Professional Documents
Culture Documents
Tai Lieu Chung SDH
Tai Lieu Chung SDH
MỤC LỤC
1. NGUYÊN LÝ GHÉP KÊNH PDH ................................................................................. 5
1) Cho phép xây dựng một mạng viễn thông kinh tế và linh hoạt: ................. 10
3) Cung cấp khả năng truyền tải tín hiệu linh hoạt: ...................................... 11
4) Cho phép xây dựng một hạ tầng mạng viễn thông thống nhất: ................. 11
3.2 SẮP XẾP 3 TÍN HIỆU 34MBIT/S VÀO KHUNG STM-1 ............................. 24
Hình 1: Các bước chuyển tín hiệu analog thành digital dùng PCM
Nhưng nếu truyền riêng biệt từng kênh 64kb/s trên dây cáp đồng (hoặc vi ba) sẽ
rất lãng phí. Vì vậy, người ta ghép các kênh số 64kb/s thành các luồng số có tốc độ cao
hơn như ghép các kênh số 64kb/s để thành luồng số 1.544kb/s (ở Bắc Mỹ và Nhật Bản)
hoặc 30 kênh số 64kb/s để thành luồng số 2.048Mb/s (ở Châu Âu) rồi mới truyền đi (gọi
là luồng cấp 1). Từ các luồng cấp 1 này lại tiến hành ghép để có được các luồng số có tốc
độ cao hơn. Hệ thống ghép kênh số như vậy gọi là Hệ phân cấp số cận đồng bộ PDH
(Plesiochronous Digital Hierarchy).
1.1 CÁC TỐC ĐỘ BIT CỦA ANSI/CEPT
Các cấp truyền dẫn số cận đồng bộ đang tồn tại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau:
Bắc Mý (ANSI), Nhật và Châu Âu (CEPT).
Theo chiêu chuẩn của Bắc mỹ, để tạo thành số cấp cao người ta thực hiện như
hình 2:
Thực tế, các luồng số cấp thấp có tốc độ không bằng nhau (do từ nhiều nguồn
đồng hồ khác nhau) nên để thực hiện ghép kênh người ta phải dùng kỹ thuật chèn thêm
bit (justification) nhằm tạo ra một tố độ chung đồng đều cho tất cả các luồng nhánh trước
khi ghép xen bit. Chính vì vậy, để phần thu nhận biết đượcvà có biện pháp tách các bit
thêm này, nhằm khôi phục đúng luồng số liệu ban đầu thì ở phần phát người ta dùng một
tổ hợp các bit gọi là các bit kiểm soát chèn (CB) ghép thêm vào khung luồng số cấp cao
để đảm bảo chỉ ra chính xác quá trình chèn bit có được thực hiện đúng hay không.
Do đặc điểm trên mà cấu trúc một khung của luồng số cấp cao sau khi ghép kênh
sẽ có dạng như hình 5.
- Các tín hiệu nhánh gần đồn bộ nới nhau(gọi là cận động bộ), tức là tần số nhịp
mặc dù có cùng giá trị nhưng lại hơi khác nhau.
1.4 NHƯỢC ĐIỂM CỦA PDH
Mạng PDH chủ yếu đáp ứng các dịch vụ thoại, đối với các dịch vụ mới như: điện
thoại truyền hình, truyền số liệu, thì mạng PDH khó có thể đáp ứng được.
Việc tách/xen các luồng 2Mbit/s phức tạp làm giảm độ tin cậy cũng như chất
lượng của hệ thống.
Khả năng giám sát và quản lý mạng kém. Do trong các khung tín hiệu PDH không
đủ các byte nghiệp vụ để cung cấp thông tin cho điều khiển, quản lý, giám sát và bảo
dưỡng hệ thống.
Tốc độ bit của PDH không cao (tốc độ bit cao nhất được chuẩn hoá là 140Mbit/s
trên mạng viễn thông quốc tế) không thể đáp ứng cho nhu cầu phát triển các dịch vụ băng
rộng hiện tại và trong tương lai.
Thiết bị PDH cồng kềnh, các thiết bị ghép kênh và thiết bị đầu cuối thường độc lập
nhau.
Trên mạng viễn thông tồn tại 2 tiêu chuẩn phân cấp khác nhau: chuẩn Châu Âu và
Châu Mỹ, gây khó khăn và phức tạp khi nâng cấp, mở rộng và kết nối các mạng với
nhau.
Sự hạn chế về khả năng xen rẽ các luồng kiến kết nối kém linh hoạt và khó cung
cấp dịch vụ nhanh chóng,đồng thời đòi hỏi nhiều thiết bị ghép kênh làm cho giá thành
tăng lên.
Các mặt hạn chế trên của PDH sẽ được khắc phục khi sử dụng phân cấp truyền
dẫn đồng bộ SDH
2. GIỚI THIỆU VỀ SDH
2.1 KHÁI QUÁT VỀ SDH
Hệ phân cấp số đồng bộ SDH (Synchronous Digital Hierarchy) là một chuẩn quốc
tế về truyền dẫn đồng bộ tốc độ cao cho các mạng viễn thông quang, được Liên minh
viễn thông quốc tế ITU (trước đây gọi là Uỷ ban tư vấn về điện thoại và điện báo quốc tế
CCITT) phê chuẩn lần đầu tiên vào tháng 11ư1988, nội dung gồm các khuyến nghị G.7
Mạng thế hệ mới NGN 9 DHDT7BLT - Nhóm 1
GVHD: ThS. Phù Trần Tín Cáp quang truyền dẫn đồng bộ SDH
này định nghĩa về tốc độ truyền, khuôn dạng tín hiệu, các cấu trúc ghép kênh và cách xử
lý, sắp xếp các bit truyền ứng với một dịch vụ vào một cấu trúc tải trọng SDH cho một
giao diện nút mạng NNI (Network Node Interface ư giao diện chuẩn quốc tế của SDH).
Bên cạnh việc xác định các chuẩn giao diện cho NNI như trên, CCITT còn xây
dựng một loạt các chuẩn khác để quản lý hoạt động của các bộ ghép kênh đồng bộ (như
G.781, G.782 và G.783) và quản lý mạng SDH (như G.784). Việc tiêu chuẩn hoá các
thiết bị SDH để việc quản lý mạng kinh tế, linh hoạt hơn, phù hợp với các đòi hỏi của các
nhà điều hành mạng, nhằm đáp ứng cho các dịch vụ mới băng rộng trong tương lai.
Khái niệm về một hệ thống tải đồng bộ, dựa trên các chuẩn SDH không những đã
vượt ra khỏi nhu cầu cơ bản của hệ thống truyền dẫn điểm nối điểm mà còn đáp ứng
được những đòi hỏi của các mạng chuyển mạch, truyền dẫn và điều khiển mạng. Những
khả năng 3 vùng ứng dụng mạng truyền thống là: mạng nội hạt (Local Network), mạng
liên đài (Interưexchange Network) và mạng đường dài (Long Haul Network). Mặc dù
SDH dựa trên việc đưa một tín hiệu ghép kênh đồng bộ vào một luồng quang truyền trên
cáp sợi quang, thực tế SDH cũng được sử dụng trên các tuyến vô tuyến tiếp sức, thông tin
vệ tinh và ở các giao diện điện trong thiết bị viễn thông. Do đó, có thể nói SDH đã tạo ra
một hạ tầng mạng viễn thông thống nhất.
Với tính linh hoạt, truyền dải rộng và cấu hình đơn giản đã làm cho hệ thống PDH
hiện nay. Các ưu điểm đó gồm:
1) Cho phép xây dựng một mạng viễn thông kinh tế và linh hoạt:
Các chuẩn SDH được xây dựng dựa trên nguyên lý ghép kênh đồng bộ trực tiếp,
đây là yếu tố then chốt tạo nên tính kinh tế và linh hoạt của mạng viễn thông. Thực chất,
điều đó có nghĩa là các tín hiệu nhánh có thể được ghép trực tiếp vào một tín hiệu SDH
tốc độ cao hơn mà không cần qua các cấp ghép trung gian. Các phần tử mạng SDH có thể
được kết nối trực tiếp trên mạng với rất ít thiết bị nên có hiệu quả kinh tế rất cao. (Ví dụ,
sơ đồ so sánh ghép PDH và SDH).
2) Tăng cường khả năng bảo trì và quản lý mạng:
Việc tăng cường các khả năng bảo trì và quản lý mạng là yêu cầu không thể thiếu
đối với một mạng viễn thông. Để thực hiện điều đó, SDH có cấu trúc nhiều lớp trong một
cấu hình ghép kênh, tại các lớp tương ứng với các vùng bảo trì (đoạn và tuyến) đều có
thông tin đầy đủ và rõ ràng hỗ trợ cho việc điều hành khai thác và bảo trì ở cho việc điều
hành vùng tương ứng trên mạng. Trong một cấu trúc tín hiệu SDH, người ta đã dành ra
khoảng 5% dung lượng sự dụng cho các thủ tục quản lý, bảo trì và thực hành mạng (ở hệ
thống PDH chỉ có khoảng 0,5%).
3) Cung cấp khả năng truyền tải tín hiệu linh hoạt:
Tín hiệu SDH có khả năng truyền tất cả các tín hiệu nhánh hiện có trên các mạng
viễn thông PDH hiện nay (như các tín hiệu nhánh 2, 34 và 140 Mb/s của châu Âu CEPT
cũng như các tín hiệu nhánh DS1, DS2 và DS3 của Bắc Mỹ). Tức là, SDH có thể hoàn
toàn tương thích với mạng hiện có. Ngoài ra, SDH còn có khả năng truyền tải các tín hiệu
băng rộng ứng với các dịch vụ tiên tiến trong tương lai như:
- Phương thức truyền không đồng bộ ATM (Asynchronous Transfer Mode): chuẩn
cho B-ISDN.
- Giao diện truyền số liệu phân tán trên cáp quang FDDI (Fiber Distributed Data
Interface): chuẩn cho mạng cục bộ LAN tốc độ cao.
4) Cho phép xây dựng một hạ tầng mạng viễn thông thống nhất:
Nhằm đạt được tính mềm dẻo, cấu trúc tín hiệu SDH được tối ưu hoá đối với cả
mạng truyền dẫn và các ứng dụng chuyển mạch. Điều đó làm cho việc quản lý mạng rất
đơn giản trên cả 3 vùng ứng dụng viễn thông truyền thống nói trên. Có thể có một hạ tầng
mạng SDH duy nhất, trong đó cho phép kết nối giữa các vùng trực tiếp, hiệu quả và đơn
giản. Ngoài ra, SDH còn đưa ra một giao diện mạng đã chuẩn hoá là NNI, cho phép kết
nối trực tiếp thiết bị truyền dẫn của nhiều nhà cung cấp thiết bị khác nhau.
Hình 8: Ghép các luồng 2Mb/s thành tín hiệu đường dây140Mb/s (PDH) và
155Mb/s (SDH)
Ghép luồng không đồng bộ phải sử dụng sơ đồ ghép nhiều cấp. Các tín hiệu không
đồng bộ, ví dụ như các luồng 2 Mb/s (E1), được ghép với nhau (theo kiểu xen bit) và sử
dụng các bit ngoài bổ sung (nhồi bit) để bù lại sự chênh lệch về tốc độ giữa chúng, đồng
thời cùng với các bit khác (các bit khung) để tạo ra luồng số E2 cấp cao hơn (8 Mb/s). Kỹ
thuật xen bit và nhồi bit lại được sử dụng để ghép các luồng E2 thành luồng E3 (34 Mb/s)
và cứ như vậy để tạo ra luồng số cấp cao hơn. Chính vì vậy, không thể định vị được các
luồng E1 trong khung của E3, hay không thể truy nhập được luồng cấp thấp trong luồng
cấp cao. Muốn lấy một luồng cấp thấp trong luồng cấp cao thì phải sử dụng thiết bị tách
kênh xuống theo từng cấp.
Trong hệ thống đồng bộ (như SDH) thì lại khác, tần số trung bình của tất cả các
đồng hồ trong hệ thống là như nhau. Mọi đồng hồ thứ cấp đều bám theo một đồng hồ
chuẩn có độ ổn định rất cao. Do vậy, tốc độ luồng số STM-1 luôn được giữ vững ở
155,52 Mb/s, làm cho việc ghép các luồng STM-1 lại với nhau không phải dùng kỹ thuật
nhồi bit, dẫn đến việc truy nhập vào luồng STM-1 từ luồng cấp cao hơn (ví dụ STM-N)
rất dễ dàng.
Các luồng nhánh tốc độ thấp như 2,048 Mb/s được chuyển trong container ảo
(VC12) với tộc độ hơi cao hơn (2,304 Mb/s). Để tách ra luồng nhánh từ VC, người ta
dùng cơ chế "con trỏ" kết hợp với các bộ đệm để bù lại sự chênh lệch về tần số nhịp của
các đồng hồ cũng như sự trôi pha, tránh được hiện tượng mất dữ liệu khi mất đồng bộ.
Phân cấp tín hiệu đồng bộ
Trong mạng viễn thông có các hệ thống chuyển mạch số và nối chéo số, tín hiệu
đồng bộ thường được chia thành các cấp khác nhau. Trên mạng, các tín hiệu đồng hồ sẽ
quan hệ với nhau theo kiểu chủ-tớ tuỳ theo độ chính xác của tín hiệu đồng hồ. Các nốt có
đồng hồ chính xác hơn sẽ cấp tín hiệu định thời cho đồng hồ ở các nốt cấp thấp hơn. Tất
cả đồng hồ của cá theo đồng hồ chuẩn PRC.
Đồng bộ trong SDH
Tín hiệu đồng hồ của bản thân một thiết bị đầu cuối SDH có thể nhận được từ khối
cung cấp tín hiệu đồng bộ SSU (Synchronisation Supply Unit) thông qua các hệ thống
chuyển mạch và các thiết bị khác. Do đó, thiết bị đầu cuối này được coi là thiết bị chủ
(master) đối với các nốt SDH khác, cung cấp tín hiệu định thời vào tín hiệu STM-N ở đầu
ra của nó. Các nốt SDH khác sẽ làm việc trong chế độ tớ (slave) với đồng hồ của chúng
được định thời theo tín hiệu STM-N nhận được. Các chuẩn hiện nay quy định một mạng
SDH phải nhận tín hiệu định thời từ một nguồn động hồ chuẩn PRC.
2.3 TỐC ĐỘ TRUYỀN DẪN TRONG SDH
Tiêu chuẩn mới xuất hiện lần đầu tiên là SONET do công ty Bellcore (Mỹ) đưa ra,
được chỉnh sửa nhiều lần trước khi trở thành tiêu chẩn SDH quốc tế. Cả SDH và SONET
được giới thiệu rộng rãi giữa những năm 1988 và 1992. SDH được định nghĩa bởi Viện
tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu (ETSI), được sử dụng ở rất nhiều nước trên thế giới. Nhật
Bản và Bắc Mỹ cũng xây dựng các tiêu chuẩn về SDH riêng. SONET do Viện tiêu chuẩn
quốc gia Hoa Kỳ phát triển và được ứng dụng ở Bắc Mỹ.
Bảng dưới đây thể hiện các tốc độ tiêu chuẩn của SDH và SONET.
Mặc dù SONET và SDH được đưa ra ban đầu cho truyền dẫn cáp quang, nhưng
các hệ thống SDH hiện tại vẫn tương thích cao với cả SDH và SONET.
Tín hiệu Tốc độ bit Tín hiệu Dung lượng Dung lượng
SONET (Mbit/s) SDH SONET SDH
Phần container ảo (Virtual Continer - VC) và phần mào đầu đoạn (Section Overheat
SOH)
Container ảo VC
Các tín hiệu nhánh PDH được xếp vào container nói cánh khác container la sự ánh
xạ các tín hiệu PDH thanh một khuông dạng sdh theo một khuôn dạng xác định.Sau đó
container được bổ xung một số byte phục vụ cho viec giam sát,bảo trì để quang lý
container đó chuyển từ đầu phát đến đầu thu các byte bổ xung đó gọi là mào đầu tuyến
POH(path overhead) và container sau khi được gán POH là container ảo (VC). VC đươc
truyền từ đầu cuối đến đầu cuối hay VC chi được xếp và dỡ chỉ 1 lần cho dù nó có thể
được chuyển nhiều lần từ hệ thống tải này sang hệ thống tải khác trong quá trình luân
chuyển qua mạng.vd quá trình hình thành VC-4 ở đầu phát và khôi phục tín hiệu PDH
140Mb/s ở đầu thu được biểu diễn như hình sau.
Hình 13: Quá trình tạo VC-4 ở đầu phát và khôi phục tin hiệu đầu thu
Màu đầu đoạn SOH
SOH là một số byte ở một số vị trí xác định rong khung tải đảm nhiệm các chức
năng(như giám sát kiểm soát lỗi bít va tạo các kênh thông tin số liệu) phục vụ cho việc
vận chuyển VC giữa các nút(gồm các trạm tái sinh,xen/rẽ hoặc trạm nối chéo số)trong
mạng đồng bộ.SOH được gắng vào hệ thống tải và khong bị chuyển cùng các VC giữa
các hệ thống tải.
Cấu trúc chung một module chuyển tải đồng bộ STM-N như sau
đó, sau khi diễn giải con trỏ một cách thích hợp thì có khả năng truy nhập tới từng
kênh của người sử dụng độc lập ở bất kỳ thời điểm nào, mà không cần tách luồng
STM-1. Con trỏ ở hàng thứ tư, cột từ 1 9 gọi là con trỏ vùng A, còn con trỏ ở
hàng 13 và cột 1114 gọi là con trỏ vùng B. Khung STM-1 có độ dài 125ms,
có tần số là 8000 Hz, như vậy được truyền 8000 lần/s. Do đó, tốc độ bit của tín
hiệu STM-1 là: 8000 x 9 x 270 x 8 = 155520 kbit/s
Container ảo
SDH có một khái niệm gọi là VC qua đó sử dụng con trỏ và các giá trị offset, các
VC có thể được truyền trong tải trọng SDH như là các gói dữ liệu độc lập.Các VC được
sử dụng để tải các tín hiệu nhánh tốc độ thấp hơn.
Nhằm tăng khả năng truyền tải linh hoạt có nhiều loại VC úng dụng các khả năng
tải khác nhau, như bảng sau
Các chữ số trong hình này liên quan đến các tốc độ truyền dẫn cận đồng bộ như
sau:
11 tương ứng với 1554 Kbit/s
12 tương ứng với 2048 Kbit/s
21 tương ứng với 6312 Kbit/s
22 tương ứng với 8448 Kbit/s
31 tương ứng với 34368 Kbit/s
32 tương ứng với 44736 Kbit/s
4 tương ứng với 139264 Kbit/s
Chữ số đầu tiên đại diện cho mức phân cấp truyền dẫn như quy định trong G702-
"Tốc độ bit của các cấp truyền dẫn số", và chữ số thứ hai đặc trưng cho tốc độ thấp hơn
(1) và cao hơn (2). Còn chữ số 4 là mức thứ 4, bằng 140 Mbit/s có trong tiêu chuẩn Châu
Âu và Bắc Mỹ. Các khối có ký hiệu và chức năng sau đây:
C-n: (n = 14) là các contener: Phần tử này có kích thước đủ để chứa các byte tải
trọng thuộc một trong các luồng cận đồng bộ.
VC-n: là các contener ảo:
- Contener ảo cơ sở (n = 1,2): gồm một C-n (n = 1,2) đơn cộng thêm các byte
mang thông tin điều khiển và giám sát tuyến nối hai VC-n này và gọi là
POH.
- Contener ảo bậc cao hơn VC-n (n = 3,4): gồm một C-n (n = 3,4) đơn và tập
hợp các nhóm khối nhánh (TUG-2S) hoặc một tập của TU-3S cùng với các
byte mang thông tin điều khiển và giám sát tuyến nối hai VC-n và được gọi
là POH.
Các đơnvị nhánh TU và đơn vị quang trị AU (ô vuông in đậm) là nơi xử lý con
trỏ. Các bit ghép và phân kênh đồng bộ có thể đươc biểu diễn như hình 19.
3. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TẠO TÍN HIỆU STM-1
3.1 SẮP XẾP TÍN HIỆU 140MB/S VÀO KHUNG STM-1
Sắp xếp tín hiệu 140MB/s vào khung C-4
Hình 20: Sắp xếp tín hiệu 140MB/s vào khung C-4
Trước khi đưa vào module chuyển tải đồng bộ STM-1, luồng số cận đồng bộ
139264Kbit/s phải được đưa vào container C-4.
Tải trọng của C-4 gồm 9 hàng và 260 cột (tức là có 9x260=2340 byte), trong khi
đó số bit của luồng số PDH 140Mbit/s (chính xác là 139264 kbit/s) là:
139264 kbit/s : 8000Hz= 17408 bit (2176 byte)
Phần tử C-3 có độ dư lớn là để truyền thêm luồng PDH 44,736 Mbit/s của chuẩn
ANSI:
44,736 Mbit/s : 8000Hz= 5593 bit
Trọng tải STM-1 là 18720 bit nên chỉ truyền được 3 luồng 34 Mbit/s.
Trong quãng thời gian 125µs, C-3 tiếp nhận 537 byte luồng PDH và bổ sung thêm
39 byte (các bit chèn cố định, các bit chèn, các bit điều khiển chèn, các bit mào đầu OH,
các bit đồng bộ).
Sắp xếp 3 tín hiệu C-3 vào VC-4
Trước khi đưa 3xC-3 vào STM-1, mỗi phần tử C-3 bổ sung thêm 9 byte VC-3
POH để thành VC-3. Như vậy, khung tín hiệu 125µs của VC-3 sẻ có 85 cột và 9 hàng
chứa 765 byte.
Phần tử TU-3 tiếp nhận 756 byte và bổ sung them 3 byte con trỏ TU-3 PTR. Bên
cạnh đó TU-3 còn chèn thêm 6 byte cố định tạo thành khối TUG-3 (có kích thước 9x86).
Như vậy, để đưa TUG-3 vào C-4 cần đưa thêm 2 cột các byte chèn cố định để đảm
bảo tốc độ định mức.
Sắp xếp tín hiệu C-4 vào STM-1
Thực hiện như mục 1.2
Hình 25: Đoạn lặp, đoạn ghép và tuyến truyền dẫn trong SDH
POH chiếm hàng 1-9 của cột đầu tiên trong VC-4 hoặc VC-3. Chức năng của các
byte trong POH như sau:
Byte J1: byte định tuyến, byte này mang thông tin điều khiển để thay đổi điểm nối
kết cuối của tuyến VC-n (n=3,4).
Byte B3: giám sát lỗi của tuyến nối giữa 2 VC-3 hoặc VC-4, nó có ký hiệu là BIP-
8. Đây là từ mã 8 bit, các bit được hình thành theo quy tắc đếm bit của các byte trong
container hoặc TUG-2 trước đó để nhận giá trị 0 hoặc 1 trong từ mã BIP-8 của VC-3
hoặc VC-4 hiện tại, sao cho trọng số của từ mã là chẵn.
Byte C2: nhãn tín hiệu , byte này chỉ rõ tải trọng của VC-n ( n= 3,4). Hiện tại chỉ
dùng 2 trong 256 giá trị của C2. Giá trị (C2=00000000) chỉ thị VC-21; VC-32 hoặc VC-4
không tham gia. Giá trị 1: (C2=00000001) chỉ thị VC-31;VC-32 hoặc VC-4 tham gia.
Byte G1: chỉ thị trạng thái của tuyến, byte này mang thông tin về trạng thái của tín
hiệu thu và gửi thông tin này trở lại cho phía máy phát.
Byte F2: kênh của người sử dụng tuyến, byte này cung cấp kênh truyền số liệu cho
người sử dụng tuyến.
Byte H4: Chỉ thị đa khung.
Byte Z3-Z5: các byte dự trữ.
5.4 MÀO ĐẦU TUYẾN POH CẤP THẤP (VC-2/VC-1)
Đồng bộ một tuyến số được thực hiện nhờ tách thông tin từ luồng số thu, cần phải
nhận dạng chính xác mỗi khe thời gian đến. không vấn đề gì tồn tại nếu không có sự cố
làm lỗi luồng bit. Tuy nhiên, cũng có lúc luồng bit có lỗi và làm mất từ mã đổng bộ
khung. Việc khôi phục đồng bộ khung được thực hiện một cách tự động trong hệ thống
PDH thì mỗi một cấp ghép khi tạo thành các khung cấp 1, cấp 2, cấp 3, cấp 4 và cấp 5
đều có từ đồng bộ khung.
Do đó việc thiết lập một tần số định thời thống nhất cho toàn bộ hệ thống sẽ độc
lập hơn so với các luồng bit thu, để cung cấp định thời giữa các thiết bị đầu cuối trong
mạng và không cần biết các luồng bit này đến từ các luồng khác nhau có được lấy từ
đồng bộ hay không ? Điều đó sẽ tốt hơn nếu bù trễ truyền dẫn giữa các trung tâm chuyển
mạch hoặc các thiết bị đầu cuối… các mạng được đồng bộ ở các dạng sau:
- Định thời được điều khiển nhờ đồng hồ chuẩn riêng hoặc đồng hồ chủ.
- Mạng bao gồm một nhóm các phân mạng mà định thời của mỗi phân mạng được
điều khiển nhờ một đổng hồ chuẩn nhưng hoạt động dị bộ giữa các phân mạng.
- Mạng có thể là dị bộ hoàn toàn nếu định thời của mỗi nút được điều khiển bởi
một đồng hồ chuẩn riêng biệt.
6.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐỒNG BỘ
Đồng bộ cưỡng bức
Đồng bộ cưỡng bức hoặc đồng bộ chủ/tớ là loại đồng bộ mà tần số chủ duy nhất
được thiết lập cho toàn mạng nhờ hoạt động của một đồng hồ chủ mạng và mọi tớ khác
đều phụ thuộc vào nó,sự phụ thuộc diễn ra theo cấu trúc nút, trong đó các đồng hồ nút
được khóa từ đồng hồ chủ lần lượt tự mình trở thành đồng hồ chủ.các bộ tạo dao động
thạch anh điều khiển nhiệt có độ ổn định cao được sử dụng làm đồng hồ chuẩn các nút
khi khóa pha với chủ mạng.
Đồng bộ độc lập
Phương pháp đồng bộ độc lập là cung cấp cho mỗi nút trong mang một đồng hồ
chuẩn có độ chính xác và ổn định cao. Phương pháp này có nhược điểm là xuất hiện trượt
do sự khác nhau của các đồng hồ của các nút hoặc do sự chèn bit trên các luồng số gây
ra.
Mạng thế hệ mới NGN 32 DHDT7BLT - Nhóm 1
GVHD: ThS. Phù Trần Tín Cáp quang truyền dẫn đồng bộ SDH
Đồng bộ tương hổ
Phương pháp đồng bộ này nhằm tạo một đồng hồ thống nhất cho toàn mạng quốc
gia nhờ hoạt động tương hổ của các bộ dao động tinh thể điều khiển nhiệt có độ ổn định
nhờ sử dụng bộ khóa pha nhiều đầu vào, các bộ dao động này đặt ở các nút mạng và được
cấp nguồn từ một trong các nút chuyển mạch khác nối đến nó.
7. KẾT LUẬN
7.1 ƯU ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG SDH
Trong PDH việc ghép kênh được tiến hành tại mỗi cấp, quá trình ghép phải lần
lượt qua các mức trung gian từ 2 đến 140 Mb/s. Việc truy cập trực tiếp đến một luồng
2Mbit/s trong một luồng 140 Mb/s là không thể thực hiện được. Chẳng hạn như khi cần
nối chéo các luồng 2 Mb/s thì phải thực hiện hạ kênh từ luồng 140 Mb/s qua nhiều cấp
xuống đến 2 Mb/s rồi mới dùng cáp nhảy để thực hiện nối chéo. Mạng lưới này rất cồng
kềnh và phức tạp và không linh hoạt đồng thời chi phí vận hành rất lớn do đòi hỏi nhiều
sức lao động trong các khâu lắp đặt chuyển cáp...
Đối với SDH thì ưu điểm nổi bật hơn là đơn giản hoá mạng lưới, linh hoạt trong
sử dụng khai thác. Khác với PDH, trong mạng SDH quá trình ghép kênh chỉ thực hiện
qua một giai đoạn, do đó việc tách một kênh 2Mbit/s trong một luồng tốc độ cao là đơn
giản. Hơn nữa, việc sử dụng phần mềm trong quản lý bảo dưỡng luồng 2 Mbit/s làm cho
việc đấu chéo các luồng 2 Mbit/s trở nên thực sự đơn giản và nhanh chóng. Chính vì thế
việc vận hành và quản lý mạng lưới đơn giản hơn nhiều so với cùng công việc này ở
mạng PDH.
Trong SDH tốc độ bit lớn hơn 140 Mbit/s lần đầu tiên được tiêu chuẩn hoá trên
phạm vi toàn thế giới.
M2 truyền dẫn của tín hiệu quang được tiêu chuẩn hoá tương thích các thiết bị của
các nhà sản xuất.
Có cấu trúc khối :
Tốc độ bit và cấu trúc khung của cấp cao hơn được tạo thành từ tốc độ bit và cấu
trúc khung của luồng cơ bản cấp thấp hơn do đó việc tách ghép luồng thông tin dễ dàng.
Có các kênh riêng cho giám sát, quản lý, đo thử hoặc điều khiển trong phần mạng
quản lý.
Tất cả các tín hiệu PDH có tốc độ thấp hơn 140 Mbit/s đều có thể ghép được vào
cấp SDH thấp nhất là STM - 1 có tốc độ 155 Mbit/s.