng. Đầu tư cho
phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng cao. Đây là những thách thức
rất lớn đối với phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm tới.
Trên đây là những cơ hội và thách thức lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam trong những
năm tới. Xác định cơ hội và thách thức là cơ sở để Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam quyết
tâm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh

101
tế nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng
Việt Nam thành một nước phát triển, có thu nhập cao, “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.

Xây dựng Đảng Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị


- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù
hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước
hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên
định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô
nguyên tắc.
2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
- Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác
nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm
tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ
động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống
yêu nước, cách mạng.
- Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
sự đồng thuận xã hội. Đổi mới hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng thiết thực, hiệu
quả.
3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
- Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân.
- Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân
dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu
quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt đảng.

102
- Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo
đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm
chất đạo đức, lối sống.
4. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
- Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành trung ương để có chủ
trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm
công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược. Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải
pháp củng cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất
là của đảng đoàn, ban cán sự đảng.
- Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh
hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong
Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa
phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
5. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
- Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo
chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng
trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức
của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.
- Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên
theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình
độ năng lực, phẩm chất đạo đức lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng
mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực
hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng
viên.
6. Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém
trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát
hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài.
- Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng
cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số,
chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng
đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả
công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ
không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa.
- Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín
giảm sút.

103
- Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy
tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo
quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường công tác giáo
dục, quản lý cán bộ.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành.
Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục,
kế thừa và phát triển.
- Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn
đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay. Giải quyết dứt
điểm những vụ việc tồn đọng.
7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng.
- Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn
thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính
phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan.
- Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan
bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
8. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
- Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây đựng đồng bộ hệ thống các quy chế,
quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
- Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến địa
phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động,
sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết,
tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng,
khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp, sâu sát thực tế,
cơ sở; nói đi đôi với làm.

104

You might also like