Professional Documents
Culture Documents
NCKH - SV - 2019 - Ban Cuoi
NCKH - SV - 2019 - Ban Cuoi
HÀ NỘI, 5-2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA TRẮC ĐỊA – BẢN ĐỒ VÀ THÔNG TIN ĐỊA LÝ
HÀ NỘI, 5-2019
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Bảng 2.1. Một số thông tin của các trạm DGNSS/CORS (nguồn [6]).............................52
Bảng 3.1. Tọa độ các điểm sau bình sai...........................................................................61
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá độ chính xác đo kiểm tra RTK sử dụng tín hiệu CORS.......63
DANH MỤC HÌNH, ĐỒ HÌNH
Hệ thống thiết bị sử dụng thu tín hiệu vệ tinh GNSS ngày càng phát triển dẫn
tới sự thuận tiện cho người đo đạc khảo sát. Nếu cần độ chính xác cao và đo đạc nhanh
chóng thì ta cần có bộ máy GPS gồm 01 máy tĩnh (BASE) đặt tại điểm gốc (điểm mốc
địa chính nhà nước hoặc đường chuyền hạng IV trong công trình), được cài đặt tọa độ
điểm gốc (VN-2000) và các tham số tính chuyển từ hệ toạ độ quốc tế WGS-84 về hệ
toạ độ VN-2000, có thể một hay nhiều máy động (ROVER) đặt tại điểm cần xác định
toạ độ. Các máy động sẽ đồng thời thu tín hiệu từ vệ tinh và thu tín hiệu được phát đi
từ điểm gốc đặt máy Base. Chúng ta có thể lựa chọn phương pháp đo động khác nhau
là RTK ( đo động xử lý ngay) hay PPK ( đo động xử lý sau)
Ngày nay viêc ứng dụng phương pháp đo động RTK đã và đang được ứng dụng
trong các các lĩnh vực khảo sát địa hình và đo đạc địa chính khu vực ngoài dân cư. Các
trạm CORS đang dần thay thế trạm GPS tĩnh (BASE) đặt tại các gốc. Độ chính xác sai
số vị trí điểm trong phương pháp đo RTK đã được một số tài liệu nghiên cứu công bố
có thể đạt được dưới 0.04m, tuy nhiên tùy vào đặc trưng địa hình, địa vật một số khu
vực ở Việt Nam mà sai số này có thể nhỏ hay xấp xỉ hoặc bằng với giá trị đó. Để tăng
độ tin cậy về độ chính xác của hệ thống RTK trong một số nghiên cứu trước đó, nhóm
tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “ Khảo sát độ chính xác công nghệ đo GPS
RTK, thực nghiệm tại khu vực Hà Nội”. Đề tài sẽ là cần thiết để có những đánh giá cụ
thể hơn, từ đó giúp người đo đạc khảo sát có thể sử dụng phương pháp đo RTK cho
các ứng dụng, thỏa mãn độ chính xác đặt ra.
Nội dung đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan hệ thống GNSS và công nghệ thu nhận tín hiệu vệ tinh GPS.
Chương 2: Giải pháp sử dụng công nghệ đo GPS RTK kết hợp công nghệ trạm CORS.
Chương 3: Thực nghiệm khảo sát độ chính xác hệ thống GPS RTK.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN HỆ THỐNG GNSS VÀ CÔNG NGHỆ THU NHẬN
TÍN HIỆU VỆ TINH GPS
(a) (b)
(c) (d)
Hình 1.7. Đoạn điều khiển của GNSS (thứ tự GPS, Glonass, BeiDou, Galileo)
Đoạn điều khiển của hệ thống GNSS bao gồm một mạng lưới rộng khắp những
trạm theo dõi (Base Station), với một trạm điều khiển chính (MCS-Master Control
Station). Nhiệm vụ ban đầu của phân đoạn điều khiển là theo dõi dấu vết của những vệ
tinh để định vị và tiên đoán vị trí vệ tinh, tình trạng hệ thống, hoạt động của đồng hồ
nguyên tử, dữ liệu khí quyển, niên giám vệ tinh (the satellite almanac) (tín hiệu này
chứa những thông tin về vị trí của vệ tinh trên quỹ đạo và được lưu vào bộ nhớ của
máy thu, khi vệ tinh di chuyển thì các thông tin này cũng liên tục được cập nhật vào
máy thu cùng với qua các tín hiệu mà nó gửi đi) . Thông tin cải chính từ trạm điều
khiển chính sẽ đóng gói và truyền tải lên những vệ tinh GNSS thông qua trạm cập nhật
dữ liệu (Data Uploading Station).
1.1.4. Phân đoạn sử dụng (User segment)
Đoạn sử dụng bao gồm tất cả các máy móc, thiết bị thu nhận thông tin từ vệ
tinh để khai thác sử dụng cho các mục đích và yêu cầu khác nhau của khách hàng kể
cả trên trời, trên biển và trên đất liền. Đó có thể là một máy thu riêng biệt hoạt động
độc lập (trường hợp định vị tuyệt đối) hay một nhóm gồm từ 2 máy thu trở lên hoạt
động đồng thời theo một lịch trình thời gian nhất định (trường hợp định vị tương đối)
hoặc hoạt động theo chế độ một máy thu đóng vai trò máy chủ phát tín hiệu vô tuyến
hiệu chỉnh cho các máy thu khác (trường hợp định vị vi phân). Đó còn là cả một hệ
thống dịch vụ đạo hàng GPS đa năng trên phạm vi toàn cầu hoặc ở từng khu vực đang
đuợc thiết lập ở một số nước phát triển.
1.2. Ứng dụng của GNSS
GNSS được sử dụng cho vô số các ứng dụng khác nhau. Ngày nay rất dễ dàng
nhận thấy sự hiện diện của GNSS trong mọi mặt của đời sống. Kết hợp giữa công nghệ
thông tin, hệ thống bản đồ số và thiết bị định vị vệ tinh đã tạo thành một hệ thống dẫn
đường lý tưởng. Trong lĩnh vực hàng không, 100% các máy bay thương mại và quân
sự sử dụng hệ thống dẫn đường tự động bằng GNSS.
Hình 1.11. Hình ảnh trạm CORS trong đo đạc thủy văn
Công nghệ GNSS cũng được ứng dụng rất nhiều trong lĩnh vực thám hiểm
không gian bao gồm việc định vị và định hướng bay của các phương tiện không gian
khác có mang theo những máy thu phát địa lý hoặc trắc địa. Các ứng dụng cho quân
đội bao gồm dẫn hướng hàng không, hàng hải và trên bộ. Ngoài ra, các vệ tinh của
GNSS còn mang theo các bộ thu phát để khám phá và hiển thị các vụ nổ hạt nhân.
Một ứng dụng nữa của GNSS chính là việc quản lý thú hoang dã bằng cách gắn
lên chúng những con chip đã tích hợp GNSS. Tất cả hoạt động của chúng sẽ được
kiểm soát chặt chẽ. Việt Nam cũng đang tiến hành thử nghiệm để áp dụng vào việc
quản lý đàn sếu đầu đỏ ở miền Tây,.v.v.
1.3. Công nghệ thu nhận tín hiệu GPS
1.3.1. Nguyên lý cấu tạo của máy thu GPS
Để định vị GPS phải có máy thu GPS. Máy thu có các chức năng theo dõi, thu
nhận, xử lý chuyển đổi và ghi số liệu đo. Cấu tạo chung của các máy thu GPS trên thị
trường được miêu tả như Hình 1.12.
Ăng ten
Bộ nguồn
Hình 1.12. Sơ đồ cấu tạo và hình ảnh của máy thu GPS
Hình 1.13. Máy thu GNSS có độ chính xác cao: Trimble 5800 , GPS Topcon GB500.
+ Độ chính xác trung bình: đây là loại máy thu một tần số, có cấu tạo đơn giản
dễ mang vác và dễ sử dụng cho thu thập dữ liệu phục vụ bản đồ và GIS. Ví dụ như
Trimble Geo-explorer XT, Ashtech Reliance
Hình 1.14. Máy thu GNSS có độ chính xác trung bình: Trimble GeoExplorer XT/XH
6000, Ashtech Promark 200 GNSS RTK
+ Độ chính xác thấp: cũng là loại máy thu một tần số nhưng có cấu tạo gọn nhẹ
nhất (thường là máy thu cầm tay) và rẻ tiền nhất thường được dùng cho các mục đích
định vị hàng hải, du lịch, … Ví dụ Lowrance 200, Garmin III+, Magenlan.
Hình 1.15. Máy thu GNSS có độ chính xác thấp: Garmin GPS III, Lowrance 200
1.4. Chi tiết về GPS
Để có thể định vị hoặc tìm vị trí của người sử dụng với GPS thì đòi hỏi cần phải
hiểu về cấu trúc tín hiệu GPS và phương pháp đo đạc được thực hiện. Hơn thế nữa, khi
tín hiệu GPS được thu thông qua bộ thu GPS, hiểu về khả năng và những giới hạn của
các dạng bộ thu GPS khác nhau là điều cần thiết. Ngoài ra, khi đo lường GPS, giống
như tất cả những sự đo lường khác đều có lỗi, mà có thể được loại bỏ hoặc giảm thiểu
bằng cách kết hợp nhiều sự quan sát GPS khác nhau.
1.4.1. Cấu trúc tín hiệu GPS
Mỗi vệ tinh GPS đều phát đi tín hiệu vô tuyến được tạo thành từ hai tần số sóng
mang (hoặc là sóng sin); hai thành phần sóng mang này dùng để điều chế hai bộ mã và
một thông điệp điều hướng (Hình 1.16). Hai tần số sóng mang được phát tại 1,575.42
Mhz (L1) và 1,227.60 Mhz (L2). Bước sóng tương ứng lần lượt là ~ 19 cm và ~24.4
cm, xác định được kết quả này là từ mối quan hệ giữa tần số sóng mang và tốc độ của
ánh sáng trong không gian. Lợi ích từ hai tần số sóng mang cho phép điều chỉnh một
lỗi GPS nghiêm trọng, gọi là trì hoãn tầng điện ly. Tất cả những vệ tinh GPS đều phát
cùng một cặp tần số sóng mang L1 và L2. Tuy nhiên, điều chế mã thì khác nhau đối
với từng vệ tinh, do đó cần tối thiểu hóa một cách đáng kể nhiễu vệ tinh.
L1 = 154 x 10.23 = 1575.42 Mhz
L2 = 120 x 10.23 = 1227.60 Mhz
Sóng mang L1
Hình 1.22. Full: số bước sóng đầy đủ của song mang; Final portion:độ dịch pha
Rõ ràng rằng, nếu vấn đề tham số ambiguity được giải quyết, khoảng cách
chính xác có thể đo được, kết quả là sự định vị chính xác. Định vị chính xác có thể đạt
được thông qua những kỹ thuật định vị tương đối trong thời gian thực hoặc trong chế
độ xử lý sau. Không may là để đạt được điều này, đòi hỏi phải có hai bộ thu GPS theo
dõi liên tục cùng một vệ tinh hiện hữu trong tầm nhìn.
1.4.4. Trượt chu kỳ (cycle slip)
Trượt chu kỳ là sự gián đoán hoặc một cú nhảy nào đó bên trong đo lường pha
sóng mang, gây ra bởi sự mất mát tín hiệu tạm thời (Hình 1.23). Mất mát tín hiệu liên
quan đến những chướng ngại vật mà cản trở tín hiệu vệ tinh GPS như là: những tòa
nhà, cây, cầu và nhiều đối tượng khác. Chủ yếu là do tín hiệu GPS yếu và sự can nhiễu
tín hiệu. Trượt chu kỳ cũng có thể bị gây ra bởi những trục trặc của chính bộ thu.
Trượt chu kỳ có thể xảy ra trong một thời gian ngắn hoặc có thể duy trì trong
vài phút, thậm chí có thể hơn. Trượt chu kỳ có thể ảnh hưởng đến một tín hiệu vệ
tinh hoặc nhiều hơn. Trượt tín hiệu phải được nhận dạng hoặc được điều chỉnh để mà
tránh gây lỗi lớn đến những tọa độ định vị được tính toán. Có vài phương pháp để
thực hiện điều này. Kiểm tra quan sát sai phân bộ ba (triple difference observable),
phương pháp này có thể được định hình bằng cách kết hợp những quan sát GPS khác
nhau theo m ột cách nào đó, đây là phương pháp phổ biến nhất trong thực tế. Giá trị
trượt tín hiệu (cycle slip) sẽ chỉ duy nhất ảnh hưởng đến một sai phân bộ ba (triple
difference) và do đó nó sẽ chỉ xuất hiện như một giá trị trong chuỗi dữ liệu sai phân
bộ ba. Trong một vài trường hợp trượt tín hiệu xảy ra khi tín hiệu truyền trong tầng
điện ly, thật khó để dò ra và sửa chữa một cách chính xác trượt tín hiệu (cycle slip)
sử dụng phương pháp quan sát sai phân bộ ba (triple difference observable). Kiểm tra
lại độ dư thừa điều chỉnh (adjustment residuals) có thể có ích trong việc dò ra bất kỳ
trượt chu kỳ còn lại nào.
Hình 1.24. Một vài phương pháp kết hợp tuyến tính GPS
Tương tự, khi tiến hành đo đạc hai lần sử dụng cùng một bộ thu GPS quan sát
hai vệ tinh khác nhau, số liệu đo đạc được sẽ có cùng lỗi đồng hồ bộ thu. Do đó, tìm
kiếm sự sai biệt giữa hai thông số đo đạc này sẽ có thể loại bỏ được lỗi đồng hồ bộ thu.
Sự sai biệt này gọi là sự sai biệt đơn giữa những vệ tinh (between-satellite single
difference). Khi hai bộ thu quan sát hai vệ tinh một cách đồng thời, kết quả thu được
sẽ là hai sai biệt đơn giữa những bộ thu (between-receiver single difference). Lấy hai
số liệu này trừ cho nhau, kết quả thu được gọi là sự sai biệt đôi (double difference).
Phương pháp này loại bỏ gần như hoàn toàn lỗi đồng hồ của bộ thu và vệ tinh, lỗi khác
cũng được giảm thiểu một cách đáng kể. Ngoài ra, phương pháp này giúp duy trì bản
chất số nguyên của các tham số ambiguity. Do đó, nó được sử dụng trong chế độ định
vị GPS chính xác dựa trên pha sóng mang.
Một phương pháp kết hợp tuyến tính quan trọng khác gọi là “sai phân bộ ba”
(“triple difference”), đây là kết quả từ việc tính hiệu số giữa hai quan sát sai biệt đôi
(double-difference) qua hai khoảng thời gian. Tham số ambiguity duy trì không đổi
miễn là không có một trượt chu kỳ nào xảy ra (cycle slips). Như vậy, khi sử dụng
phương pháp sai phân bộ ba (“triple difference”), tham số ambiguity sẽ bị triệt tiêu.
Tuy nhiên, nếu có một trượt tín hiệu (cycle slip) trong dữ liệu, nó sẽ ảnh hưởng chỉ
duy nhất đến một sự quan sát sai phân bộ ba (triple-difference), và do đó sẽ xuất hiện
như là một gai trong chuỗi dữ liệu sai phân bộ ba (triple -difference). Vì lý do này mà
phương pháp kết hợp tuyến tính hai sai phân bộ ba (triple -difference) được sử dụng để
dò ra những trượt tín hiệu (cycle slip).
Tất cả các phương pháp kết hợp tuyến tính này có thể được sử dụng chỉ với dữ
liệu đơn tần, đó có thể là dữ liệu quan sát pha-sóng mang hoặc dữ liệu quan sát đo
khoảng cách giả (pseudoranges). Nếu dữ liệu song tần sẵn dùng, ta có thể sử dụng
những phương pháp kết hợp tuyến tính khác. Một trong những phương pháp kết hợp
tuyến tính là phương pháp kết hợp tuyến tính tự do-tầng điện ly (ionosphere-free linear
combination). Kết hợp những quan sát tự do-tầng điện ly (ionosphere-free) với những
thông số L1 và L2 có thể khử được hiệu ứng của tầng điện ly. Ngoài ra, những số liệu
thu được từ đo đạc pha của sóng mang L1 và L2 có thể kết hợp với một tham số gọi là
quan sát đường rộng (wide-lane), đây là tín hiệu nhân tạo với bước sóng khoảng 86cm.
Tín hiệu với bước sóng dài này được sử dụng trong phân tích những tham số
ambiguity.
1.4.6. Những dạng lỗi của GPS
Cả đo khoảng cách giả GPS và những đo đạc pha sóng mang đều bị ảnh hưởng
bởi các lỗi (errors and biases). Những lỗi này có thể được phân lớp dựa vào nguồn gốc
phát sinh tại vệ tinh, tại bộ thu, nguồn gốc phát sinh liên quan đến quá trình truyền tín
hiệu (như là độ khúc xạ của khí quyển)
Những lỗi nguồn gốc từ vệ tinh bao gồm lịch vệ tinh hoặc còn gọi là lỗi quỹ
đạo (vì vệ tinh có thể đi chệch quỹ đạo chút ít nên trạm điều khiển mặt đất sẽ lưu giữ
các thông tin về quỹ đạo, độ cao, vị trí và tốc độ của vệ tinh. Những thông tin này từ
vệ tinh phát xuống trung tâm điều khiển, ở đây nó sẽ được xử lý và gửi lên vệ tinh để
hiệu chỉnh, thông tin chính xác sau khi được xử lý thường theo tần xuất 4÷6 giờ/ 1lần
được gọi là lịch vệ tinh và sẽ được gửi theo tín hiệu vệ tinh đến máy thu), những lỗi
đồng hồ vệ tinh, và ảnh hưởng của lỗi nhân tạo SA. SA được cố tình đưa vào bởi Bộ
quốc phòng Hoa Kỳ (U.S, DoD) nhằm làm suy giảm tính chính xác của hệ thống GPS
tự trị vì những lý do bảo mật. Tuy nhiên, SA đã bị loại bỏ vào ngày 1/5/2000. Những
lỗi có nguồn gốc tại bộ thu bao gồm: lỗi đồng hồ bộ thu, lỗi đa đường, nhiễu bộ thu, và
những thay đổi pha trung tâm của anten. Lỗi truyền tín hiệu bao gồm trì hoãn tín hiệu
GPS khi đi qua tầng điện ly và tầng đối lưu của bầu khí quyển. Thực tế, chỉ duy nhất
trong môi trường chân không (không gian tự do), tín hiệu GPS mới di chuyển hoặc
truyền dẫn được với tốc độ ánh sáng.
Hình 1.27. Những thay đổi vị trí định vị sau khi loại bỏ SA
Mặc dù sự kiện loại bỏ SA không ảnh hưởng nhiều đến độ chính xác của
DGPS, nhưng cũng giúp ích trong việc giảm chi phí cài đặt và điều hành hệ thống
DGPS. Nguyên nhân chủ yếu bởi sự suy giảm đối với tốc độ truyền dẫn theo yêu cầu.
c. Lỗi đồng hồ bộ thu và đồng hồ vệ tinh
Mỗi vệ tinh GPS Khối II và Khối IIA đều có 4 đồng hồ nguyên tử: 2 đồng hồ
cesium và 2 đồng hồ rubidium. Những thế hệ vệ tinh mới hơn, Khối IIR, chỉ có duy
nhất đồng hồ loại rubidium. Một trong những đồng hồ này, ban đầu là đồng hồ cesium
đối với cả Khối II và Khối IIA, được lựa chọn để cung cấp tần số và những yêu cầu về
thời gian nhằm phát ra tín hiệu GPS. Những cái còn lại chỉ là dự phòng.
Những đồng hồ vệ tinh GPS, mặc dù có độ chính xác cao, nhưng lại không
hoàn hảo. Độ ổn định trong khoảng từ 10-13 hoặc 2 x 10-13 qua mỗi chu kỳ một ngày.
Do đó, lỗi đồng hồ vệ tinh vào khoảng 8.64 đến 17.28ns mỗi ngày. Lỗi khoảng cách
tương ứng vào khoảng 2.59 m đến 5.18 m, ta có thể dễ dàng tính toán bằng cách thực
hiện phép nhân lỗi đồng hồ với tốc độ ánh sang (~299,729,458m/s). So sánh với đồng
hồ rubidium, những đồng hồ cesium có khuynh hướng hoạt động tốt hơn qua mỗi chu
kỳ thời gian dài hơn. Trong thực tế, độ ổn định của đồng hồ cesium qua mỗi chu kỳ 10
ngày hoặc hơn tăng lên nhiều. Hoạt động của đồng hồ vệ tinh được giám sát bởi trạm
điều khiển mặt đất. Giá trị sai lệch được tính toán, rồi phát đi như một phần của thông
điệp điều hướng dưới dạng ba hệ số của một đa thức bậc hai.
Lỗi đồng hồ vệ tinh khiến cho đo đạc GPS đã sai số lại càng sai số hơn. Những
lỗi này phổ biến đối với tất cả người sử dụng GPS đang quan sát cùng một vệ tinh và
có thể được loại bỏ thông qua phương pháp lấy sai phân những quan sát bộ thu. Điều
chỉnh lại giá trị đồng hồ vệ tinh trong thông điệp điều hướng cũng chính là điều chỉnh
lại lỗi đồng hồ vệ tinh. Tuy nhiên, biện pháp điều chỉnh này gây ra sai số khoảng vài
nano giây, tương ứng với lỗi tầm trong khoảng vài mét (lỗi một nano giây tương ứng
với lỗi tầm khoảng 30 cm).
Trái lại, những bộ thu GPS chỉ sử dụng đồng hồ thạch anh, có độ chính xác thấp
hơn nhiều so với đồng hồ nguyên tử. Như vậy, lỗi đồng hồ bộ thu sẽ lớn hơn nhiều so
với lỗi đồng hồ vệ tinh. Tuy nhiên, có thể loại bỏ lỗi này thông qua tính sai phân gi ữa
những vệ tinh khác nhau, hoặc có thể xem đây như là một tham số vô danh nào đó
trong tiến trình đánh giá. Những đồng hồ ngoại chính xác hơn (thường là cesium hoặc
là rubidium) được sử dụng trong một vài ứng dụng thay thế cho những đồng hồ thạch
anh nội. Mặc dù đồng hồ nguyên tử ngoại có khả năng hoạt động chính xác hơn nhiều,
nhưng chúng lại rất đắt tiền, trị giá đến vài ngàn Dollar cho đồng hồ loại rubidium,
$20,000 đối với đồng hồ cesium.
d. Lỗi đa đường dẫn(multipath):
Hình 2.3. Trạm tham chiếu đặt trên nhà cao tầng
b. Trạm xử lý trung tâm
Trạm xử lý trung tâm gồm hệ thống một hoặc nhiều máy chủ có chức năng:
- Tiếp nhận dữ liệu do các trạm tham chiếu chuyển đến;
- Xử lý các dữ liệu tiếp nhận để xác định các thông tin hiệu chỉnh tại các trạm
trạm tham chiếu;
- Chuyển thông tin hiệu chỉnh sau xử lý tới người sử dụng.
c. Người sử dụng:
Phần người sử dụng bao gồm các máy thu GPS có khả năng thu nhận tín hiệu từ
trạm CORS và phần mềm xử lý tích hợp. Người sử dụng có thể sử dụng trạm CORS
với phương pháp đo động RTK hoặc xử lý sau PPK.
Dữ liệu có thể được truyền tới người sử dụng thường bằng:
- Tín hiệu radio;
- Internet;
- Tín hiệu điện thoại di động;
- Tín hiệu sóng vô tuyến từ vệ tinh địa tĩnh.
2.1.3. Các kỹ thuật trạm CORS hiện có
a. Kỹ thuật trạm tham chiếu ảo (Virtual Reference Station – VRS)
- Nguyên tắc hoạt động:
+ Máy thu di động gửi vị trí gần đúng đến bộ xử lý trung tâm.
+ Bộ xử lý trung tâm chọn ra 3 trạm tham chiếu xung quanh khu vực máy thu di
động, dựa vào mô hình hiệu chỉnh để tạo ra một trạm tĩnh ảo ở gần máy thu di động.
+ Trạm tĩnh ảo hoạt động như kỹ thuật để truyền dữ liệu tới các máy đo di động.
Hình 2.5. Trạm tham chiếu ảo trong công nghệ CORS
- Đặc điểm kỹ thuật:
+ Mô hình hóa được sai số của tầng điện ly, tầng đối lưu và quỹ đạo vệ tinh;
+ Truyền dữ liệu hai chiều;
+ Dễ dàng giám sát và quản lý các trạm di động;
+ Khả năng truyền dữ liệu giống kỹ thuật.
b. Kỹ thuật hiệu chỉnh khu vực (Flächen Korrektur Parameter – FKP)
Nguyên tắc hoạt động: Kỹ thuật này sử dụng thông tin từ các trạm quy chiếu để
có được tham số tuyến tính mô tả các sai số do ảnh hưởng của quỹ đạo và tầng khí
quyển. Các tham số này được truyền đến trung tâm xử lý để nội suy các sai số ứng với
từng khu vực khác nhau. Ngoài ra, kỹ thuật này cũng có thể sử dụng cách khác: trạm
rover nhận được các tọa độ của các trạm quy chiếu từ trạm xử lý trung tâm và lựa
chọn trạm tham chiếu phù hợp nhất.
Hình 2.7. Kỹ thuật phối hợp trạm phụ trợ và trạm chính
Tổng số trạm CORS được xây dựng là 65 trạm, trong đó có 24 trạm Geodetic
CORS phân bố đều trên toàn lãnh thổ Việt Nam với khoảng cách giữa các trạm từ
150km đến 200km (Hình 2.10) và 41 trạm NRTK CORS tại các khu vực trọng điểm
với mật độ từ 50km đến 80km/trạm. Trong đó Miền Bắc 14 trạm; Miền Trung 7 trạm;
Tây Nguyên và Nam Bộ 20 trạm và 01 Trạm xử lý và điều khiển trung tâm tại Hà Nội
(Hình 2.11). Tiếp sau đó sẽ từng bước chêm dày các trạm NRTK CORS tại các khu
vực còn lại tiến tới phủ trùm trên toàn lãnh thổ. Khi dự án hoàn thành sẽ làm thay đổi
cơ bản hạ tầng đo đạc theo xu hướng hiện đại và đáp ứng độ chính xác cao.
Hình 2.11. Vị trí các trạm Network RTK CORS của Dự án (nguồn[5])
Vị trí các trạm CORS đa số được xây dựng trong khuân viên của các Đài/Trạm
Khí tượng thủy văn thuộc Tổng Cục Khí tượng thủy văn do đó công tác bảo quản, vận
hành các trạm gặp nhiều thuận lợi.
Để đảm bảo cơ sở toàn học nhất quán cho toàn bộ hệ thống, đã sử dụng giải
pháp Network Base từ tất cả vệ tinh của các hệ thống GNSS (GPS, GLONASS,
Galileo, Beidou, QZSS) thay vì giải pháp Single Base để cung cấp số cải chính cho
điểm đo chi tiết, với giải pháp này cho phép mô hình hóa và cải chính tầng đối lưu,
tầng điện ly đồng đều, nhất quán theo thời gian thực trên toàn bộ không gian phủ trùm
các trạm NRTK CORS, đồng thời với phương pháp cải chính VRS sẽ luôn được sử
dụng từ tối thiểu 3 trạm CORS còn các phương pháp cải chính khác như MAX và
iMAX thì ngoài điểm CORS làm tham chiếu chính ra thì luôn có tối thiểu 2 trạm
CORS tham chiếu phụ khác đảm bảo luôn có các trị đo thừa.
Ngoài ra, hệ thống cũng luôn tính toán lời giải Fixed từ trên 30 vệ tinh của các
hệ thống GNSS hiện hữu tại các trạm CORS để cung cấp số cải chính RTK cho các
máy Rover đang kết nối.
Dịch vụ cải chính RTK theo các phương pháp đa dạng gồm MAX, iMAX,
VRS, FKP, hỗ trợ các định dạng cải chính khác nhau như CMR / CMR +, RTCM 2.x
và RTCM 3x theo giao thức phổ cập NTRIP.
Dịch vụ xử lý sau cho dữ liệu GNSS đo tĩnh, tĩnh nhanh và đo động trên giao
diện Web trực tuyến, cho phép lựa chọn hệ tọa độ đích.
Dịch vụ Virtual Rinex xử lý sau trực tuyến các trạm CORS ảo ngay trên giao
diện Web
Dịch vụ FTP cho phép Download dữ liệu GNSS tại các trạm CORS và các
thông tin, dữ liệu phụ trợ khác
Dịch vụ cho phép tra cứu tình trạng hoạt động thu tín hiệu, sơ đồ vị trí và các
thông tin liên quan tại các trạm CORS.
Hình 2.12. Dịch vụ tra cứu thông tin trạm CORS trên giao diện Web
Dịch vụ trực tuyến giám sát hoạt động thu tín hiệu và cải chính của các máy
Rover đo RTK. Hỗ trợ kịp thời cho người sử dụng ngay ngoài thực địa.
Dịch vụ truyền trực tiếp các tham số tính chuyển tọa độ và mô hình Geoid cho
các Rover đo RTK.
b. Các trạm GNSS CORS của Cục Bản đồ - Bộ Tổng Tham mưu
Để phục vụ cho việc xây dựng hệ quy chiếu, hệ tọa độ quân sự, Cục Bản đồ Bộ
Tổng Tham mưu (BTTM) đã xây dựng và đưa vào sử dụng 06 trạm cơ sở thường trực
DGNSS/CORS. Các trạm này có 2 chức năng: chức năng DGNSS nhằm nâng cao độ
chính xác định vị và chức năng đo liên tục CORS [5]. Một số thông tin về các trạm
DGNSS/CORS của Cục Bản đồ được thống kê trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Một số thông tin của các trạm DGNSS/CORS (nguồn [6])
Thời gian
STT Tên trạm Tần số phát Công suất Vị trí bất đầu
hoạt động
Trạm CSTT
1 286KHZ 1.500W TP. Móng Cái 7/2011
Móng Cái
Trạm CSTT
2 297KHZ 1.500W P. Vinh 3/2014
Nghệ An
Trạm CSTT
3 296KHZ 1.500W TP. Đà Nẵng 10/2010
Đà Nẵng
Trạm CSTT
4 287KHZ 1.500W TP.Cam Ranh 2/2014
Cam Ranh
Trạm CSTT Huyện Đảo
5 285KHZ 1.500W 4/2012
Trường Sa Trường Sa
Trạm CSTT Huyện Đảo
6 288KHZ 1.500W 1/2011
Phú Quốc Phú Quốc
Các trạm DGNSS/CORS được bố trí rải đều trên toàn lãnh thổ Việt Nam (Hình
2.12). Bốn trạm trên đất liền đặt tại Móng Cái, Nghệ An, Đà Nẵng, Cam Ranh và 02
trạm trên đảo tại đảo Trường Sa, đảo Phú Quốc. Phạm vi phủ sóng DGNSS của các
trạm DGNSS/CORS khoảng 500km. Tất cả các tàu di chuyển trong vùng biển Việt
Nam đều có thể thu được tín hiệu DGNSS phát ra từ một trong sáu trạm
DGNSS/CORS nêu trên [5].
Hình 2.12. Sơ đồ bố trí các trạm DGNSS/CORS (nguồn [6])
Hệ thống các trạm DGNSS/CORS này được thiết kế dựa trên các tiêu chí [5]:
- Về phương thức quản lý: Quản lý, điều hành tập trung, xử lý phân tán nhưng
sẵn sàng nâng cấp lên hình thức quản lý tập trung, xử lý tập trung với chất lượng dịch
vụ cao hơn.
- Về kiến trúc: Có kiến trúc mở đảm bảo tính mềm dẻo trong mối quan hệ tương
hỗ giữa các hợp phần nhằm hỗ trợ phát triển cấu trúc trong tương lai với các hợp phần
cũng có cấu trúc mở để dễ dàng nâng cấp khi cần.
- Về tính năng: Ưu việt hơn các hệ thống hiện hành về độ chính xác, tính khả
dụng, độ toàn vẹn, tính liên tục, độ tin cậy, số lượng dịch vụ.
- Về công nghệ, trang bị: Ứng dụng được các công nghệ, trang bị hiện đại, tiên
tiến, có hướng mở, có khả năng tương thích cao.
- Về khả năng ứng dụng: Phù hợp với chuẩn quốc tế, kết nối được với hệ thống
cũ, hỗ trợ tích hợp các ứng dụng đa ngành.
Hiện nay, hệ thống các trạm DGNSS/CORS đã đi vào hoạt động. Hệ thống này
sử dụng giải pháp công nghệ Charisma với trạm điều hành, xử lý trung tâm, có mạng
kết nối. Dữ liệu được độc lập xử lý và phát tại mỗi trạm. Hệ thống sẵn sàng cho việc
xử lý tập trung dữ liệu tại trạm trung tâm và phát tại mỗi trạm riêng biệt, có hệ thống
dự phòng. Máy thu và ăngten GNSS hỗ trợ đa hệ (GPS, GLONASS, GALILEO) và đa
tín hiệu (L1, L2, L1C, L2C, L5). Hệ thống có chức năng hỗ trợ nén số liệu phát để tiết
kiệm băng thông, tạo điều kiện cài thêm các loại hình dịch vụ mới. Mỗi trạm có tầm
phát hiệu quả không dưới 500 km, hỗ trợ các chuẩn quốc tế của các tổ chức như
RTCM, IALA, IMO. Hệ thống sử dụng các kết nối giữa các thiết bị và trong toàn hệ
thống theo chuẩn TCP/IP [5].
Năm 2016, Cục Bản đồ BTTM đã lắp đặt thêm 07/35 trạm GNSS CORS khu vực
Miền Bắc thuộc dự án "Xây dựng các trạm GNSS CORS phủ trùm lãnh thổ Việt Nam
phục vụ cho các nhiệm vụ của Quân đội". Dự kiến đến năm 2018 sẽ hoàn thành lắp đặt
toàn bộ 35 trạm GNSS CORS trên phạm vi lãnh thổ và trên một số đảo của Việt Nam.
Tất cả 35 trạm GNSS CORS này, kết hợp với 06 trạm DGNSS (hoàn thành năm 2013)
và 01 trạm GNSS CORS tại Hà Nội (hoàn thành năm 2014) được kết nối với trạm xử lý
trung tâm tại Hà Nội thông qua mạng truyền số liệu quân sự của Bộ Tư lệnh Thông tin
liên lạc, tạo thành mạng lưới trắc địa quân sự cơ sở của Bộ Quốc phòng [5].
Ngoài các trạm CORS của hai đơn vị được giới thiệu trên đây còn có các trạm
khác do các công ty, các tổ chức tự đầu tư, xây dựng nhằm phục vụ cho lợi ích nội bộ.
Với hệ thống trạm CORS được xây dựng và vận hành theo đúng kế hoạch của
Dự án sẽ tạo nên một phương tiện vô cùng hữu hiệu về mặt kỹ thuật và kinh tế trong
việc giải quyết các vấn đề khoa học và thực tiễn. Điển hình như các vấn đề thuộc lĩnh
vực trắc địa, địa chính, giao thông, xây dựng, an ninh, quốc phòng, cứu hộ, cứu nạn,
giám sát môi trường, quan trắc chuyển dịch của vỏ trái đất, quan trắc chuyển dịch biến
dạng công trình, dự báo động đất, sóng thần, dự báo thời tiết,...
2.2. Công nghệ đo GPS RTK kết hợp trạm CORS
2.2.1. Phương pháp do GPS RTK
Phương pháp đo GPS RTK là một kỹ thuật định vị tương đối dựa trên pha sóng
mang, giống như những phương pháp trước đó, nó sử dụng hai bộ thu (hoặc nhiều
hơn) để quan sát đồng thời cùng một vệ tinh. Phương pháp này thích hợp khi:
- Việc quan sát có nhiều điểm chưa xác định nhưng có vị trí gần một điểm đã
xác định nào đó (trong vòng bán kính khoảng 10 -15 km).
- Tọa độ những điểm chưa xác định được yêu cầu trong thời gian thực.
- Tầm nhìn, đường truyền không có chướng ngại vật. Nhờ vào tính dễ sử dụng
cũng như khả năng mô tả tọa độ trong thời gian thực, đây là phương pháp hoàn hảo đối
với người sử dụng.
Hình 2.14. Công nghệ đo GPS RTK kết hợp trạm Cors với giao thức 3G
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM KHẢO SÁT ĐỘ CHÍNH XÁC HỆ THỐNG GPS RTK
Hình 3.5. Số liệu dưới dạng file RINEX tại 1 điểm đo lưới
Kết quả đồ hình lưới chuẩn trên phần mềm TBC
Và
Bảng 3.1. Tọa độ các điểm sau bình sai
Tọa độ, Độ cao Sai số vị trí điểm
STT Số hiệu điểm
x(m) y(m) h(m) mx(m) my(m) mh(m) mp(m)
1 4548 2332590.893 581018.697 8.104 ------ ------ ------ ------
2 DHMDC 2331091.382 580178.107 27.916 0.002 0.002 0.009 0.003
3 GPS-C 2329985.972 581381.351 6.710 0.002 0.002 0.009 0.003
4 GPS-D 2330690.947 581501.440 8.267 0.003 0.002 0.012 0.004
5 GPS-O 2330574.866 582444.075 7.233 ------ ------ 0.009 ------
6 THUC 2330440.991 581632.529 7.255 0.003 0.003 0.013 0.004
3.3.2. Đo kiểm tra độ chính xác RTK với tín hiệu trạm CORS.
Để kiểm tra kết quả RTK với trạm CORS, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đo RTK
sử dụng tín hiê ̣u từ trạm CORS đặt tại đại học Mỏ Địa chất để đo kiểm tra tất cả các
điểm mốc chuẩn được xây dựng và đo kiểm tra vào các mốc gốc 4548 và GPS-O. Ngoài
ra, để đánh giá ảnh hưởng của khoảng cách RTK - CORS để sai số vị trí điểm, nhóm
nghiên cứu còn tiến hành đo kiểm tra vào các mốc đã biết tọa độ là điểm DC-43 và điểm
KIM CHUNG thuộc xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Hình 3.7. Nhóm nghiên cứu cùng với thiết bị Base và Rover tại công viên Hòa Bình
Hình 3.9. Quá trình đo RTK sử dụng tín hiệu trạm CORS DHMDC
Kết thúc quá trình thực nghiệm tại các điểm ta sẽ thu được tọa độ, độ cao và
thời gian fixed điểm tại các vị trí điểm kiểm tra. Kết quả đo RTK được thống kê và so
sánh với số liệu gốc ( tọa độ sau bình sai các điểm trên lưới chuẩn và 2 điểm đã biết tọa
độ DC-43, điểm KIM CHUNG) ở Bảng 3.2 dưới đây.
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá độ chính xác đo kiểm tra RTK sử dụng tín hiệu CORS
Khoảng Tọa độ mốc chuẩn Tọa độ đo kiểm tra RTK fixed
MX My Mh
Tên điểm cách đến time
X(m) Y(m) H(m) X(m) Y(m) H(m) (m) (m) (m)
Base(m) (s)
DHM DC 2331091.382 580178.107 27.916
4548 1719 2332590.893 581018.697 8.104 2332590.899 581018.683 8.125 -0.006 0.014 -0.021 6
GPS-C 1634 2329985.972 581381.351 6.710 2329985.952 581381.357 6.765 0.020 -0.006 -0.055 5
GPS-D 1383 2330690.947 581501.440 8.267 2330690.954 581501.452 8.348 -0.007 -0.012 -0.081 10
GPS-O 2324 2330574.866 582444.075 7.233 2330574.863 582444.076 7.232 0.003 -0.001 0.001 3
THUC 1593 2330440.991 581632.529 7.255 2330440.994 581632.519 7.267 -0.003 0.010 -0.012 3
DC-43 6247 2337324.482 579767.841 9.662 2337324.461 579767.836 9.685 0.021 0.005 -0.023 30
KIM
6455 2337529.729 580644.716 9.033 2337529.735 580644.682 9.038 -0.006 0.034 -0.005 200
CHUNG
3.3.4. Phân tích và đánh giá kết quả thử nghiệm
Từ kết quả thử nghiê ̣m trên, chúng tôi đã tiến hành phân tích đô ̣ chính xác đo
RTK với trạm CORS trên 2 phương diê ̣n: Ảnh hưởng của khoảng cách Base-Rover đến
độ chính xác vị trí mặt bằng, vị trí không gian và độ cao của điểm đo; Ảnh hưởng của
khoảng cách Base-Rover đến thời gian thu nhận được kết quả điểm đo (fixed điểm).
Từ kết quả ở Bảng 3.2, chúng ta thấy rằng khoảng cách Base-Rover trong bán
kính khoảng 6 km trở về không ảnh hưởng nhiều lắm đến độ chính xác của điểm đo.
Sai số vị trí mặt bằng, sai số vị trí không gian của điểm đều nhỏ hơn 4 cm, tuy nhiên
sai số độ cao của các điểm biến thiên không theo quy luật.
0.025
0.020
0.015
0.010
0.005
0.000
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
Khoảng cách đến Base (m)
Hình 3.10. Đồ thị ảnh hưởng khoảng cách Base-Rover đến sai số vị trí điểm
Kết quả ở bảng 3.2 cũng cho chúng ta thấy rằng thời gian fixed điểm phụ thuộc
rất nhiều vào độ thông thoáng địa hình, tuy nhiên khoảng cách Base-Rover càng lớn
cũng là yếu tố ảnh hưởng đến thời gian fixed điểm lâu hơn. Với khoảng cách đến Base
lớn hơn 6km như điểm DC-43 thời gian fixed điểm lên tới 30 giây, điểm KIM
CHUNG thời gian fixed điểm lên tới 200 giây.
fixed time(s)
250
200
Thời gian fixed(s)
150
100
50
0
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
Khoảng cách Base-Rover
Hình 3.11. Đồ thị ảnh hưởng khoảng cách Base-Rover đến thời gian fixed điểm
Đối với công tác trắc địa, trong trường hợp sai số giới hạn điểm đo chi tiết bản
đồ được xác định bởi công thức sau:
P=0,2(mm). M (3.1)
Trong đó: M là mẫu số tỉ lệ bản đồ.
Theo công thức (3.1) và kết quả so sánh Bảng 3.2 ta có thể khẳng định với sai
số vị trí mặt phẳng của điểm là 0.04m và sai số độ cao bằng 1/3 khoảng cao đều 0.5 m,
độ chính xác của hệ thống GPS RTK thử nghiệm này có thể sử dụng để thành lập các
loại bản đồ địa hình, địa chính tỷ lê ̣ lớn từ 1:500 với khoảng cách Base-Rover trong
khoảng 6 km.
Do đô ̣ chính xác và thời gian nhâ ̣n lời giải fixed của công nghê ̣ RTK-CORS chỉ
tốt trong điều kiê ̣n môi trường thông thoáng, nó có thể ứng dụng hiê ̣u quả nhất trong
đo đạc bản đồ ở các khu vực ngoài đô thị. Ngoài ra công nghê ̣ RTK-CORS cũng có thể
được ứng dụng trong viê ̣c bố trí vị trí các mốc thi công trong các công tác trắc địa
công trình và các công tác trắc địa liên quan khác.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Đề tài đã nghiên cứu nguyên lý và cơ sở khoa học của công nghê ̣ RTK sử
dụng trạm tham chiếu thường trực (CORS) và phân tích kết quả trên các phương diê ̣n
khác nhau.
- Đề tài đã tiến hành đo đạc thực nghiê ̣m, phân tích và đánh giá đô ̣ chính xác
cũng như những mối tương quan giữa khoảng cách đến CORS và các yếu tố về đô ̣
chính xác và thời gian thu được lời giải fixed.
- Kết quả so sánh Bảng 3.2 ta có thể khẳng định với sai số vị trí mặt phẳng của
điểm là 0.04m và sai số độ cao bằng 1/3 khoảng cao đều 0.5 m, độ chính xác của hệ
thống GPS RTK thử nghiệm này có thể sử dụng để thành lập các loại bản đồ địa hình,
địa chính tỷ lê ̣ lớn từ 1:500 với khoảng cách Base-Rover trong khoảng 6 km ở những
khu vực thông thoáng, hoặc có thể sử dụng GPS RTK bố trí vị trí các mốc thi công
trong các công tác trắc địa công trình và các công tác trắc địa liên quan khác.
- Kết quả phân tích cho thấy khoảng cách Base-Rover càng lớn thì thời gian
fixed điểm càng lâu. Với khoảng cách đến Base lớn hơn 6km như điểm DC-43 thời
gian fixed điểm lên tới 30 giây, đă ̣c biê ̣t trong điều kiê ̣n địa vật che khuất nhiều như
điểm KIM CHUNG thuộc xã Kim Chung, huyện Đông Anh, thời gian fixed điểm lên
tới vài phút.
- Công nghệ CORS đã thể hiện tính ưu việt so với phương pháp đo RTK sử
dụng sóng radio truyền thống do khắc phục được hạn chế về khoảng cách đo và khả
năng truyền dữ liệu cải chính từ Base đến Rover.
2. Kiến nghị
Từ các vấn đề còn tồn tại trong nghiên cứu và thử nghiệm, chúng tôi có một số
kiến nghị như sau:
- Cần tiếp tục thử nghiê ̣m và khảo sát đô ̣ chính xác đo RTK sử dụng trạm tham
chiếu thường trực với các loại máy thu khác nhau và với khoảng cách xa hơn.
- Tiếp tục nghiên cứu với hê ̣ thống mạng lưới CORS khi hê ̣ thống này được Bô ̣
Tài nguyên và Môi trường xây dựng hoàn thành vào những năm tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. https://www.gps.gov/systems/gps/.
[2]. https://www.glonass-iac.ru/en/index.php.
[3]. http://www.vinanren.vn/?page=tmv_chitiettin&zoneid=83&contentid=1916
[4]. Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam; (2016). Dự án "Xây dựng mạng lưới trạm định
vị toàn cầu bằng vệ tinh trên lãnh thổ Việt Nam".
[5]. Võ Quốc Đoàn; (2017). Ứng dụng trạm tham chiếu hoạt động liên tục trong
công tác đo nối khống chế ảnh phục vụ thành lập bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25000
khu vực tỉnh Quảng Bình, luận văn thạc sỹ kỹ thuật, Trường Đại học Tài Nguyên
và Môi trường Hà Nội.
[6]. Cục Bản đồ-BTTM; (2008). Hệ quy chiếu & Hệ tọa độ quân sự - Hệ thống và giải
pháp công nghệ, Tài liệu Hội thảo khoa học.
[7]. Trần Hồng Quang; (2013). GNSS - Hệ thống vệ tinh dẫn đường toàn cầu, Nhà
xuất bản Tài nguyên – Môi trường và bản đồ Việt Nam.
[8]. Đặng Nam Chinh; (2012). Định vị vệ tinh, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội.
PHỤ LỤC: KẾT QUẢ BÌNH SAI LƯỚI CHUẨN
BẢNG 1
BẢNG 2
BẢNG TRỊ ĐO, SỐ HIỆU CHỈNH VÀ TRỊ BÌNH SAI GÓC PHƯƠNG VỊ
BẢNG 3.2
BẢNG TRỊ ĐO, SỐ HIỆU CHỈNH VÀ TRỊ BÌNH SAI CẠNH
BẢNG 3.3
BẢNG TRỊ ĐO, SỐ HIỆU CHỈNH VÀ TRỊ BÌNH SAI CHÊNH CAO
BẢNG 4: BẢNG TỌA ĐỘ VUÔNG GÓC KHÔNG GIAN SAU BÌNH SAI
-----------------------------------------------
Ngày 13 tháng 9 năm 2018
Kết quả được biên tập bằng phần mềm ReportGPS