Professional Documents
Culture Documents
(123doc) - Do-An-Tinh-Toan-Va-Thiet-Ke-He-Thong-Chung-Cat-Tinh-Dau-Sa-Nang-Suat-150kgme
(123doc) - Do-An-Tinh-Toan-Va-Thiet-Ke-He-Thong-Chung-Cat-Tinh-Dau-Sa-Nang-Suat-150kgme
MỤC LỤC
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I – Tổng quan về tinh dầu và phương pháp sản xuất tinh dầu
2 – Tính chất vật lý và các thành phần hóa học của tinh dầu.
đã mang sức sống, năng lượng và mạnh hơn 100 lần các loại thảo dược sấy khô.
Hầu hết các loại tinh dầu đều trong, ngoại trừ vài loại tinh dầu như dầu cây hoắc
hương, dầu cam, "lemongrass" thì đều có màu vàng hoặc hổ phách.
Bất kỳ một loại tinh dầu nào cũng đều có những thành phần sau:
- Monoterpenes: Tìm thấy trong hầu hết các loại tinh dầu. Monoterpenes có
công thức phân tử là C10H16 là chất khử trùng và thuốc bổ trong tự nhiên. Chúng
được lọc không khí tốt mà có khoảng 10 nguyên tử cacbon trong đó. Mặc dù
Monoterpenes có mặt trong hầu hết các tinh dầu khác, một tỷ lệ lớn trong số họ
được tìm thấy trong các loại dầu Citrus. Họ là không màu, rất dễ bay hơi và xấu đi
nhanh chóng. Do đó, họ cần phải được xử lý với việc chăm sóc và giữ ở nhiệt độ
mát mẻ. Limonene hàng tại Lemon dầu, pinen hàng tại Pine và camphene hàng tại
Long não là những ví dụ của các loại tinh dầu.
- Sesquiterpene: Mặc dù không phải là dễ bay hơi như Monoterpenes,
sesquiterpene có hiệu quả và có khoảng 15 nguyên tử cacbon trong đó. Họ có một
tác dụng làm dịu, là chống viêm và chống nhiễm trùng. Zingiberene trong dầu
gừng, cedrene tại Cedarwood và caryophellene trong dầu đinh hương là một trong
những sesquiterpene tìm thấy trong các loại tinh dầu.
- Phenol: Các chất khử trùng hầu hết hóa chất có trong thực vật, kích thích cơ
thể phenol chức năng với liều lượng nhỏ. Tuy nhiên, liều lớn có thể là một chất độc
cho hệ thần kinh và có thể gây kích ứng da cũng như các tiện nghi tiêu hóa cho
những người nhạy cảm. Thymol hàng tại Thyme dầu và eugenol hàng tại Đinh
hương là những ví dụ của phenol.
- Rượu: Rất nhiều rượu cũng có mặt trong các loại tinh dầu. Cao chất sát
trùng, kháng khuẩn, chống nấm rượu và thuốc kháng sinh, thuốc bổ rất tốt cho hệ
thần kinh và kích thích phản ứng miễn dịch trong cơ thể. Lavendulol trong
Lavender, nerol trong Neroli và geraniol hàng tại Géranium dầu là những ví dụ của
rượu trong các loại dầu.
- Xeton: Thuốc chống đông máu, Xeton có thể thư giãn, nghiêm trang và chữa
lành các mô sẹo, hệ thống miễn dịch hoặc hệ thống hô hấp trong cơ thể. Tuy nhiên,
Xeton có thể có hại cho hệ thần kinh và có thể dẫn đến sẩy thai, co giật và bệnh
động kinh.
GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Hoàng
SVTH: Lưu Kiều Oanh – MSSV: 20123393 Trang 3
Tính toán và thiết kế hệ thống chưng cất tinh dầu sả năng suất 150kg/mẻ
- Ete/ Este: Ête và este có tính chất tương tự nhưng ete là mạnh mẽ hơn của cả
hai. Chống co thắt, kháng khuẩn và chống viêm, ete là nhẹ nhàng trên da và giúp
đỡ trong việc tái cân bằng của hệ thần kinh có hiệu quả. Cinnamyl acetate trong
Quế và myrtinly acetate trong Myrtle.
- Aldehyt: chống viêm, Aldehyt có tính chất tương tự như Xeton và cồn. Tuy
nhiên, vượt Aldehyt có thể gây ra kích thích lớn cho da và các màng nhầy. Furfurol
trong Lavender, Đàn hương, quế và Cypress là aldehyt.
- Coumarin: Anti-convulsant và chống đông, coumarin và thuốc an thần có
tác dụng thư giãn. Khi các hóa chất này có thể được cảm quang, các loại tinh dầu
với các thành phần càn được sử dụng cẩn thận và không được tiếp xúc với ánh
nắng mặt trời. Bergaptene ừong Bergamot, angelicine trong Angelica và Citroptene
trong các loại dầu Citrns là những ví dụ của coumarin.
3.1.2. Cơ sở lí thuyết
“Ở nhiệt độ nước sôi, một phần tinh dầu hòa tan vào trong nước có sẵn trong tế bào
thực vật. Dung dịch chứa tinh dầu này sẽ thẩm thấu dần ra bề mặt nguyên liệu và
bị hơi nước lôi cuốn đi. Còn nước đi vào nguyên liệu theo chiều ngược lại và tinh
dầu lại tiếp tục hòa tan vào lượng nước này. Quy trình này lặp đi lặp lại cho đến
khi tinh dầu trong các mô thoát ra ngoài hết.”
Sự khuếch tán, hòa tan, thẩm thấu sẽ dễ dàng khi tế bào chứa tinh dầu trương
phồng do nguyên liệu tiếp xúc với hơi nước bão hòa. Như vậy, sự hiện diện của
nước rất cần thiết, cho nên trong trường hợp chưng cất sử dụng hơi nước quá nhiệt,
chú ý tránh đừng để nguyên liệu bị khô. Nhưng nếu lượng nước sử dụng thừa quá
cũng không có lợi, nhất là trong trường hợp tinh dầu có chứa những cấu phần tan
dễ trong nước.
Ngoài ra, nguyên liệu được làm vỡ vụn ra càng nhiều càng tốt, cần làm cho
lớp nguyên liệu có một độ xốp nhất định để hơi nước có thể đi xuyên ngang lớp
này đồng đều và dễ dàng.
Citral, Geraniol sẽ bay hơi cùng với nước thoát ra, ta thu được hỗn hợp gồm 3 cấu
tử trên. Kết quả là đã tách được Citral, Geraniol từ trong tể bào củ xả ra thành hỗn
hợp nước, Citral, Geraniol.
Khuyết điểm chính của phương pháp là do thực hiện ở áp suất thường, nên
cấu phần có nhiệt độ sôi cao sẽ đòi hỏi một lượng rất lớn hơi nước để hóa hơi hoàn
toàn và như thế sẽ tốn rất nhiều thời gian. Về kỹ thuật, khi xong một lần chưng cất,
nước ở bên dưới vỉ phải được thay thế để tránh cho mẻ sản phẩm sau có mùi lạ.
a. Ưu điểm:
- Thiết bị khá gọn gàng, dễ chế tạo, qui trình sản xuất đơn giản
- Không đòi hỏi vật liệu phụ như các phương pháp trích ly, hấp phụ, ...
GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Hoàng
SVTH: Lưu Kiều Oanh – MSSV: 20123393 Trang 8
Tính toán và thiết kế hệ thống chưng cất tinh dầu sả năng suất 150kg/mẻ
- Thời gian chưng cất tương đối nhanh, nếu thực hiện gián đoạn chỉ cần 5-10
giờ, nếu liên tục thì 30 phút đến 1 giờ
- Có thể tiến hành chưng cất với các cấu tử tinh dầu chịu được nhiệt độ cao.
b. Nhược điểm:
- Không áp dụng phương pháp chưng cất vào những nguyên liệu có hàm
lượng tinh dầu thấp vì thời gian chưng cất sẽ kéo dài, tốn rất nhiều hơi và
nước để ngưng tụ.
- Tinh dầu thu được có thể bị giảm chất lượng nếu có chứa các cấu tử dễ bị
thủy phân, phân hủy bởi nhiệt độ cao.
- Không lấy được các loại nhựa và sáp có trong nguyên liệu (đó là những
chất định hương thiên nhiên rất có giá trị).
- Hàm lương tinh dầu còn lại trong nước chưng (nước sau phân ly) tương đối
lớn.
quản, quá trình tiến hành kéo dài, năng suất thấp. Gần đây người ta chuyển sang
hấp phụ bằng than hoạt tính gọi là hấp phụ động học. Bằng phương pháp này
người ta tạo điều kiện cho các luồng khí ẩm đi qua các lớp hoa, nhằm giữ cho hoa
được tươi lâu. Luồng không khí sau khi qua lớp hoa sẽ cuốn theo những chất thơm
bay hơi đi vào buồng hấp phụ, ở đó than hoạt tính sẽ giữ lại các chất thơm tại
buồng hấp phụ, không khí thải ra ngoài. Lớp hoa còn lại sau khi hấp phụ hết các
chất thơm bay hơi sẽ đem đi chưng cất hoặc trích ly lấy hết những chất thơm
không bay hơi còn lại.
Sả là một loại cây thân thảo, thuộc họ Hòa thảo. Thường mọc thành từng bụi
cao khoảng 1-1,5m (tùy theo dinh dưỡng trong đất nhiều hay ít hoặc cách chăm sóc
tốt hay xấu). Thân có mầu trắng hoặc hơi tím, có nhiều đốt. Sả có kiểu rể chùm,
mọc sâu vào đất, rể phát triển mạnh khi đất tơi, xốp.Lá hẹp dài, mép lá hơi nhám.
Bẹ lá ôm chặt với nhau rất chắc, tạo thành một thân giả (mà ta thường gọi là củ).
Sả đẻ chồi ở nách lá tạo thành nhánh như nhánh lúa. Với cách sinh sản này từ một
nhánh trồng ban đầu về sau chúng sẽ sinh sôi ra nhiều nhánh tạo thành một bụi sả
(giống như bụi lúa). Trong lá có nhiều tinh dầu, dược dùng làm nguyên liệu cất
tinh dầu cùng với thân (bó bẹ lá).
Sả có thể phát triển tốt trên các loại đất cằn cỗi), bạc màu, có khả năng
chống xói mòn cũng như cải tạo đất, phát triển tốt từ miền núi tới vùng biển. Sả
Java được trồng phổ biến tại tỉnh Tuyên Quang, mỗi năm có thể sản xuất 30 tấn
tinh dầu. Sả còn được trồng tại Hàm Yên, Sơn Dương, Yên Sơn, Hà Giang, Đắc
Nông, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Việt Nam có 15 loài sả, trong đó có 11 loài có mùi thơm. Về mặt hóa học có 3
nhóm chính:
- Sả cho xitronelal: Sả Java còn gọi là sả xòe (Cymbopogon winterianus
Jawitt), sả Xrilanca còn gọi là sả bẹ (Cymbopogon nardus (L.) Rendle).
Hai loài này được trồng nhiều ở Việt Nam.
- Sả cho geraniol: Sả hoa hồng (Cymbopogon martiniivar motia Burk)
đang được nghiên cứu trồng lớn để khai thác. Sả hoa hồng cho tinh dầu
rất thơm và có giá trị kinh tế cao do thành phần chính là geraniol lên tới
80%.
- Sả cho xitral: Sả chanh sồm 2 loài: Cymbopogon tortilis A.Camus và
Cymbopogon flexnosus Stapf. Các chủng loại này cũng đang được
nghiên cứu để đưa vào trồng trọt.
Nhân dân ta trồng sả từ lâu đời. Sau năm 1975, sả được trồng diện tích lớn ở
một số tỉnh thuộc khu 5 cũ, miền Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Gần đây ta có di
thực một số loài sả giàu geraniol xitral.
Nguyên liệu
Xử lý nguyên liệu
Chưng cất Bã
Ngưng tụ
Phơi
Phân ly
Chất đốt
1. Nguyên liệu
Nguyên liệu dùng cho quá trình chưng cất ở đây là Sả Java. Thành phần chính của
tinh dầu Sả là geraniol ( 23%) và xitronelal ( 32-35%). Trước khi chưng cất cần
phải xử lý nguyên liệu.
2. Xử lý nguyên liệu
Nguyên liệu là lá sả tươi đạt độ chín kỹ thuật, tức là lúc đầu lá (tính từ ngoài
vào) đã khô từ 5 ÷ 10% thì cắt, sau khi cắt xong lá sã được phơi héo đến độ ẩm còn
50 % so với ban đầu. Ở độ ẩm này, lá sã bảo quản được một số ngày ở nơi cất, hơn
nữa, cất lá sả héo sẽ giảm được 35 % nhiên liệu và 27 % thời gian chưng cất.
Trước khi đưa lá sả vào nồi cất, cần chú ý loại các tạp chất như cỏ rác lẫn vào
trong quá trình thu hái. Giả sử độ ẩm sau khi xử lý là 45%.
3. Chưng cất
Sau khi nạp liệu xong, vặn chặt các khóa nắp thiết bị và tiền hành chưng cất
bằng đun bằng than đá thong qua lò đốt trực tiếp. Giữ nhiệt độ đun ổn định để giữ
áp suất sao cho hỗn hợp nước ngưng chảy đều và liên tục. Đồng thời mở nước lạnh
vào thiết bị ngưng tụ và tiếp tục đun. Nguyên liệu nạp vào nồi cất phải đảm bảo từ
180 ÷ 200 kg/m3 thể tích thiết bị, thời gian chưng cất (lá héo) từ 2 ÷2,5 giờ. Cần
khống chế nhiệt độ nước làm lạnh trong khoảng 35 ÷ 40C.
Tại nồi nấu, hỗn hợp được gia nhiệt bằng hơi nước bão hòa đến nhiệt độ sôi.
Ở trong nồi, hơi bốc từ dưới lên vào ống dẫn hơi.
4. Ngưng tụ
Hơi được dẫn vào thiết bị ngưng tụ. Tại đây, bên ngoài ống dẫn hơi được lắp
đặt đường ống làm lạnh đi ngược chiều với hơi nóng. Khi hơi tiếp xúc với đường
ống dẫn nước lạnh sẽ bị ngưng tụ, do vậy nồng độ cấu tử dễ bay hơi tang dần theo
chiều dài ống dẫn hơi. Cấu tử dễ bay hơi có nhiệt độ sôi thấp hơn cấu tử khó bay
hơi nên khi nồng độ của nó tang thì nhiệt độ sôi của dung dịch giảm. Hơi sau khi
được ngưng tụ thành lỏng và chảy vào phễu thủy tinh và đi vào thiết bị phân ly.
5. Phân ly
Dung dịch lỏng thu được gồm có tinh dầu và nược. Tinh dầu Sả có trọng
lượng riêng nhẹ hơn nước nên phân lớp nổi lên trên, tách ra sẽ thu được tinh dầu.
Nước chưng chảy ra đáy phễu còn chứa 1 lượng tinh dầu nặng hơn nên được hồi
lưu về phễu chứa dầu nặng, rồi hồi lưu về nồi nấu để chưng cất tiếp.
Dung dịch lỏng sau ngưng tụ được tách tinh dầu bằng cách sau:
- Phương pháp lắng: Bản chất của phương pháp này là dựa vào sự khác nhau về tỷ
trọng của tinh dầu và nước. Tinh dầu khi để lắng 1 thời gian, nhờ trọng lượng riêng
khác nước sẽ lắng xuống tạo thành hai lớp và có thể tách ra dễ dàng.
- Phương pháp lọc: Phương pháp này dựa trên tính thấm ướt chọn lọc của các chất
lọc khác nhau. Khi đó người ta cho hỗn hợp thu được một chất dễ thấm nước, dễ
giữ nước và tách chúng ra khỏi tinh dầu. Phương pháp này đơn giản, đạt hiệu quả
cao đồng thời có khả năng tách cả nước lẫn muối nhưng vấn đề khó là phải lien tục
thay màng lọc.
Sau khi lọc ta thu được tinh dầu thương phẩm.
Tinh dầu thu được cho vào lọ thủy tinh màu nâu có nắp kín và được bảo quản
ở nhiệt độ và độ ẩm thích hợp.
Tinh dầu sả khử hết nước có màu sáng, được đóng chai bảo quản.
Qua đó ta có lượng tinh dầu Sả thu được sau quá trình chưng cất là:
PA, PB là áp suất riêng phần của cấu tử A và B có trong thành phần hỗn hợp,
trường hợp này các chất lỏng không hòa tan lẫn vào nhau, áp suất hơi riêng phần sẽ
cân bằng với áp suất hơi của các cấu tử đó ở dạng nguyên chất. Từ định luật
Dalton, Boi Mariot ta biết rằng thể tích tương đối của các chất khí hoặc hơi khác
nhau chứa trong hỗn hợp thì tỉ lệ với áp suất hơi riêng phần của chúng. Vì vậy, nếu
VA, VB ký hiệu là thể tích tương đối của các chất khí, chất hơi đó thì ta có:
(2)
Nếu trọng lượng các chất khí đó là G A, GB và tỷ trọng của chúng là dA, dB thì ta
có:
(3)
(4)
Nếu chia (3) cho (4) và thay tỉ số từ (2), ta được:
(5)
Theo quy luật Avogadro thể tích bằng nhau của các chất khí khác nhau, ở điều
kiện nhiệt độ áp suất giống nhau thì có chứa một lượng phân tử như nhau. Do đó,
khối lượng riêng hoặc trọng lượng riêng của các chất khí khác nhau nếu lấy cùng
một thể tích như nhau thì sẽ tỷ lệ với trọng lượng phân tử của chúng:
Hỗn hợp chỉ bắt đầu sôi khi áp suất hơi hỗn hợp cân bằng với áp suất của không
khí bên ngoài (trong điều kiện thiết bị có tiếp xúc với không khí bên ngoài) có
nghĩa là ở 760 mmHg.
Khi tổng áp suất của hỗn hợp là 771 mmHg thì áp suất hơi của xitronelal là 11
mmHg.
Khi tổng áp suất của hỗn hợp là 760 mmHg thì áp suất hơi của xitronelal là:
Tương tự, ta tính được áp suất hơi riêng phần của hơi nước:
Đặt tất cả số liệu biết được vào công thức (7) ở trên ta có:
Có nghĩa là khi hỗn hợp bay hơi ra cứ có một phần tinh dầu Sả cần 8,1 phần
nước. Ta có lượng tinh dầu thu được sau quá trình chưng là: G d = 2,2 kg, suy ra
lượng nước bay hơi cần cho quá trình chưng là:
Do tinh dầu nằm trong các tế bào gỗ của cây nên hiệu suất chuyển khối lượng
tinh dầu từ các tế bào gỗ ra rồi được hơi nước lôi cuốn rất thấp, chỉ khoảng 20%.
Lượng nước bay hơi thực tế cần cho quá trình chưng là:
Lượng nhiệt đun nóng và hóa hơi lượng nước ngấm vào nguyên liệu:
Q4 = 150.4200.(100 - 20) + 150.2253020 = 3,9.108 (J)
D = 2× = 0,030(m)
Chọn ống dẫn hơi vào là D = 30 mm.
II. Tính toán thiết bị
Thể tích chứa đầy và thể tích để cấp hơi chiểm 30 % thiết bị.
Thể tích thiết bị chưng cất: V = = 0,3 (m3)
Chọn tỉ lệ giữa đường kính trong thân thiết bị chưng cất với chiều cao thân thiết
bị là 1,5. Ta có đường kính thân thiết bị là D:
1.3. Cổ nồi
Cổ nồi là một bộ phận trung gian nối liền giữa nắp và vòi voi của nồi, cổ nồi có
thể có nhiều hình dạng, nhưng yêu cầu chung là phải làm sao cho chế tạo đơn giản.
Nhiệm vụ chính của cổ nồi là để làm cho hỗn hợp hơi thoát ra được dễ dàng, trong
trường hợp chưng cất với nước, cổ nồi giúp cho hỗn hợp hơi thoát ra không lẫn
nhiều nước. Khi chưng cất các loại nguyên liệu hạt nghiền nhỏ, cổ nồi phải giữ lại
được bụi vì vậy ở cổ nồi thường phải đặt một tấm lưới. Nhưng có đến nay, các loại
cổ nồi có lưới chắn như vậy vẫn không đáp ứng được yêu cầu loại bỏ tạp chất, vì
GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Hoàng
SVTH: Lưu Kiều Oanh – MSSV: 20123393Trang 20
Tính toán và thiết kế hệ thống chưng cất tinh dầu sả năng suất 150kg/mẻ
vậy người ta phải làm thêm một bộ phận lắng bụi riêng, trước khi hỗn hợp hơi đi
vào thiết bị ngưng tụ.
Bởi vì nguyên liệu chưng cất là sả được làm héo, cắt nhỏ nên có bụi bẩn bay
lên, ta cần làm lưới chắn bụi.
Inox 304 thể hiện khả năng dẻo dai tuyệt vời khi được hạ đến nhiệt độ của khí
hóa lỏng và người tađã tìm thấy những ứng dụng tại những nhiệt độ này. Giống
như các loại thép trong dòng Austenitic, thì từ tính của Inox 304 là rất yếu và hầu
như là không có.
Khả năng gia công Inox 304 có khả năng tạo hình rất tốt, nó có thể dát mỏng
mà không cần gia nhiệt. Điều này làm cho Inox này độc quyền trong lĩnh vực sản
xuất các chi tiết Inox. Ví dụ: chậu rửa, chảo, nồi… Ngoài ra, tính chất này còn làm
cho Inox 304 được ứng dụng làm dây thắng trong công nghiệp và các phương tiện
như ô tô, xe máy, xe đạp… Inox 304 thể hiện khả năng hàn tuyệt vời, loại inox này
phù hợp với tất cả các kỹ thuật hàn (trừ kỹ thuật hàn gió đá). Khả năng cắt gọt của
Inox 304 kém hơn so với các loại thép Carbon, khi gia công vật liệu này trên các
máy công cụ, thì phải yêu cầu tốc độ quay thấp, quán tính lớn, dụng cụ cắt phải
cứng, bén và không quên dùng nước làm mát.
Trong đó:
• p: là áp suất làm việc
Suy ra:
• C: là đại lượng bổ sung, phụ thuộc vào độ ăn mòn và dung sai của chiều
dày.
• φ: là hệ số làm yếu
Σd - đại lượng phụ thuộc vào số lỗ, cửa mở ra trên thân hình trụ. Trên thân hình
trụ của thiết bị chưng cất, ta mở một ống dẫn hơi nước đi vào thiết bị ngưng tự dx =
0,2 m
Vậy ta có độ dày thân nồi chưng cất là:
Dựa theo tiêu chuẩn của nồi chưng, chọn độ dày thiết bị chưng cất là s = 4
mm.
2. Thiết bị ngưng tụ
2.1. Các thông số đã biết
- Lượng tinh dầu thu được sau quá trình chưng là: Gd = 2,2 kg
- Lượng nước bay hơi cần cho quá trình chưng là: = 89,1 kg
Vậy tổng lượng hơi cần ngưng tụ là:
2.2. Nhiệt lượng để ngưng tụ hơi tinh dầu – nước hoàn toàn thành lỏng
Nhiệt lượng để ngưng tụ hoàn toàn hơi anethol – nước thoát ra từ nồi chưng
được tính theo công thức sau:
Qnt = L.r
Trong đó: Qnt là nhiệt lượng cần để ngưng tụ hơi tinh dầu – nước
G là lưu lượng hơi tinh dầu – nước đi vào thiết bị ngưng tụ
r là ẩn nhiệt hóa hơi của hỗn hợp tinh dầu – nước cần ngưng tụ
- Xác định r (ẩn nhiệt hóa hơi của hỗn hợp tinh dầu – nước):
Nhiệt độ của hỗn hợp hơi tinh dầu–nước khi đi vào thiết bị ngưng tụ là T =
100°C.
Với tD = 99,6 oC, tra bảng I.211 và I.212 [5], ta có:
3.3. Nhiệt lượng để làm lạnh hỗn hợp tinh dầu – nước
Sau khi ngưng tụ thành dạng lỏng thì hỗn hợp tinh dầu – nước cần phải được
làm lạnh xuống nhiệt độ tối ưu để thuận tiện cho quá trình phân ly, tách anethol
khỏi nước sau này. Ta sẽ làm lạnh hỗn hợp dịch ngưng tới tC = 35°C.
Vậy nhiệt lượng để làm lạnh hỗn hợp tinh dầu – nước xuống tC = 35°C là:
Trong đó:
Q: Lượng nhiệt truyền qua thành ống theo phương vuông góc
F: diện tích truyền nhiệt
Z: thời gian truyền nhiệt
4.4.2.1. Xác định hệ số cấp nhiệt của nước trong ống αN:
Chuẩn số Reynolds:
Đây là chế độ chảy rối, công thức xác định chuẩn số Nusselt có dạng:
Trong đó:
+ : hệ số hiệu chỉnh phụ thuộc vào chuẩn số Reynolds và tỷ lệ giữa
chiều dài ống với đường kính trong của ống
Tra bảng 1.3 tài liệu [7]:
Với tw2 : nhiệt độ của vách tiếp xúc với nước (trong ống).
4.4.2.2. Nhiệt tải qua thành ống và lớp cáu:
Trong đó:
+ tw1 : nhiệt độ của vách tiếp xúc với hỗn hợp tinh dầu – nước (ngoài ống)
Suy ra:
Vậy:
Đặt:
4.4.2.4. Từ đó, ta dùng phương pháp lặp để xác định tw1, tw2
Chọn: tw1 = 60oC :
Các tính chất lý học của hỗn hợp ngưng tụ được tra ở tài liệu [5] ứng với:
Ta có:
- Xem nhiệt tải mất mát là không đáng kể thì: qt = qR = 10355,52 (W/m2)
Ta có:
Suy ra:
Thỏa mãn.
Vậy: tw1 = 60oC và tw2 = 56,7oC
Khi đó:
Ta có:
n = 16,9
Chọn cách xếp ống thẳng hàng, bố trí theo dạng hình sáu cạnh.
Đường kính thiết bị ngưng tụ: D = 1,4dng.(2a-2) + 4.dng = 0,24m = 240 mm
Trong đó: dng – đường kính ngoài của ống, m.
a – số ống nằm trên một cạnh của hình sáu cạnh ngoài cùng, a = 3.
3. Thiết bị phân ly
Ở 20 °C, khối lượng riêng của nước là 0,9982 g/ml. Khối lượng riêng của tinh
dầu Sả khi đó là 0,882 g/ml (thực tế thì tỉ trọng tinh dầu Sả sẽ nhỏ hơn một chút so
với lí thuyết bởi lúc này tinh dầu Sả đang lẫn trong nước). Ta nhận thấy, khối
lượng riêng của tinh dầu Sả và nước không khác biệt nhau lớn, bởi vậy nếu dùng
thiết bị phân ly theo nguyên lý li tâm thì hiệu quả sẽ không cao, gây lãng phí.
Ta đã biết, tinh dầu Sả không tan trong nước. Tinh dầu Sả chỉ lẫn trong nước
bởi các tác động vật lý, khi không còn chịu các tác động vật lý đó, tinh dầu Sả sẽ
tách ra khỏi nước và nổi lên trên do có khối lượng riêng ở cùng nhiệt độ luôn lớn
hơn nước.
Như vậy ta sẽ sử dụng thiết bị phân ly dạng lắng để tách tinh dầu Sả thô ra khỏi
nước chưng. Ta chọn thiết bị phân ly hình trụ đứng, đáy thiết bị có dạng hình nón.
Đáy hình nón có gắn ống thủy tinh để quan sát, rút tinh dầu Sả thô ra khỏi thiết bị
phân ly. Phía trên có van để tháo tinh dầu.
Hỗn hợp nước và tinh dầu sau khi được ngưng tự ở thiết bị ngưng tụ sẽ chảy
theo ống dẫn xuống thiết bị phân ly. Tại đây, tinh dầu sẽ nổi lên trên của thiết bị
phân ly và được lấy ra ở cửa ra phía trên. Nước ngưng sau một thời gian sẽ đầy và
chảy ra ngoài theo cửa tháo phía dưới đáy thiết bị. Sau khi kết thúc mẻ chưng tinh
dầu sẽ được thu lại và đem đi làm khan tách hoàn toàn nước ra khỏi tinh dầu.
Lưu lượng của dịch chưng cần phân ly là 36,5 kg/h, tương đương 36,5 l/h.
Ta chọn thể tích của thiết bị phân ly là Vpl = 70 l.
Đường kính thiết bị là dpl = 0,1 m.
Từ đó ta tính được: Chiều cao thân thiết bị, không kể phần chóp là: hpl = 0,4m,
Phần hình chóp ở đáy thiết bị có chiều cao: h’pl = 0,25m.
KẾT LUẬN
Qua quá trình làm đồ án này em đã hiểu thêm rất nhiều kiến thức bổ ích cho
bản thân, từ những hiểu biết về cây Sả – một loài cây có giá trị kinh tế cao, đến
cách thiết kế một hệ thống chưng cất tinh dầu. Qua đó giúp em trau dồi thêm nhiều
kiến thức cả về kiến thức chuyên môn lẫn sự hiểu biết về kiến thức xã hội.
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước được thiên nhiên ưu đãi với rất
nhiều sản vật từ thiên nhiên, trong đó có rất nhiều loại cây quý có giá trị kinh tế
cao và trên thì trường các sản phẩm được bán ra đa số là dưới dạng sản phẩm thô
nên yêu cầu cấp thiết hiện nay là sản xuất ra các loại máy để phục vụ cho việc chế
biến các sản phẩm thô thành các sản phẩm tinh với giá cả hợp lý. Từ đó, chất
lượng các sản phẩm của chúng ta sẽ được cải thiện và đồng thời cũng nâng cao
được giá trị kinh tế của các sản phẩm này.
Tinh dầu được coi như nhựa sống của cây mang đầy đủ các đặc tính của cây
(mùi, vị, tính chất ….) nên việc chiết suất tinh dầu từ các loại cây sẽ giúp chúng ta
tiết kiệm rất nhiều trong khâu vận chuyển, sử dụng các tính chất của mỗi loại cây.
Chưng cất là một trong những phương pháp phổ biến nhất để sản xuất tinh dầu nên
việc thiết kế, chế tạo các hệ thống chưng cất tinh dầu phục vụ cho sản xuất tinh
theo em là rất cần thiết.
Trên tinh thần đó, được sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Ngọc Hoàng em đã
hoàn thành việc thiết kế một hệ thống chưng cất tinh dầu Sả với năng suất 150kg
nguyên liệu/mẻ phục vụ cho các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ. Do đây là đề tài mới
nên việc thiết kế vẫn còn sai sót em rất mong nhận được những nhận xét và chỉ bảo
của các thầy, cô.
Một lần nữa em xin được chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Ngọc Hoàng đã tận
tình hướng dẫn em để em có thể hoàn thành được đồ án này.