Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ

KHOA VẬT LÝ

BÀI TIỂU LUẬN(30)

Đề tài:
VẬT LIỆU THẦN KỲ: ỐNG NANO CACBON
VÀ ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG & KỸ THUẬT
HIỆN NAY

Giáo viên giảng dạy: Ths. Hồ Nhật Phong


Sinh viên thực hiện :

Nguyễn Thị Thanh Hiền


Lớp : Kĩ sư INSA
Huế. 10/2019
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

I-Khái quát chung về vấn đề nghiên cứu

Sự phát minh thuyết lượng tử về cấu tạo và các quá trình biến đổi vật chất
vào những năm đầu thế kỷ 20 đã dẫn đường cho sự phát triển nhiều ngành khoa
học tự nhiên và các lĩnh vực công nghệ cao. Bước vào thế kỷ 21, các nhà vật lý
lại mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử phát triển khoa học và công nghệ trên
thế giới: sự ra đời của khoa học và công nghệ nano.
Nhắc đến công nghệ nano chúng ta không thể không nhắc đến ống nano
carbon (nanotube). Ống nano carbon là tiêu biểu cho vật liệu nano, nguyên liệu
đặc thù nhất của công nghệ nano. Năm 1991 Sumio Lijma làm việc ở hang NEC
(Nhật) trong khi theo dõi các loại bụi trong bình kín để chế tạo fulleren theo
cách phóng điện hồ quang trong khí trơ với các điện cực than (cacbon) ông đã
phát hiện thấy có những tinh thể nhỏ dạng như cái ống rỗng đường kính ống vào
cỡ 1,4 nanomet còn dài có thể đến micromet, thậm chí milimet. Ống này có thể
xem như từ lá graphen cắt thành dải cuộn tròn lại thành ống. Ở hai đầu ống có
thể là hở, có thể là kín như có hai nữa quả cầu fulơren úp lại. Như vậy bề mặt
bao quang ống gồm toàn là nguyên tử cacbon xếp theo hình lục giác, hai đầu
cũng là nguyên tử cacbon nhưng có một số chỗ không phải là xếp theo hình 6
2 cạnh mà là hình Ống
5 cạnh
nanođể khépvàkín
cacbon ứnglại được…
dụng của ống Ngay sau đó
nano cacbon phát
trong hiệnvànày
kĩ thuật đời được
sống
công bố trên tập chí Nature và người ta gọi đó là ống nano cacbon (CNT).
Người ta nói một cách văn vẻ : nếu trong thế giới nano có một ông vua
thì chiếc gậy quyền uy (vương trượng) của ông vua đó là ống nano carbon.
Ống nano carbon có những tính chất hóa lý còn kỳ diệu hơn fullerence. Người
ta đã định được độ bền (strength) và độ cứng (stiffness) của ống nano carbon.
Nó nhẹ hơn thép đến 6 lần nhưng lại bền hơn thép hàng trăm lần. Như vậy, có
thể nói là ống nano là một vật liệu có cơ tính cao nhất so với các vật liệu người
ta biết từ trước đến nay. Từ ống nano carbon có thể làm ra nguồn phát điện;
màn hình tivi siêu mỏng; chip cảm biến; transitor trường; bộ nhớ... Với những
tính chất lạ thường, lại xuất hiện vào thời kỳ mà công nghệ nano đang nổi trội
nên ứng dụng của nó đã được cả thế giới thừa nhận. Công nghệ nano đã ứng
dụng những tính chất vô cùng đặc biệt của ống nano carbon để làm ra
nhiều loại linh kiện, vật liệu mà trước đây chưa ai nghĩ sẽ có ngày làm ra được.
Ảnh hưởng của ống nano carbon đến sự phát triển của công nghệ nano là rất to
lớn. Tạp chí Science et Avenir (Khoa học và tương lai) của Pháp năm 2002,
trong khi nêu lên cái gọi là “Bảy kỳ quan của thế giới nano”, đã mạnh dạn xếp
ống nano carbon là kỳ quan số một. Ống than nano là một trong những ngòi
nổ cùng với những vật liệu nano khác dẫn đến cuộc "nổ lớn" vô tiền khoáng hậu
của nền công nghệ nano ở đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Một nhà khoa học
đã đặt tên cho phong trào nghiên cứu ống nano là một "cuộc đổ xô tìm ống
nano" (nanotube rush) để so sánh với cuộc "đổ xô tìm vàng" (gold rush) tại Mỹ
và Úc vài thế kỷ trước. Cuộc đổ xô nano này vẫn còn đang tiếp diễn, và rất sôi
động.

II- Phạm vi đề tài


Tìm hiểu những vấn đề cơ bản liên quan đến ống nano carbon, từ đó đúc
kết viết thành tài liệu gồm các nội dung :
- Cấu tạo và những tính chất ưu việt của ống nano carbon.
- Giới thiệu một số phương pháp chế tạo và quy trình tổng hợp nano carbon.
- Một vài ứng dụng tiêu biểu của ống nano carbon.
Trong khuôn khổ nghiên cứu tài liệu trên Internet, sách vở, tạp chí và
tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo về vật liệu ống nano.

III- Mục đích


Nhằm giới thiệu cho mọi người một cách tổng quan về ống nano cacbon
và ứng dụng tuyệt vời trong kỹ thuật và đời sống làm tiền đề cho sự học tập và
nghiên cứu xa hơn sau này. Trong quá trình nghiên cứu và soạn thảo ắt hẳn
không tránh khỏi những sai sót, mong quý độc giả thông cảm và góp ý.

3 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I-Vai trò và vị trí của đề tài
Ống nano cacbon là một loại vật liệu vô cùng quan trọng và có nhiều ứng
dụng, vì vậy học tập và nghiên cứu loại vật liệu này là rất cần thiết, mang tầm
cỡ quốc gia và nâng tầm quốc tế. Các quốc gia phát triển như Mỹ, các nước ở
Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… đều coi đây là lĩnh vực ưu tiên
hàng đầu của mình. Đến giờ, khoa học công nghệ nano nói chung và vật liệu
ống nana cacbon nói tiếng phát triển rất rộng lớn. So với các vật liệu truyền
thống khác thì nano là vật liệu mới, nhưng lại được quan tâm, chú trọng phát
triển và các quốc gia đã đầu tư hàng tỉ đô la cho nghiên cứu và phát triển loại
vật liệu này. Như vậy chúng ta có thể thấy được ống than nano cùng các loại vật
liệu nano khác đang đóng một vai trò to lớn và có vị trí đặc biệt đối với mỗi
quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung.

II-Tình hình nghiên cứu từ trước tới nay trên thế giới và trong nước
Xuất phát từ năm 1991 khi Sumio Iijima tái phát hiện ống than nano thì
việc nghiên cứu và triển khai ống than nano đã đi qua 28 năm với số báo cáo
khoa học lên đến chục ngàn và hàng ngàn đăng ký phát minh (patent). Việc
nghiên cứu triển khai và ứng dụng ống than nano bao trùm hầu như tất cả mọi
lĩnh vực trong khoa học, từ vật lý đến sinh y học, từ vật liệu học đến hoá học.
4 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
Ngay trong ngành vật lý, bóng dáng ống than nano xuất hiện trong các hiện
tượng vĩ mô như cơ tính,
truyền nhiệt, dẫn điện, cho đến các hiện tượng vi mô, lượng tử như điện tử học,
quang điện tử, quang tử học (photonics). Như một phản ứng dây chuyền, cái
ống
nano rỗng và dài không ngừng lộ ra những đặc tính kỳ diệu, cái này tiếp nối cái
khác, liên tục kích thích sự hiếu kỳ của các nhà khoa học. Chẳng hạn, khi người
ta chưa tìm hiểu hết đặc tính truyền dẫn đạn đạo thì đồng thời phát hiện sự phát
quang điện học (electro-luminiscence) trong ống do sự lượng tử hóa, và khi cắt
ống thành những ống nhỏ thì các ống ngắn là những điểm lượng tử (quantum
dot). Tiếp đến, những thao tác nano trong việc đo cơ tính đã đưa đến hàng loạt
kỹ thuật
để tạo ra những con robot nano mà MWNT là bộ phận cấu thành cơ bản.
Mặt khác, từ những khám phá hàn lâm đến một ứng dụng ta lại có một
loạt vấn đề cần phải giải quyết để quyết định ống than nano có phải là vật liệu
mới thay thế cho vật liệu cũ cho một ứng dụng hiện có, hay một ứng viên sáng
giá cho một ứng dụng hoàn toàn mới. Những vấn đề còn tồn đọng như cơ chế
tổng hợp các ống nano giống nhau, tinh chế loại bỏ chất tạp, gỡ rối, xe sợi cần
phải được giải quyết để có một sản phẩm ống nano đồng nhất dù đó là một
nanocomposite gia cường, bộ cảm ứng, một ứng dụng y học hay là một
transistor nano. Ống than nano vô hình chung trở thành người tù vì sự đa dạng
của mình. Thêm vào đó, các
nhà nghiên cứu hàn lâm phần lớn chỉ dừng lại ở điểm là công bố những bài báo
cáo và dùng số lượng bài báo như là một thành tích để tiếp tục tìm kiếm kinh
phí
cho một đề tài khác.
Nếu gọi là "vật liệu thần kỳ" với những đặc tính kỳ diệu và tiềm năng ứng
dụng bao trùm nhiều lĩnh vực khoa học thì không ít người sẽ hỏi rằng ống than
nano hiện nay đã có sản phẩm gì trên thương trường. Phải nói là rất ít vì các lý
do trên. Những khám phát thú vị của ống than nano giờ đây đã được thu tóm
trong một số thư tịch điển hình là quyển "Carbon Nanotubes: Advanced Topics
in the Synthesis, Structures, Properties and Applications" ("Ống than nano:
Những đề tài tiên tiến về Tổng hợp, Cấu trúc, Đặc tính và Ứng dụng) , dày ngót
700 trang. Nội dung quyển sách phấn lớn đề cập rất nhiều đến những thành quả
rực rỡ của các nghiên cứu cơ bản hay tiềm năng ứng dụng trong tương lai, rất ít
về các sản phẩm. Nhưng điều đáng mừng là phần lớn những công trình nghiên
cứu của ống
nano đều phát sinh từ động lực ứng dụng. Theo thống kê, hơn 1/3 các báo cáo
ống nano đều quan tâm đến ứng dụng. Một cách khách quan, ống than nano –
một vật liệu chiếm một phần quan trọng của nền công nghệ nano – không phải
không có một tương lai, nhưng các nhà khoa học cần hiểu rõ hơn quá trình
5 chông Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
gai từ khám phá đến thương phẩm, gạt bỏ cái lạc quan "tếu", cần nhiều kinh phí
nghiên cứu và nhiều thời gian hơn để tạo ra các sản phẩm giá trị.
Bảng 1 trình bày động hướng triển khai trong lĩnh vực sản xuất doanh
thương, chủ yếu chú trọng nhiều đến các công ty Mỹ. Đây không phải là một
bảng đầy đủ nhưng nó biểu thị một thái độ "có thể làm" (can do) của giới doanh
thương hay dùng khẩu hiệu thời thượng của Barack Obama là "Yes! We can".
1

6 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
Bảng 1 cho thấy sự phát triển lôgic đi từ giai đoạn sản xuất các loại
SWNT và MWNT chất lượng cao cho các ứng dụng điện tử, gia cường, đến các
mẫu thử của bộ cảm ứng và giai đoạn nghiên cứu các linh kiện điện tử với
những đòi hỏi khắt khe hơn. Các ứng dụng xuất hiện tương ứng với quá trình
sản xuất từ dễ đến
khó, từ áp dụng vĩ mô đến vi mô, từ cơ tính đến điện tử. Sản phẩm đầu tiên của
ống than nano nằm trong lĩnh vực gia cường vì sản phẩm này có nhiều ứng
dụng
trong đời thường. Là một công ty có đăng ký phát minh đầu tiên về ống nano, từ
cuối thập niên 80 của thế kỷ trước Hyperion Catalyst International (Mỹ) đã sản
xuất MWNT ở đơn vị chục tấn hằng năm. Công ty này chế tạo nanocomposite
giữa polymer (plastic) và ống nano cho công nghệ xe hơi. Cho đến ngày hôm
nay
đây là một sản phẩm ống than nano được phổ cập rộng rãi. Những bộ cảm ứng
ống than nano đang được triển khai trên quy mô nhỏ. Công ty Nantero đã tuyên
bố việc ra đời bộ nhớ NRAM vào năm 2004 nhưng vẫn còn trong giai đoạn
"mẫu thử" (prototype) chưa tung ra thị trường.
Những thành quả này khó xảy ra nếu không có chính sách mang tầm nhìn
xa và chiến lược của chính phủ ở những nước tiên tiến. Các cơ quan tài trợ kinh
phí nghiên cứu tại Bắc Mỹ, châu Âu, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Đài Loan đều xem tiềm năng ứng dụng của các đề án công nghệ nano là quốc
7 sách, trong đó ống nanocacbon
Ống nano chiếm vị trí
và ứng hàng
dụng đầu.
của ống Từ
nano Bắctrong
cacbon Kinh đến và
kĩ thuật Berlin,
đời sốngtừ
Seoul đến Singapore, hàng chục, hàng trăm triệu đô-la đã được đầu tư hằng năm
vào vật liệu nano nói chung và ống than nano nói riêng. Chính phủ Mỹ có chính
sách tài trợ các công ty nhỏ "start-up" như Nantero để biến những ứng dụng ống
nano thành thương phẩm. Chính phủ Úc có những chương trình đầu tư bằng
cách thiết lập những Trung tâm Ưu việt (Centre of Excellence) và Trung tâm
Hợp tác Nghiên cứu (Cooperative Research Centre) với sự tham gia và đóng
góp của doanh thương tư nhân, cơ quan nghiên cứu chính phủ và đại học với
chính sách nghiên cứu trải rộng từ cơ bản đến ứng dụng và sản xuất. Tại Đài
Loan, Viện Nghiên cứu Khoa học Công nghiệp (Industrial Technology
Research Institute) được thiết lập với mục đích là thương phẩm hóa các vật liệu
nano.
Ở Việt Nam, năm 2009, Viện Nghiên cứu Khoa học Vật liệu (Hà
Nội) đã chế tạo thành và chào bán vật liệu nano (nano carbon tube - NCT), giá
bán chỉ bằng 50% so giá của nước ngoài.
8 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống

PHẦN 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


I-KHÁI NIỆM
Ống nano là một loại cấu trúc fullerene, trong đó
cũng bao gồm cả buckyball. Trong khi buckyball có
dạng hình cầu, một ống nano lại có dạng hình trụ, với ít
nhất một đầu được phủ bởi một bán cầu có cấu trúc
buckyball. Tên của chúng được đặt theo hình dạng của
chúng, do đường kính của ống nano vào cỡ một
vài nanomet (xấp xỉ nhỏ hơn 50.000 lần một sợi tóc), trong khi độ dài của chúng
có thể lên tới vài milimet.
Các nhà nghiên cứu ở đại học Cincinnati (UC) đã phát triển một quá trình
để xây mạng thẳng hàng các ống nano cacbon cực dài. Họ đã có thể sản xuất
các ống nano cacbon dài 18mm và có thể xoắn lại thành các sợi nano cacbon.
II-PHÂN LOẠI
Có hai loại ống nano cacbon chính: ống nano đơn vách (SWNT) và ống
nano đa vách (MWNT).
III-CẤU TRÚC
Để tìm hiểu về cấu trúc của CNT trước hết cần tìm hiểu về cấu trúc của
graphit.
Cấu trúc graphit
 Có nhiều lớp ở mỗi lớp các nguyên tử xếp hình 6
cạnh-gọi là một lớp graphen
 Liên kết giữa các lớp là liên kết Val Der Vaal
 Mỗi nguyên tử C liên kết cộng hóa trị với 3
nguyên tử C gần nhất.
*Ống nano cacbon đơn vách (SWCNTs) có cấu trức
9 Ống nano
như là được tào thành cacbon
bằng cáchvà cuộn
ứng dụng
mộtcủađơn
ốngtấm
nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
graphite lại thành một ống hình trụ theo hướng của véctơ cuộn ( véctơ chiral),
có thể ở hai đầu có hai nửa fullerence như hai “nắp”.

Véctơ chiral được xác định bởi cặp số nguyên (n,m),


chúng quy định mối liên hệ giữa véctơ Ch và hai véctơ
cơ sở a1, a2 của mạng graphit theo hệ thức
Ch=n.a1+m.a2 ( 0 ≤ |n| ≤ m )
Góc θ giữa Ch và a1 (0 ≤ θ ≤ 30°): chỉ rõ góc nghiêng của hình lục giác so với
trục của ống.
Cặp số (n,m) và θ quyết định cấu trúc CNT

10 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống

*Cấu trúc của ống nano cacbon đa vách (MWCNTs) bao gồm từ 2 đến 30
SWCNTs có đường kính khác nhau lồng vào nhau, khoảng cách giữa các vách
của SWCNTs là 0,34-0,36nm.

IV-TÍNH CHẤT
1. Tính chất cơ
Ống nano cacbon chỉ gồm các nguyên tử cacbon nên nhẹ và liên kết giữa
các nguyên tử là liên kết cộng hóa trị nên rất bền.
Bảng : Cơ tính và mật độ các loại sợi
Từ bảng trên ta thấy cơ tính của ống than nano nổi bật so với thép và các loại
11 Ống nano cacbon
sợi gia cường (reinforcing và ứng
fibres) hiệndụng
có của
trênống nano cacbon
thương trong
trường. kĩ thuật
Nếu và đời
ta lấy trị sống
số
1.000 GPa cho độ cứng và 100 GPa cho độ bền, ta thấy ống than nano cứng hơn
thép 5 lần, bền hơn thép 160 lần nhưng lại nhẹ hơn thép gần 6 lần. Có thể nói
ống than nano là có cơ tính cao nhất so với các vật liệu người ta biết từ trước
đến nay.
2. Tính chất điện
Độ dẫn điện của CNT phụ thuộc vào cấu trúc, tức là phụ thuộc vào (m,n)
Cách cuộn graphen để tạo thành ống nano cacbon có thể dẫn đến tính chất
điện của nó giống kim loại hay bán dẫn
Loại CNTs (n,m) Đặc tính dẫn điện
Armchair (n,n) Kim loại
Zigzag (n,0), n/3 nguyên Kim loại
Zigzag (n,0), n/3 không nguyên Bán dẫn
Chiral (n-m)/3 nguyên Kim loại
Chiral (n-m)/3 không nguyên Bán dẫn
Khi được cuộn lại thành ống, các liên kết C-C vuông góc với trục ống
được hình thành, dẫn đến cấu trúc điện tử của một số loại ống CNTs giống như
của các kim loại dẫn điện tốt như Cu, Au. Các cách cuộn khác nhau của mạng
graphene tạo ra ống với khe năng lượng nhỏ hoặc bằng 0.
3. Tính chất nhiệt
◄Trong vùng nhiệt độ thấp

Nhiệt dung riêng của MWNTs và bó SWNTs phụ thuôc vào các tương
tác giữa các ống trong bó hay các lớp graphene trong MWNTs và đường kính
của chúng
12 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
◄Trong vùng nhiệt độ phòng và nhiệt độ cao

Ở nhiệt độ phòng, độ dẫn nhiệt khoảng 3x104 W/m.K và đạt giá trị cao
nhất 4x104W/m.K ở khoảng 100K. So với graphite và mạng graphene, ở nhiệt
độ thấp độ dẫn nhiệt của CNTs cao hơn nhiều, nhưng ở nhiệt độ cao độ dẫn
nhiệt của CNTs xấp xỉ bằng.
4. Tính chất hóa học: CNTs có đường kính càng nhỏ thì hoạt động hóa học càng
mạnh, song hiện tượng tụ đám càng nhiều. Đó là ảnh hưởng của hiệu ứng kích thước
và hiệu ứng bề mặt xảy ra với các vật liệu nano. Sự tụ đám này làm giảm khả năng
hoạt động hóa học của các ống CNTs. Vì vậy, vấn đề quan trọng là tách bó CNTs
thành các ống riêng rẽ bằng các xử lý lý, hóa phù hợp.
5. Tính chất phát xạ điện từ trường: CNTs có khả năng phát xạ điện từ mạnh ngay
cả ở điện thế thấp (10V) 
V-PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO
Hiện nay, có 4 phương pháp phổ biến được sử dụng:
-Công nghệ tạo vật liệu cacbon nano bằng phương pháp lắng đọng pha
hơi hóa học (CVD).
- Công nghệ tạo vật liệu cacbon nano bằng phương pháp phóng điện hồ
quang.
- Công nghệ tạo vật liệu cacbon nano dung nguồn laze.
- Công nghệ tạo vật liệu cacbon nano bằng phương pháp nghiền bị và ủ
nhiệt.
1. Cơ chế mọc ống nano cacbon
Có thể hiểu một cách đơn giản
quá trình mọc CNTs như sau ( hình 5.1)
Hạt xúc tác được tạo trên đế.
Khí chứa cacbon (CnHm) sẽ bị
13 phân ly thành cácỐng
nguyên tử cacbon
nano cacbon và ứngvà
dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
các sản phẩm phụ khác do năng lượng
nhiệt, năng lượng plasma có vai trò của
xúc tác.
Các sản phẩm sau phân ly sẽ lắng
đọng trên các hạt xúc tác. Ở đây sẽ xảy
ra quá trình tạo các liên kết C-C và hình
thành CNTs. Hình 5.1: Cơ chế mọc ống nano cacbon

Kích thước của ống CNTs về cơ bản phụ thuộc kích thước hạt xúc tác.
Liên kết giữa các hạt xúc tác và đế mà ống nano cacbon quyết định cơ chế mọc:
mọc từ đỉnh của hạt lên hay mọc từ
đế lên tạo thành CNTs.
Kích thước của hạt xúc tác kim
loiaj và các điều kiện liên quan khác
quết định ống nano cacbon là đơn
vách (SWCNRTs) hoặc đa vách
(MWCNTs)
2. Chế tạo vật liệu CNTs bằng phương pháp lắng đọng pha hơi hóa học
(CVD)
Trong phương pháp CVD thường sử dụng nguồn cacbon là các
hydrocarbon như C2H2, CH4 hoặc CO và sử dụng năng lượng nhiệt hoặc plasma hay
laser để phân ly các phân tử khí thành các nguyên tử cacbon hoạt hóa. Các nguyên tử
cacbon này khuếch tán xuống đế và lắng đọng lên các hạt kim loại xúc tác (Fe, Ni,
Co), và CNTs được tạo thành. Nhiệt độ để vào khoảng 650°C-900°C.
Phương pháp lắng đọng hóa học pha hơi thường tạo ra ống nano cacbon đa
vách hoặc đơn vách với độ sạch không cao, thường
người ta phải phát triển các phương pháp làm sạch.
Phương pháp này có ưu điểm là dễ chế tạo và rẻ tiền.
Một số kỹ thuật CVD tạo CNTs thường được sử
dụng là:
-Phương pháp CVD nhiệt
-Phương pháp CVD tăng cường Plasma
-Phương pháp CVD xúc tác alcohol
-Phương pháp CVD nhiệt có laser hỗ trợ
14 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
-Phương pháp mọc pha hơi
-Phương pháp CVD với xúc tác CoMoCat
3. Chế tạo CNTs bằng phương pháp phóng điện hồ quang
Phương pháp đơn giản và thông dụng nhất được sử dụng nhiều trong thời
gian đầu khi tìm ra CNTs là phương pháp hồ quang điện. Nguyên lý của
phương pháp này là tạo ra ống nano cacbon thông qua việc phóng điện hồ
quang giữa hai thanh điện cực cacbon, được đặt đối diện nhau, khoảng cách của
hai điện cực này khoảng vài mm. Môi
trường xung quanh điện cực này là khí trơ
(He, Ar) ở áp suất từ 100-300 mbar. Sự
phóng điện ở nhiệt độ cao giữa hai điện cực
xảy ra khi người ta cung cấp một dòng điện
có cường độ 50-100A, được tạo bởi một
hiệu điện thế khoảng 20-25 V, nhiệt độ
trong buồng lên tới 3000 – 4000K. Sự
phóng điện này làm cho cacbon chuyển Hình 5.3 Mô hình mô tả phương pháp hồ quang
sang pha hơi, ống nano cacbon được tạo ra điện để chế tạo CNTs
trong quá trình lắng đọng trên điện cực.
Các kỹ thuật chế tạo CNTs bằng hồ quang khác:
-Hệ tạo CNTs bằng hồ quang ngoài không khí
-Hệ tạo CNTs bằng hồ quang trong nitơ lỏng
-Hệ tạo CNTs bằng hồ quang trong từ trường
-Hệ tạo CNTs bằng hồ quang với điện cực plasma quay
4. Chế tạo CNTs dùng nguồn laze
Một phương pháp khác được sử dụng để chế tạo ống nano cacbon đó là
sử dụng chum tia laser. Đối với việc tổng hợp vật liệu trong phân vùng hẹp, đây
là phương pháp tỏ ra phù hợp và hiệu quả. Nguyên lý của phương pháp này sử
dụng một chùm tia laser cường độ lớn khoảng 100kW/cm 2 , ở nhiệt độ cao
1200 o C, bức xạ vào một miếng
graphit có vai trò dùng làm bia,
dưới áp suất cao khoảng 500
Torr, trong môi trường chân
không hoặc khí trơ (He, Ar).
Chùm hơi nóng được tạo thành,
15 Ống nano
nở ra và sau đó được làmcacbon
lạnh và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
nhanh, cacbon hình thành được
ngưng tụ nhờ hệ thống làm lạnh
bằng điện cực đồng.
Chất lượng và hiệu suất của sản phẩm tạo ra phụ thuộc vào nhiệt độ phản
ứng, thời gian và xúc tác. Ở nhiệt độ dưới 1200 o C, thì chất lượng vật liệu
CNTs tạo ra giảm, xuất hiện các sai hỏng về mặt cầu trúc. Đặc biệt, nếu dùng
hỗn hợp xúc tác là Ni, Co/Ni… sẽ cho hiệu suất cao hơn. Sản phẩm thu được là
các ống cacbon nano có đường kính nhỏ, phân bố kích cỡ đồng đều, có tính chất
tốt với độ sạch cao (hơn 90%) so với phương pháp hồ quang điện.
5. Chế tạo CNTs bằng phương pháp nghiền bị và ủ nhiệt
Dùng bình thép không gỉ có chứa các bị thép không rỉ với độ cứng cao và
đổ vào bình thép bột graphit tinh khiết (98%). Bình thép không rỉ được thổi khí
Argon với áp suất 300kPa. Quay bình để bi thép không rỉ nghiền bột graphit
khoảng 15 giờ. Sau khi nghiền, bột có rất nhiều ống nano cacbon đa vách.
Người ta cho rằng quá trình nghiền tạo ra các hạt graphit nhiều mầm để phát
triển ống nano cacbon và khi nung ủ nhiệt, các mầm đó phát triển thành ống
nano cacbon.
VI-ỨNG DỤNG
1. Transistor hiệu ứng trường
Như đã trình bày ở trên, ống nano cacbon đơn tường thu hút được nhiều
sự quan tâm bởi những tính chất đặc biệt về điện, cơ, quang – điện. Ngoài ra,
việc tổng hợp thành công các CNTs đơn sợi mọc định hướng nằm ngang theo
một chiều nhất định và nghiên cứu tính chất kim loại hay bán dẫn của chúng sẽ
mở ra khả năng ứng dụng CNTs trong các thiết bị điện tử nano như các sợi dây
lượng tử, transistor hiệu ứng trường [4], các cổng logic, phát xạ trường [20],
vv…
Tại phòng thí nghiệm tại Munich, Đức các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu
chế tạo được transistor kích thước nanomet nhỏ nhất thế giới sử dụng SWCNTs
có đường kính từ 0.7 đến 1.1 nm. Nhờ những đặc tính đăc biệt của ống nano
cacbon, đặc biệt là tính chất dẫn điện và nhiệt, nó được xem là vật liệu đầy hứa
hẹn trong công nghiệp điện tử, các ống có khả năng truyền tải electron gấp 1000
lần so với sợi dây đồng thông thường. Đặc biệt trong các trường hợp khác nhau,
SWCNTs có thể đóng vai trò là vật dẫn điện hoặc bán dẫn. Các SWCNTs –
transistor có thể dẫn dòng điện hơn 15µA với một thế cung cấp chỉ 0.4V (tiêu
chuẩn là 0.7V), mật độ dòng gấp 10 lần so với Si, vật liệu chuẩn được sử dụng
phổ biến hiện nay. Các nhà nghiên cứu hy vọng trong thời gian tới, CNTs sẽ trở
16 thành vật liệu được
Ốngứng
nanodụng
cacbonrộng rãidụng
và ứng trong
của công nghiệp
ống nano điện
cacbon trongtử.
kĩ thuật và đời sống

Hình 6.1. Ứng dụng ống nano cacbon trong transistor hiệu ứng trường

2. Ứng dụng trong xử lý nước


Nước sạch là một trong những vấn đề hàng đầu trong sinh hoạt con
người. Hiện nay, than hoạt tính là một vật liệu phổ cập được sử dụng để khử
mùi clo, một số chất ô nhiễm hữu cơ, các độc tố trong nước máy. Tuy nhiên, từ
những dữ liệu thực nghiệm và năng suất của than hoạt tính. Trong khoảng 2
thập kỷ gần đây, ống nano cacbon đã trở thành vật liệu khử nước với nhiều tính
năng vượt trội. Ngoài những đặc tính lọc của than hoạt tính, màng CNTs còn có
tính năng khử vi khuẩn và các chất ô nhiễm vô cơ rất hữu hiệu . Sau một thời
gian sử dụng, màng có thể tái sử dụng cho những lần sau bằng cách tẩy khử các
chất ô nhiễm ra khỏi màng bằng phương pháp siêu âm hay bằng phương pháp
điện hóa nhờ vào tính dẫn điện. Công ty Seldon Technologies (Mỹ) đã sản xuất
và bán trên thị trường hệ thống lọc nước bẩn thành nước sạch sử dụng mạng
lưới ống nano cacbon. Mạng lưới này khử 99,9999% vi khuẩn, các chất ô nhiễm
từ chì, cadmium, thuốc sát trùng và ô nhiễm phóng xạ .
3. Ứng dụng trong cảm biến.
Một trong những thiết kế của cảm biến là cảm biến dùng transistor. Mặc
dù transistor ống nano cacbon hiện tại chưa đạt đến trình độ tinh vi thay thế
hoàn toàn transistor silicon dùng trong vi tính hay các dụng cụ điện tử cao cấp,
nhưng nó thừa khả năng tạo các bộ cảm biến có độ nhạy rất cao. Hơn nữa, sự
thu nhỏ của bộ cảm biến không có sự đòi hỏi gắt gao như trong vi tính, nên việc
triển khai transistor ống nano thành bộ cảm ứng hóa và sinh học trở thành một
lĩnh vực áp dụng rộng rãi cho công nghiệp và y học.

17 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống

Hình 6.3. Transistor ống nano cacbon

CNTs dùng cho cảm biến được xử lý hóa học bằng cách phản ứng với
một hóa chất hay “gắn”trên bề mặt ống nhóm chức (functional group), phân tử
sinh học thích hợp để có tác dụng chọn lựa với phân tử cần phải truy tìm. Phân
tử này có thể là khí độc hay DNA, protein, enzyme, kháng thế, vi-rút, các loại
vũ khí hóa học và sinh học. Độ nhạy của bộ cảm ứng thường được tính theo
nồng độ của phân tử chất phân tích với đơn vị “phần triệu”.Trong bộ cảm ứng
thông thường, vật liệu cảm ứng là vật liệu khối (bulk) chứa hàng tỷ phân tử.
Nhưng vật liệu cảm ứng của transistor chỉ là một ống nano các bon, tức là một
phân tử (Hình 6.3). Chính vì vậy, nên ta có thể thấy rõ sự thay đổi điện tính của
transistor.
4. Tích trữ năng lượng: Pin
Pin ion lithium có 3 thành phần chính là điện cực dương, âm và chất điện
giải. Điện cực âm là than chì (graphite) và điện cực dương là lithium cobalt oxit
(LiCoO 2 ). Hai điện cực đều có cấu trúc lớp để ion lithium Li + có thể xen vào
giữa các lớp nhằm gia tăng số lượng ion Li + được tích trữ. Đây là đặc điểm
quan trọng của pin. Khi phóng hay nạp điện ion Li + di chuyển giữa hai điện
cực. Đặc tính của điện cực rất quan trọng không những cho việc tích điện mà
còn bảo đảm sự an toàn không cháy nổ và kéo dài tuổi thọ của pin. Vì vậy, cải
thiện pin có nghĩa là cải thiện điện cực. Hình dạng ống và độ dẫn điện cao của
CNTs được xem là những đặc tính lý tưởng cho việc cải thiện điện cực nhằm
gia tăng khả năng tích điện và rút ngắn thời gian nạp điện. Theo tính toán lý
thuyết, người ta nhận thấy rằng 6 nguyên tố carbon trong than chì chứa 1 ion
lithium (LiC 6 ) trong khi ta chỉ cần 3 nguyên tố ống nano cacbon thì trữ lượng
ion Li, hay điện năng, sẽ gia tăng gấp đôi. Để chứng minh, Shimoda và cộng sự
đã dùng điện cực SWCNT thay cho điện cực than chì. Đầu ống SWCNT được
"chặt" bỏ bằng phương pháp khắc acit (etching) để ion Li + có thể tự do ra vào
phía bên trong của ống. Với điện cực SWCNT, nhóm Shimoda đã gia tăng năng
suất đến 700 mAh/g. Sau thí nghiệm của nhóm Shimoda, điện cực MWCNT
cũng cho thấy sự gia tăng năng suất phóng điện và rút ngắn thời gian nạp điện.
5. Ứng dụng phát xạ trường
Một đặc tính khác của CNTs là sự phát xạ trường. Phát xạ trường là hiệu
ứng phát xạ điện tử từ kim loại vào chân không khi ta đặt vào đó một điện
trường mạnh. CNTs có đường kính nhỏ nên có khả năng phát xạ điện tử cao. Ưu
điểm của ống nano cacbon là có thể vận hành ở điện thế thấp, phát xạ trong một
thời gian dài mà không bị tổn hại.
Cấu tạo của một thiết bị phát xạ trường đơn giản sử dụng ống nano
18 cacbon gồm có một Ống ống
nano đường kính
cacbon và ứng 40mm,
dụng của chiều dàicacbon
ống nano 400mmtronglàm bằng
kĩ thuật và kính,
đời sống
mặt bên trong của ống này được phủ một lớp dẫn trong suốt (transparent
conductive) và ở trong cùng là lớp photpho. Ở trục tâm của ống này là một sợi
dây bằng kim loại, làm từ hợp kim Fe- Al-Cr (kanthal), bên ngoài của sợi dây
được bao kín bởi các ống CNTs . Khi áp một điện thế (7.5kV) ống sẽ phát
quang dựa trên sự phát xạ của điện tử, lớp photpho được phủ mặt trong của ống
chịu sự va chạm của các điện tử này và phát sáng, công suất phát sáng thu được
có thể lên tới 10,000 cd/m 2 . Hình 6.5 là màn hình hiển thị làm từ CNTs ứng
dụng phát xạ trường.

Hình 6.5: Màn hình hiển thị làm từ CNTs ứng dụng phát xạ trường
6. Ứng dụng CNTs mọc trên các tips làm đầu dò
Một ứng dụng quan trọng khác của CNTs đó là sử dụng làm đầu dò trên
các đỉnh nhọn (tips) trong các thiết bị kính hiển vi lực nguyên tử AFM. Do
CNTs có tính chất cơ học đặc biệt, độ bền và độ đàn hồi cao, chịu được nhiệt độ
và có khả năng dẫn điện tốt nên phù hợp trong việc sử dụng các đầu dò. Hiện
nay, người ta tổng hợp trực tiếp CNTs lên đầu tips nhọn bằng cách đưa xúc tác,
các hạt nano Fe, Ni lên các chóp nhọn và tiến hành CVD nhiệt (hình 6.6),
đường kính của các sợi CNTs trên các đầu dò rất nhỏ, cho các kết quả chính
xác, độ phân giải tốt.

Hình 6.6 . (a) Ảnh CNTs mọc trên đầu tips, ( b) Ứng dụng làm đầu dò
19 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
7. Y học và an toàn sinh học
Một trong những ứng dụng quan trọng của các vật liệu nano là việc tải
thuốc đến tế bào ung thư. Hạt nano và ống than nano là hai loại vật liệu được
nghiên cứu nhiều nhất được dùng làm mặt nền (platform) tải thuốc và được
chức năng hoá với những nhóm chức thích hợp để cảm nhận độ pH, nhiệt và
kích động sự nhả thuốc khi gặp mục tiêu . Chúng giống như những chiếc tàu
ngầm tí hon được bơm vào mạch máu, len lỏi vào các tế bào để tiêu diệt các tế
bào bệnh nhưng chừa lại tế bào tốt. Ống than nano có tác dụng như cây kim đi
xuyên qua tế bào mục tiêu và sau đó được kích hoạt nhả thuốc. Hiện nay, hạt
sinh học lyposome chính thức được dùng để tải thuốc trị ung thư doxorubicin.
Nhưng lyposome chỉ có thể tải 8 - 10 wt% thuốc trong khi ống than nano có thể
tải đến 60 wt% . Ngoài ra, thuốc được tải bằng ống than nano có thể được
phóng thích dễ dàng qua sự kích hoạt của tia cận hồng ngoại.
Dù có nhiều ưu điểm hơn liposome, ống than nano vẫn chưa hội đủ điều
kiện cần thiết để đưa vào cơ thể con người. Thứ nhất, khi ống than nano đi vào
cơ thể thì nó phải có sự tương thích sinh học (biocompatibility), không gây độc
tính và dị ứng đối với cơ thể. Thứ hai, sau khi hoàn thành sứ mạng tải và nhả
thuốc ống than nano phải tự phân hủy và những chất phân hủy không phải là
độc tố và cần được thải ra ngoài. Ống than nano chưa thỏa mãn hai điều kiện
này. Việc thực dụng hóa trong y học sẽ bế tắc nếu hai điều kiện cơ bản trên
không được giải quyết. Nhưng đã có một số công trình, dù rất khiêm tốn, được
thực hiện nhằm thay đổi bề mặt của ống than nano để gia tăng tính tương thích
và tự phân hủy. Một công trình nổi bật là gắn nhóm chức lên trên ống than và
qua nhóm chức phản ứng phân hủy xảy ra dưới sự chi phối của các enzyme
trong cơ thể động vật .
Tính tương thích sinh học và độc tính của các vật liệu nano bao gồm hạt
nano và carbon nano (ống than, graphene, fullerene) là một đề tài được quần
chúng đặc biệt quan tâm. Có một lúc, cụm từ "công nghệ nano" được các doanh
nghiệp in lên nhãn mác để lăng xê sản phẩm của mình. Nhưng gần đây, trên
nhiều mỹ phẩm hay kem chống nắng lại được ghi là "không sử dụng vật liệu
nano". Giới tiêu dùng rất hoang mang vì không rõ thực hư thế nào. Tuy rằng đã
có nhiều công trình khảo sát vật liệu nano trong cơ thể sinh vật, từ nhiều năm
qua số liệu thực nghiệm vẫn chưa đáp ứng kịp với sự đa dạng càng ngày càng
gia tăng của sản phẩm và vật liệu nano. Ngoài ra, các kết quả lắm khi mâu thuẫn
bởi phương thức thực nghiệm không giống nhau giữa các phòng nghiên cứu.
Trong nhiều hội thảo khoa học, độc tính nano lúc nào cũng là một đề tài nóng
và thường đưa đến những cuộc tranh luận gay gắt giữa các nhà khoa học, luật sư
và công đoàn.
Trong trường hợp ống than nano, khả năng phát viêm gây ung thư giống
như sợi thạch miên (asbestos) là một quan ngại sâu xa trong các ứng dụng y học
20 cũng như trong sản
Ốngxuất
nano và xử lý
cacbon công
và ứng nghiệp.
dụng của ốngMột
nanothí nghiệm
cacbon trong cho thấy
kĩ thuật khisống
và đời
bơm một lượng MWNT có chiều dài ống dài hơn 20 µm vào phổi con chuột thì
hiệu ứng viêm ung thư xuất hiện. Mặt khác, bằng một thí nghiệm tương tự
nhưng với chiều dài ống 1 µm thì hiện tượng viêm không xảy ra . Rõ ràng,
chiều dài ống than có ảnh hưởng sâu đậm đến việc phát viêm trong tế bào.
Nhưng người ta vẫn chưa hiểu tại sao. Ngoài ra, như được đề cập ở trên việc
giảm thiểu độc tính và gia tăng tính tự phân hủy bằng phương pháp chức năng
hoá bề mặt ống với nhóm chức thích hợp cũng đã được chứng thực. Nhưng đây
chỉ là bước đầu của một con đường dài trước mắt.
Ngành nghiên cứu độc tính nano (nanotoxicology) nay đã xuất hiện.
Những công trình nghiên cứu về độc tính, tính tương hợp, cơ cấu phân hủy
trong cơ thể đang gia tăng rất nhanh để bắt kịp với trào lưu sản xuất và sử dụng
vật liệu nano. Nhưng ở thời điểm hiện tại các vật liệu nano kể cả ống than vẫn
chưa sẵn sàng cho các ứng dụng y học có tiếp xúc với cơ thể con người.

Phần 4: KẾT LUẬN


Thế kỉ 21, khuynh hướng chung cho thấy năng lượng tái tạo, giảm ô
nhiễm môi sinh là những nhu cầu của xã hội loài người hiện nay và sẽ kéo dài
trong vài thập niên tới. Khoa học và công nghệ carbon mà trong đó ống than
nano và graphene sẽ đáp ứng những nhu cầu này trong việc triển khai pin, pin
mặt trời, siêu tụ điện, màng lọc nước. Nhu cầu xe hơi chạy pin hay pin nhiên
liệu (fuel cell) sẽ trở thành động lực cho những khám phá mới dùng ống than
nano nói riêng và vật liệu carbon nano nói chung. Tuy nhiên, bản thân ống than
nano và các vật liệu nano khác cũng có thể là chất ô nhiễm thậm chí gây ung
thư. Cộng đồng nghiên cứu và doanh nghiệp ghi nhận nghiêm túc việc này và
đã có những công trình nổi bật tìm hiểu cơ cấu gây bệnh và cải thiện bề mặt ống
than để gia tăng tính tương thích sinh học và tự phân hủy. Ngày nay, hầu hết các
nước tiên tiến đều xuất bản các quy trình, cẩm nang công nghiệp cho việc tiếp
xúc và xử lý vật liệu nano. Việc khảo sát phản ứng của tế bào sinh vật khi tiếp
xúc với vật liệu nano là một công việc phức tạp và cần thời gian vài năm, vài
mươi năm để thu thập những số liệu chính xác. Đây là những bước đi đúng
hướng để thấu hiểu những rủi ro nguy hiểm trong việc bảo vệ sự an toàn sức
khỏe và đồng thời tận dụng những đặc tính ưu việt của ống than nano trong các
ứng dụng thực tiễn.
21 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
Đối với việc nghiên cứu và triển khai của ống nano, ta còn một chướng
ngại cuối cùng nhưng cực kỳ quan trọng. Đó là tính an toàn. Đã có báo cáo cho
biết rằng một ống nano như SWNT khi cấy vào tế bào sẽ làm tế bào phát viêm
(inflammation), một hiện tượng giống như sợi thạch miên (asbestos). Khi ở
trạng thái cụm hoặc bó, SWNT không gây sự phát viêm. Thạch miên được xác
nhận là vật liệu gây ung thư phổi. Hiện nay vật liệu này bị nghiêm cấm sản xuất
và sử dụng. Người ta đang khảo sát khả năng gây ung thư của ống nano sau khi
gây phát viêm.

Lĩnh vực vật liệu này liệu sẽ còn tiến xa đến đâu. Chúng ta hãy cùng nhau
đón chờ.
Tài liệu tham khảo

[1] Ống nano cacbon – Wikipedia Tiếng việt

[2]Vật liệu thần kỳ_Ống than nano – Trương Văn Tân

[3] Ứng dụng của ống than nano: Hiện trạng và thách thức – Trương Văn Tân

[4] Luận văn: Nghiên cứu công nghệ chế tạo, đặc trưng tính chất của ống nano
cacbon định hướng ( vuông góc, nằm ngang) – Vương Thị Quỳnh Phương

[5]Ống nano cacbon- các phương pháp chế tạo, tính chất và ứng dụng – Quách
Duy Trường

[6] http://nguoihanoi.com.vn/viet-nam-che-tao-tha-c2-a0nh-cong-va-c2-a0-cha-
c2-a0o-ban-vat-lieu-nano_22263.html

[7] https://www.slideshare.net/8s0nc1/ng-nano-cacbon

22 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống
23 Ống nano cacbon và ứng dụng của ống nano cacbon trong kĩ thuật và đời sống

You might also like