Đề cương thảo luận - Huỳnh Thanh Sang - Phần I

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 44

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

Họ và tên: Huỳnh Thanh Sang


Lớp TCCT-HC H.695

NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG

Bài 1: Những vấn đề cơ bản của CNDVBC.


Câu 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa
phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công
tác của bản thân?
1. Khái niệm vật chất, ý thức:
- Quan điểm duy vật Mácxít về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng tachép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo hiện thực khách quan bởi bộ óc của con
người, thể hiện ra như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí…Ý thức ra đời do hai nguồn gốc:
+ Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả sự tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh phản ánh
của nó.
+ Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền
đề vật chất không thể thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết
định trực tiếp đối với sự ra đời của ý thức.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
a) Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với
vật chất.
Ý thức của con người không phải là sản phẩm chủ quan thuần tuý, cũng không phải có
nguồn gốc từ một lực lượng siêu tự nhiên. Nó là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong đầu óc con người.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều do bản thân thế giới
vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất là nguồn gốc của ý
thức
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức là sự phản
ánh đối với sự biến đổi của vật chất. Vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b) Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người:
Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của con người. Bản thân ý thức
tự nó không trực tiếp làm thay đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện thực cần phải có
hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người đều được ý thức chỉ đạo, nên ý
thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan trên cơ sở đó giúp con người
xác định mục tiêu, phương hướng, lựa chọn biện pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu
của mình.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí,hành động hợp
quy luật khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn, cải tạo được thế giới, đạt
được mục đích của mình.
Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của con người đi
ngược lại quy luật khách quan thì những tác động ấy sẽ mang lại tác động tiêu cực đối với
hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chính vì thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật khách
quan, còn cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan, đồng thời chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chống lại những tư tưởng lạc hậu, phản động,
phản khoa học.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động, sáng tạo
của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút ra ý nghĩa phương
pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng và hành động theo khách quan đồng thời phát huy tính năng động
chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan là xuất phát từ tính
khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng hiện thực khách quan mà căn bản là tôn
trọng quy luật; nhận thức và hành động theo quy luật khách quan. Trong nhận thức và
hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực
lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của
ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy.
Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, mặt khác phải tích cực học
tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học đồng thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân
mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và phát huy
năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa học...trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn.

4.Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân:


Chúng ta cần nâng cao trình độ nhận thức khoa học co nhân dân nói chung và đặc biệt
đầu tư vào ngành giáo dục. Chúng ta cần xây dựng chiến lược giáo dục toàn diện với
những giải pháp mạnh mẽ, phù hợp để mở rộng quy mô chất lượng ngành đào tạo, cải tiến
phương pháp dạy và học, nâng cao trình độ chuyên môn. Kết hợp việc nâng cao trình độ
dân trí, đào tạo ra lực lượng lao động có thể đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tích cực, năng động, sáng tạo trong công tác giáo dục nhằm đưa đất nước ngày
càng phát triển.
Tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có trước
ý thức nhưng ý thức có tính lực năng động tác động trở lại vật chất. Mối tác động này chỉ
được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò
của ý thức với vật chất chính là ở chổ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách
quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiển.

Câu 2: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên
hệ và nguyên lý về sự phát triển? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
Thí dụ: Mối liên hệ giữa điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; mối liên
hệ giữa các nguyên tử, giữa các phân tử, giữa các vật thể; mối liên hệ giữa vô cơ với hữu
cơ; giữa sinh vật với môi trường; giữa xã hội với tự nhiên; giữa cá nhân với cá nhân; giữa
cá nhân với tập thể, cộng đồng;giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ phận của
đời sống xã hội; giữa tư duy với tồn tại; giữa các hình thức, giai đoạn nhận thức; giữa các
hình thái ý thức xã hội…
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới.
Trong mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ phổ biến nhất là mối
liên hệ giữa các mặt đối lập, mối liên hệ giữa lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái
chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…
Giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn
tại những mối liên hệ phổ biến trong phạm vi nhất định hoặc mối liên hệ phổ biến nhất,
trong đó mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều
kiện nhất định.
b. Nội dung, ý nghĩa của các mối liên hệ
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Sự quy định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của các
sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có của nó, tồn tại không phụ thuộc
vào ý chí con người; con người chỉ có khả năng nhận thức được những mối liên hệ đó.
Tính phổ biến của mối liên hệ Phép biện chứng duy vật khẳng định: Không có bất cứ
sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự
vật, hiện tượng hay quá trình khác mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc,
phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không
phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên
trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên
hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ph.Ăngghen chỉ rõ, tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một
hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau....
Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác
động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định mối liên hệ còn có tính phong phú, đa
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
dạng. Tính chất này được biểu hiện ở chỗ:
- Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.
- Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng
có tính chất và vai trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trò cụ thể
của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ vào tính chất, đặc
trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau:
- Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
- Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp
- Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu
- Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản
- Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, giữa
các mặt của sự vật và trong sự tác động qua lại giữ sự vật đó với sự vật khác. Trên cơ sở
đó có nhận thức và hành động đúng với thực tiễn khách quan.
“Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
tất cả các mối liên hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết
phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng
nhắc”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, t.42, tr.384)
Đối lập với quan điểm biện chứng toàn diện thì quan điểm siêu hình xemxét sự vật,
hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Chủ
nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt vốn
không có mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện
cường điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong hoạt động thực
tiễn cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác động; xác định rõ vị trí
vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để đưa ra các biện
pháp đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của đối tượng cần tác động nhằm tránh quan
điểm phiến diện, siêu hình, máy móc.
2. Nguyên lý về sự phát triển
a) Khái niệm “phát triển”
Theo quan điểm siêu hình: Phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có
sự thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải
qua những bước quanh co phức tạp.
Phép biện chứng duy vật cho rằng: Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật
Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có sự khác nhau: Vận động là mọi
biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc
hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật. Phát triển là
quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình
thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ
sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b) Tính chất cơ bản của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có các tính chất cơ bản sau:
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu
thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý muốn con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và mọi quá
trình; trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng song trong mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình
phát triển không giống nhau. Sự vật, hiện tượng tồn tại trong thời gian, không gian khác
nhau có sự phát triển khác nhau.
Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, các hiện tượng
hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể, sự thay đổi của các yếu tố
tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức và
cải tạo thế giới. Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải: Xem xét sự vật và
hiện tượng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động”, trong sự
biến đổi của nó”.
- Luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là quá trình biện
chứng, bao hàm tính thuận, nghịch, đầy mâu thuẫn vì vậy, phải nhận thức được tính quanh
co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
- Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong
nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối liên hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên đồng thời phải phát huy nhân tố chủ quan của
con người để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng quy luật.
- Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.

4. Liên hệ, vận dụng vào công tác của bản thân:
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng
thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong
hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và
tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau  của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh và lhắc phục quan điểm phiến diện siêu hình
mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.

Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
-Vai trò của quy luật là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, chỉ ra nguồn gốc, động
lực của sự vận động. Như vậy chính sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật.
- Các khái niệm: mặt đối lập; thống nhất của các mặt đối lập; đấu tranh của các mặt đối
lập; mâu thuẩn biện chứng.
- Tính chất của mâu thuẩn: tính khách quan; tính phổ biến; tính đa dạng, phong phú.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
- Một số mâu thuẩn cơ bản:
+ Mâu thuẩn bên trong và mâu thuẩn bên ngoài.
+ Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẩn chia
thành mâu thuẩn cơ bàn và mâu thuẩn không cơ bản.
+ Căn cứ vào vai trò của mâu thuẩn đối với sự tồn tai và phát triển của sự vật, hiện
tượng trong 1 giai đoạn nhất định, các mâu thuẩn được chia thành mâu thuẩn chủ yếu và
mâu thuẩn thứ yếu.
+ Căn cứ vào tính chất của quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẩn trong HX thành
mâu thuẩn đối kháng và mâu thuẩn không đối kháng.
-Nội dung quy luật (4 nội dung).
Những quy luật cơ bản của pháp biện chứng duy vật:
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các sự vật,
hiện tượng, giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một
sự vật. Dựa vào mức độ tính phổ biến, được chia thành quy luật riêng, quy luật chung và
quy luật phổ biến. Dựa vào lĩnh vực tác động được chia thành quy luật tự nhiên, quy luật
XH và quy luật tư duy. Phép biện chứng duy vật gồm ba quy luật cơ bản mang tính phổ
biến như sau:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn):
Quy luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng duy vật là cơ sở để nghiên cứu các
quy luật còn lại; là sự tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Những mặt đối lập là những
mặt có khuynh hướng, thuộc tính biến đổi, phát triển trái ngược nhau trong cùng sự vật,
hiện tượng hay hệ thống sự vật, hiện tượng. Thống nhất của các mặt đối lập bao gồm 3
nghĩa: Các mặt đối lập làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau; Các mặt đối lập tác động
ngang nhau, cân bằng nhau; Giữa hai mặt đối lập có điểm chung nhau, tương đồng nhau.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự phủ định nhau, bài trừ nhau hay sự phát triển của các
mặt đối lập.
Mỗi sự vật là một thể thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa
liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau, vừa tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Khi cuộc đấu tranh của các mặt đối lập lên đên đỉnh cao nhất trong điều kiện nhất định thì
mâu thuẫn được giải quyết. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời và quá trình như trên lặp lại
tiếp diễn. Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.VD:
Trong xã hội các giai cấp luôn đối kháng nhau để biến chế độ phong kiến  chế độ TBCN
 chế độ XHCN.
Phương pháp luận: Mâu thuẫn là khách quan, do vậy không nên né tránh mâu thuẫn.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
Có nhiều loại mâu thuẫn như:
 Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại của các mặt, các khynh hướng đối lập
của cùng một s.vật. Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa những mặt đối lập
thuộc các s.vật khác nhau. Song sự phân biệt hai mâu thuẫn này có tính tương đối, phụ thuộc
vào phạm vi quan hệ được xem xét.
Vai trò của hai mâu thuẫn này đối với sự vận động, phát triển của sự vật, đó là: mâu thuẫn
bên trong có vai trò quyết định sự vận động, phát triển của nguyên nhân của sự “tự thân vận
động”. Nó không tách rời với mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến
sự vận động, phát triển của sự vật. mâu thuẫn bên ngoài phải thông qua mâu thuẫn bên trong
mới phát huy được tác dụng.
Nếu mâu thuẫn bên trong quyết định sự vận động phát triển của sự vật thì trong thực
tiễn muốn tác động làm cho sự vật vận động, phát triển. Trước hết, cần phát hiện, tạo điều
kiện giải quyết mâu thuẫn bên trong. Mặt khác, cũng không nên coi nhẹ những ảnh hưởng
của mâu thuẫn bên ngoài, vì giải quyết mâu thuẫn bên ngoài cũng có tác dụng rất quan
trọng đối với sự phát triển của sự vật. VD: Trong quá trình học tập và công tác của bản
thân cần phát huy tính độc lập, tự chủ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn của bản
thân, đồng thời cần chủ động tranh thủ sự giúp đỡcủa bạn bè với tinh thần thực sự cầu thị
và sáng tạo.
 Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của s.vật, nó tồn tại từ khi
s.vật ra đời đến khi s.vật mất đi. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quy định
bản chất của sự vật.
Vai trò của hai mâu thuẫn này đối với sự vận động, phát triển của sự vật, đó là: mâu
thuẫn cơ bản xuất phát từ bản chất của sự vật và có tác dụng chi phối và làm nảy sinh
những mâu thuẫn không cơ bản. mâu thuẫn không cơ bản tuy đóng vai trò phụ thuộc,
nhưng cũng có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của sự vật. VD:…..
Trong nhận thức cần phải xác định đúng mâu thuẫn cơ bản thì mới hiểu đúng được bản
chất của sự vật. VD: Trong thực tiễn XH, có xác định đúng mâu thuẫn cơ bản thì mới xác
định được đường lối chiến lược của CM khoa học.
 Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn mà việc giải quyết nó
không quyết định việc giải quyết các mâu thuẫn khác ở giai đoạn đó của sự vật.
Trong đó, việc phân ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu là
có ý nghĩa tương đối. Bởi vì, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, có những mâu thuẫn trong ĐK
này là chủ yếu, nhưng trong ĐK khác được coi là không chủ yếu và ngược lại. Mặt khác,
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
mâu thuẫn chủ yếu thường là hình thức của mâu thuẫn cơ bản trong từng giai đoạn. Do đó,
việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu cũng là quá trình giải quyết dần dần mâu thuẫn cơ bản.
VD: Trong CM, việc xác định mâu thuẫn chủ yếu rất quan trọng. Nó giúp cho CM xác
định được kẻ thù trước mắt, đề ra nhiệm vụ trung tâm cần giải quyết và có sách lược phù
hợp để đưa cuộc CM tiến lên. Trong hoạt động thực tiễn, mổi người, mổi ngành cũng cần
tìm ra mâu thuẫn chủ yếu của bản thân, của ngành mình để có hướng tập trung vào công
việc chính, trước mắt để giải quyết kịp thời.
 Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những GC, tập đoàn người, những
nhóm XH có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hòa. Mâu thuẫn không đối
kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng XH có đối lập về lợi ích nhưng
đó chưa phải là lợi ích cơ bản, mà chỉ là lợi ích cục bộ, tạm thời.
Về tính chất: mâu thuẫn đối kháng có xu hướng phát triển ngày càng gay gắt lên, còn
mâu thuẫn không đối kháng có xu hướng ngày càng dịu đi.
Về phương pháp và biện pháp giải quyết: Đối với mâu thuẫn đối kháng nhìn chung
thường được giải quyết bằng bạo lực CM. Đối với mâu thuẫn không đối kháng thường
được giải quyết bằng phương pháp giáo dục, điều hòa giữa các mặt đối lập. Song dù tiến
hành bằng phương pháp nào thì cả hai loại mâu thuẫn đó đều phải giải quyết bằng đấu
tranh, chứ không thể bằng cách dung hòa, điều hòa giữa các mặt đối lập.
Trong thực tiễn CM không được lẫn lộn hai loại mâu thuẫn này để tránh phạm phải sai
lầm nghiêm trọng. Nếu mâu thuẫn đối kháng mà xác định thành mâu thuẫn không đối
kháng thì sẽ dẫn đến “ hữu khuynh”. Ngược lại, mâu thuẫn không đối kháng mà xác định
trở thành mâu thuẫn đối kháng thì sẽ dẫn đến “ tả khuynh” trong việc giải quyết mâu
thuẫn. Do đó, cần phải phân tích và giải quyết một cách KH hai loại mâu thuẫn này.
Do đó, trong hoạt động thực tiển cần xác định đúng mâu thuẫn, việc giải quyết không
được chủ quan, thỏa hiệp. Muốn nhận thức và thúc đẩy sự vật phát triển, phải phát hiện,
phân tích, phân loại và tìm biện pháp giải quyết mâu thuẫn của nó. Mâu thuẫn chỉ có thể
được giải quyết khi có đủ những điều kiện chín muồi. Giải quyết mâu thuẫn phải bằng con
đường đấu tranh dưới những hình thức, biện pháp khác nhau. Chính vì thế, muốn giải
quyết mâu thuẫn thì phải tìm tòi nhận ra mâu thuẫn (thuộc loại gì?) để đề ra biện pháp giải
quyết mâu thuẫn đó cho phù hợp.Trong đấu tranh là sự tác động qua lại trong nội bộ như:
gặp gỡ, trao đổi, kiểm điểm,v.v….
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được nguồn gốc, bản chất, khuynh
hướng của sự vận động phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú do đó trong việc nhận thức và giải quyết mâu
thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn
và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần
phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất
định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu
thuẫn một cách đúng đắn nhất

*Liên hê ̣ vận dụng vào công tác của bản thân:


- Không ngừng học tập để có tri thức mới tiến bộ hơn.
- Rèn luyện bản thân để bản thân đủ sức đấu tranh với cái xấu, cái chưa tốt, đấu tranh
chống lại cái tiêu cực.
- Học thực chất, thi thực chất, nói không với tiêu cực trong thi cử.
Là một giáo viên đang giang dạy trong nhà trường XHCN, bản thân phải không ngừng
học tập, nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để vận dụng vào
thực tiển, để có quan điểm đúng đắn, khoa học trong công tác của mình.Ra sức đấu tranh
loại bỏ cái xấu, cái chưa tốt, đấu tranh chống lại tiêu cực.

Câu 4. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại?Liên hệ vận dụng
vào công tác bản thân?

1.Khái niệm
Thế giới có vô vàn các sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật có, hiện tượng có những chất vốn
có làm nên chính chúng. Nhờ đó mà có thể phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện
tượng khác.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không
phải là cái khác.
VD: chất của con người khác các động vật khác ở những thuộc tính; có ngôn ngữ, có tư
duy, biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động.
Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật nhưng không đồng nhất
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không
cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi các
thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
Chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu
thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ
cụ thể do đó việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính chỉ có ý
nghĩa tương đối.
Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối
quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật,
biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
- Lượng là gì?
Lượng là một phàm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp
điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, số
lượng nhiều hay ít...
Ví dụ: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc của ánh sáng....
+Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật
+Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con số chính xác
nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng tới khả năng trừu tượng hóa 
để nhận thức.
Ví dụ: Trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người...
+Có lượng biểu thị yếu tố bên ngoài (ví dụ: chiều cao, chiều dài cảu một vật....), có
lượng biểu thị yếu tố  quy định kết cấu bên trong (ví dụ: số lượng nguyên tử của một
nguyên tố hóa học).
2.Nội dung quy luật
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai cặp đối lập chất và lượng. Hai mặt đối
lập không tách rời nhau mà tác động qua lại biện chứng làm cho sự vận động, biến đổi
theo cách thức từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất của sự vật
và ngược lại.
-Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật
chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
VD:1.  Độ tồn tại trong đời người từ lúc sinh ra  đến lúc chết; 2. Độ tồn tại của nước
nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 00C đến 1000C.
Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối
ổn định. Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng
có thể làm thay đổi dần dần chất cũ. Lượng đổi đến một giới hạn nhất định-điểm nút, nếu
có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy làm thay đổi chất của sự vật.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã
làm thay đổi chất của sự vật.
VD: 00C và 1000C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí
(bay hơi).
Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do
những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: Một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới...
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giai phát triển
mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật đồng thời là một tiền đề
cho một quá trình tích lũy liên tục về lượng tiếp theo.
Ví dụ chứng minh:
Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất(lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng
xã hội (bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
- Chất mới ra đời , nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình
độ nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật.
Như vậy, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua
bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó
liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Nhận thức sự vật phải nhận thức cả chất và lượng của nó. Muốn thay đổi chất của sự
vật phải có sự thay đổi về lượng, cho nên không được chủ quan, nóng vội. Khi tích lũy về
lượng đã đủ cần thực hiện bước nhảy, tránh bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Trong hoạt động
thực tiễn cần chống “tả khuynh”, tức là tuyệt đối hóa bước nhảy về chất khi chưa tích lũy
đủ về lượng. Đồng thời, cần tránh xu hướng “ hữu khuynh”, tức là tuyệt đối hóa sự tích
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
lũy về lượng, không dán thực hiện bước nhảy về chất khi tích lũy về lượng đã đủ. Muốn
giữ cho sự vật còn là nó thì phải nhận thức được giới hạn độ của nó và giữ cho sự thay đổi
về lượng không vượt quá giới hạn độ cho phép.
2. Liên hệ công tác bản thân:
-Trong quá trình học tập cũng như làm việc, chúng ta cần từng bước tích lũy về lượng (
tri thức) để làm biến đổi về chất ( kết quả của công việc hoặc kết quả học tập) theo quy
luật cũng như ông cha ta thường có câu “ tích tiểu thành đại”, “ năng nhặc chặt bị”. Những
việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình
thường của người đó. Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong công
việc hằng ngày.

Câu 5 : Phân tích mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận
rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
I. Khái niệm:
gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là
một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức ...
Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận
và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để
phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý
... luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã
định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận
và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý
chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng.
Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản:
1. Khái niệm thực tiễn:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Từ khái niệm này chúng ta thấy thực tiễn có 03 đặc điểm:
- Hoạt động vật chất: là những hoạt động mà ở đó con người sử dụng công cụ, phương
tiện vật chất tác động vào các đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích
của mình. Ví dụ: hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, làm thủy lợi, đắp đê,
cày ruộng…
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
- Mang tính lịch sử - xã hội: đây là những hoạt động của con người gắn với những
điều kiện lịch sử cụ thể ờ từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Mục đích của hoạt động thực tiễn là nhằm cải tạo tự nhiên xã hội: làm biến đổi tự
nhiên và xã hội theo hướng thúc đẩy sự tiến bộ của chúng.
Có 03 hình thức thực tiễn cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất: đó là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa
mã nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người.
- Hoạt động đấu tranh chính trị - xã hội: hoạt động cải tạo các quan hệ chính trị - xã
hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp, biểu tình…
- Hoạt động thực nghiệm khoa học: ví dụ như hoạt động nghiên cứu thí nghiệm để tạo
ra vắcxin, các mô hình thí điểm…
2. Khái niệm lý luận:
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong
thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có các đặc trưng:
- Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính logic chặt chẽ.
- Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.
- Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất của sự vật hiện tượng.
II.Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một sự thống nhất:
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực
tiễn giữ vai trò quyết định.
3. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận:
- Thực tiễn là cơ sở nguồn gốc của nhận thức, lý luận.
 Thông qua và bằng hoạt động thức tiễn con người tác động vào tự nhiên vào xã
hội làm cho tự nhiên và xã hội bộc lộ thuộc tính, tính chất, đặc điểm và được những giác
quan của con người thu nhận, trải qua một quá trình với vô số lần lặp đi lặp lại dần dần
chúng ta có được tri thức hiểu biết về thế giới xung quanh và những tri thức kinh nghiệm
thực tiễn đó được các nhà khoa học khái quát lên thành các lý luận các học thuyết khác
nhau. Như vậy nếu không có hoạt động thực tiễn thì chúng ta sẽ không có bất cứ hiểu biết
nào và cũng sẽ không có những cơ sở tiền đề, chất liệu cho các nhà khoa học xây dựng lên
thành các lý luận các học thuyết khác nhau. Do đó, thực tiễn là nguồn gốc của của mọi tri
thức hiểu biết, lý luận của chúng ta. Ví dụ, chính đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu
nô lệ ở Hi Lạp – La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, Pitago… ra đời.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
 Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người (ví dụ, thông qua sản xuất,
chiến đấu những cơ quan cảm giác như thính giác, thị giác … được rèn luyện). Các cơ
quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng
đắn hơn.
 Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu
quả hơn. Ví dụ, kính thiên văn, hàn thử biểu, máy vi tính, … đều được sản xuất chế tạo
trong sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ máy móc này mà con người nhận thức sự vật
chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
- Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức, lý luận.
 Chúng ta đã biết nguồn gốc động lực của sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập để giải quyết các mâu thuẫn ngay trong chính bản thân thế giới này và điều đó
làm cho thế giới này luôn nằm trong quá trình phát triển cả trong tự nhiên, xã hội và trong
cả tư duy của chúng ta. Quá trình hoạt động thực tiễn không phải là một quá trình hoạt
động giản đơn đây là một quá trình gian khổ và trong quá trình đó thường xuyên nảy sinh
ra những mâu thuẫn, những nhu cầu… và điều này buộc con người phải nghiên cứu, nhận
thức, nắm bắt để từ đó tìm ra biện pháp giải quyết mâu thuẫn thỏa mãn nhu cầu đó làm
cho nhận thức của con người ngày càng phát triển hơn. Ví dụ: việc Bác Hồ ra đi tìm
đường cứu nước, động lực thôi thúc Bác đó chính là những mâu thuẫn của xã hội Việt
Nam đầu thế kỷ 20 mà trước hết là mâu thuẫn giữa quan hệ dân tộc Việt Nam ta với chủ
nghĩa đế quốc thực dân và thứ hai là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với địa chủ
phong kiến Việt Nam tức là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đã trở thành động
lực thôi thúc nhiều nhà yêu nước phải nhận thức phải tìm ra con đường để cứu nước cứu
dân, đây là một động lực từ trong thực tiễn.
 Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách
khác, chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giả quyết. Trên cơ sở đó thúc
đẩy nhận thức phát triển. Ví dụ, dịch cúm gà H5N1, dịch Ebola đặt ra cho nhân loại nhiệm
vụ nghiên cứu chế tạo vắc xin cho các loại dịch cúm này.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
 Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay
sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm.
Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng: tiêu chuẩn này vừa có
tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận
được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn không đứng im
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con
người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép
biến những tri thức của con người trở thành những chân vĩnh viễn, tuyệt đích cuối cùng.
Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và
hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những tri thức được
thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được bổ sung, điều
chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu
chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo
thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối. Ví dụ: Mác và Anghen nói “ Vô sản tất
cả các nước đoàn kết lại” thì Lênin nói “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại” nói như vậy không có nghĩa là Mác và Anghen nói sai và Lênin đã phản bác lại mà
Lênin đã bổ sung cho khẩu hiệu của Mác và Anghen bởi vì trong thời đại của Mác và
Anghen thì chủ nghĩa tư bản chưa phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và nó phát
triển đang tương đối đồng đều giữa các nước còn đến thời đại của Lênin thì chủ nghĩa tư
bản đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc cho nên lúc này trung tâm của cuốc
cách mạng không còn nóng ở các nước tư bản nữa mà nó chuyển sang các nước các dân
tộc thuộc địa và vì vậy để chống lại chủ nghĩa đế quốc thì phải thay đổi khẩu hiệu.

4. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:


- Lý luận soi đường dẫn dắt cho thực tiễn.
- Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để
tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
- Lý luận định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn.
 Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa
học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa
học, phản động, lạc hậu.
 Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng
dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới
thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt
mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động
và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành
động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp.
 Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật
chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác,
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát.
 Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong
tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu
khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng
cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu
quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức
năng quan trọng của lý luận. Chẳng hạn như bây giờ chỉ mới đầu thế kỷ 21 nhưng con
người đã biết được đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ trái đất sẽ nóng lên bao nhiêu, nước biển sẽ
dâng cao bao nhiêu, bao nhiêu % diện tích đất đai sẽ bị ngập mặn, bao nhiêu % dân số thế
giới sẽ bị ảnh hưởng… từ đó loài người đề ra những biện pháp để ứng phó với sự thay đổi
khí hậu toàn cầu.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn trong các hoạt động:
5. Trong nhận thức:
- Xuất phát từ thực tiễn: có nghĩa là trong quá trình nhận thức chúng ta phải lấy thực
tiễn làm căn cứ, làm cơ sở. làm điểm xuất phát để từ đó khái quát thành lý luận. Nếu vi
phạm nguyên tắc này chúng ta sẽ mắc bệnh lý thuyết suông, lý luận suông.
- Bám sát thực tiễn: để khi thực tiễn vận động biến đổi thì chúng ta phải kịp thời điều
chỉnh nhận thức, bổ sung nhận thức thậm chí thay đổi nhận thức cho phù hợp với thực tiễn
mới, có như thế thì lý luận mới phù hợp với thực tiễn. Nếu vi phạm nguyên tắc này không
bám sát thực tiễn thì gọi là mắc bệnh giáo điều, rập khuôn, máy móc… Bệnh giáo điều: là
căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là
"chìa khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể
hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi
vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực
tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện
lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Xét từ
khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý
luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Thường xuyên tổng kết thực tiễn: bởi vì thông qua hoạt động thực tiễn sẽ kiểm chứng
được tri thức, lý luận của mình đúng hay sai cho nên thông qua quá trình vận dụng lý luận
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
vào thực tiễn phải tổng kết thực tiễn để rút ra bài học kinh nghiệm có nghĩa là khẳng định
tính đúng sai. Nếu tri thức đúng thì phát triển lên, nếu tri thức sai thì phải sửa chữa, điều
chỉnh. Như vậy từ việc tổng kết thực tiễn rút ra bài học kinh nghiệm và góp phần xây dựng
lý luận, khi đã có lý luận thì trở lại điều chỉnh thực tiễn. Do đó, giữa lý luận và thực tiễn
luôn thống nhất với nhau nên chúng ta phải tổng kết thực tiễn và việc này cần phải làm
thường xuyên.
6. Trong hoạt động:thực hiện các nguyên tắc sau
- Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: trong hoạt động thực tiễn muốn hoạt động thực
tiễn có hiệu quả thì chúng ta cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết
học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông", hai khuynh hướng này sẽ đưa đến
hoạt động thực tiễn kém. Lý luận có khoa học đến đâu mà không được vận dụng vào thực
tiễn thì nó vẫn không có giá trị cải tạo hiện thực cho nên trong quá trình tổ chức hoạt động
thực tiễn để cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả thì chúng ta cần chú trọng công tác triển
khai gắn lý luận vào thực tiễn, đây là nguyên tắc quan trọng.
- Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng: nguyên tắc này
yêu cầu trong hoạt động chúng ta phải dựa vào lý luận khoa học, lấy lý luận khoa học để
soi đường, chỉ đạo cho thực tiễn. Vi phạm nguyên tắc này gọi là bệnh kinh nghiệm. Bệnh
kinh nghiệm khác với tri thức kinh nghiệm, tri thức kinh nghiệm được rút ra từ công việc
thực tiễn có ưu điểm là giải quyết công việc nhanh hơn trong điều kiện thực tiễn giống
nhau, hạn chế là đôi khi tri thức kinh nghiệm cũng dẫn đến kết quả sai do điều kiện thực
tiễn khác nhau, thực tiễn rất sinh động và luôn biến đổi không ngừng đặt ra yêu cầu mới
nhiệm vụ mới mà trong công việc nếu chúng ta tuyệt đối hóa các tri thức kinh nghiệm ngại
học tập, nâng cao trình độ lý luận khoa học để phù hợp với thực tiễn thì gọi là bệnh kinh
nghiệm.
- Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với
làm”, tránh nói một đằng, làm một nẽo; nói nhiều làm ít, nói mà không làm,….

IV. Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân:
-Chúng ta hay đề cập nhiều đến phương pháp giảng dạy mới: Lấy người học làm trung
tâm, tạo tính chủ động, tính sáng tạo cho bản thân người học, người dạy chỉ đóng vai trò
người định hướng, nhà tổ chức trong quá trình dạy học. Theo chúng tôi, với đặc thù của
môn học lý luận Mác - Lênin thì phương pháp hiệu quả nhất là giảng dạy gắn lý luận vào
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
đời sống thực tiễn, gắn những nguyên lý, những phạm trù tưởng chừng rất trừu tượng của
bài giảng vào giải quyết những vấn đề rất cụ thể bên ngoài thực tiễn cuộc sống, để làm rõ
tính khoa học và cách mạng của các nguyên lý lý luận đó, nhằm cung cấp cho học sinh
những phương tiện tri thức để chuyển dịch từ lĩnh vực học tập sang lĩnh vực hoạt động
thực tiễn. Trên cơ sở đó, người giáo viên mới có thể trở thành người định hướng, nhà tổ
chức giờ dạy học theo phương pháp nêu tình huống.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG

Bài 2: Những vấn đề cơ bản của CNDVLS

Câu 6: Phân tích nội dung và ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ sự vận dụng quy luật
này trên đất nước ta?
I. Phân tích nội dung và ý nghĩa của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất.
a) Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất Lực lượng sản
xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong
mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá
trình sản xuất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới
tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức...) và các
tư liệu sản xuất (gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động) trong đó nhân tố người lao
động giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì suy đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là
sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản
xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Trong tư liệu sản xuất, nhân tố
công cụ lao động do con người sáng tạo ra phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu
của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất làm cho các tri thức
khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển và chuyển
từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Lực lượng sản xuất phản ánh quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá
trình sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản
xuất hiện thực. Để quá trình sản sản xuất diễn ra còn phải có những quan hệ sản xuất đóng
vai trò là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất ấy. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế
giữa người và người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữa vaitrò quyết định.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ
bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của
quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Trong quá trình sản xuất, không thể có sự kết hợp các yếu tố sản xuất diễn ra bên ngoài
những hình thức kinh tế nhất định; ngược lại cũng không có quátrình sản xuất nào lại có
thể diễn ra chỉ với những quan hệ sản xuất mà không có nội dung vật chất của nó. Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với
nhau.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên
tắc khách quan: quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản
xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ:
- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế ấy tức là quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Khi lực lượng sản xuất biến
đổi quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải biến đổi theo. - Lực lượng sản xuất quyết định
cả ba mặt của quan hệ sản xuất tức là quyết định cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản
lý và phương thức phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất luôn
có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này diễn ra theo cả hai chiều hướng
tích cực và tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ
sản xuất với thực trạng của lực lượng sản xuất.
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ tạo ra tác động tích cực, thúc
đẩy và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Nếu không phù hợp sẽ tạo ra tác động tiêu cực, tức là kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có
bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau trong một phương thức
sản xuất, tạo nên sự ổn định tương đối, đảm bảo sự tương thích giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
Lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi, phát triển, tạo ra khả năng phá vỡ sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải
tái thiết lập quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp
với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này tuân theo quy luật “từ sự thay đổi về
lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại”, “quy luật phủ định của phủ định”, khiến
cho quá trình phát triển của sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự lại
vừa có tính nhảy vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình trình độ
ngày càng cao hơn.
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
nguồn gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất. Nó là
cơ sở để giải thích một cách khoa học vềnguồn gốc sâu xa của toàn bộ hiện tượng xã hội
và sự biến động trong đời sống chính trị, văn hóa của xã hội.

II.Sự vận dụng của đảng ta trong công cuộc đổi mới ở việt nam
1. Những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất trước kia:
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt mấy
chục năm qua, thực tiễn cho thấy những mặt được cũng như những mặt cũng như hạn chế
trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản
xuất, lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là Nước nông
nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau,
trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp là chủ yếu. Mặt khác Nước
ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế
quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa
có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH
trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị tư
tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn
dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội
hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này
đã không mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đã để lại hậu quả là:
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ)
thì tư hữu về tư liệu sản xuất là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và tư liệu
sản xuất. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất,
không làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không
phải là chủ thể sở hữu thực sự dẫn đến tư liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho
tập thể.
Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý tư liệu
sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi
phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là
người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng
và chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền (bộ, ngành chủ
quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính
chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại
không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm, nên người lao động
thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền
định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo
xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản
xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất̉, trên thực tế Đảng
và Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vi mô và vĩ mô thời
coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất. Điều đó đã có một tác động tích cực
đối với nền kinh tế nước ta.
2. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta.
Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai
trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ
khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền
tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa
hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy rõ các bước đi có tính qui luật trên con đường tiến
lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc
dân và xét về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ
sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công hữu
thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể". Quan niệm cho rằng có thể đưa
quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã
bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
phân tích trên.
Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình
thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho
lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên
là cần thiết về mặt này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải
giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất từ đó khắc
phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với
những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn
luôn thúc đâỷ sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh
cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư
bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính:
lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành
phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh,
thuộc kinh tế tư nhân).
Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn Lênin, trong tác phẩm
Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính trị, đã viết: “Hoặc
là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải
làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa
có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm đúng theo quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
3. Công nghiệp hoá vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng nội tại của
phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt với hiện đại hoá, trước hết phải
được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá và
muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực
lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng lao động
lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta
còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển
khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trước hết trên
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp
qui luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách
ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
vì dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong
việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Liên hệ sự vận dụng quy luật này trên đất nước ta:
Đảng ta đã vận dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và tương lai.
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định là: “Xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng, văn minh”.
Chúng ta đều biết rằng từ trước tới nay công nghiệp hoá hiện đại hoá là khuynh hướng
tất yếu của tất cả các nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu
cũng phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá như là: “Một cuộc cách mạng toàn diện
và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ’’.
Trước những năm tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã xác định công nghiệp hoá
là nhiệm vụ trung tâm của các thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song về mặt nhận thức
chúng ta đã đặt công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở vị trí gần như đối lập hoàn toàn với
công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa. Trong lựa chọn bước đi đã có lúc chúng ta thiên về
phát triển công nghiệp nặng, coi đó là giải pháp xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, và không coi trọng đúng mức việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ. Công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách đơn giản là quá trìng xây dựng một nền
sản xuất được khí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công
nghiệp với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển
theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta phải chú trọng
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo thị trường, có sự điều tiết
của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện
đồng thời, chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển . Bởi lẽ “Nếu
công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo lên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới,
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
thì việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống
quan hệ sản xuất phù hợp”.

Câu 7: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng? ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vấn
đề xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Khái niệm cơ sơ hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của hình thái
kinh tế xã hội nhất định.
Trong số các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng có quan hệ sản xuất giữ vai trò
thống trị, có quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội cũ, có quan hệ sản xuất là mầm mống
của xã hội mới sau này.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủđạo, chi phối các quan
hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế xã hội. Bởi vậy, cơ sở
hạ tầng của xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó.
Tuy nhiên quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vaitrò nhất
định.
2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, chính trị, pháp luật đạo đức tôn
giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng ( nhà nước, đảng phái, giáo hội đoàn thể,
…) được hình thành trên một sơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát
triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau vàđều hình thành trên
cơ sở hạ tầng. Song mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng.Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc
đấu tranh về mặt chính trị-tư tưởng của giai cấp đối kháng, trong đóđặc trưng là sự thống
trị về mặt chính trị.
Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai tròđặc biệt quan
trọng. Nó tiêu biểu cho chếđộ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai
cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã
hội.
3. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội,
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò
quyếtđịnhđốivớikiếntrúcthượngtầng.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết được
biểu hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng
với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở việc
cơ sở hạ tầng làm biến đổi kiến trúc thượng tầng. Những thay đổi căn bản trong cơ sở hạ
tầng sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay thế kiến trúc thượng tầng cũ bằng kiến trúc
thượng tầng mới. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi.
Ngược lại, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì sẽ có kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với
nó. Mác viết: “Cơ sở hạ tầng kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ
cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng”.
- Kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động riêng
của nó trong sự phát triển. Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng
không đơn giản.
- Kiến trúc trượng tầng còn tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Trong đó nhà nước giữ vai
trò vô cùng đặt biệt tuy là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhưng nhà nước vẫn là
một lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo hai hướng.
- Một là: sự tác động phù hợp với quy luật kinh tế, sẽ thúc đẩy kinh tế, cơ sở hạ tâng
phát triển.
- Hai là: Ngược lại, sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan
sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đầy nền kinh tế rơi vào giai đoạn khủng hoảng.
Như vậy, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở kinh tế rất to lớn,
nhưng nếu tuyệt đối hóa vai trò của kiếntrúc thượng tầng một cách chủ quan, duy ý chí sẽ
dẫn đến những sai lầm gây hậu quả đối với sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử vật
chất xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - từ đó làm căn cứ để phát triển tính
duy vật biện chứng cao hơn.
- Là cơ sở để đảng ta xây dựng đường lối kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị cho nước ta  làm hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam.

Câu 8: Đấu tranh giai cấp là gì? Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp? Vai trò của
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hô ̣i có giai cấp? Liên hệ cuộc đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay?
Câu 8 : Phân tích cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân sau khi giành
chính quyền? Liên hệ cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay?
1. Khái niệm đấu tranh giai cấp:
Định nghĩa về đấu tranh GC của Lê nin: “Đấu tranh GC là cuộc đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị cướp hết quyền,
bị áp bức bóc lột, chống bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, đấu tranh của
những người công nhân làm thuê hoặc những người vô sản chống những người hữu sản
hoặc GCTS”. Đó là cuộc đấu tranh của GC bị thống trị áp bức bóc lột chống lại GC thống
trị áp bức bóc lột.
2. Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp:
Sự hình thành các GC cũng chính là sự hình thành các lợi ích GC khác nhau. Từ đó, có
mâu thuẫn về các lợi ích cơ bản giữa các GC cho nên có đấu tranh. Lợi ích GC không phải
do ý thức GC quyết định mà do địa vị KT –XH của GC ấy tạo nên một cách khách quan.
Trong các lợi ích của GC, có lợi ích cơ bản và lợi ích không cơ bản. Việc giải quyết các
lợi ích cơ bản của các GC đối lập nhau dẫn đến mâu thuẩn về các lợi ích cơ bản giữa các
GC tất yếu dẫn đến đấu tranh GC, đó là mâu thuẩn về kinh tế, chính trị, mâu thuẩn về đời
sống tư tưởng, VH, tinh thần. Như vậy, XH có GC tất yếu sẽ có đấu tranh GC, đấu tranh
GC chính là quy luật khách quan trong XH còn GC.
3. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của XH có giai cấp:
a. Đấu tranh GC là động lực thúc đẩy XH phát triển:
Khi cuộc đấu tranh GC đến đỉnh cao nhất sẽ đưa đến CMXH, chính quyền của GC
thống trị lật đổ, QHSX cũ được thay thế bằng QHSX mới tiến bộ, thúc đẩy LLSX phát
triển, chuyển từ một hình thái KTXH lổi thời sang hình thái KTXH tiến bộ hơn. Đấu tranh
GC là nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính XH hóa ngày càng sâu rộng của
LLSX mâu thuẫn với quan hệ chiếm hữu tư nhân về TLSX. Cuộc đấu tranh GC này được
coi là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển lịch sử. Trong đó, thay thế PTSX cũ bằng
một PTSX mới tiến bộ hơn. PTSX mới ra đời mở ra thời đại mới cho sự phát triển của SX
XH là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống XH. Như vậy, CMXH là đòn
bẩy thúc đẩy sự thay đổi từ CSHT đến KTTT của XH. Đấu tranh GC là động lực trực tiếp
của XH có GC đưa XH phát triển từ thấp lên cao.
Mặt khác, sự ra đời và tồn tại của NN là kết quả tất yếu của đấu tranh GC trong XH có
đối kháng GC. Để khống chế và đàn áp những GC bị trị (nô lệ, nông dân, làm thuê), duy
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
trì và thực hiện sự bóc lột, các GC thống trị trong lịch sử (chủ nô, địa chủ, tư sản) tất yếu
phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức, đó là NN với lực lượng quân đội và hệ
thống pháp luật, nhằm duy trì trật tự XH phục vụ cho quyền lực của GC thống trị. Vì vậy,
vấn đề chính quyền NN là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh GC trong XH.
Nhà nước là công cụ bạo lực để trấn áp GC, duy trì địa vị của GC thống trị, do đó nó là
công cụ chuyên chính GC bảo vệ lợi ích của GC bóc lột trong lịch sử đối với nô lệ hay LĐ
làm thuê. Trái lại, với sự xuất hiện của NN chuyên chính VS, đó là NN kiểu mới, NN “nửa
Nhà nước” tồn tại trong TKQĐ lên CNXH, trở thành công cụ bạo lực có tổ chức và công
cụ quản lý KTXH của GC công nhân và nhân dân LĐ.
Khi CMXH chưa nổ ra, thông qua cuộc đấu tranh của GC bị thống trị, buộc GC thống trị
phải thay đổi đường lối cai trị, có lợi cho GC bị thống trị, XH tạm thời ổn định và phát triển.
Đây cũng là một động lực.
Đấu tranh GC không phải là động lực duy nhất. Do nhu cầu của con người ngày càng
tăng, sự phát triển của KH và kỹ thuật, tư tưởng, đạo đức, v.v… đều là động lực phát triển
của XH. Chính vì thế, đấu tranh GC một động lực cơ bản của sự phát triển XH đặc trưng
cho các XH có GC đối kháng. Đấu tranh GC có tác dụng cải tạo XH, xóa bỏ các LLXH
phản động, kìm hãm XH phát triển, mà còn có tác dụng cải tạo bản thân các GC CM. Đấu
tranh GC là quy luật chung của mọi XH có GC. Quy luật này, có những biểu hiện đặc thù
trong từng XH cụ thể. Điều đó, do kết cấu GC của mỗi XH và do địa vị lịch sử của mỗi
GC CM trong từng PTSX quyết định. Các đội tiên phong của GCVS, khi đề ra đường lối
chiến lược và sách lược CM phải vận dụng quy luật đấu tranh GC trên các mặt: Phải xuất
phát từ sự phân tích tình hình KT, CT và XH của đất nước mình; Phân tích kết cấu GC và
những mối quan hệ giữa các GC trong XH; Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh GC
trong nước và trên phạm vi toàn thế giới; Đánh giá đúng đắn lực lượng so sánh giữa CM
và phản CM. Từ những nhận định các mặt trên, mới đưa cuộc đấu tranh GC của GCVS
đến thắng lợi hoàn toàn.
Đấu tranh GC giữa GCVS và GCTS là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử có GC. Bởi
vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu XH. Trước khi giành
được chính quyền, thì đấu tranh GC giữa GCVS và GCTS là đấu tranh KT, tư tưởng, CT. Sau
khi giành được chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của GCVS, mục tiêu và thức đấu
tranh GC cũng thay đổi. Trong cuộc đấu tranh này, GCVS phải sử dụng tổng hợp mọi nguồn
lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh với mục tiêu là giữ vững thành quả CM, XD
và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức QLSX, quản lý XH, bảo đảm tạo ra một năng
lượng LĐ XH cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, XD một XH mới,
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
công bằng, dân chủ và văn minh. Chính vì thế, đấu tranh GC là chuyên chính VS.
b) Đấu tranh GC trong thời kỳ quá độ ở VN hiện nay:
+ Tính tất yếu của cuộc đấu tranh GC ở nước ta:
Ở VN, đấu tranh GC trong giai đoạn quá độ hiện nay là tất yếu. Đó là đấu tranh GC
chống khuynh hướng tự phát TBCN và các thế lực thù địch (CN đế quốc, các lực lượng
phản động trong và ngoài nước) đối lập với độc lập DT và CNXH. Cuộc đấu tranh GC ở
VN hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng XH, chống áp bức bất
công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu hành động chống phá của các thế lực thù địch như: phá
hoại bằng nhiều hình thức từ KT, CT đến các thế lực phản động trong nước cấu kết với
các thế lực phản động quốc tế sử dụng “Âm mưu diễn biến hoà bình” hòng thủ tiêu sự
lãnh đạo của ĐCS đối với XH đi đến chỗ lật đổ chế độ XH, nhằm bảo vệ độc lập DT, XD
nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Nhiệm vụ của đấu tranh
GC của GC công nhân vẫn chưa hoàn thành, đó là: bảo vệ vững chắc tổ quốc VN XHCN
và XD thành công CNXH trên đất nước ta và đây là nhiệm vụ chủ yếu và quyết định.
+ Điều kiện của cuộc đấu tranh GC ở nước ta:
Đối với thế giới: hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô và các nước Đông Âu đã rơi
vào khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Xô Viết, đây là vấn đề không thuận lợi.
Bên cạnh đó, cuộc CM KH công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ, quá trình toàn cầu
hoá diễn ra rất nhanh chóng, thế giới bước vào phát triển KT tri thức, đây vừa là cơ hội,
thuận lợi cần tranh thủ, nhưng đồng thời cũng là khó khăn thách thức để nước ta hoà nhập
với TG, hội nhập đón đầu nền KT thị trường của TG, tiến hành xây dựng nền KT nước ta
phát triển CNH-HĐH theo định hướng XHCN… Mặt khác, có những vấn đề toàn cầu liên
quan đến vận mệnh của nhân loại, cần nhận thức và giải quyết tốt các vấn đề như: biến đổi
khí hậu toàn cầu, CN khủng bố, bùng nổ dân số, các bệnh tật hiểm nghèo.
Bên cạnh mặt thuận lợi còn một số khó khăn đó là bản chất của CNTB hoàn toàn không
thay đổi, nhưng vẫn còn tiềm năng phát triển và luôn tìm cách xoá bỏ CNXH, đây là mối đe
dọa của phe XHCN. Đồng thời, các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển cũng
còn gặp nhiều khó khăn.
Đối với trong nước: từ tình hình mới nêu trên, vai trò lãnh đạo của Đảng ta dưới sự
lãnh đạo công cuộc XD CNXH ở nước ta đã không ngừng cải cách và cải tổ đường lối
chính sách với nhiều hình thức trên tất cả các lĩnh vực CT,KT,XH,… để tiến hành cuộc
đấu tranh, nhằm đưa phương thức hoạt động phù hợp với giai đoạn hiện nay theo định
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
hướng XHCN. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định: động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức
do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và XH, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần KT của toàn XH.
Nội dung của cuộc đấu tranh GC ở nước ta hiện nay:
Theo quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định:
- “Quan hệ giữa các giai cấp ở nước ta là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
ND nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ”;
- “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN” tập trung vào 3 nội dung chủ
yếu như sau: Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó nhấn
mạnh đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, đẩy mạnh việc thực
hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, đổi mới tổ chức, hoạt động của chính
quyền địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới; Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Quan hệ giữa các giai cấp ở nước ta là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân
dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó,
quan hệ giữa giia cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp
tác vừa đấu tranh; đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực của tầng lớp tư sản, để thực
hiện hợp tác đoàn kết xây dựng XH, nhằm mục đích “dân giàu, nước mạnh, XH công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh GC ở nước ta hiện nay:
Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta là thực hiện 2 nhiệm vụ chiến
lược, đó là: Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục
tình trạng mước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng XH, chống áp bức bất công,
đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng
thời, Đảng ta khẳng định: động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp
hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và XH, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế của toàn XH xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta và đây là
nhiệm vụ chủ yếu và quyết định.
Câu 9. Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa phương
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
pháp rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?
1. Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử?
Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ
thế chân chính sáng tạo ra lịch sử - hay quần chúng nhân dân là người quyết định lịch sử.
Và vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân thể hiện ở ba nội dung cơ bản sau:
- Một là, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử - xã hội, là lực lượng sản
xuất cơ bản của xã hội, tạo ra mọi của cải vaatjc hất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Cụ thể là:
+ Con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại thì trước hết phải có thức ăn, uống, vật
dùng, nhà ở… để đáp những nhu cầu đó thì con người phải tiến hành sản xuất vật chất.
+ Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, là nền cơ sở, nền tảng quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
+ Quá trình hoạt động sản xuất vật chất con người đồng thời tạo ra lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất. Ở 2 mặt đó, con người một mặt là
lực lượng sản xuát chủ yếu, một mặt là người mang quan hệ sản xuất.
+ Hoạt động sản xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động của
toàn xã hội chứ không phải của một số cá nhân.
+ Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động, bao gồm cả
lao động chân tay và lao động trí óc. Vì vậy, thực tiễn lịch sử loài người đã chứng minh,
quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Khoa học
kỹ thuật không có lý do tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất vật chất, đến lượt nó khoa
học kỹ thuật lại làm cho năng suất lao động tăng lên không ngừng, qua đó đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người cũng được biến đổi và phát triển, thúc đẩy xã hội
không ngừng tiến lên. Do đó, lịch sử xã hội là lịch sử phát triển của sản xuất hay là lịch sử
của những người phát triển sản xuất, những người đã, đang và sẽ mãi tạo ra vô tận của cải
vật chất đảm bảo những điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Hai là, quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội. Cụ thể là:
+ Do lực lượng sản xuất phát triển tạo ra những tiền đề vật chất -> của cải vật chất tăng
-> tạo ra những tiền đề vật chất chuyển sang chế độ xã hội mới.
+ Lực lượng sản xuất phát triển ->>< quan hệ sản xuất cũ lỗi thời -> đấu tranh giai cấp
-> cách mạng xã hội -> xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ -> thiết lập quan hệ sản xuất mới ->
thay đổi phương thức sản xuất vật chất -> thay đổi hình thái kinh tế xã hội. Trong đó, lực
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân, là lực lượng quyết định chủ yếu
vận mệnh các cuộc cách mạng xã hội, các phong trào chính trị giải phóng dân tộc.
VD: Từ xã hội chiếm hữu nô lệ -> xã hội phong kiến -> tư bản chủ nghĩa -> xã hội xã
hội chủ nghĩa.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, lịch sử đã chứng minh không có
sự tham gia, hoạt động tích cực của quần chúng nhân dân thì sẽ không có sự chuyển biến
cách mạng trong lịch sử. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định
cho thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Lênin: “Cách mạng là ngày hội của những người
bị áp bức bóc lột. Không lúc nào mà quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực
sáng taoh ra những trật tự xã hội mới như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ
như thế… thì nhân dân có thể làm được những kỳ công”
– Rời non lấp biển, do đó cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, là sự
nghiệp cả quần chúng nhân dân… do đó,…
+ Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì động lực trực tiếp phát triển xã hội là đấu
tranh giai cấp, đó là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức, bóc lột, đại đa số quần
chúng nhân dân lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu, chống lại những kẻ áp bức, bóc lột
bằng nhiều hình thức và đỉnh cao của cuộc đấu tranh đó là cách mạng xã hội.
Và như vậy, suy đến cùng nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất, bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân
dân. Cho nên, quần chúng nhân dân là chủ thể của quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng
vai trò là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
- Ba là, quần chúng nhân dân là nguồn duy nhất và vô tận sáng tạo ra mọi giá trị văn
hóa tinh thần (mọi của cải tinh thần). Cụ thể là:
+ Quần chúng nhân dân đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự phát triển của khoa học,
nghệ thuật văn học và áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn hay là hiện
thực hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất.
+ Chính hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân đã đặt cơ sở, nền tảng
cho văn hóa tinh thần và tạo điều kiện cho nền văn hóa đó phát triển và tiến bộ không
ngừng.
Ví dụ: Bằng hoạt động sản xuất vật chất, nó là nguồn cảm hứng để cho các nhà văn,
nhà thơ, nhà điêu khắc viết lên những tác phẩm, tạo nên cảm hứng sáng tác.
- Bằng hoạt động sản xuất vật chất, quần chúng nhân dân đã sáng tác ra những câu ca
dao, tục ngữ: “chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…”
+ Chính hoạt động sản xuất vật chất và những sáng tác của quần chúng nhân dân là
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
nguồn vô tận cho văn học, nghệ thuật, khoa học phát triển.
+ Những sáng tạo về văn học nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị,
đạo đức… của quần chúng nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của dân tộc trong mọi thời đại.
+ Quần chúng nhân dân vừa là nguồn duy nhất và vô tận của mọi giá trị tinh thần mà
còn là nơi sinh ra biết bao những nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học vĩ đại, những nhà hoạt
động văn hóa phong phú, đa dạng làm sống động mãi mãi cho đời sống tinh thần của nhân
loại.
+ Các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng
nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Ví dụ: Ở Việt Nam – truyện Kiều của Nguyễn Du đã, đang và sẽ sống mãi với nhân
dân ta và nhân dân thế giới, chính vì thế tác phẩm đó đã phản ánh sinh động cuộc sống,
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhất là ca dao, tục ngữ. Do đó, những tác phẩm có giá
trị chính là những tác phẩm phản ánh sinh động hoạt động thực tiễn của hàng triệu người,
theo kịp tiến trình phát triển của thời đại, tiếp thu và phát huy được những tinh hoa của
nền văn hóa dân tộc và thế giới.
* Kết luận: xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần
chúng nhân dân đều đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Vai trò quyết định của lịch sử
của quần chúng nhân dân có thể khái quát lại ở ba nội dung lớn như sau:
- Một là, quần chúng nhân dân là những người trực tiếp lao động sản xuất ra của cải
vật chất – điều kiện, nền tảng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. - Hai là,
quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội, thúc đẩy lịch sử phát triển tiến lên theo hướng văn minh tiến bộ.
- Ba là, quần chúng nhân dân vừa là nguồn duy nhất và vô tận tạo ra mọi giá trị tinh
thần cho xã hội, vừa là cơ sở, động lực cho sự phát triển khoa học, kỹ thuật, vừa là lực
lượng duy nhất hiện thực hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
2. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra:
 Phải có quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân đúng đắn.
 Phải chăm lo sâu sát đến lợi ích, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân
dân.
 Tích cực phát huy vai trò của quần chúng nhân dân bằng cách phát huy dân chủ, bổ
sung, xây dựng hoàn thiện và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
 Phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, mọi công việc phải biết dựa vào dân, bàn
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
bạc với dân thật thấu đáo trước khi quyết sách.
 Phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm trái với quan điểm của triết
học Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân.

Câu 10: Ý thức xã hội là gì? Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội ? Ý
nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?
I. Ý thức xã hội :
1.Khái niệm và nguồn gốc của ý thức xã hội:
- Tồn tại xã hội: là đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất,
quan hệ vật chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản của đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt
vật chất bao gồm phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân số... trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Trong
các quan hệ vật chất của xã hội thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất
giữa người với nhau là cơ bản nhất.
-Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ các quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống, tập quán….của những cộng đồng xã
hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Ví dụ như: tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể, suy nghĩ theo thói quen đám đông.
Điều này cho thấy chính từ hoạt động cộng đồng, những tồn tại xã hội sẽ hình thành nên ý
thức xã hội.
-Ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra. Khi tồn tại xã hội thay đổi ý thức xã hội cũng
sẽ thay đổi theo.
Ví dụ: nông dân có giờ giấc làm việc tuỳ tiện, không có tinh thần kỷ luật cao; công
nhân có giờ giấc đúng giờ, có tác phong công nghiệp hiện đại, tính tự giác cao hơn, có
sự khác biệt do môi trường sống khác nhau, phương thức sản xuất khác nhau.
2.Cấu trúc của ý thức xã hội:
- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội bao gồm:
 Ý thức chính trị : là hình thái của ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc hay giữa các quốc
gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực của nhà nước trong xã hội. Ý
thức chính trị xuất hiện cùng lúc với sự xuất hiện của nhà nước trong lịch sử.
Ý thức chính trị chúng ta hiện nay là những quan điểm tư tưởng của CN ML, tư tưởng
HCM, trở thành cơ sở lý luận để đảng ta hoạch định nên các đường lối chính sách đối với
đất nước ta hiện nay. Bản thân người VN cũng có YTCT: ngoài việc thấm nhuần tư tưởng
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
của đảng, còn có thái độ đối với đời sống chính trị của đất nước ta, thái độ của họ đối với
các quan điểm chủ trương đường lối của đảng, về cơ bản đại bộ phận nhân dân đồng tình
nhưng cũng có 1 bộ phận nhân dân không đồng tình, có những đường lối chính sách đáp
ứng được nhu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân nhưng cũng có những chủ
trương chính sách còn gây bức xúc cho nhân dân, bức xúc cho dư luận XH. Trong XH ta
hiện nay, cơ bản đồng thuận trong Ý thức chính trị , nhưng bên cạnh đó còn có biểu hiện
thiếu đồng tình, chính vì thế công tác giáo dục chính trị phải giáo dục, giác ngộ cho đông
đảo các tầng lớp nhân dân thấm nhuần các quan điểm tư tưởng của CN ML, tư tưởng
HCM cũng như nắm vững các chủ trương đường lối chính sách của đảng và pháp luật
nhà nước. Còn về phía đảng và nhà nước : cái gì mà nhân dân bức xúc, phản đối, không
đồng tình thì cũng phải xem xét điều chỉnh lại các chủ trương, đường lối chính sách của
mình cho hợp lý và quan trọng hơn là được sự tham gia, ủng hộ của ND, tạo ra bầu không
khí đồng thuận trong XH.
 Ý thức pháp quyền: ra đời khi XH có phân chia giai cấp, có nhà nước, là toàn bộ
những quan điểm, tư tưởng của một giai cấp về nguồn gốc bản chất của nhà nước và pháp
luật, về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức XH, của nhà nước và của công dân cũng như
những nguyên tắc về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi của con người trong
XH. Mỗi chế độ xã hội chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ,
củng cố những quan hệ, trật tự xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
Ví dụ PL phong kiến bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, PL tư bản bảo vệ
lợi ích của giai cấp tư sản, còn PL XHCN bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. PL tư sản nó được xây dựng trên nền tảng kinh tế của XH TBCN, đó là chế
độ chiếm hữu tư nhân TBCN đối với TLSX, giai cấp TS nắm những TLSX chủ yếu của XH
cho nên PL tư sản nó phải bảo vệ lợi ích của giai cấp TS. Còn PL của XHCN được xây
dựng trên nền tảng kinh tế XHCN, dựa trên sở hữu toàn dân đối với những TLSX chủ yếu
của XH, nó phải bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và đa số nhân dân lao động trong
XH.
 Ý thức đạo đức: ra đời từ rất sớm, nó ra đời cùng với sự ra đời của cộng đồng XH
loài người, là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, các học thuyết về đạo đức, những quan
điểm của con người về sự tốt xấu, thiện ác, lương tâm trách nhiệm của con người, những
quy tắc, hành vi ứng xử giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và XH
 Ý thức tôn giáo: là những tình cảm, tâm trạng, quan niệm, tư tưởng, tín điều tôn
giáo… phản ánh hoang đường, hư ảo đời sống hiện thực khách quan tồn tại xã hội phù
hợp với nhu cầu tinh thần của con người trong điều kiện lịch sử nhất định.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
 Ý thức thẩm mỹ: toàn bộ những xúc cảm, rung động, thị hiếu quan điểm, lý tưởng
phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người với đời sống hiện thực khác quan.
 Ý thức khoa học: là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng logic trìu
tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Ý thức khoa học mang đặc điểm
chung của các hình thái ý thức xã hội: đều là sản phẩm của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội, do tồn tại xã hội qui định.
 Ý thức triết học: là toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học.
- Theo trình độ phản ánh:
 Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm, v.v của
những cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực
tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận. Ý thức xã hội thông
thường phản ánh trực tiếp sinh động đời sống hàng ngày của con người vì vậy, nó đa dạng,
phong phú, sinh động.
 Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm đã được hệ thống hoá, khái quát hoá
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy
luật. Nó có thể phản ánh được bản chất đời sống xã hội.
- Người ta còn phân ý thức xã hội thành hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
 Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của một bộ
phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp
của điều kiện sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
 Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý
luận, thành các học thuyết về xã hội. Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư
tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. Hệ tư tưởng được
hình thành một cách tự giác. Có hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học.
3.Tính giai cấp của ý thức xã hội:
- Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, do đó, ý thức xã
hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư tưởng hoặc
những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của
giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng
là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
- Trong xã hội có áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu sản xuất,
phải chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh
khỏi chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, bóc lột. C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
"Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư
liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu
sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối". Tuy nhiên, mức độ
ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp thống trị đối với xã hội tùy thuộc vào trình độ phát triển ý
thức cách mạng của giai cấp bị trị.
- Không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, mà trái
lại giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị trị. Đặc biệt ở thời kỳ
đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường thấy một số người trong giai cấp thống trị,
nhất là những trí thức tiến bộ từ bỏ giai cấp xuất thân của mình chuyển sang hàng ngũ
giai cấp cách mạng, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp đó. Một số người còn trở
thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.
- Ý thức xã hội vừa mang tính giai cấp, vừa mang đặc điểm của dân tộc và mang tính
nhân loại. Ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất
của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc; những điều
kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên hình thành trong quá
trình phát triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư
tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán,
thói quen, tính cách, v.v. của dân tộc, phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân
tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân tộc, truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc. Ý thức xã hội cũng phản ánh những điều kiện
vật chất của thời đại, những quan hệ quốc tế mang tính nhân loại.
II. Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn ý thức xã hội
là phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin không xem ý
thức xã hội như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại còn nhấn mạnh sự tác động tích
cực trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện
trên những điểm sau.
1.Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
-Biểu hiện:
 Tính “thường lạc hậu” của ý thức xã hội nên hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội thường
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
ra đời sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã hội đã mất đi.
 Tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý thức xã hội do nó sinh ra vẫn tồn tại một cách
dai dẳng trong xã hội mới, không biến mất cùng xã hội cũ. Ví dụ như suy nghĩ trọng nam
khinh nữ xuất hiện từ thời phong kiến nhưng đến xã hội ngày nay suy nghĩ đó vẫn còn tồn
tại.
 Tồn tại xã hội mới ra đời nhưng ý thức xã hội mới chưa phản ánh kịp sự biến đổi
của tồn tại xã hội. Ví dụ: TPHCM là thành phố công nghiệp nhưng công dân thành phố
đại bộ phận vẫn chưa có tác phong công nghiệp, chưa có tư duy kinh tế thị trường.
-Nguyên nhân:
 Ý thức xã hội là các phản ánh tồn tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến
đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên
mạnh mẽ và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra
với tốc độ rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
 Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo
thủ của một số hình thái ý thức xã hội. Ví dụ như: thói quen xem bói khi cưới, hỏi, ma
chay, xây cất, buôn bán.
 Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu thường được các lực
lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
 Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng, muốn xoá bỏ thì
cần phải kiên trì và có thời gian. Đồng thời phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp
của dân tộc.
 Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công
tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù
địch về mặt tư tưởng.
1. Tính vượt trước của tư tưởng khoa học.
-Biểu hiện:
 Những tư tưởng khoa học tiên tiến có khả năng phản ánh vượt trước tồn tại xã hội,
dự báo được tương lai.
 Dựa vào những tư tưởng khoa học tiên tiến có khả năng phản ánh đúng bản chất,
cái quy luật vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, nhờ đó mà dự báo được
khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai.
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
 Điều này không có nghĩa là trong trường hợp này, ý thức xã hội có thể thoát ly
hoàn toàn khỏi tồn tại xã hội; trái lại, những tư tưởng khoa học có khả năng phản ánh đầy
đủ, chính xác tồn tại xã hội dựa trên sự nắm bắt bản chất, quy luật của xã hội.
 Sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội được coi là sáng tạo và có cơ
sở khi nó phản ánh đúng được những mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật của tồn tại
xã hội.
 Nếu ý thức xã hội phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển của tồn tại xã hội và bị chi phối bởi mong muốn chủ quan, duy ý chí thì khi ấy
sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội sẽ không có cơ sở, dễ rơi vào ảo tưởng.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
 Thấy được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của các dự báo khoa học, từ đó quan
tâm đầu tư cho khoa học, tôn trọng các dự báo khoa học.
 Đã là dự báo thì không thể chính xác hoàn toàn trên mọi chi tiết mà chỉ đúng trên
những định hướng cơ bản mà thôi. Hiểu như vậy để không rơi vào máy móc, giáo điều.
2. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
-Biểu hiện:
 Ý thức xã hội của mỗi thời đại vừa là sự phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó,
đồng thời vừa là sự kế thừa ý thức xã hội của các thời đại trước đó. Nhờ vậy mà có sự phát
triển của ý thức xã hội.
 Trong xã hội có giai cấp thì tính kế thừa của ý thức xã hội (kế thừa cái gì, kế thừa
như thế nào) cũng mang tính giai cấp. Giai cấp khác nhau thì có sự kế thừa khác nhau:
Giai cấp tiến bộ cách mạng kế thừa những giá trị tích cực trong di sản tư tưởng của xã hội
trước đó; Giai cấp lỗi thời phản động lại tìm cách khôi phục lại những tư tưởng lỗi thời,
phản động.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
 Nắm vững tính kế thừa của ý thức xã hội, xây dựng cơ chế kế thừa có chọn lọc có
ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc ở nước ta hiện nay.
 Chúng ta phải có quan điểm phủ định biện chứng, chống phủ định sạch trơn hay
kế thừa 1 cách mù quáng.
3. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng
-Biểu hiện:
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
 Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện nữa của
tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động
qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có những mặt, những tính
chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều
kiện vật chất.
 Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ
theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và
tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.
Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây
Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội
như triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý
thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Ở Pháp cuối thế kỷ XVIII và Đức cuối thế kỷ XIX triết học và văn hóa là công cụ quan
trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính
trị của các lực lượng xã hội tiên tiến.
 Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng, tác động mạnh nhất đến các ý thức xã hội khác.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
 Khi xem xét 1 hình thái ý thức xã hội nào đó phải chú ý đến mối liên hệ giữa nó
với các hình thái ý thức xã hội khác.
 Đối với nước ta hiện nay, các hoạt động tinh thần như : triết học, văn học, nghệ
thuật … phải gắn với hệ tư tưởng chính trị và đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Nếu
khác đi thì có thể rơi vào những sai lầm, lệch lạc, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
4. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
- Biểu hiện:
 Đây là biểu hiện quan trọng nhất của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Sự
tác động đó có thể diễn ra theo 2 khuynh hướng: Thúc đẩy xã hội phát triển nhanh chóng
hay kìm hãm sự phát triển của xã hội rất nặng nề.
Ví dụ thúc đẩy : những tư tưởng khoa học tiến bộ cách mạng, những truyền thống văn
hóa tốt đẹp, những chủ trương đường lối chính sách đúng đắn thì thúc đẩy XH phát triển
Ví dụ kìm hãm : những tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học, những hủ tục lạc hậu,,
quan điểm lỗi thời, những giá trị tinh thần phản văn hóa hoặc là mê tín dị đoan, những
chủ trương đường lối chính sách sai lầm kìm hãm sự phát triển của XH
 Thúc đẩy hay kìm hãm là phụ thuộc vào những yếu tố sau đây :
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
 Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội đúng hay sai, đúng sai đến mức độ nào.
 Ý thức tư tưởng đó là của giai cấp nào đề ra, tiến bộ hay phản động.
 Mức độ thâm nhập của ý thức tư tưởng đó vào quần chúng nhân dân nhiều hay
ít.
 Năng lực triên khai, hiện thực hoá ý thức xã hội vào hoạt động thực tiễn của
chủ thể lãnh đạo, quản lý.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
 Phải phát huy được vai trò của tư tưởng tiến bộ, cách mạng.
 Coi trọng đẩy mạnh cuộc CMXHCN trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
 Thấy được tầm quan trọng của YTXH trong quá trình hình thành nền văn hoá mới
và con người mới.
II. Ý nghĩa phương pháp luận về nắm vững tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội:
- Ý thức xã hội mới không hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách tự
giác, lâu dài. Quá trình tự giác, rèn luyện, bồi dưỡng của mỗi cá nhân cũng như cả cộng
đồng xã hội mới là nhân tố đóng vai trò quyết định trong sự hình thành ý thức xã hội mới.
Để quá trình hình thành ý thức xã hội mới diễn ra đúng hướng, đạt hiệu quả thì phải có sự
tham gia lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Ý thức xã hội mới là kết qủa của sự kế thừa toàn bộ tinh hoa trong lịch sử dân tộc và
nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những ý thức lạc hậu, phản tiến
bộ. Thấy được cuộc đấu tranh trong lĩnh vực ý thức tư tưởng là lâu dài; việc kế thừa, tiếp
thu các tri thức khoa học, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ….là rất
quan trọng và cần thiết. Đấu tranh khắc phục những tư tưởng, phong tục, tập quán, những
thói quen lạc hậu, phản tiến bộ; chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
phản động, làm thất bại cuộc tiến công về tư tưởng của lực lượng phản cách mạng. Đây là
quá trình đầy khó khăn, gian khổ lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của mỗi cán bộ, đảng
viên, của toàn Đảng và toàn dân.
-Hình thành ý thức xã hội mới phải gắn liền với phát triển kinh tế theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Phải chú ý giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì kinh tế thị
trường nhiều thành phần không chỉ có tác động tích cực mà còn là môi trường thuận lợi
cho những biểu hiện tiêu cực về tinh thần, tư tưởng, đạo đức nảy sinh làm cản trở việc
hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đồng thời phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động để thu hút được một lực lượng đông đảo tham gia quản lý, xây dựng đất
NỘI DUNG GHI CHÚ BỔ SUNG
nước.

Ngày 28 tháng 12 năm 2017


Người viết

Huỳnh Thanh Sang

You might also like