Professional Documents
Culture Documents
Hoàng Đ o
Hoàng Đ o
Khi nhìn từ Trái Đất, Mặt Trời dường như chuyển động trên nền sao. Hoàng đạo là đường vạch ra bởi Mặt
Trời trên bầu trời. Quá trình này lặp lại trong chu kỳ ít hơn 365 ngày.
Hoàng đạo hay mặt phẳng hoàng đạo là đường đi biểu kiến của Mặt Trời trên thiên
cầu.[1][2] Các nhà thiên văn cũng xét đến mặt phẳng chứa hoàng đạo, nó đồng phẳng
với quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời (và do vậy trở thành quỹ đạo biểu kiến của
Mặt Trời quanh Trái Đất). Đường đi của Mặt Trời thường ít được chú ý tới khi nhìn từ
bề mặt Trái Đất do sự tự quay của Trái Đất, từ mang theo góc nhìn của người quan sát
trên Trái Đất đi qua chu trình Mặt Trời mọc và Mặt Trời lặn, làm cản trở chuyển động
biểu kiến của Mặt Trời so với các ngôi sao. Hoàng đạo là một mặt phẳng tham
chiếu quan trọng và là cơ sở của hệ tọa độ hoàng đạo.
Mục lục
Mặt phẳng của quỹ đạo Trái Đất chiếu theo mọi hướng tạo thành mặt phẳng tham chiếu gọi là mặt phẳng
hoàng đạo. Ở đây, nó được vẽ màu xám bao ngoài Trái Đất và chứa bên trong thiên cầu, cùng với xích
đạo và trục quay của Trái Đất (màu lục). Mặt phẳng hoàng đạo giao cắt với thiên cầu tạo thành một vòng tròn
lớn (màu đen), đồng nhất với đường tròn mà Mặt Trời di chuyển khi Trái Đất quay quanh nó. Giao cắt của
hoàng đạo và xích đạo thiên cầu là các điểm phân xuân phân và thu phân (màu đỏ), nơi Mặt Trời đi qua xích
đạo thiên cầu.
Bởi trục quay của Trái Đất không vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo của nó, mặt phẳng
xích đạo của Trái Đất không đồng phẳng với mặt phẳng hoàng đạo, mà nghiêng với nó
một góc 23,4°, hay còn được biết đến là độ nghiêng của mặt phẳng hoàng đạo.[7] Nếu
xích đạo được chiếu hướng ra ngoài thiên cầu, mà tạo thành xích đạo thiên cầu, nó cắt
hoàng đạo tại hai điểm gọi là các điểm phân. Mặt Trời, trong quá trình chuyển động
biểu kiến dọc theo hoàng đạo, sẽ cắt xích đạo thiên cầu tại những điểm này, một theo
hướng từ nam đến bắc, một theo hướng ngược lại từ bắc đến nam. [4] Điểm cắt từ nam
đến bắc được gọi là điểm xuân phân, hay còn gọi là điểm đầu tiên của Bạch
Dương và điểm nút lên của hoàng đạo trên xích đạo thiên cầu.[8] Điểm cắt theo hướng
từ bắc đến nam là điểm thu phân hoặc điểm nút xuống.
Bài chi tiết: Tuế sai trục
Hướng của trục quay của Trái Đất và xích đạo không cố định trong không gian vũ trụ,
mà nó quay theo cực của hoàng đạo (ecliptic pole) với chu kỳ khoảng 26.000 năm, một
quá trình mà các nhà thiên văn gọi là tiến động Mặt Trời - Mặt Trăng (lunisolar
precession), do quá trình này ảnh hưởng chủ yếu bởi lực hấp dẫn của Mặt Trời và Mặt
Trăng lên hình dáng không phải là hình cầu hoàn hảo của Trái Đất (Trái Đất phình ra tại
xích đạo và dẹt hơn ở hai cực của nó). Do vậy, hoàng đạo cũng không phải là đường
cố định. Nhiễu loạn hấp dẫn của các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời gây ra một
chuyển động nhỏ hơn trong quỹ đạo của Trái Đất, và do đó là hoàng đạo, hay quá
trình tiến động hành tinh. Tác động tổng hợp của hai quá trình này được gọi là tiến
động chung (general precession), và sự thay đổi vị trí của các điểm phân vào khoảng
50 giây cung (xấp xỉ 0°,014) trên một năm.[9]
Bài chi tiết: Chương động thiên văn
Tuy vậy, miêu tả ở trên vẫn là sự giản lược. Chuyển động chu kỳ của Mặt Trăng và
chuyển động tuần hoàn biểu kiến của Mặt Trời (mà thực sự là chuyển động của Trái
Đất trên quỹ đạo) gây ra những dao động tuần hoàn biên độ nhỏ giai đoạn ngắn (short-
term small-amplitude periodic oscillation) ở trục quay của Trái Đất, và do đó là xích đạo
thiên cầu, một quá trình mà các nhà thiên văn học gọi là chương động.[10] Ảnh hưởng
này cộng thêm thành phần vào vị trí của các điểm phân; các vị trí của xích đạo thiên
cầu và điểm thu phân khi kể đến đầy đủ cả hiện tượng tiến động và chương động được
gọi là xích đạo và điểm phân thực (true equator and equinox); trong khi vị trí không kể
đến ảnh hưởng của chương động gọi là xích đạo và điểm phân trung bình (mean
equator and equinox).[11]
Cho đến năm 1983 độ nghiêng ở một ngày bất kỳ được tính toán dựa trên bảng vị trí
các thiên thể của Simon Newcomb, nhà thiên văn đã phân tích vị trí các hành tinh cho
đến tận năm 1895:
ε = 23° 27′ 08″.26 − 46″.845 T − 0″.0059 T2 + 0″.00181 T3
trong đó ε là độ nghiêng của hoàng đạo và T là thế kỷ chí tuyến từ kỷ nguyên
B1900.0 cho đến ngày cần tìm giá trị trên bảng.[14]
Từ năm 1984, bộ lịch thiên văn DE do Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) lập
ra bằng máy tính được sử dụng thay thế như là lịch thiên văn cơ bản của niên
lịch Astronomical Almanac. Độ nghiêng hoàng đạo trong lịch DE200, mà dựa trên các
quan sát từ năm 1911 đến 1979, được tính toán như sau:
ε = 23° 26′ 21″.45 − 46″.815 T − 0″.0006 T2 + 0″.00181 T3
với T là thế kỷ Julius từ kỷ nguyên J2000.0.[15]
Lịch thiên văn cơ sở của JPL liên tục được cập nhật. Ví dụ, giá trị độ nghiêng xác định
trong Astronomical Almanac của năm 2010 là:[16]
ε = 23° 26′ 21″.406 − 46″.836769 T − 0″.0001831 T2 + 0″.00200340 T3 − 0″.576×10−6 T4 −
4″.34×10−8 T5
Các công thức trên cho độ nghiêng hoàng đạo có xu hướng tìm đến giá trị chính xác
hơn trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, có lẽ chỉ ± vài thế kỷ.[17] J. Laskar đã
đưa ra một công thức biểu diễn đến độ lớn cỡ T10 với độ chính xác đến 0″.04/1000 năm
trong 10.000 năm.[13]
Tất cả những công thức trên xác định cho độ nghiêng hoàng đạo trung bình, tức là bỏ
qua ảnh hưởng của chương động thiên văn. Độ nghiêng thực hay độ nghiêng tức thời
sẽ phải kể đến ảnh hưởng của chương động.[18]
Phần lớn các thiên thể trong hệ Mặt Trời quay quanh Mặt Trời trong gần cùng một mặt
phẳng. Nguyên nhân là do ban đầu hệ Mặt Trời hình thành từ một đĩa tiền hành tinh.
Mặt phẳng biểu diễn gần sát nhất với đĩa này được gọi là mặt phẳng bất biến của hệ
Mặt Trời. Quỹ đạo của Trái Đất, và do vậy là hoàng đạo, nghiêng một góc nhỏ hơn 1°
so với mặt phẳng bất biến, và những hành tinh khác trong hệ Mặt Trời có mặt phẳng
quỹ đạo của chúng nghiêng góc nhỏ hơn khoảng 6°. Vì vậy, hầu hết các vật thể trong
hệ Mặt Trời nằm rất gần với hoàng đạo khi nhìn lên bầu trời. Hoàng đạo được định
nghĩa theo bởi chuyển động của Mặt Trời. Mặt phẳng bất biến được định nghĩa
theo mô men động lượng của toàn bộ hệ Mặt Trời, cơ bản đó là tổng của tất cả
các vectơ mô men động lượng của tất cả các chuyển động trên quỹ đạo quanh Mặt
Trời và sự quay quanh trục của chính mỗi vật thể, một giá trị đòi hỏi phải biết giá trị
chính xác của mỗi vật thể trong hệ Mặt Trời. Vì lý do này, để cho thuận tiện, mặt phẳng
hoàng đạo thường được sử dụng làm mặt phẳng tham chiếu cho hệ Mặt Trời. [19][20]
Hoàng đạo tạo thành một trong hai mặt phẳng cơ bản được dùng làm tham chiếu vị trí
trên thiên cầu, mặt phẳng kia là xích đạo thiên cầu. Trục vuông góc với hoàng đạo xác
định lên hai cực của hoàng đạo, cực bắc hoàng đạo là cực bắc của xích đạo. Trong hai
mặt phẳng cơ bản này, mặt phẳng hoàng đạo ít thay đổi hơn so với các ngôi sao ở xa,
chuyển động của nó so ảnh hưởng tiến động của các hành tinh chỉ gần bằng 1/100 so
với của xích đạo thiên cầu.[21]
Biểu diễn bằng hệ tọa độ cầu, các hoàng kinh (kinh tuyến hoàng đạo) và hoàng vĩ (vĩ
tuyến hoàng đạo) hoặc kinh tuyến và vĩ tuyến thiên cầu, được sử dụng để định vị trí
trên thiên cầu so với mặt phẳng hoàng đạo. Giá trị kinh độ xác định dương theo hướng
đông[4] từ 0° đến 360° dọc theo hoàng đạo từ điểm xuân phân, cùng hướng với hướng
chuyển động của Mặt Trời. Vĩ độ được đo theo hướng vuông góc với hoàng đạo, đến
+90° hướng về cực bắc hoặc -90° hướng về cực nam của hoàng đạo, hoàng đạo là vĩ
tuyến được gán giá trị 0°. Một vị trí đầy đủ trên thiên cầu cũng cần tham số xác định
khoảng cách. Các đơn vị khoảng cách khác nhau cũng được sử dụng cho những mục
đích khác nhau. Bên trong hệ Mặt Trời, thường các nhà thiên văn học sử dụng đơn vị
thiên văn, và đối với các vật thể gần Trái Đất, đơn vị bán kính Trái
Đất hoặc kilômét được sử dụng. Hệ tọa độ trục vuông góc đặt ở góc phần tư thứ nhất
cũng hay được sử dụng; với trục hoành x chỉ hướng về điểm xuân phân, trục tung
vuông góc 90° y chỉ hướng về phía đông, và trục cao độ z' chỉ hướng về cực bắc hoàng
đạo; đơn vị sử dụng là đơn vị thiên văn. Ký hiệu quy định chung cho hệ tọa độ hoàng
đạo được sử dụng như ở bảng sau.[22]
Các ký hiệu sử dụng cho hệ tọa độ hoàng đạo[23]
Địa tâm λ β Δ
Nhật tâm l b r x, y, z[note 1]
Sử dụng hệ tọa độ hoàng đạo thuận tiện nhất cho xác định vị trí các vật thể trong hệ
Mặt Trời, vì hầu hết mặt phẳng quỹ đạo của các hành tinh nghiêng góc nhỏ so với mặt
phẳng hoàng đạo, và do vậy chúng luôn xuất hiện rất gần với hoàng đạo trên bầu trời.
Bởi quỹ đạo Trái Đất, và do đó là hoàng đạo, di chuyển rất ít, nên có thể coi như nó là
mặt phẳng cố định so với các ngôi sao.
Độ nghiêng của hoàng đạo trong 200.000 năm, tham khảo từ Dziobek (1892). [24] Chú ý rằng hoàng đạo chỉ
quay khoảng 7° trong quãng thời gian này, trong khi xích đạo thiên cầu đã quay trọn đủ một vài vòng xung
quanh hoàng đạo. Hoàng đạo làm mặt phẳng tham chiếu tương đối ổn định so với xích đạo thiên cầu.
Do chuyển động tiến động của các điểm phân, tọa độ hoàng đạo của các vật thể trên
thiên cầu liên tục thay đổi. Xác định một vị trí bên trong hệ tọa độ hoàng đạo đòi hỏi xác
định theo một điểm phân cụ thể, nghĩa là điểm phân của một ngày cụ thể, được các
nhà thiên văn định nghĩa là kỷ nguyên; tọa độ xác định hướng của điểm phân tại ngày
đó. Ví dụ, bảng Astronomical Almanac[25] liệt kê các vị trí nhật tâm của Sao Hỏa lúc 0h
giờ Trái Đất (Terrestrial Time), ngày 4 tháng 1 năm 2010 là: kinh độ 118° 09' 15".8, vĩ
độ +1° 43' 16".7, khoảng cách thực đến Mặt Trời 1,6302454 AU, điểm phân trung
bình và ngày hoàng đạo (mean equinox and ecliptic of date). Điều này xác định điểm
phân trung bình của ngày 4 tháng 1 năm 2010 lúc 0h TT như miêu tả ở trên, mà không
kể đến chương động.