Professional Documents
Culture Documents
(123doc) Nhung Hieu Biet Co Ban Ve Thuoc Dong y
(123doc) Nhung Hieu Biet Co Ban Ve Thuoc Dong y
Bài thuốc Đông (Nam hoặc Bắc) đều có thể gồm 1 vị hoặc nhiều vị.
Ví dụ: Bài Độc ẩm thang chỉ có vị Nhân sâm; bài thuốc chữa viêm gan chỉ
có vị Nhân trần; bài thuốc nhiều vị là có hai vị trở lên như bài Thông xị
thang gồm có Thông bạch và Đạm đậu xị; bài Nhân trần Chi tử thang gồm
có Nhân trần và Chi tử. Những bài thuốc Đông y đều do người thầy thuốc
hoặc nhân dân dựa theo kinh nghiệm chữa bệnh mà dựng nên.
Việc phối hợp các vị thuốc trong một bài thuốc như thế nào để phát
huy tốt nhất tác dụng của thuốc theo ý muốn của thầy thuốc đó là kỹ thuật
dùng thuốc của Đông y.
• Cũng có lúc việc phối hợp thuốc làm tăng hoặc làm
giảm tác dụng của vị thuốc chính, ví dụ như Đại hoàng dùng với
Mang tiêu thì tác dụng sẽ mạnh, nếu dùng với Cam thảo thì tác dụng
sẽ yếu hơn.
• Một số thuốc này có thể làm giảm độc tính của thuốc
kia như Sinh khương làm giảm độc tính của Bán hạ.
• Trong việc phối hợp thuốc cũng thường chú ý đến việc
dùng thuốc bổ phải có thuốc tả như trong bài Lục vị có thuốc bổ như
Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù có thêm vị thuốc thanh nhiệt lợi thấp
như Phục linh, Đơn bì, Trạch tả. Trong bài thuốc Chỉ truật hoàn có
vị Bạch truật bổ khí kiện tỳ phải có vị Chỉ thực để hành khí tiêu trệ.
Trong bài Tứ vật có Đương qui, Thục địa bổ huyết thì có vị Xuyên
khung để hoạt huyết hoặc dùng thuốc lợi thấp kèm theo hành khí,
thuốc trừ phong kèm theo thuốc bổ huyết.
Đó là những kinh nghiệm phối hợp thuốc trong Đông y cần được
chú ý. Việc dùng thuốc nhiều hay ít là tùy theo biện chứng tình hình bệnh
mà định, nguyên tắc là phải nắm chủ chứng để chọn những chủ dược trị
đúng bệnh, không nên dùng thuốc bao vây quá nhiều gây lãng phí mà tác
dụng kém đi, một bài thuốc thông thường không nên dùng quá 12 vị. Liều
lượng của mỗi vị thuốc tong bài này tùy thuộc vào các yếu tố sau:
Ngoài ra còn tùy tình hình bệnh và mục đích dùng thuốc mà quyết
định lượng thuốc.
Một bài thuốc dù là cổ phương hay kim phương đều có phạm vi chỉ
định điều trị trên lâm sàng. Cho nên lúc sử dụng bài thuốc để đạt hiệu quả
cao phù hợp với tình hình bệnh lý cần có sự gia giảm tùy theo bệnh tật, theo
lứa tuổi, theo thể chất, của người bệnh và tùy theo cả loại dược liệu sẵn có,
khí hậu của địa phương.
1. Sự tham gia của các vị thuốc: Bài thuốc thường do sự
thay đổi vị mà tác dụng khác nhau, ví dụ bài Quế chi thang có tác
dụng giải biểu điều hòa vinh vệ dùng điều trị các bệnh ngoại cảm
biẻu chứng có mồ hôi sợ gió và sốt nhẹ. Nếu bệnh cũng có chứng
trên kèm theo suyễn gia Hạnh nhân, Hậu phác; bài thuốc sẽ có tác
dụng bình suyễn. Nếu sốt cao bỏ Ma hoàng gia Hoàng cầm bài thuốc
sẽ có tác dụng hạ sốt. Hoặc bài Ma hoàng thang có tác dụng tân ôn
phát hãn nếu bỏ Quế chi bài thuốc sẽ thành bài Tam ảo thang có tác
dụng chính là bình suyễn chỉ khái.
2. Sự gia giảm liều lượng thuốc: trong một bài thuốc nếu
lượng dùng của từng vị thuốc thay đổi thì tác dụng điều trị sẽ thay
đổi. Ví dụ bài Chỉ truật hoàn gồm có Chỉ thực và Bạch truật tác dụng
chính là kiện tỳ, nếu lượng Chỉ thực tăng gấp đôi Bạch truật thì tác
dụng bài thuốc là tiêu tích đạo trệ.
Việc phân loại bài thuốc dựa theo 8 phương pháp điều trị của Đông
y như: Thuốc giải biểu, thuốc gây nôn, thuốc tả hạ, thuốc hòa giải, thuốc
thanh nhiệt, thuốc khu hàn, thuốc tiêu đạo, thuốc bổ dưỡng. Ngoài ra còn có
các loại thuốc lý khí, lý huyết, thuốc khu phong, thuốc trừ thấp, thuốc khai
khiếu, thuốc cố sáp, thuốc trục trùng.
Việc phân loại bài thuốc cũng chỉ để tham khảo trong khi sử dụng
trên lâm sàng, tác dụng từng loại sẽ được nói rõ hơn trong phần phương tể
học.
Đông dược có 5 dạng thuốc cơ bản: Thang, hoàn, tán, cao, đơn.
Trong đó 4 loại sau là thuốc được pha chế sẵn; thực ra thuốc hoàn, tán có
khi cũng làm thuốc thang sắc uống.
1. Thuốc thang: cho nước vào ấm đổ nước vừa đủ, nấu sôi
thành thuốc nước uống. Đặc điểm thuốc thang là: dễ gia giảm hợp
với tình hình bệnh cho nên là loại thuốc thường được dùng nhiều
nhất trên lâm sàng. Nhược điểm chính của thuốc thang là cồng kềnh,
mất công sắc thuốc, mất thì giờ, tốn chất đốt, có lúc lượng thuốc
nhiều đối với trẻ em sẽ khó uống.
2. Thuốc hoàn: đem thuốc tán bột mịn dùng với nước mật
hoặc hồ viên thành hoàn. Ưu điểm của thuốc là cho đơn có được
uống ngay nhưng thuốc để lâu khó bảo quản, liều lượng có khi phải
dùng nhiều, trẻ nhỏ khó uống.
3. Thuốc tán: thuốc được tán thành bột mịn dùng uống
trong hoặc bôi ngoài, có lúc sắc cùng thuốc sắc. Nhược điểm của
thuốc là khó bảo quản, khó uống đối với trẻ em.
4. Thuốc cao: thuốc được sắc lấy nước cô đặc thành cao,
thuốc có thể chế thành dạng sirô hoặc dạng rượu để dễ bảo quản. Có
loại thuốc cao dán hoặc cao mỡ, dầu dùng bôi, đắp ngoài đối với
bệnh ngoại khoa ngoài da.
5. Thuốc đơn: thuốc hoàn hoặc tán, đưọc tinh chế như các
loại Chí bảo đơn, Hồi xuân đơn, Tử tuyết đơn. Ngoài ra còn có các
các dạng thuốc ngâm rượu, thuốc đinh như Khô trĩ đinh, thuốc đóng
ống tiêm hiện đang sử dụng nhiều ở Trung quốc.
• Những loại thuốc cứng, nặng như vỏ sò, mai rùa cần
đập vụn và cho vào sắc trước.
• Những thứ hạt nhỏ như hạt Củ cải, hạt Tía tô.nên bỏ
vào vải rồi cho vào sắc.
• Những thuốc có độc tính như: Phụ tử, Ô đầu, Thảo ô.
nên sắc trước độ nửa giờ rồi cho các thuốc khác vào sau.
• Nếu là thang thuốc bổ nên sắc 3 lần rồi trộn lẫn uống
trong một ngày.
• Thuốc chữa ngoại cảm, trừ phong nên uống lúc đang
bệnh.
Theo cân lượng thường dùng cân thuốc Đông y (1 cân = 16 lạng)
tính thành gam như sau:
• 1 ly = 0,03 gam.