Professional Documents
Culture Documents
Baitapktct
Baitapktct
-------***-------
ĐỀ TÀI:……..
Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ:
Mã SV:
....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2019
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
Phần 1 HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ 5
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN
THỨ TƯ
Một số vấn đề lý luận về công nghiệp
1.1 hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng 5
công nghiệp lần thứ tư
Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2 14
đất nước hiện nay
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU
18
THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Kể từ khi Đảng ta đề ra đường lối CNH và lãnh đạo việc tiến hành công
cuộc CNH trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp tính đến
nay đã trên nửa thế kỷ. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt và kéo
dài không những đã làm gián đoạncông cuộc CNH, mà bom đạn Mỹ còn phá
huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà bình ở
miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi vào tình
trạng khủng hoảng nặng nề về KT - XH. Hơn thế nữa, quan niệm cũ về CNH
đã trở nên quá lạc hậu trước sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ hiện đại. Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi
mới, sự nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai
trò của con người trong phát triển KT - XH đương đại, cũng như những khó
khăn và cả những sai lầm khó tránh... đã được Đảng ta đúc kết thành những
bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coilà nhiệm vụ trọng tâm
để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Sự đánh giá
khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước ta đã CNH thành
công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết thành lý luận
CNH đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển trong điều kiện toàn cầu
hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri thức ngày càng đóng
vai trò quan trọng. Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang
phát triển rất mạnh mẽ, tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất là các
nước đang phát triển. Đối với nước ta, nếu tận dụng được những thành tựu
của cuộc cách mạng này có thể “đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh và rút ngắn thời
gian tiến hành CNH, HĐH đất nước; đồng thời cũng có thể làm n cho chúng
ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Thực tế
đó đang đặt ra vấn đề cần phải có những giải pháp phù hợp đối với quá trình
CNH, HĐH đất nước hiện nay. Vì vậy, tác giả chọnvấn đề: Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư
làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện
cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
* Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về
CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư. - Phân tích, đánh
giá thực trạng quá trình CNH, HĐH đất nước thời gian vừa qua. - Đề xuất
một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Quá trình CNH, HĐH đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.
- Về không gian: trên phạm vi cả nước.
4. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 2 phần (7 tiết), kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.
Phần 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1.1.1.Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá có lịch sử phát triển khoảng ba trăm năm nay, bắt đầu
từ nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó lan sang các nước ở Tây Âu, Bắc
Mỹ... và ngày nay ở các nước đang phát triển. Theo đó, có nhiều cách hiểu
khác nhau về công nghiệp hoá như: công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá của các nước đang phát triển.
Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã tổng kết
hiện có 128 khái niệm về công nghiệp hoá. Các khái niệm này xét về mục
đích, phương pháp tiến hành, về điều kiện KT - XH là khác nhau; CNH có
tính lịch sử gắn với những điều kiện của mỗi nước trong các thời kỳ khác
nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, công nghiệp hoá là quá trình
chuyển một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp là chủ yếu thành một nước có
nền kinh tế công nghiệp.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1-1994)
tiếp tục coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng
đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định chính
trị, xã hội, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng phát
triển xã hội chủ nghĩa. Hội nghị một lần nữa khẳng định: “chúng ta tiến hành
công nghiệp hoá không theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ
quan mà Đại hội VI đã phê phán. Côngnghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng
thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân” [7, tr. 27].
Ngày 30 tháng 7 năm 1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII đã ra NQ số 07-NQ/HNTW về pháttriển côngnghiệp, công
nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
xây dựng giai cấp côngnhân trong giai đoạnmới, trong đó chỉ rõ: “Công
nghiệp hoá, hiện đạihoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức
lao động thủ công là chínhsangsửdụng một cáchphổ biếnsức lao độngvới
công nghệ, phương tiện, phươngpháp tiên tiến hiện đại, dựatrên sự pháttriển
củacông nghiệp và tiến bộ KHCN, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [8,
tr. 4].
1.1.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Một là, đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế
theo hướng hiện đại
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là cuộc cách mạng về lực lượng
sản xuất nhằm chuyển nền kinh tế dựa trên trình độ KTCN thủ công, năng
suất lao động thấp thành nền kinh tế công nghiệp dựa trên trình độ KTCN
hiện đại, năng suất lao động cao. Để thực hiện sự cải biến này phải đổi mới
và nâng cao trình độ KTCN của nền kinh tế theo hướng hiện đại; thực hiện
cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá sản xuất.
Đối tượng đổi mới KTCNlà tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh
tế quốc dân. Trong đó, cần chú trọng các ngành sản xuất tư liệu sảnxuất, các
ngành côngnghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, mộtsố ngành
công nghiệp mới, công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Phải đổi mới công
nghệ ở các khâu của quá trình tái sản xuất nhằm bảo đảm tính đồng bộ, cân
đối của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cần đột phá vào
những khâu có ý nghĩa quyếtđịnh đếnnâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường, các lĩnh vực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các yếu tố
đó có vai trò, tỷ trọng khác nhau, song quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh
tình trạng phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Dưới những góc độ khác nhau có các dạng cơ cấu kinh tế như: cơ cấu
kinh tế ngành (công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); cơ cấu kinh tế vùng; cơ
cấu thành phần kinh tế... trong đó cơ cấu kinh tế ngành có tầm quan trọng
đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Điều quan trọng là phải tạo ra được một cơ cấu kinh tế
hợp lý. Đó là một cơ cấu kinh tế phản ánh đúng các quy luật khách quan mà
trước hết là quy luật kinh tế; phù hợp với xu thế tiến bộ của KHCN; cho
phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; thực hiện tốt sự
phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, mất cân đối,
ít hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại
dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế mở cửa, hội nhập.
Đối với nước ta, Đảng ta chủ trương phải từng bước xây dựng cơ cấu
kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại gắn với phân công lao
động và hợp tác quốc tế sâu rộng. Khi cơ cấu kinh tế này được được hình
thành, nước ta sẽ kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ thập niên đầu
tiên của thế kỷ XXI. Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư là sự gắn quyện giữa các nền công nghệ làm
xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó
là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba
chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano,
công nghệ sinh học...
Internet vạn vật (Internet of Things IoT) là hệ thống mạng điện tử mới
dựa trên công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông, không chỉ kết nối
con người với vật thể, con người với con người mà còn kết nối cả vật thể với
vật thể, làm cho máy móc có thể giao tiếp với máy móc trong môi trường
chung đa tầng nấc, đa chiều cạnh thông qua việc sử dụng các công cụ hiện
đại: website, email, điện thoại thông minh, mạng truyền thông xã hội, thiết
bị điện tử, thiết bị số hóa, thiết bị cảm biến siêu cao...
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) là công nghệ mô phỏng các
quá trình tư duy, nhận thức của con người, trong đó có các quá trình học tập,
phân tích, xử lý, lập luận, dịch thuật, sáng tác, dự báo, tự điều chỉnh... Hơn
nữa, trí tuệ nhân tạo còn mô phỏng được cả một số hành vi của con người,
trong đó chứa đựng trạng thái tinh thần, cảm xúc, khả năng ứng xử phù hợp
với từng cảnh huống. Trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo, các thiết bị tự động
sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong quá trình sản xuất vật chất hoạt động
kinh doanh, tác chiến quân sự, an ninh và nhiều loại hình lao động khác
cũng như trong đời sống thường nhật của con người.
Công nghệ in 3 chiều (3D Printing) hay còn được gọi là chế tạo cộng
(Additive Manufacturing), là công nghệ tạo ra một sản phẩm vật chất bằng
cách bồi đắp dần các lớp vật liệu từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có
trước. Khác với công nghệ chế tạo truyền thống - chế tạo trừ (Reductive
Manufacturing), đây là mô hình sản xuất mới, hết sức tùy biến sản xuất ra
những sản phẩm theo “số đo” của từng người, theo nhu cầu của từng khách
hàng; ngoài ra, quá trình sản xuất những phụ tùng thay thế sẽ rất tiện lợi: các
yêu cầu và thông số kỹ thuật được chuyển cho các tổ chức mẹ, khâu chế tạo
sản phẩm sẽ được các công ty con thực hiện tại chỗ nhờ hệ thống máy tính
dữ liệu lớn (big data) kết nối đa chiều. Đây thật sự là điểm khởi đầu cho sự
hình thành các công xưởng, nhà máy thông minh (Smart Factory) triển khai
một nền sản xuất được cá tính hóa (individualized mass production) mà các
nhà tư tưởng kinh tế xuất sắc của nhân loại đã dự báo cách đây gần 170 năm.
Với mô hình sản xuất 3D ở các nhà máy thông minh, lợi thế cạnh tranh sẽ
dịch chuyển từ chi phí, quy mô đầu tư... sang các yếu tố khác (ý tưởng, thiết
kế, chức năng riêng biệt, chuỗi cung ứng, dịch vụ...). Khi nền sản xuất này
trở thành phổ biến, chắc chắn các quy luật của kinh tế thị trường và sản xuất
hàng hóa sẽ phải biểu hiện dưới hình thức mới, khác nhiều so với thời kỳ
kinh điển từ trước tới nay.
Công nghệ sinh học hiện đại (modern biotechnology) với hạt nhân là
công nghệ gen hay công nghệ di truyền (genetic engineering) đã phát triển
lên tầm cao của lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ gen bao gồm các kỹ
thuật thực hiện trên axit nucleic nhằm nghiên cứu cấu trúc của gen; điều
chỉnh và biến đổi gen; tách, tổng hợp và chuyển các gen mong muốn vào các
tế bào sinh vật chủ mới tạo ra các cơ thể mới (thực vật, động vật, vi sinh vật)
mang đặc tính mới. Ngoài ra, công nghệ sinh học hiện đại còn bao gồm công
nghệ tế bào, công nghệ enzym và protein, công nghệ vi sinh vật, công nghệ
lên men, công nghệ môi trường...
1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội phát cũng như thách
thức cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam có thể tận dụng được những thành tựu
khoa học - công nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời cũng có thể
làm sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này.
1.3.1. Về thời cơ
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây có thể coi là một cơ
hội vàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam, tiến tới thu hẹp khoảng
cách với các nước phát triển. Cụ thể là:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo ra lợi thế của những nước đi
sau như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế bởi quy
mô cồng kềnh; tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng, vượt qua
các quốc gia khác cho dù xuất phát sau.
Việc đi sau và thừa hưởng những thành tựu từ cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 giúp Việt Nam tiết kiệm được thời gian nghiên cứu để phát huy
tối đa các tiềm năng và lợi thế sẵn có.
Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, đi tắt, đón đầu,
tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ thành tựu khoa học và công
nghệ, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế.
Các chủ thể trong nền kinh tế có điều kiện tiếp thu và ứng dụng những
tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông tin,
công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất,
hiệu quả trong tất cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Điều này đã tạo ra
khả năng nâng cao mức thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho
người dân.
Với ưu thế dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và Internet
cao, mức độ tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ tốt, cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đang tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội lớn
trong việc xây dựng và phát triển dữ liệu lớn. Tại sự kiện ngày Internet 2017
do Hiệp hội Internet Việt Nam tổ chức ngày 22 tháng 11 năm 2017 thì Việt
Nam hiện có 64 triệu người dùng Internet, xấp xỉ 67% dân số, đạt mức số
lượng người dùng Internet đứng thứ 6 châu Á và thứ 12 trên thế giới. Ngoài
ra, Việt Nam là nước có kết nối internet bằng điện thoại di động cao, có đến
55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, trong khi chỉ có 46% người
sở hữu máy tính cá nhân. Đến năm 2020 cứ 10 người Việt sẽ có 8 người
dùng điện thoại di động, hoạt động kinh doanh online sẽ tăng trưởng 40%.
Theo bà Tammy Phan - Giám đốc đối tác chiến lược và kênh bán hàng Việt
Nam của Google thì sử dụng dụng điện thoại di động giúp phát triển 11 kinh
tế. Cứ tăng thêm 1% số người dùng sẽ đóng góp hơn 100 triệu USD và GDP
năm 2020, và tạo thêm 140.000 việc làm mới. Như vậy, có thể thấy, Việt
Nam đang có cơ hội trong việc xây dựng dữ liệu lớn, làm nền tảng triển khai
các trụ cột khác của nền công nghiệp 4.0.
KẾT LUẬN
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
với các đặc điểm khác nhau. Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá, thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những
30. 30 thành công đã đạt được, quá trình thực hiện CNH, HĐH thời gian qua
cũng đang bộc lộ những hạn chế, đó là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so
với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và chậm được cải thiện, chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó
phải thực hiện quyết liệt quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế; nâng cao hiệu
quả huy động, phát triển nguồn lực, đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế về tài
chính, thu hút nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển, chú trọng quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh trên các cấp độ
quốc gia, địa phương, ngành và sản phẩm; tăng cường hiệu quả phân bổ, sử
dụng nguồn lực, trong đó, nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính
nhà nước trong đầu tư phát triển KT - XH gắn với thu hút đầu tư của khu vực
tư nhân, tạo cơ chế tài chính để các địa phương thu hút các nguồn lực cho phát
triển; hình thành các chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của các yếu
tố tiền đề CNH, HĐH.