Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH


TRỊ

ĐỀ TÀI:……..

Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ:
Mã SV:

GVHD: PGS.TS TRẦN VIỆT TIẾN

....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2019
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
Phần 1 HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ 5
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN
THỨ TƯ
Một số vấn đề lý luận về công nghiệp
1.1 hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng 5
công nghiệp lần thứ tư
Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2 14
đất nước hiện nay
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU
18
THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Kể từ khi Đảng ta đề ra đường lối CNH và lãnh đạo việc tiến hành công
cuộc CNH trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp tính đến
nay đã trên nửa thế kỷ. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt và kéo
dài không những đã làm gián đoạncông cuộc CNH, mà bom đạn Mỹ còn phá
huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà bình ở
miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi vào tình
trạng khủng hoảng nặng nề về KT - XH. Hơn thế nữa, quan niệm cũ về CNH
đã trở nên quá lạc hậu trước sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ hiện đại. Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi
mới, sự nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai
trò của con người trong phát triển KT - XH đương đại, cũng như những khó
khăn và cả những sai lầm khó tránh... đã được Đảng ta đúc kết thành những
bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coilà nhiệm vụ trọng tâm
để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Sự đánh giá
khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước ta đã CNH thành
công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết thành lý luận
CNH đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển trong điều kiện toàn cầu
hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri thức ngày càng đóng
vai trò quan trọng. Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang
phát triển rất mạnh mẽ, tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất là các
nước đang phát triển. Đối với nước ta, nếu tận dụng được những thành tựu
của cuộc cách mạng này có thể “đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh và rút ngắn thời
gian tiến hành CNH, HĐH đất nước; đồng thời cũng có thể làm n cho chúng
ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Thực tế
đó đang đặt ra vấn đề cần phải có những giải pháp phù hợp đối với quá trình
CNH, HĐH đất nước hiện nay. Vì vậy, tác giả chọnvấn đề: Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư
làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện
cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
* Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về
CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư. - Phân tích, đánh
giá thực trạng quá trình CNH, HĐH đất nước thời gian vừa qua. - Đề xuất
một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Quá trình CNH, HĐH đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.
- Về không gian: trên phạm vi cả nước.
4. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 2 phần (7 tiết), kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.

Phần 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1.1.1.Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá có lịch sử phát triển khoảng ba trăm năm nay, bắt đầu
từ nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó lan sang các nước ở Tây Âu, Bắc
Mỹ... và ngày nay ở các nước đang phát triển. Theo đó, có nhiều cách hiểu
khác nhau về công nghiệp hoá như: công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá của các nước đang phát triển.
Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã tổng kết
hiện có 128 khái niệm về công nghiệp hoá. Các khái niệm này xét về mục
đích, phương pháp tiến hành, về điều kiện KT - XH là khác nhau; CNH có
tính lịch sử gắn với những điều kiện của mỗi nước trong các thời kỳ khác
nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, công nghiệp hoá là quá trình
chuyển một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp là chủ yếu thành một nước có
nền kinh tế công nghiệp.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1-1994)
tiếp tục coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng
đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định chính
trị, xã hội, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng phát
triển xã hội chủ nghĩa. Hội nghị một lần nữa khẳng định: “chúng ta tiến hành
công nghiệp hoá không theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ
quan mà Đại hội VI đã phê phán. Côngnghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng
thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân” [7, tr. 27].
Ngày 30 tháng 7 năm 1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII đã ra NQ số 07-NQ/HNTW về pháttriển côngnghiệp, công
nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
xây dựng giai cấp côngnhân trong giai đoạnmới, trong đó chỉ rõ: “Công
nghiệp hoá, hiện đạihoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức
lao động thủ công là chínhsangsửdụng một cáchphổ biếnsức lao độngvới
công nghệ, phương tiện, phươngpháp tiên tiến hiện đại, dựatrên sự pháttriển
củacông nghiệp và tiến bộ KHCN, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [8,
tr. 4].
1.1.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Một là, đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế
theo hướng hiện đại
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là cuộc cách mạng về lực lượng
sản xuất nhằm chuyển nền kinh tế dựa trên trình độ KTCN thủ công, năng
suất lao động thấp thành nền kinh tế công nghiệp dựa trên trình độ KTCN
hiện đại, năng suất lao động cao. Để thực hiện sự cải biến này phải đổi mới
và nâng cao trình độ KTCN của nền kinh tế theo hướng hiện đại; thực hiện
cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá sản xuất.
Đối tượng đổi mới KTCNlà tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh
tế quốc dân. Trong đó, cần chú trọng các ngành sản xuất tư liệu sảnxuất, các
ngành côngnghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, mộtsố ngành
công nghiệp mới, công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Phải đổi mới công
nghệ ở các khâu của quá trình tái sản xuất nhằm bảo đảm tính đồng bộ, cân
đối của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cần đột phá vào
những khâu có ý nghĩa quyếtđịnh đếnnâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường, các lĩnh vực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các yếu tố
đó có vai trò, tỷ trọng khác nhau, song quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh
tình trạng phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Dưới những góc độ khác nhau có các dạng cơ cấu kinh tế như: cơ cấu
kinh tế ngành (công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); cơ cấu kinh tế vùng; cơ
cấu thành phần kinh tế... trong đó cơ cấu kinh tế ngành có tầm quan trọng
đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Điều quan trọng là phải tạo ra được một cơ cấu kinh tế
hợp lý. Đó là một cơ cấu kinh tế phản ánh đúng các quy luật khách quan mà
trước hết là quy luật kinh tế; phù hợp với xu thế tiến bộ của KHCN; cho
phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; thực hiện tốt sự
phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, mất cân đối,
ít hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại
dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế mở cửa, hội nhập.
Đối với nước ta, Đảng ta chủ trương phải từng bước xây dựng cơ cấu
kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại gắn với phân công lao
động và hợp tác quốc tế sâu rộng. Khi cơ cấu kinh tế này được được hình
thành, nước ta sẽ kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ thập niên đầu
tiên của thế kỷ XXI. Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư là sự gắn quyện giữa các nền công nghệ làm
xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó
là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba
chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano,
công nghệ sinh học...
Internet vạn vật (Internet of Things IoT) là hệ thống mạng điện tử mới
dựa trên công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông, không chỉ kết nối
con người với vật thể, con người với con người mà còn kết nối cả vật thể với
vật thể, làm cho máy móc có thể giao tiếp với máy móc trong môi trường
chung đa tầng nấc, đa chiều cạnh thông qua việc sử dụng các công cụ hiện
đại: website, email, điện thoại thông minh, mạng truyền thông xã hội, thiết
bị điện tử, thiết bị số hóa, thiết bị cảm biến siêu cao...
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) là công nghệ mô phỏng các
quá trình tư duy, nhận thức của con người, trong đó có các quá trình học tập,
phân tích, xử lý, lập luận, dịch thuật, sáng tác, dự báo, tự điều chỉnh... Hơn
nữa, trí tuệ nhân tạo còn mô phỏng được cả một số hành vi của con người,
trong đó chứa đựng trạng thái tinh thần, cảm xúc, khả năng ứng xử phù hợp
với từng cảnh huống. Trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo, các thiết bị tự động
sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong quá trình sản xuất vật chất hoạt động
kinh doanh, tác chiến quân sự, an ninh và nhiều loại hình lao động khác
cũng như trong đời sống thường nhật của con người.
Công nghệ in 3 chiều (3D Printing) hay còn được gọi là chế tạo cộng
(Additive Manufacturing), là công nghệ tạo ra một sản phẩm vật chất bằng
cách bồi đắp dần các lớp vật liệu từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có
trước. Khác với công nghệ chế tạo truyền thống - chế tạo trừ (Reductive
Manufacturing), đây là mô hình sản xuất mới, hết sức tùy biến sản xuất ra
những sản phẩm theo “số đo” của từng người, theo nhu cầu của từng khách
hàng; ngoài ra, quá trình sản xuất những phụ tùng thay thế sẽ rất tiện lợi: các
yêu cầu và thông số kỹ thuật được chuyển cho các tổ chức mẹ, khâu chế tạo
sản phẩm sẽ được các công ty con thực hiện tại chỗ nhờ hệ thống máy tính
dữ liệu lớn (big data) kết nối đa chiều. Đây thật sự là điểm khởi đầu cho sự
hình thành các công xưởng, nhà máy thông minh (Smart Factory) triển khai
một nền sản xuất được cá tính hóa (individualized mass production) mà các
nhà tư tưởng kinh tế xuất sắc của nhân loại đã dự báo cách đây gần 170 năm.
Với mô hình sản xuất 3D ở các nhà máy thông minh, lợi thế cạnh tranh sẽ
dịch chuyển từ chi phí, quy mô đầu tư... sang các yếu tố khác (ý tưởng, thiết
kế, chức năng riêng biệt, chuỗi cung ứng, dịch vụ...). Khi nền sản xuất này
trở thành phổ biến, chắc chắn các quy luật của kinh tế thị trường và sản xuất
hàng hóa sẽ phải biểu hiện dưới hình thức mới, khác nhiều so với thời kỳ
kinh điển từ trước tới nay.
Công nghệ sinh học hiện đại (modern biotechnology) với hạt nhân là
công nghệ gen hay công nghệ di truyền (genetic engineering) đã phát triển
lên tầm cao của lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ gen bao gồm các kỹ
thuật thực hiện trên axit nucleic nhằm nghiên cứu cấu trúc của gen; điều
chỉnh và biến đổi gen; tách, tổng hợp và chuyển các gen mong muốn vào các
tế bào sinh vật chủ mới tạo ra các cơ thể mới (thực vật, động vật, vi sinh vật)
mang đặc tính mới. Ngoài ra, công nghệ sinh học hiện đại còn bao gồm công
nghệ tế bào, công nghệ enzym và protein, công nghệ vi sinh vật, công nghệ
lên men, công nghệ môi trường...
1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội phát cũng như thách
thức cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam có thể tận dụng được những thành tựu
khoa học - công nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời cũng có thể
làm sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này.
1.3.1. Về thời cơ
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây có thể coi là một cơ
hội vàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam, tiến tới thu hẹp khoảng
cách với các nước phát triển. Cụ thể là:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo ra lợi thế của những nước đi
sau như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế bởi quy
mô cồng kềnh; tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng, vượt qua
các quốc gia khác cho dù xuất phát sau.
Việc đi sau và thừa hưởng những thành tựu từ cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 giúp Việt Nam tiết kiệm được thời gian nghiên cứu để phát huy
tối đa các tiềm năng và lợi thế sẵn có.
Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, đi tắt, đón đầu,
tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ thành tựu khoa học và công
nghệ, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế.
Các chủ thể trong nền kinh tế có điều kiện tiếp thu và ứng dụng những
tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông tin,
công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất,
hiệu quả trong tất cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Điều này đã tạo ra
khả năng nâng cao mức thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho
người dân.
Với ưu thế dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và Internet
cao, mức độ tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ tốt, cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đang tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội lớn
trong việc xây dựng và phát triển dữ liệu lớn. Tại sự kiện ngày Internet 2017
do Hiệp hội Internet Việt Nam tổ chức ngày 22 tháng 11 năm 2017 thì Việt
Nam hiện có 64 triệu người dùng Internet, xấp xỉ 67% dân số, đạt mức số
lượng người dùng Internet đứng thứ 6 châu Á và thứ 12 trên thế giới. Ngoài
ra, Việt Nam là nước có kết nối internet bằng điện thoại di động cao, có đến
55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, trong khi chỉ có 46% người
sở hữu máy tính cá nhân. Đến năm 2020 cứ 10 người Việt sẽ có 8 người
dùng điện thoại di động, hoạt động kinh doanh online sẽ tăng trưởng 40%.
Theo bà Tammy Phan - Giám đốc đối tác chiến lược và kênh bán hàng Việt
Nam của Google thì sử dụng dụng điện thoại di động giúp phát triển 11 kinh
tế. Cứ tăng thêm 1% số người dùng sẽ đóng góp hơn 100 triệu USD và GDP
năm 2020, và tạo thêm 140.000 việc làm mới. Như vậy, có thể thấy, Việt
Nam đang có cơ hội trong việc xây dựng dữ liệu lớn, làm nền tảng triển khai
các trụ cột khác của nền công nghiệp 4.0.

1.1.3.1. Về thách thức


Một là, thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: chuyển dịch cơ
cấu lao động trong gần 30 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn
nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay
vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên
thiên nhiên. Trình độ lạc hậu của người lao động và của cả nền kinh tế chính
là trở ngại lớn nhất để chúng ta bắt kịp với các thành tựu khoa học, công
nghệ trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trong tương lai, nhiều lao
động trong các ngành nghề của Việt Nam có thể thất nghiệp, ví dụ như lao
động ngành dệt may, giày dép.
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt nam còn rất nhiều hạn chế.
Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp. Theo số liệu thống kê
điều tra lao động việc làm quý 2 năm 2017 thì có tới 78.4% lao động không
có trình độ chuyên môn kỹ thuật; 9.48% lao động có trình độ đại học trở lên;
3.17% lao động có trình độ cao đẳng; 5.42% lao động có trình độ trung cấp;
3.53% lao động có trình độ sơ cấp. Thêm vào đó, những người lao động có
trình độ đại học trở lên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao
động. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp đang có xu hướng gia tăng trong số lao động
có trình độ cao. Theo Bản tin Thị trường lao động số 15, tại thời điểm quí 3
năm 2017 số người thất nghiệp có trình độ từ đại học trở lên tăng 53,9 nghìn
người so với quí 2 năm 2017 ở mức 237 nghìn người, tương đương 4,51%6 .
Ba là, năng suất lao động còn thấp so với khu vực. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê, năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm
2017 ước tính đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.166 USD/lao
động). Tính theo năng suất lao động theo sức mua tương đương năm 2011,
năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0%
mức năng suất của Xin-ga-po; 17,6% của Ma-lai-xi-a; 36,5% của Thái Lan;
42,3% của In-đô-nê-xi-a và bằng 56,7% năng suất lao động của Phi-li-pin.
Đáng báo động là chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các
nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền
kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp mức năng suất lao động của
các nước.
Bốn là, trình độ khoa học công nghệ của nước ta đang ở vị trí thấp so
với mức trung bình của thế giới. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công
nghệ năm 2015, thì hiện nay cả nước có gần 600 nghìn doanh nghiệp, với
hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phần lớn đều đang sử dụng công nghệ
tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ. Trong đó, có đến
76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 60 - 70
của thế kỷ trước, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị là đồ tân
trang..., chỉ có 20% là nhóm ngành sử dụng công nghệ cao. Một khảo sát
khác từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc cho thấy, tỷ lệ giá trị
nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm tại Việt Nam chưa đến 10% tổng kim
ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ lệ tại các nước đang phát triển khác lên đến
40%. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017- 2018, Việt Nam được xếp
hạng chung là 55/137 quốc gia, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến
đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều.
Năm là, quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp
vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp của cả nước,
phần lớn doanh nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50 - 99 lao động) để có
được mức năng suất lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít
(chỉ chiếm 2,1%), doanh nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị trường,
trung tâm công nghệ của thế giới, do đó, chưa thực hiện được chức năng cầu
nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước. Doanh
nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, chưa
tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu nên chưa tận dụng được tính lan
tỏa của tri thức, công nghệ và năng suất lao động từ các công ty, tập đoàn
xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó mức độ sẵn sàng
cho nền sản xuất tương lai.
Sáu là, các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển đều
cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tư, chuyển giao
công nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc Cách
mạng công nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Đây cũng chính
là áp lực lớn cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Việt Nam cần tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát triển nền
kinh tế thị trường nhất là thị trường khoa học công nghệ, cải thiện đổi mới
môi trường đầu tư kinh doanh, tích lũy đầu tư để thu hút chuyển giao, ứng
dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ vào phát triển nền kinh tế,
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảy là, quản trị nhà nước cũng là một trong những thách thức lớn nhất
đốivới nước ta. Sự nghiệp côngnghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ gặp
nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng được Nhà nước đềra trong thời gian qua thực hiện không thành công.
Bên cạnh đó, những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra áp lực
lớn nếu Nhà nước không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản lý để
ứng phó.
1.2.Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian
qua
1.2.1.Một số thành tựu công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước thời
gian qua
1.2.1.1. Về khoa học công nghệ
* Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua,
chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng
trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và
16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có
khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KHCN thuộc
khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KHCN
của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối
nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh
vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KHCN với trên
1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó
có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó
có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm
nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học công nghệ,
thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn
kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh
doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của
Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KHCN đã đạt 2%,
đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát
triển KHCN của Đảng và Nhà nước.
* Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về KHCN được tổ chức từ trung ương đến địa
phương đã đẩy mạnh phát triển KHCN , góp phần thực hiện các mục tiêu phát
triển KT - XH của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án
KHCN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển KT - XH. Cơ chế tuyển chọn tổ
chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KHCN đã bước đầu được thực hiện theo
nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức KHCN đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến
sản xuất và dịch vụ KHCN . Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động KHCN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của
tổ chức, cá nhân hoạt động KHCN được mở rộng.
Vốn huy động cho KHCN từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất -
kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng
kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho KHCN. Đã cải tiến một
bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu
trung gian.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về KHCN từng bước được
hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của
các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
* Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày
càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động
tíchcực củacác tổ chức KHCN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác
phổ biến, tuyên truyền rộngrãi về tác độngcủa KHCN đếnsản xuất và đờisống,
nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KHCN của người dân trong
thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KHCN ngày càng được xã hội hoá
trên phạm vi cả nước.
1.2.1.2. Về cơ cấu kinh tế
* Về cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ. Trước hết là trong
cơ cấu GDP, tỷ trọng khu vực Nhà nước đã giảm xuống còn dưới 1/3; của khu
vực tập thể còn rất thấp (5,05%); của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã
chiếm gần 20%; còn khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên dưới 11%... Vốn đầu
tư đã có sự chuyển dịch theo hướng khai thác các nguồn lực của các thành phần
kinh tế ở trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước đã giảm
xuống còn 39,3% (thời kỳ 2011-2013); của khu vực ngoài Nhà nước tăng lên
38,1%; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 22,6% (thời kỳ 2011-
2013). Về tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, tỷ trọng
kinh tế Nhà nước giảm xuống còn 10,2% năm 2013; tỷ trọng của khu vực ngoài
Nhà nước tăng lên 86,7%, trong đó của kinh tế tập thể giảm còn 1%, của kinh
tế tư nhân đã chiếm trên dưới 1/3; tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm 3,1%...
1.2.2.2. Cơ cấu vùng kinh tế còn nhiều bất cập
Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế cũng cho
thấy quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng và quy hoạch ngành theo vùng
hiện nay của nước ta chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để định hướng, điều
phối, phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản trị không gian KT-
XH, đặc biệt là thực hiện vai trò liên kết nội vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm
chưa thực sự phát huy vai trò đầu tàu, thiếu tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư
chưa vượt trội; các vùng khó khăn phát triển thiếu bền vững, khoảng cách giữa
các vùng chưa được thu hẹp; liên kết vùng còn yếu, nhất là giữa các tỉnh và
thành phố. Trong khi đó, vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực quốc gia
và xã hội phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế vùng và tăng cường liên kết
vùng còn hạn chế. Hiện nay, vẫn còn tồn tại tình trạng hầu hết các tỉnh, thành
và các vùng đều có những dấu hiệu “thu nhỏ” của quốc gia, nên quy hoạch, kế
hoạch chưa làm rõ được tính đặc thù, thế mạnh của mỗi địa phương và liên kết
nội vùng. Chất lượng quy hoạch phát triển KT-XH vùng còn nhiều bất cập, tình
trạng quá nhiều quy hoạch ở cấp địa phương, quy hoạch dàn trải, không tính
đến lợi ích kinh tế chung và lợi ích cộng đồng đã gây ra lãng phí và phức tạp
trong thực hiện. Chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng là yếu tố quan trọng đặc
biệt để bảo đảm cho liên kết vùng có hiệu quả nhưng lại là khâu yếu nhất trong
quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên kết vùng hiện nay.

KẾT LUẬN
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
với các đặc điểm khác nhau. Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá, thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những
30. 30 thành công đã đạt được, quá trình thực hiện CNH, HĐH thời gian qua
cũng đang bộc lộ những hạn chế, đó là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so
với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và chậm được cải thiện, chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó
phải thực hiện quyết liệt quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế; nâng cao hiệu
quả huy động, phát triển nguồn lực, đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế về tài
chính, thu hút nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển, chú trọng quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh trên các cấp độ
quốc gia, địa phương, ngành và sản phẩm; tăng cường hiệu quả phân bổ, sử
dụng nguồn lực, trong đó, nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính
nhà nước trong đầu tư phát triển KT - XH gắn với thu hút đầu tư của khu vực
tư nhân, tạo cơ chế tài chính để các địa phương thu hút các nguồn lực cho phát
triển; hình thành các chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của các yếu
tố tiền đề CNH, HĐH.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ III, Nxb
Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.182.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ III, Nxb
Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.182 - 183.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.24.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội, tr. 212.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Cương lĩnh xây dựng đấtnước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1991, tr.9.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 120.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.27.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghịlần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.4.
9. PGS, TS Trần Thị Vân Hoa, Cách mạng công nghiệp 4.0 - Vấn đề đặt ra cho
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam (2018), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Ngô Đăng Thành (2009), Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thông kê (nhiều năm).
12. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2014), Báo cáo nghiên cứu Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phục vụ việc tổng kết lý luận, thực
tiễn 30 năm đổi mới (1986 - 2016).

You might also like