Professional Documents
Culture Documents
BẮC TRUNG BỘ - NHÓM 4
BẮC TRUNG BỘ - NHÓM 4
BẮC TRUNG BỘ
I. ĐẤT VÀ NGƯỜI
A. LÃNH THỔ
- Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ kéo dài và hẹp ngang nhất nước.
- Gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
- Diện tích: 51.500 km2, chiếm 15,6 % diện tích cả nước.
B. Vị trí địa lý
- Tiếp giáp: Đồng bằng sông Hồng, Trung du và miền núi Bắc Bộ, Lào và Biển Đông.
- Dãy núi Bạch Mã là ranh giới giữa Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ → thuận lợi giao lưu văn
hóa – kinh tế – xã hội của vùng với các vùng khác cả bằng đường bộ và đường biển
C. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
- Địa hình đồi núi thấp. Vùng gò đồi tương đối lớn, Bắc Trung Bộ có khả năng phát triển kinh tế
vườn rừng, chăn nuôi gia súc lớn.
- Khí hậu: Nhiệt đới ẩm gió mùa, mùa hạ nóng và khô do ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam.
- Các hệ thống sông Mã, sông Cả có giá trị về thủy lợi, giao thông thủy (ở hạ lưu) và tiềm năng thủy
điện.
- Rừng có diện tích tương đối lớn.
- Khoáng sản: cromit, thiếc, sắt, đá vôi và sét làm xi măng, đá quý.
- Tài nguyên du lịch đáng kể, trong đó phải kể đến các bãi tắm nổi tiếng như: Sầm Sơn, Cửa Lò,
Thiên Cầm, Thuận An, Lăng Cô; Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha-Kẻ Bàng; Di sản văn hóa
thế giới Di tích cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế.
D. Đặc điểm khí hậu:
- Mùa hạ đón gió mùa Tây Nam gây hiệu ứng phơn( gió khô nóng) : vào mùa này người dân nơi
đây thường mặc đồ đơn giản để cho cơ thể mát hơn.
- Mùa Đông đón gió mùa đông bắc gây mưa lớn: vào mùa này thì đa số mặc phức tạp hơn nhằm giữ
ấm cho cơ thể.
- Về mặt hành chính: vùng Bắc Trung Bộ hiện nay bao gồm 6 tỉnh với diện tích khoảng 5,15 triệu
ha (tỷ lệ 10,5% so với tổng diện tích cả nước) với khoảng trên 10,5 triệu dân (tỷ lệ 15,5% so với
tổng dân số cả nước), bình quân khoảng 204 người trên 1 cây số vuông.
- Hiện nay, ở vùng Bắc Trung Bộ có 3 đô thị loại I: thành phố Thanh Hóa (thuộc tỉnh Thanh Hóa),
thành phố Vinh (thuộc tỉnh Nghệ An), thành phố Huế (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế). Các thành phố
là đô thị loại II: thành phố Hà Tĩnh (thuộc tỉnh Hà Tĩnh), thành phố Đồng Hới (thuộc tỉnh Quảng
Bình). Các thành phố còn lại hiện nay đều là các đô thị loại III trực thuộc tỉnh.
E. Sự phân bố dân cư:
- Bắc Trung Bộ là địa bàn cư trú của 25 dân tộc.
- Trong phân bố dân cư và hoạt động kinh tế có sự khác biệt theo hướng từ đông sang tây.
- Người Kinh sinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển; còn vùng miền núi, gò đồi phía tây là địa
bàn cư trú chủ yếu của các dân tộc ít người.
+ Đồng bằng ven biển phía đông: chủ yếu là người Kinh sinh sống
+ Miền núi gò đồi phía tây : chủ yếu là các dân tộc Thái, Mường, Tày, Mông, Bru-Vân
Kiều…( Theo SGK Địa Lí)
- Người Thái: người Thái có ngôn ngữ và văn tự riêng. Các nhà dân tộc học hiện nay đã xếp tộc
người này vào Nhóm nói tiếng Thái - ngữ hệ (họ ngôn ngữ) Kra-Dai (hay còn gọi là Tai-Kadai) .
Do có chung một cội nguồn, các ngôn ngữ Thái có tỷ lệ từ vựng chung cao.
- Các ngôn ngữ Thái này chủ yếu là ngôn ngữ đơn âm tiết, có thanh điệu. Cú pháp chủ yếu là SVO
(chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Trừ những câu mệnh lệnh thức, còn ít có trường hợp đảo ngược thứ tự
này. Tiếng Thái Việt Nam là một phương ngữ được hợp bởi năm vùng thổ n
- Người Tày: Người Tày nói tiếng Tày, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái của hệ ngôn ngữ Kra-
Dai.
+ Người Tày mặc các bộ trang phục có màu. Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải
sợi bông tự dệt, được nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa
văn trang trí. Phụ kiện trang trí là các đồ trang sức làm từ bạc và đồng như khuyên tai, kiềng, lắc
tay, xà tích,.... Ngoài ra còn có thắt lưng, giày vải có quai, khăn vấn và khăn mỏ quạ màu chàm
đồng nhất.
+ Trang phục dân tộc Tày có thể được coi là một trong những bộ trang phục đơn giản nhất của 54
dân tộc anh em. Bộ trang phục tuy đơn giản nhưng có ý nghĩa với họ.
- Người Mông: Người H'Mông nói tiếng H'Mông, một ngôn ngữ chính trong ngữ hệ H'Mông-
Miền. Tiếng H'Mông vốn chưa có chữ viết, hiện dùng phổ biến là chữ Hmông Latin hóa (RPA) và
một phần là chữ Pahawh Hmông, được lập từ năm 1953
- Người Bru- Vân Kiều: Người Vân Kiều nói tiếng Bru thuộc ngữ chi Cơ Tu, ngữ hệ Môn-Khmer.
Còn gọi là tiếng Sô-Trì, Leung, Kaleu, Khùa hay Katang.
- Về Trang Phục: Nam giới Bru-Vân Kiều để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây, họ
thường lấy vỏ cây sui làm khố, áo.
- Phụ nữ Bru-Vân Kiều mặc áo và váy. Áo nữ có đặc điểm xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại
bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình
tròn hoặc hình vuông. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang. Gái chưa chồng búi
tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ Bru-Vân Kiều ở trần,
mặc váy. Váy trước đây không dài thường qua gối 20 đến 25 cm.
- Có nhóm nữ Bru-Vân Kiều đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ
đeo hạt cườm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các "đồng
tiền" bạc nhỏ màu sáng, nổi bật trên nền chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ
riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.
- Gỏi mẹm Thanh Hóa: Một món gỏi được làm từ thịt cá mẹ, một loài cá hiếm sống ở
vùng biển xa. Muốn làm gỏi cá Mẹm, người ta phải làm sạch da, tuy là cá da trơn,
nhưng cá Mẹm dù không nhớt, tanh như các loại cá da trơn khác, nhưng sần có vẻ như
cát đóng quanh da, phải làm sạch. Cá được xát muối cạo sạch, sau đó dùng dao sắc
lạng mỏng. Để miếng gỏi cá đẹp, người ta lạng thật khéo để miếng thịt cá vừa mỏng
lại to bản và trắng tinh. Cá lạng xong xếp ra đĩa là có thể dùng được.
- Bánh gai Tứ Trụ: một loại bánh đặc sản của vùng Thanh Hóa, được làm từ lá gai,
gạo nếp, đậu xanh, dầu chuối, đường, mật mía, thịt lợn nạc, nước mắm, vừng
Bánh gai Tứ Trụ có hương vị đặc trưng do sử dụng mật mía, thịt lợn nạc, nước mắm.
Khi chín, bánh gai phải mịn và thơm ngon, có vị dẻo thơm của lá gai và gạo nếp,
hương thơm của dầu chuối, vị ngọt của mật mía, mùi thơm thanh dịu của đậu, vị béo
ngậy của thịt, mùi thơm thoảng của vừng và hương vị tự nhiên của lá chuối khô.
- Cháo lươn Nghệ An: Thứ đặc sản vô cùng bổ dưỡng của xứ Nghệ, có vị thơm nồng
đặc trung cùng với thịt lươn vàng ươm được nêm nếm gia vị kĩ càng
- Súp lươn Nghệ An: Ngoài món cháo lươn, Nghệ An còn níu chân du khách bằng
món súp lươn. Đây là một biến tấu của món cháo lươn, thường được thưởng thức với
bánh mỳ nhất là bánh đã được rán giòn. Bát súp lươn nóng hổi dâ ̣y mùi với vị cay,
đằm và hương vị của lươn kết hợp cùng với những chiếc bánh mì giòn rụm đảm bảo
làm hài lòng những thực khách khó tính nhất.
- Bún bò Huế: Chỉ riêng cái tên cũng đã nói lên xuất xứ của món ăn nổi tiếng này, xứ
Huế mộng mơ. Bún bò Huế từ lâu đã trở nên phổ biến đối với người dân trên khắp
mọi miền Tổ quốc. Một bát bún đầy ắp cùng với thịt bắp bò, huyết, đôi khi còn có cả
giò heo và chả bò, chan vào nước dùng có vị của sả và ruốc, ăn kèm cùng các loại rau
như giá, xà lách, húng quế và bắp chuối.
- Bánh canh Quảng Bình: Bánh canh là một món ăn bình dân, khá phổ biến. Tùy
theo từng vùng miền mà bánh canh có hương vị và bản sắc riêng. Bánh canh
Quảng Bình luôn khiến những ai đã từng thưởng thức dù chỉ một lần đều nhớ mãi
không quên.
Chỉ với nồi nước dùng ninh từ xương ngọt béo, một vài miếng cá lóc hoặc thịt,
tôm, chả, cộng thêm những sợi mì dai và thêm hành lá, ngò xanh, chỉ thế thôi đã
làm nên cái riêng của bánh canh Quảng Bình.
- Lòng thả (lòng sả) Quảng Trị: gọi là lòng thả (lòng sả) bởi gia vị chính của món
ăn là sả, được chế biến bằng chả thả vào nồi nước. Lòng thả làm bằng cách
đánh tiết heo hay tiết vịt cho tan vụn, đổ vào nồi nước, cho sả, nêm gia vị, thêm
gạo rang vàng và đậu xanh vào nấu nhừ. Từ lòng heo hoặc vịt làm sạch, cắt
miếng vừa ăn, chờ cháo sôi, đem thả vào nồi, sôi già thì múc ra tô, có thể ăn
kèm cùng bánh mì
- Cháo hàu Quảng Bình: Cháo hàu được chế biến khá đơn giản. Sau khi đánh bắt
từ sông lên, hàu được tách vỏ ra và rửa sạch, vớt để ráo nước rồi xào với gia vị
như hành, ớt, tiêu cùng muối và nước mắm để cho thấm. Trong nước dùng để
nấu cháo có thể cho thêm nước nấu từ xương để làm tăng vị ngọt đậm đà của
món ăn, thêm một ít rau thơm, hành lá thái nhuyễn hoặc ớt chỉ thiên xắt nhỏ
dầm nước mắm ruốc, càng làm tăng độ hấp dẫn của món ăn.
- Kẹo Cu Đơ: Kẹo Cu Đơ là một loại kẹo lạc, đặc sản của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Chắc hẳn ai cũng từng nghe qua và thắc mắc về cái tên Cu Đơ, sở dĩ có tên gọi như
thế là vì cách đọc từ tiếng Pháp "Cu Deux", nghĩa là Cu Hai, người đã sáng tạo ra
món ăn này. Kẹo Cu Đơ chủ yếu được làm từ đậu phộng và mật mía, kẹp giữa hai
miếng bánh tráng.
- Các loại bánh Huế: vùng đất cố đô không chỉ nổi tiếng với dòng sông Hương trữ
tình hay tà áo mộng mơ, mà còn có những món bánh đặc trưng làm say lòng du
khách. Có thể kể đến món bánh bèo chén, bánh bột lọc, bánh khoái, bánh ram ít hay
bánh nậm, bánh phu thê
- Rượu Kim Long Quảng Trị: hay còn gọi là xika, một loại rượu đế nổi tiếng có
nguồn gốc từ huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị, thường gọi là xika. Trong Đại Nam
nhất thống chí đã viết rượu Kim Long ở Hải Lăng, Quảng Trị là ngon hơn hết. Thời
Pháp thuộc, thực dân chiếm hết các lò nấu rượu trong tỉnh và lập công ty rượu XiKa.
Khi rượu ra lò đóng vào chai sẽ được đem ngâm trong hồ nước lạnh một thời gian
nhất định, rồi dùng thuyền nhỏ chở rượu theo sông Vĩnh Định về Huế, lên tàu lớn chở
về Pháp và từ đó xuất cảng ra khắp thế giới.
- Rượu nếp cẩm Thanh Hóa: một món quà quê vô cùng quen thuộc. Được làm từ gạo
nếp cẩm với màu tím đặc trưng khiến cho món rượu nếp cẩm khác hẳn so với các loại
rượu nếp thông thường. Món rượu độc đáo này phù hợp với mọi lứa tuổi và giới tính,
chắc chắn sẽ khiến du khách không thể nào quên.
B. VĂN HÓA NHÀ Ở
- Nhà sàn của người Thái: Dân tộc Thái ở Việt Nam khởi nguồn tập trung ở khu vực
Mường Lò (Yên Bái), từ đó phát triển sang các tỉnh Tây Bắc như Điện Biên, Lai Châu
hay vào đến tận miền trung như Thanh Hóa, Nghệ An. Người Thái có 2 nhóm tộc
chính là Thái Đen (Táy Đăm) và Thái Trắng (Táy Khao). Đây là nhóm dân tộc thiểu
số còn lưu giữ đậm bản sắc văn hóa của dân tộc cả về phong tục, ăn mặc, ẩm thực,
trang phục và đặc biệt là kiến trúc nhà ở. Nói đến đây không thể không nói tới nhà sàn
của người Thái, ngôi nhà có vẻ đẹp cả về tỷ lệ, kiến trúc hài hòa với thiên nhiên và là
nơi gìn giữ tinh thần truyền thống dân tộc này.
Nhà ở truyền thống là dạng nhà sàn được dựng từ gỗ, mái dốc lợp bằng tranh, có 5-7
gian, sàn cao khoảng 1,3-2,4m để tránh thú dữ. Mỗi nhà có 2 cầu thang, một 7 bậc
dành cho đàn ông gọi là “tang quản”, một 9 bậc dành cho phụ nữ gọi là “tang chan”.
Nhà có các chi tiết đặc trưng, tinh tế như Khau-cút, hoa văn lan can, cửa số. Trong khi
nhà của người Thái Trắng mái đầu hồi phẳng thì nhà sàn của người Thái Đen có mái
đầu hồi khum khum tạo dáng cho cả tòa nhà như hình con rùa.
Ngày nay, với sự đổi mới của xã hội, nhà sàn của người Thái cũng có một số thay đổi
nhất định để phù hợp hơn với hoàn cảnh và môi trường. Tuy nhiên vẫn là nơi giữ gìn
truyền thống và là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc này.
- Nhà rường ở Quảng Bình: Bên cạnh nhà sàn của người Thái thì nhà rường ở Quảng
Bình cũng là một nét văn hóa đặc sắc của kiến trúc nhà ở của người miền Trung. Nhà
rường được chia thành 3 loại:
Rường trính (hay còn gọi là nhà vỏ đậu, đây là loại nhà rường cụt, phía đầu rường có
hình như vỏ đậu, được chạm khắc rất tinh xảo)
Nhà chữ đinh (có cột chính cao tận nóc nhà).
Tuy nhiên, được ưa chuộng nhất vẫn là nhà rường trính với thiết kế thoáng đãng, hút
gió và chạm khắc hoa văn tinh xảo, độc đáo. Nhà rường trính gồm 3 loại: nhà 5 lòng,
4 lòng, 3 lòng.
Nhà 5 lòng là loại nhà lớn nhất với 6 hàng cột, gồm 2 cột thượng, 2 cột trung, 1 cột cù
ở phía trước và cột chái ở phía sau.
Nhà 4 lòng có 5 hàng cột, gồm 2 cột thượng, 1 cột trung, 1 cột cù ở phía trước và 1
cột chái ở phía sau.
Nhà 3 lòng gồm 4 hàng cột, trong đó 2 cột mạ, 1 cột con ở phía trước và 1 cột chái ở
phía sau.
Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu sử dụng và điều kiện kinh tế mà gia chủ đặt người thợ
làm loại nhà to, nhỏ cho phù hợp
- Nhà sàn của người Bru-Vân Kiều: người Bru-Vân Kiều thường dựng nhà với mặt
chính diện hướng về các con suối, lưng tựa vào đồi tạo thành thế án ngữ, rất kiêng
làm nhà ngoảnh mặt về hướng tây bởi họ cho rằng đây là hướng có nhiều ma quỷ, chỉ
hợp với việc chôn cất người đã khuất.
Nhà sàn truyền thống thường có 3 thế hệ cùng chung sống. Phần lớn nhà được dựng
theo lối kiến trúc 4 vài, 3 gian. Buồng luôn nằm ở phía bên trái, là nơi sinh hoạt của
vợ chồng và con nhỏ, được nối với hai gian ngoài bằng cửa phụ. Gian giữa là nơi nghỉ
ngơi của con cái đã trưởng thành và tiếp đón khách. Gian bên phải dành cho ông bà.
Khi chọn đất để xây nhà, gia chủ phải lấy tám hạt gạo, tượng trưng cho tám chiếc cột
bỏ vào một ống tre rồi chôn vào địa điểm được lựa chọn. Sau ba ngày, nếu những hạt
gạo đó còn nguyên vẹn thì đây chính là mảnh đất phù hợp. Nếu không, gia chủ phải
tìm kiếm địa điểm khác sao cho phù hợp và được sự đồng ý của thần linh.
Sau khi tìm được mảnh đất ưng ý, người Vân Kiều vào rừng chọn gỗ. Ngoài việc xin
phép chủ làng, gia đình còn phải cúng tế thần rừng và cam kết không xâm phạm rừng
ma. Trong lúc đốn gỗ, người Bru-Vân Kiều không dùng những cây bị vướng lại. Họ
cho rằng ma quỷ đã cố ý làm cây bị vướng và thứ gỗ đó phải ở lại với rừng.
Nhà sàn của người Bru-Vân Kiều chủ yếu được dựng từ gỗ, mây, tre, nứa, lá tranh...
Nhà sàn được kết cấu bởi bộ khung áp vào 8 cột gỗ chịu lực. Cột cái là cây cột đầu
tiên được dựng lên và không thay đổi vị trí trong suốt thời gian ngôi nhà tồn tại. Kết
cấu kèo luôn tuân theo các con số chẵn 4, 6, 8.
Đối với váy của phụ nữ Thái nhóm Tày Mương thì chỉ thêu phần chân váy riêng phân
thân và đầu váy được làm rời, sau mới chắp lại. Phần chân váy hay còn gọi là “tín
xìn” có nền đen làm chủ đạo, khi dệt thì ở 2 bên mép vải có bố trí xen kẽ một số sợi
vải màu trắng, xanh, đỏ, vàng, ở giữa thêu các họa tiết như rồng nước (ngược hung),
rồng cạn (ngược lạnh), hoa Bọc Tá Nghên (hoa mặt trời), hoa Bọc Hương (hoa hồng),
hươu nai (phan quáng), chim công (nộc nhung), sao 4 cánh (đao), sau đó thêu thêm
các chi tiết nhỏ.
Đối với váy của phụ nữ Thái nhóm Tày Thanh có 3 loại: váy được dệt với màu chủ
đạo là màu trắng có sọc ngang, chân váy có thêu, gọi là "xìn mục"; váy được dệt với
màu chủ đạo là màu đen, thêu ở chân váy, gọi là "xìn đán"; váy dệt đen hoặc thêu toàn
bộ váy, gọi là "xìn my".
Ngoài ra, tùy vào những dịp Lễ, Tết hay những dịp quan trọng mà người phụ nữ sẽ
mặc những chiếc váy khác nhau.
- Trang phục thổ cẩm từ Hà Tĩnh trở vào (người Bru-Vân Kiều): Trang phục thổ
cảm của người Bru-Vân Kiều thường là do phụ nữ dệt. Ban đầu họ tự dệt và thêu cho
chính mình, sau đó là cho những thành viên trong gia đình.
Trang phục của người phụ nữ Bru - Vân Kiều gồm váy và áo. Váy của phụ nữ là váy
mở, là kiểu váy chỉ có một tấm vải được cuốn tròn ở phía thân dưới. Áo trên được
thiết kế theo kiểu không có cổ (cổ khoét), có hoặc không có tay áo. Đàn ông Bru -
Vân Kiều mặc trang phục đơn giản hơn. Áo của họ không có tay áo, cổ áo. Khi mặc
thường luồn từ dưới qua cổ áo.
- Ngoài ra, nói đến trang phục của người dân Bru - Vân Kiều, người ta không khỏi nhắc
đến những trang phục truyền thống như Xân, áo “Ada”, chiếc khăn Đam nối tiếng.
Chiếc khăn đam là trang phục truyền thống của đồng bào, được dệt bằng vải có dải
ngang, hai đầu có xúc tua, dài khoảng gần 1 mét, thường có màu sắc sặc sỡ, dùng
quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy. Người dân Bru - Vân Kiều sử dụng
Xân, Ada, khăn Đam trong ngày lễ tết, ma chay, cưới xin và trong cả đời sống sinh
hoạt hằng ngày.
Đất sét làm gốm thường có hai loại, một loại mềm và dễ nhào trộn, loại còn lại thì khô
và cứng hơn. Không có một công thức hay tỉ lệ cụ thể nào để pha trộn hai loại đất sét
với nhau nhưng bằng kinh nghiệm và cảm nhận, những người thợ làm gốm nơi đây
vẫn tạo ra được loại đất tốt nhất cho việc làm nồi.
Cái đặc trưng của chiếu Nga Sơn ấy là sự óng chuốt, mềm mại mà không ở đâu hơn
Nga Sơn có sợi cói nhỏ, dài và mềm mại đến vậy. Bắt đầu dệt chiếu người ta dùng
đay sợi mắc lên thành từng hàng theo chiều dài sợi nọ cách sợi kia khoảng 1 cm trước
khi mắc đay người ta xuyên những sợi đay qua lỗ cái "go". Mỗi "và chiếu" gồm 2
người dệt, 1 người mắc sợi cói vào một cái văng (làm bằng tre, nứa) rồi văng qua "và
đay" (lúc này người ngồi trên và đay nghiêng go để và đay chia làm 2 một nửa trên,
một nửa dưới để sợi cói được văng vào) và một người dập go. Để dệt được một lá
chiếu đẹp thì 2 người mất khoảng 3-4 giờ đồng hồ. Nếu dệt chiếu cải hoa thì phải
nhuộm cói bằng phẩm màu, và phải mất 1 ngày 2 người mới dệt được một lá chiếu.
Chiếu dệt màu trắng thường được in hoa văn rồi đem hấp cho chín phẩm màu. Khi dệt
hết 1 và chiếu (thường thì khoảng 2 lá chiếu) thì được cắt ra và ghim những đầu đay
để thừa để giữ cho cây cói không bị bong ra khi sử dụng.
- Làm nón ở Hạ Thôn, Quảng Bình: Làng Hạ Thôn từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm
nón truyền thống. Trải qua những thăng trầm, biến động của thời gian và cuộc sống,
các thế hệ người dân nơi đây vẫn "giữ lửa" cho nghề truyền thống của quê hương, giữ
gìn "hồn" nón Việt trong từng sản phẩm, khiến mỗi du khách đến đây đều mê mệt nét
đẹp của nón lá Hạ Thôn.
Ngày nay, Hạ Thôn có 2 loại nón lá: nón lá xanh và nón lá dừa. Chiếc nón lá xanh
dựa trên khuôn mẫu của chiếc nón bài thơ ở Huế, được làm hoàn toàn từ thiên nhiên,
được bố trí 3 lớp và có 16 vành được làm bằng tre, nứa vót tròn. Nón lá dừa được làm
từ lá dừa, tạo ra những chiếc nón vô cùng đẹp mắt và duyên dáng.
- Làm nón lá ở Tây Hồ, Thừa Thiên - Huế: Từ lâu, nón lá Huế đã trở thành văn hóa
truyền thống của người dân Việt Nam. Không chỉ người Việt mà ngay cả du khách
nước ngoài đến Việt Nam đều muốn mang chiếc nón lá mộc mạc về làm quà. Chính
vì vậy, nghề làm nón lá đã ra đời. Một trong những làng nghề làm nón lá nổi tiếng ở
Huế không thể không nhắc đến Tây Hồ, cách thành phố Huế chừng 12km, là cái nôi
của chiếc nón bài thơ
Một chiếc nón lá đơn sơ tưởng chừng như rất đơn giản cho đến khi tự tay làm ra, đến
đây mới hiểu thêm sự vất vả, kỳ công cũng như khéo léo của những đôi bàn tay chân
chất. Người làm phải thực hiện khoảng 15 công đoạn từ lên rừng hái lá, lá non của
cây Bồ Qui Diệp sau khi hái trên rừng đem về phơi sương rồi nức vàng và ủi cho
phẳng. Tiếp theo là chuẩn bị khung chóp từ 16 nan tre vót nhỏ để chằm. Đến đây
chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh những cô thiếu nữ đang tuổi trăng rằm tự học chằm nón.
Điều làm nên nét riêng của nón Huế chính nằm ở khâu chằm. Nón Huế bao giờ cũng
được làm từ hai lớp, người thợ phải khéo léo để khi chêm lá không bị chồng lên nhau
nhiều lớp, giúp nón mỏng và thanh. Sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để
nón vừa đẹp vừa bền.
- Làm hương ở Thủy Xuân, Thừa Thiên - Huế: Một món nghề truyền thống của ông
cha từ lâu đã trở thành nghề kiếm sống của người dân Thủy Xuân. Bột hương thường
gồm: ngũ vị thuốc bắc với quế chi, thảo quả, nụ tùng, đinh hương, hoa hồi, bạch đàn,
quế…hòa với nước, trộn lại với nhau. Lõi hương được làm từ ruột tre già chẻ nhỏ
phơi nắng nhiều ngày. Bột hương trộn dẻo rồi được se quanh lõi hương rồi đem đi
phơi nắng. Người làng Thủy Xuân vẫn lưu giữ cách làm hương truyền thống thay vì
máy se hương để giữ gìn nét truyền thống, “hồn cốt” của nghề. Làng hương Thủy
Xuân có đủ các loại hương như: hương quế, hương dầu sả, hương thơm tẩy mùi,
nhang vòng, nụ trầm, nổi bật nhất là hương trầm.
- Đúc đồng ở Cồn Cát, Nghệ An: Đúc đồng từ lâu đã là một trong những nghề cổ và
tinh xảo nhất ở Việt Nam. Một trong những làng đúc đồng nổi tiếng phải nói đến Cồn
Cát, Nghệ An. Nghề đúc đồng vô cùng công phu, phải qua nhiều công đoạn phức tạp
tmới cho ra thành phẩm.
Trước hết là đúc phôi. Sau khi đã có khuôn, các nghệ nhân cho rót hợp kim đồng
nung chảy vào khuôn. Hợp kim với tỷ lệ thích hợp sao cho sản phẩm bền đẹp, không
nứt rạn là tài nghệ riêng của mỗi lò đúc. Khi đã có được hình dáng, chất lượng thô
như ý, người thợ đồng bước vào giai đoạn chạm khắc các hình thù lên sản phẩm.
Có các loại hình chạm khắc nổi, chạm khắc chìm, tạo hoa văn, cảnh vật, muông thú.
Phải là người thợ khéo léo, dày dạn kinh nghiệm mới có thể thể hiện được nét tinh
xảo của hoa văn chạm khắc.
- Nghề đan lát của người Khơ-mú: Đan lát đã từ bao đời nay là nghề thủ công có
truyền thống lâu đời và rất nổi tiếng của người Khơ Mú. Nghệ nhân Vì Văn Sân từng
chia sẻ: "Đã là người Khơ Mú ta thì ai cũng biết đan, chỉ có điều là đan đẹp hay chưa
đẹp mà thôi. Để đan được một chiếc mâm đẹp và bền phải mất 5 ngày công. Với ghế
mây thì chỉ 1 ngày có thể hoàn thành. Ngày nay, nhiều gia đình đã dùng những sản
phẩm mới mua ở chợ về nhưng không phải vì thế mà nghề truyền thống này bị mất
đi".
Đan lát được coi là công việc của người đàn ông, người đàn ông Khơ Mú càng cao
tuổi thì kinh nghiệm và kỹ thuật đan lát càng giỏi. Tùy từng loại sản phẩm, người Khơ
Mú sử dụng những kỹ thuật đan lát khác nhau.
Các cụ già thì đan những vật dụng có kỹ thuật phức tạp và khó đan như đan bem, đan
gùi, trẻ thì đan những đồ dùng đơn giản, từ đơn giản dần dần sẽ nâng lên các kỹ thuật
phức tạp hơn. Cứ như thế, nghệ thuật đan lát của người Khơ Mú ngày càng tăng tỷ lệ
thuận với tuổi đời của mỗi con người.
- Chạm khắc gỗ ở Mỹ Xuyên, Thừa Thiên - Huế: Cái độc đáo của nghề chạm khắc
gỗ Mỹ Xuyên nằm ở sự tỉ mỉ, nghệ thuật trong từng sản phẩm. Nghề chạm khắc gỗ ở
Mỹ Xuyên chiếm vị trí và có giá trị khá cao về trang trí nên có nhiều dạng khác nhau
như chạm lộng, chạm chìm, chạm nổi, chạm xếp lớp, chạm lồng, chạm khảm.Từ
những khúc gỗ thô sơ, qua bàn tay của người thợ liền trở thành những sản phẩm mỹ
nghệ mang những tinh hoa của một làng nghề.
- Dệt zèng của người Tà Ôi: Trong văn hóa của người Tà Ôi, tấm zèng (thổ cẩm)
được coi như thước đo nhiều giá trị trong đời sống. Để làm ra loại zèng bền đẹp, có
họa tiết, hoa văn tinh tế những người phụ nữ Tà Ôi phải trải qua nhiều công đoạn
công phu, cầu kỳ. Khung dệt của người Tà Ôi được làm bằng khung tre hoặc gỗ rời,
khá đơn giản và gọn nhẹ. Nhờ vậy phụ nữ Tà Ôi có thể mang bộ khung dệt tới bất cứ
đâu và dệt bất cứ khi nào thấy thuận tiện. Những tấm zèng có các màu chủ yếu: Đen,
trắng, vàng, đỏ, xanh lá và tím. Tùy theo mục đích sử dụng khác nhau mà người Tà Ôi
sẽ sử dụng những tầm vải zèng khác nhau
- Dệt sợi gai của người Thổ: Một trong những nét đặc trưng của bộ váy áo truyền
thống của đồng bào Thổ chính là váy được dệt bằng sợi gai, không chỉ váy, mà chỉ vá,
dệt chăn, khăn, thắt lưng cũng không ngoại lệ. Vải dệt từ sợi gai rất bền, đẹp. Người
con gái Thổ xưa trước khi về nhà chồng đều chăm chỉ dệt những bộ váy áo, chăn thật
đẹp cho mình và tặng cho gia đình chồng. Cũng từ khung cửi mà nhiều người nên
duyên chồng vợ. Để làm nên những chiếc váy, tấm vải sặc sở, người dệt còn tự tìm
những loại rau củ để tạo thành màu nhuộm.
Để dệt những tấm sợi gai như ý, người Thổ rất quan tâm đến công cụ chế biến sợi như
dao bóc sợi, dao tước sợi, nồi đồng to để luộc sợi gai và thanh tre vót nhọn để se sợi.
Công cụ để dệt là bàn làm bằng tre, khung cửi, tấm ghế băng để ngồi và trục cuốn vải.
Khuôn dệt dài được vót nhẵn từ những nan tre già để khi dệt mà dận chân đòn thì tạo
được khe hở cho con thoi chạy qua. Con thoi làm bằng gỗ nghiến hoặc bằng sừng,
thanh văng được làm bằng cột tre già để giữ cho mặt vải luôn đều sợi. Vải dệt từ sợi
gai có dộ mịn, đẹp và rất bền được đánh giá khá cao cả về hình thức và giá trị sử
dụng. Tuy nhiên, ngày nay nghề dệt sợi gai đang đứng trước nguy cơ mai một, phần
vì những người ngày xưa không đủ sức để dệt, phần vì những người ngày nay không
mấy quan tâm đến việc gìn giữ nghề truyền thống. Dù vậy, dệt sợi gai cũng người Thổ
vẫn là một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp, và bất kì nét văn hóa nào cũng cần được
lưu truyền đến mai sau.
- Nghề gốm ở Lò Chum, Thanh Hóa: Gốm Lò Chum vốn là những sản phẩm nổi
tiếng cả nước bởi độ bền và đẹp của nó. Một sản phẩm hoàn thiện phải trải qua nhiều
công đoạn. Đất khi được mua về sẽ được người thợ vẩy 1 lượng nước thích hợp để ủ
mềm đất rồi dùng lực của đôi chân để đánh cho tơi, cho dẻo, sau đó mới nhào nặn và
đưa lên bộ quay. Lúc này người thợ dùng thao tác vần, chuốt để tạo hình rồi ve cho
mịn bề mặt sản phẩm. Khi những khối đất thô đã thành hình, trước khi cho vào lò
nung, người thợ phải đem sản phẩm ra phơi nắng cho thật khô để tránh sức nóng từ lò
nung làm nứt vỡ. Thời gian nung trong lò kéo dài khoảng 3 ngày là kết thúc. Mỗi lô
hàng được ra lò có thể tới hàng nghìn sản phẩm.
Nhuộm răng đen xưa đã trở thành một tục phổ biến và không thể thiếu của người con gái Việt Nam.
Tục lệ này có từ thời Hùng Vương, cùng với tục ăn trầu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của các bộ
tộc người Việt cổ.
Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng.
Để nhuộm một hàm răng đen bóng, đẹp thì thuốc nhuộm răng phải có bột cánh kiến, nước cốt chanh,
phèn đen, nhựa của gáo dừa tạo thành một công thức pha chế đặc biệt mà không ai cũng làm được.
Bên cạnh đó quá trình nhuộm răng phải trải qua nhiều bước, công đoạn phức tạp và kéo dài thời gian.
Theo thời gian thì màu răng có thể sẽ bị phai bớt. Do đó người ta cần phải nhuộm lại. Đàn ông thì nhuộm
lại độ 1,2 lần, còn phụ nữ thì mỗi năm nhuộm lại một lần, đến độ qua 30 tuổi cũng không nhuộm lại nữa. Ở
thế hệ ngày nay, hình ảnh những hàm răng óng ả của người bà, mẹ, và cả những cô thiếu nữ chỉ còn là
trong quá khứ qua các câu ca dao, câu chuyện lịch sử… Nhưng rõ ràng một điều là tục nhuộm đã thể
hiện quan niệm thẩm mỹ của cha ông ta trong suốt 1 thời gian dài, và là một tục lệ cổ truyền mang
đậm chất văn hóa.
B. LỄ HỘI
Trước ngày diễn ra lễ hội, cả bản cùng góp gạo nếp để nấu rượu hiêng - dùng để cúng và mời
khách quý. Mỗi tộc họ trong bản được phân công chuẩn bị 1 mâm cỗ với các đồ lễ đủ thực
vật, động vật, đồ uống. Lễ hội đập trống được tiến hành theo hai phần: phần lễ và hội. Ở phần
lễ, già làng sẽ đọc lời khấn cầu trời đất, và thực hiện các nghi lễ truyền thống, đến phần hội
mọi người sẽ nhảy múa, uống rượu và ăn uống, đánh trống quanh đống lửa rực sáng. Ngày
này, còn được gọi là đêm thả cửa, khi mặt trống bị đánh vỡ, các thanh niên nam nữ dắt tay
nhau đi xuyên qua bóng tối, đến những gốc cây hốc đá bên suối Aky để tình tự. Lễ hội đập
trống là đêm của những câu chuyện tình yêu.
Hàng năm, đầu tháng Giêng, dân làng tổ chức lễ hội cầu ngư. Lễ hội cầu ngư được tổ chức để
dân làng tưởng nhớ vị khai canh Trương Quý Công đã thành lập làng, và dạy nghề đánh cá,
nên lễ hội tổ chức đúng vào ngày mất của ông, 12 tháng Giêng âm lịch. Theo truyền thống cứ
"tam niên đáo lệ", 3 năm một lần, thì tổ chức long trọng nhất (Từ ngày 10-12 tháng Giêng
năm Đinh Dậu này sẽ đáo lệ, đúng dịp tổ chức lễ hội cầu ngư như truyền thống). Lễ hội diễn
ra trong 3 ngày, từ mùng 10 tháng Giêng đến 12 tháng Giêng âm lịch. Cả 3 ngày dân làng tắt
bếp, tổ chức ăn cơm chung (theo đơn vị thôn). Lễ hội cầu ngư ở Thuận An, lưu giữ rất nhiều
những giá trị văn hóa truyền thống. Có lẽ vì thế, vùng đất này đã được triều nguyễn phong
tặng bốn chữ “Văn Vật Danh Hương”
Hàng năm hai lần vào dịp xuân tế (mồng 2, mồng 3 tháng 3) và thu tế tháng 7, Điện Hòn
Chén lại làng Hải Cát, huyện Hương Trà, Thừa Thiên- Huế lại tấp nập người trẩy hội Thiên Y
A Na Thánh mẫu. Nghi lễ diễn ra rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày
chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Trong đó đám rước
Thiên Y A Na Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả .
6. Lễ hội Lam Kinh
Lễ hội Lam Kinh được tổ chức hàng năm vào ngày 22 tháng 8 âm lịch (ngày giỗ của vua Lê
Thái Tổ) tại khu vực Lam Kinh thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá nơi an táng vua Lê Thái
Tổ. Nơi đây, ngày trước, theo định lệ, cứ ba năm một lần, vào ngày giỗ vua, các vua quan nhà
Lê ở Ðông Kinh (Thăng Long) lại về Lam Kinh làm lễ. Còn nhân dân địa phương hàng năm
vẫn mở hội tưởng nhớ, tôn vinh người anh hùng dân tộc này. Phần lễ được thực hiện theo
đúng nghi thức cổ truyền, tái hiện nhiều sự kiện trọng đại thời Lê như: Màn trống hội (biểu
diễn đánh trống đồng và trống da các loại), cờ hội, rước kiệu; đặc biệt là những nghi thức tế lễ
từ thời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông truyền lại.
Phần hội sẽ là các chương trình nghệ thuật tái diễn các sự kiện như: Hội thề Lũng Nhai, Lê
Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, Vua Lê Thái Tổ đăng quang, Phát huy hào khí
Lam Sơn…
Trong các ngày diễn ra lễ hội còn có những trò chơi, trò diễn truyền thống của xứ Thanh và
nhiều hoạt động nghệ thuật khác như chiếu phim, biểu diễn chèo, chương trình ca nhạc tân
cổ giao duyên…
Lễ hội mang đậm nét văn hóa dân gian truyền thống tạo nên dấu ấn của một vùng đất anh
hùng đồng thời góp phần bảo tồn nền văn hoá của dân tộc.
7. Lễ hội Bà Triệu
Lễ hội Bà Triệu được tổ chức hàng năm từ 19-24 Âm lịch để tưởng nhớ vị anh hùng Triệu Thị
Trinh – người lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại ách đô hộ của nhà Ngô năm 248. Các
nghi lễ chủ yếu được diễn ra trong lễ hội như rước kiệu, tế nữ có Hội trân, hát chầu văn, các
tiết mục diễn tả lại hào khí chống quân Ngô của Bà Triệu…Ngoài các nghi thức lễ trên còn có
lễ Mộc dục. Đây là một nghi thức lễ được nhân dân địa phương rất chú ý, thận trọng, chọn
ngày tốt để hành lễ, thường là ngày 18, 19 tháng 2 âm lịch ở cả 2 nơi đền và đình làng, do ông
từ cả và 3 ông từ phụ chịu trách nhiệm. Tiếp đó, ngày 23 tháng 2 thuộc vào các ngày chính
kỵ, ngày này không tế mà chỉ làm lễ, có một số lễ vật như 100 trứng sống, 100 quả dưa chuột,
3 bát cơm gạo trắng, 3 quả trứng luộc, bánh dày, bánh gai, bánh chưng, bánh mật…
Lễ hội thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của người dân Thanh Hóa, đồng thời tôn vinh
công lao to lớn và khí phách anh hùng của bà Triệu Thị Trinh.
Lễ hội Đền Cuông được tổ chức long trọng từ ngày 12 đến ngày 16/2 âm lịch, trong đó ngày
chính lễ là 14 và 15/2 tại xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Theo truyền thuyết, lễ
hội đền Cuông (đền Công) không chỉ là dịp cầu phúc cầu tài mà còn là dịp để lòng người ghi
dấu đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu chạy
trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại. Lễ hội Đền Cuông chính thức ra đời từ năm 1993, còn
trước đó nó chỉ tồn tại dưới hình thức lễ tế thần. Phần lễ của lễ hội đền Cuông bao gồm năm
lễ: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ đại và lễ tạ. Ngoài ra, còn có thêm lễ túc trực.
Khi tham gia lễ, các vị trong ban hành lễ sẽ mặc lễ phục theo quy định.
Phần hội là phần đặc sắc nhất của lễ hội đền Cuông. Hội được diễn ra từ ngày 14 cho đến hết
ngày 16 tháng hai âm lịch. Hội bao gồm rất nhiều trò chơi dân gian, nhiều hoạt động văn hóa,
thể thao, nhiều hoạt động giải trí….
Lễ hội diễn ra trong 3 ngày từ 13 đến 16 tháng giêng hàng năm tổ chức khu mộ vua để
tưởng nhớ công tích của Mai Thúc Loan - Vị vua đã có công lãnh đạo nhân dân nổi
dậy chống lại ách thống trị hà khắc của nhà Đường, lập nên nhà nước Vạn An độc lập,
tự chủ ở thế kỷ VIII (722-726).
Lễ hội Vua Mai là lễ hội vùng của tỉnh Nghệ An, lễ hội được tổ chức theo quy mô vừa
nhưng vẫn mang những nghi thức chung như nhiều nơi trong tỉnh và cả nước: lễ tế,
rước kiệu, đua thuyền, hội vật…
• Ngày 13/1: Lễ khai quang tại mộ, đền thờ và mộ thân mẫu Vua Mai
• Ngày 14/1: Lễ yết cáo tại khu mộ, đền thờ và mộ thân mẫu Vua Mai.
Các trò chơi dân gian xưa: Đấu vật, đua thuyền, hát văn, hát đối, hát ví, đánh đu, leo
cột mỡ, đi cà kheo, cướp cờ, đánh cờ….trong đó đua thuyền là vui vẻ và độc đáo nhất
còn các trò chơi như đấu vật, hát đối, đánh đu là kéo dài ngày nhất.
Thông qua lễ hội, các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh thiếu niên sẽ hiểu rõ được cội
nguồn của dân tộc, công lao đức độ của Vua Mai cùng các tướng lĩnh của ông. Các
giá trị truyền thống như yêu nước, đoàn kết cộng đồng, hiếu học đã được nhắc lại và
trao quyền cho các thế hệ trẻ.
Khác với nhiều lễ hội bơi chải (đua thuyền) ở các địa phương khác chủ yếu diễn ra trên
sông nước, kênh rạch..., lễ hội bơi chải làng Cảnh Dương lại diễn ra trên mặt biển.
Nghi lễ quan trọng nhất trong lễ cầu ngư này là nghi lễ đọc văn tế Thần Ngư. Mô ̣t vị cao niên có
uy tín nhất được làng cử ra để dâng hương và đọc văn tế. Bài văn tế thể hiêṇ lòng biết ơn sự che
chở, nâng đỡ của cá Ông và cá Bà với ngư dân trong những chuyến đi biển, cũng như lời khẩn cầu
về mô ̣t mùa biển yên bình, bô ̣i thu.
C. ÂM NHẠC
4. Hò Huế
Ru em em ngủ cho muồi
hò Huế có hàng mấy chục điệu khác nhau, tùy tình, tùy hoàn cảnh mà mang khí vị khác
nhau.Từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa hài nhi đã nghe tiếng hò ru con của mẹ. Đến lúc
đi hết một đời người, nhắm mắt xuôi tay, người về cát bụi lại “nghe” giọng hò đưa linh.