Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 165

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong mọi thời đại lịch sử, vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của
triết học. Học thuyết Mác là sự tiếp nối và là bước ngoặt trong nhận thức về phát
triển con người, nó tạo ra tiền đề lý luận để nhân loại bước sang một kỷ nguyên
mới, “con người từ vương quốc của tất yếu chuyển sang vương quốc của tự do”
và ngược lại “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”. Đây là bản chất nhân văn sâu xa của học thuyết Mác
và qua đó, nó định hướng cho sự phát triển tiến bộ tiếp theo của loài người.
Là người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, hơn ai hết là người ý thức rõ, nhận thức sâu sắc học thuyết Mác về
con người và phát triển con người toàn diện. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo học
thuyết đó của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “con người là vốn quý nhất, chăm lo
cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”, rằng
“muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Từ lập trường tư tưởng đó, mọi hoạt động của Hồ Chí Minh luôn luôn
“vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Và việc xây
dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện đã trở thành tư
tưởng quán xuyến, nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Và với Người, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo
“những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa”, có sự phát triển toàn diện,
“vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài, bao giờ cũng là “một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”, là mối quan tâm hàng đầu.
Lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và phát
triển con người toàn diện làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho đường lối
và chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
2

Nam đã ban hành và thực hiện trên thực tế đường lối và nhiều chủ trương, chính
sách, giải pháp phát triển con người Việt Nam mới - con người Việt Nam phát
triển toàn diện cả về trí lực lẫn thể lực, cả về khả năng lao động lẫn tính tích cực
chính trị - xã hội, cả về lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản
lĩnh văn hoá, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, trong những năm qua, chúng
ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về phát triển con người toàn diện. Con
người Việt Nam không ngừng phát triển cả về thể lực, trí lực và tâm lực, có ý
thức và khả năng làm chủ ngày càng cao. Song, trong bối cảnh hiện nay, khi
nhân loại đã và đang có những bước tiến rất dài trong chiến lược và thực tiễn
phát triển con người. Cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, của xu thế hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri
thức, đòi hỏi chúng ta phải có sự phát triển nhanh về chất lượng con người Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
Đáp ứng sự đòi hỏi đó, trong gần 30 năm đổi mới, nhất là trong những
năm gần đây, ở Việt Nam đã có không ít công trình nghiên cứu, đề tài khoa học,
luận án tiến sĩ, luận văn cao học lấy quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người, bản chất con người, giải phóng con người và phát
triển con người toàn diện. Lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Việt Nam mới, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo “những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội” và lấy quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển con người Việt Nam hiện đại - con người Việt Nam của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
làm đối tượng nghiên cứu. Không ít những đề tài và chương trình khoa học đã
được ứng dụng trong thực tế và kết quả đạt được trong sự nghiệp phát triển con
người Việt Nam cũng không nhỏ. Tuy nhiên, bản thân sự phát triển con người ở
3

nước ta đã và đang tồn đọng nhiều yếu kém, nhiều hạn chế và nhiều bất cập,
như: thể lực con người Việt Nam còn chưa tốt, mặt bằng dân trí còn chưa cao,
trình độ chuyên môn và trình độ khoa học, kỹ thuật của người lao động còn thấp,
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chưa cao, tính sáng tạo và khả năng thích
ứng với những biến đổi mới trong lao động và cuộc sống còn chưa tốt, sự tự mãn
dẫn đến tinh thần học hỏi và trí tiến thủ còn yếu…. Nhiều vấn đề khác, như: sự
chênh lệch về mức sống và điều kiện sống của người dân giữa các vùng, miền,
các dân tộc, các bộ phận dân cư; tình trạng thất nghiệp còn nhiều; tình trạng mất
dân chủ trong xã hội làm cho quyền của một bộ phận không nhỏ nhân dân bị vi
phạm; sự yếu kém về y tế và trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự
yếu kém, bất cập trong giáo dục - đào tạo; nạn ô nhiễm môi trường, bệnh dịch;
sự xuống cấp về văn hóa cũng như sự suy thoái về đạo đức, lối sống và thẩm
mỹ,..v.v và v.v.. cũng đã và đang trở thành lực cản và là thách thức rất lớn cho
sự phát triển con người Việt Nam. Tất cả những vấn đề đó đặt ra: phải có một
công trình có khả năng cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận và cơ sở thực
chứng khoa học, sát thực, khả thi nhằm đẩy mạng sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện, đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn.
Với những lý do trên đây, chúng tôi chọn Vấn đề phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiến cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ quan niệm về phát triển con người toàn diện trong học
thuyết Mác, trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, luận án phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra trong phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam hiện nay; từ đó, xác định định hướng, đề xuất một
số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
4

Thứ nhất, luận giải quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
Thứ hai, phân tích thực trạng và luận giải những vấn đề đặt ra trong phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua.
Thứ ba, xác định định hướng, đề xuất và luận giải một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
con người toàn diện; thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu quan niệm của C.Mác về phát triển con người toàn
diện được ông đưa ra trong một số tác phẩm tiêu biểu; đồng thời tập trung
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các
tác phẩm mà Người viết và nói về mục tiêu xây dựng con người Việt Nam hiện
đại. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam được luận án nghiên cứu qua đường lối, chủ trương của
Đảng trong thời kì đổi mới đất nước.
- Luận án tập trung khảo sát thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
5

Luận án dựa trên những tác phẩm lý luận chủ yếu của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam; dựa vào các nguyên tắc và tiêu chí đánh giá phát triển con người của
Chương trình phát triển liên hợp quốc - UNDP, đồng thời kế thừa có chọn lọc
những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các học giả đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu, trong luận án này, chúng
tôi sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, tổng
hợp và khái quát hoá, đối chiếu và so sánh, thống kê...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã đưa ra và khẳng định: Phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa con người cá nhân và con
người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa đức và tài; giữa “hồng” và
“chuyên” trong mỗi con người; phát triển cá tính và sự phong phú của bản chất
con người, làm cho con người trở thành một nguồn lực chủ yếu, một chủ thể vẹn
toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, luận án đã
đưa ra và luận giải một số vấn đề đặt ra: 1) Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách
quan của sự phát triển nhanh về con người toàn diện với thực tế phát triển con
người toàn diện ở nước ta còn chậm; 2) Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải tạo
ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển con người toàn
diện với thực tế yếu kém, bất cập của những điều kiện này là trở lực đối với
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
- Luận án xác định định hướng cơ bản và đề xuất, luận giải tính khả thi
của một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện, đáp ứng
những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án


- Ở một mức độ nhất định, luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về
phát triển con người toàn diện.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng,
hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy triết học Mác - Lênin về vấn đề con người và phát triển con người.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Vấn đề con người, phát triển con người đã được nghiên cứu từ rất sớm
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy
nhiên, đến những năm 80 của thế kỉ XX, vấn đề con người và phát triển con
người mới thực sự được nghiên cứu một cách sâu rộng, thành quả lớn đầu tiên là
báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển liên hợp quốc – UNDP,
năm 1990. Ở Việt Nam, vấn đề con người và phát triển con người, mặc dù mới
được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nhưng cho đến nay, đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí triết học, nghiên
cứu con người, xã hội học, tâm lý học, …, nhiều sách tham khảo, chuyên khảo,
giáo trình được đăng tải khắp cả nước, một số công trình khoa học cấp bộ, cấp
nhà nước, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công. Chúng ta cũng
đã có báo cáo quốc gia về phát triển con người, lần đầu tiên vào năm 2001 và
những năm tiếp theo. Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận vấn đề này ở rất
nhiều góc độ khác nhau, nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Đồng thời họ
cũng luận giải vấn đề này một cách hết sức đa dạng và sâu sắc trên cả bình diện
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án là hết sức cần thiết, trước tiên giúp chúng tôi có
một cái nhìn tổng thể về các công trình khoa học có nội dung liên quan đến đề
tài. Quan trọng hơn, nó sẽ cho chúng tôi những cơ sở lý luận, phương pháp luận,
những luận cứ, luận chứng cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời, cũng giúp
chúng tôi tham chiếu nội dung đề tài của mình với những công trình khoa học
đó, để tránh sự trùng lặp, phát huy những thành quả đã đạt được, tránh những
hạn chế mà các đề tài đó mắc phải. Hơn nữa, cho phép chúng tôi tập trung vào
những điểm mới cần được nghiên cứu trong đề tài.
8

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN CHUNG VỀ


PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

Cuốn sách Về vấn đề xây dựng con người mới [16], là công trình tập hợp
nhiều bài viết của một tập thể tác giả, ngoài phần mở đầu và kết luận, công trình
được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, bao gồm các bài viết về những tư tưởng
về con người trong lịch sử triết học phương Đông, phương Tây. Phần thứ hai,
chia làm hai mục I và II, tập hợp bảy bài viết của các nhà khoa học. Các bài viết
trong cuốn sách đã khẳng định vấn đề con người là vấn đề trọng tâm được
nghiên cứu trong suốt quá trình lịch sử phát triển của tư tưởng của nhân loại. Xã
hội càng phát triển, sự nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và cuộc sống của chính
bản thân con người càng được quan tâm hàng đầu. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời
là bước ngoặt cách mạng trong nghiên cứu con người và sự phát triển con người.
Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng IV về nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
và xây dựng con người Việt Nam mới, các tác giả đã luận giải một cách sâu sắc
các nội dung, tiêu chuẩn, phương thức và biện pháp để xây dựng con người Việt
Nam mới, trong bài: “Triết học và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề xây dựng con
người mới dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ IV”, tác giả Phạm Như
Cương đã cho rằng: “Phương hướng chung của việc xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, cân đối, là chăm lo đến mọi mặt
của đời sống con người. Nhưng vấn đề cấp bách nhất hiện nay là xây dựng một
phong cách lao động mới: Lao động vì tập thể, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật,
có năng xuất lao động cao, có hiệu quả lao động thiết thực. Biết lao động vì tập
thể thành nghĩa vụ của mỗi người, thành niềm vinh dự và tự hào cao nhất của
mỗi người, là cả một cuộc cách mạng sâu sắc về thái độ và kỷ luật lao động. Một
cuộc cách mạng như vậy trong ý thức, tâm lý của mỗi cá nhân và của cả xã hội
chỉ có thể là kết quả của sự kết hợp các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính,
pháp luật” [16, tr.55-56].
9

Nguyễn Thế Kiệt trong Luận án phó tiến sỹ của mình với đề tài: Vai trò của
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con người
mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [71], trên cơ sở quan
điểm mácxít về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan với
tính cách là nguyên tắc phương pháp luận nền tảng, luận án này đã luận giải vấn
đề xây dựng con người Việt Nam mới. Trong đó, tác giả luận án đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là đội ngũ đảng viên – với tư cách là
nhân tố chủ quan có vị trí hàng đầu trong việc xây dựng con người Việt Nam
mới. Theo tác giả luận án, “xây dựng con người trong hàng ngũ Đảng với tư
cách là bộ phận tiên phong của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”,
là “mắt xích chủ yếu của việc xây dựng con người mới trong quảng đại quần
chúng” [71, tr.5]. Có thể nói, đây là luận án có giá trị về lý luận và thực tiễn
trong việc nghiên cứu con người, cũng như việc xây dựng chiến lược phát triển
con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn sách Vấn đề con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con người”
[133]. Ngoài phần nhập đề và phụ lục, cuốn sách gồm sáu chương. Đồng thời với
việc phê phán chủ nghĩa lý luận không có con người của phái Althusser ở Pháp
trong việc phái này cho rằng chủ nghĩa Mác là thứ lý luận không có con người (con
người nói chung), tác giả cuốn sách đã luận giải sâu sắc về những giá trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin và khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin luôn xem con người là vấn
đề cơ bản và mục đích tối hậu của học thuyết này là nhằm giải phóng và phát triển
con người. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng trong nghiên cứu về con người
và phát triển con người toàn diện.
Tư tưởng triết học về con người [126], cuốn sách bao gồm 9 chương. Đây
là cuốn sách thể hiện công tình nghiên cứu công phu, có hệ thống về vấn đề
con người trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Trên cơ sở luận giải
các quan điểm về con người của những nhà triết học tiêu biểu của các trường
phái, các nền triết học trong lịch sử, các tác giả khẳng định triết học Mác -
Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung có mục đích cao nhất là khắc
10

phục sự tha hóa con người, giải phóng và phát triển con người. Lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về con người thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, khoa học và
cách mạng triệt để.
Cuốn sách: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội [135]
được kết cấu theo hai chương: Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người;
Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Các tác giả của công
trình này đã trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và về chính sách
xã hội trong mối quan hệ biện chứng tạo thành một chỉnh thể. Các tác giả đã luận
giải những tác phẩm và những luận điểm của Hồ Chí Minh về con người; về sự
yêu thương, kính trọng con người; về vai trò và vị trí của các bộ phận quần
chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Trên cơ sở đó, các tác giả đã luận
giải nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về các chính sách xã hội nhằm đảm bảo
công bằng và tiến bộ xã hội với mục tiêu cao quý là làm cho mọi người dân Việt
Nam có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện - cả
đức và tài, có lý tưởng cách mạng.
Đặng Hữu Toàn - một trong những nhà khoa học có nhiều tâm huyết trong
nghiên cứu về con người và phát triển con người Việt Nam. Trong bài “Phát
triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay” [141], trên cơ sở
luận giải mục tiêu tối hậu trong quan điểm của C.Mác là vì sự nghiệp giải phóng
con người, tác giả đã luận giải một cách sâu sắc những quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong chỉ đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu phát triển con người Việt Nam. Cũng trong năm đó, trên Tạp chí Khoa
học xã hội, với tiêu đề "Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [142],
tác giả tiếp tục khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm mục
tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện, có đủ đức và tài, có chuyên môn
giỏi, có trình độ khoa, học kỹ thuật, có đạo đức và bản lĩnh chính trị...Và chính
11

những con người Việt Nam phát triển toàn diện đó trở thành động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tác giả cũng thấy
rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội kinh tế quốc tế cũng có
nhiều mặt trái tác động đến đời sống xã hội, đặt ra nhiều thánh thức trong chiến
lược phát triển con người Việt Nam. Từ nhận thức đó, tác giả đã đi tới quan
điểm rằng, phát triển con người Việt Nam cần phải gắn với phát triển văn hóa, và
trong bài“Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc” [143], tác giả đã khẳng định văn hóa là động lực quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy “phát triết văn hóa, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng cần phải được coi là quốc sách hàng
đầu” [143, tr.9]. Và trong mối quan hệ với con người thì con người là chủ thể
sáng tạo văn hóa, đồng thời văn hóa sẽ hướng con người đến với giá trị chân -
thiện - mỹ. Do đó, “văn hóa, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
không thể đứng ngoài chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đại” [143,
tr.9]. Hơn nữa, sự phát triển con người là thước đo quan trọng hàng đầu về tính
nhân văn của sự tiến bộ xã hội – điều này được tác giả luận giải trong bài “Phát
triển con người - thước đo nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam” [147]. Có thể nói, những công trình khoa
học này là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu con người và phát triển
con người toàn diện Việt Nam.
Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động [161] -
Công trình tập hợp một số bài viết của các nhà khoa học trên thế giới, trong đó có
Amartya Sen - Người được nhận giải Noben về kinh tế năm 1999 nhờ đóng góp to
lớn của ông trong việc nghiên cứu vấn đề đói nghèo và phát triển con người. Các
tác giả đã trình bày quan điểm của mình về khái niệm con người, chiến lược phát
triển con người, đồng thời đưa ra các công cụ phân tích, đánh giá trình độ phát
triển con người; nguồn lực và những nhân tố tác động đến phát triển con người, và
về thực trạng phát triển con người ở các nước trên thế giới. Các tác giả đã khẳng
12

định, việc phát triển con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhân
loại trong kỷ nguyên mới. Công trình cũng là cơ sở tham chiếu quan trọng cho vấn
đề phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá [48],
Cuốn sách do GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên, đây là một công trình khoa học
thể hiện sự nghiên cứu công phu của các tác giả về vấn đề phát triển con người
Việt Nam theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cuốn sách được chia làm hai phần với
mười hai chương nội dung. Ở phần thứ nhất của cuốn sách, các tác giả đã trình
bày những cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nước ngoài về phát triển con người cũng là
cơ sở quan trọng trong việc phát triển con người Việt Nam. Đông thời, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước đã trở thành cơ sở thực tiễn của chiến lược
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Các tác giả cũng đã đưa ra mô hình
nhân cách con người Việt Nam, con người Việt Nam là “Con người có lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao phát huy tiềm năng của dân tộc và con
người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, có tư
duy sáng tạo và có óc thực nghiệm, có kỹ năng thực hành giỏi, tay nghề cao, có
tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao, có
lòng nhân ái, tôn trọng và hợp tác được với người khác, có sức khỏe, có khả năng
tự hoàn thiện không ngừng, năng động và thích ứng, có tinh thần pháp luật và có
ý thức công dân, ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp” [48, tr.106-107]. Đó là
mô hình gắn bó chặt chẽ giữa đức và tài trong con người. Trong phần thứ hai, các
tác giả đã đưa ra định hướng chiến lược và luận giải những giải pháp cụ thể cho
việc phát triển con người Việt Nam trên bốn phương diện cơ bản là đạo đức, trí
tuệ, thẩm mỹ và thể chất.
13

Nguyễn Hữu Công trong Luận án tiến sỹ triết học, với đề tài: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con người toàn diện [14], tác giả luận án đã trình bày
trong ba chương nội dung. Chương thứ nhất, trình bày hai cơ sở lý luận cơ bản
để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn
diện. Bên cạnh việc nhấn mạnh tư tưởng của Dân tộc Việt Nam, tác giả đã khẳng
định chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận cơ bản cho sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Chương thứ hai, trình bày nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, đồng thời luận
giải vai trò của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa trong quá trình hình thành
và phát triển con người toàn diện. Theo tác giả: “Để có những con người phát
triển toàn diện cho chế độ mới, xã hội cần phải tạo ra được những điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội phù hợp, phải tổ chức giáo dục, đào tạo, phát triển
con người mọi mặt. Có như vậy, sự nghiệp đào tạo, phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam mới có thể đi tới thành công” [14, tr.128].

Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [170], Cuốn sách gồm 3 chương.
Trong chương 1. Những quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con
người, trên cơ sở phê phán những hạn chế và sai lầm của một số quan niệm trước
Mác về con người, tác giả đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa Mác là bước
ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người. Các quan điểm của Mác,
Ăngghen, Lênin về bản chất con người, về con người - chủ thể sáng tạo của lịch
sử và giải phóng con người được tác giả phân tích sâu sắc và đi đến khẳng định,
học thuyết Mác - Lênin đã “coi con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con
người là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới” [170, tr.31]; “giải phóng
con người là đưa con người ra khỏi sự khép kín về đẳng cấp, địa vị, về vị trí của
con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa
nhận bản tính loài của con người xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người;
làm cho lao động và hòa bình, nhân bản, nhân đạo và bình đẳng…những thuộc
14

tính nội tại của con người được thực hiện vững chắc ở từng con người và cả
cộng đồng xã hội” [170, tr.81]. Và “con đường duy nhất để thực hiện sự giải
phóng ấy là tiến hành cuộc cách mạng vô sản, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [170, tr.98].

Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người [62], Cuốn sách
được kết cấu thành hai phần chính. Phần thứ nhất với nhan đề chủ nghĩa xã hội
và sự phát triển xã hội Việt Nam, được tác giả Nguyễn Văn Huyên trình bày
trong mười một chương nội dung. Trong phần này, trên cơ sở cho rằng chủ
nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người, tác giả đã
khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là môi trường, điều kiện để tiến tới
phát triển con người Việt Nam. Phần thứ hai của cuốn sách với nhan đề lý
tưởng xã hội chủ nghĩa và vấn đề phát triển con người ở Việt Nam và được
trình bày trong mười chương nội dung. Tác giả cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin
là cơ sở lý luận quan trọng cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam
(chương 2), đồng thời tác giả đã đưa ra hướng tiếp cận mới về con người và
phát triển con người, theo tác giả “quá trình tiến bộ của lịch sử vươn tới tự do -
hạnh phúc, chính là quá trình giảm dần mẫu số hy sinh, chịu đựng, tăng dần tử
số thưởng ngoạn, hưởng thụ cho con người. Sáng tạo, cống hiến - tạo ra văn
hóa, làm phong phú thế giới xã hội bên ngoài và thưởng ngoạn, hưởng thụ - sự
văn hóa bản thân, làm giàu thế giới tinh thần bên trong - đó là một trong
những nội dung quan trọng nhất, cao cả nhất, tập trung nhất của đời sống con
người; đó cũng chính là nội dung quan trọng nhất của mục tiêu và chiến lược
phát triển con người hiện đại” [62, tr.153-154]. Từ đó tác giả cho rằng, con
người hiện đại là con người phải có trí tuệ, có kỹ năng nghề nghiệp, có trình độ
khoa học, kỹ thuật. Đặc biệt là phải biết sáng tạo, biết thưởng ngoạn - hưởng
thụ văn hóa. Rằng văn hóa, các giá trị nhân văn và kinh tế thị trường, môi
trường đô thi, văn hóa thẩm mỹ, nghệ thuật và giáo dục là những nhân tố cho
sự hình thành và phát triển các phẩm chất đó của con người hiện đại.
15

Cuốn sách Con người và phát triển con người: trong quan niệm của
C.Mác và Ph.Ăngghen [117], do Hồ Sĩ Quý chủ biên. Cuốn sách gồm 2
phần. Phần thứ nhất: Di sản kinh điển - những tư tưởng cơ bản về con người
và phát triển con người. Phần này trình bày những luận điểm về con người
và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tương
ứng với các quan điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về chủ đề con người, về bản chất con người, về vấn đề giải
phóng con người. Phần thứ hai: Di sản kinh điển nhìn từ thời đại ngày nay -
ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức và phát triển
con người. Phần này gồm những bài viết của các tác giả, trong đó phân tích,
làm sáng tỏ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề con người và
phát triển con người. Trong bài: Học thuyết Mác về con người và giải phóng
con người, PGS,TS Đặng Hữu Toàn đã khẳng định vấn đề cơ bản trong học
thuyết Mác là coi “con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là
mục tiêu cao cả nhất mà nhân loại cần đạt tới” [117, tr.479]. Cuốn sách là
tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận
phục vụ nghiên cứu vấn đề con người và phát triển con người.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phương pháp luận nghiên cứu con
người: Niên giám nghiên cứu [49], do GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên. Cuốn
sách được chia làm 3 phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Những vấn đề phương pháp
luận; Hồ Chí Minh và sự nghiệp phát triển con người; Hồ Chí Minh với các thế
hệ người Việt Nam. Đây là một công trình trình tập hợp nhiều bài viết của các tác
giả và được trình bày một cách có hệ thống, phản ánh sâu rộng những tư tưởng,
quan điểm và triết lý của Hồ Chí Minh về con người, bản chất con người,
phương pháp luận nghiên cứu con người, sự nghiệp trồng người, và về con người
phát triển toàn diện; tư tư tưởng của Hồ Chí Minh về lao đồng và người lao
động, trí thức, người nghệ sỹ, người cán bộ, người cao tuổi, phụ nữ, thanh niên,
trẻ em. Trong đó, có nhiều bài viết của những người đã nhiều lần tiếp xúc và làm
việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp (bài Chủ tịch
16

Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người), Tố Hữu (bài Chủ
tịch Hồ Chí Minh và con người Việt Nam), Vũ kỳ (bài chuyện Bác Hồ viết di
chúc), Hoàng Tùng (bài Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh)…và báo
cáo của một số chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí
Minh như GS,VS,TSKH Nguyễn Duy Quý; GS Đặng Xuân Kỳ, đồng chí Việt
Phương, GS Hồ Tôn Trinh,..; nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết với sự nghiệp giáo
dục và phát triển con người, như GS,VS Phạm Minh Hạc; GS,TS Phan Ngọc
Liên,... Chính vì vậy, cuốn sách cung cấp cho những người nghiên cứu về Hồ
Chí Minh, nhất là nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và con người
Việt Nam phát triển toàn diện những cơ sở lý luận, phương pháp luận và luận cứ
hết sức quan trọng.
Giáo trình Con người và phát triển con người [119]. Cuốn giáo trình này
được chia làm 3 phần, Phần 1. Một số vấn đề lý luận về con người và phát triển
con người, luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc nghiên cứu
con người là một khoa học. Tiếp đến làm rõ vấn đề khái niệm con người, bản
chất con người, con người trong quan hệ với giới tự nhiên và vấn đề phát triển
con người. Đồng thời khẳng định: “Nghiên cứu con người nói chung và con
người Việt Nam nói riêng, hiện đang đứng trước những nhu cầu đặc biệt cấp
thiết đặt ra từ sự phát triển của bản thân khoa học và từ sự phát triển của đất
nước trong tương quan chung với sự phát triển của khu vực, của thế giới và của
nhân loại” [119, tr.127]. Phần 2. Trình bày một số vấn đề phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu con người. Trong phần này, nhiều hướng nghiên cứu
con người đã được tác giả đưa ra, như: nghiên cứu phát triển con người, nguồn
lực con người, con người trong quan hệ với văn hóa, với môi sinh, nhân cách con
người, tiềm năng con người, tài năng, danh nhân…, nghiên cứu phức hợp về con
người, nghiên cứu định lượng về con người…tác giả khẳng định việc nghiên cứu
con người cần phải có sự kết hợp chặt chẽ của nhiều ngành khoa học, cả khoa
học lý luận chung (triết học) và các khoa học chuyên biệt, mới có thể xem xét
con người một cách đúng đắn, toàn diện.
17

Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, được trình bày trong phần thứ 3 của cuốn giáo trình. Trong đó,
những vấn đề đổi mới nhận thức lý luận về con người, con người Việt Nam
phát triển toàn diện, vai trò và vị trí của con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển kinh tế - xã hội mà tác giả đưa ra là
cơ sở lý luận và phương pháp luận quan trọng cho việc nghiên cứu sự phát
triển con người Việt Nam.

Bài viết “Một số vấn đề về con người trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen dưới ánh sáng của khoa học hiện đại” trong Triết học với đổi mới
và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học [132], GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn
đã phân tích những quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong mối quan hệ
với các thành tựu khoa học hiện đại trong nghiên cứu con người, như tâm lý
học, khảo cổ học, xã hội học, nhân chủng học, sinh học,...Từ đó làm sâu sắc
thêm về nguồn gốc, bản chất con người.

Con người - Văn hóa, quyền và phát triển [103], do Mai Quỳnh Nam
(chủ biên). Trong đó, bài viết của GS,VS Phạm Minh Hạc: “Vấn đề xây dựng
con người và phát triển nguồn nhân lực: Quan niệm và chính sách”; và bài:
“Người Việt Nam trong mối quan hệ giữa triết học, đạo đức và tôn giáo” của
GS Vũ Khiêu là hai bài viết đã đề xuất cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu con người Việt Nam. Tiếp theo là ba phần nội dung: 1) Con người
và Văn hóa, 2) Quyền con người, 3) Phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực. Có thể nói, cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu của tập thể
các tác giả. Với 34 bài viết, cuốn sách đề cập một cách sâu sắc các vấn đề về
mối quan hệ giữa văn hóa với con người, quyền con người, nguồn nhân lực và
sự phát triển con người. Cuốn sách là một tư liệu quý báu cho việc nghiên cứu
vấn đề phát triển con người toàn diện trên cả bình diện lý luận, phương pháp
luận, thực trạng và giải pháp.
18

Con người và văn hóa: Từ lý luận đến thực tiễn phát triển [109]. Cuốn
sách được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, trình bày những quan niệm Đông -
Tây truyền thống và hiện đại về mối quan hệ giữa con người và văn hóa. Phần 2,
với 12 bài viết, là những nghiên cứu về ứng dụng thực tiễn các quan điểm truyền
thống và hiện đại (ở phần thứ nhất) trong sự nghiệp phát triển con người Việt
Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc nghiên cứu quan hệ biện
chứng giữa văn hóa và con người trong sự phát triển.
Nguyễn Thị Nga với bài: “Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
những thập niên đầu thế kỷ XXI” [105]. Tác giả bài viết khẳng định: “Con
người là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Việc đầu
tư cho sự phát triển của con người không chỉ vì mục tiêu nhân văn mà còn là sự
đầu tư có lợi nhất cho sự phát triển bền vững”. Trên cơ sở luận giải một số vấn
đề lý luận và thực trạng về con người, phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính định hướng như những
nguyên tắc cần được quán triệt để có thể phát triển con người toàn diện.
Từ khi thành lập Đảng, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta
luôn coi phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất và cũng là động lực lớn
nhất của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã coi
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Để nghị quyết của Đảng đi
vào cuộc sống, đã có nhiều công trình trình bày, phân tích và luận giải về những
chủ trương, đường lối và chiến lược phát triển con người Việt Nam theo các văn
kiện của Đảng, trong số đó, gần đây có các công trình như của PGS,TS Nguyễn
Thế Kiệt: “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực
con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” [72]; Hoàng Đình
Cúc: “Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát
triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay” [15]; Trong cuốn Một số vấn đề triết học trong các văn kiện Đại hội XI của
Đảng [115], do PGS,TS Trần Văn Phòng và GS,TS Nguyễn Hùng Hậu đồng chủ
19

biên, có các bài: “Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay”
của PGS,TS Nguyễn Thế Kiệt; “Chiến lược phát triển con người trong Văn kiện
Đại hội XI của Đảng” của Bùi Thị Phương Thùy và bài “Phát huy nhân tố con
người theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI” của PGS,TS Nguyễn
Thị Nga. Những chủ trương, phương hướng và chiến lược về phát triển nguồn
nhân lực, phát triển con người Việt Nam của Đảng được các nhà khoa học đưa ra
và luận giải, hoặc chính các nhà khoa học của các công trình trên đề xuất là cơ
sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài luận án của chúng tôi.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Cuốn sách Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động
[165]. Tác giả Keith Griffin và Terry Mckinley với bài viết “Hướng tới một chiến
lược phát triển con người”, đã trình bày thực trạng của nhiều vấn đề liên quan đến
sự phát triển con người ở nhiều nước trên thế giới, như những vấn đề suy dinh
dưỡng, tỷ lệ biết chữ của trẻ em, mức đầu tư cho y tế, giáo dục; thu nhập, bình đẳng
giới, thất nghiệp,... Các dữ liệu được đưa ra về các vấn đề trên, nhất là những chỉ số
thấp, đòi hỏi mỗi quốc gia và cộng đồng thế giới phải có những chiến lược và hành
động để nâng cao chất lượng sống của con người trên hành tinh chúng ta; bài “Một
số vấn đề về phát triển con người Việt Nam” của Edouard A.Wattez - Điều
phối viên thường trú Liên hợp quốc ở Hà Nội - Việt Nam, đã đưa ra các kết
quả nghiên cứu một số vấn đề về thực trạng phát triển con người Việt Nam
trong những năm qua, trong đó tác giả khẳng định: “Tình trạng nghèo đói và
cận nghèo đói hiện nay vẫn đang là thách thức cấp bách nhất về phát triển
con người Việt Nam” [161, tr.11]. Vì vậy, ông đặt ra vấn đề là Việt Nam, mặc
dù đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới, góp phần tạo điều
kiện cho con người Việt Nam phát triển, song Đảng và Nhà nước Việt Nam
phải có những chiến lược, biện pháp tích cực hơn nữa. Đồng thời ông cũng
đưa ra quan niệm:“Phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn
để con người có thể nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện của chính mình
một cách bền vững” [161, tr.11].
20

Tác giả Vũ Thiện Vương với cuốn sách Triết học Mác - Lênin về con người
và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa [170]. Trong chương 2 (Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một số vấn đề đặt
ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm của triết học Mác -
Lênin về con người) của cuốn sách, tác giả đã nhấn mạnh yêu cầu khách quan
của việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng xây dựng con
người Việt Nam được tác giả phân tích qua ba giai đoạn cơ bản: Con người Việt
Nam truyền thống (giai đoạn trước khi Đảng ra đời), con người Việt Nam trước
đổi mới và sau đổi mới. Nhìn chung, tác giả đã phân tích thực trạng xây dựng
con người gắn với bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam, bên cạnh việc nêu
lên những bản chất tốt đẹp của người Việt Nam, những thành quả đạt được, tác
giả cũng đã trình bày những hạn chế của việc xây dựng con người Việt Nam. Từ
thực trạng đó, tác giả đã thẳng thắn đặt ra bốn vấn đề cần giải quyết để xây dựng
con người Việt Nam đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Thứ nhất,
vấn đề cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu; thứ hai, trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn còn thấp; thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ
nhiều bất cập; thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục
phải giải quyết.
Trong phần hai của cuốn sách Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá [48], để luận giải cho những định hướng lớn cũng
như các giải pháp cụ thể về chiến lược phát triển con người Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các tác giả đã đưa ra những luận cứ, luận
chứng dựa trên những khảo sát thực trạng về phát triển con người Việt Nam trên
cả bốn phương diện là đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất. Những kết quả khảo
sát thực tiễn về phát triển con người Việt Nam giai đoạn trước năm 2001, đồng
thời những mục tiêu phát triển con người Việt Nam đến năm 2005, 2010, và
những giai đoạn tiếp theo mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra đòi hỏi chúng ta phải có
những giải pháp thiết thực, hiệu quả, đồng bộ và có sự tham gia của nhiều cấp,
21

nhiều ngành, mọi tầng lớp nhân dân mới có thể xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu
con người: Niên giám nghiên cứu [49], vấn đề thực trạng phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam được các tác giả trình bày trong tiết 1 của chương 3. Trong
đó, các tác giả không nêu những thành tựu đạt được, mà chỉ nhấn mạnh đến
những mặt hạn chế đang đặt ra trong quá trình phát triển con người Việt Nam,
như giáo dục - đào tạo trong gia đình, nhà trường và xã hội ít quan tâm đến tính
chỉnh thể (ít quan tâm đến giáo dục lịch sử dân tộc và lý tưởng cách mạng); chưa
xây dựng được lối sống xã hội chủ nghĩa; sự nghiệp phát triển con người chưa
tạo thành một phong trào có tính cách mạng, lôi cuốn được đông đảo quần chúng
tham gia. Trên cơ sở đó, các tác giả nêu lên mấy vấn đề “nổi cộm” cần giải quyết
nhằm xây dựng con người mới ở nước ta là: độ chênh lệch giữa mục tiêu với
thực tế phát triển con người toàn diện trong những năm đổi mới là rất lớn; sự
mất cân đối khá trầm trọng giữa các mặt trong nội dung giáo dục - đào tạo ở
trong nhà trường, gia đình và xã hội; đầu tư cho các lĩnh vực liên quan đến sự
phát triển của con người chưa tương xứng. Theo các tác giả, nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng trên là trong những năm qua, chúng ta chưa hiểu sâu sắc
và vận dụng chưa đúng đắn tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí
Minh vào phát triển con người Việt Nam. Vì vậy, để có được thành công trong
phát triển toàn diện con người ở Việt Nam, chúng ta cần phải vận dụng đúng đắn
tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh.
Bộ sách gồm ba cuốn: 1) Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng (đồng
chủ biên), Chỉ số phát triển kinh tế trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả
nghiên cứu; 2) Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng (đồng chủ biên), Chỉ số
tuổi thọ trong HDI - Một số vấn đề thực tiễn Việt Nam; 3) Đặng Quốc Bảo, Đặng
Thị Thanh Huyền (đồng chủ biên), Chỉ số giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận và
một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Bộ sách là
công trình nghiên cứu chuyên sâu về cách tính và thực trạng phát triển con người
22

qua các chỉ số thành phần trong HDI. Vì vây, đây là tài liệu quan trọng cho việc
nghiên cứu thực trạng phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI.
Hồ Sỹ Quý, Con người và phát triển con người [119]. Một số vấn đề thực
tiễn của sự phát triển con người Việt Nam được tác giả trình bày trong chương 9
thuộc phần thứ 3 của cuốn sách. Tác giả đã luận giải về chỉ số phát triển con người
HDI và HPI. Tác giả đã phân tích những thành tựu và hạn chế trong việc phát triển
con người Việt Nam những năm gần đây. Cách luận giải của tác giả về các chỉ số
này là cơ sở lý luận quan trong trong việc nghiên cứu thực trạng phát triển con
người ở Việt Nam. Theo tác giả,“Chỉ số phát triển con người HDI với tính hợp lý
đáng kể của nó là bộ công cụ nghiên cứu khá hữu hiệu về phát triển con người
được đông đảo cộng đồng thế giới chấp nhận…Tuy nhiên, đối với nhà nghiên cứu
và hoạch định chính sách xã hội, sự tỉnh táo nhất định là điều cần phải có, vì bộ
công cụ HDI có thể che giấu những khiếm khuyết của sự phát triển con người
trong thực tế” [119, tr.274-275].
Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XXI [12]. Cuốn sách chia làm 6 chương, đề cập một cách toàn diện về mạng
lưới, quy mô, chất lượng, đội ngũ giáo viên, chương trình, quản lý giáo dục, mức
đầu tư cho giáo dục, phương pháp giảng dạy và chiến lược phát triển,... các cấp
bậc học từ giáo dục đại học trở xuống của cả hệ thống giáo dục, đào tạo công lập
và ngoài công lập. Nội dung cuốn sách là tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu
thực trạng phát triển con người Việt Nam ở phương diện trí lực.
Phùng Danh Cường, “Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng
và giải pháp” [19]. Tác giả đã đi luận giải thực trạng phát triển con người Việt
Nam trong những năm gần đây. Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn một số
hạn chế nhất định trên các bình diện: chỉ số HDI, giáo dục và đào tạo, công tác
phát triển y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân và thành tích trong xóa đói giảm
nghèo. Bằng cách tiếp cận của Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP),
trong bài “Thực trạng về sự phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI” [21],
23

tác giả tiếp tục luận giải, phân tích những thành tựu và hạn chế phát triển con
người Việt Nam qua chỉ số HDI và vạch ra một số điểm mới trong nghiên cứu
con người qua chỉ số này. Các công trình này là tư liệu quan trọng cho việc
nghiên cứu thực trạng phát triển con người Việt Nam.
Nguyễn Đình Tuân, “Báo cáo phát triển con người 2010: Xu hướng phát
triển con người và một số thay đổi trong tính toán các chỉ số” [162]. Bằng cách
luận giải sâu sắc và chi tiết, tác giả đã cho chúng ta thấy trong báo cáo thế giới
về phát triển con người năm 2010 có sự thay đổi cách tính toán chỉ số HDI và
bổ sung thêm 3 chỉ số mới, gồm: IHDI (bất bình đẳng), GII (bất bình đẳng
giới), MPI (nghèo khổ đa chiều). Chính vì vậy, thứ hạng về phát triển con
người của các quốc gia cũng vì thế bị thay đổi và chúng ta nên cân nhắc kỹ
trong việc lấy chỉ số phát triển con người năm 2010 để so sánh với các năm
trước. Công trình là căn cứ quan trọng trong việc tính toán các chỉ số phát triển
con người Việt Nam.
Bên cạnh những công trình trên, những công trình của Tổng cục thống kê,
gồm: Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009; Niên giám thống kê năm 2010; Kết
quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010; Niên giám thống kê năm 2011; Điều
tra lao động và việc làm 2011; Niên giám thống kê 2010, 2011, 2012; Điều tra
biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/2012 - Các kết quả chủ
yếu; Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2012;
Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013;...; cùng với
các Báo cáo phát triển con người của tập thể tác giả Viện hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam; các Báo cáo phát triển con người của UNDP, gồm: 1) Báo cáo
Quốc gia về phát triển con người năm 2001: “Đổi mới và phát triển con người ở
Việt Nam”. Báo cáo đề cập đến những hậu quả lớn do cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp đến phát triển con người Việt Nam. Đồng thời đưa ra những thách thức
mới mà chúng ta phải đối mặt và những mục tiêu cần thiết nhằm đẩy nhanh quá
trình phát triển con người Việt Nam trong thời kì mới; 2) Báo cáo Quốc gia về
phát triển con người năm 2006: “Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 -
24

Những thay đổi và xu hướng chủ yếu”. Báo cáo này giới thiệu các thành tựu
phát triển con người đã đạt được trong quá trình đổi mới ở nước ta trong thời
gian 1999-2004. Bên cạnh đó, báo cáo này còn trình bày những thay đổi và xu
hướng chính trong phát triển con người Việt Nam qua so sánh chỉ số HDI,
HPI và GDI ở cấp quốc gia, vùng, tỉnh, giai đoạn 1999-2004; 3) Báo cáo
Quốc gia về phát triển con người năm 2011: “Dịch vụ xã hội vì sự phát triển
con người”. Báo cáo gồm 2 phần chính: phần 1 (3 chương), trình bày khung
phân tích, quan điểm phát triển, con người và xu hướng phát triển con người ở
Việt Nam. Phần 2 (3 chương), phân tích những thách thức mà người dân gặp
phải trong tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục. Các công trình này đã đề cập
một cách chi tiết đến mức cụ thể về các mặt của sự phát triển con người Việt
Nam. Vì vậy, các công trình đó là tài liệu quan trọng trong nghiên cứu thực
trạng phát triển con người Việt Nam.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Bài viết của Đặng Xuân Kỳ: “Những phương thức và biện pháp xây dựng
con người mới”, trong Vấn đề xây dựng con người mới [16]. Tác giả bài viết cho
rằng, quá trình xây dựng con người mới không phải là quá trình đơn giản, riêng
rẽ và khép kín, mà là một quá trình mở và “để xây dựng con người mới, chúng ta
phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng - cách mạng về quan hệ sản xuất,
cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa....Trong ba cuộc
cách mạng, cách mạng tư tưởng và văn hóa có nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng
con người mới; bởi vì nó là động lực trực tiếp đến các mặt của con người như
nhận thức, tư tưởng, tình cảm, tác phong, lối sống” [16, tr.466].
Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá do
Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Trong phần
hai (Định hướng chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước) của cuốn sách, các tác giả đã nêu lên
những tư tưởng và mục tiêu chung về chiến lược phát triển toàn diện con người
25

Việt Nam (chương 6); định hướng chiến lược xây dựng con người Việt Nam về
đạo đức (chương 7), về trí tuệ (chương 8), về thẩm mỹ (chương 9), về thể chất
(chương 10) và định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp (chương 11). Trong
mỗi định hướng lớn đó, các tác giả đã đưa ra những mục tiêu, yêu cầu, nguyên
tắc cụ thể về việc phát triển con người Việt Nam. Đồng thời luận giải những giải
pháp thiết thực, hiệu quả về việc phát triển con người Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng trong việc nghiên cứu
định hướng và giải pháp phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
Nguyễn Hữu Công, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện [14]. Trong tiết thứ 2 của chương 3, tác giả đã nêu lên những định hướng cơ
bản để vận dụng và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện vào sự nghiệp xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là: Kết hợp
chặt chẽ giữa dạy “chữ”, dạy “nghề” với “dạy người” trong giáo dục, đào tạo;
đổi mới quan điểm đánh giá và tiêu chuẩn tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ,
công chức và lực lượng lao động xã hội; tạo ra môi trường thuận lợi để con
người Việt Nam có cơ hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển toàn
diện phẩm chất, năng lực bản thân. Tác giả khẳng định, việc thực hiện tốt những
vấn đề trên, chúng ta sẽ tạo ra bước chuyển biến tích cực trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [170]. Trong chương 3:
Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả Vũ Thiện Vương đã đưa
ra và phân tích ba phương hướng và bốn nhóm giải pháp chủ yếu. Về phương
hướng: Thứ nhất, trong việc xây dựng con người, phải coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; thứ hai, xây
dựng con người, đầu tư cho con người phải chiếm vị trí ưu tiên; thứ ba, phải gắn
liền chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Trong đó tác giả khẳng định phương hướng thứ nhất là phương hướng chủ đạo.
26

Về giải pháp: Thứ nhất, tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả
sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ; thứ ba, xây dựng con người Việt
Nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội; thứ tư, nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng
con người. Trong mỗi nhóm giải pháp, tác giả còn nêu ra những giải pháp nhỏ -
những biện pháp cụ thể. Hơn thế nữa, tác giả còn nêu và phân tích những thành
quả và hạn chế của việc thực hiện những giải pháp và biện pháp trong quá trình
xây dựng con người Việt Nam.
Bộ giáo dục và Đào tạo, Từ chiến lược phát triển giáo dục, đến chính sách
phát triển nguồn nhân lực [8]. Đây là Tuyển tập các công trình nghiên cứu và
bài báo khoa học của nhiều tác giả, cuốn sách góp phần phổ biến những thông
tin về chiến lược, chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Cuốn sách
được chia thành 3 phần: Phần I. Các vấn đề phương pháp luận về chiến lược và
chính sách phát triển nguồn nhân lực. Phần II. Thực tiễn về chiến lược và chính
sách phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Phần III. Kinh nghiệm quốc tế -
chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực. Cuốn sách là tài liệu quan
trọng trong nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực và phát
triển con người ở nước ta hiện nay.
Đoàn Văn Khái, Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam [66]. Tác giả đã làm rõ vai trò của nguồn lực con người,
coi đó là yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực
trạng nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả đã đưa ra những phương hướng,
quan điểm chỉ đạo và những nhóm giải pháp cơ bản. Đó là nhóm giải pháp về
khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người; nhóm giải pháp về phát triển
nguồn lực con người; nhóm giải pháp về xây dựng môi trường xã hội thuận lợi
nhằm khai thác và phát triển hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
27

Bài viết của Phạm Mậu Tuyển: “Về một số giải pháp đối với việc xây
dựng nhân cách con người Việt Nam” [164]. Trong khi đưa ra và luận giải ba
giải pháp mang tính định hướng đối với việc xây dựng nhân cách con người
Việt Nam trong giai đoại hiện nay, bên cạnh giải pháp đẩy mạnh dân chủ hóa
xã hội gắn liền với giữ nghiêm kỉ cương xã hội và giải pháp xem giáo dục và tự
giáo dục là phương thức trực tiếp hình thành và phát triển nhân cách con
người, tác giả đã khẳng định: “giải pháp định hướng ở tầng sâu nhất, lâu dài
nhất và quyết định nhất đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện đại
chính là việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa đối với kinh tế” [164, tr.65].
Báo cáo triển khai Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2010 và thực hiện
Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ưng Đảng khóa XI [9] đã chỉ rõ mục tiêu, giải pháp và lộ trình của nền giáo
dục Việt Nam “nhằm đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục…đưa nước ta trở
thành một nước có nền giáo dục tiên tiến; thực hiện sứ mạng nâng cao dân trí,
phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài; góp
phần quan trọng xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam” [9, tr.3]. Đây là tài
liệu quý báu cho việc nghiên cứu chiến lược, định hướng và giải pháp phát triển
nền giáo dục Việt Nam nhằm phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
Ban Tuyên giáo trung ương, Tổng cục dạy nghề, Viện nghiên cứu phát
triển phương Đông: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam
[3]. Trong phần I. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, tập hợp 17
bài viết của các nhà nghiên cứu. Các bài viết đã đề cập nhiều vấn đề của nền
giáo dục Việt Nam, như thực trạng, những vấn đề đặt ra, giải pháp…nhằm
hướng tới mục tiêu đưa nền giáo dục Việt Nam phát triển. Nhiều nhà nghiên
cứu đã cho rằng giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc phát triển con người Việt Nam toàn diện. PGS,TS Nghiêm Đình Vỳ, trong
bài viết của mình, đã khẳng định: “Giáo dục là con đường căn bản để chấn
hưng dân tộc, nền tảng của sự tiến bộ xã hội, nâng cao dân trí, thúc đẩy con
người phát triển toàn diện” [3, tr.151].
28

UNDP, Báo cáo Quốc gia về phát triển con người năm 2011: Dịch vụ xã hội
vì sự phát triển con người [168]. Từ những kết quả phân tích về phát triển con
người Việt Nam trong thập kỷ qua, Báo cáo đưa ra và phân tích bốn thông điệp
chính: Thứ nhất, tiến bộ trong chỉ số HDI của Việt Nam trong những năm gần
đây chủ yếu do tăng trưởng kinh tế mang lại; thứ hai, tăng trưởng kinh tế đơn
thuần không phải lúc nào cũng mang lại mức độ phát triển con người cao hơn;
thứ ba, mặc dù có nhiều tiến bộ song tốc độ tăng chậm lại của chỉ số HDI thể
hiện rõ ở cấp địa phương; thứ tư, việc chi trả và cung cấp các dịch vụ xã hội
hiện nay là thách thức đối với khát vọng và mục tiêu phát triển con người của
Việt Nam. Đồng thời, báo cáo còn đề xuất và luận giải mười định hướng chính
sách phát triển con người Việt Nam: 1/ Coi trọng con người hơn mục tiêu phát
triển kinh tế; 2/ Các dịch vụ xã hội có vai trò trong kìm chế bất bình đẳng ngày
càng gia tăng; 3/ Cần một cách tiếp cận mới về an sinh xã hội; 4/ Có một hệ
thống lợi ích nhất quán hơn nhằm hỗ trợ tiếp cận toàn dân; 5/ Đánh giá lại
chính sách xã hội hóa; 6/ Gánh nặng tài chính được chia sẻ công bằng hơn; 7/
Giải quyết tình trạng hai cấp trong cung cấp dịch vụ; 8/ Tăng cường quản trị và
nâng cao chất lượng dịch vụ; 9/ Quản lý khu vực công và khối tư nhân hiệu quả
hơn; 10/ Lập kế hoạch cho tương lai.
Quan điểm của UNDP về phát triển con người cùng những nghiên cứu thực
chứng của tổ chức này là cơ sở khoa học quan trọng cho nghiên cứu con người
và định hướng phát triển con người Việt Nam.
Do tính chất khái lược về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài,
chúng tôi không có điều kiện đi phân tích cụ thể về tất cả các công trình nghiên
cứu có liên quan. Song, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn thấy nhiều
công trình cũng cần được xem là những tài liệu bổ ích cho nghiên cứu đề tài của
luận án. Bên cạnh những công trình được chúng tôi xem là cơ bản và có tầm
quan trọng liên quan đến đề tài của luận án nói trên, có thể kể đến những công
trình khác mà chúng tôi thấy cần tham khảo, như:
29

Phạm Minh Hạc, Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát
triển xã hội - kinh tế [47]; Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Vũ Trọng Vỹ, Cơ sở lý
luận và thực tiễn của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước [52]; Nguyễn Thị Phi Yến, Tìm
hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát
triển kinh tế, [172]; Phạm Thành Dung, Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện [23]; Lê Thị Thuỷ, Vai trò của
đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay [136];
Nguyễn Văn Huyên, Văn hoá thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam
trong thế kỷ mới [61]; Nguyễn Đức Khiển, Con nguời và vấn đề phát triển bền
vững ở Việt Nam [68]; Nguyễn Hữu Dũng, Sử dụng hiệu quả nguồn lực con
người ở Việt Nam [24]; Hồ Sỹ Quý, Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu và phát
triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường,
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế [118]; Dương Phú Hiệp, Tác động của toàn
cầu hoá đối với sự phát triển văn hoá và con người Việt Nam [56]; Nguyễn Văn
Khánh (chủ biên), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam [67].
Và các bài báo trong Tạp chí Nghiên cứu con người, gồm: Phạm Thị Tính
(2009), Dân chủ tham gia với phát triển con người,(Số 2); Nguyễn Hồng Anh
(2010), Nghiên cứu phát triển con người trên thế giới và kiến nghị cho nghiên
cứu phát triển con người ở Việt Nam,(2); Đỗ Đức Định (2010), Xây dựng và thực
thi chiến lược phát triển lấy con người làm trung tâm với nguồn lực chất lượng
cao là động lực chủ yếu,(5); Trương Thị Thúy Hằng (2010), Quan điểm phát
triển con người và việc đưa kĩ năng mềm vào chương trình đào tạo, (5); Sương
Mai, Nguyễn Thị Anh Đào (2011), Những vấn đề văn hóa cơ bản về phát triển
con người giai đoạn 2011 - 2020, (1); Tường Duy Kiên (2011), Các chỉ số
về quyền con người - Ý nghĩa và khả năng áp dụng ở Việt Nam,(5); Hoàng Mai
Hương, Nguyễn Hồng Hải (2012), Tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở để bảo
đảm hiệu quả hơn quyền con người ở Việt Nam,(1); Nguyễn Hoài Hương (2012),
30

Quyền hưởng an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người,(2); Nguyễn Thị
Anh Đào (2012), Quyền được chăm sóc sức khỏe: Đánh giá từ góc độ phát triển
con người,(2); Nguyễn Đình Tuấn (2012), Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con
người,(2); Phạm Mậu Tuyển (2012), Về một số giải pháp đối với việc xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay,(3); Nguyễn Thị Lê (2012), Định hướng
giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập,(3); Nguyễn Thị Nga
(2012), Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt
Nam,(4)...; Trong Tạp chí giáo dục, gồm: Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2010), Đổi mới
việc quản lí chương trình giáo dục đại học để nâng cao chất lượng giáo dục –
đào tạo, (Số 241); Trần Viết Lưu (2010), Gắn cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với việc giáo dục đạo đức cho học sinh
phổ thông, (243); Đặng Quốc Bảo (2013), Minh triết về giáo dục và học hành,
(90);...;Và trong Tạp chí Khoa học giáo dục, gồm: Bùi Hiền (2010), Đổi mới
nền giáo dục quốc dân,(Số 55); Vũ Ngọc Hải (2010), Đào tạo cán bộ quản lí
giáo dục trong phát triển giáo dục Việt Nam hiện đại và hội nhập quốc tế, (57);
Lộc Phương Thủy (2010), Vấn đề nguồn nhân lực và nhân tài những năm đầu
thế kỉ XXI tại một số nước, (62); Phạm Minh Hạc (2011), Bồi dưỡng và sử dụng
nguồn lực trí tuệ Việt Nam, (64); Nguyễn Thị Bình (2011), Vấn đề khoa học giáo
dục và sự cần thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm về giáo dục, (66); Phan
Văn Nhân (2011), Đổi mới tư duy trong giáo dục, (70); Phạm Văn Kha (2012),
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 với sự nghiệp đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục Việt Nam, (87);...
Những công trình khoa học trên đây đã đi sâu khai thác mối quan hệ của
các lĩnh vực cụ thể như: Dân chủ, đạo đức, định hướng giá trị của con người, kỹ
năng mềm của con người, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa...,
quyền con người, quyền chăm sóc sức khỏe...đối với việc phát triển con người
Việt Nam hiện nay. Những lý giải của các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác
nhau là cơ sở quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài của mình.
31

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về vấn đề con người, phát triển con
người và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm gần đây
được đăng tải với số lượng ngày càng nhiều, chất lượng cũng ngày càng được
nâng cao; với nhiều cách tiếp cận khác nhau; nội dung các công trình cũng đã đề
cập một cách khá toàn diện nhiều vấn đề về con người như: Nguồn gốc, bản chất
con người; vai trò, vị trí của con người; cấu trúc nhân cách con người Việt Nam;
sự phát triển con người và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam…
Thứ hai, các công trình nghiên cứu cung cấp những cơ sở lý luận và
phương pháp luận quan trọng trong nghiên cứu vấn đề con người và phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam, từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
(điển hình như các công trình do Hồ Sỹ Quý chủ biên), tư tưởng Hồ Chí Minh
(điển hình như luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Công) đến các phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Có những nhà khoa học tâm huyết và đã có
nhiều thành quả trong nghiên cứu con người và phát triển con người, điển hình
như Phạm Minh Hạc, Hồ Sỹ Quý, Đặng Hữu Toàn, Vũ Thiện Vương.
Thứ ba, những khảo sát thực tiễn và các kết quả nghiên cứu thực chứng về
vấn đề con người đã đưa ra, cho chúng ta thấy được một bức tranh toàn cảnh về
phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, nhất là các công trình nghiên cứu của
Viện Khoa học xã hội Việt Nam nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
và của UNDP (điển hình là các báo cáo quốc gia về phát triển con người Việt
Nam), cùng các tài liệu của Tổng cục Thống kê….Những kết quả nghiên cứu đó
đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu quý báu, vừa có tính khái quát cao lại
vừa hết sức đa dạng, nhưng cũng rất cụ thể và chi tiết.
Thứ tư, những đánh giá, nhận xét và những kết luận được các nhà nghiên
cứu đưa ra hết sức đúng đắn, xác thực. Các nhà khoa học đều khẳng định con
người vừa mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
trong giai đoạn hiện nay, trong khi các nguồn lực khác, khi được khai thác thì
ngày càng khan hiếm, cạn kiện thì con người, đặc biệt là trí tuệ con người, khi
32

được khai thác nó lại càng trở nên vô tận. Vì thế, các nhà khoa học đều thống
nhất cho rằng, việc nghiên cứu vấn đề con người, phát triển con người ở Việt
Nam hiện nay là hết sức khẩn thiết. Quan điểm này có giá trị to lớn về mặt
phương pháp luận cho việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam hiện nay.
Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu trên đã
đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích, song đối với đề tài của luận án - Vấn
đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay - là một vấn đề không đơn
giản và đối với chúng tôi là một vấn đề lớn. Vì vậy, có một số vấn đề đặt ra cho
chúng tôi trong việc nghiên cứu đề tài luận án, đó là những vấn đề sau:
Một là, việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người ở Việt Nam đã được
manh nha từ những thập niên 80 của thế kỉ trước, nhưng chỉ đến những năm gần
đây, khi mà công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành quả bước đầu,
vấn đề phát triển con người ở nước ta mới được thực sự quan tâm nghiên cứu.
Mặc dù mới được nghiên cứu, song kết quả nghiên cứu đã đạt được những thành
tựu quan trọng. Điều này đặt ra cho chúng tôi là phải đi sâu tìm tòi, kế thừa, đối
chiếu, chắt lọc và tích hợp để những thành quả có giá trị đã nghiên cứu ấy được
phát triển trong đề tài của chúng tôi.
Hai là, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam là một vấn đề
không còn quá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này được các nhà
khoa học tiếp cận ở nhiều góc độ khoa học khác nhau, như xã hội học, tâm lý
học, chính trị học, nghệ thuật học, kể cả triết học… Vì vậy, ở góc độ triết học,
một mặt, chúng tôi phải có sự luận giải mới mẻ hơn, nhưng mặt khác, chúng tôi
phải đưa ra được những kết quả nghiên cứu phù hợp với xu hướng nghiên cứu và
xu hướng phát triển trên thực tiễn của vấn đề này ở nước ta cũng như trên thế
giới trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, các công trình nghiên cứu xung quanh đề tài của chúng tôi, có thể nói
là nhiều. Song, có công trình chỉ tập trung nghiên cứu thuần túy về mặt lý luận
hay phương pháp luận. Có công trình chỉ thuần túy nghiên cứu thực chứng. Có
33

những công trình tích hợp các bài báo hay chuyên khảo của một số tác giả thì lại
thể hiện khiếm khuyết là thiếu tính hệ thống, chưa lôgíc hoặc còn sơ sài. Từ thực
tế này, đặt ra cho chúng tôi phải có được một kết quả nghiên cứu vừa có tính tích
hợp cao, vừa phản ánh toàn diện hơn nhưng lại phải sâu sắc, cụ thể.
Bốn là, trong bối cảnh hiện nay, khi mà vấn đề con người ngày càng trở nên
quan trọng, toàn thể nhân loại coi đây là vấn đề trung tâm. Đảng, Nhà nước và
toàn thể dân tộc ta cũng khẳng định rằng phát triển con người Việt Nam là mục
đích tối hậu của chế độ ta. Chính vì thế, nó đặt ra cho chúng tôi một nhiệm vụ
quan trọng là phải nghiên cứu để bổ sung và phát triển hơn về mặt lý luận,
phương pháp luận trong nghiên cứu vấn đề này. Đồng thời làm sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn về thực trạng phát triển con người ở nước ta trong những năm vừa qua.
Hơn nữa, lại phải biết kế thừa kinh nghiệm của các quốc gia có nhiều thành tựu
trong phát triển con người. Trên cơ sở đó, mới có thể đưa ra được những định
hướng đúng đắn cũng như những giải pháp thiết thực, hiệu quả, có giá trị góp
phần cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thực tiễn
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu dân giầu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
34

Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

Lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại hơn 20 thế kỷ qua, đã có biết bao học
thuyết triết học ra đời và phát triển, song sự ra đời của chủ nghĩa Mác giữa thế
kỷ XIX vẫn là một bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển đó của lịch sử tư
tưởng nhân loại. Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, học thuyết Mác
luôn xoay quanh những vấn đề của con người: Bản chất con người, sự giải
phóng và phát triển con người toàn diện. Chính vì vậy, học thuyết Mác thực sự
mang tính nhân văn chân chính; và cũng vì vậy, học thuyết Mác nói chung, học
thuyết Mác về phát triển con người toàn diện không chỉ có giá trị lịch sử mà còn
có ý nghĩa thời vượt đại.
Nhận thức sâu sắc tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về con
người và phát triển con người toàn diện, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã kế thừa và vận dụng sáng tạo những quan điểm đó vào thực tiễn cách
mạng nước ta. Có thể khẳng định rằng, một trong những yếu tố cơ bản, hàng đầu
dẫn đến những thành quả to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển con
người Việt Nam trong những năm qua là việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
vận dụng một cách đúng đắn học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự giải
phóng và phát triển con người toàn diện vào sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam mới – con người phát triển toàn diện. Vì vậy, việc nghiên cứu để tiếp tục
làm rõ những quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc hình thành một cách hệ thống về mặt lý luận và phương
pháp luận khoa học cho tác giả luận án đi nghiên cứu và luận giải thực trạng,
định hướng, cũng như việc đề ra những giải pháp phát triển con người toàn diện
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
35

2.1. QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, chúng ta thấy C.Mác không dành
riêng một tác phẩm nào để chuyên bàn về phát triển con người toàn diện. Song,
từ toàn bộ di sản lý luận của Mác, chúng ta có thể nói, với ông, phát triển con
người toàn diện là “phát triển sự phong phú của bản chất con người”, phát triển
năng lực và phẩm giá con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự
“tha hóa” để con người được sống với cuộc sống đích thực của mình, được tự do
phát triển và phát triển toàn diện.
2.1.1. Phát triển con người toàn diện – “Phát triển sự phong phú của
bản chất con người”
Theo C.Mác, con người là sản phẩm của sự phát triển cao nhất của tự nhiên,
gắn bó chặt chẽ với tự nhiên – thân thể vô cơ của nó. Bằng hoạt động thực tiễn
của mình, nhất là hoạt động sản xuất vật chất, con người đã biến thuộc tính tự
nhiên của mình thành bản chất xã hội. Đó là con người hiện thực “bằng xương,
bằng thịt” và chính việc thông qua sự “giao tiếp” với giới tự nhiên, con người đã
nhận biết sâu sắc về tự nhiên. Trong quá trình chinh phục và cải biến giới tự
nhiên, con người đã hoàn thiện chính bản thân mình. Sự phát triển và hoàn thiện
con người làm cho con người có khả năng làm chủ tự nhiên. Từ và cùng với quá
trình “giao tiếp” với giới tự nhiên, con người cũng thực hiện sự “giao tiếp” giữa
người với người thông qua hoạt động thực tiễn hết sức phong phú của mình.
Cũng nhờ vậy, con người hình thành nên những phẩm chất đặc thù của con
người – phẩm chất xã hội. Theo Mác: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [84, tr.11].
Trong quan niệm của Mác, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử -
xã hội, mà còn là chủ thể lịch sử, là “kẻ” sáng tạo ra lịch sử, do đó “tiền đề đầu
tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con
người sống” [84, tr.29]. Từ quan niệm đó C.Mác khẳng định: Sự phát triển của
36

lực lượng sản xuất xã hội, trước hết phải có nghĩa là “sự phát triển phong phú
của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân” [89, tr.168]. Theo đó,
ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là phát triển
và nâng cao năng lực con người, để con người được sống với cuộc sống đích
thực của mình, chứ không còn bị “tha hóa”.
Với C.Mác, nội hàm của khái niệm phát triển con người toàn diện là tương
đối phong phú và đa dạng. Trước hết là giải phóng con người khỏi sự phiến diện,
què quặt, tha hóa do tình trạng bóc lột và sự phân công lao động mà chủ nghĩa tư
bản mang lại. Có thể nói, toàn bộ học thuyết Mác, xét đến cùng, hướng tới mục
tiêu cao cả nhất là giải phóng con người. Cơ sở của quan điểm này là ở chỗ, bản
chất con người là vươn tới “tự do” và “làm chủ”. Coi xã hội tư bản là một bước
tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại, song ở xã hội tư bản, khi một bộ
phận người được tự do và làm chủ, còn đại bộ phận người lại bị “tha hóa”. Và
khi coi việc “quy con người, một mặt, thành thành viên của xã hội công dân,
thành cá nhân vị kỷ, độc lập, và mặt khác, thành công dân của nhà nước, thành
pháp nhân là sự giải phóng chính trị” [82, tr.557], C.Mác xem đó là sự giải
phóng con người khỏi sự khép kín về đẳng cấp, về địa vị, về vị trí của con người
trong xã hội; là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa nhận bản
tính loài của con người; là làm cho mỗi con người và cả cộng đồng nhân loại
được sống trong hòa bình, nhân văn, nhân đạo và bình đẳng ... C.Mác còn cho
rằng, mọi sự giải phóng con người đều phải “bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới
con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người” [82,
tr.557], chứ không phải ở tính cá nhân vị kỷ, là công dân của xã hội, chứ không
phải công dân chính trị phụ thuộc vào nhà nước và là pháp nhân. Điều đó chỉ có
thể thực hiện được khi con người nhận thức được và tổ chức được “những lực
lượng của bản thân thành những lực lượng xã hội và vì vậy sẽ không còn tách
lực lượng xã hội dưới dạng lực lượng chính trị ra khỏi bản thân mình – chỉ khi
ấy giải phóng con người mới được hoàn thiện” [82, tr.558]. Như vậy, theo
C.Mác chỉ có đưa con người trở về với bản chất đích thực của con người mới
37

thực sự là giải phóng con người. Và sự nghiệp giải phóng con người chỉ có thể
thực hiện được bằng hoạt động thực tiễn, bằng cuộc đấu tranh để xóa bỏ sự tha
hóa của con người, để con người được tự do và phát triển.
Trong xã hội tư bản, cơ sở của sự tha hóa con người, theo C.Mác, chính là
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi thế,
C.Mác cho rằng, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – thứ “sở
hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động” là tiền đề cơ bản
cho việc xóa bỏ mọi sự tha hóa của con người, cho sự nghiệp giải phóng con
người, giải phóng xã hội. Và đó cũng chính là tiền đề cho sự phát triển con người
toàn diện. C.Mác viết:
Xuất phát từ quan hệ của lao động bị tha hóa khỏi sở hữu tư nhân, còn có
thể kết luận thêm rằng sự giải phóng xã hội khỏi sự sở hữu tư nhân,..v.v..,
khỏi sự nô dịch, trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng công
nhân, vả lại vấn đề ở đây không chỉ là sự giải phóng họ, vì sự giải phóng
của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người [91, tr.143].
Với quan niệm đó, C.Mác cho rằng, lực lượng xã hội có sứ mệnh thực
hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người là giai cấp vô sản. Luận điểm
đó cũng cho thấy, C.Mác luôn đặt sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản trong
mối quan hệ với giải phóng con người, giải phóng giai cấp và toàn thể loài
người để con người, loài người nói chung, giai cấp vô sản nói riêng có điều
kiện phát triển toàn diện.
Phát triển con người toàn diện trong tư tưởng C.Mác còn là phát triển tự do
và làm chủ. Bản tính hoạt động để vươn tới “vương quốc của tự do” được C.Mác
xem như là điểm xuất phát cho phương hướng lý tưởng của con người, cho việc cải
tạo xã hội để sao cho mỗi thành viên của xã hội có thể phát triển hoàn toàn tự do và
vận dụng tất cả mọi khả năng và sức lực của mình. Tự do ở đây, theo C.Mác trước
hết được hiểu là con người phải nhận thức được quy luật, và “tự do” gắn liền với sự
phát triển toàn diện của con người, như C.Mác đã nói trong “Lược thảo khoa kinh tế
chính trị” rằng “cá nhân tự do xuất hiện trên cơ sở phát triển toàn diện con người”.
38

Đồng thời, “tự do” gắn với “làm chủ”, bởi vì việc nhận thức được quy luật chỉ là
tiền đề của tự do. Trên cơ sở nhận thức được tính tất yếu của tự nhiên, của xã hội và
chính bản thân mình, con người có thể làm cho bản thân mình tồn tại, phát triển phù
hợp với tính tất yếu đó, hơn nữa, con người tự do khi con người có thể chi phối
được thế giới bên ngoài và chính bản thân mình.
Phát triển con người toàn diện trong tư tưởng của C.Mác còn là phát triển
cá tính, năng khiếu, sở thích, phát triển cá nhân con người với ý nghĩa đúng đắn
và chân chính. C.Mác cho rằng:
Trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong phạm vi hoạt
động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất
kỳ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử
tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng
đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm
việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi [84, tr.47].
Thông qua tự do hoạt động theo sở thích như vậy, con người có thể tìm thấy
sự hứng thú và phát huy tốt yếu tố nội lực, hiệu quả trong hoạt động sẽ được
nâng cao và tính tích cực của hoạt động đó sẽ đóng góp chung vào sự phát triển
của xã hội. Với quan niệm này, C.Mác còn nhấn mạnh việc phải làm cho cá nhân
phát triển toàn diện những năng khiếu của mình. Và theo ông, chỉ khi các cá
nhân riêng biệt liên kết thành cộng đồng thực sự, họ mới có được sự phát triển
toàn diện mọi năng lực, phẩm chất của mình. Ông viết: “Chỉ có trong cộng đồng
cá nhân con người mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện
những năng khiếu của mình, và do đó, chỉ có trong cộng đồng, con người mới có
thể có được tự do cá nhân” [84, tr.108]. Như vậy, theo C.Mác, sự phát triển của
cá tính là một mặt của sự phát triển tự do. Và do đó, phát triển năng khiếu, cá
tính chính là sự phát triển độc đáo của con người.
Bên cạnh phát triển quyền tự do theo sở thích, phát triển văn hóa cũng là
một nội dung quan trọng để hướng tới phát triển con người toàn diện. Con người
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử xã hội. Trong những giá trị con người sáng tạo ra
39

thì văn hóa là một sản phẩm đặc biệt, tính đặc biệt của nó ở “giá trị” văn hóa.
Với tư cách là một bộ phận trong kiến trúc thượng tầng, các giá trị văn hóa trở
thành cội nguồn của giá trị trong đời sống tinh thần con người. Nó không phải là
cái có sẵn, bất biến, mà được hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động của
con người trong một hệ thống các hoạt động giao tiếp với tự nhiên, với con
người, với tộc loại và với lịch sử. Quá trình giao tiếp này sản sinh ra và tiếp tục
làm giàu thêm đời sống tinh thần, văn hóa của cộng đồng, dân tộc và nhân loại.
Vì vậy, phát triển văn hóa là một yêu cầu quan trọng trong quá trình phát triển và
hoàn thiện con người, bởi “mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một
bước tiến tới tự do” [87, tr.164].
Như vậy, có thể nói phát triển con người trong tư tưởng của C.Mác là phát
triển con người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên và xã hội, phát triển các
giá trị văn hóa – giá trị tinh thần của con người, phát triển sự phong phú của bản
chất con người, nâng cao năng lực con người, giải phóng con người khỏi mọi sự
tha hóa, khỏi sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Trên cơ sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm
chủ xã hội của mình.
2.1.2. Phát triển con người toàn diện gắn liền với phát triển kinh tế -
xã hội, thông qua lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn của con người
Khi coi con người là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử, C.Mác đã khẳng
định rằng: “Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích
của bản thân mình” [83, tr.41]. Sự vận động, phát triển của lịch sử chính là sự thay
thế các nền văn minh, văn hóa, gắn liền với quá trình tiến hóa, phát triển của con
người, của xã hội loài người. Bằng hoạt động thực tiễn sáng tạo của mình, con
người không chỉ phát triển chính bản thân mình, mà thông qua đó, con người còn
sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. C.Mác viết: “Xã hội … là sản phẩm của sự tác
động qua lại giữa những con người” và “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là
lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người” [90, tr.658]. Sáng tạo ra
40

toàn bộ mọi nền văn minh và văn hóa của nhân loại, con người thể hiện ra là giá
trị sản sinh ra mọi giá trị, là thước đo giá trị của mọi giá trị. Như vậy, xét về thực
chất, con người không chỉ là sản phẩm, là chủ thể, mà còn là mục đích của sự
phát triển xã hội. Và do vậy, sự phát triển con người toàn diện không thể không
gắn với sự phát triển xã hội.
Con người không chỉ sáng tạo ra lịch sử, mà con người còn chính là động
lực cơ bản nhất cho sự phát triển của lịch sử. Đứng trên lập trường duy vật về
lịch sử, C.Mác cho rằng tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát
triển của lực lượng sản xuất của xã hội. Sản xuất càng phát triển, tính chất xã hội
hóa của sản xuất cũng ngày càng cao. Sự phát triển mới của nền sản xuất sẽ cần
đến những con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển
toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình, nền sản
xuất đó sẽ tạo ra những điều kiện cho sự phát triển con người toàn diện, sẽ làm
cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội “có năng lực phát triển toàn diện”
[85, tr.474]. Điều này cho thấy C.Mác luôn đặt sự phát triển của con người trong
quan hệ biện chứng với phát triển sản xuất và phát triển xã hội. Hơn thế, C.Mác
còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người toàn
diện là “một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội” [86, tr.52].
Để phát triển con người toàn diện, theo C.Mác, cần có sự kết hợp chặt
chẽ giữa lao động sản xuất với giáo dục về thể chất và trí tuệ. C.Mác viết: “Kết
hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một
lứa tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm
nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản xuất ra con người
phát triển toàn diện nữa” [88, tr.688]. Với quan niệm này, C.Mác còn đề cập đến
một khái niệm rộng hơn, toàn diện hơn - hoạt động thực tiễn. Coi hoạt động thực
tiễn là một phương pháp phát triển con người, C.Mác cho rằng hoạt động thực
tiễn tác động trực tiếp đến tư duy. Bằng hoạt động thực tiễn và thông qua thực
tiễn cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội, con người ngày càng hoàn thiện mình
hơn, xét trên cả hai phương diện sinh học và xã hội.
41

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, phát triển con người toàn diện
trong quan niệm của C.Mác có cơ sở là hoạt động thực tiễn. Từ nhu cầu và sự
sinh tồn của cuộc sống, bằng hoạt động thực tiễn, mà trước hết là hoạt động lao
động sản xuất, con người phát triển chính bản thân mình. Đó là quá trình đóng
vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển con người toàn diện. Với
quan điểm này, học thuyết Mác đã cho thấy tính cách mạng và khoa học trong
quan niệm về biện pháp phát triển con người là thông qua hoạt động thực tiễn
của chính con người.
Như vậy, với “chủ nghĩa nhân đạo hiện thực” và quan điểm quy vật triệt để
của mình, học thuyết Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ
thể của lịch sử; con người là động lực và cũng là mục đích của sự phát triển của
lịch sử xã hội loài người. Con người với bản tính luôn hướng tới tự do và làm
chủ, đã bằng hoạt động thực tiễn cách mạng của chính mình để phát triển bản
thân mình và thông qua đó làm cho xã hội phát triển. Sự nghiệp giải phóng và
phát triển con người là cuộc đấu tranh để xóa bỏ sự tha hóa của con người, phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Xã hội mới đó là một cộng đồng xã hội với “một
liên hợp, trong sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người” [85, tr.628], mọi cá nhân có điều kiện để có thể tự do
phát triển “năng khiếu” của mình. Do đó, chỉ có trong cộng đồng xã hội như vậy,
con người mới có thể được giải phóng và phát triển toàn diện.
2.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, học thuyết Mác - Lênnin đã
trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Trên thực
tế, học thuyết Mác - Lênin nói chung, học thuyết Mác về con người và phát triển
con người nói riêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp thu, phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với Hồ Chí Minh,
thông qua các bài viết, bài nói của Người, chúng ta thấy rằng, trong tư tưởng của
42

Người, con người phát triển toàn diện là con người có đủ các phẩm chất, bao
gồm: Đạo đức, trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ (Đức, trí, thể, mỹ). Trong bài: “Gửi
các em học sinh” trên báo Nhân Dân ngày 24/10/1955, Người đã viết:
Đối với các em, việc giáo dục gồm có:
+ Thể dục: Để làm cho thân thể khỏe mạnh.
+ Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm tri thức mới.
+ Mỹ dục: Để phân biệt cái đẹp, cái gì không đẹp.
+ Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu
của công [98, tr.75].
Tư tưởng này được Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định trong “Báo cáo về dự
thảo Hiến pháp sửa đổi” tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa 1 Nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa (1959), trong đó Người viết: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc
giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục” [99, tr.593].
Như vậy, con người toàn diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh hiện ra
như một thực thể vẹn toàn, trong đó sự mạnh khỏe về thể chất, sự phong phú về
mặt trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc về cái đẹp, cái tốt, cái cao cả…cũng như những
phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp là những điểm cơ bản và chủ yếu nhất.
Khái quát về con người toàn diện, Hồ Chí Minh gọi con người đó phải có đủ đức
và tài, “hồng” và “chuyên”.
Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người toàn diện, Đảng ta, trong
các cương lĩnh của mình đã luôn thể hiện quan điểm cần phải xây dựng con
người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã cho
rằng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện – “Đó là con
người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và
lao động giỏi; sống có văn hoá và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần
quốc tế chân chính” [29, tr.15]. Tại Đại hội IX, Đảng ta cho rằng phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam cần phải hướng đến con người “phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức
43

cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá,
quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [36, tr.114]. Và tại Đại hội
XI, khi tiếp tục khẳng định quan điểm phát triển con người toàn diện, Đảng ta đã
đề ra mục tiêu là phải “xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý
thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có
văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính” [39, tr.40].
Như vậy, có thể thể nói, Hồ Chí Minh và Đảng ta đều thấm nhuần học
thuyết Mác về phát triển con người toàn diện và vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của con người. Vì thế, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thấy được việc cần thiết
phải xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Cụ
thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chúng ta thấy Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng và
phát triển con người Việt Nam mới trên hai phương diện: Thứ nhất, phát triển
con người toàn diện với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạngViệt Nam; thứ hai, phát triển con người toàn diện là phát triển về các
phương diện thể lực, trí lực và tâm lực.
2.2.1. Phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam
Với quan niệm đúng đắn về vị trí, về vai trò của con người và về phát triển
con người, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định con
người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người và phát triển con
người toàn diện là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, là nhiệm vụ trung
tâm, là động lực của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội luôn gắn liền với giải phóng và phát triển con người.
Đồng thời, mục tiêu giải phóng con người phải xuất phát từ giải phóng dân tộc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với lập trường đó, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
phải “đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân … lợi cho dân” [95, tr.61];
“dựa vào: Lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”
[95, tr.444]; “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy” [100, tr.556].
44

Ngay khi mới bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta cũng đã xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là xã hội mà ở đó, “con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [29, tr.9]. Mục tiêu này cho thấy
sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng ta là hướng tới con người, coi sự phát
triển con người toàn diện là đặc trưng, là bản chất của chế độ ta, là mục tiêu tối
cao, là động lực to lớn của sự nghiệp cách mạng.
Cụ thể hoá mục tiêu này, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn
vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phương hướng lớn của
chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cở sở bảo đảm công
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa
đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể
và cộng đồng xã hội” [29, tr.13].
Khi xác định phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn chú ý đến hoàn cảnh
lịch sử, đến thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chung của cách mạng là
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song, trong mỗi
giai đoạn lịch sử cần phải xác định mục tiêu cụ thể. Mục tiêu tối cao của cách
mạng Việt Nam trước năm 1945 là giành chính quyền, sau năm 1945 là làm sao
chính quyền đó phải mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, bởi “dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Do vậy, Đảng ta và
Hồ Chí Minh đã yêu cầu “chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm
cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành” [94, tr.152].
Khi miền Bắc đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu
nhất định, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện chính sách
45

“khoan thư sức dân”, “nâng cao dần mức sống của nhân dân..., đồng thời giảm
nhẹ dần sự đóng góp của nông dân” [98, tr.48]. Trong bối cảnh đất nước có
chiến tranh, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không quên chăm lo cho lợi ích
của nhân dân, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể
giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng
được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Vấn đề con
người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng rất cần có thêm, có sớm, nhưng cần
hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng” [98, tr.272]. Khi đất nước ta
bước vào giai đoạn khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, mục tiêu lúc này
của cách mạng Việt Nam là “không có gì quý hơn độc lập tự do”, và khi đó, mục
tiêu giải phóng và phát triển con người gắn liền với chủ quyền dân tộc.
Lý tưởng mà cả cuộc đời Hồ Chí Minh theo đuổi là mưu cầu độc lập cho
dân tộc, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chúng ta
làm cách mạng là để xây dựng một chế độ xã hội mới. Xã hội mới này, theo
Người, là xã hội mà trong đó, con người được tự do, bình đẳng, hạnh phúc, được
phát triển toàn diện. Do vậy, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một
xã hội lý tưởng, không chỉ ở thể chế chính trị dân chủ, cơ cấu kinh tế, kỹ thuật
hiện đại, mà còn là một chế độ có nền văn hoá cao, mang đậm giá trị nhân văn.
Người luôn nhấn mạnh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa”, “muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng
xã hội chủ nghĩa” [100, tr.679]. Do vậy, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm
hàng đầu cho sự nghiệp “trồng người”. Ngay cả trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng,
Người vẫn không quên căn dặn chúng ta phải hết sức chăm lo cho sự nghiệp này
và coi đó như việc “cần phải làm trước tiên” trong công cuộc xây dựng đất nước.
Kế thừa tư tưởng “trồng người” của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã rất quan tâm
đến việc bồi dưỡng, xây dựng con người mới – con người phát triển toàn diện.
Thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua đã chứng minh điều đó.
Ngay sau khi giành độc lập, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã bắt
tay ngay vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Với con người, mục tiêu của
46

Đảng ta là “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột
người, nghèo nàn và lạc hậu” [27, tr.29]. Vì vậy, mọi chủ trương và đường lối
của Đảng, Chính phủ là nhằm xây dựng đời sống mới cho nhân dân. Đặc biệt là
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn coi sự phát triển con người
Việt Nam toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm. Vì vậy, mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong gần 30 năm qua đều nhằm quán triệt
tư tưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu
phát triển con người toàn diện. Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh “lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững” [32, tr.85]. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự
phát triển phong phú, tự do, toàn diện con người” [34, tr.56].
Trong thời đại ngày nay, khi mà trên phạm vi toàn thế giới đang có nhiều
biến đổi nhanh chóng và sâu sắc dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, của sự phát triển kinh tế tri thức. Và khi nền văn minh của nhân
loại đang chuyển sang văn minh trí tuệ, Đảng ta đã đưa ra chủ trương đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp lớn lao này, chúng ta cần phải có những con người
có đủ khả năng, đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
lớn lao đó. Vì vậy, Đảng ta đã coi phát triển con người toàn diện, nhất là “phát
triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những
yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [39, tr.41].
Xem xét con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi việc kết hợp chặt chẽ giữa
động lực vật chất và động lực tinh thần là điều hết sức cần thiết để phát triển con
người toàn diện. Và việc sử dụng các động lực này chính là để phát huy cao độ
năng lực của từng cá nhân, cũng như sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc vào việc giải quyết các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc, của đất nước.
47

Khẳng định động lực vật chất với tư cách một trong những động lực cơ bản
để phát triển con người, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tục ngữ có câu: Dân dĩ thực vi
thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời. Lại có câu:
có thực mới vực được đạo; nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả”
[96, tr.572], “bởi vì dân lấy ăn làm gốc, có thực mới vực được đạo. Nếu bụng đói
thì các cô, các chú nói gì hay mấy cũng không ai nghe” [94, tr.411].
Nhấn mạnh động lực vật chất trong phát triển con người, song Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh động lực tinh thần và coi động lực
tinh thần cũng là một động lực cơ bản, không thể thiếu để xây dựng và phát triển
con người toàn diện. Những yếu tố thuộc về truyền thống dân tộc như văn hoá,
học vấn, trí tuệ, dân chủ, ...chính là những động lực tinh thần quan trọng đó, là
cái làm nên sức mạnh của mỗi con người và của cả cộng đồng, của toàn dân
trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước cũng như các
thứ của quý. Có khi được bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy.
Nhưng cũng có khi cất dấu kín đáo trong gương, trong hòm. Bổn phận của chúng
ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày” [96, tr.172].
Một trong những động lực tinh thần hết sức quan trọng để phát triển con
người toàn diện mà Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhắc đến là “Dân chủ”. Coi
dân chủ là bản chất của chế độ mới xã hội chủ nghĩa, trong hầu hết các cương
lĩnh của Đảng đều đặt mục tiêu là phải xây dựng xã hội Việt Nam “dân chủ”,
“công bằng”, “văn minh” và “thực hành dân chủ để làm cho dân, ai cũng được
hưởng quyền dân chủ, tự do” [95, tr.30]. Để dân chủ trở thành động lực mạnh
mẽ trong phát triển con người, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ
trương phát triển dân chủ đến tối đa, đưa các giá trị dân chủ vào quảng đại quần
chúng để phát huy cao nhất trí tuệ, tiềm năng vô tận của mọi tầng lớp nhân dân.
Do vậy, “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn” [102, tr.249], và “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên” [99, tr.592].
48

Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc thực hiện các quyền cơ
bản của con người. Bởi các quyền cơ bản của con người được coi là thước đo
của chế độ dân chủ và sự tiến bộ xã hội. Trong suốt những năm tháng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định quyền con người là thành quả và
khát vọng chung của nhân loại. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Ai cũng có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Kế thừa và phát huy tư tưởng đó của Người, Đảng ta xác định quyền
con người là những nhu cầu lợi ích vốn có, khách quan, không thể thiếu của
con người. Chỉ khi các quyền con người được đảm bảo, con người mới được
bảo vệ và phát triển nhân phẩm, được tồn tại với tư cách một con người và là
thành viên của cộng đồng. Từ nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta luôn thừa
nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người được thế
giới thừa nhận rộng rãi, luôn đặt con người vào vị trí trung tâm trong các chính
sách phát triển, xác lập các tiền đề vững chắc để thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ và toàn diện các quyền con người.

Quyền con người, theo quan điểm của Đảng ta, thống nhất với quyền dân
tộc, nhân quyền luôn được đặt trong mối quan hệ biện chứng với chủ quyền.
Đảng ta cho rằng, sự nghiệp giải phóng con người mang lại các quyền tự do cá
nhân, gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Rằng, chỉ ở
một nước độc lập thực sự, chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người
mới được thực thi đầy đủ và có điều kiện để đảm bảo một cách chắc chắn.

Quyền con người ở Việt Nam được thể hiện trong quyền và nghĩa vụ công
dân, thực hiện quyền con người gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ hoá xã
hội. Đảng ta đã chỉ rõ, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thể
hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, thông qua hoạt động của Nhà nước, do nhân dân cử ra bằng hình thức
dân chủ trực tiếp. Dân chủ không phải tự do vô chính phủ, dân chủ phải đi đôi
49

với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng pháp luật và được pháp luật
bảo đảm. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật” [55, tr.31].

Dựa trên những quyền khách quan vốn có của con người, trên cơ sở nền
tảng văn hóa xã hội của dân tộc và các công ước quốc tế về quyền con người,
Đảng ta đã cơ bản thực hiện thể chế hóa thành hiến pháp và pháp luật các quyền
của người dân Việt Nam. Đặc biệt trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta
tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhiều luật mới ra đời như:
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1991); Luật Phổ cập giáo dục và tiểu
học (1991); Sửa đổi Hiến pháp 1992; Bộ luật Lao động (1994); Bộ luật dân sự
(2005); Luật Giáo dục (1998 và 2005). Đồng thời Đảng và Nhà nước ta đã thực
hiện cam kết hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người ... Tất cả những
điều này đều nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá của
nhân dân. Trong văn kiện Đại hội Đảng XI, Đảng ta tiếp tục chỉ đạo: “Quan tâm
hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều
ước quốc tế về quyền con người” [39, t.239]; trong điều 3 của Hiến pháp sửa đổi
2013, đã khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Điều này cho thấy, các chủ trương và những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về phát triển con người toàn diện ngày càng được cụ thể hoá, hiện thực hoá
một cách mạnh mẽ và qua đó, con người Việt Nam ngày càng có thêm những
điều kiện thuận lợi, vững chắc để phát triển toàn diện.
50

2.2.2. Phát triển con người toàn diện là phát triển con người về các
phương diện thể lực, trí lực và tâm lực
Thứ nhất, phát triển con người về thể lực
Xác định thể lực là thành tố quan trọng trong con người, vì thế trong quá
trình xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm phát triển thể lực cho con người
Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh “giữ gìn dân chủ, xây dựng Nhà nước, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần đến sức khoẻ mới thành công” [94, tr.212]. Với Hồ
Chí Minh, sức khoẻ là sự lành mạnh cả về thể xác lẫn tinh thần. Người viết:
“Khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khoẻ” [94, tr.212].
Người còn chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa sức khoẻ của cá nhân với sức
khoẻ của cộng đồng, dân tộc. Với Người, nâng cao sức khoẻ cá nhân chính là
góp phần nâng cao sức khoẻ cho toàn xã hội. Người viết: “Mỗi một người dân
yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khoẻ mạnh là cả dân tộc khoẻ
mạnh. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người
dân yêu nước” [94, tr.212].
Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của tri thức có ý nghĩa quyết định đến sự
phát triển kinh tế - xã hội. Song, trong mối quan hệ giữa thể chất và trí tuệ thì thể
chất lại là yếu tố cần và có trước. Vì vậy, phát triển thể lực là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng, là yếu tố nền tảng ban đầu cho sự phát triển chung của con người.
Nhận thức sâu sắc điều này và kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người về thể lực, Đảng ta đã khẳng định: “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong
mọi tài sản, nhưng chính sức khoẻ là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó”
[31, tr.16-17]. Đảng ta không chỉ đánh giá thể lực - sức khỏe là nền tảng cho sự
phát triển con người toàn diện, mà còn coi sức khoẻ là vốn quý nhất và là nhân
tố quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
“Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để
mọi người đều được quan tâm chăm sóc sức khoẻ” [31, tr.67].
51

Để con người có một sức khoẻ tốt, ngoài yếu tố di truyền thì vấn đề có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển thể chất con người là phát triển đời sống vật
chất của con người. Vì thế, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
đời sống vật chất của nhân dân. Trong hoàn cảnh lịch sử của ngày đầu giành
chính quyền, trong khi đối diện với “giặc đói”, “giặc dốt”, việc chăm lo đời sống
vật chất cho nhân dân cũng trở nên bức thiết. Vì thế, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu: “Chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân
có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành” [94, tr.152]. Khi
miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “nâng cao dần mức sống của nhân
dân, đồng thời giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân” [98, tr.48]. Trong điều
kiện miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc tập trung nhân
tài và vật lực cho xây dựng và phát triển kinh tế, đời sống vật chất cho nhân
dân vẫn được Người hết sức quan tâm. Tại Hội nghị lần thứ 9 (mở rộng) của
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Phải luôn nhớ rằng: điều
quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải
thiện đời sống nhân dân” [97, tr.429].
Trong những năm đầu cả nước tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc
biệt là trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã xây dựng và không ngừng
phát triển nền sản xuất xã hội; không ngừng đổi mới nền kinh tế trên cả phương
diện sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Sự nghiệp đổi mới, trong quan điểm
của Đảng ta trước hết là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Và hơn nữa, Đảng ta còn đưa ra quan điểm phát triển kinh tế đi liền với
tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội. Vì vậy, sau gần 30 năm đổi mới, chúng
ta đã gặt hái được thành quả quan trọng về kinh tế, bước đầu đã đem lại đời
sống mới cho nhân dân, góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng và nâng cao
sức khỏe nhân dân.
Bên cạnh phát triển nền sản xuất, để phát triển thể chất người Việt Nam,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú trọng công tác phát triển thể dục, thể
52

thao, coi đây như một giải pháp cần thiết nhằm nâng cao thể lực và cải thiện
giống nòi Việt Nam. Do vậy, ngay sau khi giành được chính quyền, thay mặt
Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục.
Người cho rằng, để “giữ gìn sức khoẻ thì phải thường xuyên tập thể dục thể
thao” [94, tr.116]; “tập thể dục đặng giữ gìn và bồi đắp sức khoẻ” [94, tr.121].
Người khẳng định: “Phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh. Khoẻ mạnh thì mới
đủ sức tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những việc ích quốc, lợi dân” [98,
tr.261]. Trên cơ sở đó, Người cho rằng: “Chúng ta nên phát triển phong trào thể
dục, thể thao rộng khắp” [100, tr.116]. Coi việc rèn luyện thân thể là bổn phận
của mỗi người dân yêu nước, bản thân Hồ Chí Minh đã trở thành một tấm gương
sáng về luyện tập thể dục, thể thao.
Kế thừa tư tưởng đúng đắn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta thường
xuyên quan tâm và đầu tư cho công tác phát triển thể dục, thể thao. Trong đó,
Đảng ta chú trọng đến các thế hệ, đặc biệt là thế hệ thanh niên, mà trực tiếp là
những người đang ngồi trên ghế nhà trường. Do vậy, Đảng ta cho rằng, chúng ta
cần phải đưa việc giáo dục thể chất và một số môn thể thao quốc phòng cần thiết
vào chương trình học tập ở các trường học từ phổ thông trở lên, phát triển mạnh
thể dục, thể thao cả trong các ngành sản xuất; phát triển thể dục, thể thao thành
một phong trào có tính quần chúng rộng rãi. Đồng thời, phải tăng cường đào tạo
đội ngũ vận động viên, chuyên gia thể dục, thể thao để lấy đó làm nòng cốt xây
dựng phong trào thể dục, thể thao sâu rộng trong quần chúng nhân dân nhằm
phát triển thể lực con người Việt Nam.
Cùng với các biện pháp trên, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
một trong những giải pháp có tính chiến lược - đó chính là giải pháp phát triển
nền y tế. Vì vậy, chúng ta phải làm tốt công tác cứu chữa và chăm sóc chu đáo về
y tế đối với bệnh nhân. Để chữa bệnh và phục hồi sức khoẻ của con người, ngoài
việc dùng thuốc, người thầy thuốc “còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm
yếu” [95, tr.395]. Theo Hồ Chí Minh, ngành y tế muốn chăm sóc ngày càng tốt
hơn sức khoẻ cho nhân dân thì một mặt, mỗi bác sĩ, nhân viên trong ngành “phải
53

thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Lương y như từ mẫu” [97, tr.88];
mặt khác, phải tìm mọi cách để “chế tạo được... thuốc mới có hiệu quả hoặc nghĩ
ra cách gì mới làm cho việc y tế tiến bộ nhanh chóng” [95, tr.396]. Có thể nói, tư
tưởng này của Người cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, bởi lẽ những bất
cập trong ngành y dược, đặc biệt là sự xuống cấp về đạo đức của người thầy
thuốc đang trở thành vấn đề nhức nhối.
Hiện nay, Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều chủ trương và chiến lược
phát triển y tế (như “Chiến lược y tế công cộng 2007-2012”, “Định hướng chiến
lược y tế 2010 – 2030”) nhằm tăng cường đào tạo đội ngũ y, bác sĩ, dược sĩ ngày
càng đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để phục vụ cho sự nghiệp chăm sóc
sức khoẻ cho nhân dân. Đồng thời, đẩy nhanh công tác xây dựng bệnh viện, trạm
y tế; nhanh chóng hiện đại hóa trang thiết bị y tế; phát triển ngành dược nhằm
đáp ứng được yêu cầu của công tác chăm sóc và khám chữa bệnh cho nhân dân.
Cùng với việc chăm sóc y tế một cách tích cực, chủ động cho nhân dân,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến công tác vệ sinh phòng
chống dịch bệnh. Với phương châm: “Phòng bệnh hơn trị bệnh”, Hồ Chí Minh
luôn nhắc nhở các tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành, một mặt, phải thực
hiện “ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch thì mới có sức khoẻ” [100, tr.322];
mặt khác, phải giữ gìn vệ sinh, môi trường sống sạch sẽ, như trồng cây xanh, diệt
côn trùng gây bệnh. Người nói: “Phải ra sức tiêu diệt những kẻ độc ác là ruồi
muỗi để trừ bệnh tật, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân…; phải kết hợp việc tiêu
diệt ruồi muỗi với công tác vệ sinh như diệt chuột, quét dọn nhà cửa, đường xá,
lấp các vũng nước bẩn” [99, tr.190-191]. Người còn cho rằng, đây là những việc
rất quan trọng không chỉ nhằm “bảo vệ sức khoẻ của nhân dân” [99, tr.190], mà
còn “có ý nghĩa chính trị nữa, có quan hệ đến kinh tế, văn hoá” [99, tr.191]. Vì
vậy, theo Người, “cần phải gây dựng một phong trào vệ sinh rộng khắp và bền
bỉ” [100, tr.355]; “phải huy động quần chúng và dựa vào lực lượng của quần
chúng” [99, tr.191] thì mới có thể giải quyết được vấn đề vệ sinh, phòng bệnh,
bảo vệ sức khoẻ của nhân dân và phát triển thể lực con người. Hiện nay, Đảng ta
54

đã ban hành luật vệ sinh an toàn thực phẩm và phát động nhiều chiến dịch vệ
sinh, phòng chống bệnh dịch kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái nhằm bảo
vệ sức khỏe nhân dân.
Tóm lại, với quan điểm thể lực là nền tảng đầu tiên trong con người, hơn
thế nữa do thực tế những hạn chế của thể lực con người Việt Nam, nên việc phát
triển thể lực cho nhân dân luôn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng ta một lần nữa chỉ đạo phải “không ngừng
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ
ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất” [39, tr.79].
Thứ hai, phát triển con người về trí lực
Với quan niệm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có
học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật; cần phải học lý luận Mác -
Lênin, kết hợp đấu tranh và công tác hàng ngày ... Học đi đôi với hành” [100,
tr.306]. Trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề ra các chủ trương và giải pháp để phát triển
trí lực cho con người Việt Nam, để người dân Việt Nam có đủ kiến thức văn
hóa, trình độ khoa học - kỹ thuật, trình độ chuyên môn đáp ứng sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, để phát triển trí
lực con người Việt Nam, trước hết phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân.
Với quan điểm đó, trong bối cảnh trình độ văn hóa, dân trí của nhân dân ta thấp,
“giặc dốt” là một trong ba thứ “giặc” lớn nhất của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã coi xoá nạn mù chữ là một trong những yêu cầu có tính cấp bách. Vì
thế, Hồ Chí Minh và Chính phủ đã phát động phong trào “bình dân học vụ” xây
dựng “đời sống mới”. Người kêu gọi:
Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ. Những
người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì
chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo,
55

người ăn người làm không biết thì chủ bảo, các người giàu có thì mở lớp
học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng,
các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những
tá điền, những người làm của mình [94, tr.36-37].
Phong trào này đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào
mặt trận diệt giặc dốt, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu, bước đầu nâng cao dân trí, phát
triển trí lực cho con người Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã ra quyết định số 14 - NQTƯ về cải
cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách
mạng tư tưởng – văn hóa; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ
nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Trước đòi hỏi của thực tiễn mới, khi chúng ta bước vào thời kỳ đổi mới,
trong xu thế mới, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục - đào tạo đối
với sự phát triển con người nói chung và trí lực con người nói riêng. Trong Hiến
pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong luật giáo
dục năm 1998 và 2005, cũng như các Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X
và XI, đều xác định, giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu” để nâng cao
dân trí, phát triển cho con người toàn diện ở Việt Nam.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hóa, Đảng ta và Hồ Chí Minh còn
chú trọng việc giáo dục khoa học - kỹ thuật cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã
viết: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu
nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn. Trong một thời gian không xa,
đạt tới đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật” [100, tr.727]. Trong bối cảnh lúc đó
nhân dân ta đa số còn mù chữ, việc giáo khoa học - kỹ thuật là vô cùng khó
khăn, song nhờ định hướng hết sức đúng đắn này, khi miền Bắc bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh chú trọng giáo dục nhằm nâng cao trình độ
học vấn, kiến thức văn hoá, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ khoa học - kỹ thuật cho nhân dân, và cho
56

rằng, “cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ
thuật” [99, tr.586]. Ngay những ngày đầu cả nước tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tại Đại hội IV, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới là: “Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng
và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt” [27, tr.29].
Nâng cao trình độ học vấn, kiến thức văn hoá và khoa học - kỹ thuật là điều
kiện tiên quyết để con người nắm bắt những thành tựu của nhân loại, là cơ sở để
phát triển trí lực con người Việt Nam. Có thể nói, quan điểm này của Đảng ta và
Hồ Chí Minh không chỉ mang giá trị lịch sử, mà còn có giá trị thời đại và cho
đến nay, tư tưởng đó đã trở thành chân lý. Trong thời đại ngày nay, kinh tế tri
thức đang trở thành xu thế tất yếu, chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành
một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều kiện
đó đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có khả
năng đáp ứng yêu cầu của thời đại. Vì vậy, Đảng ta khẳng định phải ưu tiên giáo
dục người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ phải có trình độ khoa học và công nghệ
cao; hơn thế nữa, Đảng ta còn coi việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
là khâu “đột phá chiến lược”; đồng thời phải giáo dục cho người lao động có
“năng lực sáng tạo, tác phong công nghiệp, kỹ năng thực hành, ý thức trách
nhiệm xã hội” [39, tr.216].
Có thể nói, hiện nay trình độ dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở
thành nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Vì
vậy, với nước ta, việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và trọng
dụng nhân tài là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Trong đó, Đảng ta luôn xác định:
“Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát
triển kinh tế tri thức” [39, tr.130] nhằm xây dựng thế hệ con người Việt Nam
mới - con người phát triển toàn diện - không chỉ có đức, mà cần có trí tuệ tinh
thông và trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến đủ sức giải quyết những vấn đề
thực tiễn đang đặt ra.
57

Thứ ba, phát triển con người về tâm lực


Coi tâm lực là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để phát triển con người toàn
diện, Hồ Chủ tịch cho rằng tâm có sáng thì trí mới bền, vì thế Đảng ta và Hồ
Chủ tịch đã rất chú trọng đến phát triển con người Việt Nam về mặt tâm lực.
Trong đó, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã coi đạo đức là nền tảng của con người,
giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Bởi con người trước hết phải
có tâm trong sáng, có cái đức cao đẹp; cái tâm, cái đức đó phải được thể hiện
trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày giữa con người với con người: người
thân, đồng chí, đồng nghiệp, nhân dân và với đất nước.
Với quan điểm cho rằng đạo đức là nền tảng của con người, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý giáo dục đạo đức cho mọi người: từ người công
nhân, nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào
các tôn giáo, các nhà tu hành….Nhưng trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc giáo
dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta,
cán bộ, đảng viên phải có đạo đức mới có thể lãnh đạo nhân dân, mới phục vụ
nhân dân, phục vụ đất nước. Trước khi đi xa, trong Di chúc, Hồ Chí Minh còn
căn dặn, nhắc nhở chúng ta rằng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân” [102, tr.498].
Để có đạo đức, thì mỗi người phải tự rèn luyện và rèn luyện suốt đời.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố,
cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [99, tr.293].
Có thể nói, Hồ Chí Minh không chỉ giáo dục đạo đức cho mọi người, hơn thế
nữa chính bản thân Người đã luôn thực hành đạo đức, và Người đã trở thành
một tấm gương đạo đức cao đẹp mà mọi thế hệ phải noi theo. Vì thế, ngày 02
tháng 02 năm 2007, tại lễ kỷ niệm 77 thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thay
58

mặt Đảng, Chính phủ, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã chính thức phát động
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trên
thực tế, phong trào này đã có sức lan tỏa sâu rộng và có ý nghĩa rất lớn đối với
việc giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với việc giáo dục đạo đức, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
luôn coi trọng việc giáo dục phẩm chất chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng
cho con người Việt Nam, đặc biệt là cho tầng lớp thanh niên. Theo Hồ Chí
Minh, nếu con người không có định hướng chính trị đúng đắn, không được trang
bị lý tưởng cách mạng tiến bộ thì “như người nhắm mắt mà đi” [98, tr.221];
“như đi ban đêm không có đèn, không có gậy, dễ vấp té” [92, tr.120]; hoặc như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam, “nhất định không thể hăng
hái đấu tranh cho nhân dân, cho cách mạng” [97, tr.328]. Với quan điểm đó,
Người khẳng định lý tưởng cách mạng của người Việt Nam ngày nay là “phấn
đấu cho Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội toàn thắng trên đất
nước ta và trên toàn thế giới” [101, tr.372]. Để lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội thực sự thấm sâu vào mỗi con người Việt Nam, quan điểm của
Đảng ta và trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải tổ chức học tập có hệ thống chủ
nghĩa Mác – Lênin, phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao tinh thần yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân.
Cùng với việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, trong quá
trình phát triển tâm lực cho con người Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta còn chú
trọng phát triển và nâng cao văn hóa thẩm mỹ cho nhân dân. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng ta, con người không những có nhu cầu tồn tại, mà còn có nhu
cầu phát triển, vươn tới cái mới, cái hay, cái đẹp, cái cao cả; con người ai cũng có
ước vọng vươn tới “chân, thiện, mỹ”. Đó là bản chất nhân văn luôn tiềm ẩn trong
con người. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì nhu cầu vươn tới cái đẹp càng
cao. Quá trình vươn tới cái hay, cái đẹp, cái cao cả cũng là quá trình con người loại
bỏ dần những gì xấu xa, ích kỷ trong bản thân để “làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi” [102, tr.558].
59

Đảng ta và Hồ Chí Minh còn cho rằng, để phát triển và nâng cao năng lực
thẩm mỹ cho nhân dân, chúng ta cần xây dựng định hướng văn hóa thẩm mỹ
đúng đắn. Định hướng này gắn liền với lý tưởng chính trị, đạo đức của xã hội và
con người Việt Nam, mang tính cách mạng và bản chất “Dân tộc, khoa học, đại
chúng” [96, tr.173]; trong đó, theo Hồ Chi Minh, “nội dung xã hội chủ nghĩa và
tính dân tộc ngày càng phát triển mạnh mẽ” [101, tr.224]. Chỉ trên cơ sở định
hướng văn hóa thẩm mỹ đúng đắn đó, chúng ta mới làm cho con người Việt
Nam nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái tốt, cái đúng, cái cao cả. Để có định
hướng này, chúng ta cần phải kết hợp giữa việc thừa kế và phát huy những giá trị
truyển thống tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp tốt nhất để giáo dục văn hóa thẩm mỹ đối với
quần chúng nhân dân là phải ca ngợi, đề cao, cổ vũ những tập thể, những điển
hình tiên tiến trong phong trào quần chúng, những anh hùng trong chiến đấu,
trong sản xuất, bởi “đó là những bông hoa rất đẹp trong vườn hoa dân tộc của
chúng ta” [102, tr.548]. Người yêu cầu phải “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho
hùng hồn những việc ấy bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng nghệ thuật khác,
v.v.” [100, tr.561]; “phải ca tụng chân thật những con người mới, việc mới chẳng
những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con cháu ta
đời sau” [100, tr.646]. Người cho rằng, “lấy gương tốt trong quần chúng nhân
dân và cán bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần
chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục lớn. Đó cũng là
cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác giáo dục” [102, tr.551].
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Cương lĩnh của Đảng ta đã xác định:
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt
động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức
cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình [36, tr.114].
60

Chủ trương này đã trở thành quan điểm chỉ đạo xuyên suốt và tiếp tục được
bổ sung, phát triển trong các văn kiện của Đảng ta trong những giai đoạn tiếp
theo, đồng thời được cụ thể hóa thành những chính sách và thực thi sâu rộng
trong xã hội. Đặc biệt, trong xu thế quốc tế hóa và kinh tế thị trường phát triển
ngày càng mạnh mẽ, văn hóa trở thành yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển
bền vững của quốc gia. Vai trò của văn hóa thẩm mỹ không chỉ đem lại sức sống
“tâm thần” to lớn đối với mỗi con người Việt Nam, nó còn trở thành “vũ khí”
quan trọng đem lại những thắng lợi to lớn trong lao động và chiến đấu của dân
tộc Việt Nam. Chúng ta còn nhớ, Hồ Chí Minh do rất coi trọng vai trò của văn
hóa thẩm mỹ, nên trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ năm 1951,
Người còn chỉ rõ:“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận; Anh chị em là
chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Kế thừa và phát huy tư tưởng đó, lần này - tại Đại hội
Đảng XI, Đảng ta đã xác định văn hóa phải trở thành nền tảng tinh thần của đời
sống xã hội, vì thế phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,
trở thành nền tảng vững chắc…xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức
và thẩm mỹ ngày càng cao” [39, tr.76].
Như vậy, có thể nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng Việt Nam; và phát triển con người toàn diện là sự phát triển con người cả
về thể lực, trí lực và tâm lực. Ba mặt đó luôn quan hệ mật thiết trong phát triển
con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện.
2.3. MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN
Thứ nhất, con người được xem là trung tâm của sự phát triển
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, không phải lúc nào, ở đâu, người ta
cũng xem con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó có
thể nhận thấy trong học thuyết của một số nhà tư tưởng theo chủ nghĩa duy tâm
61

(Platon, Heghen…); chúng ta cũng nhận thấy điều này trong quan điểm của một
số tôn giáo (Blamon, Cơ đốc giáo…): Con người chỉ được xem như tiểu vũ trụ,
là thực thể bé nhỏ do đấng tối cao sinh thành. Và chúng ta còn thấy nhiều quan
điểm cho rằng, con người chỉ là “con người chính trị”, vì thế sự tồn tại người
mang tính pháp nhân phụ thuộc vào nhà nước; hay ở những thập niên 70 - 80 của
thế kỉ XX, Taylor còn coi con người chỉ là động vật kinh tế. Những quan điểm
đó không những là khiếm khuyết, mà còn trở nên sai lầm trước những thành quả
của tư tưởng khoa học hiện đại và thực tiễn thời đại.
Với bản chất cách mạng và khoa học, chủ nghĩa Mác đã khẳng định con
người chính là sản phẩm của lịch sử, nhưng con người cũng chính là “kẻ” sáng
tạo ra lịch sử và lịch sử chẳng qua chỉ là lịch sử của chính con người, và cũng
bằng chính “hoạt động lịch sử” chân chính của mình mà con người được giải
phóng và phát triển toàn diện. Khái quát quan điểm đó của C.Mác, chúng ta dễ
dàng nhận thấy, C.Mác đã xem con người chính là trung tâm của sự phát triển.
Quan điểm đó của C.Mác là một quan điểm hết sức khoa học về con người, vì
thế nó luôn mang tính thời đại. Điều này được chứng minh bằng việc cuối thế kỷ
XX, cộng đồng nhân loại tiến bộ đã cho ra đời tổ chức chuyên nghiên cứu về phát
triển con người mang tên Chương trình phát triển liên hợp quốc (United Nations
Development Programme, viết tắt là UNDP). UNDP được coi là tổ chức có công
trong việc đề cao con người, thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố
quyết định, là mục tiêu của sự phát triển. Triết lý tổng quát của tổ chức này xác
định: con người giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Có những lúc, đông đảo cộng đồng nhân loại đã cho rằng, tăng trưởng kinh
tế đồng nghĩa với việc phát triển kinh tế - xã hội. Và khi ấy, kinh tế được đặc
biệt chú trọng thì con người vô tình hoặc cố ý bị bỏ quên; con người trở thành
công cụ, phương tiện của sự phát triển. Vì thế, triết lý đúng đắn của UNDP về
con người đã thỏa mãn được thái độ của nhiều cộng đồng, nhiều giới chức xã
hội, của mọi nền văn hóa, mọi tôn giáo, mọi chính kiến…Dù khác nhau đến mấy
62

cũng đều thừa nhận giá trị con người và đều phấn đấu vì hạnh phúc của con
người. Từ triết lý đúng đắn này, UNDP đã đưa ra nhiệm vụ nghiên cứu và hoạch
định chiến lược phát triển con người. Thành quả đầu tiên của UNDP là Báo cáo
phát triển con người thế giới (HDR) năm 1990, và sau đó được xuất bản thường
niên. Hiện nay, UNDP có mạng lưới phát triển toàn cầu, có mặt tại hơn 166 quốc
gia với nhiệm vụ chính là tuyên truyền, vận động cho sự đổi mới và là cầu nối
giữa các nước với tri thức, kinh nghiệm và nguồn lực để giúp người dân xây
dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hiện có hơn 130 quốc gia trên thế giới đã xây
dựng báo cáo phát triển con người, với trên 600 báo cáo đã được xuất bản.
Theo quan điểm của UNDP, phát triển con người được cụ thể hóa thành các
chỉ số phát triển người, trong đó chỉ số phản ánh có tính tích hợp cao nhất và
được đông đảo cộng đồng thế giới công nhận là chỉ số HDI (Human
Development Index), đó là sự kết hợp của ba chỉ số: thu nhập, giáo dục và tuổi
thọ. Hiện nay, tổ chức này còn bổ sung nhiều chỉ số mới để phản ánh sự phát
triển con người, như chỉ số nghèo đói đa chiều, chỉ số bình đẳng giới, chỉ số
hạnh phúc….Và UNDP cũng đã cho rằng: Phát triển con người là quá trình mở
rộng các sự lựa chọn của con người nhằm đạt được những khả năng nhất định
và tận dụng những khả năng đó. Một số lựa chọn có tính quyết định nhất là có
một cuộc sống lành mạnh và lâu dài, là hiểu biết và có mức sống khá. Ở đây,
phát triển con người đồng nghĩa với việc mở rộng và tăng cường sự lựa chọn cho
con người, để tăng cường các năng lực và hoạt động của con người nhằm đưa tới
hạnh phúc cho cuộc sống con người.

Việt Nam cũng là thành viên rất tích cực của tổ chức UNDP, bắt đầu từ năm
2001, nước ta đã có báo cáo thường niên về phát triển con người Việt Nam. Việc
xem con người là trung tâm của sự phát triển không chỉ là xu hướng đúng đắn
của thời đại, mà còn hết sức phù hợp với truyền thống của dân tộc và con người
Việt Nam. Điều đó đã được thể hiện rõ trong quan điểm coi phát triển con người
toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam của Đảng ta,
63

của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều học giả khác ở nước ta. Vì thế, vấn đề đặt ra
cho chúng ta hiện nay là phải nhận thức sâu sắc về vị trí trung tâm của sự phát
triển chính là con người, để trên cơ sở đó chúng ta có được những quan niệm và
hành động đúng đắn vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam.

Thứ hai, về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay

Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta khẳng
định là nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, học thuyết
Mác và Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện cũng chính là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các quan điểm, quan niệm của các nhà nghiên cứu
ở Việt Nam về vấn đề phát triển con người toàn diện. Cùng với đó là việc quán
triệt quan điểm của Đảng ta về phát triển con người Việt Nam, cũng như việc
kế thừa những tư tưởng khoa học, tiến bộ về con người, nhìn chung các nhà
nghiên cứu ở nước ta khá thống nhất trong quan niệm về vấn đề này. Tuy
nhiên, không vì thế mà thiếu đi sự phong phú, đa dạng trong quan niệm của các
nhà nghiên cứu khi định nghĩa, luận giải về phát triển con người toàn diện.
Điều đó thật dễ hiểu, bởi lẽ nội hàm của khái niệm này không phải bất biến.
Tùy từng mục đích nghiên cứu, hay tùy từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà
các nhà khoa học đã sử dụng cách biểu đạt khác nhau cho phù hợp. Có các học
giả gọi là Con người Việt Nam mới - khái niệm này được sử dụng khá rộng rãi,
tiêu biểu là trong cuốn Về vấn đề xây dựng con người mới, do Phạm Như
Cương chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978. Một số nhà khoa học,
như Phạm Minh Hạc, Vũ Thiện Vương, Hồ Sỹ Quý, Nguyễn Thế Kiệt, Đặng
Hữu Toàn,…lại thường sử dụng khái niệm phát triển con người Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa…Mặc dù sử dụng các cách biểu đạt
khác nhau về khái niệm khác này, song về cơ bản, các học giả, các nhà nghiên
cứu đều thể hiện trong nội hàm khái niệm của mình những đặc điểm nói lên
tính toàn diện của sự phát triển con người Việt Nam.
64

Việc sử dụng những hình thức biểu đạt phong phú, dưới nhiều cách tiếp cận
và chuyên ngành khoa học khác nhau cho thấy vấn đề con người luôn là vấn đề
trung tâm của thời đại; con người luôn được xác định vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng Việt Nam. Và cũng chính vì vậy, trong bối cảnh lịch sử
khác nhau, do nhiệm vụ cách mạng khác nhau, nét đặc trưng trong nội hàm của
khái niệm thường tương thích với nhiệm vụ lịch sử của giai đoạn ấy.

Trong bối cảnh đất nước đang ra sức đấu tranh chống lại thực dân và đế
quốc, nét nổi bật được nêu lên trong con người Việt Nam là con người có tinh
thần yêu nước, đấu tranh kiên cường, bất khuất; rằng sự nghiệp phát triển và giải
phóng con người Việt Nam gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi
đánh bại ách thực dân, đế quốc, nhân dân ta bước vào xây dựng đời sống mới – xã
hội chủ nghĩa, giá trị được đề cao trong con người Việt Nam ở giai đoạn này là
yêu lao động, tinh thần hết mình vì tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân, yêu tự do và
độc lập. Trong đó, do nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế
nhằm cải thiện đời sống mới cho nhân dân, cho nên phẩm chất yêu lao động, tích
cực lao động tập thể được nêu bật. Học giả Phạm Hựu, với bài: “Xây dựng những
phẩm chất đạo đức xã hội chủ nghĩa của con người mới”, trong Về vấn đề xây
dựng con người mới, đã viết: “Lao động sản xuất trở thành một yêu cầu phẩm chất
đạo đức không thể thiếu trong toàn bộ những phẩm chất đạo đức của con người
mới nước ta” [17, tr.412]. Nghị quyết nghị Đại hội Đảng lần thứ IV cũng đã khẳng
định: “Con người mới là con người lao động với tinh thần tự giác cao, với đầy đủ
nhiệt tình cách mạng; trung thực, thật thà, quý trọng và bảo vệ của công; lao động
có kỹ thuật, có kỷ luật, có sáng tạo và đạt năng suất cao” [27, tr.28]. Còn trong bối
cảnh đất nước mới tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
những giá trị con người Việt Nam được đề cao là có trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có tinh thần làm chủ về kỹ thuật -
công nghệ tiên tiến… Đúng như nhận định của Giáo sư Trần Văn Giầu:
65

“Nếu ở thế kỷ XX, Việt Nam cần và đã có con người cách mạng kiên
cường, con người chiến binh thượng đẳng, thì với thế kỷ XXI, Việt Nam
cần và phải có những con người xây dựng tài ba, rất mực cần mẫn, lao
động có kỹ thuật, có kỷ luật, có năng suất cao, đồng thời là con người
được trang bị tư tưởng vững vàng, lý tưởng tốt đẹp” [46, tr.412].

Hiện nay, trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học – công nghệ và sự phát triển
kinh tế tri thức thì những giá trị mới trong con người Việt Nam như: phẩm chất
trí tuệ tinh thông, kỹ năng ứng xử linh hoạt (kỹ năng mềm), tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm…lại trở thành những phẩm chất cần có; đồng thời những vấn đề
như quyền con người, trí tuệ, văn hóa và thẩm mỹ của con người cũng hết sức
được quan tâm.

Như vậy, có thể nói, có nhiều khái niệm và cách diễn đạt khác nhau về vấn đề
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Hơn thế nữa, do tính lịch sử cụ thể, nét
đặc trưng trong nội hàm của khái niệm đó lại được thể hiện ra khác nhau. Song,
không phải vì vậy mà những giá trị phổ quát và có tính đặc thù của người Việt Nam
lại bị che lấp trong các cách hiểu khác nhau đó. Trong một hệ giá trị phong phú, đa
dạng thì những phẩm chất như: có tinh thần yêu nước, yêu lao động, sống tình
nghĩa, có đạo đức trong sáng, yêu chuộng hòa bình, thông minh, có tinh thần độc
lập, tự chủ, tự cường Trong con người Việt Nam, về cơ bản đều được các học giả
thừa nhận và khẳng định. Con người, dù ở quốc gia, dân tộc nào thì cũng đều phải
có những giá trị chung, những giá trị mang bản chất con người của thời đại lịch sử
đó. Tuy nhiên, bên cạnh những cái chung, bao giờ cũng tồn tại cái đặc thù, vì vậy
những phẩm chất trên chính là bản sắc độc đáo của người Việt Nam.

Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, kế thừa giá trị tư tưởng
Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển con người toàn diện. Đồng thời tiếp thu những giá trị trong quan niệm
66

của các nhà nghiên cứu đi trước và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam,
thực tiễn phát triển con người Việt Nam, tác giả luận án cho rằng: Phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa
con người cá nhân và con người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa
đức và tài; giữa “hồng” và “chuyên” trong mỗi con người; phát triển cá tính
và sự phong phú của bản chất con người, làm cho con người trở thành một
nguồn lực chủ yếu, một chủ thể vẹn toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Cụ thể hóa quan niệm đó về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện
nay, theo chúng tôi, được thể hiện ở ba mặt cơ bản, đó là phát triển con người về
thể lực, trí lực và tâm lực. Đó chính là ba yếu tố cơ bản hợp thành cái bản chất
của con người toàn diện, và việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay là cần tập trung làm cho ba mặt đó trong con người có
điều kiện được nảy sinh, được hình thành, được bộc lộ, được thể hiện và không
ngừng phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự phát triển của những mặt đó
trong con người Việt Nam, một mặt, phải phù hợp với truyền thống dân tộc và
con người Việt Nam, mặt khác phải phù hợp với xu thế chung của sự phát triển
của thời đại và cộng đồng nhân loại tiến bộ.
Phát triển về mặt thể lực, được thể hiện ở:
- Đối với cá nhân con người Việt Nam, phát triển thể lực được thể hiện ở:
Thể hình (cân nặng và chiều cao phù hợp với lứa tuổi), sức khỏe và tuổi thọ, sức
bền và sức dẻo dai của cơ bắp, khả năng lao động và làm việc ở nhịp độ cao, khả
năng hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy và có tâm - sinh lý tốt.
- Bên cạnh đó, sự phát triển thể lực con người Việt Nam còn được thể hiện
gián tiếp ở: mức độ phát triển của công tác y tế, chăm sóc sức khỏe con người; tỷ
lệ đói nghèo; sự phát triển của công tác thể dục, thể thao; sự trong sạch của môi
67

trường sinh thái; mức sống (thu nhập); tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và sản phụ…của
cộng đồng dân cư, dân tộc hay của đất nước.
Phát triển về mặt trí lực, được thể hiện ở:
- Đối với cá nhân con người Việt Nam, sự phát triển về trí lực được thể hiện
ở: trình độ tri thức và trình độ học vấn; kỹ năng nghề nghiệp và trình độ khoa
học, kỹ thuật; khả năng nhận thức; sự hiểu biết sâu rộng; chỉ số IQ và tư duy
sáng tạo; nhân sinh quan.
- Bên cạnh đó, sự phát triển trí lực con người Việt Nam còn được thể hiện
ở: sự phát triển của giáo dục và đào tạo; số lượng lao động có trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn và trình độ công nghệ cao; số lượng các nhà trí thức;…
Phát triển về mặt tâm lực, được thể hiện ở:
- Đối với cá nhân con người Việt Nam, sự phát triển tâm lực được thể hiện
khá phong phú, đó là sự phát triển hài hòa của ý chí, tình cảm, thái độ và định
hướng giá trị. Trong đó, có những phẩm chất căn bản là lý tưởng và niềm tin với
cách mạng, lòng yêu nước, đạo đức và lối sống, ý chí vươn lên trong cuộc sống,
ý thức trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, quan điểm và hành vi pháp luật,
quan điểm và hành vi thẩm mỹ.
- Bên cạnh đó, sự phát triển tâm lực con người Việt Nam còn được thể hiện
ở: sự phát triển của văn hóa, của nghệ thuật, của nền dân chủ trong xã hội, của
đạo đức truyền thống dân tộc, của việc được đáp ứng về thông tin và truyền
thông;…ở cộng đồng dân cư, của dân tộc, đất nước.
Như vậy, phát triển con người toàn diện là thể thống nhất của sự phát triển về
cả ba mặt thể lực, trí lực và tâm lực trong con người. Các mặt đó có mối quan hệ
biện chứng, liên hệ hữu cơ với nhau. Nếu như thể lực đóng vai trò nền tảng ban
đầu cho sự phát triển con người toàn diện, thì trí lực và tâm lực là yếu tố đóng vai
trò cơ bản và quyết định nhất đối với chất lượng con người. Khi diễn tả mối quan
hệ giữa các mặt đó trong phát triển con người toàn diện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khái quát hóa con người toàn diện thành hai nhân tố “đức” và “tài”, “hồng” và
“chuyên”. Trong đó, Người coi đạo đức là nền tảng, song không phải vì thế mà
68

Người tuyệt đối hóa đạo đức. Người luôn đặt đức trong mối quan hệ biện chứng
với tài, đức và tài phải luôn đi liền với nhau trong mỗi con người, bởi theo Người:
“Có tài mà không có đức…thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội,
mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài, ví như ông Bụt không
làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [99, tr.172]. Đúng vậy, nếu
thiếu hoặc một trong các mặt đó trong con người mà phát triển chậm thì sự phát
triển của con người trở nên phiến diện chứ không phải là toàn diện.
Hơn nữa, có thể nói, phát triển con người toàn diện, cố nhiên không chỉ
được hiểu là sự phát triển các mặt của cá nhân con người, mà còn phải được hiểu
là sự phát triển các mặt đó ở những bộ phận người – dân cư, những tầng lớp
người, cộng đồng người, những lứa tuổi người, những giới tính người. Việc xem
xét như vậy sẽ cho chúng ta thấy được bức tranh toàn cảnh về phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam.
Thứ ba, những nhân tố tác động đến phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay
Sự phát triển con người không đơn thuần chỉ là sự phát triển “tự nó”, là sự
phát triển “tự thân”, mà trong sự tồn tại và phát triển của mình, con người luôn
phải thực hiện sự giao tiếp với tự nhiên và giao tiếp xã hội. Chính trong quá trình
giao tiếp đó, con người mới hình thành và phát triển. Điều này cũng đã được học
thuyết Mác khẳng định, khi cho rằng “con người là một bộ phận đặc thù của giới
tự nhiên” và “bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Từ cơ sở lý
luận này, chúng ta dễ nhận thấy rằng, để có sự phát triển con người toàn diện là
do nhiều nhân tố tác động, có những nhân tố tác động trực tiếp như chiến lược
phát triển con người, những chính sách kinh tế trực tiếp cho con người, chính
sách an sinh xã hội... Có cả những yếu tố tác động gián tiếp như những thành tựu
trong công cuộc đổi mới, những tác động của kinh tế thị trường và hội nhập. Có
những yếu tố thuộc về nội sinh của chính con người, có cả những yếu tố tác động
từ bên ngoài; có những nhân tố của quá khứ, cũng có nhân tố của thực tại... Đó
là một tổ hợp của những điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến sự phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam.
69

Về điều kiện khách quan:


Một là, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trước hết chịu tác động
của môi trường kinh tế và thành quả phát triển kinh tế của đất nước. Theo lẽ tự
nhiên, con người trước hết phải có ăn, có mặc, ở, đi lại… Đó là những điều kiện
tiên quyết cho sự tồn tại người. Và chính sản xuất của cải vật chất là hoạt động
trực tiếp tạo nên những thứ đó cho con người. Như vậy, sản xuất của cải vật
chất, nói rộng ra là hoạt động kinh tế của quốc gia đóng vai trò nền tảng cho phát
triển con người toàn diện. Hơn thế nữa, sản xuất vật chất, phát triển kinh tế còn
tạo nền tảng cho mọi vấn đề khác của đời sống xã hội phát triển. Đã có nhiều
người cho rằng, ở đâu kinh tế phát triển thì ở đó giáo dục phát triển (theo nghĩa
giáo dục toàn diện); rằng kinh tế cũng là nền tảng để thúc đẩy phát triển y tế,
khoa học và công nghệ, văn hóa, nghệ thuật,…. Ngược lại, kinh tế chậm hay
kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển con người và các vấn đề khác của đời
sống xã hội.
Với đường lối đổi mới kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay, đã và đang tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển con người toàn
diện ở nước ta. Tuy nhiên sự nghiệp đó cũng đặt ra không ít thách thức đối với
sự phát triển con người Việt Nam. Việc phát triển nhanh hay chậm, ổn định hay
mất ổn định, cũng như việc phát triển kinh tế có đi liền với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội hay không, điều đó sẽ quyết định đến phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam.
Hai là, giáo dục - đào tạo luôn có tác động rất lớn đến phát triển con
người,đặc biệt nó tác động trực tiếp đến phát triển trí lực của con người.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh vai trò to lớn của giáo dục - đào tạo đối với
phát triển trí lực con người, và phát triển kinh tế - xã hội. Người ta tính rằng,
nếu phổ cập giáo dục nâng lên một bậc thì năng suất lao động xã hội tăng
5%. V.I.Lênin đã từng nhắc nhở những thanh niên Xô Viết rằng: “Việc điện
khí hóa không phải là do những người mù chữ thực hiện, mà chỉ biết chữ
70

thôi thì không đủ…Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học
vấn hiện đại, và nếu không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là
nguyện vọng mà thôi” [75, tr.364-365].
Sở dĩ giáo dục - đào tạo có vai trò to lớn như vậy, vì giáo dục - đào tạo trực
tiếp quyết định việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, công nghệ và
năng lực thực tiễn của người lao động. Nó tạo ra những nhà bác học, những chuyên
gia, những kỹ sư mà nhờ họ mới có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, công
nghệ mới, những hình thức quản lý mới, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Hơn thế, giáo dục - đào tạo còn là nhân tố hàng đầu tạo ra nhân cách con
người. Một số nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, con người chỉ sinh ra con
người, còn giáo dục và đào tạo thì sản sinh ra cả năng lực lẫn nhân cách con
người. Giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng lớn đến thể lực, đạo đức, nhất là đối
với trí tuệ con người. Nó có tác động trực tiếp đến việc nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục - đào tạo là một thành tố rất cơ bản
của văn hoá, là một trong những hiện tượng tiềm ẩn, có khả năng “hóa thân”,
“thẩm thấu” không chỉ vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất, mà cả quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Cho nên, giáo dục - đào tạo luôn chiếm vị
trí trọng yếu trong chiến lược phát triển con người và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào những thành quả về giáo
dục - đào tạo của đất nước.
Ba là, công tác y - dược, chăm sóc sức khỏe nhân dân và môi trường sinh
thái cùng với công tác thể dục, thể thao có tác động trực tiếp đến phát triển thể
lực con người. Vai trò của y - dược là hết sức quan trọng trong việc bảo đảm và
nâng cao sức khỏe con người, bởi lẽ nó tham gia vào việc cứu chữa bệnh nhân,
phòng ngừa bệnh dịch. Ở Việt Nam hiện nay, bệnh dịch diễn biến rất phức tạp,
làm suy giảm và đe dọa tính mạng của người dân. Vì thế, công tác y – dược nước
ta có phát triển hay không luôn là điều kiện hết sức quan trọng cho phát triển thể
71

lực con người Việt Nam. Bên cạnh đó, công tác thể dục, thể thao cũng đảm bảo
cho việc nâng cao sức mạnh, sức nhanh, sức dẻo dai và sự bền vững thể lực con
người. Việc phát triển hay không phát triển của công tác này, vì thế cũng có ảnh
hưởng rất lớn đến phát triển sức khỏe cộng đồng. Hơn nữa, Môi trường sinh thái
trong lành hay vẩn đục cũng có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Nếu
môi trường bị ô nhiễm sẽ là tác nhân rất cơ bản trong việc phát sinh dịch bệnh,
làm suy giảm sức khỏe con người. Vì vậy, đảm bảo cho một môi trường xanh,
sạch luôn là điều kiện cho phát triển sức khỏe cộng đồng.
Bốn là, văn hóa, bao gồm cả đạo đức xã hội, có tác động trực tiếp đến phát
triển con người toàn diện, nhất là phát triển về tâm lực con người. Có thể nói, mỗi
một chế độ xã hội ở phạm vi rộng, hay ở phạm vi hẹp là mỗi quốc gia – dân tộc,
hẹp nữa là mỗi tộc người, mỗi tập thể người hay mỗi gia đình thì đều có một giá
trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức của xã hội đó. Chính hệ văn hóa, đạo đức của xã
hội là thang giá trị, là định hướng giá trị để giáo dục, tự giáo dục con người. Đồng
thời, với một môi trường xã hội có văn hóa và nhân văn sẽ là điều kiện rất tốt để
con người nhận ra những chân giá trị cao đẹp của chính mình, của gia đình, của xã
hội và của loài người. Vì vậy, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, nhất là
phát triển những giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống của con người Việt Nam hiện
nay chịu sự tác động rất lớn từ chính nền văn hóa và đạo đức của chúng ta.

Năm là, xu thế hội nhập quốc tế có ảnh hưởng lớn đến phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, ngày nay, hội nhập quốc tế
không chỉ là xu thế, hơn thế nó đã trở thành một “quy luật khách quan” quy
định sự phát triển của mọi quốc gia. Mỗi quốc gia cũng như mỗi con người
trong quốc gia đó có phát triển được hay không, phụ thuộc rất lớn vào việc hội
nhập quốc tế. Bởi chính trong quá trình hội nhập, mỗi quốc gia và người dân sẽ
thực hiện quá trình tiếp cận, đối chiếu, đấu tranh, lựa chọn, tiếp nhận, tiếp thu,
thẩm thấu những giá trị có ích và tiến bộ cho chính mình. Và đương nhiên,
trong hội nhập quốc tế, không tránh khỏi những tác động ngược chiều làm suy
72

giảm sự phát triển của các quốc gia và của mỗi con người. Chính vì thế, hội
nhập quốc tế sâu rộng vừa mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều thách
thức đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.

Về nhân tố chủ quan:

Một là, nhân tố chủ quan trước tiên đó chính là sự nhận thức và năng lực
hoạt động thực tiễn của chính bản thân mỗi con người. Có thể coi đây là nhân
tố quyết định nhất đến phát triển của chính con người. Điều đó lý giải tại sao ở
trong cùng một môi trường, điều kiện giống nhau, song sự phát triển của mỗi
người có thể rất khác nhau (tất nhiên, trong sự khác nhau đó còn có cả những
yếu tố bẩm sinh, di truyền mang lại). Sự nhận thức và năng lực hoạt động thực
tiễn của cá nhân trong quá trình thực hiện sự giao tiếp với tự nhiên và với xã
hội cho phép mỗi cá nhân tự sàng lọc và thẩm thấu những giá trị làm nên sự
phát triển của chính họ. Vì vậy, việc tự học tập, rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng,
thực hành… của mỗi cá nhân trong hoạt động sống luôn là nhân tố quyết định,
đảm bảo sự phát triển của họ.

Hai là, nếu như bản thân mỗi con người quyết định sự phát triển của chính
họ thì vai trò của Đảng và Nhà nước (với tư cách là đại diện cho chủ thể của
toàn thể nhân dân) trong việc đề ra và thực hiện chiến lược phát triển con người,
chính sách an sinh xã hội phục vụ phát triển con người và việc thực hiện các
quyền con người sẽ là nhân tố quyết định sự phát triển của cộng đồng người.
Hiện nay, bên cạnh các chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa…, Đảng và Nhà
nước ta đang nỗ lực đẩy mạnh chiến lược phát triển con người, nhất là phát triển
nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Đồng thời việc Đảng, Nhà nước ta thực hiện các quyền
con người sẽ tạo nên điều kiện thuận lợi cho sự lựa chọn cuộc sống hạnh phúc
của mọi người dân. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta cũng rất chú trọng đến
các chính sách an sinh xã hội, như: Chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách
lao động việc làm, chính sách dân số, chính sách vệ sinh an toàn thực phẩm,
73

chính sách với người già, trẻ em, người có công,… Việc thực hiện đúng đắn và
hiệu quả chiến lược phát triển con người, thực hiện các quyền con người và các
chính sách an sinh xã hội sẽ tác động trực tiếp và có ý nghĩa quyết định đến chất
lượng cuộc sống của người dân Việt Nam, đảm bảo cho sự phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam.
74

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Vấn đề con người nói chung, vấn đề phát triển con người toàn diện nói
riêng đã được C.Mác giải quyết một cách đúng đắn theo quan điểm duy vật biện
chứng. Với C.Mác phát triển con người toàn diện là phát triển sự phong phú của
bản chất con người. Rằng con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của lịch sử.
Phát triển con người toàn diện gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, thông qua
lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn của con người.
Cách tiếp cận và luận giải một cách đúng đắn, khoa học về những vấn đề
đó trong sự phát triển con người toàn diện đã làm cho học thuyết Mác về con
người và phát triển con người toàn diện không chỉ mang giá trị lịch sử to lớn,
mà còn mang ý nghĩa vạch thời đại. Cũng do vậy, học thuyết Mác về con
người và phát triển con người toàn diện đã trở thành nền tảng lý luận, cơ sở
phương pháp luận để chúng ta xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển
con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kế thừa và tiếp thu một cách có chọn lọc, vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết Mác về con người và phát triển con người toàn diện trong hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đi đến kết luận: Để đưa cách mạng Việt Nam đến thành công
và đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi thì trước hết và “đầu
tiên là công việc đối với con người”. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng và phát triển
con người Việt Nam nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam trong thời đại mới được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm. Với Đảng ta và với Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện
được thể hiện ở các phương diện: Phát triển con người toàn diện với tư cách vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam; phát triển con người toàn
diện là phát triển con người về các phương diện thể lực, trí lực và tâm lực.
75

Học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về phát
triển con người toàn diện là cơ sở lý luận và phương pháp luận quan trọng để
luận án đưa ra những nhận thức chung về sự phát triển con người toàn diện nói
chung và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam nói riêng. Việc nhận thức lý
luận sâu sắc về vấn đề phát triển con người toàn diện nói chung và phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam nói riêng là tiền đề hết sức quan trọng để chúng ta
tiến hành nghiên cứu thực trạng phát triển con người toàn diện ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay; đồng thời cũng là tiền đề lý luận quan trọng để chúng ta xác
định những định hướng cơ bản và tìm ra những giải pháp thiết thực nhất và hiệu
quả nhất để nhằm xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn
diện đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
76

Chương 3
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY –
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Sau khi nước ta hoàn toàn được giải phóng, hai miền Nam - Bắc thống nhất,
cả nước bắt tay vào khôi phục viết thương chiến tranh và quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong thời kì này, với tư thế là người làm chủ đất nước, nhân dân
ta đã có nhiều điều kiện để giải phóng chính bản thân mình và hướng tới xây
dựng một cuộc sống tốt đẹp. Song cũng trong thời kì này, đất nước ta cũng đã
trải qua những năm tháng hết sức khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại. Chúng
ta lại duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp kém hiệu quả. Việc làm
đó đã làm cho kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng và đã kìm hãm
sự phát triển con người Việt Nam. Với chủ trương tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã khẳng định, phát triển con người toàn
diện vừa là mục tiêu cơ bản, vừa là động lực chủ yếu của cách mạng nước ta.
Đồng thời xác định, mọi chính sách xã hội phải nhằm phát huy vai trò con người,
xây dựng và phát triển con người toàn diện. Trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định rõ: Xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội mà ở đó, “con người được
giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân” [29, tr.9]. Chủ trương đó của Đảng ta đã được khẳng định và tiếp tục phát
triển, cụ thể hóa trong các giai đoạn tiếp theo. Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn
lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” [39, tr.30]. Điều đó cho thấy, Đảng
ta luôn coi phát triển con người toàn diện là bản chất của chế độ ta và là mục
tiêu, là động lực của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta.
77

Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã được thể chế
hóa và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Vì vậy, những thành tựu trong sự nghiệp
phát triển con người Việt Nam mà chúng ta đã đạt được trong những năm đổi
mới vừa qua, có thể nói là hết sức to lớn và đáng trân trọng. Song, kết quả đó
còn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của đất nước, sự phát triển con
người Việt Nam còn chậm so với tốc độ phát triển con người chung của thế giới,
nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới và phát triển con
người Việt Nam đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề như: nghèo đói, bất bình đẳng trong
thu nhập và điều kiện sống, nạn thất nghiệp, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao;
công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân còn yếu kém, tình trạng mất dân chủ
trong xã hội, sự bất bình đẳng giới, nạn ô nhiễm môi trường, sự yếu kém trong
giáo dục và đào tạo, sự suy giảm nhiều giá trị văn hóa truyền thống và sự phát
sinh nhiều yếu tố văn hóa lai căng, phi văn hóa, phản giá trị…Đó là những rào
cản to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và với sự nghiệp phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam nói riêng.
Việc nghiên cứu thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra một
bức tranh chân thực hơn, rõ nét hơn về những thành quả cũng như những
hạn chế, yếu kém trong vấn đề này. Từ đó chúng ta có thể khái quát được
những vấn đề đang đặt ra, để trên cơ sở đó xác định định hướng cơ bản và đề
xuất hệ thống các giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Có thể nói rằng, khi nghiên cứu để có cái nhìn toàn cảnh về thực trạng phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể có nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Tùy theo lập trường tư tưởng, lĩnh vực khoa học hay mục
đích mà các nhà nghiên cứu có thể khai thác khía cạnh nào đó về vấn đề này.
78

Đứng trên phương diện triết học, với lập trường thế giới quan và phương pháp
luận mácxít, khi nghiên cứu thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam, chúng tôi không chỉ tiếp cận về thực trạng phát triển cá nhân con người
Việt Nam, mà còn tiếp cận con người với tư cách cộng đồng người, cũng như sự
tương tác giữa con người với các quá trình kinh tế - xã hội tạo nên sự phát triển
con người Việt Nam trên ba bình diện cơ bản là thể lực, trí lực và tâm lực.
3.1.1. Phát triển con người Việt Nam về mặt thể lực
Thể lực là vốn năng lực bên trong con người được thể hiện trong quá trình
hoạt động, vì thế nó là nhân tố góp phần quan trọng trong sự thành bại của hoạt
động con người. Ông cha ta thường có câu “có sức khỏe là có tất cả”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã từng nhấn mạnh: “Mỗi người dân yếu là cả dân tộc yếu”.
Đúng vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi loài người bước vào thời kì mới - thời kì
khoa học, công nghệ phát triển cao và phát triển tri thức, mặc dù trí lực có vai trò
hết sức quan trọng, song thể lực vẫn luôn đóng vai trò nền tảng và cần phải có
trước tiên. Ý thức sâu sắc về vấn đề này, trong chiến lược phát triển con người
Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm đến phát triển con người Việt Nam về mặt thể
lực, và coi thể lực hay sức khỏe không chỉ là nền tảng cho sự phát triển con
người toàn diện mà còn là vốn quý nhất và là nhân tố quan trọng đối với sự
nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Sức khoẻ là vốn quý
nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để mọi người đều được
quan tâm chăm sóc sức khoẻ” [30, tr.67]. Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng
định chủ trương xây dựng “chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con
người…không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không
ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học
tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất” [39, tr.79].
Xuất phát từ nhận thức đó, trong suốt gần 30 năm đổi mới vừa qua, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã không ngừng củng cố, phát triển thể lực
con người Việt Nam.
79

3.1.1.1. Những thành tựu cơ bản trong phát triển con người Việt Nam về
mặt thể lực
Khi chúng ta đề cập đến việc phát triển con người Việt Nam về mặt thể lực,
chúng ta thấy rằng nó được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau, bên cạnh
những chỉ số phản ánh trực tiếp đến thể chất con người như tuổi thọ, cân nặng,
chiều cao, sức khỏe sinh sản, những thành tích trong thể dục thể thao…chúng ta
cũng cần phải xem xét cả những nhân tố tác động đến sự phát triển đấy. Trong
các nhân tố tác động đến phát triển thể chất con người Việt Nam, kinh tế là một
nhân tố quan trọng. Kinh tế là nền tảng cho sự phát triển con người nói chung,
phát triển thể lực con người nói riêng. Như chúng tôi đã từng khẳng định: con
người trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại. Mà muốn chăm lo tốt những mặt đó cho
con người thì phải thúc đẩy sản xuất vật chất, phải không ngừng thúc đẩy quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả trực tiếp nhất phản ánh sức tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia là GDP của quốc gia đó, và GDP đầu người là
một chỉ số quan trọng nhất phản ánh mức sống của dân cư. Vì vậy, trong chiến
lược 10 năm phát triển kinh tế (2001 - 2010), Đảng ta đã xác định mục tiêu:
“Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000...Tích lũy nội bộ nền kinh tế
đạt trên 30% GDP...”, trên cơ sở đó, “nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con
người (HDI) của nước ta...Chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được
nâng lên rõ rệt trong môi trường an toàn, lành mạnh, môi trường tự nhiên được
bảo vệ và cải thiện” [36, tr.159-160]. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng ta đưa ra chỉ
tiêu, đến năm 2015, GDP đầu người nước ta đạt 2.000 USD, và quan điểm của
Đảng là phát triển kinh tế gắn liền với phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, kết hợp với đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân.
Đó là chiến lược đột phá cho sự phát triển đất nước nói chung, phát triển con
người và thể lực con người Việt Nam nói riêng.
Những đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã nhanh chóng
được hiện thực hóa. Thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong
những năm vừa qua là rất đáng tự hào. Theo thống kê trong “Báo cáo tổng kết
80

một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006)”: nếu từ
năm 1986 đến 1996, chúng ta mới chỉ từng bước khắc phục sự khủng khoảng
kinh tế - xã hội thì từ năm 1996 đến nay, chúng ta đã đạt được nhịp độ tăng
trưởng kinh tế khá cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 15 năm (1990 -
2005) đạt 7,5 %; thu nhập bình quân đầu người năm 1990 là 200 USD tăng lên
khoảng 600 USD vào năm 2005 [2, tr.68-69]. Từ năm 2008 GDP đầu người
nước ta đã vượt qua mốc 1.000 USD/Năm. Từ năm 2010 nước ta đã chuyển vị
thế từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình
(thấp); “Năm 2010…GDP bình quân đầu người của chúng ta đã đạt 1.168
USD” [39, tr.151]. Và theo dự báo của chính phủ (theo trang điện tử của chính
phủ - VGP NEWS ngày 10/8/2013) GDP đầu người của Việt Nam có thể tăng
từ 1.749 USD (năm 2012) lên 1.914 USD (năm 2013). Như vậy chúng ta sẽ có
khả năng lớn đạt được mục tiêu mà Đại hội Đảng XI đặt ra đến năm 2015 đạt
2.000 USD và 3.000 USD vào năm 2020.
Sự tăng trưởng GDP đầu người của chúng ta tăng nhanh, đồng nghĩa với
việc chỉ số thu nhập trong HDI của chúng ta cũng tăng nhanh: năm 1992 mới là
0,386, năm 2008 đã đạt 0,559. Và mức đóng góp của chỉ số này đối với chỉ số
phát trển con người HDI cũng ngày càng tăng, tính giai đoạn từ năm 1992 đến
năm 2008, mức đóng góp của chỉ số GDP vào việc tăng trưởng HDI tới 48,95%
[Bảng 2, phụ lục].
Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã ra tạo nền tảng vật chất cho sự phát
triển con người Việt Nam, trước hết là chăm lo thể lực con người. Song, không
phải quốc gia nào có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cũng có sự phát triển
con người cao. Với bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa tiến bộ, Đảng ta luôn gắn
tăng trưởng và phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; gắn
phát triển kinh tế với phát triển con người toàn diện. Vì vậy, với thành tựu kinh tế
nước ta như vậy, đã và đang tạo điều kiện rất tốt để nâng cao đời sống vật chất của
nhân dân, tập trung thực hiện xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, cải tạo môi
trường sinh thái, phát triển thể dục, thể thao nhằm nâng cao sức khỏe nhân dân.
81

Có thể nói, một trong những thành tựu lớn nhất trong phát triển con người ở
nước ta là thành quả của chương trình xoá đói, giảm nghèo. Đây là mục tiêu đầu
tiên và là một mục tiêu quan trọng nhất trong Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(Millennium Development Goal - MDG) mà nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải
đã ký năm 2000. Trong giai đoạn 2000 - 2005, công tác xoá đói, giảm nghèo đã
được chúng ta đẩy mạnh và nước ta đạt được kết quả rất ấn tượng. Nếu tính theo
tiêu chuẩn quốc gia, năm 1992, tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta là 30% dân số, đến năm
2005, theo dự tính, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 7% dân số. Nếu tính theo tiêu chuẩn
quốc tế (tính theo 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung ở nước ta đã giảm từ
58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002, nếu tính theo tiêu chuẩn mới (2
đôla/ngày/người), thì hộ nghèo năm 2004 còn 27,5% [2, tr.79-80]. Với thành tựu
này, “ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là hoàn
thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm
2005” [2, tr.80]. Theo thống kê mới đây, “Tính chung cả năm 2012, cả nước có
450,3 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 27,6% so với năm 2011, tương ứng với
1911,8 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 26,9%. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước
năm 2012 ước tính là 11,3 - 11,5%” [159]. Như vậy, xóa đói, giảm nghèo nhanh
chóng, nhân dân có thu nhập ổn định sẽ có điều kiện thuận lợi cho các nhu cầu
ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh…Cũng nhờ vậy, đã góp phần trực tiếp vào việc
nâng cao sức khỏe nhân dân.
Về công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm, mức chi tiêu công cho y tế đã và đang tăng lên trong tổng GDP
nhằm cung cấp những dịch vụ y tế sâu rộng và có chất lượng nhằm chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, “năm 2008, tổng chi tiêu cho y tế từ tất cả các nguồn bao gồm
chi tiêu của khu vực tư nhân của Việt Nam tương đương với 7,3% GDP, chi tiêu
của chính phủ tương đương 2,8% GDP” [168, tr.16]. Đây là mức đầu tư cho y tế
khá cao so với một số nước có cùng mức thu nhập GDP như Việt Nam. Nhờ sự
đầu tư như vậy, nước ta đã xây dựng một mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh rộng
khắp: năm 2010 cả nước đã có 13.467 cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh
82

viện, bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, nhà hộ sinh, khu điều trị
phong, phòng khám đa khoa khu vực; trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp;
có trên 246.000 giường bệnh; trên 110.000 y bác sỹ; gần 301.000 dược sỹ. Số
bác sỹ trên tổng số dân cao: 7,1 bác sỹ trên 1 vạn dân [152, tr.665-675]. Với cơ
sở hạ tầng và nguồn nhân lực y tế phát triển như vậy, bước đầu chúng ta đã thực
hiện tốt công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, góp phần
quan trọng vào việc nâng cao thể lực người Việt Nam.
Bên cạnh công tác phát triển y tế, thể dục, thể thao cũng được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm. Chính sách xã hội hóa thể dục, thể thao nhằm nâng
cao thể lực con người Việt Nam được tăng cường. Các cơ sở thể dục thể, thao
được xây dựng rộng khắp trong cả nước, chương trình giáo dục thể chất và kiến
thức quốc phòng được đưa vào trong hầu hết các cấp bậc học. Bên cạnh thể dục,
thể thao quần chúng, công tác phát triển thể thao chuyên nghiệp và bán chuyên
nghiệp cũng được đầu tư thích đáng.
Môi trường sinh thái là nhân tố quan trọng tác động đến quá trình phát triển
thể lực con người. Chính vì vậy, Đảng ta đã coi “bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân”
[39, tr.78]. Nhận thức sâu sắc quan điểm đó của Đảng, trong thời gian qua,
chúng ta đã tích cực kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô
nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch,
sản xuất sạch; coi trọng nghiên cứu giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và
thảm họa thiên nhiên. Kết quả là, bước đầu chúng ta đã dần khắc phục được
những tác hại to lớn về thiên tai, bảo vệ và tái tạo rừng, nguồn nước và bầu khí
quyển, góp phần to lớn vào việc nâng cao sức khỏe con người Việt Nam.
Những thành quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; phát triển thể dục, thể thao cũng
như cải tạo môi trường sinh thái trên đây, đã tạo ra những điều kiện hết sức
thuận lợi cho phát triển thể lực con người Việt Nam, điều đó được thể hiện trên
các bình diện sau:
83

Tỷ lệ chết ở bà mẹ và trẻ em giảm đi nhanh chóng. Theo thống kê, ở nước ta “tỷ
lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58 trường hợp trên 1.000 ca năm 1999 xuống
còn 24,4 trên 1.000 ca năm 2009, trong khi tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 44,4
trên 1.000 ca xuống 16 trên 1.000 ca trong cùng thời gian này…, tỷ lệ tử vong ở bà
mẹ hiện nay là 69 trong 100.000 ca sinh và 94,8% ca sinh có nhân viên y tế có
chuyên môn đỡ đẻ vào năm 2008” [168, tr.25-26]. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi
là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển về thể lực con người. Vì thế, tại Hội
nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2000, trong 8 mục tiêu có 1
mục tiêu đề cập cụ thể đến việc cải thiện tình trạng sức khỏe trẻ em. Đó là mục tiêu
thiên niên kỷ số 4: giảm 2/3 tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi trong giai đoạn 2000 -
2015. “Theo báo cáo...hiện nay mức tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta tương
đương với tỷ suất của các nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Việt Nam 3
- 4 lần. Việt Nam có mức giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới năm tuổi cao hơn mức
giảm trung bình của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” [150, tr.33]. Năm 2012 tỷ
lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi ở nước ta chỉ còn 2,38/1.000. Với thành tích này, Việt
Nam gần tiến đến mục tiêu thiên niên kỷ (dưới 2,0/1.000 vào năm 2015).
Trẻ em bị suy dinh dưỡng cũng giảm nhanh trong thời gian qua, “Nếu xét
theo cân nặng/tuổi, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 35,3% năm
1998 xuống 33,8% năm 2000, 31,9% năm 2001, 30% năm 2002, 28,4% năm
2003, 26,6% năm 2004 và 25,2% năm 2005” [103, tr.552]. Nhờ có những chính
sách và sự đầu tư đúng đắn trong việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đến
nay tỷ lệ này chỉ còn 16,2% (năm 2012).
Chiều cao và cân nặng của Người Việt Nam còn thấp bé so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, song cũng được cải thiện đáng kể. Chiều cao
trung bình nam giới vào khoảng 1m65 - 1m68, trong đó có khoảng trên 10%
nam giới cao trên 1m70; nữ cao trung bình từ 1m55 - 1m58, trong đó có khoảng
10% cao trên 1m60. Cân nặng trung bình nam giới khoảng từ 56 - 60 kg; nữ là
48 - 50 kg. Điều quan trọng là, những chỉ số đó của thế hệ trẻ ở nước ta có xu
hướng ngày càng phát triển cao.
84

Bên cạnh đó, những nghiên cứu gần đây cho thấy, người Việt Nam hiện nay
ngày càng có sức bền, sức dẻo, sức nhanh hơn. Có được nền tảng thể lực rồi rào sẽ
là tiền đề quan trọng cho hoạt động sống của người Việt Nam trong thời đại mới.
Nhờ quan tâm phát triển thể dục, thể thao, chúng ta cũng đã đạt nhiều thành
tích trong thi đấu thể thao. Trên đấu trường khu vực và quốc tế, Việt Nam luôn
nằm trong tốp đầu tại khu vực ASEAN trong các kì SEGAME, chỉ tính riêng
năm 2010 các vận động viên thể thao nước nhà đã giành được tổng cộng 700 huy
chương các loại trong các giải đấu khu vực và thế giới, trong đó có 289 huy
chương vàng, 218 huy chương bạc, 193 huy chương đồng. Những thành tích đó,
đã thể hiện sự cố gắng vươn lên trong phát triển thể lực của người dân Việt Nam.
Trong những thành quả nêu trên, tuổi thọ là nhân tố phản ánh có tính chất
đầy đủ và khái quát nhất về sự phát triển thể lực con người Việt Nam. Những
thay đổi có xu hướng tăng về tuổi thọ ở nước ta trong những năm qua cho thấy,
thể lực của người Việt Nam được cải thiện rõ rệt: Năm 1999 tuổi thọ trung bình
của người Việt Nam chỉ là 70,9 và đã tăng lên khá nhanh. Năm 2004 tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam là 72,1 tuổi, năm 2006 là 72,8 tuổi, 2008 là 73,2
tuổi, năm 2010 là 72,9 và đến năm 2012 là 73,0 tuổi [158, tr.31]. Theo mục tiêu
mà Đảng ta đã đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, đến năm 2020 tuổi
thọ trung bình của Người Việt Nam đạt 75 tuổi. Đây là mức tuổi thọ khá cao so
với các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội tương đương với Việt Nam.
Thành tựu đó làm cho chỉ số phát triển về tuổi thọ trong HDI ở nước ta tăng
lên nhanh chóng: Năm 1992 mới đạt 0,670 thì đến năm 1999 tăng lên 0,721 và
đến năm 2008 đã là 0,794, mức đóng góp của chỉ số này vào tăng trưởng HDI
trong giai đoạn 1992 - 2008 tới 35,2%, cao hơn nhiều so với đóng góp của chỉ số
giáo dục (chỉ là 15,9%) [Bảng 2, phụ lục]. Hơn nữa, khi so sánh chúng ta sẽ thấy,
trong khi nhiều nước chỉ số tuổi thọ thấp hơn chỉ số HDI, thì ngược lại ở nước ta,
chỉ số tuổi thọ bao giờ cũng cao hơn chỉ số chung - HDI. Theo báo cáo phát triển
con người của UNDP 2004, trong 10 nước ASEAN chỉ có duy nhất hai nước có
chỉ số tuổi thọ cao hơn chỉ số chung - HDI là Việt Nam và Malaixia. Điều đáng
85

nói là, trong khi Malaixia có chỉ số tuổi thọ cao hơn chỉ số chung - HDI không
đáng kể (chỉ số tuổi thọ là: 0,80; chỉ số HDI là 0,793), thì Việt Nam chỉ số chênh
lệch này cao hơn nhiều (chỉ số tuổi thọ là: 0,73; chỉ số HDI là 0,691) [5, tr.78].
Những kết quả đạt được về mặt thể lực con người Việt Nam trong những
năm vừa qua đã góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu xây dựng con người
Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Con người Việt Nam mới,
không chỉ có trình độ học thức cao, mà còn phải có sức khoẻ tốt, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Bên cạnh những thành tựu về việc phát triển thể lực con người Việt Nam
trên đây, chúng ta còn thấy, thể lực con người Việt Nam vẫn còn những hạn chế,
yếu kém và bất cập, đòi hỏi chúng ta phải hết sức quan tâm, giải quyết.
3.1.1.2. Những hạn chế, yếu kém trong phát triển con người Việt Nam về
mặt thể lực
Khi khẳng định kinh tế là nền tảng cho phát triển con người Việt Nam,
chúng ta cũng thấy rằng, trong những năm qua kinh tế nước ta tăng trưởng và
phát triển nhanh, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao là điều kiện tiên
quyết để chăm lo phát triển thể lực con người Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế,
trong khi dân số của nước ta đứng thứ 13 thế giới, thì kinh tế chỉ đứng vị trí 42
thế giới, thu nhập bình bình quân đầu người cũng chỉ ở mức “trung bình thấp”,
(Hiện nay Singapore có GDP tính trên đầu người là 50.000 USD/người/năm, còn
Việt Nam chỉ đạt khoảng xấp xỉ 2.000 USD/người/năm).
Kinh tế phát triển chưa mạnh nên việc đầu tư cho công tác y tế chăm sóc
sức khỏe nhân dân còn chưa cao: “chi tiêu của chính phủ (cho y tế - lời tác giả)
chỉ tương đương với 2,8% GDP. Hơn 50% chi tiêu cho y tế chính là chi tiêu từ
túi của bệnh nhân. Chi tiêu công cho y tế chiếm khoảng 8,7% chi tiêu công ở
Việt Nam so với mức 14,1% ở Thái Lan và 9,9% ở Trung Quốc” [168, tr.15-17].
Với mức đầu tư cho ý tế còn thấp như vậy, nên cơ sở vật chất trong y tế thiếu
thốn, lạc hậu. Hiện tượng quá tải về bệnh nhân trong các bệnh viện, nhất là ở các
bệnh viện lớn vẫn đang là vấn đề nhức nhối. Hơn nữa, mức đầu tư, các dịch vụ y
86

tế cũng như nhân lực của ngành y, tập trung chủ yếu ở đô thị, còn ở nông thôn,
nhất là vùng núi cao, xa, sâu, dịch vụ y tế còn thiếu thốn và kém chất lượng. Vì
vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, các địa phương trong việc hưởng lợi
từ những dịch vụ y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người
dân vùng cao, xa, khó khăn và dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, mặc dù nước ta đã đạt được thành tích đáng tự hào về xóa đói
giảm nghèo, song vấn đề nghèo đói vẫn còn nhiều điều cần quan tâm. Sự chênh
lệch về tỷ lệ hộ nghèo giữa các vùng miền, các địa phương còn rất lớn. Trong
khi các tỉnh ở đồng bằng, tỷ lệ nghào đói thấp thì ở các tỉnh miền núi tỷ lệ này là
rất cao. Theo số liệu thống kê vào năm 2008, “Lai Châu có tỷ lệ đói nghèo tiền tệ
cao nhất toàn quốc với 61,3%, Điện Biên đứng thứ hai với 49% và Hà Giang
đứng thứ ba với 43%” [168, tr.60]. Mặt khác, ở nước ta, tỷ lệ nghèo tiền tệ có xu
hướng giảm nhanh, do thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh. Song, tỷ lệ
nghèo phi tiền tệ vẫn còn cao. Điều đó cho thấy, mặc dù thu nhập bình quân đầu
người tăng nhanh, nhưng, nhiều người Việt Nam vẫn bị thiếu hụt về mức sống,
thiếu hụt về y tế và về giáo dục…, UNDP gọi những sự thiếu hụt đó là nghèo đói
đa chiều (viết tắt là MPI). Theo thống kê, “chỉ số HPI (chỉ số nghèo do thu nhập
và chi tiêu - nghèo tiền tệ - lời tác giả) của Việt Nam năm 2008 là 10,93%. Tuy
nhiên tỷ lệ nghèo đói đa chiều - MPI của Việt Nam cao hơn nhiều, ở mức
23,3%” [168, tr.58]. Hơn nữa, “tỷ lệ nghèo đa chiều - MPI cao nhất ở vùng
nghèo nhất cả nước, đó là vùng núi và trung du phía Bắc với tỷ lệ đói nghèo phi
tiền tệ là 40%, tại Đồng bằng sông Cửu Long với gần 50%; ở Lai Châu 82,3%,
Điện Biên 75% và Hà Giang 73%...., tổng cộng 12 tỉnh có trên 50% dân số là
người nghèo đa chiều dựa theo chỉ số MPI” [168, tr.59-60]. Bên cạnh đó, chúng
ta cũng thấy, tỷ lệ đói nghèo ở trẻ em (CPR) cũng rất cao, “Việt Nam có tỷ lệ
CPR cao, với tỷ lệ nghèo đói tiền tệ là 20,7% và tỷ lệ nghèo đói đa chiều là
28,9% trong năm 2008” [168, tr.58].
Thu nhập thấp, nghèo đói đã tác động trực tiếp đến sự phát triển thể lực
con người Việt Nam. Trong điều kiện nghèo đói như vậy, người dân không có
87

được những phương tiện vật chất đảm bảo ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh dẫn đến
thể lực suy giảm; tỷ lệ chết ở bà mẹ và trẻ em như thống kê ở trên là vẫn cao. Tỷ
lệ trẻ sơ sinh (dưới 1 tuổi) tử vong ở nông thôn cao gấp đôi ở thành thị (thành
thị: 9,4; nông thôn 18,7) [150, tr.33]. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng (cân
nặng/tuổi) vẫn là một vấn đề cần quan tâm, đặc biệt là ở những vùng khó khăn,
vùng sâu, xa. Theo thông tin của cổng thông tin điện tử của Viện Dinh dưỡng,
năm 2012, tỷ lệ này ở cả nước là 16,2%, trong khi Đồng bằng sông Hồng chỉ ở
mức 11,8%. Trong khi đó, ở Trung du và miền núi phí Bắc là 20,9 %; Tây
Nguyên tỷ lệ này lên tới 25%. Điều đó dẫn đến sự phát triển thể lực con người
Việt Nam cũng có sự chênh lệnh lớn giữa các vùng, các địa phương. Vì thế, tuổi
thọ cũng có sự chênh lệch lớn, “Năm 2008 trong khi tuổi thọ trung bình ở Thành
phố Hồ Chí Minh là 75,7 tuổi, thì ở Điện Biên là 65,44, còn Lai Châu chỉ là
63,38 tuổi” [168, tr.168-170].
Do nước ta nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều nên dễ phát sinh
dịch bệnh. Hiện nay nhiều dịch bệnh gia tăng làm suy giảm sức khỏe dân cư. Có
thể nói, số người Việt Nam thường xuyên mắc các căn bệnh như cúm vi rút, ho
mãn tính, xoang, hen xuyễn, viêm phổi....là rất lớn; số người dân Việt Nam mắc
những căn bệnh hiểm nghèo ngày một nhiều. Đến nay, nước ta có khoảng trên
250.000 người nhiễm HIV, trong đó có khoảng 10.000 người chuyển sang giai
đoạn AIDS và trên 50.000 người đã tử vong. Theo thống kê, cứ mỗi ngày cả
nước phát hiện thêm 34 người nhiễm HIV. Như vậy, bệnh tật đang đe dọa
nghiêm trọng đến tính bền vững của sức khỏe cộng đồng.
Bên cạnh đó, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thiên tai, nạn bia rượu,
thuốc lá, bạo lực....hàng năm đã cướp đi biết bao tính mạng người dân Việt
Nam. Chỉ tính riêng tai nạn giao thông và thiên tai, con số này cũng đã lên đến
hàng nghìn người, “Tính từ 16/12/2011 đến 15/12/2012, trên địa bàn cả nước đã
xảy ra 10.081 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9.838 người và làm bị thương
7.624 người. Bình quân 1 ngày trong năm 2012, cả nước xảy ra 28 vụ tai nạn
88

giao thông, làm chết 27 người và làm bị thương 21 người…; thiên tai xảy ra
trong năm 2012 đã làm hơn 700 người chết, mất tích và bị thương….” [159].
Những vấn đề này, không chỉ đem đến hậu quả khốn khó cho chính những con
người gặp rủi do, hoạn nạn và gia đình họ, làm suy giảm và kìm hãm sự phát
triển thể lực người Việt Nam, mà nó còn là những vấn đề đang trở nên nhức nhối
đối với toàn xã hội.
3.1.2. Phát triển con người Việt Nam về mặt trí lực
Thế giới đang đổi thay như vũ bão do tác động của khoa học, công nghệ
tiên tiến, xu thế quốc tế hóa sâu rộng và sự phát triển kinh tế tri thức. Do đó, phát
triển và cạnh tranh quyết liệt, tận dụng thời cơ và đối chọi với những thách thức
của thời đại là công việc của mọi quốc gia. Chúng ta đã biết, Nhật Bản đã từng
xây dựng 19 thành phố công nghiệp rải rác khắp đất nước với mục tiêu dẫn đầu
loài người vào làn sóng văn minh mới; Hoa Kỳ đang dùng mọi cách níu lại vị trí
siêu cường về kinh tế; các nước thuộc liên minh châu Âu đang cố gắng bứt lên
trong cuộc cạnh tranh quyết liệt để sánh ngang với Mỹ; sự phi thường về kinh tế
của các “con rồng Châu Á”, Trung Quốc đã vươn lên trở thành cường quốc kinh
tế đứng thứ hai thế giới. Tất cả những quốc gia này đã làm được những điều kỳ
diệu trong phát triển kinh tế - xã hội là nhờ sớm nhận thức được vai trò của tri
thức và triệt để khai thác nguồn tài nguyên vô tận này.
Ở Việt Nam, từ xưa, ông cha ta đã rất coi trọng học vấn, trí tuệ, hiền tài –
điều đó được thể hiện trong câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung trên bia tiến
sỹ khoa Nhâm Tuất (1442):
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mới mạnh
mà hưng thịnh, nguyên khí yếu thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc
đế vương thánh minh không đời nào mà không coi việc giáo dục nhân tài,
kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.
Nhận thức sâu sắc vai trò của trí lực đối với sự phát triển con người toàn
diện nói riêng, với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, tại Đại hội Đảng
VII, Đảng ta cho rằng:
89

Trong cách mạng dân chủ nhân dân, vai trò của trí thức đã quan trọng,
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của trí thức càng quan trọng. Giai
cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công –
nông không được nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức hóa thì
không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được [29, tr.70].
Nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển như vũ bão của khoa
học, công nghệ và nền kinh tế tri thức, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc phát
triển giáo dục - đào tạo và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, vì thế trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020, Đảng ta đã “xác định 3 khâu
đột phá:...,(2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân;
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ” [39, tr.32].
3.1.2.1. Những thành tựu cơ bản trong phát triển con người Việt Nam về
mặt trí lực
Xem xét thành tựu phát triển trí lực con người Việt Nam, chúng ta cần xuất
phát từ việc xem xét thành tựu trong giáo dục - đào tạo, bởi như luận án đã từng
khẳng định: để phát triển con người về mặt trí lực thì giáo dục - đào tạo là nhân
tố tác động trực tiếp và quyết định nhất.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, vị trí và vai trò của giáo dục - đào tạo
mới thực sự được nhận thức sâu sắc. Từ Đại hội VI (1986) và nhất là khi Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đầu tiên ra đời
(1991), giáo dục mới có sự phát triển mang tính bước ngoặt. Đảng ta khẳng định
chủ trương coi giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là “quốc sách
hàng đầu”; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển con người. Và hơn
thế, giáo dục còn giữ vị trí quan trọng và đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là một trong những động lực đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai.
90

Từ nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đường lối, chủ trương
mang tính đột phá trong phát triển giáo dục. Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII (1997), Đảng ta đã chỉ rõ: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản là đào tạo con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có tri thức, kỹ năng, vừa hồng vừa chuyên,
xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
con người là động lực của sự phát triển. Tiếp đó, là Đảng và Nhà nước ta đã
thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010. Đến Đại hội Đảng XI,
Đảng ta đã coi đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là một trong ba khâu đột
phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tiếp theo (2011-2020).
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 711/QĐ-TTg phê duyệt
“Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”. Chiến lược đã xác định rõ mục
tiêu, giải pháp và các bước đi của nền giáo dục Việt Nam nhằm đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục – đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.

Nhờ có những chủ trương, chiến lược và chính sách đúng đắn, kịp thời của
Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, nền giáo dục nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn: Chúng ta đã có những đầu tư lớn về mặt vật chất cho
phát triển giáo dục. Hàng năm, nước ta đã dành một lượng ngân sách khá lớn
cho giáo dục, năm 2008 “chi tiêu công cho giáo dục tương đương với khoảng
5,3% GDP,…dành khoảng 19,8% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục”
[168, tr.17]. Đây là mức đầu tư của nhà nước cho giáo dục cao hơn nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới. Việc đầu tư lớn như vậy cho giáo dục là tiền đề
hết sức quan trọng cho việc phát triển nền giáo dục quốc dân.
Quy mô, mạng lưới và chất lượng giáo dục - đào tạo có bước phát triển
nhanh: hệ thống giáo dục hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học và sau đại học;
cơ sở trường, lớp từng bước được chuẩn hóa, hiện đại hóa; chất lượng giáo
dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có nhiều tiến bộ rõ rệt; công tác quản lý
giáo dục có bước chuẩn hóa, hiện đại hóa; đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
91

giáo dục tăng lên về số lượng và từng bước chuẩn hóa về số lượng, hợp tác
quốc tế về giáo dục mở rộng, công bằng xã hội trong giáo dục được đảm bảo
tốt hơn. Chính vì vậy, kết quả là:
Tính đến cuối năm 2012, cả nước có 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, ...và 63/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ
sở. Cả nước có 215 trường đại học, trong đó 187 trường công lập; 204
trường cao đẳng, trong đó 150 trường công lập; 295 trường trung cấp
chuyên nghiệp. Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng của cả nước là trên 2,2
triệu sinh viên; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 623 nghìn học sinh.
Cả nước có 142 trường cao đẳng nghề, 316 trường trung cấp nghề, 850
trung tâm dạy nghề. Số học sinh học nghề được tuyển mới trong năm nay là
1,9 triệu lượt người, trong đó cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 0,4 triệu
lượt người; sơ cấp nghề 1,5 triệu lượt người [159].
Những thành quả trong giáo dục - đào tạo đã góp phần quyết định đến phát
triển trí lực người Việt Nam (yếu tố phản ánh chất lượng con người). Trình độ
dân trí của người Việt Nam nhờ đó được nâng lên đáng kể, óc sáng tạo, kỹ năng
ứng xử và chỉ số thông minh cũng được nâng cao; trình độ của người lao động
được nâng lên nhanh chóng về cả số và chất lượng. Hiện nay, số lượng người lao
động ở nước ta đã qua đào tạo chiếm 40% tổng số lao động đang làm việc. Trong
đó có khoảng trên 8 triệu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, khoảng 2,5
triệu người có trình độ đại học, khoảng gần chục vạn thạc sỹ, khoảng hơn 15.000
tiến sỹ khoa học, hơn 7000 phó giáo sư, gần 1000 giáo sư. Bên cạnh đó, trong số
trên 4 triệu người Việt Nam hiện đang sống ở trên 100 nước trên thế giới, có
hàng triệu người Việt Nam đang trực tiếp học tập, công tác, làm việc, trong đó
có nhiều chuyên gia đang làm việc trong nhiều lĩnh vực từ khoa học cơ bản đến
khoa học ứng dụng và công nghệ cao. Những lực lượng đó là nòng cốt của trí tuệ
người Việt Nam. Với một nguồn nhân lực có số lượng đông đảo và chất lượng
ngày càng cao như vậy, đã và sẽ tạo ra năng suất lao động cao, đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
92

Phản ánh những thành tựu phát triển trí lực của con người Việt Nam theo chỉ
số HDI, chúng ta thấy chỉ số giáo dục trong HDI của Việt Nam không ngừng tăng
lên: Năm 1992 chỉ số giáo dục đạt 0,776, đến năm 1999 là 0,803 và tăng lên 0,830
vào năm 2008. Như vậy, từ năm 1992 đến năm 2008 chỉ số giáo dục tăng 7%;
mức đóng góp của chỉ số giáo dục vào việc tăng trưởng chỉ số HDI trong giai đoạn
này là 15,9%. Đây là chỉ số khá cao trong khu vực [Bảng 2, phụ lục].
Nhìn chung, những thành quả về phát triển trí lực con người Việt Nam
trong những năm vừa qua là rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, đánh giá một cách
sâu sắc hơn, chúng ta thấy, trong phát triển trí lực của người Việt Nam, còn bộc
lộ một số hạn chế, yếu kém nhất định.
3.1.2.2. Những hạn chế, yếu kém trong phát triển con người Việt Nam về
mặt trí lực
Nhìn chung hiện hay, trình độ dân trí của người Việt còn chưa cao và phát
triển chậm; nguồn nhân lực chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao. Theo kết quả điều
tra lao động việc làm năm 2011 cho thấy:
Trong tổng số 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động
của cả nước, chỉ có hơn 8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,6% tổng
lực lượng lao động....Hiện cả nước có hơn 43,4 triệu lao động (chiếm
84,4% lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chuyên
môn kỹ thuật nào đó [153, tr.16].
Mặt khác, trình độ dân trí và lao động được đào tạo có sự chênh lệch lớn
giữa các vùng, các địa phương. Ở các đô thị và các vùng có điều kiện phát triển
về kinh tế - xã hội, ở đó có trình độ dân trí cao, tập trung nhiều, thậm chí dư
thừa lao động có trình độ, còn ở các vùng, miền sâu, xa, khó khăn, thì trình độ
dân trí còn lạc hậu, lao động chủ yếu chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật.
Theo thống kê:

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là ở Hà Nội (30,7%) và thấp nhất
là ở Đồng bằng sông Cửu Long (8,6%)....Tỷ trọng lực lượng lao động có
trình độ đại học trở lên khác nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng
93

này cao nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (17,0%). Đồng bằng
sông Cửu Long - có tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên
thấp nhất (3,4%) [153, tr.16].

Trình độ dân trí chưa cao, nhất là trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp là
những yếu tố cơ bản phản ánh chất lượng của người Việt Nam còn chưa thực sự
phát triển và đó cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm cho năng suất lao động thấp.

Trong khi đó, nền giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay còn nhiều yếu kém,
bất cập. Sự phát triển về trí lực con người Việt Nam chưa tương xứng với sự đòi
hỏi ngày càng cao của sự phát triển đất nước trong thời đại mới. Mặc dù chúng
ta có nhiều chiến lược, chính sách cho phát triển giáo dục; mức đầu tư cho phát
triển giáo dục cũng khá lớn (hiện nước ta chi trên 20% tổng chi ngân sách, ngoài
ra còn nhiều nguồn chi từ các cá nhân, các đoàn thể và người học cho giáo dục).
Song, công tác quản lý, giám sát phát triển giáo dục còn kém hiệu quả, làm cho
chất lượng giáo dục - đào tạo còn thấp, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề.
Giáo dục - đào tạo, thực chất chưa đáp ứng nhu cầu xã hội, hầu hết sinh viên đại
học ra trường đều phải đào tạo thêm, hoặc đào tạo lại mới có thể đáp ứng được
công việc. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong giáo dục còn kéo dài, chưa được giải
quyết hiệu quả; cơ sở vật chất phục vụ giáo dục - đào tạo ở nhiều nơi, nhất là các
vùng sâu, xa, vùng dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, lạc hậu; nội dung, chương
trình trong giáo dục - đào tạo còn lạc hậu, chưa phù hợp với thực tiễn đất nước,
chưa bắt kịp được với các chương trình tiên tiến của thế giới.

Nếu chúng ta căn cứ vào chỉ số HDI để đánh giá thì giáo dục ở nước ta có
chỉ số cao hơn hẳn so với chỉ số thu nhập và tuổi thọ: Năm 2008 chỉ số giáo
dục là 0,830, còn chỉ số tuổi thọ là 0,728 và chỉ số thu nhập là 0,559. Có được
điều đó là do chúng ta đã thực hiện nhanh và hiệu quả quá trình xã hội hóa giáo
dục. Tuy nhiên, do những yếu kém, bất cập trong giáo dục nên sự phát triển của
giáo dục còn chưa tương xứng với sự phát triển con người. Vì vậy, trong giai
đoạn 1999 – 2008, sự đóng góp vào tăng trưởng HDI của chỉ số thu nhập tới
94

48,95%, của chỉ số tuổi thọ là 35,2%. Trong khi đó, đóng góp của chỉ số giáo
dục chỉ là 15,9% [Bảng 2, phụ lục]. Đây cũng là nguyên nhân làm cho chỉ số
HDI của nước ta tăng chậm.

Việc đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng nhân tài của chúng ta còn chưa hiệu
quả. Cũng phải nói thẳng thắn rằng “nhân tài đất Việt” không phải hiếm, thậm
chí rất nhiều, điển hình như giáo sư Ngô Bảo Châu… Hằng năm chúng ta đào
tạo ra rất nhiều cử nhân, kỹ sư, có nhiều chuyên gia giỏi; có hàng vạn người
được Nhà nước cử đi hoạc tập hoặc tự túc tham gia các chương trình đào tạo ở
nước ngoài, nhiều chuyên gia và lao động có trình độ quốc tế là người Việt đang
làm việc ở nhiều nước trên thế giới. Đây là những “nguyên khí của quốc gia”.
Song tình trạng chảy máu chất xám cũng đã và đang là điều nhức nhối, được bàn
luận nhiều nhưng chưa có biện pháp giải quyết hiệu quả. Vậy, vấn đề đặt ra là
chúng ta phải có những chủ trương, chính sách sử dụng, đãi ngộ đúng đắn và
thích đáng, nhất là tạo ra một môi trường làm việc chuyên nghiệp và hạ tầng xã
hội hiện đại để thu hút những “hiền tài” đó phục vụ cho sự phát triển đất nước.

Dẫu biết rằng, xuất phát điểm của chúng ta thấp, điều kiện kinh tế - xã hội
còn khó khăn, nhưng những con số phản ánh thực trạng phát triển về trí lực
người Việt Nam trên đây đang đặt ra thách thức rất lớn đối với Đảng, Nhà nước
và toàn thể nhân dân ta. Chúng ta phải có những bước đi đột phá thực sự có hiệu
quả và vững chắc để có thể tận dụng hiệu quả nhất thời kỳ “dân số vàng”.

3.1.3. Phát triển con người Việt Nam về mặt tâm lực

Tâm lực, như chúng tôi đã lý giải ở trên, là một trong những yếu tố cơ bản
cấu thành con người toàn diện. Đánh giá vai trò của đời sống tâm lực, có học giả
cho rằng “tâm hồn con người còn nặng gấp nghìn lần thể xác con người”, bởi lẽ,
khi tâm hồn hay nói cách khác là tâm lực của con người có năng lực cao, được
giải phóng, được sáng tạo và thưởng ngoạn, nó sẽ trở nên mạnh mẽ và đem lại
hiệu quả vô cùng lớn trong hoạt động của con người.
95

3.1.3.1. Những thành tựu trong phát triển con người Việt Nam về tâm lực
Nhận thức sâu sắc vai trò của tâm lực, trong những đường lối chính sách
của mình, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng phát triển con người về mặt tâm
lực. Từ năm 1998, trong Luật Giáo dục đã thể hiện rất rõ vai trò của tâm lực
trong cấu trúc nhân cách người Việt Nam, vì vậy “Luật” đã khẳng định:
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo
đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ
quốc [48, tr.126].
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định trong mục tiêu phát triển con
người toàn diện, yếu tố tâm lực phải được coi trọng. Đảng ta đã chỉ rõ phải “chú
trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối
sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp
luật, nhất là trong thế hệ trẻ” [39, tr.126].
Trên cơ sở thực hiện những chủ trương, đường lối đó của Đảng, chính sách
của Nhà nước, trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã có nhiều thành
quả về việc phát triển con người Việt Nam về mặt tâm lực. Điều đó được thể
hiện trên những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, những giá trị truyền thống tốt đẹp trong con người Việt Nam
được phát huy trong tình hình mới
Có thể nói, trong hệ giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam,
nổi trội lên đó là các giá trị như tinh thần yêu nước, tinh thần hiếu học, tinh thần
yêu lao động, tinh thần yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, tinh thần dũng
cảm...Mặc dù hiện nay, con người Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ của
những điều kiện kinh tế - xã hội hiện đại, nhiều giá trị xã hội mới, trong đó có
không ít những giá trị phản tiến bộ đã tác động, xâm nhập vào đời sống và tâm
thức con người Việt Nam. Đứng trước bối cảnh đó, nhiều giá trị truyền thống
96

cao đẹp vẫn đang được kế thừa và phát huy trong tình hình mới. Nó trở thành
sức mạnh nội sinh vô cùng lớn lao trong hoạt động của con người Việt Nam,
thông qua đó trở thành động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ
phát huy tinh thần hiếu học của cha ông, thế hệ hôm nay đang đẩy mạnh xây
dựng một xã hội học tập và cũng đã có nhiều thành quả to lớn, góp phần nâng
cao dân trí. Ngày càng có nhiều thiên tài trí tuệ có những đóng góp lớn lao cho
sự phát triển đất nước. Việc phát huy tinh thần yêu thương con người, tinh thần
đoàn kết trong tình hình mới, dẫn đến nhiều tổ chức từ thiện, nhiều phong trào
thể hiện nghĩa tình, tương thân, tương ái đã ra đời. Các chương trình “Trái tim
cho em”, “Tấm lưới nghĩa tình”, “Áo ấm mùa đông”, “Hiến máu nhân đạo”,
“Ủng hộ đồng bào miền trung bị lũ lụt”, “Vì Trường Sa thân yêu” ...Hoạt động
của các tổ chức và các chương trình đó đã góp phần rất lớn vào việc giúp đỡ cho
bao người dân nghèo, người gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn,....Và rất nhiều
giá trị truyền thống tốt đẹp khác, vẫn đang được phát huy trong con người Việt
Nam mới. Song ở hệ giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là một giá trị nằm ở bậc
thang cao nhất của con người Việt Nam. Với chủ nghĩa yêu nước, ông cha của
chúng ta đã đứng lên đánh thắng bao thế lực thù địch, đem lại nền độc lập cho
dân tộc. Trong điều kiện mới, giá trị truyền thống quý báu của chủ nghĩa yêu
nước vẫn đang được phát huy mạnh mẽ. Chủ nghĩa yêu nước hiện nay được thể
hiện qua việc đại đa số nhân dân ta yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành và tin
tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; chống lại những thế lực
thù địch dùng những chiêu bài mới của cái gọi là “diễn biến hòa bình” để chống
phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; yêu mến nhân dân các nước khác vì
mục tiêu hòa bình, ổn định, phát triển. Yêu nước còn thể hiện với việc nhân dân
đang nêu cao ý chí tự lực, tự cường, sáng tạo trong lao động, học tập và nghiên
cứu khoa học, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chiến thắng đói nghèo, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
97

Thứ hai, con người Việt Nam ngày càng có tinh thần tự lập, tự trọng, sáng
tạo, quyết tâm vượt qua hoàn cảnh của mỗi cá nhân
Trong truyền thống lịch sử hàng ngàn năm nay của dân tộc Việt Nam, tính
cộng đồng có vị trí nổi trội so với các giá trị thuộc về cá nhân trong bảng giá trị
đạo đức của con người Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã nhấn mạnh yếu tố con người, lấy việc phục vụ
con người là mục tiêu cao nhất. Trong các phẩm chất xây dựng con người mới,
chúng ta đặc biệt nhấn mạnh tới phẩm chất cá nhân: tự lập, tự trọng, sáng tạo, tự
do, quyết tâm vượt qua hoàn cảnh của cá nhân. Một số chuẩn mực giá trị trước
đây dựa vào kinh nghiệm, tập quán đã tạo ra phẩm chất chấp hành, phục tùng, thì
nay không còn thích ứng với thời kì hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, thì mọi hoạt động thực tiễn: sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và ứng
dụng khoa học công nghệ đều vì mục đích đem lại sự giàu có của các cá nhân
và tạo ra sự đóng góp có ích cho xã hội. Về mặt này, xét về khía cạnh đạo đức,
mọi con người đều được khuyến khích, được xã hội ghi nhận và đánh giá cao.
Hằng năm đất nước đã biểu dương hàng trăm doanh nhân tiêu biểu, học sinh –
sinh viên xuất sắc trong lao động và học tập; nhiều phát minh khoa học của các
nhà khoa học được đưa vào ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh. Nhờ vậy, đã
tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế - xã hội; xã hội đã xuất
hiện nhiều doanh nhân lớn như Phạm Nhật Vượng, Đoàn Nguyên Đức…Những
con người ấy, họ đã nỗ lực cá nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, vượt qua
những khó khăn của đất nước để vươn lên làm giàu cho bản thân mình, nhưng
đồng thời, cũng chính là sự cống hiến to lớn cho cộng đồng, dân tộc.
Mặc dù tính cá nhân được đề cao, nhưng trong sâu thẳm nhận thức, tâm hồn
của con người Việt Nam thì họ luôn hướng về cộng đồng, đất nước, chung tay
góp sức cùng Đảng và Nhà nước chống lại đói nghèo, xây dựng một đất nước
Việt Nam phát triển phồn thịnh. Thực tế đã cho thấy, tinh thần nhân ái, nhân đạo
98

hướng về cộng đồng của các doanh nhân, các nhà hảo tâm là rất lớn lao. Tinh
thần ấy đã nói lên sự hòa hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, dân tộc.
Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tinh thần ấy cũng là ưu thế nổi trội của đạo đức
con người Việt Nam.
Thứ ba, con người Việt Nam có ý thức pháp luật ngày càng cao, có bản
lĩnh trong đấu tranh đòi hỏi sự công bằng và lẽ phải, biết hướng tới những cái
đúng, cái tốt, cái đẹp
Nền kinh tế thị trường “thương trường là chiến trường” đã tạo ra những
biến đổi to lớn trong đời sống của con người Việt Nam. Nhiều yếu tố niềm tin,
chân lý, lẽ phải, thiện - ác, tốt - xấu, tiến bộ và phản tiến bộ... đang đặt ra rất
nhiều vấn đề. Nhưng cũng chính kinh tế thị trường cũng đòi hỏi sự dân chủ hóa
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội phải được nâng cao. Điều đó thúc đẩy
trách nhiệm công dân trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, nó yêu cầu một
tinh thần phê phán rất cao giữa sự lựa chọn những giá trị đạo đức tốt đẹp hay là
sự chấp nhận, hoặc đạp đổ tất cả chỉ vì mục tiêu kinh tế.
Dân chủ hóa trong đời sống là một điều tất yếu đối với một xã hội phát triển
theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc thực hiện dân chủ hóa làm cho ý
thức làm chủ, năng lực thực hành dân chủ được phát huy và phát triển. Với công
cuộc đổi mới ở nước ta, quan hệ giữa cá nhân và xã hội cũng bị biến đổi theo
hướng tích cực. “Thực chất và nội dung của sự biến đổi mối quan hệ này chính
là dân chủ hóa chính bản thân quan hệ đó, đảm bảo sự phát triển hợp lý, tự nhiên
của cá nhân cũng như của xã hội theo nguyên tắc pháp lý và chuẩn mực nhân
văn của dân chủ” [7, tr.456].
Như vậy, dân chủ đi liền với kỷ cương, nhu cầu dân chủ hóa trong đời sống
thúc đẩy sự hoàn thiện về mặt pháp luật, có nhiệm vụ điều chỉnh hoạt động của
con người theo pháp luật. Sự hoàn thiện pháp luật và với phương châm “sống,
làm việc theo hiến pháp và pháp luật” sẽ tạo ra môi trường xã hội lành mạnh, tạo
mọi điều kiện cho con người phát huy mọi khả năng sáng tạo, các mối quan hệ
99

xã hội được ứng xử và giải quyết thấu tình đạt lý, các quyền con người vì thế
được bảo đảm. Trong môi trường lành mạnh như vậy, con người sẽ hướng thiện,
hành động của họ sẽ mang tính tự giác, đứng lên đấu tranh ngăn chặn cái ác, cái
bất công, để vươn tới cái chân, thiện, mỹ.
Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta cho thấy, ý thức pháp luật của người
dân ngày càng được nâng cao. Ý thức tôn trọng pháp luật đã trở thành nếp sống
và làm theo pháp luật đã tạo thành bản lĩnh của người Việt Nam trong đấu tranh
chống lại cái ác, bảo vệ hạnh phúc cho mọi người. Đã có nhiều người tận tụy với
việc bảo vệ lẽ phải như Trung tướng Nguyễn Việt Thành trong vụ án Năm Cam,
nhân dân tố cáo doanh nghiệp xả thải ra môi trường, các chiến sỹ, quân, dân
đang ngày đêm kiên cường bảo vệ biển đảo... Đặc biệt là trong đấu tranh chống
bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em, bất bình đẳng giới… nhằm đảm bảo các quyền
cơ bản của con người. Như vậy, có thể nói trên mặt trận này, chúng ta đã đạt
được những thành quả to lớn. Hiện nay Việt Nam đã ký cam kết với tổ chức
nhân quyền của Liên Hợp Quốc về việc đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của
con người. Đó là quyền trẻ em, chống phân biệt chủng tộc, chống tra tấn, quyền
phụ nữ,...Tháng 11 năm 2013 Việt Nam đã ký cam kết thực hiện quyền chống
bạo lực. Có thể nói, ở một nước đang phát triển, việc Việt Nam đã cam kết và
tích cực thực hiện đảm bảo các quyền con người là một nỗ lực được đông đảo
cộng đồng thế giới hoan nghênh. Vì vậy, ngày 12/11/2013 Việt Nam được bầu
cử vào Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc. Đảm bảo các quyền cơ bản của
con người đồng nghĩa với việc xây dựng môi trường xã hội dân chủ và văn minh,
tạo điều kiện cho con người Việt Nam được tự do sáng tạo, thưởng ngoạn, có
điều kiện phát triển toàn diện.
Thứ tư, nhiều thành tựu trong phát triển văn hóa, nghệ thuật đã đem đến
đời sống tinh thần hết sức phong phú cho nhân dân
Hiện nay, khi nói tới văn hóa, tất cả chúng ta đều nhận thấy tầm quan
trọng của nó, không chỉ đối với con người, mà còn là yếu tố nội sinh vô cùng
100

quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng người, của quốc
gia – dân tộc. Việt Nam là một dân tộc có bề dày truyền thống văn hóa hàng
ngàn năm lịch sử. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta chứa đựng
trong đó chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn cao đẹp. Vì vậy, nó luôn là nguồn nuôi
dưỡng, hun đúc cho ý chí và tâm hồn con người Việt Nam, góp phần xây dựng
nhân cách, đạo đức, lối sống, tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam. Chính từ
vai trò lớn lao đó của văn hóa, Đảng ta đã luôn coi việc “xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là “quốc sách hàng đầu”, và phải “làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh của sự phát triển” [39, tr.75-76]. Nhận
thức của Đảng đã nhanh chóng trở thành nghị quyết, chủ trương và chính sách cụ
thể. Nhờ vậy, những thành tựu xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta những
năm qua là hết sức to lớn.
Trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, phong trào sáng tác và thưởng thức
phát triển rất mạnh. Các sản phẩm văn hóa nghệ thuật ngày càng phong phú, đa
dạng và được giới thiệu rộng rãi đến đông đảo nhân dân. Nhiều loại hình nghệ
thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, múa rối nước…đã được bảo tồn
và phát huy; nhiều công trình văn hóa đã được giữ gìn, tôn tạo, phục dựng; nhiều
di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, như Cố
đô Huế, Phố cổ Hội An, Vịnh Hạ Long, Thánh địa Mỹ Sơn, Nhã nhạc cung đình
Huế, Hát xoan Phú Thọ, Quan họ Bắc Ninh,…; nhiều giao lưu, triển lãm văn hóa
nghệ thuật đã diễn ra trong và ngoài nước; rất nhiều hội văn hóa nghệ thuật được
thành lập và hoạt động sôi nổi…Các sản phẩm và hoạt động văn hóa nghệ thuật
đã thực sự đem lại cho nhân dân ta đời sống thinh thần hết sức phong phú, đa
dạng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người Việt Nam.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa mới diễn ra hết sức sôi nổi. Theo kết
quả số liệu của Hội nghị tổng kết thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa (2000 – 2010) của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
101

- Trong phong trào “Người tốt, việc tốt”, đã có trên 1.200.000 “Người tốt,
việc tốt” được suy tôn ở các cấp. Trong đó, ở cấp tỉnh trên 249.000 người,
cấp huyện trên 239.000 người và cấp xã trên 712.000 người.
- Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ngày càng phát triển về chiều rộng
và bề sâu. Thu hút trên 90% gia đình sinh sống ở nông thôn, hoặc gia đình
cư trú trên địa bàn khu dân cư tham gia. Từ 8.670.665 gia đình văn hóa
được công nhận năm 2000, đến nay cả nước đã có 16.026.599/22.628.167
gia đình văn hóa được công nhận, (đạt tỷ lệ 70,8%).
- Phong trào xây dựng làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa là một trong
những phong trào phát triển mạnh mẽ và thường xuyên nhất. Từ 17.651
làng (thôn, ấp, bản…) văn hóa; tổ dân phố (khu phố, khu dân cư) văn hóa
được công nhận năm 2000, đến nay cả nước đã có 58.284/86.761 làng văn
hóa, tổ dân phố văn hóa được công nhận năm 2010 (đạt tỷ lệ 67%).
- Đến hết năm 2010, “Quỹ vì người nghèo” 04 cấp đã vận động được
5.910,3 tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và sửa chữa 1.051.973 căn nhà
cho hộ nghèo.
- Công tác đền ơn đáp nghĩa được thực hiện có hiệu quả: 9.832/10.603 xã,
phường được công nhận xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ
(93,1%); 1.865.710/1.963.593 đối tượng gia đình chính sách có mức sống
trung bình trở lên so với dân cư cùng địa bàn cư trú; 4.853 Bà mẹ Việt
Nam anh hùng còn sống được chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo; từ khi
phát động đến nay (1997 - 2010), Quỹ đền ơn đáp nghĩa các cấp đã vận
động được gần 2.000 tỷ đồng, xây mới hơn 300 nghìn ngôi nhà, sửa chữa
hơn 140 nghìn ngôi nhà, tặng gần 700 ngàn sổ tiết kiệm trị giá hơn 400 tỷ
đồng cho các đối tượng gia đình chính sách.
- Cuộc vận động góp phần tích cực vào việc xây dựng khu dân cư lành
mạnh: củng cố và duy trì 650.980 “Tổ an ninh nhân dân”, “Tổ dân phòng”
làm nòng cốt trong Phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm
và tệ nạn xã hội; duy trì hoạt động 125 nghìn “Tổ hòa giải” với gần 500
nghìn hòa giải viên.
102

- Công tác xây dựng đời sống văn hóa trong các đoàn thể, công sở, văn
hóa doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Đến năm 2010, đã có 37.971 cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp được công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hóa.

- Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có tiến bộ:
Trên 120.000 đơn vị và khu dân cư thực hiện tốt nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội, tạo ra những chuyển biến tiến bộ
trong đời sống nhân dân.

- Công tác xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao quần chúng được duy trì và phát triển, tạo điều
kiện để các tầng lớp nhân dân được hưởng thụ và tham gia vào các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Đến nay, cả nước đã có 4.663
xã có nhà văn hóa, sân thể thao; 38.543/99.658 thôn có nhà văn hóa, sân
thể thao; 6.770 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có nhà văn hóa; 7.365 cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp có khu vui chơi giải trí; 8.177 cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp có phòng truyền thống và 215 cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp có đội văn nghệ quần chúng [10].

Những thành tựu trong văn hóa, nghệ thuật trên đây đã thực sự đem cho
nhân dân ta một đời sống mới vô cùng phong phú, không chỉ trên bình diện đời
sống tinh thần, mà cả đời sống vật chất, góp phần quan trọng vào việc xây dựng
con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện.

3.1.3.2. Những hạn chế trong phát triển con người Việt Nam về tâm lực

Bên cạnh những giá trị tiến bộ trong phát triển tâm lực con người Việt Nam
nêu trên, việc phát triển tâm lực con người Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
hạn, bất cập. Điều đó được thể hiện:

Thứ nhất, sự suy thoái về chính trị, tư tưởng

Trong những năm đổi mới vừa qua, nước ta đã đạt được những thành tựu
hết sức to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Song, thực tế hiện nay, nước ta
103

còn đang ở trình độ phát triển chưa cao, ở một số lĩnh vực còn yếu kém, lạc hậu,
đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, những tiêu cực xã hội
lớn như tham nhũng, quan liêu….Hơn nữa, do quá trình hội nhập quốc tế, bên
cạnh việc tiếp nhận những giá trị tiến bộ, chúng ta cũng bị tiếp nhận cả những
giá trị phản tiến bộ….., Tất cả những vấn đề đó, đã ảnh hưởng tới nhận thức
chính trị của một bộ phận nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng, về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự suy thoái về chính trị, tư tưởng được biểu hiện ở sự
suy giảm bản lĩnh chính trị, phai nhạt lý tưởng, bàng quan với các vấn đề xã hội;
thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng, thấy việc đúng không
tích cực ủng hộ, thấy tiêu cực cũng không dám đấu tranh. Đã có một bộ phận
quần chúng dao động, hoài nghi về lý tưởng cách mạng, ủng hộ con đường đi lên
chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có những con người cấu kết với các thế lực thù địch
chống phá, bôi nhọ Đảng, kích động mọi người đứng lên chống lại chính quyền,
điển hình là các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, Tây Nghệ
An… Những hành động đó đã làm mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.

Nguy hại hơn là hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị
chệch hướng, mất niềm tin vào chế độ, suy thoái về chính trị, tư tưởng, dẫn đến
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ...Đánh giá thực trạng đạo
đức cán bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới của đất nước, tại Đại hội XI,
Đảng ta nêu rõ:

Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và
sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát
triển của đất nước [39, tr.173].
104

Đặc biệt, trước đó, Tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa
IX, với Nghị quyết: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” Đảng
ta đã thực sự thừa nhận những khuyết điểm trong Đảng ở cấp cán bộ cao cấp:
Một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về
sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tùy tiện, vô nguyên tắc [37, tr.22].
Hậu quả của vấn đề này là rất lớn lao, là nguy cơ làm suy thoái về chính trị,
tư tưởng của nhân dân và của toàn xã hội. Vì vậy, tiếp tục phát triển và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đang là nhiệm vụ bức bách.
Thứ hai, sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa và suy thoái về lối sống
Việt Nam vốn là một dân tộc có nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”.
Nền văn hóa đó đã tạo nên những thế hệ người Việt Nam với hình ảnh con người
Việt Nam giản dị, thân thiện, hiếu khách. Mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội luôn được hình thành với tinh thần “nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng”, “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán
chị em xa, mua láng giềng gần”, “lá lành đùm lá rách”,… Những giá trị đó đã đi
sâu vào tâm thức và hành vi của mỗi con người Việt Nam.
Nhưng hiện nay, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc và con
người Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng, trong xã hội nảy sinh hàng loạt nghịch
lý, hàng loạt các vấn đề phản giá trị: chủ nghĩa thực dụng; khát vọng cá nhân
được đẩy lên cao, dẫn đến lối sống phi nhân tính; cuộc sống thác loạn, những
hình ảnh sex ở các cuộc thi người đẹp, biểu diễn ca nhạc, tôn sùng tiện nghi vật
chất, đồng tiền, nạn mại dâm tràn lan, nạn hiếp dâm, bạo lực gia đình, bạo lực trẻ
em, nạn bia rượu, cờ bạc, cướp của, giết người.....Những vấn đề này tác động
thường nhật đến người dân Việt Nam, dẫn đến sự tha hóa con người cũng như
105

trong quan hệ xã hội của họ, nó làm nguy hại ngay cả những mối quan hệ thiêng
liêng như quan hệ cha mẹ với con cái, chồng vợ, thầy trò, đồng nghiệp.... Những
vấn đề phản văn hóa, phi đạo đức và phản tiến bộ đó, đã phản ánh một bức tranh
đạo đức xã hội đang có nguy cơ suy thoái nghiêm trọng. Nhất là trong giới trẻ,
nhiều thanh niên trở nên lười học tập, lười lao động, sống hưởng thụ, “sống
thử”, buông thả, thờ ơ với thời cuộc, thờ ơ với cả chính tương lai của mình. Một
bộ phận con người, trong đó có không ít cán bộ, đảng viên; có nhiều thanh, thiếu
niên sống sa đọa, trụy lạc, coi thường mọi người, mọi chuẩn mực xã hội; họ dấn
thân vào các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, cờ bạc, trộm cướp, giết người,
cướp của...Vụ án cô sinh viên Vũ Thị Kim Anh giết người tình trên xe Lexus,
hay Nguyễn Văn Luyện giết người cướp tiệm vàng ở Bắc Giang,…đang là hồi
chuông cảnh báo về sự xuống cấp trong lối sống của một bộ phận con người Việt
Nam hiện nay. Đánh giá thực trạng này, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp
lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp [32, tr.46].
Những hạn chế, bất cập trong phát triển tâm lực của người Việt Nam trên
đây đặt ra nhiệm vụ cấp bách là chúng ta phải có những biện pháp kịp thời nhằm
chấn hưng đạo đức, văn hóa và thẩm mỹ của con người và xã hội. Góp phần xây
dựng con người Việt Nam vừa có tài, lại vừa có đức, có lối sống văn hóa và
thẩm mỹ cao đẹp.
3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh về con
người toàn diện với thực tế phát triển con người toàn diện ở nước ta còn chậm
Nhiệm vụ lớn lao của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là
phải thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
106

kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhằm đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp phát triển, dân giầu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh. Nhiệm vụ đó đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được những con người Việt
Nam mới – con người phát triển toàn diện. Đó là những con người có thể lực
tốt, có sức bền và sức dẻo dai, đáp ứng được cường độ lao động cao, có trí tuệ
tinh thông, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ kỹ thuật cao, có khả
năng thích ứng với sự thay đổi và tư duy sáng tạo. Đồng thời, phải có tinh thần
yêu lao động, có trí tiến thủ và trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm cộng đồng, có
đạo đức trong sáng và ý thức thẩm mỹ cao đẹp. Hơn thế nữa, những yếu tố này
trong con người phải luôn được bồi đắp và phát triển theo chiều hướng tích
cực. Với những yêu cầu khách quan về phát triển con người Việt Nam như vậy
trong tương quan với thực tế phát triển con người Việt Nam hiện nay, chúng ta
thấy sự phát triển con người Việt Nam còn chậm.
Về mặt thể lực, mặc dù chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể
hiện ở tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và sản phụ giảm, tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm, tuổi thọ
được tăng lên. Song thực tế lại có nhiều vấn đề bất cập như: các bệnh dịch phát sinh
nhiều: bệnh béo phì, bệnh huyết áp, ung thư, HIV, bệnh stress, tự kỷ…; cho đến
những tác nhân của ô nhiễm môi trường sinh thái, của tai nạn giao thông, tai nạn lao
động…làm cho thể lực con người Việt Nam phát triển chậm và chưa bền vững.
Về mặt trí lực, mặc dù chúng ta cũng đạt được nhiều kết quả lớn lao thể
hiện ở trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và kỹ thuật của người Việt Nam
ngày càng được nâng cao. Song vẫn còn chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu của
sự phát triển, đặc biệt là trình độ khoa học, kỹ thuật và kỹ năng lao động của
người lao động Việt Nam còn thấp và phát triển chậm. Bên cạnh đó, những yếu
kém, bất cập trong giáo – dục đào tạo cũng phản ánh điều đó.
Về mặt tâm lực, bên cạnh nhiều giá trị tốt đẹp đã được kế thừa và phát huy
trong con người Việt Nam mới, song trên thực tế, do tác động của những mặt trái
trong cơ chế thị trường đã phát sinh nhiều phản giá trị, thậm chí ở một bộ phận
không nhỏ người Việt Nam đã bị suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, văn
hóa và thẩm mỹ.
107

Phản ánh sự phát triển con người Việt Nam còn chậm đó, theo báo cáo
của UNDP, hiện nay chỉ số phát triển con người ở Việt Nam nằm ở mức chưa
cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù hiện nay, chúng ta
đã được xếp vào nhóm nước có chỉ số HDI trung bình, nhưng là mức trung
bình (thấp). Theo báo cáo phát triển con người toàn cầu (HRD), năm 2009
Việt Nam xếp ở vị trí 116/182 nước. Trong khu vực ASEAN thì chúng ta chỉ
xếp thứ 7 (0,725), và chỉ đứng trên ba nước là Myanma, Lào và Campuchia.
Trong khi đó chỉ số này của Thái Lan là 7,830 (xếp vị trí 87/182); Malaysia là
0,829 (xếp vị trí 66/182) [167, tr.15].

Hơn nữa, mức tăng trưởng của chỉ số phát triển con người - HDI của nước
ta còn chậm và mất ổn định. Năm 1992 Việt Nam xếp hạng giá trị HDI là
120/174 nước được thống kê, đến năm 1995 chỉ tăng 1 bậc, xếp ở vị trí 121/174;
nhưng đến năm 1997 tụt xuống thứ 110/174; năm 1998 tiếp tục tụt xuống thứ
108/174, đến năm 2001 tăng lên được vị trí 109/175 và năm 2002 tăng lên thứ
112/177 [4, tr.25]. Sự tăng trưởng chậm và mất ổn định như vậy, phản ánh thực
tế chúng ta chưa có chiến lược đúng đắn về phát triển con người và sự phát triển
kinh tế - xã hội chưa thực sự hướng tới mục tiêu phát triển con người. Thực tế
phát triển của con người toàn diện ở nước ta còn chậm như vậy, đặt ra một yêu
cầu cấp thiết là phải có những định hướng và giải pháp đúng đắn, kịp thời để
thúc đẩy nhanh sự phát con người Việt Nam nhằm đáp ứng sự nghiệp cách mạng
của dân tộc trong giai đoạn mới.

3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải tạo ra những điều kiện kinh tế - xã
hội thuận lợi cho phát triển con người toàn diện với thực tế yếu kém, bất cập của
những điều kiện này là trở lực đối với phát triển con người toàn diện ở Việt Nam

Để phát triển con người toàn diện, điều hết sức quan trọng là phải tạo ra
những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho con người phát triển, và chỉ trong
môi trường thuận lợi thì con người mới có thể phát huy hết năng khiếu và năng
108

lực của mình. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, nhiều hạn chế, yếu kém về kinh tế -
xã hội đang trở thành trở lực đối với sự phát triển con người toàn diện, điều này
được thể hiện ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có xuất phát điểm thấp,
những hậu quả chiến tranh còn nặng nề làm cho sự nghiệp phát triển con người
Việt Nam chậm chạp
Cho đến ngày hôm nay, khi đất nước đang trên đà đổi mới, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Song, chúng ta đều nhận thức được rằng,
nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nửa
phong kiến. Hơn nữa, những hậu quả chiến tranh để lại vẫn còn hết sức nặng nề.
Hiện vẫn có hàng triệu người dân Việt Nam đang sống là những người từng sống
ở xã hội cũ, một xã hội mà trong đó chiến tranh đè nặng, với nền tảng vật chất kỹ
thuật nghèo nàn, nền tảng xã hội yếu kém nên sức khỏe và trình độ học vấn của
họ không có điều kiện phát triển. Còn rất nhiều người dân Việt Nam đang sống
cảnh neo đơn vì mất mát về người thân trong chiến tranh; hàng triệu trẻ em sinh
ra bị di chứng chất độc màu da cam. Bên cạnh đó, vẫn còn một số tập quán lạc
hậu của xã hội cũ tồn tại trong đời sống nhân dân, như: tư tưởng trọng nam dẫn
đến việc lựa chọn việc sinh con trai. Theo thống kê, hiện tỷ lệ sinh là 100 nữ/112
nam – tình trạng này dẫn đến mất cân bằng dân số về giới tính; một số hủ tục,
như thờ cúng nhằm chữa trị bệnh tật, xua đuổi tà ma,....làm ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe người dân; nạn bói toán, lên đồng, cúng tế tràn lan đã tác động tiêu cực
không nhỏ đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, và trở thành lực cản
cho sự phát triển con người toàn diện ở nước ta.
Thứ hai, tác động của những mặt trái trong kinh tế thị trường làm xói mòn
những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam, trở thành rào cản cho phát triển
con người toàn diện ở nước ta
Kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại, những ưu điểm và tác động
tích cực của nó là rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con
109

người Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với vai trò quản lý của nhà nước nhằm
xây dựng nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo ngày càng cao tính làm chủ
của nhân dân lao động, song nền kinh tế này cũng có những khuyết tật vốn có
của nó. Trong kinh tế thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt tất yếu dẫn đến sự phân
hóa giàu nghèo. Chúng ta đều đã biết, sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày
càng ra tăng mạnh mẽ, trong khi một bộ phận nhỏ người dân có cuộc sống sung
túc, thì rất đông nhân dân còn đang sống trong hoàn cảnh khó khăn; cạnh tranh,
tư hữu dẫn đến lợi ích cá nhân vi phạn lợi ích tập thể và xã hội; việc chạy theo
lợi nhuận và tệ sùng bái đồng tiền dẫn đến hoạt động buôn lậu, làm hàng giả,
hàng nhái, gây ô nhiễm môi trường; sự áp bức, bóc lột người lao động gia tăng;
rồi tình trạng buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em…xuất hiện ngày càng
nhiều...Đặc biệt là sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường làm cho thất nghiệp,
thiếu việc làm trở thành một vấn nạn lớn:
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị luôn cao hơn khu vực nông thôn và
ngược lại tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn thường cao hơn
khu vực thành thị. Năm 2011, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của
khu vực thành thị là 3,6% và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động
của khu vực nông thôn là 3,56% [153, tr.37].
Hậu quả của những vấn đề này là rất nặng nề đến đời sống kinh tế, sức khỏe
và đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
Khi kinh tế thị trường phát triển, việc hội nhập kinh tế thế giới đưa lại
những sức mạnh ngoại lực lớn lao để phát triển kinh tế - xã hội và con người
Việt Nam. Song chúng ta phải chấp nhận cả sự xâm nhập của những tác động
tiêu cực của một số văn hóa lai căng, phản văn hóa, làm cho nhiều giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam bị xói mòn, bị xáo chộn. Thực
tế hiện nay, tình trạng xuống cấp về đạo đức xã hội, sự suy thoái về lối sống
đang diễn ra rất mạnh mẽ và phức tạp ở một bộ phận không nhỏ người Việt
Nam. Nhiều vấn đề xã hội hết sức nhức nhối nhối đang xảy ra như: Nạn tham
110

nhũng, chiếm đoạt tài sản (điển hình là vụ tại tập đoàn Vinashin, năm 2013; vụ
của Nguyễn Đức Kiên – lãnh đạo Ngân hàng ACB, năm 2013; vụ Huỳnh Thị
Huyền Như – cán bộ ngân hàng Vietinbank chiếm đoạt 4.911 tỷ, năm 2013,.
v.v.); nhiều tệ nạn xã hội hết sức nghiêm trọng như cướp của, giết người, hiếp
dâm, mại dâm; buôn bán, hút trích ma túy…(điển hình là vụ Nguyễn Đức Nghĩa
giết người tình chặt thành từng mảnh phi tang, vụ buôn ma túy của Giàng A
Tàng, băng cướp chặt tay người đi đường cướp xe SH ngay trên đường phố Sài
Gòn .v.v.). Điều đáng chú ý là, những hiện tượng xã hội tiêu cực xảy ra ngày
càng nhiều ở thanh thiếu niên, điều đó cho thấy hiện nay giới trẻ - chủ nhân
tương lai của đất nước lại có rất nhiều người trở nên lười lao động, lười học tập,
thiếu ý chí phấn đấu trong cuộc sống, thiếu định hướng, mất niềm tin và thiếu lý
tưởng cách mạng, thờ ơ - thiếu ý thức trách nhiệm với chính bản thân và với xã
hội …. Những vấn đề đó là thách thức rất lớn đối với chúng ta và trở thành lực
cản lớn đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, những bất cập, yếu kém trong giáo dục - đào tạo ảnh hưởng trực
tiếp đến phát triển về chất lượng con người Việt Nam
Giáo dục - đào tạo, với vai trò là nhân tố quyết định trực tiếp nhất đến chất
lượng con người Việt Nam, nhưng bản thân vấn đề giáo dục - đào tạo ở nước ta
hiện nay có nhiều hạn chế, bất cập. Điều đó được thể hiện ở những mặt sau:
- Quy mô giáo dục - đào tạo được mở rộng, nhưng thiếu định hướng về
chiều sâu, thiếu quy hoạch ngành nghề đào tạo cho các trường, thiếu sự chỉ đạo
đồng bộ về nội dung, chương trình đào tạo;
- Phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động
sáng tạo của người học;
- Nội dung giáo dục - đào tạo chưa gắn chặt với lao động sản xuất và thực
tế xã hội. Nhà trường - gia đình - xã hội chưa thực sự kết hợp chặt chẽ với nhau.
Chưa thật sự gắn kết giữa cơ sở sản xuất với nhà trường, với cơ sở đào tạo;
- Thiếu chính sách thiết thực để khuyến khích đội ngũ những người làm
công tác giáo dục - đào tạo nâng cao trình độ và tâm huyết với nghề nghiệp;
111

- Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo thiếu đồng bộ; trang
thiết bị và đồ dùng dạy học lạc hậu, chậm cải tiến so với sự phát triển của khoa
học và công nghệ trên thế giới;
- Xu hướng thương mại hóa trong giáo dục - đào tạo diễn ra quá mạnh mẽ
dẫn đến chất lượng đào tạo kém chất lượng.
Những bất cập trên đây trong nền giáo dục nước nhà đang trở thành một
vấn đề nổi cộm và đặt ra cho Đảng, nhà nước, cũng như toàn thể nhân dân ta
phải có những hướng đi có tính đột phá nhằm chấn hưng sự nghiệp giáo dục -
đào tạo, thông qua đó, thúc đẩy phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
Thứ tư, một số chính sách xã hội còn chưa kịp thời và chưa thực sự có hiệu
quả, đã gây trở lực cho phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai trên thực tế nhiều
chính sách anh sinh xã hội, những chính sách như: chính sách xóa đói, giảm
nghèo, chính sách lao động, việc làm; chính sách phát triển y tế, giáo dục, môi
trường, đền ơn đáp nghĩa, trợ cấp khó khăn… Chúng ta cũng đã đạt được những
kết quả to lớn, và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển con người Việt Nam.
Song, bên cạnh những thành quả đạt được, vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập đang
diễn ra như: Công tác xóa đói, giảm nghèo chưa thực sự bền vững; công tác y tế,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng còn nhiều yếu kém, bất cập, dẫn đến xảy ra nhiều
vụ rất nghiêm trọng, điển hình như việc nhân bản xét nghiệm máu ở Bệnh viện
Hoài Đức - Hà Nội; vụ bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường ở Thẩm Mỹ Cát Tường vứt
xác phi tang; dịch sởi giữa năm 2014 không được giải quyết kịp thời làm hàng
trăm trẻ em tử vong; nhiều sản phụ và thai nhi không được cấp cứu kịp thời dẫn
đến tử vong…; công tác phòng chống ô nhiễm môi trường, an toàn vệ sinh thực
phẩm còn chưa hiệu quả, dẫn đến nhiều vụ ngộ độc thực phẩm tập thể đáng tiếc;
công tác phòng chống tai nạn lao động, tai nạn giao thông còn yếu kém; công tác
phòng chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là phòng chống tham nhũng còn chưa
thực sự hiệu quả; chính sách lao động việc làm và chính sách tiền lương còn
chưa được giải quyết thỏa đáng...Tất cả những vấn đề này, và những con số được
112

chúng tôi trình bày trong phần thực trạng ở trên, đã phản ánh được phần nào hạn
chế trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội ở nước ta. Hệ lụy của
những vấn đề đó là trở lực vô cùng lớn lao đối với việc phát triển con người Việt
Nam. Đồng thời, đặt ra một cách bức thiết đối với Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay là phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực quản lý của Nhà nước trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhất
là thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, nhằm tạo ra cho con người Việt
Nam những điều kiện tốt để phát triển toàn diện.
Thứ năm, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam còn bị cản trở
bởi sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” của chúng
Hiện nay, khi chiến tranh đã đẩy lùi, nhân dân ta đang sống trong hòa bình
và phát triển, song cuộc sống của nhân dân ta vẫn luôn phải đối mặt với sự
chống phá của những thế lực thù địch trong và ngoài nước. Sự chèn ép của các
nước lớn, của những tập đoàn kinh tế độc quyền, khiến cho việc sản xuất, kinh
doanh của nhân dân rất bấp bênh; hiện có hàng chục tổ chức phản động lưu vong
ở các nước Mỹ, Canađa, Pháp, Australia...; có vài chục nhà xuất bản, nhà in;
nhiều phương tiện truyền thanh, truyền hình và báo chí đang hoạt động chống
phá trực tiếp Việt Nam. Chúng dùng những thủ đoạn hết sức tinh vi, bằng chiến
lược “diễn biến hòa bình”, làm cho người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ bị
mắc vào những cạm bẫy của đồng tiền, của danh vọng và ăn chơi, làm cho thế hệ
trẻ sùng bái chủ nghĩa tư bản, “lãng quên” lịch sử hào hùng của dân tộc, của cha
ông. Chúng còn dùng thủ đoạn lôi kéo, mua chuộc, kích động, ép buộc một bộ
phận nhân dân tổ chức những vụ bạo động, nổi dậy, li khai (điển hình như cuộc
bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004; ở đồng bào H.Mông - Điện Biên năm
2011...) nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt nghiêm trọng là làm
cho một bộ phận nhân dân, nhất là cán bộ Đảng, Nhà nước bị chệch hướng, mất
niềm tin vào chế độ, chống phá chế độ. Những hoạt động chống phá đó, đã gây
nhiều bất ổn đến đời sống của nhân dân ta, nguy hại đến sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, cản trở sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
113

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong những năm qua, nhất là trong gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi
mới vừa qua, Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đã làm tất cả những gì
cần làm để nhằm xây dựng và phát triển con người Việt Nam mới - con người
phát triển toàn diện. Chúng ta đã từng bước tạo lập và xây dựng những điều
kiện cho phát triển con người Việt Nam trên nhiều phương diện, từ phát triển
kinh tế, đến phát triển trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, cải tạo môi
trường tự nhiên...nhằm tạo môi trường tốt nhất có thể để con người Việt Nam
phát huy hết khả năng của mình và phát triển toàn diện cho mọi cá nhân cả về
thể lực, trí lực lẫn tâm lực.
Thành quả của sự phát triển toàn diện cá nhân con người Việt Nam luôn đặt
trong tổng thể thành quả của sự phát triển con người - xã hội, đó là sự phát triển
những cộng đồng người Việt Nam về đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong các lĩnh vực xoá đói giảm
nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân là rất đáng tự hào. Song, trên thực tế, trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, và sự nghiệp phát triển con người
toàn diện ở nước ta nói riêng còn có nhiều hạn chế, bất cập. Vì thế, tính năng
động sáng tạo của con người Việt Nam và vai trò của con người trong công cuộc
xây dựng xã hội mới chưa được phát huy triệt để, chưa thật sự mang lại hiệu quả,
đời sống vật chất và tinh thần của một số bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn.
Từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở nước ta trong những năm đổi
mới vừa qua đã xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa yêu
cầu khách quan của sự phát triển nhanh về con người toàn diện với thực tế phát
triển con người toàn diện ở nước ta còn chậm; thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu
cần phải tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển con
người toàn diện với thực tế yếu kém, bất cập của những điều kiện này là trở lực
đối với phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
114

Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những định hướng cơ bản, lớn và đúng đắn;
trên cơ sở đó, có những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm đẩy mạnh phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam.
115

Chương 4
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

Trong hoạt động của con người, kể cả hoạt động nhận thức lẫn thực tiễn, thì
việc đề ra những định hướng và giải pháp là hết sức quan trọng. Người Trung
Quốc cổ đại đã xem phương pháp là “ngọn đuốc”, cũng có khi họ coi đó là “thủ
đoạn” hay “con đường” để đạt mục đích. Việc đề ra định hướng và phương pháp
đúng đắn, phù hợp, không chỉ giúp chúng ta đạt được mục đích hoạt động, chiếm
lĩnh được đối tượng, mà còn thể hiện tính tích cực, chủ động của chủ thể.
Trên cơ sở lý luận chung về phát triển con người toàn diện, đồng thời xuất
phát từ yêu cầu của thực tiễn phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, chúng tôi đề xuất một số định hướng và những giải pháp
nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, cụ thể là:
4.1. ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1.1. Phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam
Với chủ trương tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986),
Đảng ta đã khẳng định, phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu cơ bản, vừa
là động lực chủ yếu của cách mạng nước ta. Đồng thời xác định, mọi chính sách
xã hội phải nhằm phát huy vai trò con người, xây dựng và phát triển con người
toàn diện. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), Đảng ta đã xác định rõ: Xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội mà ở đó, “con người được
giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”
116

[29, tr.9]. Chủ trương đó của Đảng ta đã được khẳng định và tiếp tục phát triển, cụ
thể hóa trong các cương lĩnh, nghị quyết ở giai đoạn tiếp theo. Tại Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII, Đảng ta cũng xác định rõ cách mạng Việt Nam “nhằm mục tiêu
tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của
con người” [34, tr.55-56]; tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát huy
tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục
tiêu của sự phát triển” [39, tr.30]. Điều đó cho thấy, Đảng ta luôn coi phát triển
con người toàn diện là bản chất của chế độ ta và là mục tiêu, là động lực của toàn
bộ sự nghiệp cách mạng nước ta. Có thể nói, đây là định hướng mang tính chủ
đạo trong quá trình phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
quốc tế là phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Về thực chất, đó là sự phát triển vì con người, vì cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân lao động Việt Nam.
Việc xác định con người phát triển toàn diện là động lực và hơn nữa là động
lực chủ yếu nhất của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới cho thấy Đảng ta
đã nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của nhân tố con người. Chúng ta đều biết
rằng, trong các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội thì các yếu tố, như đối tượng
lao động, khoa học, nhất là khoa học kỹ thuật và công nghệ, công cụ và phương
tiện lao động không thể thiếu trong quá trình sản xuất, song người lao động mới
là nhân tố quan trọng nhất, quyết định quá trình sản xuất, người lao động cũng
chính là chủ thể của nền sản xuất xã hội. Hơn nữa, hiện nay khi mà loài người
đang phải đứng trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, còn những nguồn
lực khác, như nguồn vốn đang có sức cạnh tranh khốc liệt. Và trong bối cảnh
phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, sự phát triển nhanh chóng của
117

nền kinh tế tri thức, thì nguồn lực con người, nhất là nguồn lực tri thức của con
người trở thành nguồn lực vô tận. Chính vì vậy, sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế
đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc những giá trị lớn lao và ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người, thấy rõ vai trò của con người trong mọi
sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta,
con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn
của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh. Bởi vậy, để đẩy nhanh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
quốc tế ở một nước vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển như nước ta, chúng
ta không thể không phát triển con người Việt Nam thành những con người phát
triển toàn diện. Chỉ với những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, về
khả năng lao động, về tính tích cực chính trị – xã hội, về đạo đức, tình cảm trong
sáng, chúng ta mới có thể đưa sự nghiệp lớn lao đó đến thành công.
4.1.2. Gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới xây dựng đất nước đã cho chúng ta thấy giá
trị to lớn và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, thấy rõ mối quan hệ biện
chứng giữa phát triển con người với phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, chúng ta
phải luôn quán triệt tư tưởng rằng, chiến lược phát triển con người và chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội không thể tách rời. Thực vậy, nội dung các chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã đưa ra đều có sự gắn kết với chiến lược
phát triển con người toàn diện. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm: 2011 - 2020, được thông qua tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền
và lợi ích dân tộc…Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình,
nhà trường…chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có
ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi;
sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính [39, tr.66-67].
118

Đặc biệt, Đảng ta đã coi đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục quốc dân
gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 khâu đột phá
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhận thức sâu sắc về việc gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đúng đắn, hiệu quả, lấy năng suất lao động và chất lượng
cuộc sống của nhân dân làm thước đo cho sự phát triển. Trước hết chúng ta phải
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững
làm nền tảng vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Hơn nữa, chúng
ta còn phải luôn quán triệt, phát triển kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Các mục tiêu kinh tế phải đảm bảo tạo ra một môi trường
xã hội dân chủ, bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi người dân tham gia và hưởng
thụ những thành quả kinh tế; đồng thời đẩy mạnh phát triển văn hóa và không
ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Phát triển con người toàn diện là nhiệm vụ không chỉ có ý nghĩa trực tiếp,
trước mắt, mà còn là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, lâu dài của cách mạng Việt
Nam. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần nhằm
quán triệt tư tưởng chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới
mục tiêu phát triển con người toàn diện - những con người có đủ trí tuệ, bản lĩnh
và sức mạnh đưa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh
tế tri thức đến thắng lợi.
Có thể nói, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội. Song, trước hết đó phải là cuộc cách mạng về con người, phải là cuộc cách
mạng triệt để nhằm mục tiêu xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát
triển toàn diện, giải phóng con người, mang lại hạnh phúc cho con người. Và, thực
hiện chiến lược phát triển con người phải coi việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố
119

con người một cách toàn diện như một cuộc cách mạng – cách mạng về con
người. Chính cuộc cách mạng đó sẽ tạo ra thế hệ con người Việt Nam có đầy đủ
năng lực và phẩm chất để thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội, đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp phát triển, giàu mạnh, văn minh.
4.1.3. Phát triển con người toàn diện là sự nghiệp của toàn dân, của cả
hệ thống chính trị và mọi tổ chức xã hội
Sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay không chỉ là phát
triển những giá trị tốt đẹp của cá nhân con người, mà hơn thế, còn là sự phát
triển con người xã hội, bao gồm toàn thể cộng đồng - nhân dân. Đó là làm cho
mọi tầng lớp, mọi bộ phận dân cư trong toàn thể dân tộc ta có một cuộc sống no
đủ, được học tập, phát triển về năng lực trí tuệ, được lao động, được sáng tạo và
hưởng thụ những thành quả đó. Chúng ta cần phải hướng tới xây dựng một cộng
đồng xã hội mà trong đó, không còn tệ nạn xã hội, bệnh dịch, không áp bức, bóc
lột và quyền con người không bị tước đoạt hay trà đạp…Với tinh thần đó, sự
nghiệp xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện đòi
hỏi phải có sự tham gia của toàn xã hội.
Có thể nói, sự nghiệp cách mạng nào thì nhân dân cũng đều là gốc rễ. Ông
cha ta đã đúc kết rắng: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong. Mỗi người dân trong cuộc sống của mình phải luôn tự ý thức được sự
phát triển của chính mình cũng như trách nhiệm công dân; biết kết hợp hài hoà
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng; phát triển tự do cá nhân gắn với trách
nhiệm xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp, trong đó quan hệ giữa người với
người mang bản sắc văn hoá và tính nhân văn. Bởi như các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác đã khẳng định:
Chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới có được những phương tiện để có
thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có
trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân” và chỉ “trong điều kiện
có cộng đồng thật sự, các cá nhân có được tự do khi họ liên hợp lại và
nhờ sự liên hợp ấy [84, tr.108].
120

Theo tinh thần đó, chỉ có sức mạnh của toàn thể nhân dân mới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong điều kiện nước ta hiện nay, với nền
tảng dân số trên 90 triệu dân, chúng ta là một cường quốc về dân số. Hơn thế,
chúng ta đang trong thời kỳ dân số vàng với trên 60% số dân trong độ tuổi lao
động, vì vậy việc đoàn kết toàn dân tộc, huy động toàn thể sức lực của nhân dân
sẽ tạo thành sức mạnh nội sinh vô cùng lớn lao để thực hiện sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và phát triển con người Việt Nam.
Nhân dân là gốc rễ của cách mạng, mọi thành quả cách mạng đều do nhân
dân làm ra. Song, để sự nghiệp của toàn dân có được thắng lợi thì còn phải phát
huy vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội. Thực tiễn cách
mạng nước ta đã để lại bài học lớn, đó là: sự lãnh của Đảng là nhân tố hàng đầu
đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với vai trò đề ra đường lối, chủ
trương, Đảng ta đã tập hợp lực lượng, phân công nhiệm vụ cho toàn bộ hệ thống
chính trị và xã hội, lãnh đạo thực hiện thắng lợi các đường lối, chủ trương đã đề
ra. Chính vì thế, sự đúng đắn trong các đường lối, chủ trương của Đảng là điều
kiện tiên quyết cho thắng lợi của cách mạng nói chung và sự phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải nhận thức sâu sắc rằng, vai trò tổ chức
thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng là nhân tố đặc biệt quan trọng, nó
gắn liền vai trò của Nhà nước. Các cơ quan, ban ngành của Nhà nước và các
đoàn thể xã hội khác được tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả sẽ tạo động lực
to lớn để toàn thể nhân dân thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mặt khác,
nếu như chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không đúng đắn, sự tổ
chức thực hiện kém hiệu quả sẽ trở thành lực cản to lớn, thậm chí phá vỡ sự phát
triển kinh tế - xã hội và phát triển con người.
Như vậy, việc phát triển con người toàn diện ở nước ta có được thành quả
tốt đẹp hay không đòi hỏi phải có sự đồng thuận và hoạt động hiệu quả của một
thể thống nhất từ Đảng đến Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã cùng toàn thể
121

nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nước Việt Nam giầu mạnh, văn minh. Dân có ấm no, hạnh phúc thì nước
mới mạnh, đồng thời đất nước giàu mạnh cũng tức là hướng tới chăm lo cuộc
sống tốt đẹp cho toàn thể nhân dân.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
với thực tiễn gần 30 năm đổi mới, với thực trạng và định hướng phát triển con
người Việt Nam mà chúng tôi đã nêu trên, để thực hiện thành công chiến lược
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, theo chúng
tôi, chúng ta cần thực hiện hệ thống các giải pháp sau đây:
4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát
triển con người Việt Nam theo những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Xây dựng chiến lược phát triển con người toàn diện là một trong những
vấn đề hết sức cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xây dựng chiến lược này cần phải xác định rõ mục tiêu, phương hướng và
những giải pháp cơ bản cho việc xây dựng con người đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng chiến lược con người phải
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, phù hợp với quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo mục tiêu chiến lược mà Đảng ta đề
ra, chúng ta phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Điều đó cũng có nghĩa là đến khi đó, sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta về cơ bản đã thành công, chúng ta phải
có một nền công nghiệp hiện đại, phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý theo yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về lao động, chúng ta phải chuyển được
đại bộ phận lao động trong nông nghiệp thành lao động trong công nghiệp và
dịch vụ, phải có một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đủ mạnh về số
122

lượng và chất lượng, có khả năng giải quyết được những vấn đề khoa học và
công nghệ mà đất nước đặt ra, phải có một lực lượng công nhân lành nghề đông
đảo và có chất lượng cao. Chính vì vậy, chiến lược phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam phải đề cập đến nhiều mặt, phải có chiến lược về tổ chức,
phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch lao động theo hướng đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phải có chiến
lược phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ và chiến lược xây dựng
đội ngũ công nhân lành nghề. Trên cơ sở chiến lược đó, phải xác định rõ lộ
trình và giải pháp thực hiện một cách phù hợp.
Trong những năm qua, vấn đề chiến lược phát triển con người toàn diện đã
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thường xuyên và trên thực tế, chúng ta
cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, sự phát triển con người
Việt Nam hiện nay vẫn còn mang tính tự phát rất lớn và do vậy, nó đã tạo ra rất
nhiều bất hợp lý trong phát triển con người Việt Nam, cũng vì thế mà nhiều khi,
nhiều nơi, người Việt Nam “bị” phát triển phiến diện. Do đó, hiện nay, vấn đề
xây dựng chiến lược phát triển con người toàn diện và việc tổ chức thực hiện
chiến lược ấy là một vấn đề hết sức cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Chúng ta phải kết hợp chặt chẽ chiến lược phát triển con người toàn diện với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược và các chính sách kinh tế -
xã hội phải hướng tới mục tiêu phát triển con người toàn diện.
4.2.2. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của
con người Việt Nam
Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Thực hiện chiến
lược phát triển con người Việt Nam không thể tách rời công cuộc đổi mới kinh tế
- xã hội đang diễn ra. Gần 30 năm đổi mới từ mô hình kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng. Những thành tựu
đó không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn góp phần nâng cao đời
123

sống vật chất và tinh thần cho quần chúng nhân dân. Song, bên cạnh những kết
quả đã đạt được, cho đến nay, nước ta vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển,
sự phát triển kinh tế - xã hội chưa thật sự bền vững, đời sống người dân còn
nhiều khó khăn.
Để tiếp tục đổi mới nhằm phát triển con người toàn diện đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, theo
chúng tôi, trước hết chúng ta phải kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời
sống tinh thần của con người Việt Nam.
Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người Việt
Nam là một nội dung quan trọng trong sự phát triển con người toàn diện ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ cần phải
“phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng
cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi,
chữa bệnh và nâng cao thể chất…” [39, tr.79]. Trước mắt, chúng ta cần tổ chức
tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn, đảm bảo nâng cao mức thu nhập bình quân
đầu người, nhất là những bộ phận nhân dân có thu nhập thấp. Muốn vậy, chúng
ta phải xây dựng nền kinh tế làm sao tạo nhiều việc làm cho người lao động,
không ngừng phát triển sản xuất vật chất, nâng cao năng suất lao động kết hợp
với việc thực hiện chế độ phân phối hợp lý, thực hiện phân phối phúc lợi xã hội
cho những bộ phận nhân dân khó khăn. Nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân
là nền tảng vững chắc nhất để nhân dân có điều kiện phát triển toàn diện cả về
thể chất, lẫn phát triển về trí tuệ và nâng cao đời sống tinh thần.

Cùng với nâng cao đời sống vật chất, nâng cao đời sống tinh thần, đẩy
mạnh quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc cũng là một trong những giải pháp cơ bản góp phần phát triển con người Việt
Nam hiện đại. Xã hội càng hiện đại, văn minh, nhu cầu tinh thần, văn hoá càng
đòi hỏi phải được đáp ứng. Bởi văn hoá là cái cấu thành “nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”, đồng thời góp
124

phần xây dựng con người Việt Nam với đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh,
trí tuệ tinh thông, đủ sức mạnh tinh thần đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Nhận
thức rõ ý nghĩa của việc này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta
một lần nữa khẳng định chủ trương:

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,…làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát
triển…xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao [39, tr.75-76].

Thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cho thấy, thực trạng đời
sống tinh thần của nhân dân ta tuy có được cải thiện, song vẫn còn nhiều bất cập.
Hiện tượng thiếu thông tin, nhất là vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo hầu như
chưa được hoà nhập thường xuyên với đời sống văn hoá tinh thần trong cả nước.
Về thông tin đại chúng, chúng ta vẫn còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa
kịp thời phát hiện và lý giải được những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra,… Do
vậy, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn phát triển kinh
tế tri thức, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa việc đáp ứng nhu cầu tinh thần
của nhân dân. Nâng cao đời sống tinh thần, trước hết chúng ta phải “kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Vệt
Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại” [39, tr.76].

Quá trình nâng cao đời sống tinh thần, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu
tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển con người toàn diện đòi hỏi phải
gắn liền với sự nghiệp đẩy mạnh quá trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển nhân
cách con người. Những giá trị, những chuẩn mực, khuôn mẫu văn hoá của xã
hội chính là mảnh đất mầu mỡ, là nguồn nuôi dưỡng thế giới tinh thần cho
125

con người. Trong văn hóa, văn học, nghệ thuật là bộ phận trọng yếu, đồng
thời là yếu tố quan trọng góp phần phát triển con người. Văn học, nghệ thuật
có vài trò định hướng phát triển nhân cách con người. Thông qua văn học,
nghệ thuật, con người có thể sàng lọc, chọn lựa giữa những giá trị tốt và xấu,
tiến bộ và phản tiến bộ. Những giá trị đó sẽ thẩm thấu vào tình cảm, ý chí,
niềm tin và hành vi của con người. Vì vậy, chúng ta phải xây dựng và phát
triển nền văn học, nghệ thuật phong phú, đa dạng, trong đó có sự kết hợp giữa
truyền thống với hiện đại. Phải làm cho những giá trị chân, thiện, mỹ của đời
sống con người được chuyển tải qua văn học, nghệ thuật đến đại chúng nhân
dân. Tạo điều kiện cho mọi người dân Việt Nam có thể tham gia vào việc
sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn học, nghệ thuật góp phần phát triển
đời sống tinh thần con người Việt Nam.

Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về
trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong
quan hệ giữa người với người. Phát triển văn hóa vừa là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu của chế độ ta. Bởi vậy, việc giữ gìn, phát
huy bản sắc dân tộc và hiện đại hoá nền văn hoá trong điều kiện đổi mới đất
nước hiện nay là hết sức quan trọng. “Phát triểt văn hóa, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc cũng được coi là quốc sách hàng đầu” [143, tr.9], bởi
“phát triển văn hóa, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không thể
đứng ngoài chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đại” [143, tr.9].
Muốn đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, chúng ta phải thực hiện đồng thời các biện pháp lớn như Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã ghi rõ: Mở rộng cuộc
vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào
“toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; xây dựng, ban hành luật pháp
và các chính sách văn hóa; tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động
văn hóa; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa…
126

4.2.3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có
tính chiến lược trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đó là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế. Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là việc xây dựng một nền kinh tế
đa thành phần, có cơ cấu hợp lý, hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ; tạo nên sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong
sản xuất, kinh doanh, nâng cao tính tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, phát huy
tính chủ động, sáng tạo của con người. Hơn nữa, chính là thông qua cạnh tranh
trên thị trường, nó còn giáo dục con người phải luôn luôn sáng tạo ra những mặt
hàng mới, đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả trong sản xuất,
kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Đặc biệt,
chính thông qua thị trường, người lao động nước ta mới có điều kiện để nâng cao
giá trị sức lao động của mình, nâng tầm giá trị lao động của người Việt Nam,
nhờ đó cho phép chúng ta tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi tất cả mọi
người phải không ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể sáng tạo, tiếp thu
kỹ thuật mới, công nghệ mới, phương pháp quản lý mới; là điều kiện cho người
lao động chuyển đổi căn bản thói quen và tác phong lao động lạc hậu, thụ động
sang tác phong công nghiệp, chủ động, sáng tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
một mặt, với việc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ
cao, hiện đại hóa những khâu then chốt để tạo nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế
sẽ góp phần nâng cao trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến cho người lao động,
góp phần tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Mặt khác,
chúng ta mở rộng những ngành công nghiệp truyền thống, thực hiện công nghiệp
hóa nông nghiệp và nông thôn sẽ giải quyết một vấn đề lớn là tạo nhiều việc làm
127

đáp ứng nhu cầu lao động đông đảo ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa chính là biện pháp hiệu quả nhất để tăng năng suất lao động,
tạo nền tảng vật chất cho xã hội – cơ sở quan trọng nhất cho việc thực thiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội và phát triển con người Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là
từng bước xác lập vị thế làm chủ của nhân dân lao động trong toàn bộ quá trình
sản xuất, kinh doanh. Song, trong chặng đường đầu của công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, thực hiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, người lao
động trong tất cả các lĩnh vực và thành phần kinh tế còn chưa thực sự giữ vai
trò làm chủ, nhiều hiện tượng chèn ép người lao động còn diễn ra, một số giới
chủ tư bản trong và ngoài nước đã tranh thủ và dùng nhiều biện pháp buộc
người lao động làm việc nặng nhọc với đồng lương ít ỏi và điều kiện làm việc
khắc nghiệt. Sự cạnh tranh khốc liệt ở trong nước và quốc tế cũng như những
mặt trái của kinh tế thị trường, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng gây ra
nhiều hệ lụy cho xã hội và người dân. Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường phải
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
Gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Từ những thập niên 80 của thế kỷ XIX trở về trước, chúng ta vẫn thường
đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển và với tiến bộ xã hội. Tăng
trưởng và phát triển kinh tế luôn là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển chung
của xã hội và vì thế, con người cũng được phát triển, có cuộc sống sung túc và
đầy đủ hơn. Tuy nhiên, một con người phát triển toàn diện không chỉ có cuộc
sống no đủ về vật chất, mà còn phải có đời sống tinh thần phong phú, có năng
lực làm chủ và sáng tạo, được sống trong một môi trường lành mạnh, trong
một xã công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội mà ở đó, không có tình trạng áp
bức, bóc lột con người. Trên quan điểm nhận thức mới đó, tại Đại hội VIII,
Đảng ta đã khẳng định:
128

Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải
thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối
kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát
triển và sử dụng tốt năng lực của mình [32, tr.113].

Với quan điểm này, Đảng ta đã khẳng định phát triển xã hội trên nguyên tắc
tiến bộ và công bằng xã hội phải có nền kinh tế phát triển nhanh và biền vững,
chỉ có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững mới có khả năng huy động các
nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là vấn đề
phản ánh bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Hiện nay, vấn đề thực hiện công bằng xã hội là một vấn đề đang nổi lên cần tập
trung giải quyết. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, đương nhiên,
chúng ta phải chấp nhận tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân hóa trong điều
kiện tham gia lao động và hưởng thụ giá trị lao động (cả giá trị vật chất lẫn tinh
thần). Nhưng ở nước ta, quá trình phân hóa đó diễn ra một cách quá nhanh chóng
và khắc nghiệt. Vấn đề dẫn đến mất công bằng xã hội có rất nhiều nguyên nhân
khác nhau, như cơ chế, chính sách không hợp lý, pháp luật thiếu đồng bộ và
không nghiêm minh, quản lý của Nhà nước có nhiều sơ hở, v.v.. Chính vì vậy,
để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết một cách đồng bộ hàng
loạt các giải pháp liên quan đến chính sách, đến pháp luật, đến cơ chế quản lý,
trước hết là “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển” [38, tr.101]. Để thực hiện điều đó, chúng ta cần:

Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vị cả
nước, ở từng lĩnh vực, địa phương…, thực hiện tốt các chính sách xã
hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến
và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển
kinh tế - xã hội” [38, tr.101], “tập trung giải quyết những vấn đề xã hội
bức xúc” [38, tr.101].
129

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phải đảm bảo các quyền cơ bản của
nhân dân, một khi các quyền cơ bản của nhân dân không được thực hiện thì
không thể có tiến bộ và công bằng xã hội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định quyền con người, trước hết là quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những quyền hết sức thiêng liêng và cơ bản
của con người. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, một mặt, do cơ chế quan
liêu, bao cấp vẫn còn tồn tại ít nhiều; mặt khác, do tác động mạnh mẽ của mặt
trái trong kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa làm cho một bộ phận nhân
dân bị chèn ép, chà đạp; một số nơi, một số lúc, một số lĩnh vực người dân bị
tước quyền, như quyền lao động và hưởng thụ giá trị lao động, quyền sản xuất,
kinh doanh, quyền tự do ngôn luận, quyền sinh sản,…Hơn nữa, do trình độ nhận
thức và thực tiễn hạn chế nên một số người dân tự đánh mất quyền của mình.
Để đảm bảo quyền con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trước
hết Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, chính dách đúng đắn trong
mọi mặt của đời sống xã hội và phải xây dựng hành lang pháp lý tạo ra cơ chế
cho việc thực hiện các quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, nhân dân cũng
phải đứng trên mặt trận đấu tranh để đảm bảo quyền cho chính mình. Hơn
nữa, chúng ta phải thực hiện tốt cam kết quốc tế về quyền công dân. Thực
hiện các quyền cơ bản của nhân dân là điều kiện quan trọng để giải phóng và
phát triển con người toàn diện.
4.2.4. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm
phát triển chất lượng con người Việt Nam
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo là nhân tố quyết định đến
phát triển chất lượng con người Việt Nam, là yếu tố đóng vai trò bậc nhất trong
việc xây dựng con người Việt Nam mới - con người phát triển toàn diện.

Sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo ở nước ta xuất phát từ mặt bằng dân
trí còn thấp, điều kiện kinh tế và hạ tầng xã hội còn chưa cao; chúng ta lại đang
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc
130

tế, nên sự nghiệp đó lại càng đứng trước những yêu cầu mới cao hơn. Hơn nữa,
những nỗ lực trong chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo chưa đạt được kết
quả như mong đợi, nhiều yếu kém, bất cập trong giáo dục - đào tạo chưa được
giải quyết, đổi mới, làm cho chất lượng con người Việt Nam chưa có tốc độ phát
triển tương xứng với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng nước ta trong thời kì mới.
Chính vì vậy, việc làm khẩn thiết lúc này là chúng ta phải đẩy mạnh thực hiện
chủ trương của Đảng trong đột phá về giáo dục - đào tạo, nhanh chóng thực hiện
thành công chiến lược của Chính phủ về đổi mới căn bản và toàn diện giáo – dục
đào tạo 10 năm 2011 – 2020.

Đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo là một nội dung phong phú, song nó
được hiểu là đổi mới hệ thống giáo dục; đổi mới về mục tiêu, nội dung, chương
trình, sách giáo khoa - giáo trình; đổi mới các cấp bậc học và các loại hình giáo
dục; đổi mới công tác tài chính trong giáo dục; đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật
của hoạt động giáo dục - đào tạo; đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới nội dung, phương pháp
dạy và học theo định hướng lấy người học làm trung tâm. Tập trung nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ thuật thực hành, khả năng lập nghiệp. Như vậy, đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục - đào tạo thực chất là nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao, phát triển con người Việt Nam về chất lượng, vừa có đức, vừa có tài, phát
triển cả về đức, trí, thể, mỹ nhằm đáp ứng với đòi hỏi của thời đại mới.

Để thực hiện thắng lợi chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào
tạo chúng ta phải “thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo” [39, tr.216]. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin đề xuất
một số biện pháp sau đây:

Thứ nhất, quán triệt quan điểm “phát giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”
Từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1997), Đảng ta đã coi phát triển
giáo dục là “quốc sách hàng đầu”. Điều này đã được chúng ta triển khai thực
131

hiện cả trên bình diện lý luận và thực tiễn. Chúng ta cũng đã đạt được những
thành tựu to lớn. Tuy nhiên, trong tình hình mới, đất nước đang trong thời kì
đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, vì thế phạm trù “giáo dục là quốc sách hàng đầu” cần phải
được hiểu sâu sắc hơn nữa, phải thấy rằng đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu
tư cho nhân tố con người, đầu tư cho sự phát triển. Chính vì vậy, chúng ta cần
huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo. Trước tiên, chúng ta
phải tăng cường nguồn đầu tư ngân sách cho giáo dục - đào tạo, nâng mức đầu
tư ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo lên trên 20%/năm; đồng thời huy
động các nguồn lực xã hội khác cho phát triển giáo dục - đào tạo. Thực hiện
huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn nguồn đầu tư cho giáo dục - đào
tạo; đầu tư phải tập trung và hiệu quả, không bình quân, dàn trải. Có chính sách
đảm bảo nguồn lực tài chính cho các cơ sở giáo dục Việt Nam đủ sức cạnh
tranh bình đẳng với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra chúng ta
cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong
và ngoài nước trong việc đầu tư phát triển đào tạo nhân lực.

Thứ hai, thực hiện xã hội hóa giáo dục kết hợp với xây dựng mô hình giáo
dục chất lượng cao; kết hợp nâng cao dân trí với bồi dưỡng và sử dụng nhân tài

Thực hiện điều này tức là chúng ta cần phát triển giáo dục - đào tạo theo cả
chiều rộng lẫn chiều sâu. Một mặt, chúng ta phải tạo ra một xã hội học tập, phổ
cập giáo dục ngày càng cao, mở rộng một cách hợp lý hệ thống giáo dục ở tất cả
các cấp học, bậc học, các trường bán công, dân lập, trường công…, trong đó các
trường công lập phải là nòng cốt. Tạo mọi điều kiện để cho mọi người được lựa
chọn cách học phù hợp với các hình thức đào tạo từ xa, tập trung, không tập
trung..., xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, tạo điều kiện và thu hút
mọi thành viên trong xã hội có thể tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục -
đào tạo nhằm nâng cao dân trí. Hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người
học được ưu tiên thông qua các phúc lợi về học bổng, học phí, tín dụng và mở
132

rộng hệ thống đào tạo dự bị cho học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số và
thuộc diện chính sách xã hội; hỗ trợ đặc biệt cho người khuyết tật, trẻ em các dân
tộc thiểu số ít người, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV và trẻ em lang thang đường
phố. Chúng ta cần hiểu rằng việc đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo như vậy,
không chỉ là công việc của Đảng và Nhà nước mà còn là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân; cần phải kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong đổi
mới và phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo nước nhà.
Mặt khác, giáo dục - đào tạo cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Chúng ta
phải coi trọng giáo dục đại học và học nghề, giáo dục đại học và học nghề cần
phải trở thành trung tâm nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên
tiến, nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội;
thực hiện phân tầng chất lượng giáo dục, xây dựng và phát triển các chương
trình, mô hình, cơ sở giáo dục tiên tiến, chất lượng cao; phát triển hệ thống các
trường phổ thông chuyên; thực hiện phân tầng các cơ sở giáo dục đại học theo
hướng nghiên cứu, định hướng thực hành và định hướng ứng dụng; thực hiện
xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học. Hơn nữa, phải có chính sách đào tạo, bồi
dưỡng và trọng dụng nhân tài: chú trọng đến việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng
và đãi ngộ tài năng nhằm thu hút nhân tài phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Thứ ba, đổi mới công tác quản lý giáo dục
Công tác quản lý giáo dục - đào tạo là hết sức quan trọng. Nhưng chính
công tác quản lý giáo dục - đào tạo là khâu đổi mới khó khăn nhất và chậm chạp
nhất. Sự bất hợp lý và yếu kém ở nhiều khâu, nhiều nơi trong hệ thống giáo dục
đang đặt ra cho chúng ta một nhiệm vụ là cần phải có những đổi mới có tính đột
phá thực sự nhằm khắc phục những hậu quả của cả một nền giáo dục “cũ”, tạo ra
một bộ mặt mới cho nền giáo dục nước nhà. Trước tiên, chúng ta phải đổi mới
trong xây dựng luật giáo dục, luật giáo dục phải thực sự khoa học và sát thực để
tạo ra một hành lang pháp lý, đảm bảo cho hoạt động giáo dục - đào tạo ổn định
cả về qui mô, chất lượng, hiệu quả; ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học giáo
133

dục; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng và triển khai, cung
cấp những luận cứ khoa học phục vụ đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục,
quản lý cơ sở giáo dục và quá trình dạy học; tập trung vào quản lý chất lượng
giáo dục: chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng, công khai về chất lượng
giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục; thực
hiện đánh giá chuẩn quốc gia và tham gia đánh giá quốc tế về giáo dục.
Thứ tư, nội dung và phương pháp dạy và học phải hướng đến sự phát triển
con người toàn diện
Trên quan điểm giáo dục nhằm xây dựng con người Việt Nam mới - phát
triển toàn diện, nội dung dạy và học phải vừa đảm bảo tính khoa học vừa đảm
bảo tính thực tiễn (nói cách khác là tính thời sự). Trước hết, phải chú trọng đào
tạo trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống, trình độ khoa
học, công nghệ tiên tiến; đồng thời giáo dục - đào tạo phải hướng tới khơi dậy
niềm tự hào và tự tôn dân tộc, đẩy mạnh giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục
truyền thống đạo đức, văn hóa. Theo quan điểm của Đảng, chúng ta phải:
Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng - đạo đức, lòng yêu
nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh
vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và với từng bậc học. Coi trọng hơn
nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử dân
tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam [33, tr.40].
Đến Đại hội Đảng XI, Đảng ta tiếp tục đề ra mục tiêu phải “nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền
thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống” [39, tr.216].
Đổi mới phương pháp dạy và học theo định hướng coi trọng việc bồi
dưỡng năng lực tự học của học sinh ở tất cả các cấp. Việc đổi mới phương pháp
dạy và học nhằm phát huy mạnh mẽ tính tích cực của người học là một nhiệm
vụ có ý nghĩa vô cùng to lớn và luôn mang tính thời sự trong hoạt động giáo
dục và đào tạo của nước ta. Do đó, Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020
134

chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập,
rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và
năng lực tự học của người học”. Và chỉ khi phát huy được tính tích cực, chủ
động của người học thì mới có thể phát triển toàn diện năng khiếu và năng lực
của người học.
Thứ năm, chăm lo đến đội ngũ nhà giáo gắn với hiện đại hóa cơ sở vật chất
phục vụ giáo dục - đào tạo
Yếu tố đóng vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục - đào tạo là đội ngũ
giáo viên, vì vậy giáo viên phải có đủ đức, tài. Vấn đề là làm sao để khắc phục
tình trạng giáo viên vừa thiếu, vừa yếu về năng lực như hiện nay? Để khắc phục
tình trạng đó và để giáo viên có đủ đức, đủ tài, theo chúng tôi, cần phải thường
xuyên bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học; phải
kết hợp có hiệu quả giảng dạy với nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho nhà giáo; cần phải có chính sách lương hợp lý để
giáo viên đủ sống bằng nghề của mình, chuyên tâm vào việc nâng cao chất lượng
giảng dạy. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới trong việc chăm
lo đến đội ngũ giáo chức, tuy nhiên sự chăm lo đó chưa thực sự tương xứng với
nhu cầu phát triển, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo còn thấp, làm cho đời
sống giáo chức còn nhiều khó khăn. Hơn nữa, những tác động của kinh tế thị
trường làm cho không ít nhà giáo mất động lực cống hiến, sự chảy máu chất xám
trong giáo dục vì thế đang trở thành vấn đề thời sự. Do vậy, phải có chế độ đãi
ngộ thích đáng nhằm thu hút các nhà khoa học, các giảng viên giỏi trong và
ngoài nước tham gia nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học, có chính
sách đặc biệt thu hút học sinh giỏi theo học ngành sư phạm.

Một nền giáo dục tiên tiến đòi hỏi phải có trang thiết bị hiện đại, vì vậy việc
hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giáo dục - đào tạo cũng hết sức cần
thiết. Chúng ta cần thực hiện xây dựng, mua sắm và chuyển giao trang thiết bị,
công nghệ hiện đại cho giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục
135

nghề, tạo điều kiện cho việc áp dụng nội dung và phương pháp dạy - học tiên
tiến. Hơn nữa, ở vùng sâu, xa, vùng dân tộc thiểu số, nhiều nơi thiết bị giáo dục
thiếu thốn, lạc hậu; trường lớp đơn sơ, vì vậy phải có chính sách ưu tiên đầu tư
phát triển cho những nơi này có cơ sở trường lớp khang trang, sạch đẹp, thực
hiện xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao dân trí cho đồng bào.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo

Trong những năm gần đây, chính sách mở cửa, hội nhập trong giáo dục -
đào tạo đã tạo điều kiện cho chúng ta lĩnh hội được nhiều thành tựu của những
nền giáo dục phát triển. Song thành quả đạt được chưa thực sự tương xứng với
tiềm năng và nhu cầu phát triển. Vì thế, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới
trong hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo nhằm tận dụng những yếu tố ngoại
lực về khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và nguồn đầu tư cho
giáo dục – đào tạo; kết hợp chính sách đưa nhiều du học sinh nước ta đi học tập
ở những môi trường giáo dục tiên tiến với thu hút nhiều du học sinh nước ngoài
sang học tập tại Việt Nam. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước nhà trở thành một
nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục - đào tạo tiên
tiến là điều kiện cơ bản để phát triển chất lượng con người Việt Nam.

4.2.5. Tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
tốt đẹp gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong
con người Việt Nam

Đạo đức luôn giữ một vị trí hàng đầu trong bậc thang giá trị của con người
Việt Nam. Nền tảng đạo đức của xã hội Việt Nam là một trong những yếu tố cơ
bản cấu thành và làm nên cốt cách, bản sắc tinh thần phong phú, tốt đẹp của con
người Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống là kết quả của quá trình hình thành
và phát triển lâu dài của lịch sử dân tộc. Những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp luôn có tác động to lớn điều chỉnh nhận thức và hành vi cá nhân cũng như
những quan hệ xã hội theo hướng đạt tới những giá trị chân, thiện, mỹ.
136

Trong giai đoạn hiện nay, sự tác động mang tính hai mặt của các yếu tố thời
đại đang đặt ra yêu cầu phải phát huy mạnh mẽ vai trò của giá trị đạo đức truyền
thống trong việc xây dựng con người Việt Nam mới có bản lĩnh, có lối sống
nhân văn; có nhân cách vừa mang bản sắc dân tộc, vừa hiện đại. Phải làm cho
những giá trị truyền thống tốt đẹp như: Tinh thần yêu nước, hiếu học, tinh thần
đoàn kết, thủy chung, lòng dũng cảm, tinh thần kiên cường bất khuất, yêu lao
động và khát vọng yêu chuộng hòa bình...thấm nhuần trong con người Việt Nam
mới, nhất là thế hệ trẻ Việt Nam. Những giá trị đó là ngọn nguồn, là động lực
tinh thần giúp con người Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững khí
phách và bản lĩnh trong bối cảnh mới của thời đại. Bên cạnh đó, trong thời đại
mới hiện nay, những giá trị như: lý tưởng và lối sống nhân đạo, vẻ đẹp tâm hồn,
hoà bình - hoà hợp, bình đẳng - công lý, nhân quyền, dân quyền, lòng nhân ái,
lòng vị tha, yêu thiên nhiên, sự lương thiện, thận trọng, sáng tạo, công bằng,
sòng phẳng, tự giác, tự trọng…Cần phải được tiếp nhận và phát huy trong con
người Việt Nam mới.

Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp trong con người
Việt Nam mới cũng đồng nghĩa với việc phải thường xuyên đấu tranh loại trừ ra
khỏi đời sống xã hội và con người Việt Nam những hiện tượng đạo đức hủ bại
kết hợp với việc chống lại những đạo đức và văn hóa mới phản tiến bộ, trái với
các chuẩn mực của xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Cùng với kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, việc
tăng cường giáo dục niềm tin và lý tưởng cách mạng trong con người Việt Nam
mới là điều hết sức cần thiết. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa tư bản đang có những thay đổi để tiếp tục phát
triển; công cuộc đổi mới ở nước ta mặc dù có những thành quả to lớn, song
nhiều yếu kém, bất cập cũng đã bộc lộ. Tất cả những vấn đề đó tác động làm
cho một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ đang bị mất
phương hướng, giảm sút niềm tin vào chế độ, trở nên thiếu tính định hướng
137

trong nhận thức và hành động; chệch hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là
chệch hướng trong nhận thức và tư tưởng đã trở thành một trong bốn thách
thức lớn nhất của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Để giải quyết
vấn đề này là một công việc lớn gắn liền với sự nghiệp cách mạng chung của
dân tộc. Song trước hết, chúng ta phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư
tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tinh thần trong đời sống xã hội và
của mọi người dân Việt Nam.
Để thực hiện tốt việc kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong con
người Việt Nam mới phải có sự kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục. Công tác
giáo dục phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; kết hợp giữa
giáo dục bằng các chương trình chính thống kết hợp với thông tin đại chúng để
thường xuyên tuyên truyền đến mọi người dân về những giá trị lý luận và thực
tiễn tốt đẹp trong lịch sử cũng như những giá trị tiên tiến, văn minh của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Mặt khác, phải
phát huy tinh thần tự giáo dục, mỗi con người Việt Nam phải thường xuyên tu
dưỡng và rèn luyện đạo đức, niềm tin, lý tưởng cách mạng; biết chắt lọc lấy những
giá trị tốt và tiến bộ, làm cho tâm hồn của mình được trong sáng; mọi hoạt động
nhận thức và thực tiễn phải luôn nhằm đạt tới giá trị chân, thiện, mỹ.
4.2.6. Xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát hiệu quả hệ thống chính
sách xã hội vì mục tiêu phát triển con người toàn diện

Trong hoạt động sống và phát triển của con người luôn chịu tác động của
một hệ thống các vấn đề như tự nhiên, điều kiện kinh tế, môi trường xã hội, môi
trường văn hóa…Trong đó, bên cạnh yếu tố tác động từ tăng trưởng kinh tế, thì
những vấn đề như việc làm, đói nghèo, bệnh dịch, sức ép dân số, tệ nạn xã hội,
tai nạn…có tác động rất lớn đến đời sống dân cư. Vì vậy, giải quyết các vấn đề
trên một cách hiệu quả sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển người
dân ở một đất nước. Kinh nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy, sở dĩ họ có
138

được thành tựu bền vững trong phát triển con người, ngoài việc phát triển kinh
tế, các quốc gia này rất quan tâm đến việc xây dựng và thực hiện tốt các chính
sách xã hội. Bởi vì hệ thống chính sách xã hội dựa trên nền tảng cốt lõi nhất là
coi trọng yếu tố con người và phát huy đến mức cao nhất tiềm năng con người,
đảm bảo các yếu tố liên quan trực tiếp đến lợi ích trong cuộc sống thường nhật
của người dân, như: mọi người có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống,
được học hành, được chăm sóc sức khỏe; được bình đẳng giữa thành thị và nông
thôn, giữa lao động trí óc và chân tay, giữa nam và nữ, giữa người giàu và người
nghèo, giữa những người có điều kiện thuận lợi với những người khó khăn, bất
lợi….Vì lý do như vậy, trong hệ thống các giải pháp phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam, việc xây dựng và thực hiện tốt các chính sách xã hội đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng.

Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, ngay từ ngày đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
đã rất chú trọng đến xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội nhằm đảm
bảo mục tiêu phát triển kinh tế phải đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta đã chỉ rõ: Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế
quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội,…thái độ coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình cách mạng tiếp
theo, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực
to lớn cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và phát triển con người Việt Nam.
Tại Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn,
công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [39, tr.79].

Trên cơ sở quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành và tổ
chức thực hiện nhiều chính sách xã hội và đã gặt hái nhiều thành công, bước đầu
cải thiện căn bản đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Song, như
chúng tôi đã phân tích trong chương 3, thực trạng về sự bất cập và yếu kém trong
139

nhiều vấn đề xã hội đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của nhân dân, kìm hãm
sự phát triển con người Việt Nam. Chính vì vậy, theo chúng tôi, Đảng và Nhà
nước ta tiếp tục nhanh chóng đẩy mạnh việc xây dựng và tổ chức thực hiện một
cách hiệu quả hệ thống các chính sách xã hội, nhằm khắc phục những yếu kém,
bất cập về xã hội và tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Hệ thống
chính sách thì rất nhiều, bên cạnh một số chính sách đã được đề cập trong
chương này, theo chúng tôi, chúng ta cần thực hiện tốt một số chính sách sau:
Một là, tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc
gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc làm,
không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể
giúp người dân bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Hơn nữa, ở nước ta
với dân số đông, lực lượng lao động dồi dào (với khoảng 60 triệu lao động),
chúng ta cần có chính sách hợp lý để tận dụng thời kỳ “dân số vàng” góp phần
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước. Mặt khác,
số lao động thất nghiệp cao, lực lượng lao động nông nhàn nhiều, trong đó thanh
niên chiếm tỷ lệ cao, nếu không có chính sách lao động, việc làm và thu nhập
hợp lý sẽ dẫn tới nhiều tiêu cực trong xã hội, kìm hãm sự phát triển con người.
Để giải quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động, theo chúng tôi, Đảng và
Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược việc làm nhằm giải quyết
công ăn việc làm, giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập cho người lao
động. Đây là biện pháp mang tính tổng quát.
- Xây dựng, bổ sung luật lao động, luật việc làm nhằm điều chỉnh đến thị
trường lao động, việc làm.
- Phát triển kinh tế và xây dựng cơ cấu kinh tế vĩ mô hợp lý tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người lao động; có chính sách ưu tiên giải quyết việc làm
cho người dân nông thôn, miền núi, dân tộc thiểu số và thanh niên.
140

- Có chính sách tài khóa, tiền tệ như: hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển,
hoàn chỉnh chính sách tiền lương và thu nhập theo hướng ổn định cuộc sống cho
người lao động.
- Có chính sách phát triển dịch vụ lao lao động, việc làm. Thông tin rộng rãi
đến mọi người dân về cung cầu lao động để người dân biết.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề, nâng cao chất lượng người lao động để đáp ứng
thị trường lao động ngày càng cạnh tranh khắc nghiệt.
- Thực hiện các chính sách hợp tác quốc tế sâu rộng về lao động, việc làm.
Hai là, thực hiện tốt chính sách bảo đảm an sinh xã hội, nhất là chính sách
xóa đói, giảm nghèo
Chính sách an sinh xã hội, trong đó có việc xóa đói giảm nghèo được cộng
đồng thế giới hết sức quan tâm. Đối với các nước chậm và đang phát triển, vấn
đề này càng trở nên hết sức quan trọng, nó có tác dụng bảo đảm cho người dân
có cuộc sống ổn định hơn, tránh những rủi ro bất thường và kịp thời khắc phục
những khó khăn của người dân, nhất là người thu nhập thấp, người nghèo và
người có hoàn cảnh khó khăn. Để thực hiện tốt chính sách này, Đảng và Nhà
nước phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa
dịch vụ bảo hiểm xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân tiếp cận với các dịch
vụ bảo hiểm, nhất là các bảo hiểm thiết yếu, như: bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp; thực hiện thanh tra, kiểm tra cơ chế và quy trình thực hiện bảo hiểm xã
hội và xử lý nghiêm minh đối với những vi phạm về bảo hiểm xã hội; trợ giúp và
cứu trợ kịp thời đối với mọi thành viên trong xã hội, nhất là người nghèo, người
có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn; chăm lo tốt hơn nữa về vật chất và tinh thần
cho người có công, gia đình chính sách.

Tập trung triển khai có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo, nhất là đối
với các đồng bào vùng sâu, xa, vùng đặc biệt khó khăn; đa dạng hóa các nguồn
lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông
thôn; phát triển giáo dục - đào tạo nghề và giải quyết việc làm để xóa đói, giảm
141

nghèo bền vững; tạo điều kiện, khuyết khích người nghèo thoát nghèo chính
đáng và giúp đỡ người khác thoát nghèo; tham gia hợp tác quốc tế, nhất là với
các tổ chức IMF, UNDP, WB,….

Ba là, thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và chính sách kế hoạch hóa gia đình

Sức khỏe là vốn quý nhất của con người và của xã hội. Đất nước lại ta đang
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vì thế,
con người Việt Nam phải có bước phát triển nhanh về thể lực để đáp ứng với sự
đòi hỏi của thời đại mới. Và vì vậy, công tác chăm sóc sức khỏe con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay là một nhiệm vụ vừa mạng ý nghĩa bức thiết vừa
mang ý nghĩa chiến lược.

Để công tác này đạt hiệu quả, Đảng và Nhà nước cần tập trung giải quyết
tốt các nhiệm vụ sau:

- Tăng cường đầu tư cho phát triển y tế, tăng tỷ lệ chi ngân sách hàng năm
cho y tế, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân
chung của ngân sách nhà nước, phấn đấu đạt ít nhất 10% tổng chi ngân sách nhà
nước dành cho y tế; từng bước thực hiện phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ
sở y tế một cách hợp lý; ưu tiên đầu tư cho chăm sóc sức khoẻ người có công,
người nghèo, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, nhân dân ở vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn; phát triển đa dạng và hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế, bao
gồm: y tế công, tư, y tế dự phòng, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám
định y khoa, pháp y…phát triển y tế cộng đồng; xây dựng, mua sắm trang thiết
bị y tế hiện đại; ngăn ngừa những bệnh, dịch truyền nhiễm, bệnh nguy hiểm,
như: ung thư, HIV…; phát triển công nghiệp dược trong nước, phấn đấu thuốc
sản xuất trong nước đáp ứng 70% tổng giá trị thuốc sử dụng vào năm 2015 và
80% vào năm 2020; tăng cường quản lý chất lượng thuốc và sử dụng thuốc an
toàn, hợp lý, khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước; phát triển nhân
142

lực y tế, trong đó chú trọng nâng cao trình độ cán bộ y tế và giáo dục y đức; tăng
cường hợp tác quốc tế trong việc học tập, ứng dụng và chuyển giao công nghệ y
tế; phát triển hệ thống thông tin y tế từ trung ương đến địa phương, đẩy mạnh
các hoạt động truyền thông để giáo dục sức khỏe tại cộng đồng.

- Chú trọng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, nhất là
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em gia đình nghèo, vùng sâu, xa, vùng dân
tộc thiểu số, vùng có nhiều khó khăn; đẩy lùi nguy cơ xâm hại trẻ em, nhất là
bạo lực trẻ em, bạo lực gia đình; chống nạn buôn lậu trẻ em, phụ nữ; triển
khai thực hiện hiệu quả chiến lược quốc gia về bất bình đẳng giới, tạo điều
kiện cho phụ nữ được phát triển về cả thể chất, trí tuệ lẫn công tác xã hội và
đời sống tinh thần.

- Thực hiện hiệu quả chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, duy trì
mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con, đảm bảo cân bằng tỷ lệ giới tính khi
sinh; tổ trức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động toàn xã hội tham gia
vào công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình; có chính sách phân bố dân cư hợp
lý, tiếp tục thực hiện di dân làm kinh tế mới; thực hiện chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình hiệu quả là yếu tố quan trọng cho mọi thành viên trong gia
đình và xã hội có điều kiện phát triển.

- Bên cạnh đó, để chăm sóc sức khỏe nhân dân chúng ta cần phải thực hiện
một số các nhiệm vụ khác, như: Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, biến
đổi khí hậu; cung cấp đủ nước sạch cho nhân dân; phòng chống tai nạn lao động,
tai nạn giao thông, đuối nước, tự tử, bệnh nghề nghiệp; giảm tỷ lệ người hút
thuốc lá, uống rượu bia; thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm; nhanh chóng đẩy
lùi các tệ nạn xã hội, như: mua bán dâm, ma túy, bạo lực học đường…

Thực tiễn cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện chính sách xã hội không
chỉ là vấn đề hết sức cấp thiết mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc
thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển con người toàn diện ở nước ta.
143

Bốn là, tiếp tục phát huy dân chủ kết hợp với tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa là yếu tố cơ bản trong phát triển con người toàn diện
Để phát triển con người toàn diện, một vấn đề quan trọng nữa là phải phát
huy quyền dân chủ của nhân dân. Việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân là
một trong những động lực mạnh mẽ để khơi dậy nhiệt tình cách mạng, phát huy
tính chủ động, năng lực sáng tạo của con người và từ đó mới có thể tạo ra những
con người có khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải làm sao đảm bảo tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Xác lập quyền lực của nhân dân, trước hết chúng ta
phải đảm bảo nhân dân lao động làm chủ kinh tế, quyền làm chủ các quá trình
sản xuất, từ khâu sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức, quản lý đến khâu phân phối
sản phẩm do mình làm ra. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động chỉ được
bảo đảm và tăng cường khi quyền lực kinh tế của họ được xác lập và ngày càng
củng cố vững chắc. Đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân đòi hỏi chúng ta
phải làm cho nhân dân tham gia vào mọi công việc của đất nước, từ quyền bầu
cử, bãi miễn; thông qua các hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, nhân
dân thực hiện việc quản lý xã hội, giám sát mọi hoạt động cũng như chống tình
trạng lộng quyền, cửa quyền của cán bộ và các cơ quan Đảng và nhà nước.
Phát huy dân chủ làm cho mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Công chức phải hoàn thành
tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân, không “hành” dân. Mặt khác, không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm về
quyền và nghĩa vụ của công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của
nhân dân. Có cơ chế để nhân dân thực hiện dân chủ trực tiếp, thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở; chống tập trung quan liêu, dân chủ hình thức; quan tâm hơn
nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người.
Dân chủ không phải là hoạt động một cách tuỳ tiện, mà phải sống và làm
việc theo pháp luật, vì vậy dân chủ phải gắn liền với tăng cường pháp chế xã hội
144

chủ nghĩa. Đương nhiên, không phải bất cứ pháp luật nào cũng đảm bảo quyền
tự do, dân chủ cho nhân dân, mà phải là pháp luật xã hội chủ nghĩa, pháp luật
“của dân, do dân và vì dân”. Việc không ngừng hoàn thiện và thực hiện nghiêm
minh pháp luật xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo
thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân và đó cũng là một yếu tố cơ bản
đảm bảo phát triển con người Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong công cuộc đổi
mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoàn thiện hiến pháp,
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Về lĩnh vực này, chúng ta cũng
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song nhiều vấn đề xã hội bức xúc đang
đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán, nghiêm trị những hành vi làm mất an
ninh, tật tự, an toàn xã hội; đặc biệt là hành vi cửa quyền, lộng quyền, tham
nhũng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; tôn trọng và thực hiện
các luật, thực hiện tốt các điều ước quốc tế về quyền con người.
Như vậy, mở rộng phát huy dân chủ, kết hợp với tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, thực chất cũng chính là nhằm đảm bảo cao nhất quyền và lợi ích
của nhân dân, thực hiện tốt vấn đề này là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc
bảo đảm cho sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
145

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển con
người Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, điều tiên quyết là phải đề ra
được những định hướng đúng đắn. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra ba định hướng
cơ bản, gồm các định hướng:
Thứ nhất, phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, phát triển con người toàn diện là sự nghiệp của toàn dân, của cả
hệ thống chính trị và mọi tổ chức xã hội.
Trên cơ sở những định hướng cơ bản đó, cần phải có một hệ thống các giải
pháp và biện pháp thiết thực, hiệu quả, khả thi để có thể nhanh chóng áp dụng
trong thực tiễn, nhằm thúc đẩy nhanh sự nghiệp phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam. Trước hết, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển con
người Việt Nam theo những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
2. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con người
Việt Nam.
3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội.
4. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm phát triển
chất lượng con người Việt Nam.
5. Tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong con người
Việt Nam.
146

6. Xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát hiệu quả hệ thống chính sách xã
hội nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện.
Sự thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả những định hướng và giải pháp
trên là điều kiện đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp phát triển con người toàn diện
ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
147

KẾT LUẬN

1. Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, vấn đề con người đều được nhiều
nhà khoa học, cũng như nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Và dù ở
lĩnh vực khoa học nào thì các học giả đều hướng tới một mục tiêu cơ bản là làm
sao để con người được phát triển. Sự ra đời của học thuyết Mác là một bước
ngoặt vĩ đại trong nghiên cứu về con người và phát triển con người toàn diện.
Đứng trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng, học thuyết Mác đã luôn
xem xét và đặt con người trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội và tự nhiên. Ở trong mối quan hệ đó, con người vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử - xã hội; nhờ và bằng hoạt động nhận thức và
thực tiễn của mình, con người đã sáng tạo ra lịch sử - xã hội và cũng chính trong
lịch sử - xã hội đang phát triển đó, con người sẽ được tự do và phát triển. Với
quan niệm đó, học thuyết Mác đã trở thành học thuyết về con người, trong đó sự
phát triển con người toàn diện là một nội dung cốt lõi.
2. Kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về phát triển con người
toàn diện vào thực tiễn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định muốn có chủ
nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa – Con người Việt Nam mới,
phát triển toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”; rằng sự giải phóng và phát triển
con người là bản chất của chế độ ta. Với lập trường quan điểm như vậy, trong
vai trò của người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách đúng đắn, đồng thời triển khai trong thực tiễn nhằm phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam. Và những thành quả đạt được trong sự
nghiệp cách mạng này là hết sức lớn lao.
3. Lấy học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện làm nền tảng lý luận, làm cơ sở phương pháp luận và làm kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Ngay từ những ngày đầu bắt tay vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định lấy sự phát triển con người
toàn diện làm mục tiêu phấn đấu cao nhất, làm nền tảng để xây dựng chế độ xã
hội mới. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã làm tất cả những gì cần làm để
148

đạt mục tiêu ấy. Hiện nay, hơn lúc nào hết, phát triển con người Việt Nam mới –
con người phát triển toàn diện được Đảng ta hết sức quan tâm và coi đó là một
trong những vấn đề mang tính đột phá chiến lược của cách mạng Việt Nam.
4. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển con
người Việt Nam mới - con người phát triển toàn diện, trong những năm đổi mới
vừa qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển con
người Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển chưa cao,
song con người Việt Nam đã có sự phát triển nhất định cả về thể lực, trí lực và
tâm lực. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong các lĩnh vực xoá đói
giảm nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân là rất đáng tự hào, thể hiện sự đúng đắn
trong đường lối, chủ trương của Đảng và trong chính sách của Nhà nước ta.
Đồng thời đó cũng là kết quả phản ánh sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, cũng
như toàn thể nhân dân ta trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, sự
phát triển của con người Việt Nam hiện nay còn chưa tương xứng với nhu cầu
của sự phát triển, và còn chậm so với các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới. Hơn thế, một số vấn đề yếu kém, tiêu cực trong đời sống, trong kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn chậm được khắc phục và đang là trở lực lớn đối với sự phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam.
5. Trong bối cảnh của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức ngày càng cao như
hiện nay, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam càng phải được ưu
tiên hàng đầu. Trước hết, trên cơ sở thực trạng phát triển con người Việt Nam
hiện nay, nhất là những vấn đề mang tính cấp thiết đang đặt ra đối với sự phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam, chúng ta phải có những định hướng phát
triển con người đúng đắn, mang tính chiến lược; đồng thời, hệ thống giải pháp
đưa ra phải xác thực, khả thi, có tính hiệu quả cao và được thực hiện một cách
đồng bộ. Có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng và phát triển con người Việt
Nam mới – con người phát triển toàn diện, tạo nền tảng để xây dựng nước Việt
Nam, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn
diện", Thông tin khoa học xã hội, (2009), (7), tr.10-15.

2. "Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp",
Lý luận chính trị và truyền thông, (2010), (8), tr.38-42.

3. "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo: nhân tố quyết định
đến chất lượng con người Việt Nam hiện nay”, Lý luận chính trị và
truyền thông, (2013), (11), tr.49-55.

4. "Thực trạng về sự phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI”,
Nghiên cứu Đông Bắc Á, (2013), (11), tr.47-53.

5. "Vai trò của giáo dục và đào tạo với sự phát triển trí lực con người Việt
Nam”, Giáo dục lý luận, (12/2013), (206), tr.56-59.

6. (Thành viên nhóm nghiên cứu), Nâng cao ý thức pháp luật của học
sinh, sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà nội trong giai đoạn
hiện nay, Nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Công nghiệp Hà
Nội, (2013).

7. "Ý thức pháp luật của HSSV – Thực trạng và giải pháp”, Khoa học và
Công nghệ, (2/2014),(20), tr.97-100.

8. (Thành viên nhóm nghiên cứu), Tăng cường giáo dục văn hóa học đường
cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay, Nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Công nghiệp Hà
Nội,(2013).
150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hồng Anh (2010), "Nghiên cứu phát triển con người trên thế giới
và kiến nghị cho nghiên cứu phát triển con người ở Việt Nam", Tạp chí
Nghiên cứu con người, (2).
2. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận Trung ương (2005), Báo cáo tổng kết một số
vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện Nghiên cứu phát triển
phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị thúy Hằng (Đồng Chủ biên), (2005), Chỉ số
phát triển kinh tế trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị thúy Hằng (Đồng Chủ biên), (2005), Chỉ số tuổi thọ
trong HDI - Một số vấn đề thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đặng Quốc Bảo, Đặng Thị Thanh Huyền (Đồng Chủ biên), (2005), Chỉ số
tuổi thọ trong giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên
cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hoàng Chí Bảo (1998), "Sự biến đổi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường", Những thay đổi về văn
hóa, xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở một số nước
Châu Á, Nxb KHXH, Hà Nội. (10).
8. Bộ Giáo giáo dục và Đào tạo (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục, đến
chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Báo cáo triển khai chiến lược phát triển giáo
dục 2011-2010 và thực hiện Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 của Hội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Hội nghị triển khai
chiến lược phát triển giáo dục và kết luận 51-KL/TW, ngày 23/1.
151

10.Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: 10 năm phong trào "Toàn dân xây dựng
đời sống văn hóa”(2000-2010), trên www.cinet.gov.vn.
11.Bộ Y tế (2006), Kế hoạch tổng thể quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe của vị thành niên và thanh niên Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 và
định hướng đến năm 2020, Nxb Y học, Hà Nội.
12.Nguyễn Hữu Châu (Chủ biên), (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu
thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13.Nguyễn Trọng Chuẩn (2009), "Đầu tiên là công việc đối với con người: Vì
dân - một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học (9).
14.Nguyễn Hữu Công (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
15.Hoàng Đình Cúc (2008), "Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương
hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (8).
16.Phạm Như Cương (Chủ biên), (1978), Về vấn đề con người mới, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
17.Phạm Như Cương (Chủ biên), (1978), Vấn đề xây dựng con người mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
18.Phùng Danh Cường (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát
triển con người toàn diện", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (7).
19.Phùng Danh Cường (2010), "Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và giải pháp", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (8).
20.Phùng Danh Cường (2013), "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào
tạo: nhân tố quyết định đến chất lượng con người Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Lý luận chính trị và truyền thông, (11).
21.Phùng Danh Cường (2013), "Thực trạng về sự phát triển con người Việt Nam
qua chỉ số HDI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (11).
152

22.Phùng Danh Cường (2013) "Vai trò của giáo dục và đào tạo với sự phát triển
trí lực con người Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (12).
23.Phạm Thành Dung (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24.Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
25.Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26.Lương Quang Đảng, Nguyễn Thị Yên (2011), "Báo cáo phát triển con người
2011: Hướng tới tương lai tốt đẹp hơn", Tạp chí Dân số và phát triển, (12).
27.Đảng Cộng sản Việt Nam (1978), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30.Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
31.Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
32.Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33.Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34.Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35.Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153

36.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37.Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38.Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39.Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40.Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41.Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42.Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43.Đanien Benxaiđơ (1998), Mác - Người vượt trước thời đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
44.Nguyễn Thị Anh Đào (2012), "Quyền được chăm sóc sức khỏe: Đánh giá từ
góc độ phát triển con người", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
45.Đỗ Đức Định (2010), "Xây dựng và thực thi chiến lược phát triển lấy con
người làm trung tâm với nguồn lực chất lượng cao là động lực chủ yếu", Tạp
chí Nghiên cứu con người, (5).
46.Trần Văn Giàu (1995), Con người thế kỷ XXI, Nghiên cứu con người, giáo
dục, phát triển và thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế từ 27-
29/7/1994 tại Hà Nội.
47.Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48.Phạm Minh Hạc (Chủ biên), (2001), Về phát triển toàn diện con người thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154

49.Phạm Minh Hạc (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phương pháp luận nghiên
cứu con người: Niên giám nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50.Phạm Minh Hạc (Chủ biên), (2005), Vấn đề tiềm năng con người, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
51.Phạm Minh Hạc (2008), “Phát triển con người, nguồn nhân lực – quan niệm
và chính sách”, Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52.Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Vũ Trọng Vỹ (Đồng Chủ biên), (2000), Cơ sở lý
luận và thực tiễn của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước - Báo cáo kết quả
nghiên cứu đề tài KHXH 04-04, Viện Nghiên cứu con người, Hà Nội.
53.Lê Trọng Hanh (1999), "Tư tưởng của V.I. Lênin về giáo dục con người
trong xã hội mới", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (7).
54.Trương Thị Thúy Hằng (2010), "Quan điểm phát triển con người và việc đưa
kĩ năng mềm vào chương trình đào tạo", Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
55.Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi)
(2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56.Dương Phú Hiệp (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển văn
hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57.Vũ Tùng Hoa (1996), Mối liên hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong
quá trình hình thành và phát triển con người, Luận án phó tiến sĩ Triết học,
Viện Triết học, Hà Nội.
58.Trần Thị Thu Hoài (2009), "Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh -
một xã hội cho con người, vì con người", Tạp chí Tạp chí Cộng sản, (9).
59.Vũ Hùng (1997), "Vai trò của cá nhân theo quan điểm chủ nghĩa Mác -
Lênin", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (8).
60.Đỗ Huy (2002), Đạo đức học – mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
155

61.Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt
Nam trong thế kỷ mới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
62.Nguyễn Văn Huyên (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63.Hứa Toàn Hưng (1999), "Ba vấn đề hiện đại hóa con người", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, (3).
64.Nguyễn Hoài Hương (2012), "Quyền hưởng an sinh xã hội vì mục tiêu phát
triển con người", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
65.Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2012), "Tăng cường thực hiện dân
chủ ở cơ sở để bảo đảm hiệu quả hơn quyền con người ở Việt Nam", Tạp chí
Nghiên cứu con người, (1).
66.Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
67.Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên), (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí
tuệ Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68.Nguyễn Đức Khiển (2003), Con người và vấn đề phát triển bền vững ở Việt
Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
69.V.A.Xukhomlinxki (1981), Giáo dục con người chân chính như thế nào?,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70.Tường Duy Kiên (2011), "Các chỉ số về quyền con người - Ý nghĩa và khả
năng áp dụng ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
71.Nguyễn Thế Kiệt (1988), Vai trò của những điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong việc xây dựng con người mới trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
72.Nguyễn Thế Kiệt (2008), "Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất
lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay",
Tạp chí Triết học, (6).
156

73.Đặng Xuân Kỳ (2002), "Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất
con người", Tạp chí Triết học, (10).
74.Nguyễn Thị Lê (2012), "Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi
mới và hội nhập", Tạp chí Nghiên cứu con người, (3).
75. V.I. Lênin (1978 - 1981), Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
76.Bùi Bá Linh (1998), "Khái niệm con người trong "Bản thảo kinh tế - triết học
1844"", Tạp chí Triết học, (3).
77.Bùi Bá Linh (1998), "Tư tưởng vì con người và giải phóng con người ở các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác", Tạp chí Khoa học xã hội, (3).
78.Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về con người và sự
nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79.Nguyễn Ngọc Long (1998), "Triết học Mác - Lênin với nhận thức xã hội
trong thế giới ngày nay", Tạp chí Cộng sản, (23).
80. Trường Lưu (1993), "Hai mặt trong tư tưởng giải phóng con người của học
thuyết Mác: sự cống hiến vĩ đại và những luận điểm phải bị vượt qua", Tạp chí
Triết học, (3).
81. Sương Mai, Nguyễn Thị Anh Đào (2011), "Những vấn đề văn hóa cơ bản về phát
triển con người giai đoạn 2011 - 2020", Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
82.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.26 (Phần II), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
90. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157

91.C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92.Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99.Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Mai Quỳnh Nam (Chủ biên), (2009), Con người - Văn hóa, quyền và phát
triển, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
104. Đỗ Hoài Nam (Chủ biên), (2012), Phát triển con người Việt Nam năm
2011, Nxb Thế giới, Hà Nội.
105. Nguyễn Thị Nga (2011), "Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam những
thập niên đầu thế kỷ XXI", tapchicongsan.org.vn, ngày 13/4.
106. Nguyễn Thị Nga (2012), "Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền con người và
giá trị thực tiễn ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (4).
107. Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên), (2008), 160 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản (1848-2008), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
108. Nguyễn Thế Nghĩa (1996), "Nguồn nhân lực - Động lực của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, (1).
109. Trịnh Thị Kim Ngọc (Chủ biên), (2009), Con người và văn hóa: Từ lý luận
đến thực tiễn phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
158

110. Nguyễn An Ninh (1998), "Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
tiềm năng con người và phát huy tiềm năng trí tuệ con người", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, (8).
111. Nguyễn Thị Tú Oanh (1996), "Về tư tưởng giải phóng con người của học
thuyết Mác", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (9).
112. Phạm Thị Oanh (2009), "Vai trò của con người trong sự phát triển xã hội
theo hướng bền vững", Tạp chí Triết học, (8).
113. Trần Sĩ Phán (1997), "Tìm hiểu tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm "Bản
thảo kinh tế - triết học 1844" của C.Mác, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (12).
114. Bùi Đình Phong (2009), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa",
Tạp chí Lý luận chính trị (1).
115. Trần Văn Phòng, Nguyễn Hùng Hậu (Đồng Chủ biên), (2012), Một số
vấn đề triết học trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
116. Đỗ Nguyên Phương (1998), Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên), (2003), Con người và phát triển con người trong
quan niệm của C.Mác và Ph. Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Hồ Sĩ Quý (2006), Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, Báo cáo tổng hợp: Đề tài KHCN cấp Nhà
nước KX-05-01, Viện Nghiên cứu con người, Hà Nội.
119. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, (Giáo trình dùng
cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết
học của Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
120. Nguyễn Duy Quý (1996), "Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong
thời đại hiện nay", Tạp chí Triết học, (3).
159

121. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên), (1998), 150 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Nguyễn Duy Quý (1998), "Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (19).
123. Tô Huy Rứa (1998), "Ý nghĩa thời đại và giá trị nhân văn của Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản", Tạp chí Cộng sản, (2).
124. Phương Kỳ Sơn (1997), "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (1).
125. Vũ Quang Tạo (2008), "C.Mác và sự nghiệp giải phóng con người trong
thời đại hiện nay", Tạp chí Triết học, (5).
126. Vũ Minh Tâm (Chủ biên), (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
127. Lê Hữu Tầng (1993), "Tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng
trong chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Triết học, (2).
128. Cao Đức Thái (2009), "Cách mạng Việt Nam với quyền con người trong thế
kỷ XX", Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
129. Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Thanh (2007), Vấn đề con người và giáo dục con người, nhìn từ
góc độ triết học xã hội, Nxb Tổng hợp TP HCM.
131. Trần Thành (2007), "Phương pháp tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin", Tạp chí Triết học, (2).
132. Trần Thành (Chủ biên), (2007), Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên
cứu giảng dạy triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
133. Trần Đức Thảo (1989), Vấn đề con người và chủ nghĩa "Lý luận không có
con người", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
134. Lê Sĩ Thắng (1995), "Mấy vấn đề về "trồng người" trong tư tưởng Hồ Chí
Minh", Tạp chí Triết học, (2).
160

135. Lê Sĩ Thắng (Chủ biên), (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

136. Lê Thị Thủy (2001), Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách
con người Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.

137. Trần Hữu Tiến (1998), "Tư tưởng vĩ đại về sự nghiệp giải phóng con
người", Tạp chí Cộng sản, (3).

138. Phạm Thị Tính (2009), "Dân chủ tham gia với phát triển con người", Tạp
chí Nghiên cứu con người, (2).

139. Hoàng Đình Tỉnh (2009), "Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện
nay theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (7).

140. Đặng Hữu Toàn (1993), "Tìm hiểu tư tưởng giải phóng con người của
C.Mác", Tạp chí Triết học, (4).

141. Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác
và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con
người ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (1).

142. Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư
cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước", Tạp chí Khoa học xã hội, (3).

143. Đặng Hữu Toàn (2000), "Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc", Tạp chí Triết học, (4).

144. Đặng Hữu Toàn (2002), Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

145. Đặng Hữu Toàn (2003), "Học thuyết Mác về con người và giải phóng con
người", Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161

146. Đặng Hữu Toàn (2004), "Chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn trong
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (16).
147. Đặng Hữu Toàn (2005), "Phát triển con người - thước đo nhân văn của tiến
bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam",
Tạp chí Khoa học xã hội, (9).
148. Đặng Hữu Toàn (2008), "Con người - Chủ thể sáng tạo lịch sử", Một số
chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
149. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.
150. Tổng cục Thống kê (2011), Báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở Việt
Nam năm 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội.
151. Tổng cục Thống kê (2011), Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
152. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê năm 2010, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
153. Tổng cục Thống kê (2012) Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm
2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
154. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia
đình thời điểm 1/4/2012 - Các kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
155. Tổng cục Thống kê (2012), Niên giám thống kê năm 2011, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
156. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê năm 2012, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
157. Tổng cục Thống kê (2013) Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm
2012, Nxb Thống kê, Hà Nội.
158. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê - Tóm tắt 2012, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
162

159. Tổng cục Thống kê (24/12/2012), "Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế -
xã hội tháng mười hai và cả năm 2012", www.gso.gov.vn.
160. Tổng cục Thống kê (2013), "Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội 6
tháng đầu năm 2013", www.gso.gov.vn.
161. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1999), Phát triển con
người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
162. Nguyễn Đình Tuân (2011), "Báo cáo phát triển con người 2010: Xu hướng
phát triển con người và một số thay đổi trong tính toán các chỉ số", Tạp chí
Nghiên cứu con người, (1).
163. Nguyễn Đình Tuấn (2012), "Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người",
Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
164. Phạm Mậu Tuyển (2012), "Về một số giải pháp đối với việc xây dựng nhân
cách con người Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (3).
165.Trần Quang Tuynh (2012), "Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay
- nhìn từ góc độ quan hệ giữa phát triển kinh tế và môi trường sống",
Tạp chí Triết học, (9).
166. UNDP (2001), Đổi mới và phát triển con người ở Việt Nam, Báo cáo Quốc
gia về phát triển con người năm 2001, Hà Nội.
167. UNDP (2006), Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 - Những thay đổi và
xu hướng chủ yếu, Báo cáo Quốc gia về phát triển con người năm 2006, Hà Nội.
168. UNDP (2011), Dịch vụ xã hội vì sự phát triển con người, Báo cáo Quốc gia
về phát triển con người năm 2011, Hà Nội.
169. Huỳnh Khái Vinh (1999), "Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã
hội để phát triển toàn diện con người", Tạp chí Thông tin lý luận, (3).
170. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163

171. Đàm Đức Vượng (2008), Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế Việt Nam
học lần thứ ba với chủ đề: Việt Nam, Hội nhập và phát triển, Thực trạng và
giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
172. Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với việc
phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
164

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................ 7
1.1. Những nghiên cứu có liên quan đến lý luận chung về phát triển con
người toàn diện.......................................................................................8
1.2. Những nghiên cứu có liên quan đến thực trạng phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam ...........................................................................19
1.3. Những nghiên cứu có liên quan đến định hướng và giải pháp phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam..........................................................24
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI TOÀN DIỆN............................................................................ 34
2.1. Quan niệm của C.Mác về phát triển con người toàn diện.....................35
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển con người toàn diện..............................................................41
2.3. Một số nhận thức chung về phát triển con người toàn diện..................60
Chương 3. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
– THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................76
3.1. Thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam ........................77
3.2. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................. 105
Chương 4. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
- ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ............................................................ 115
4.1. Định hướng cơ bản để phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.115
4.2. Một số giải pháp để phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.. 121
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ......................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 150
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 164
165

You might also like