TL Tham Khao Thi Khoi KT3.1 Tuan

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 38

KHỐI KIẾN THỨC 3

(Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa + Những vấn đề
cơ bản về quản lý hành chính nhà nước + Một số kỹ năng cơ bản trong lãnh đạo, quản lý của cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở cơ sở)

MÔN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ NƯỚC


VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu 1: Anh/chị hãy trình bày các hình thức thực hiện pháp luật. Lấy ví dụ minh
họa đối với các hình thức thực hiện pháp luật đó và cho biết thực trạng tình hình thực
hiện pháp luật ở nước ta hiện nay?
Câu 2: Anh/chị hãy trình bày nội dung “Đẩy mạnh cải cách hành chính” trong
phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Liên hệ với thực tiễn công tác cải cách hành chính ở
nước ta hiên nay?
Câu 3: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì ? Anh/chị hãy phân tích vai trò của pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Lấy những ví dụ minh họa để làm rõ những vai trò đó của pháp
luật xã hội chủ nghĩa?
Câu 4: Anh/chị hãy nêu khái niệm Luật Hành chính. Hãy cho biết đối tượng
điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính. Đánh giá thực tiễn thi
hành Luật Hành chính ở Việt Nam?

MÔN: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Câu 5: Anh/chị hãy trình bày các nhiệm vụ của chính quyền cơ sở trong quản lý
nhà nước về giáo dục ở cơ sở. Liên hệ với thực tiễn công tác quản lý nhà nước về
giáo dục ở cơ sở tại địa bàn Anh/chị đang sinh sống, công tác. 
Câu 6: Anh/chị hãy phân tích các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai. Cho
biết tại sao quản lý nhà nước về đất đai là một trong những lĩnh vực xẩy ra nhiều
khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức? Theo Anh/chị, Nhà nước cần làm gì để khắc
phục tình trạng này?
Câu 7: Anh/chị hãy trình bày các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính. Khi xử
phạt vi phạm hành chính, có những tình tiết giảm nhẹ nào? cho ví dụ minh họa về các
tình tiết đó.

MÔN: KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO

Câu 8: Để ra được quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, có tính khả thi và tổ
chức thực hiện tốt, theo anh/chị cần chú ý tới những kỹ năng nào? Anh/chị hãy phân
tích một kỹ năng mà anh/chị thấy cần thiết nhất cho việc ra quyết định lãnh đạo, quản
lý như trên. Liên hệ thực tiễn?
Câu 9: Anh/chị hãy làm rõ nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ? Liên hệ với thực tiễn
và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả quy định hiện nay về công tác bổ nhiệm
cán bộ?

1
Câu 10: Anh/chị hãy phân tích vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở?
Hãy trình bày một trong những nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo,
quản lý ở sơ sở mà anh/chị cho là quan trọng nhất, cho ví dụ minh họa?

TRẢ LỜI

MÔN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ NƯỚC


VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu 1: Anh/chị hãy trình bày các hình thức thực hiện pháp luật. Lấy ví dụ minh
họa đối với các hình thức thực hiện pháp luật đó và cho biết thực trạng tình hình thực
hiện pháp luật ở nước ta hiện nay?
Câu 2: Anh/chị hãy trình bày nội dung “Đẩy mạnh cải cách hành chính” trong
phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Liên hệ với thực tiễn công tác cải cách hành chính ở
nước ta hiên nay?
Câu 3: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì ? Anh/chị hãy phân tích vai trò của pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Lấy những ví dụ minh họa để làm rõ những vai trò đó của pháp
luật xã hội chủ nghĩa?
Câu 4: Anh/chị hãy nêu khái niệm Luật Hành Hãy cho biết đối tượng điều chỉnh
và phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính. Đánh giá thực tiễn thi hành Luật
Hành chính ở Việt Nam?

GỢI Ý TRẢ LỜI

Câu 1: Anh/chị hãy trình bày các hình thức thực hiện pháp luật. Lấy ví dụ
minh họa đối với các hình thức thực hiện pháp luật đó và cho biết thực trạng
tình hình thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay?

Trả lời
1. Các hình thức thực hiện pháp luật:
-Tuân thủ (tuân theo) pháp luật: Nếu hiểu theo nghĩa rộng đây là hình thức thực
hiện pháp luật có tính phổ biến cho các loại quy phạm pháp luật trên nhiều lĩnh vực.
Tuân thủ pháp luật là các chủ thể đã thực hiện các hành vi hợp pháp. Ví dụ: Khi tham
gia giao thông bằng mô tô, xe máy, xe đạp điện thì phải đội mũ bảo hiểm. Nếu hiểu
theo nghĩa hẹp thì tuân thủ pháp luật là việc các chủ thể không được thực hiện những
hành vi trái quy định của pháp luật, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
cấm. Ví dụ: Không được mua bán người, đánh tráo người hoặc mua bán, chiếm đoạt
mô hoặc bộ phận cơ thể người…
- Thi hành (chấp hành) pháp luật: Các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc (những
quy phạm quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được
thực hiện ở hình thức này. Ví dụ: Nam, nữ đủ điều kiện đi đăng ký kết hôn.
- Sử dụng pháp luật: Các chủ thể pháp luật thưc hiện quyền chủ thể của mình
(thực hiện những hành vi pháp luật cho phép). Các quy phạm pháp luật quy định về
quyền và tự do pháp lý của các cá nhân, tổ chức được thực hiện ở hình thức này. Đây
2
là những hành vi mà pháp luật cho phép nên các chủ thể có thể thực hiện các quyền
và sự tự do pháp lý theo ý chí của mình, nghĩa là có thể thực hiện hoặc không chứ
không bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ: có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành vi vi
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Áp dụng pháp luật: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức
được nhà nước trao quyền nhân danh nhà nước tổ chức cho các chủ thể pháp luật
thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc các chủ thể có thể căn cứ vào quy định
pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt các
quan hệ pháp luật cụ thể. Áp dụng pháp luật là hình thức luôn đòi hỏi phải có sự tham
gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức được trao quyền.
Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền tổ chức cho đăng ký kết hôn giữa
nam và nữ công dân Việt Nam.
2. Đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật
Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có biểu hiện
tương đối tốt. Đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước; sự quan tâm chỉ đạo của
các cấp chính quyền; công tác tuyên truyền pháp luật của các cơ quan chức năng đã
tạo cho người dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật, từ đó,
người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và
nghiêm chỉnh. Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà
nước, các vụ án hình sự, các hành vi vi phạm pháp luật khác… đã bị người dân khiếu
nại, tố cáo. Đồng thời, nhân dân cũng ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương của các cơ
quan nhà nước trong việc giải quyết dứt khoát, không tránh né dù đối tượng có cương
vị, trọng trách cao đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu công bằng xã hội được dư
luận xã hội quan tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ đem lại quyền lợi cho người dân
mà thể hiện tính dân chủ của nhà nước. Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp
luật của người dân đã được củng cố và nâng cao.
Sự phát triển về kinh tế với những chính sách kinh tế thuận lợi; đường lối chính trị
đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống và những đổi mới
theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ thống pháp lý chặt chẽ đã tạo
điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật một cách hiệu quả nhất. Nhìn chung, xã
hội hiện nay tương đối ổn định, có điều kiện phát triển kinh tế xã hội; để có được điều
này là nhờ có hoạt động thực hiện pháp luật của con người được đảm bảo, duy trì và
giữ vững.
Bên cạnh những mặt tích cực trong thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật ở nước
ta hiện nay thì trong thực tế vẫn còn tồn đọng một số hạn chế, bất cập trong quá trình
thực hiện pháp luật. Mặc dù có sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng có thẩm quyền,
đường lối chính trị đúng đắn của nhà nước, tuy nhiên, trong xã hội vẫn tồn tại một bộ
phận không nhỏ thực hiện pháp luật trái với quy định pháp luật. Điều này cho thấy ý
thức pháp luật của một số bộ phận chưa cao, kém hiểu biết và ảnh hưởng xấu tới sự
ổn định và trật tự xã hội.

Câu 2: Anh/chị hãy trình bày nội dung “Đẩy mạnh cải cách hành chính”
trong phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Liên hệ với thực tiễn công tác cải
cách hành chính ở nước ta hiên nay?
3
Trả lời
1. Nội dung “Đẩy mạnh cải cách hành chính” trong phương hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế của nền hành chính nhà nước, trước
hết tập trung cải cách thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước; thể
chế về quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, các thể chế liên quan đến quyền và
nghĩa vụ công dân; thể chế về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo sự chuyển biến căn bản
trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với người dân và doanh nghiệp, phát huy
mạnh mẽ dân chủ, tạo điều kiện để người dân và xã hội tham gia vào hoạt động quản
lý của Chính phủ và các cơ quan trong bộ máy hành chính.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý,
hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính, loại bỏ
những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho
nhân dân.
Hai là, cải cách tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở trung
ương và chính quyền địa phương
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu
cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới;
- Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc
phục những chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, hoặc hiệu quả còn thấp;
- Bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ;
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ
thuộc Chính phủ;
- Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, (Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân), chú ý những đặc điểm của đô thị hải đảo, nông thôn để tổ chức chính
quyền hợp lý;
- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp;
- Thực hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính, thực hiện chính phủ điện
tử.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Ngoài những nội dung, yêu cầu đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy
nhà nước nói chung, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính cần tiến hành
những công việc trọng điểm sau đây:
- Xác định rõ và cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý
của từng chức danh, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính;
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức;
- Cải cách tiền lương và các chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công
chức;
- Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức;
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức.

4
Bốn là, tiếp tục đổi mới chế độ tài chính công và tài sản công: bảo đảm thu,
chi hợp lý; quản lý chặt chẽ; sử dụng tiết kiệm, công bằng, minh bạch, có hiệu quả.
2. Liên hệ:
- Cải cách thể chế được xác định là một trong những trọng tâm của CCHC nhà
nước và đã đạt được kết quả tương đối thành công về xây dựng và điều chỉnh thể chế
quản lý hành chính nhà nước trong điều kiện chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Ðã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội và tổ
chức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp. Thủ tục
hành chính trong giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức được chú trọng cải cách
và được xác định là khâu đột phá trong cải cách hành chính; vị trí và vai trò của cơ
quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với người dân và doanh nghiệp đã được
đổi mới theo hướng phục vụ và quản lý. Có thể nói, hoạt động của Chính phủ, các bộ
ngày càng chuyên nghiệp hơn, công khai, minh bạch hơn, đáp ứng tốt hơn các nhiệm
vụ quản lý và điều hành đất nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Bên cạnh những kết quả và tiến bộ đã đạt được, vấn đề cải cách
thể chế trong những năm qua vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập:
+ Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và phù
hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch;
+ Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống
nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương
chưa nghiêm
+ Thủ tục hành chính cho dù được cải cách từ nhiều năm nay, nhưng nhìn
chung vẫn phức tạp, phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Vẫn còn tồn tại khá phổ
biến xu hướng cơ quan hành chính giành thuận lợi về cho mình, đẩy khó khăn về cho
người dân gánh chịu trong giải quyết công việc của dân, doanh nghiệp.
-Các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, từ Chính phủ, các bộ,
UBND các cấp được điều chỉnh về chức năng phù hợp việc chuyển sang cơ chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Hướng cơ bản của sự điều chỉnh là Chính phủ, các
bộ tập trung vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước vĩ mô trong phạm vi cả nước
đối với mọi lĩnh vực đời sống xã hội; dành nhiều thời gian, nguồn lực vào việc xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và ban hành cơ chế chính sách;
thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của
Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và của UBND mỗi cấp trên địa bàn. Tuy nhiên,
bộ máy hành chính hiện nay còn tồn tại một số vấn đề: tổ chức bộ máy còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa
phân tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công;
bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không
nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động khi xử lý các
tình huống phức tạp.
- Những cải cách vừa qua tập trung nhiều vào nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC cả về phẩm chất và năng lực với kỹ năng hành chính mới, tích cực thay đổi
phương thức quản lý CBCC theo yêu cầu CCHC. Ðã có bước chuyển trong quản lý,
sử dụng CBCC với các nội dung cơ bản là:
5
+ Xây dựng và áp dụng chức danh, tiêu chuẩn các loại CBCC trong bộ máy
hành chính, các tổ chức sự nghiệp;
+ Đổi mới công tác tuyển dụng CBCC chuyển từ phương thức xét tuyển sang
phương thức thi tuyển, để lấy người có trình độ vào làm việc trong cơ quan quản lý
nhà nước, đồng thời chú ý đến các vùng sâu, vùng xa, đối với đội ngũ cán bộ, giáo
viên đã có những vận dụng phù hợp trong tuyển dụng, kết hợp thi tuyển và xét tuyển.
+ Áp dụng chế độ thi tuyển lãnh đạo với một số chức danh.
Tuy nhiên, đánh giá thực tiễn thấy rõ đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều
điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành
chính; phong cách làm việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân
dân còn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, công chức.
- Phân cấp quản lý tài chính công theo Luật Ngân sách nhà nước định rõ thẩm
quyền về ngân sách của bốn cấp chính quyền (trung ương, tỉnh, huyện và xã), tạo cơ
sở pháp lý cho việc thực hiện cải cách tài chính công theo yêu cầu mới. Tuy nhiên
thực tiễn cho thấy, chế độ quản lí tài chính không phù hợp với cơ chế thị trường. Việc
sử dụng và quản lí nguồn tài chính công chưa chặt chẽ, lãng phí và kém hiệu quả.

Câu 3: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì ? Anh/chị hãy phân tích vai trò của
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Lấy những ví dụ minh họa để làm rõ những vai trò
đó của pháp luật xã hội chủ nghĩa?

Trả lời
1. Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước
XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước
trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
2. Vai trò của pháp luật( Phần này học viên nên đưa ví dụ vào luôn của từng
vai trò cho phù hợp)
- Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước XHCN.
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại
cơ quan). Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng,
thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan
hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp
để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước.
Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của
những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Ví dụ: Hiến pháp; Các luật tổ
chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; Luật tổ chức
chính quyền địa phương.
- Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản
lý kinh tế , xây dựng cơ sở vật chất của CNXH.
Để quản lý xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng
pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp
luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách
nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên qui mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có
pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực và kiểm tra, kiểm soát các hoạt
động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.
6
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức
năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm
nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ nhà nước cần xác lập như: hoạch định chính sách
kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá… Do
tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không
thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý
ở tầm vĩ mô và mang tính chất hành chính - kinh tế. Quá trình quản lý kinh tế không
thể thực hiện được nếu như không dựa vào pháp luật. Ví dụ: Nghị quyết của Đảng về
chính sách quản lý, đổi mới kinh tế được thể chế hóa thành văn bản quy phạm pháp
luật như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài…..
- Pháp luật bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực nhân
dân, bảo đảm công bằng xã hội
Dân chủ là thuộc tính của nhà nước XHCN. Việc tăng cường hiệu lực và phát
huy vai trò của nhà nước trong quản lý mọi mặt của của đời sống xã hội luôn gắn liền
với quá trình thực hiện và mở rộng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực của nhân
dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Nhà nước cũng như pháp luật là công cụ và phương tiện đảm đương vai trò dẫn
dắt và chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý như nhau đối với
các thành viên trong xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau phát huy khả
năng của mình để khởi nghiệp và phát triển. Pháp luật đảm đương vai trò kiến tạo
môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi thành viên của xã hội phát huy tài
năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện và phát triển bản thân mình, đồng thời phát triển
xã hội. Với vai trò này, xã hội nói chung và các thành viên của xã hội nói riêng sẽ có
điều kiện để phát triển.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là phương tiện có khả năng bảo đảm bình đẳng xã
hội. Bởi pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN là những giá trị bình đẳng mà xã
hội có, xã hội cần và ủng hộ. Nhà nước lại có một bộ máy hùng mạnh với các cơ
quan, tổ chức bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nên bình đẳng và
công bằng xã hội được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật có khả năng trở thành
hiện thực. Vì vậy, nhà nước có vai trò đối với phát triển xã hội và quản lý được quá
trình phát triển đó, để xã hội không rơi vào trạng thái rối loạn hoặc phát triển tự phát,
thiếu tổ chức và kỷ luật.
Pháp luật XHCN là phương tiện để nhà nước điều hòa lợi ích giữa các tầng lớp
xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển hài hòa và ổn định. Xã hội luôn có xu hướng
phân hóa giàu nghèo do sự tác động của nhiều yếu tố. Đó có thể là sự phân hóa giàu
nghèo do tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, do sự yếu thế của bản thân một
lớp người nào đó, như bị bệnh tật, bị khuyết tật bẩm sinh, những người già yếu,
những người có nhiều đóng góp cho xã hội, như thương binh, gia đình liệt sĩ...
- Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Xuất phát từ tình hình thực tiến trong thời kỳ quá độ, bên cạnh hệ thống quy
phạm pháp luật được đặt ra để điều chỉnh, hướng dẫn hành vi xử sự của các chủ thể,
thiết lập một trật tự quan hệ pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển và những tiến bộ
xã hội, pháp luật còn chứa đựng những quy phạm cấm mọi hành vi gây mất ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội, xâm hại đến lợi ích của nhà nước, tập thể và công
dân. Những biện pháp được pháp luật quy định để áp dụng đối với hành vi vi phạm
pháp luật có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa đồng thời là cơ sở để xử lý và trừng trị
7
nghiêm khắc những hành vi phạm. Ví dụ: Bộ luật hình sự; Luật xử lý vi phạm hành
chính….
- Pháp luật có vai trò giáo dục
Pháp luật là phương tiện quan trọng để giáo dục mọi thành viên trong xã hội.
Những quy phạm pháp luật được đặt ra luôn xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi ở trong tình huống đã
được dự kiến. Pháp luật tác động đến nhận thức và tư tưởng của mỗi thành viên trong
xã hội, giáo dục ý thức vì mọi người, tôn trọng các nguyên tắc XHCN.
Pháp luật cũng quy định những hình thức và mức độ khen thưởng, khuyến
khích vật chất tinh thần đối với những thành viên có hành vi tích cực trong đời sống
xã hội. Ví dụ: Hiến pháp; Bộ luật dân sự; Bộ luật lao động; Luật thi đua khen
thưởng….
- Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới.
Bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng
cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Vì cuộc sống vốn sống động và thực tiễn
thường diễn ra với những thay đổi thường xuyên. Tuy nhiên về căn bản những thay
đổi đó vẫn diễn ra theo những quy luật nhất định mà con người có thể nhận thức
được. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có
thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thử
nghiêm. Vì vậy có thể nói, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc tạo lập ra những
quan hệ mới.
- Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang
giao giữa các quốc gia.
Sự ổn định của mỗi quốc gia luôn là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là
cơ sở để mở rộng các mối quan hệ bang giao với các nước khác. Trong thời đại ngày
nay phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính
chất của các quan hệ đó ngày càng đa diện. Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các
mối quan hệ bang giao đó là pháp luật: Pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi nước.
Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển
mới: bên cạnh những văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có
liên quan đến các chủ thể pháp luật trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp
luật quy định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các chủ thể là người (tổ
chức) nước ngoài có quan hệ hợp tác với các chủ thể trong nước. Ví dụ: Luật đầu tư,
Luật khoa học và công nghệ….
- Pháp luật trong việc góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển
Pháp luật XHCN là phương tiện để nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, giữ gìn an ninh, an toàn xã hội cho con
người. An ninh, an toàn xã hội cho con người trong nhà nước pháp quyền có nội hàm
rất rộng. Nó có nghĩa là an toàn khỏi các mối đe dọa về đói nghèo, bệnh tật, tội phạm,
sự đàn áp. Nó cũng có nghĩa là bảo vệ khỏi sự đổ vỡ có hại và bất ngờ trong mẫu
hình của đời sống hằng ngày tại gia đình, công việc, trong cộng đồng,...(2). Pháp luật
là phương tiện đầy hiệu lực trong việc giữ gìn an ninh và an toàn cho con người. Nhờ
đó, con người có điều kiện phát triển mà không phải lo lắng, sợ hãi trước sự đe dọa từ
bên trong cũng như bên ngoài. Vì vậy, pháp luật XHCN có vai trò là phương tiện
phát triển con người và quản lý quá trình đó để cho con người được sống tốt hơn, an
ninh hơn, có điều kiện để phát triển bản thân và phát triển xã hội một cách bền vững.
8
Nó là phương tiện có hiệu lực và hiệu quả trong việc thể chế hóa đường lối, quan
điểm của Đảng ta về xây dựng con người mới.
Pháp luật là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, buộc những người
có chức vụ, quyền hạn hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Bằng
cách đó, pháp luật là phương tiện quan trọng hàng đầu trong việc phòng, chống sự tha
hóa của quyền lực nhà nước, bảo đảm cho thượng tầng kiến trúc nhà nước giữ vai trò
định hướng XHCN cho sự phát triển.

Câu 4: Anh/chị hãy nêu khái niệm Luật Hành chính. Hãy cho biết đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính. Đánh giá
thực tiễn thi hành Luật Hành chính ở Việt Nam?

Trả lời
1. Luật Hành chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp
hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
2. Đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh:
Luật hành chính điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước. Những quan hệ này là quan hệ quản lý hành chính nhà
nước (quan hệ chấp hành và điều hành).
Các quan hệ quản lý hành chính nhà nước có bốn nhóm sau:
- Nhóm 1. Quan hệ quản lý hành chính nhà nước phát sinh trong quá trình các
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành trên các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Nhóm 2: Các quan hệ quản lý hành chính hình thành trong quá trình các cơ
quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn
định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Nhóm 3. Quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các
cơ quan quyền lực, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử.
- Nhóm 4. Quan hệ chấp hành, điều hành hình thành trong quá trình các cá
nhân và tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính
nhà nước trong các trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Phương pháp mệnh lệnh trong quản lý hành chính nhà nước được hình thành
giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên
kia là cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Tính chất
quyền lực phục tùng như vậy là yêu cầu tất yếu của hoạt động quản lý, vì vậy mà
phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh
(thuyết phục và cưỡng chế) và phương pháp phục tùng. Các phương pháp này phù
hợp với tính chất chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước.
Luật hành chính sử dụng phương pháp điều chỉnh mệnh lệnh - phục tùng bắt
nguồn từ đặc điểm của các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của ngành luật này.
Các quan hệ hành chính thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ
pháp luật hành chính nhà nước.
3. Đánh giá thực tiễn hoạt động quản lý hành chính nhà nước
9
- Thể chế nền hành chính được cải cách và hoàn thiện một bước cơ bản đáp
ứng yêu cầu thực hiện dân chủ với thiết lập chế độ công khai, minh bạch phù hợp với
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần lớn các chủ trương quan trọng
về các vấn đề cơ bản trong quá trình đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hoá. Cải cách đơn giản hoá thủ tục hành
chính đã cải thiện mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân và tổ chức, làm tăng tính
dân chủ trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước thu hút được sự quan
tâm của nhân dân tới các công việc của nhà nước.
- Thể chế nền hành chính được cải cách và hoàn thiện một bước cơ bản đáp
ứng yêu cầu thực hiện dân chủ với thiết lập chế độ công khai, minh bạch phù hợp với
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần lớn các chủ trương quan trọng
về các vấn đề cơ bản trong quá trình đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hoá. Cải cách đơn giản hoá thủ tục hành
chính đã cải thiện mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân và tổ chức, làm tăng tính
dân chủ trong quan hệ giữa - Thể chế nền hành chính được cải cách và hoàn thiện
một bước cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ với thiết lập chế độ công khai,
minh bạch phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần lớn các
chủ trương quan trọng về các vấn đề cơ bản trong quá trình đổi mới, xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hoá. Cải cách đơn
giản hoá thủ tục hành chính đã cải thiện mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân và
tổ chức, làm tăng tính dân chủ trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước
thu hút được sự quan tâm của nhân dân tới các công việc của nhà nước.
Các Bộ, ngành Trung ương và chính quyền các cấp đã tập trung rà soát thủ tục
hành chính, loại bỏ hàng trăm thủ tục không cần thiết, phiền hà cản trở hoạt động của
doanh nghiệp. Đã đơn giản hoá thủ tục đăng kí kinh doanh, đăng kí thuế và cấp giấy
phép, khắc dấu đối với doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Việc triển khai các quy định này gắn với mô hình “một cửa” liên thông bước đầu
giảm đáng kể phiền hà cho doanh nghiệp.
Thủ tục hành chính trong việc đăng ký và quản lý hộ khẩu, cấp chứng minh thư
nhân dân, cấp hộ chiếu phổ thông theo chỉ đạo của thủ tướng chính phủ và hướng dẫn
của Bộ công an đã có bước cải cách tích cực, đơn giản hoá hồ sơ, biểu mẫu, rút ngắn
thời gian giải quyết… đã được sự đồng tình đánh giá cao của nhân dân.
Chính phủ và thủ tướng chính phủ đã triển khai việc đổi mới sự chỉ đại điều
hành, cải tiến lề lối làm việc và sửa đổi quy chế làm việc của chính phủ trong đó tập
trung vào các nội dung chính: tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng thể chế; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ; tiếp tục đẩy mạnh việc phân cấp và
uỷ quyền; tăng cường kiểm tra đề cao kỷ luật, kỷ cương hành chính; đề cao vai trò
của từng thành viên chính phủ trong những công việc chung của chính phủ.
Vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước tiếp tục được điều chỉnh bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phục vụ xã hội. Thông qua kết quả của những
nội dung cải cách đã khẳng định vai trò, chức năng quản lý nhà nước vĩ mô của chính
phủ phù hợp với kinh tế thị trường. Cùng với những tác động của các cuộc cải cách
khác như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, cải cách giáo dục,… cải cách hành chính
đã góp phần quan trọng vào những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội giúp Việt Nam
mở cửa hội nhập quốc tế, củng cố lòng tin của nhân dân, giữ vững ổn định chính
trị xã hội.
10
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động quản lý hành chính nhà nước vẫn
còn những tồn tại, hạn chế:
Tốc độ cải cách còn chậm, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu đặt ra. Cơ cấu bộ
máy hành chính còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, không thông suốt làm tăng
biên chế và chi phí hành chính. Đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế về trình độ
cũng như phẩm chất đạo đức. Số vụ án hình sự liên quan đến sự suy thoái về đạo đức
của cán bộ, công chức trong những năm qua có chiều hướng gia tăng. Tình trạng
tham nhũng vẫn còn tồn tại và có nhiều diễn biến phức tạp. Cán bộ, công chức trong
bộ máy hành chính nhà nước còn mắc bệnh quan liêu, xa dân, xa cấp dưới và cấp cơ
sở. Sự phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế,
thực sự chưa quán triệt một cách triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý
hành chính nhà nước.
Có nhiều quyết định hành chính còn mang tính chủ quan của người ban hành
dẫn đến vừa không hợp pháp lại vừa không hợp lý. Nhìn chung, vấn đề nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước trong thời gian qua đã được đề ra
nhưng chưa thực sự sâu rộng và triệt để dẫn đến tình trạng càng nâng cao càng rối.
Chính vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước
một cách thực sự luôn là một yêu cầu cấp thiết.

11
MÔN: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Câu 5: Anh/chị hãy trình bày các nhiệm vụ của chính quyền cơ sở trong quản lý
nhà nước về giáo dục ở cơ sở. Liên hệ với thực tiễn công tác quản lý nhà nước về
giáo dục ở cơ sở tại địa bàn Anh/chị đang sinh sống, công tác. 
Câu 6: Anh/chị hãy phân tích các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai. Cho
biết tại sao quản lý nhà nước về đất đai là một trong những lĩnh vực xẩy ra nhiều
khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức? Theo Anh/chị, Nhà nước cần làm gì để khắc
phục tình trạng này?
Câu 7: Anh/chị hãy trình bày các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính. Khi xử
phạt vi phạm hành chính, có những tình tiết giảm nhẹ nào? cho ví dụ minh họa về các
tình tiết đó.

GỢI Ý TRẢ LỜI


Giáo trình “ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC” Thầy Hải

Câu 5: Anh/chị hãy trình bày các nhiệm vụ của chính quyền cơ sở trong
quản lý nhà nước về giáo dục ở cơ sở. Liên hệ với thực tiễn công tác quản lý nhà
nước về giáo dục ở cơ sở tại địa bàn Anh/chị đang sinh sống, công tác. 

Trả lời:
1. Trình bày các nhiệm vụ của chính quyền cơ sở trong quản lý nhà nước về giáo
dục ở cơ sở. (SGK Tr 276-277)
- Có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục trên địa
bàn.
- Xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cấp cơ sở kế hoạch phát triển giáo dục
ở địa phương và tổ chức thực hiện khi được phê duyệt, xây dựng quy hoạch về đất
đai cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn theo tiêu chuẩn quy định trường chuẩn quốc
gia do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Cho phép thành lập nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục theo tiêu chuẩn
của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; đảm bảo và chịu trách nhiệm kiểm tra các
nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục trên địa hoạt động đúng quy định của pháp
luật.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, vận
động nhân dân tham gia chăm lo cho giáo dục, phối hợp với các nhà trường chăm lo
con em thực hiện nếp sống văn hóa mới, tham gia bảo vệ của công, bảo vệ và tôn tạo
các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, công trình văn hóa, công trình dành cho các
hoạt động học tập, vui chơi của học sinh; huy động các nguồn lực để phát triển giáo
dục của xã.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo định kỳ và hàng năm về tổ chức, hoạt
động tối đa người trong độ tuổi đi học để phổ cập giáo dục, chống mù chữ, tạo điều
kiện cho mọi người được học tập thường xuyên, học tập suốt đời.

12
- Quản ý Trung tâm học tập cộng đồng, phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào
tạo quản lý cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thong
trên địa bàn.
2. Liên hệ với thực tiễn công tác quản lý nhà nước về giáo dục ở cơ sở tại
địa bàn Anh/Chị đang sinh sống/công tác. 
Có thể lấy ví dụ về quản lý nhóm trẻ( Trường Mầm non tư thục), quản lý trung tâm
cộng đồng tại địa phương( Trung tâm xuất khẩu lao động)

Nghị định 127/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày


24/12/2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục. Nghị
định 127/2018/NĐ-CP yêu cầu đối với việc quy định trách nhiệm quản lý nhà nước
về giáo dục phải bảo đảm tính thống nhất, thông suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
trong quản lý nhà nước về giáo dục. Bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm với nguồn lực tài chính, nhân sự, điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục
và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ được giao. Xác định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, UBND các cấp và
các cơ quan có liên quan.

UBND thành phố Hà Nội trong quá trình quản lý các cơ sở giáo dục mầm non tư thục
đã yêu cầu các cơ quan, đơn vị có liên quan, UBND các phường xã cần tiếp tục đẩy
mạnh tuyên truyền các Văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo, chính
sách khuyến khích xã hội hóa trong công tác giáo dục; Tổ chức tập huấn cho các cơ
sở giáo dục mầm non ngoài công lập; Thông báo trên các phương tiện thông tin đại
chúng về các cơ sở mầm non đã được cấp phép hoạt động và những cơ sở mầm non
chưa được cấp phép hoạt động để phụ huynh lựa chọn trường lớp đảm bảo điều kiện
chăm sóc, giáo dục cho con em mình đồng thời tuyên truyền cho nhân dân trong khu
dân cư, tổ dân phố giám sát các cơ sở mầm non hoạt động trái quy định, đảm bảo
không an toàn cho trẻ; Hỗ trợ trong việc hướng dẫn hồ sơ thành lập, hoạt động giáo
dục chuyên môn, đội ngũ; Công tác kiểm tra và xử lý vi phạm…
UBND thành phố giao cho Phòng Giáo dục và đào tạo thành phố tăng cường các giải
pháp hỗ trợ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho chủ cơ sở, Hiệu trưởng, giáo viên
và nhân viên các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập; Chủ trì, phối hợp với các
phòng, ban có liên quan khảo sát tình hình thực trạng cơ sở vật chất, đề xuất UBND
thành phố cho phép thành lập trường, cấp phép hoạt động giáo dục; Phối hợp với
phòng Tư pháp tập huấn văn bản quy phạm pháp luật cho các cơ sở giáo dục mầm
non ngoài công lập; Tiếp tục tham mưu UBND thành phố thành lập đoàn kiểm tra về
công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đảm bảo an toàn cho trẻ tại các cơ sở giáo
dục mầm non ngoài công lập; Đình chỉ các cơ sở mầm non vi phạm quy định trong
chăm sóc, giáo dục trẻ; Hướng dẫn Hiệu trưởng các trường mầm non công lập tăng
cường hỗ trợ chuyên môn, công tác phổ cập đối với các cơ sở giáo dục mầm non
ngoài công lập, đồng thời phối hợp với các phường, xã về nội dung quản lý theo đúng
quy định.
UBND thành phố giao Phòng Nội vụ phối hợp với Phòng giáo dục và đào tạo hướng
dẫn các các Trường mầm non ngoài công lập về tiêu chuẩn người quản lý, giáo viên,
nhân viên cấp dưỡng, chế độ chính sách đối với giáo viên của các các cơ sở giáo dục
mầm non ngoài công lập; Giao Phòng Tài chính-Kế hoạch tham mưu UBND thành
13
phố thẩm định kinh phí phục vụ cho việc thành lập trường và tổ chức hoạt động, trình
UBND thành phố phê duyệt, hướng dẫn các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập
định kỳ kiểm tra thu-chi tài chính; Giao Phòng Quản lý đô thị tăng cường phối hợp
với Phòng Giáo dục và đào tạo tham mưu về phát triển quy hoạch trường mầm non
ngoài công lập trên địa bàn thành phố; Giao Phòng Y tế tăng cường hướng dẫn, theo
dõi, giúp đỡ và kiểm tra việc thực hiện công tác tuyên truyền và thực hiện việc chăm
sóc sức khỏe, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh, dịch bệnh cho giáo viên,
học sinh theo quy định; Giao Công an thành phố, phòng cảnh sát phòng cháy và chữa
cháy số 2 tăng cường theo dõi, tập huấn, hướng dẫn, kiểm tra tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, công tác phòng chống cháy nổ trong các các cơ sở giáo dục
mầm non ngoài công lập.
UBND thành phố giao cho UBND các phường, xã tăng cường công tác quản lý hoạt
động của các các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập; Hiệu trưởng các trường
mầm non công lập tăng cường hỗ trợ chuyên môn, công tác phổ cập đối với các cơ sở
giáo dục mầm non ngoài công lập; Hiệu trưởng các trường mầm non ngoài công lập
cần thực hiện nghiêm túc các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo,
đảm bảo các điều kiện cần thiết để chăm sóc và nuôi dạy trẻ đúng quy định; Các chủ
cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập cần hoàn thiện hồ sơ nhân sự đồng thời thực
hiện đầy đủ chế độ chính sách xã hội đối với người lao động trong thời gian 03 tháng,
hoàn thiện hồ sơ cấp phép xây dựng trong thời gian 01 năm; Đối với các cơ sở giáo
dục mầm non ngoài công lập không thực hiện đầy đủ các điều kiện về chăm sóc và
giáo dục trẻ thì các cơ quan chức năng sẽ buộc đóng cửa hoạt động theo quy định.

Câu 6: Anh/chị hãy phân tích các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai.
Cho biết tại sao quản lý nhà nước về đất đai là một trong những lĩnh vực xẩy ra
nhiều khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức? Theo Anh/chị, Nhà nước cần làm
gì để khắc phục tình trạng này?

Trả lời:
1. Phân tích các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai. (TR 120-123)
- Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai: (tr119)
Quản lý nhà nước về đất đai là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền trong việc sử dụng các phương pháp, công cụ quản lý thích hợp tác động
đến hành vi, hành động của người sử dụng đất đai nhằm đạt mục tiêu sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương.
- Các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai (TR 120-123)
Nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai là những tư tưởng chỉ đạo có tính chất
bắt buộc mà các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể sử dụng đất phải tuân theo
trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
1) Bảo đảm quản lý đúng thẩm quyền pháp lý:
Thẩm quyền là tổng thể các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc của người chức trách.
14
Thẩm quyền quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại Đ 23,24 Luật Đất
đai, theo đó:
- Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất của cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử
dụng đất đai trong phạm vi cả nước.
- Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc
phòng, an ninh, thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.
Bộ, Cơ quan ngang bộ có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm giúp Chính phủ trong quản lý nhà nước về đất đai.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc
quản lý nhà nước về đất đai.
- UBND các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý nhà
nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật Đất đai.
Các cơ quan không được ủy quyền những việc thuộc thẩm quyền của mình cho
cấp dưới.
Hệ thống tổ chức cơ quan quản lý đất đai được tổ chức thống nhất từ Trung
ương đến địa phương. Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở Trung ương là Bộ
TNMT. Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, TP. Trực thuộc
TW và ở huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ công về đất đai được
thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ.
2) Bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về đất đai.
Ở Việt Nam,đất đai là tài sản của toàn dân, đồng thời là tài sản của quốc gia,
lãnh thổ bất khả xâm phạm của dân tộc, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được tự
ý chiếm giữ, sử dụng đất đai của quốc gia. Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai
theo quy định của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp dưới phải
phù hợp và không được mâu thuẫn với cơ quan nhà nước cấp trên.
3) Bảo đảm quản lý nhà nước về đất đai đúng quy hoạch kế hoạch được phê
duyệt.
Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”,theo đó Nhà nước có quyền:
- Lập quy hoạch sử dụng đất từ tổng thể đến chi tiết, quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất của cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp
trên.
- Quyết định mục đích sử dụng của từng loại đất thong qua việc quyết định, xét
duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất.
- Quyết định giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
thu hồi đất, cho phép chuyểnmục đích sử dụng đất phải theo đúng quy hoạch đã được
phê duyệt. Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sử dụng đất trái với quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
4) Bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích
Trong quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và về đất đai nói riêng cần chú
trọng kết hợp hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích cộng đồng với lợi ích của
người sử dụng đất, bởi đất đai không chỉ là tài sản của quốc gia, mà còn là tư liệu sản
xuất của người sử dụng đất, nhất là đối với nông dân. Nếu chỉ coi trọng lợi ích của
15
Nhà nước, xem nhẹ lợi ích của người sử dụng đất thì không động viên được người sử
dụng đất phát huy tính tích cực, sáng tạo trong sự phát triển kinh tế đất nước. Ngược
lại, nếu chỉ chú ý đến lợi ích của người sử dụng đất thì sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích
của quốc gia.
5) Sử dụng đất tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại
đến lợi ích chính đáng của người sử dụng
Sử dụng đất đai, tiết kiệm hiệu quả và bảo vệ môi trường vừa là nguyên tắc,
vừa là mục tiêu của quản lý nhà nước về đất đai, bởi đất đai là nguồn tài nguyên quý
giá, có giới hạn về mặt số lượng (diện tích), trong khi đó sức ép về mặt dân số và nhu
cầu sử dụng đất ngày càng tăng.
2. Cho biết tại sao quản lý nhà nước về đất đai là một trong những lĩnh vực
xẩy ra nhiều khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức?
- Đất đai là tài sản đặc biệt quan trọng: nơi thực hiện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tổ chức các hoạt động của đời sống, xây dựng trụ sở kinh doanh….
- Công dân và tổ chức chỉ có 1 số quyền nhất định đối với đất đai (quyền sử
dụng) trong quá trình sử dụng bị giới hạn một số vấn đề: thời gian sử dụng, mục đích
sử dụng, hạn mức sử dụng…
- Khi bồi thường đất đai: giá trị bồi thường với giá trị thực tế khác nhau, ảnh
hưởng tới lới ích của người dân.
- Bồi thường giải phóng mặt bằng đất đai chưa bảo đảm thông tin minh bạch.
- Thủ tục hành chính về đất đai còn phức tạp.
3. Theo Anh/Chị, Nhà nước cần làm gì để khắc phục tình trạng này?
- Nghiên cứu mở rộng quyền đối với đất đai cho người dân.
- Ban hành khung giá đất cố gắng sát với giá thực tế.
- Công khai minh bạch trong bồi thường giải phóng mặt bằng.
- Cắt giảm thủ tục hành chính theo Luật Đất đai.
- Tăng cường giám sát xử lý vi phạm về đất đai.

Câu 7: Anh/chị hãy trình bày các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính. Khi
xử phạt vi phạm hành chính, có những tình tiết giảm nhẹ nào? cho ví dụ minh
họa về các tình tiết đó.

Trả lời:
1. Trình bày các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các cá nhân có thẩm quyền nhằm
xác định hành vi vi phạm hành chính (VPHC) để áp dụng các hình thức xử phạt và
các biện pháp cưỡng chế khác do pháp luật quy định đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi VPHC. Cũng như các hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý khác, xử
phạt VPHC phải tuân theo những nguyên tắc nhất định để xử phạt đúng đắn, chính
xác, vừa bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, của xã hội, đồng thời vẫn bảo vệ hữu
hiệu quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xử phạt.
1. Nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định của pháp luật

16
VPHC là hành vi trái pháp luật nên có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi VPHC thể hiện ở chỗ VPHC phá vỡ trật tự xã hội được
Nhà nước thiết lập, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng,
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, xã hội, Nhà nước. Việc phát hiện, ngăn chặn kịp
thời hành vi VPHC sẽ góp phần xác minh các tình tiết liên quan đến vi phạm để xử lý
chính xác hay ngăn chặn tác động tiêu cực của hành vi vi phạm. Chẳng hạn, để thiết
lập trật tự giao thông, Nhà nước đặt ra những quy định về quy tắc giao thông, như
quy tắc sử dụng làn đường, vượt xe, chuyển hướng, dừng, đỗ xe, chở người, hàng
hóa… Nếu tất cả mọi người tham gia giao thông đều tuân thủ các quy tắc đó thì giao
thông sẽ ổn định, trật tự, an toàn. Bất cứ hành vi vi phạm hành chính nào về giao
thông đều ảnh hưởng xấu đến trật tự giao thông, gây mất an toàn cho người và
phương tiện tham gia giao thông. Trên thực tế có nhiều hành vi vi phạm không được
phát hiện, ngăn chặn kịp thời đã gây ra những hậu quả thảm khốc. Pháp luật có những
quy định thể hiện trực tiếp nguyên tắc này, như: để xác minh các tình tiết liên quan
đến vi phạm hành chính, khi xét thấy cần thiết, người có thẩm quyền có thể quyết
định khám người, khám phương tiện vận tải, đồ vật. Việc khám người, khám phương
tiện vận tải, đồ vật trong trường hợp thông thường thì phải có quyết định bằng văn
bản của người có thẩm quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo tính kịp thời, pháp luật cho
phép khám không cần quyết định bằng văn bản mà tiến hành khám ngay nếu có căn
cứ cho rằng nếu không khám ngay thì đồ vật, tang vật, phương tiện, tài liệu bị tẩu tán,
tiêu hủy[1].
Khi phát hiện hành vi VPHC thì người có thẩm quyền phải xử phạt nghiêm
minh để đảm bảo giá trị trừng trị người vi phạm, đồng thời giáo dục người vi phạm
và giáo dục chung đối với tất cả mọi người. Việc không xử lý hay xử lý quá nhẹ có
thể dẫn đến sự coi thường pháp luật, nếu xử phạt quá nặng sẽ gây bức xúc cho người
bị xử phạt. Cả hai khả năng đó đều ảnh hưởng bất lợi đến ý thức pháp luật của người
dân.
Bên cạnh đó, có nhiều hành vi VPHC gây ra thiệt hại về mặt thực tế. Chẳng
hạn, hành vi xả, thải nước, khí có chứa các thông số nguy hại môi trường sẽ làm ô
nhiễm đất, nước, không khí. Sự ô nhiễm này sẽ gây nguy hại cho con người, cho
động, thực vật. Vì vậy, với các hành vi VPHC có gây thiệt hại thực tế thì ngoài việc
xử phạt người vi phạm bằng hình thức xử phạt thì còn cần phải áp dụng các biện pháp
cần thiết để khắc phục hậu quả do VPHC gây ra thì mới thực sự loại trừ được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Nếu hậu quả của vi phạm hành chính
không được khắc phục thì hậu quả đó có thể ảnh hưởng rất lâu dài như trường hợp
công ty Vedan đã làm ô nhiễm dòng sông Thị Vải mà theo ước tính thì nếu áp dụng
tích cực các biện pháp cần thiết cũng phải mất 10 năm đến 15 năm mới trả lại cho
dòng sông tình trạng ban đầu[2].
2. Nguyên tắc việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng, công khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật
Thứ nhất, việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng. VPHC thường
được coi là hành vi có tính nguy hiểm thấp hơn tội phạm nên thông thường việc xử
phạt VPHC không phải mất quá nhiều thời gian mà vẫn có thể đảm bảo chính xác,
đúng pháp luật. Hơn nữa, khi xử phạt VPHC, bằng việc áp dụng một số biện pháp
cưỡng chế theo quy định của pháp luật có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hay hoạt
động bình thường của người bị xử phạt. Hơn nữa, như trên đã nêu, việc xử phạt
17
nhanh chóng sẽ có khả năng ngăn ngừa kịp thời các tác động tiêu cực do vi phạm
hành chính gây ra. Nguyên tắc này được thể hiện ở cả hai thủ tục xử phạt VPHC.
Trong thủ tục xử phạt không lập biên bản, quyết định hành chính được ban hành ngay
khi người có thẩm quyền phát hiện hành vi vi phạm. Trong thủ tục xử phạt có lập
biên bản, thời hạn ban hành quyết định xử phạt VPHC nói chung là 7 ngày; trong
trường hợp pháp luật quy định có giải trình hoặc trường hợp không có giải trình
nhưng phức tạp thì thời hạn là 30 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Với thời hạn như vậy, việc xử phạt VPHC cần được thực hiện nhanh chóng vì nếu hết
thời hạn thì người có thẩm quyền không được ban hành quyết định để xử phạt về
hành vi vi phạm đó nữa.
Thứ hai, việc xử phạt VPHC phải được tiến hành công khai, khách quan. Hiện
nay, công khai đã trở thành nguyên tắc chung trong hoạt động của Nhà nước, trừ
trường hợp liên quan đến bí mật nhà nước. Nhiều quy định về xử phạt VPHC đã thể
hiện nguyên tắc này, như: biên bản vi phạm hành chính phải có chữ ký của người vi
phạm hoặc đại diện của người vi phạm, nếu người vi phạm không có mặt thì phải có
chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm[3]; công bố công khai việc
xử phạt VPHC trong trường hợp vi phạm gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về
xã hội[4]; các quy định về khám người, khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính, khám phương tiện vận tải cũng chú ý đến việc công bố quyết định
khám, có người chứng kiến, lập biên bản về việc khám…[5] Công khai giúp cho việc
kiểm soát dễ dàng nên sẽ hạn chế sai phạm trong xử phạt vi phạm hành chính, còn
khách quan thì bảo đảm xử phạt chính xác, đúng người, đúng vi phạm.
Thứ ba, việc xử phạt VPHC phải đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng
quy định của pháp luật.
Xử phạt VPHC là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước để áp dụng các biện
pháp cưỡng chế đối với người vi phạm nên chỉ người có thẩm quyền mới có quyền
xử phạt VPHC và chỉ được xử phạt trong giới hạn thẩm quyền pháp luật quy định.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được thể hiện cụ thể là ai được quyền xử
phạt, được xử phạt đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực nào, được áp dụng
các biện pháp cưỡng chế nào, đến mức độ nào. Việc xử phạt đúng thẩm quyền sẽ tạo
nên sự hài hòa, không chồng chéo, không bỏ sót vi phạm và xử phạt được thuận tiện,
chính xác. Việc xử phạt cũng phải bảo đảm công bằng để ai vi phạm cũng đều bị xử
phạt, vi phạm giống nhau thì bị xử phạt giống nhau, đồng thời có tính đến các yếu tố
đặc thù về người vi phạm, điều kiện, hoàn cảnh vi phạm nhưng trong giới hạn pháp
luật quy định. Chẳng hạn, sau khi ban hành quyết định xử phạt VPHC, nếu cá nhân bị
phạt tiền từ 3.000.000 đồng trở lên đang gặp khó khăn đặc biệt, đột xuất về kinh tế do
thiên tại, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo, tai nạn thì người có thẩm
quyền có thể xem xét miễn, giảm tiền phạt[6].
3. Nguyên tắc việc xử phạt VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả
vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng
Bất cứ hành vi VPHC nào cũng có tính nguy hiểm cho xã hội và tùy theo mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà pháp luật quy định hình thức, mức phạt phù
hợp. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi VPHC tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như bản thân hành vi đó là hành vi gì, mức độ nghiêm trọng của hậu quả gây ra,
người vi phạm là ai, thực hiện hành vi vi phạm trong điều kiện hoàn cảnh nào… Vì
vậy, để xử phạt VPHC nghiêm minh, công bằng, có giá trị răn đe, phòng ngừa cao thì
18
khi xử phạt phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đồi tượng vi phạm,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, mức xử phạt.
4. Nguyên tắc chỉ xử phạt VPHC khi có hành vi VPHC do pháp luật quy
định;một hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần;nhiều người cùng thực hiện một hành
vi VPHC thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi VPHC đó;một người thực
hiện nhiều hành vi VPHC hoặc VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm
Một hành vi vi phạm pháp luật nói chung đều có 2 dấu hiệu: dấu hiệu nội dung
là hành vi đó có tính nguy hiểm cho xã hội; dấu hiệu hình thức là hành vi đó phải
được pháp luật quy định đó là hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, pháp luật quy định
người khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực
pháp luật nhưng pháp luật không có quy định hành vi không thực hiện quyết định giải
quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật là hành vi VPHC nên không thể xử phạt cá
nhân, tổ chức khiếu nại nếu họ không thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại.
Nguyên tắc này thể hiện quan điểm là chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới có quyền
xác định một hành vi trái pháp luật nào đó có phải là VPHC không và trong trường
hợp có hành vi thực sự có tính nguy hiểm cho xã hội mà vì lý do nào đó pháp luật
chưa quy định đó là hành vi VPHC thì không ai có thể bắt cá nhân, tổ chức chịu trách
nhiệm hành chính về hành vi đó. Trong trường hợp pháp luật quy định một hành vi là
VPHC thì mỗi lần cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi đó sẽ chỉ bị xử phạt một lần về
hành vi VPHC đã thực hiện được. Nếu người có thẩm quyền phát hiện cá nhân, tổ
chức thực hiện nhiều VPHC hay nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một vi phạm
thì việc xử phạt mỗi cá nhân, tổ chức về từng hành vi họ vi phạm trong một lần xử
phạt cũng vẫn là một VPHC chỉ bị xử phạt một lần.
5. Nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh
VPHC;cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính
Để xử phạt VPHC đối với cá nhân, tổ chức thì người có thẩm quyền xử phạt
phải chứng minh được cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện hành vi vi phạm trên thực tế.
Nếu không chứng minh được có VPHC trên thực tế thì không thể xử phạt và muốn
xử phạt về hành vi vi phạm nào thì phải chứng minh có hành vi đó. Có như vậy,
người có thẩm quyền mới có thể biết được cần xử phạt ai và xử phạt như thế nào để
tránh sai sót. Mặc dù vậy, người có thẩm quyền đôi khi vẫn không có đủ thông tin
cần thiết hoặc thông tin họ có không rõ ràng, chính xác nên có thể dẫn đến kết luận
sai và ra quyết định xử phạt sai. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xử
phạt, Luật năm 2012 đưa ra nguyên tắc cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không VPHC. Nguyên tắc
này được thể hiện rất rõ trong quy định về quyền giải trình của người bị xử phạt
VPHC [7].
6. Nguyên tắc đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền đối với tổ
chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân
Đây cũng là nguyên tắc mới được đưa vào trong Luật năm 2012. Theo đó, khi
thực hiện hành vi vi phạm có tất cả mọi tình tiết giống nhau thì tổ chức vi phạm sẽ bị
phạt tiền với mức tiền phạt cao gấp đôi so với mức tiền phạt đối với cá nhân đã thành
niên. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong tất cả các nghị định quy định về
VPHC và xử phạt VPHC trong các lĩnh vực cụ thể.
19
2. Khi xử phạt vi phạm hành chính, có những tình tiết giảm nhẹ nào? cho ví
dụ minh họa về các tình tiết đó.
Trong xử lý vi phạm hành chính tại các lĩnh vực như thuế, doanh nghiệp thì các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định tại luật số 12/2012/QH13 về xử phạt vi
phạm hành chính. Cụ thể tại điều 9 và điều 10 như sau:
Các tình tiết giảm nhẹ trong xử phạt hành chính (Điều 9):
1. Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả
của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
2. Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực
giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính;
3. Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vượt
quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
4. Vi phạm hành chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh
thần;
5. Người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có
bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình;
6. Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây
ra;
7. Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu;
8. Những tình tiết giảm nhẹ khác do Chính phủ quy định.
Phần ví dụ minh họa Học viên bám vào 7 tình tiết giảm nhẹ để có ví dụ cụ thể.
Như tình tiết thứ 7 Vi phạm do trình độ lạc hậu có thể nêu tình huống: Đồng bào
dân tộc thiểu số vi phạm luật giao thông đường bộ - Không độ mũ bảo hiểm khi đi
xe máy hoặc xe không đầy đủ các thiết bị như còi, đèn..

MÔN: KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO

Câu 8: Để ra được quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, có tính khả thi và tổ
chức thực hiện tốt, theo anh/chị cần chú ý tới những kỹ năng nào? Anh/chị hãy phân
tích một kỹ năng mà anh/chị thấy cần thiết nhất cho việc ra quyết định lãnh đạo, quản
lý như trên. Liên hệ thực tiễn?
Câu 9: Anh/chị hãy làm rõ nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ? Liên hệ với thực tiễn
và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả quy định hiện nay về công tác bổ nhiệm
cán bộ?
Câu 10: Anh/chị hãy phân tích vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở?
Hãy trình bày một trong những nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo,
quản lý ở sơ sở mà anh/chị cho là quan trọng nhất, cho ví dụ minh họa?

GỢI Ý TRẢ LỜI


Câu 8: Để ra được quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, có tính khả thi
và tổ chức thực hiện tốt, theo anh/chị cần chú ý tới những kỹ năng nào? Anh/chị

20
hãy phân tích một kỹ năng mà anh/chị thấy cần thiết nhất cho việc ra quyết định
lãnh đạo, quản lý như trên. Liên hệ thực tiễn?
Trả lời
1. Những kỹ năng để ra được quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, có tính
khả thi và tổ chức thực hiện tốt.
- Kỹ năng thu thập thông tin, phân tích và sử dụng thông tin
- Kỹ năng soạn thảo, ra quyết định.
- Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý.
- Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý
- Kỹ năng xử lý tình huống trong lãnh đạo, quản lý.
- Kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2. Phân tích một kỹ năng mà anh (chị) thấy cần thiết nhất cho việc ra quyết
định lãnh đạo, quản lý như trên (học viên chọn một trong các kỹ năng sau đây,
có kiến giải thêm rõ hơn nguyên nhân vì sao cần thiết nhất. Đề cương chỉ nêu
nội dung của các kỹ năng. Khi liên hệ học viên nên bám vào nội dung của từng
kỹ năng để làm.)
Thứ nhất, Kỹ năng thu thập thông tin, phân tích và sử dụng thông tin
Để ra được một quyết định lãnh đạo, quản lý phù hợp, cán bộ, công chức lãnh
đạo cấp cơ sở cần phải xác định thông tin được thu thập từ nguồn nào? Và khi có
thông tin cần phải kiểm tra thông tin bằng cách đặt ra và trả lời một loạt câu hỏi:
Thông tin có hoàn toàn mới không? Thông tin dùng trong việc ra quyết định như thế
nào? Độ tin cậy và chính xác của thông tin là bao nhiêu phần trăm? Có cần lưu trữ
thông tin này không?
Thông tin đến với lãnh đạo cấp cơ sở qua nhiều "kênh”, đó là:
- Tiếp nhận từ cấp trên chỉ đạo xuống cơ sở.
- Tự thu thập khai thác.
- Đội ngũ tham mưu giúp việc cung cấp.
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gần dân và giải quyết những vấn đề thực tế đặt ra ở
địa phương. Vì vậy, việc lãnh đạo cấp cơ sở trực tiếp tìm hiểu thông tin về tình hình
thực tế cơ sở là hết sức cần thiết tránh tình trạng nắm bắt thông tin không kịp thời dẫn
đến việc ra những quyết định lãnh đạo, quản lý xa rời thực tế, hiệu lực, hiệu quả
không cao.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở
cũng phải chú ý tới việc cập nhật và khai thác thông tin từ Intemet ở những địa
phương có điều kiện đáp ứng về công nghệ thông tin.
Hiện nay, việc khai thác và sử dụng thông tin phục vụ công tác lãnh đạo, quản
lý nói chung và việc ra quyết định lãnh đạo, quản lý nói riêng ở cấp cơ sở còn rất
thiếu vắng về việc sử dụng sự tham mưu của các chuyên gia ở các lĩnh vực khác
nhau.
Ở cấp cơ sở có thể khai thác tốt sự tham mưu, góp ý của các cán bộ, công chức
đã nghỉ hưu vì đây là những "chuyên gia" trong nhiều lĩnh vực mà cấp cơ sở có thể
khai thác tại chỗ. Vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng thôn, tổ trưởng dân phố
cũng hết sức quan trọng vì đây là đầu mối nắm bắt thông tin ở các cụm dân cư trên
địa bàn cấp xã.
Việc xử lý thông tin để ra quyết - định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở được thực
hiện trước hết là của chính cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và bản thân cán bộ
21
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở vẫn là người lựa chọn thông tin cuối cùng. Chính vì vậy,
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của người lãnh đạo là một trong những yêu
cầu luôn phải được đặt ra và thường xuyên trau dồi.
Thứ hai, Kỹ năng soạn thảo, ra quyết định
Trong quá trình soạn thảo và ra quyết định lãnh đạo, quản lý cần chú ý tới việc
thực hiện đúng quy trình ra quyết định, tránh việc làm tắt tùy tiện dẫn tới những sai
sót trong quá trình ra quyết định. '
Trong quá trình dự thảo quyết định chú ý tới những ý kiến phản biện đã được
thu thập. Người lãnh đạo cân có thái độ cầu thị với những ý kiến phản biện để lửa
chọn những phương án, giải pháp thích hợp nhất trong quá trình xây dựng dự thảo
quyết định lãnh đạo quản lý.
Các sai lầm cần tránh trong việc soạn thảo và ra quyết định lãnh đạo, quản lý:
Một là, ra quyết định lãnh đạo, quản lý mà không nắm vững yêu cầu thực tế,
giải quyết vấn đề một cách chung chung, không đủ cụ thể và hiện thực, không đủ
chính xác rõ ràng, có thể hiểu và làm khác nhau.
Thực tế thời gian qua cho thấy, nhiều tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cấp cơ
sở đã bám sát đường lối, nghị quyết của Đảng để xác định nghị quyết của đảng bộ
mình, của cấp mình.
Nhìn chung, nhiều quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở đã tập trung hướng
vào những vấn đề bức thiết do cuộc sống đặt ra, bước đầu đáp ứng tâm tư nguyện
vọng của nhân dân. Tuy nhiên, tình trạng "lạm phát” các quyết định lãnh đạo, quản
lý, các quyết định còn mang tính dàn trải, chưa đi vào vấn đề cấp bách, có tính đột
phá của địa phương: Một số nơi còn tình trạng "mô phỏng" nghị quyết của cấp ủy
đảng cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên, quyết định của ủy ban
nhân dân cấp trên mà thiếu tính sáng tạo, vận dụng không phù hợp với thực tiễn của
địa phương mình. Đây là những tồn tại trong việc ra quyết định lãnh đạo quản lý ở cơ
sở cần khắc phục.
Hai là, quá tin vào tham mưu, người dự thảo, không xem xét nghiên cứu kỹ
lưỡng, không lắng nghe hết ý kiến người tham gia, người phản biện, hay quá tin vào
những hiểu biết chủ quan của mình đi đến ra quyết định lãnh đạo, quản lý một cách
phiến diện, chủ quan.
Ba là, thể hiện ở chỗ ra quyết định lãnh đạo, quản lý mang tính chất thỏa hiệp,
nể nang, dựa dẫm cấp trên một cách thụ động không có ánh sáng tạo, không tự chịu
trách nhiệm.
Bốn là, ra quyết định lãnh đạo, quản lý không đúng thấm quyền, không đủ căn
cứ pháp lý, quyết định có nội dung trùng lặp chồng chéo ngay trong bản thân quyết
định hoặc với các quyết định đã ra trước đó .
Thứ ba, Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý
Lập kế hoạch là một khâu trong chu tinh lãnh đạo, quản lý. Trong quy trình tổ
chức thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở lập kế hoạch là bước đầu tiên
trong quy rình tổ chức thực hiện quyết định và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo
hiệu quả thực hiện quyết định trên thực tế. Tuy nhiên, lập kế hoạch tổ chức thực hiện
quyết định lãnh đạo, quản lý phải được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các
khâu của chu trình thực hiện quyết định.
Người lãnh đạo có kỹ năng lập kế hoạch thể hiện:

22
- Việc tư duy có hệ thống tiên liệu được các tình huống trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý.
- Biết phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức một cách hữu hiệu hơn.
- Biết tập trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức.
- Nắm vững các nhiệm vụ cơ bản của tổ chức để phối hợp với các nhà lãnh đạo
quản lý khác.
- Sẵn sàng ứng phó và giải quyết nhanh chóng với các tình huống đặt ra trong
quá trình thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý.
- Phát triển hữu hiệu các tiêu chuẩn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.
Trình tự lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện quyết định
Bước 2: Xác định nội dung việc thực hiện quyết định
Bước 3: Xác định địa bàn, đối tượng, thời gian thực hiện quyết định
Bước 4: Xác định phương pháp thực hiện quyết định
Bước 5: Xác định phương pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định
Thứ tư, Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết định lãnh đạo, quản

Khi kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý đã được đặt ra, bất cứ đối
tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đều phải thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế dưới sự
chỉ đạo, điều hành của người lãnh đạo. Kỹ năng này giúp cho người lãnh đạo kiểm
soát được quá trình thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý đang được diễn ra thế nào,
từ đó đưa ra các ý kiến chỉ đạo phù hợp và kịp thời để hoàn thành công việc. Để điều
hành việc thực hiện quyết định trên thực tế một cách có hiệu quả người lãnh đạo phải
có khả năng nắm bắt các vấn đề phát sinh trong quá ình thực hiện quyết định, bên
cạnh đó cần chú ý tới một số vấn đề mang tính nguyên tắc sau :
- Thường xuyên giám sát tình hình thực hiện cũng như tinh thần thái độ làm
việc của cán bộ, công chức dưới quyền.
- Đưa ra các chỉ đạo rõ ràng, hợp lý.
- Sẵn sàng có những phương án hỗ trợ khi cần thiết.
- Nhanh chóng chỉ đạo tháo gỡ khó khăn mắc phải, hướng dẫn cấp dưới cách tự
giải quyết vấn đề trong quá trình thực hiện quyết định.
Thứ năm, Kỹ năng xử lý tình huống trong lãnh đạo, quản lý
Trong quá trình thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý có những tình huống
phát sinh cần phải giải quyết nhằm đạt hiệu quả trong việc thực hiện quyết định.
Người lãnh đạo cần chú ý tới việc xử lý các tình huống cản trở quá trình thực hiện
quyết định ví dụ: Tình huống thực tế xảy ra trong điều kiện thiên tai ảnh hưởng tới
tiến độ thực hiện quyết định, vi phạm sai phạm xảy ra trong quá anh thực hiện quyết
định cần giải quyết kịp thời v.v. .
Để giải quyết tốt các tình huống trong hoạt động lãnh đạo, quản lý người lãnh
đạo chú ý những vấn đề sau:
- Chỉ đạo triển khai giải quyết một cách chủ động theo kế hoạch đã xây dựng
trước.
- Những phát sinh mới nằm ngoài dự liệu cần có những phương án kịp thời
giải quyết nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời
- Thực hiện đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc Điều
lệ của Đảng.
23
Thứ sáu, Kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo là sự phản ánh về những hành vi vi phạm pháp luật nhằm
khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân dã bị xâm hại và
yêu cầu có hình thức xử lý đối với tổ chức, cá nhân đã vi phạm chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Trong quá trình thực hiện quyết định lãnh đạo việc tiếp nhận giải quyết kịp
thời khiếu nại, tố cáo là một yêu cầu đặt ra và là một khâu trong chu trình thực hiện
quyết định lãnh đạo, quản lý. Để thực hiện tốt công 'tác này, người lãnh đạo cần thực
hiện đúng yêu cầu sau:
- Nắm được các quy định pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng về giải
quyết khiếu nại, tố cáo kể cả về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố
cáo.
Nắm được các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo đặc thù gắn
với thực tế địa phương.
Những kỹ năng cần trau dồi và thực hiện tốt là:
- Kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo.
- Kỹ năng giao tiếp của cán bộ công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ nói
chung và tiếp nhận khiếu nại, tố cáo nói riêng.
- Kỹ năng phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
- Kỹ năng xác minh, xem xét và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.
3. Liên hệ thực tiễn (học viên tự làm)

Câu 9: Anh/chị hãy làm rõ nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ? Liên hệ với thực
tiễn và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả quy định hiện nay về công tác bổ
nhiệm cán bộ?
Trả lời
(Cần phân tích rõ 3 nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ theo QĐ 105-QĐ/TW ngày
19/12/2017; Liên hệ thực tiễn và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả quy định
hiện nay về công tác bổ nhiệm cán bộ)

Nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ đảng quy định tại Điều 10 Quy định 105-QĐ/TW năm
2017 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử do Ban Chấp
hành Trung ương ban hành. Cụ thể như sau:

1- Cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết
định một cách dân chủ trên cơ sở phát huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của từng
thành viên, nhất là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

2- Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; phải căn cứ vào phẩm
chất, đạo đức, năng lực, sở trường của cán bộ và tiêu chuẩn chức danh.

3- Bảo đảm sự ổn định, kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị.được quy định ra sao?

24
DỰA VÀO PHẦN NÀY ĐỂ LIÊN HỆ Ở ĐƠN VỊ

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ của Đảng
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta,
nhất là trong công tác cán bộ. Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo cho Đảng trở
thành một tổ chức chặt chẽ, đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, trên cơ sở
đó trí tuệ của toàn Đảng - cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng, được phát huy
một cách tối đa. Vì vậy, trong công tác tổ chức, cán bộ - công tác then chốt của
Đảng càng phải coi trọng và thực hiện nghiêm nguyên tắc này. Bài viết đề xuất một
số giải pháp góp phần đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện hiệu
quả, phát huy vai trò của nguyên tắc cơ bản, nền tảng trong công tác tổ chức, cán
bộ của Đảng.

1. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động được nêu trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc (ĐBTQ) lần thứ XI thông qua (năm 2011), thì tập
trung dân chủ được coi là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng, bởi vì
nguyên tắc này quy định bản chất và những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của Đảng.
Trải qua gần 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng ta luôn kiên định
tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng, song nội dung
của nguyên tắc này không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Điều
25
9 Điều lệ Đảng đã cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ thành 06 nội dung để thực
hiện thống nhất trong toàn Đảng như sau:
Một là, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách (tuy cấp ủy cấp trên có quyền chỉ định nhưng không được quá 1/3 số
lượng do Đại hội bầu). 
Hai là, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội ĐBTQ. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi
cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của
Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt
là cấp ủy).
Ba là, cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội
cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của
mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong
toàn Đảng phục tùng Đại hội ĐBTQ và Ban Chấp hành Trung ương.
Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn
một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên
được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo
lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội ĐBTQ, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có
thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số.
Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song
không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và nghị quyết của cấp trên.
2. Công tác tổ chức, cán bộ của Đảng với nguyên tắc tập trung dân chủ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc... huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(1). Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng chứng
minh rằng, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ. Đảng ta luôn xác định công tác tổ chức, cán
bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Công tác cán bộ là một trong những công tác rất quan trọng của Đảng, bao gồm nhiều
công việc và triển khai đồng bộ các khâu: tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá,
giám sát, quản lý, quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính
sách cán bộ, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút
nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Đảng, ngoài
Đảng... Có những khâu theo trình tự, nhưng cũng có những khâu tiến hành song trùng,
đan xen nhau,... Mục tiêu cuối cùng và tối thượng của Đảng ta là: xây dựng đội ngũ cán
bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư
duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức
kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân,

26
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa
và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý.
Trong những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta thường xuyên coi trọng việc xây
dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ luôn đoàn kết thống nhất, có sức chiến
đấu cao. Xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức bao gồm nhiều việc, trong đó phải đặc biệt
quan tâm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ
chức của Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề trọng yếu, bảo đảm cho Đảng thật
sự chặt chẽ về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao. Đảng luôn yêu cầu
các cấp ủy và tổ chức đảng phải làm tốt công tác giáo dục, thống nhất nhận thức, đồng
thời chỉ đạo xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng. Một mặt, phải thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của đảng viên, có quy chế, quy
trình để đảng viên tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng
đầu cấp ủy phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến cũng như những việc làm sáng tạo của
đảng viên, của cấp dưới; lắng nghe các ý kiến khác nhau trước khi quyết định; thực hiện
dân chủ tập thể trong công tác cán bộ. Mặt khác, phải đấu tranh với những khuynh
hướng dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan, muốn lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ,
bè phái, mị dân, theo đuôi quần chúng lạc hậu.
Dân chủ chân chính không thể có được nếu thiếu tập trung, thiếu kỷ luật, thiếu trách
nhiệm. Dân chủ không tương dung với độc đoán, chuyên quyền, cũng không phải là tự
do vô chính phủ. Nếu xa rời hoặc coi nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ là làm sai lạc tổ
chức đảng từ trong bản chất; nếu thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là
làm yếu sức mạnh của Đảng từ gốc.
Trong việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị,
Đảng ta luôn quán triệt tinh thần tích cực, khoa học, đồng bộ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ
chính trị. Việc xây dựng hệ thống tổ chức không chỉ là việc sắp xếp cơ cấu bộ máy mà
còn phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của mỗi tổ chức cũng
như của toàn hệ thống. Khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, trùng lặp công việc;
kiên quyết cắt giảm những bộ phận thừa, những khâu trung gian không cần thiết.
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí rất quan trọng. Những
năm qua, ở không ít nơi, tổ chức cơ sở đảng giảm sút vai trò lãnh đạo, thậm chí có nơi bị
vô hiệu hóa. Để sớm khắc phục tình trạng này, Đảng chú trọng việc chấn chỉnh và cải
tiến sinh hoạt Đảng, bố trí đúng cán bộ cốt cán - những người thật sự có năng lực, phẩm
chất đạo đức tốt, được nhân dân tín nhiệm; đồng thời làm tốt công tác đảng viên, kể cả
việc phát triển đảng viên mới đúng tiêu chuẩn, thật sự có chất lượng.
3. Tập trung dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ của Đảng
Về vai trò, trách nhiệm và thẩm quyền của Đảng trong công tác cán bộ, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
khẳng định: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”(2).
Như vậy, Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định: công tác cán bộ trong toàn bộ hệ thống
chính trị là công tác của Đảng; phải thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tức là
27
mọi vấn đề liên quan đến công tác cán bộ (đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bổ nhiệm, chế độ, chính sách, khen thưởng, kỷ luật… đối với cán bộ) đều phải
được tập thể thảo luận, bàn bạc kỹ lưỡng và quyết định theo đa số; đồng thời phát huy
vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm và lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn xảy ra tình trạng vi
phạm nguyên tắc này trên cả hai mặt: có nơi thì xảy ra tình trạng tập trung quan liêu, dẫn
đến độc đoán, gia trưởng, dân chủ chỉ là hình thức để hợp thức hoá và thực hiện ý chí
của người đứng đầu; có nơi lại xảy ra tình trạng dân chủ quá trớn dẫn đến dân chủ vô tổ
chức, buông lỏng kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Khi có ưu điểm, thành tích thì nhận là
công của mình, nhưng khi có khuyết điểm thì đổ lỗi cho tập thể, không xác định rõ trách
nhiệm của cá nhân. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khoá XI đã chỉ
rõ một trong ba vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay là: “Xác định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với
tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị”(3). Vấn đề này đã được giải quyết tại Quy định
số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị khóa XII “Về việc kiểm soát quyền lực
trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”.
Nhiều khâu trong công tác cán bộ như: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ
nhiệm, miễn nhiệm… đối với cán bộ đã từng bước được bổ sung hoàn thiện nhằm vừa
mở rộng, phát huy dân chủ, vừa bảo đảm tập trung và tăng cường kỷ cương, kỷ luật của
Đảng…
Để đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện hiệu quả, phát huy vai trò của
nguyên tắc cơ bản, nền tảng trong công tác tổ chức và cán bộ của Đảng, cần thực hiện
các giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng về vai trò nền tảng,
về sự tất yếu phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ
của Đảng. Các cấp ủy đảng, từ Trung ương đến cơ sở phải thường xuyên coi trọng nâng
cao nhận thức của toàn thể cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ trong công
tác tổ chức, cán bộ. Quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm, chủ trương, nghị quyết của
Đảng về cán bộ và công tác tổ chức, cán bộ. Quán triệt và giữ vững nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, bao gồm tất cả cán bộ
trong hệ thống chính trị. Khi thực hiện có sự phân công, phân cấp quản lý, phối hợp chặt
chẽ giữa cấp ủy các cấp, giữa cấp ủy với thường vụ cấp ủy ở từng cấp, giữa cấp ủy đảng
với chính quyền cùng cấp trong hệ thống tổ chức của Đảng. Mở rộng và phát huy dân
chủ trong công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
đảng viên tham gia vào các khâu của công tác này.
Hai là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách trong công tác tổ chức, cán bộ. Trao quyền nhiều hơn, đồng thời nâng cao trách
nhiệm của người đứng đầu trong công tác tổ chức, cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 4, khóa XI chỉ rõ một số vấn đề cấp bách: “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ
chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai
chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm
cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ,

28
dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một
cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”(4).
Chính sự không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân của người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan,
đơn vị đã ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả, hiệu lực quản lý của
Nhà nước. Từ thực trạng đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XI đã chỉ
ra một vấn đề cấp bách là cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan,
đơn vị.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XI để thực hiện tốt nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cần chú trọng một số nội dung sau:
Thứ nhất, thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi tập thể cấp
ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Thứ hai, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu, tinh thần dám nói, dám làm, dám chịu
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong công tác tổ
chức, cán bộ. Trong công tác tổ chức, cán bộ, cả trước đây và hiện nay, Đảng ta vẫn
khẳng định vai trò quyết định của tập thể cấp ủy dẫn tới tình trạng nếu đề bạt sai, bổ
nhiệm sai thì không có cá nhân nào chịu trách nhiệm cụ thể. Để khắc phục tình trạng
này, cần nêu cao hơn nữa trách nhiệm của những người giới thiệu, người đề cử để cấp
ủy, tập thể lãnh đạo xem xét. Trách nhiệm đó phải được kéo dài trong suốt thời gian cán
bộ được giới thiệu và được cấp ủy, tập thể lãnh đạo chấp nhận đề nghị đề bạt, bổ nhiệm
thực hiện nhiệm vụ được giao ở lần bổ nhiệm, đề bạt đó. Nếu có sai phạm mà nguyên
nhân là do giới thiệu nhầm, thì cán bộ giới thiệu phải chịu trách nhiệm. Đối với cấp phó
của thủ trưởng và cấp dưới, nên để thủ trưởng lựa chọn, cấp ủy cho ý kiến. Theo đó,
người giúp việc thủ trưởng (cấp phó) và cấp dưới sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm trước cấp
trưởng, trước cấp trên; sự đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm trên cơ sở nhiệm vụ được
phân công giữa cấp trưởng và cấp phó sẽ tốt hơn.
Thứ ba, tăng cường đấu tranh tự phê bình và phê bình, kiên quyết phê phán các hiện
tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức. Đổi mới quy trình ra nghị quyết, quán triệt và tổ
chức thực hiện nghị quyết. Cần xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát
huy trí tuệ tập thể cấp ủy và cán bộ, đảng viên.
Thứ tư, duy trì nghiêm túc chế độ kiểm tra, giám sát để giúp tổ chức đảng cấp dưới hoạt
động đúng hướng. Kịp thời ngăn chặn, khắc phục các khuyết điểm, sai phạm của cán bộ,
đảng viên, tổ chức đảng cấp dưới khi mới manh nha dấu hiệu vi phạm, nhất là biểu hiện
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mất đoàn kết, độc đoán, chuyên quyền. Xử lý
nghiêm minh những cá nhân có sai phạm trong công tác lãnh đạo, điều hành gây hậu quả
nghiêm trọng.
Ba là, thể chế hóa, cụ thể hóa các nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong công
tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế của từng cấp để tổ chức thực hiện thống
nhất. Thực hiện thể chế hóa, cụ thể hóa các nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế phải đảm bảo thực hiện.
Công tác tổ chức, cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, ban lãnh đạo
cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quyết định theo đa số; cá nhân phải nghiêm túc
chấp hành quyết định của tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của

29
tổ chức đảng cấp trên. Các quy định, quy chế sau khi ban hành phải được quán triệt sâu
rộng trong cán bộ, đảng viên, nhất là trong cấp ủy, tập thể lãnh đạo và đội ngũ làm công
tác tổ chức, cán bộ để hiểu đúng, thực hiện đúng.
Bốn là, mở rộng và phát huy dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ. Đẩy mạnh dân chủ
hóa, công khai hóa trong công tác tổ chức, cán bộ. Việc dân chủ hóa, công khai hóa phải
được thể hiện ở tất cả các khâu của công tác tổ chức, cán bộ: từ tuyển chọn, đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện
chính sách cán bộ đến giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm. Quy định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của người đứng đầu và các thành viên trong tập thể lãnh đạo cơ quan sử
dụng cán bộ và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ.
Kịp thời nắm bắt tình hình nội bộ của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đấu tranh, ngăn chặn có
hiệu quả những trường hợp lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, đưa ra những nhận xét thiếu
trung thực, không khách quan nhằm hạ uy tín cán bộ, nhất là ở những cơ quan, đơn vị có
tư tưởng cục bộ, bè phái hoặc đoàn kết nội bộ không tốt. Kịp thời kiểm tra, xác minh, kết
luận những vấn đề mới phát sinh để định hướng dư luận của cán bộ, đảng viên và quần
chúng; không để những thông tin sai sự thật chi phối chất lượng công tác tổ chức, cán
bộ.
Năm là, kiện toàn bộ máy các cơ quan tham mưu của cấp ủy, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ. Kiện toàn và nâng cao chất lượng các cơ quan
tham mưu giúp cấp ủy có cơ sở đưa ra quyết định đúng đắn về tổ chức, cán bộ. Cấp ủy
đảng nhất quán thực hiện chủ trương ưu tiên bố trí những cán bộ có kinh nghiệm, có
phẩm chất đạo đức tốt, công tâm và có tinh thần trách nhiệm cao làm công tác tổ chức,
cán bộ. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị.
Sáu là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác tổ chức, cán bộ.Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy theo thẩm quyền phải coi
trọng công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ và công tác tổ chức, cán bộ. Tập trung
kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ. Kịp
thời kiểm tra, kết luận và kiên quyết xử lý những cá nhân, tập thể vi phạm các quy định
về công tác tổ chức, cán bộ, nhất là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Kết hợp kiểm
tra, giám sát thường xuyên với định kỳ, kiểm tra dấu hiệu vi phạm. Xây dựng kế hoạch,
phân công tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát về công tác tổ chức, cán bộ bảo đảm
đồng bộ, thống nhất với những nội dung kiểm tra khác.
Bảy là, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ tiêu chí định lượng các đặc trưng
định tính của cán bộ để cất nhắc, đề bạt theo hướng coi trọng thực chất, không rơi vào
chủ nghĩa hình thức, thiên về bằng cấp, tuổi tác...; đặc biệt chú trọng năng lực tự vươn
lên qua thực tiễn của cán bộ và dự báo sự phát triển hơn nữa của cán bộ để quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm./.

Lưu ý: Toàn bộ QĐ 105 ngày 19/12/2017 rất dài. Học viên cần đọc trước để lựa
chọn nội dung phù hợp
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
------- ---------------
Số: 105-QĐ/TW Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2017
30
 

Điều 10. Nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ

1- Cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định một cách
dân chủ trên cơ sở phát huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên, nhất là của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

2- Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; phải căn cứ vào phẩm chất, đạo đức,
năng lực, sở trường của cán bộ và tiêu chuẩn chức danh.

3- Bảo đảm sự ổn định, kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của cơ quan, đơn vị.

Liên hệ với thực tiễn:


Đối với câu hỏi này khi liên hệ thực tiễn học viên cần bám sát vào Điều 10 của quy
định về nguyên tắc bổ nhiệm cán bộ để vận dụng vào cơ quan nơi mình đang công
tác. Ví dụ:
- Cán bộ được bổ nhiệm đã đáp ứng được các tiêu chí về tài, đức chưa?
- Cán bộ được bổ nhiệm có bị kỷ luật không?
- Bổ nhiệm cán bộ có xuất phát từ yêu cầu của đơn vị hay không?
- Quy trình bổ nhiệm cán bộ có đúng không? Đã đảm bảo các độ tuổi, có tính kế
thừa hay chưa?
- Đề xuất một số giải pháp để công tác bổ nhiệm cán bộ được hiệu quả hơn.

Câu 10
Anh/chị hãy phân tích vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở ? Hãy
trình bày một trong những nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo, quản
lý ở sơ sở mà anh/chị cho là quan trọng nhất, cho ví dụ minh họa?
Trả lời
1.Vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo nên sức mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất ý
chí và hành động, Cộng đồng dân cư trên địa bàn xã, phường, thị trấn, dù khác biệt
nhau nhiều phương diện, nhưng mỗi cộng đồng cũng có những lợi ích chung như bảo
vệ môi trường sống chung có lợi cho sức khỏe, giữ gìn trật tự trị an, giữ gìn vệ sinh
chung, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trường học, v.v.. Nếu không có cấp
quản lý cơ sở sẽ không thể thống nhất ý chí và hành động của người dân để tất cả đều
có cuộc sống tốt hơn. Hơn nữa, cấp cơ sở còn là nơi hỗ trợ trực tiếp cho dân cư khi
họ gặp khó khăn, cũng như tạo điều kiện cho dân cư tham gia vào hệ thống chính trị
chung của quốc gia.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo ra môi trường vừa cho phép mỗi người dân
được tự do sáng tạo, vừa định hướng hoạt động của mọi người theo mục tiêu chung.
Các xã, phường, thị trấn đều nằm trong một huyện, một tỉnh nào đó và thuộc nước ta,
do đó vừa được hưởng lợi chứng từ sự quản lý của huyện, của tỉnh và quốc gia, vua
phải thực thi nghĩa vụ của định với tập thể lớn hơn. Cơ quan quản lý cấp cơ sở là đầu
mối để triển khai chính sách chung một cách hiệu quả trên địa bàn cơ sở, vừa phản
31
ánh nguyện vọng, nhu cầu của cơ sở đến cấp trên để được hỗ trợ giải quyết kịp thời,
hiệu quả.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
bộ phận khác nhau của đơn vị thành một hệ thống thống nhất. Giữa các bộ phận dân
cư, ngành nghề hoạt động trên địa bàn xã, phường, thị trấn đôi khi cũng xảy ra xung
đột. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp đứng ra hòa giải hoặc phân xử nhằm tạo ra bầu không
khí đoàn kết, thông cảm, tương trợ lẫn nhau. Chức năng xét xử có thể chỉ phân quyền
ở phạm vi hẹp cho cấp cơ sở nhưng chức năng hòa giải của hệ thống chính trị chủ yếu
do cấp cơ sở đảm nhiệm.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững
của hệ thống chính trị có sự quản lý ở cấp cơ sở mà.hoạt động của dân cư và các tổ
chức trên địa bàn đi vào nền nếp, kỷ cương, giảm nhẹ gánh nặng quản lý, giám sát
cho cấp trên. Hơn nữa, sự chuyên nghiệp, linh hoạt và tận tâm của cán bộ cấp cơ sở
làm tăng uy tín của hệ thống chính trị. Ngược lại sự yếu kém của cấp cơ sở, nhất là
việc xử lý quan liêu, thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ cơ sở không những làm
cho hệ thống chính trị thiếu bền vững, mà còn làm phai nhạt niềm tin của quần chúng
vào hệ thống chính trị.
2. Trình bày một trong những nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý của
lãnh đạo, quản lý ở sơ sở mà anh (chị) cho là quan trọng nhất; chi ví dụ minh
họa? (học viên tự chọn một trong những nội dung hoạt động sau, và lấy ví dụ
minh họa cho nội dung mình lựa chọn)
Phần này Học viên tự chọn một nội dung mình tâm đắc nhất để làm cho phù hợp

Liên hệ: Đối với phần liên hệ của câu này hỏi sau khi đã lựa chọn nội dung mình cho
là tâm đắc nhất học viên cần bám sát vào những vấn đề sau để viết phần liên hệ:
- Vì sao đây là nội dung quan trọng nhất?
- Để nội dung này được triển khai một cách hiệu quả nhất cần thực hiện như thế
nào?
- Thực tiễn quá trình thực hiện nội dung.
- Đề xuất một số kiến nghị hoặc giải pháp để thực hiện tốt nội dung phù hợp với
công việc mình đang đảm nhiệm

Nội dung 1- Xây dựng mục tiêu, phương hướng, kế hoạch hoạt động ở cơ
sở
- Dự báo:
Dự báo là phán đoán một cách có căn cứ khoa học xu hướng phát triển của xã,
huyện, tỉnh, cả nước trong thời gian trước mắt và lâu dài nhằm cung cấp luận cứ cho
việc xây dựng chủ trương, chính sách, kế hoạch hành động của cơ sở.
Dự báo có vai trò quan trọng trong việc cung cấp căn cứ để lập kế hoạch hoạt
động của cơ sở. Chất lượng dự báo tốt, diện dự báo rộng cho phép cán bộ lập kế
hoạch của cơ sở đề xuất được các phương án và mục tiêu sát thực và khả thi hơn.
Ngược lại, nếu dự án báo không tốt dễ dẫn đến hành động cảm tính, duy ý chí, quan
liêu trong việc đề ra mục tiêu và kế hoạch hành động.
- Xác định mục tiêu:
Mục tiêu là kết quả hành động hoặc trạng thái kỳ vọng của cơ sở trong tương
lai. Chính vì thế, xác định mục tiêu đúng là một công việc rất quan trọng và không dễ
32
dàng trong công việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Xác định đúng mục tiêu của cơ sở
tức là mục tiêu đó phù hợp với điều kiện thực tế, khả thi và sử dụng hiệu quả nguồn
lực hiện có để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của dân cư, thì tự người dân sẽ tích cực hoạt
động nhằm thực hiện mục tiêu.
Mỗi cơ sở có một hệ thống mục tiêu đa dạng theo các mối quan hệ khác nhau.
Nếu phân loại mục tiêu theo thời gian thực hiện thì có mục tiêu ngắn hạn, mực tiêu
trưng hạn, mục tiêu dài hạn; nếu phân loại theo tầm quan trọng của mục tiêu thì có
mục tiêu cơ bản, chủ yếu, mục tiêu không cơ bản, thứ yếu; nếu phân loại theo phạm
vi, tính chất của mục tiêu thì có mục tiêu kinh tế, mục tiêu chính trị, mục tiêu xã hội,
mục tiêu văn hóa, mục tiêu an ninh quốc phòng, v.v.; nếu xét theo chủ thể thực hiện
mục tiêu thì có mục tiêu của ủy. ban nhân dân xã, phường, thị trấn, mục tiêu của đảng
ủy xã, phường, thị trấn, mực tiêu của Đoàn Thanh niên xã, phường, thị trấn, mục tiêu
của Hội Phụ nữ, Hội Nông dân xã, phường, thị trấn, v.v. . Vấn đề cần quan tâm là cấp
cơ sở phải thiết lập mối quan hệ ưu tiên và phối hợp giữa các mục tiêu.
- Lập chương trình, kế hoạch, hành động thực hiện mục tiêu:
Thứ nhất, Xây dựng các chương trình hành động để thực hiện mục tiêu.
Chương trình hành động là tổng thể các nỗ lực của cấp cơ sở đi đôi với tổng nguồn
lực và phương thức sử dụng nguồn lực tương ứng để đạt đến mục tiêu.
Thú hai, lập kế hoạch hành động cho từng mục tiêu, ừng bộ phận, cá nhân và
theo thời gian.
Có hai loại kế hoạch cần phải xây dựng: một là, kế hoạch hoạt động thường kỳ
của cơ sở; hai là, kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu.
Kế hoạch thường kỳ là lịch trình thực hiện các chức năng ổn định của cơ sở
như kế hoạch 1 năm, kế hoạch 5 năm, chiến lược cho từng giai đoạn. Đây là dạng kế
hoạch sắp xếp hoạt động của cơ sở theo một tiến trình thời gian đi đôi với sự phân bổ
hợp lý nguồn kinh phí và biên chế đủ để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Kế hoạch thực hiện chương rình mục tiêu là các kế hoạch soạn thảo riêng cho
từng chương trình cụ thể.
Kế hoạch của cấp cơ sở phải được truyền tải cho các bộ phận chức năng và cụ
thể hóa thành nhiệm vụ, chỉ tiêu của các bộ phận đó. Kế hoạch của cấp cơ sở là một
bộ phận của kế hoạch cấp trên nên phải phù hợp với kế hoạch, chương trình hành
động của cấp trên và phải được cấp trên phê chuẩn.
Ngoài các kế hoạch chính, cơ sở còn phải lập các kế hoạch dự phòng để đối
phó với rủi ro khi chúng xảy ra.
Căn cứ để lập kế hoạch là các thông tin từ tình hình thực hiện kế hoạch thời kỳ
trước, nhiệm vụ bổ sung trong kỳ tới, chế độ chính sách theo quy định của Nhà nước
và các đoàn thể chính trị những biến động đã được dự báo và những biến động dưới
dạng rủi ro, v.v..
Phương pháp lập kế hoạch thường được sử dụng là sắp xếp công việc theo tiến
độ thời gian, theo sự phân công trong cơ cấu tổ chức của cơ sở, theo các yêu cầu công
việc. Có thể sử dụng một số kỹ thuật trình bày kế hoạch như xây dựng mạng lưới
công việc lập sơ đồ đồ thị tiến độ, v.v. .
Nội dung 2. Tổ chức thực hiện mục tiêu, phương hướng, kế hoạch của cơ
sở
- Huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực:

33
Trước hết, cần huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực tài chính. Thông thường
nguồn lực tài chính của cấp cơ sở do ngân sách cấp trên hoặc do một tổ chức nào đó
tài trợ. Cán bộ quản lý, căn cứ dự toán đã được phê duyệt để phân bổ kinh phí cho
các lĩnh vực và hoạt động liên quan đúng với chế độ, chính sách và định mức của
Nhà nước. Khi phân bổ kinh phí cần chú ý đến tiến độ giải ngân sao cho phù hợp với
yêu cầu thực tế về kỹ thuật, kinh tế,
xã hội, tụ nhiên của ông hoạt động. Tiến độ cấp kinh phí phải phục vụ tốt cho việc
hoàn thành công việc được giao.
Tiếp theo, cần huy động, bố trí, sử dụng vật tư, thiết bị. Việc sử dụng tài sản đã
đầu tư thường theo chế độ chính sách của Nhà nước và việc huy động các nguồn lực
này phải theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả với chế độ duy tu, bảo dưỡng và thay thế
hợp lý. Lĩnh vực cần chú ý là đầu tư mới và mua vật tư, thiết bị bổ sung. Về nguyên
tắc các khoản đầu tư Và mua lớn phải thông qua đấu thầu theo quy định của Nhà
nước. Tuy nhiên do năng lực thực hiện dự án của cấp. cơ sở thấp nên tốt nhất là sử
dụng dịch vụ tư vấn và quản lý đầu tư. Các khoản mua sắm khác cần được giám sát
nhằm phòng tránh hiện tượng chuyển giá.
- Thiết lập và củng cố, đổi mới bộ máy tổ chức, quản lý:
Nhiệm vụ quan trọng của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở là thiết lập củng cố
hoặc cải tổ bộ máy quản lý phù hợp với cơ sở.
- Bộ máy quản lý là một chỉnh thể các bộ phận quản lý có chức năng, nhiệm vụ
khác nhau nhưng cùng chung mục tiêu là lãnh đạo, quản lý đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ. Các bộ phận cấu thành bộ máy quản lý gồm cấp và khâu quản lý.
Cấp quản lý là các nấc thang khác nhau trong hệ thống phân cấp quản lý. Cấp
quản lý là kết quả sụ phân chia hệ thống công việc quản lý theo chiều dọc, theo đó
cấp trên phụ trách cấp dưới, cấp dưới trực thuộc cấp trên. Cấp cơ sở thường chỉ có
một cấp dưới là nhân viên hoặc người dân, doanh nghiệp, v.v..
Khâu quản lý là các bộ phận khác nhau trong một cấp quản lý. Mỗi khâu quản
lý chỉ thực hiện một hoặc một số công việc quản lý.
Mối quan hệ giữa các khâu quản lý trong một cấp là quan hệ phối hợp công tác
cung cấp. Số khâu trong một cấp phụ thuộc vào mức độ phức tạp của các chức năng
mà cấp đó phải đảm nhiệm cũng như quy mô của đối tượng quản lý mà cấp đó phụ
trách. Ở cơ sở, chỉ có ủy ban nhân dân xã là phân chia thành các khâu quản lý chức
năng giao cho công chức thực hiện. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân, hiện nay cấp xã có 7 khâu chức năng do công chức đảm nhiệm, đó là khâu
quản lý văn phòng thống kê; khâu quản lý địa chính - xây dựng; khâu quản lý tài
chính - kế toán; khâu quản lý tư pháp - hộ tích; khâu quản lý văn hóa - xã hội; khâu
quản lý quân sự và công an xã.
Mối quan hệ giữa các bộ phận quản lý gọi là quan hệ quản lý. Quan hệ giữa
các cấp quản lý gọi là quan hệ dọc. Quan hệ giữa các khâu quản lý gọi là quan hệ
ngang. Trong thực tiễn, phối hợp theo chiều ngang khó hơn phối hợp theo chiều dọc
do các khâu quản lý đồng cấp, không thể ra lệnh cho nhau, chỉ có thể phối hợp với
nhau theo quy chế.
Khi xây dựng bộ máy quản lý cấp cơ sở cần tuân thủ các yêu cầu sau đây:
- Xác định rõ số lượng các khâu quản lý sao cho vừa đủ để thực hiện các chức
năng quản lý.

34
- Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm cho từng khâu quản lý trong đó đặc
biệt chú ý xác định rõ mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận.
- Các bộ phận quản lý không được đảm nhiệm các nhiệm vụ chồng chéo lẫn
nhau.
- Cơ cấu các bộ phận và mối quan hệ giữa chúng vừa phải đảm bảo tính ổn
định tương đối, vừa phải có tính thích nghi khi điều kiện thay đổi.
- Cơ cấu tổ chức quản lý phải đáp ứng yêu cầu hiệu lực, hiệu quả.
Trong thực tế, người tả thường tổ hợp các mối quan hệ quản lý cơ bản (trực
tuyến và chức năng) theo nhiều cách khác nhau để hình thành bộ máy quản lý đơn vị.
Quan hệ trực tuyến là phân chia đơn vị thành các cấp khác nhau, trong đó cấp
trên quản lý toàn diện cấp dưới, cấp dưới chỉ trực thuộc một cấp trên. Ưu điểm của
quan hệ này là tập trung quyền quản lý vào một đầu mối và các tuyến quản lý khá rõ
ràng, đơn giản Nhược điểm của nó là đòi hỏi quá nhiều ở cán bộ quản lý trực tuyến,
dễ làm họ quá tải và quản lý kém chuyên sâu.
Quan hệ chức năng là phân chia hoạt động của một cấp quản lý cho nhiều khâu
khác nhau, mỗi khâu chỉ đảm nhận một hoặc một số chức năng quản lý nhất định,
mỗi đối tượng quản lý bên dưới chịu sự quản lý của nhiều khâu chức năng bên trên.
Ưu điểm của quan hệ chức năng là tính chuyên môn hóa sâu của từng khâu quản lý
do đó có thể bao quát quy mô rộng và năng suất cao. Tuy nhiên, nhược điểm của
quan hệ này là phối hợp các khâu chức năng rất phức tạp, dễ có tình trạng chồng chéo
hoặc mâu thuẫn trong hành động của các khâu chức năng.
Trong thực tế, không có cơ cấu tổ chức thuần trực tuyến hoặc thuần chức năng
mà thường có sự kết hợp cả quan hệ trực tuyến và quan hệ chức năng với nhau gọi là
cơ cấu trực tuyến, chức năng.
Để đáp ứng các yêu cầu phức tạp trong việc ra quyết định quản lý, người ta có
thể bổ sung thêm các bộ phận tham mưu cho các khâu trực tuyến và chức năng.
Ngoài ra, có thể ghép thêm vào cơ cấu phụ thêm nhằm thực hiện các chương trình
mục tiêu.
Khi xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý mới, người ta thường thực hiện theo ba
phương pháp sau:
Một là, dựa vào cơ cấu mẫu đã có sẵn, chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với đơn
vị.
Hai là, thuê các chuyên gia xây dựng và thẩm định cơ cấu tổ chức quản lý mới.
Ba là, xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý mới dựa trên kỹ thuật phân tích công
việc, định mức lao động và hệ thống các chức danh phù hợp với đơn vị.
Khi cơ sở phải đảm nhiệm chức năng, nhiệm vụ mới hoặc khi điều kiện khách
quan có sự thay đổi khiến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cũ bị lạc hậu thì cần củng
cố, đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý này. Quy trình củng cố, đổi mới cơ cấu tổ
chức quản lý của cơ sở thường trải qua 3 bước:
Phân tích: Nếu muốn sửa chữa một cơ cấu cũ thì trong bước phân tích người ta
phải tiên ra được điểm yếu, điểm mạnh, điểm phù hợp và chưa phù hợp của cơ cấu tổ
chức bộ máy quản lý cũ với yêu cầu của chức năng, nhiệm vụ mới.
Thiết kế: Xác định cụ thể số cấp, khâu quản lý với quyền hạn và trách nhiệm
ừng cấp, ừng khâu rõ ràng. Xây dựng quy chế vận hành đơn vị. Xác định biên chế và
tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh.

35
Vận hành cơ cấu tổ chức quản lý mới: Tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ
vào các chức danh. Ban hành quy chế. Vận hành thử, điều chỉnh sai sót và chính thức
công nhận cơ cấu tổ chức quản lý mới (phê chuẩn của cấp có thấm quyền).
- Hoạt động đối ngoại:
Đối ngoại được hiểu ở đây là thiết lập các mối quan hệ với các cơ quan tổ chức
ngoài đơn vị. Cấp cơ sở có hai luồng quan hệ đối ngoại cần chú trọng điều chỉnh.
Thứ nhất, quán hệ công tác với cấp trên. Đây là mối quan hệ chủ đạo. Cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở không những phải cập nhật thông tin từ cấp trên để có thể
triền khai hoạt động phù hợp với kế hoạch của cấp trên một cách nhanh chóng và
đúng đắn mà còn phải tăng cường cung cấp thông tin cho cấp trên để hiểu đúng, đánh
giá đúng đơn vị cơ sở.
Thứ hai, quan hệ với đối tác. Đối tác ở đây được hiểu là các cơ quan tổ chức có
quan hệ với cơ sở nhưng không theo hệ thống dọc. Cơ sở phải tranh thủ quan hệ này
để duy trì các mối quan hệ phối hợp hiệu quả trong công việc cũng như để quảng bá
cho đơn vị mình.
- Điều hành và điều chỉnh hoạt động ở cơ sở:
Hai hoạt động cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở để cơ sở vận hành
có hiệu quả là điều hành công việc hàng ngày và điều chỉnh khi cần thiết.
Hoạt động điều hành hàng ngày phải tuân thủ theo lịch làm việc đã được cân
nhắc kỹ lưỡng khi soạn thảo và phải được thông báo cho các bên có liên quan.
Quá trình điều hành còn bao gồm việc ra các quyết định cần thiết. Yêu cầu của
một quyết định quản lý là phải rõ ràng, có địa chỉ người thi hành và có các điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện. Cán bộ cấp cơ sở có thể ra quyết định theo thẩm quyền
cá nhân hoặc biểu quyết tập thể.
Điều chỉnh kế hoạch, chương trình hành động khi cần thiết là hoạt động không
thường kỳ, nhưng khá quan trọng của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Do kế hoạch
được xây dựng trên cơ sở dự báo với nhiều tham số chưa thể kiểm soát nên kế hoạch
có thể không hoàn toàn trùng khớp với diễn biến thực tế. Khi những thay đổi trong
thực tế vượt quá mức dự phòng của kế hoạch thì cán bộ lãnh đạo, quản lý phải điều
chinh kế hoạch; hoặc cũng có thể điều chỉnh thay thế một số chi tiết nào đó nếu dự
báo là không chính xác.
Các dấu hiệu nhận biết cần điều chỉnh thường là tình trạng quá tải của đơn vị;
tình trạng lãng phí trong đơn vị; nhiệm vụ, yêu cầu có sự thay đổi lớn; nguồn lực
được phát hiện thêm hoặc bị rút bớt đi, môi trường hoạt động chịu biến động lớn, v.v.
.
Phương pháp điều chỉnh phổ biến là sử dụng kế hoạch dự phòng, kỹ thuật
phòng tránh rủi ro, bảo hiểm. Trong trường hợp các kỹ thuật trên không đáp ứng thì
cần phát huy sức sáng tạo của cá nhân và tập thể trong đơn vị để tấn phương thức ứng
phó.
Nguyên tắc điều chỉnh là luôn hướng tới mục tiêu cơ bản, lâu dài của tổ chức
để cân đối lại các hoạt động. Trong trường hợp điều chỉnh dẫn đến mâu thuẫn giữa
các mục tiêu đã định trước cần ưu tiên mục tiêu có ý nghĩa quyết định đối với đơn vị
Nội dung 3. Thực hiện kiểm tra, đánh giá và xây dựng môi trường làm
việc ở cơ sở
- Xây dựng và điều hành chế độ kiểm tra:

36
Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh hoạt động của đơn vị nhằm đảm bảo rằng
mọi việc, mọi con người trong tổ chức đang thực hiện theo đúng kế hoạch đã vạch ra
để hoàn thành mục tiêu.
Để kiểm tra có kết quả, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hiện ba công đoạn:
Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra
Đo lường việc thực hiện theo các tiêu chuẩn đã vạch ra:
Điều chỉnh sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn và kế hoạch:
Có hai đối tượng cần kiểm tra là công việc và nhân viên.
Có nhiều hình thức kiểm tra phòng ngừa, kiểm tra theo dấu hiệu sai phạm,
kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp, v.v….
Để kiểm tra có kết quả tốt, quá trình kiểm tra phải tuân thủ các yêu cầu sau:
- Kiểm tra phải dựa vào kế hoạch hành động của đơn vị và theo yêu cầu công
việc.
- Quá trình kiểm tra phải đảm bảo cung cấp thông tin trung thực, khách quan
và theo các tiêu chí đo lường thống nhất.
Kiểm tra cần chú trọng những khâu, công đoạn trọng tâm
- Kiểm tra phải linh hoạt, phù hợp với bầu không khí của đơn vị và tiết kiệm
Để quá trình kiểm tra không gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của
đơn vị, cần hòa nhập với không khí của bộ phận bị kiểm tra.
- Xây dựng và điều hành chế độ đánh giá:
Đánh giá là đưa ra phán xét tốt, xấu về một công việc nào đó. Về một bộ phận
hay con người nào đó. Cơ sở của đánh giá là yêu cầu đối với công việc, chức năng,
nhiệm vụ của bộ phận hay cá nhân.
Nội dung đánh giá bao gồm:
- Đánh giá công việc:
- Đánh giá con người:
Phương pháp đánh giá thường theo tiêu chuẩn, theo thang điểm hoặc theo nhận
xét của số đông đồng nghiệp.
Thẩm quyền đánh giá thường được giao cho cán bộ quản lý cấp trên trực tiếp
hoặc tập thể nơi cá nhân công tác. Cũng có thể sử dụng đánh giá của khách hàng, đối
tác.
Việc xây dựng và điều hành chế độ kiểm tra, đánh giá góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả công việc, gắn liền với việc thực hiện chế độ động viên, khuyến
khích (khen thưởng, phê bình, kỷ luật).
- Xây dựng môi trường làm việc hiệu quả ở cơ sở:
Môi rường làm việc ảnh hưởng lớn đến tinh thần và qua đó ảnh hưởng đến
hiệu suất công tác của cán bộ, nhân viên. Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở có trách
nhiệm xây dựng môi trường làm việc hiệu quả cho phép, không những thu hút và giữ
chân người tài, mà quan trọng hơn là cung cấp môi trường cho họ cống hiến hết năng
lực. Môi trường hoạt động hiệu quả thường phải có các tính chất: đoàn kết, chia sẻ,
thân thiện, cảm thông và hỗ trợ lẫn nhau.
Bên cạnh đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở phải quan tâm xây dựng truyền
thống tốt đẹp của đơn vị nhằm tạo dựng niềm tự hào chính đáng cho những người
làm việc trong đơn vị cũng như tạo dựng uy tín với đối . tác và quần chúng. Muốn
vậy, cán bộ lãnh đạo quản lý phải chú trọng củng cố các hoạt động thế mạnh của đơn

37
vị, giáo dục tinh thần vì tập thể của nhân viên, giữ gìn uy tín của cá nhân và đơn vị,
v.v. .
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần quan tâm, nhân ái, thương yêu nhân viên và quần
chúng. Chỉ có nhân cách tốt, cán bộ lãnh đạo quản lý ở cơ sở mới có đủ uy tín để
hoàn thành nhiệm vụ được giao.

38

You might also like