Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 61

MỤC LỤC

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT......................................................................1


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH......................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................4
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu..........................................................................5
2.1. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................5
2.2. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................5
3. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................5
- Phương pháp thống kê, phân tích: từ những số liệu đã có, tác giả tiến hành
phân tích những số liệu đó để rút ra xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt
Nam 6
4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................6
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn................................................................................6
6. Kết cấu luận văn.....................................................................................................7
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN........................8
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế......................................................................................8
1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế..................................................................8
1.1.2. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế........................................8
1.1.2.1. Thực chất hội nhập kinh tế quốc tế...................................................................8
1.1.2.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế................................................................8
1.1.2.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam......................................9
1.2 Lịch sử hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN.................................................11
1.3 Các nội dung chính của Cộng đồng Kinh tế ASEAN........................................12
1.4.1 Tiến trình Việt Nam tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN....................13
1.4.2 Tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt Nam.............18
1.4.2.1 Vị trí của nền kinh tế Việt Nam trong ASEAN..................................................18
1.4.2.2 Tác động của AEC tới tổng thể nền kinh tế Việt Nam.......................................22
CHƯƠNG II: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM..............................................................................26

0
2.1 Tầm quan trọng của ngành nông nghiệp và thương mại đối với nền kinh tế
Việt Nam 27
2.2 Tác động của AEC tới ngành nông nghiệp Việt Nam.......................................27
2.2.1 Nông nghiệp Việt Nam sau khi mới gia nhập AEC........................................27
2.1.2 Những thành tựu đạt được của ngành nông nghiệp Việt Nam sau khi gia
nhập AEC................................................................................................................... 28
2.1.3 Hạn chế trong ngành nông nghiệp khi tham gia AEC...................................30
2.3 Tác động của AEC đến ngành thương mại Việt Nam.......................................32
2.3.1 Thành tựu của thương mại Việt Nam sau khi gia nhập AEC........................32
2.4 Hạn chế của ngành thương mại Việt Nam sau khi gia nhập AEC...................41
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT..............43
3.1 Kết luận................................................................................................................43
3.2 Một số khuyến nghị..............................................................................................44
3.2.1 Xét về khía cạnh vĩ mô......................................................................................44
3.2.2 Nông nghiệp.......................................................................................................46
3.2.2 Thương mại.......................................................................................................48
PHỤ LỤC...................................................................................................................55
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

Tên viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

AEC Asean Economic Cộng đồng Kinh tế


Community ASEAN

AFTA Asean Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do


ASEAN

ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia


Asia Nations Đông Nam Á

CEPT Common Effectively Hiệp định chung về ưu


Preferential Tariffs đãi thuế quan mậu dịch
EU European Union Liên minh Châu Âu

FTA Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do


IMF International Monetary Quỹ tiền tệ quốc tế
Fund
WB World Bank Ngân hàng thế giới

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế


giới

1
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH

STT Tên biểu đồ Nội dung biểu đồ Trang


1 Bảng 1.1 Thu nhập bình quân đầu 21
người các nước thành viên
ASEAN năm 2018

2 Bảng 2.1 Kim ngạch, tỷ trọng xuất 34


khẩu một số nhóm mặt hàng
chính của Việt Nam sang thị
trường ASEAN trong năm
2017
3 Bảng 2.2 36
Kim ngạch, tỷ trọng nhập
khẩu một số nhóm hàng
chính của Việt Nam có xuất
xứ từ ASEAN trong năm
2017

4 Bảng 2.3 37
Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm
xuất khẩu, nhập khẩu của
Việt Nam với các nước
ASEAN trong năm 2017

5 Biểu đồ 2.1 Kim ngạch hàng hóa xuất 31


khẩu, nhập khẩu và cán cân
thương mại giữa Việt Nam và
ASEAN các năm 2011-2017

6 Biểu đồ 2.2 Cán cân thương mại của các 34


nước thành viên ASEAN với
Việt Nam trong năm 2017
7 Biểu đồ 2.3 Tỷ trọng kim ngạch xuất 38
khẩu của Việt Nam sang thị
trường ASEAN trong năm
2017
8 Biểu đồ 2.4 Tỷ trọng kim ngạch nhập 39
khẩu của Việt Nam các hàng
hóa có xuất xứ từ ASEAN

2
trong năm 2017
9 Hình 1.1 GDP đầu người của các nước 19
ASEAN năm 2018
10 Hình 1.2 Cơ cấu GDP theo ngành của 20
Việt Nam năm 2017
11 Hình 1.3 Kim ngạch xuất khẩu, nhập 21
khẩu của Việt Nam sang các
châu lục năm 2018
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM KHI THAM GIA CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN

Họ tên cá nhân: Nguyễn Thanh Giang

Khoa: Kinh tế

Lớp: CQ55/61.01

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

4
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of
Southeast Asian Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Cộng đồng kinh tế ASEAN (tiếng Anh: ASEAN Economic Community,
viết tắt: AEC) là một khối kinh tế khu vực của 10 quốc gia thành viên
ASEAN chính thức được thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, khi
bản tuyên bố thành lập chính thức có hiệu lực. AEC là một trong ba trụ
cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra
trong Tầm nhìn ASEAN 2020.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập là để thực hiện mục tiêu
cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm
hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả
năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu
chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng
đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020.
Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010) - Chương
trình Hành động Vientiane đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là:
tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.
Việt Nam đã chính thức gia nhập vào AEC được hơn 3 năm. Tham gia
vào tiến trình xây dựng cộng đồng này, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội để
tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua đó mở rộng thị trường,
đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu
vào nhập khẩu, từ đó, góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù trong nước và trên quốc tế
đã có những bài nghiên cứu về những tác động vào nền kinh tế Việt Nam
khi tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN, tuy nhiên những bài nghiên
cứu đó chưa chỉ ra rõ những tác động hoặc chỉ mới chỉ ra chưa rõ ràng
các tác động đó. Vì vậy nghiên cứu này là cấp thiết.

2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu


2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu những tác động đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia
vào AEC. Từ đó chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam và đưa ra những đề xuất để Chính phủ, các doanh nghiệp sẽ
nắm được cơ hội và tránh những tác động xấu tới doanh nghiệp và nền
kinh tế.

2.2. Đối tượng nghiên cứu

Các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân mà chịu ảnh
hưởng từ việc Việt Nam tham gia vào AEC. Họ đại diện cho một bộ phận
các doanh nghiệp của Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, tác giả sử dụng các phương pháp
sau để nghiên cứu

- Phương pháp thu thập thông tin và xử lí thông tin: bằng cách khảo
sát một số đối tượng phù hợp với các tiêu chí đề ra, cùng các dữ liệu đã có
trên những nguồn uy tín, tác giả tiến hành tổng hợp, phân loại thông tin.
- Phương pháp thống kê, phân tích: từ những số liệu đã có, tác giả
tiến hành phân tích những số liệu đó để rút ra xu hướng phát triển của
nền kinh tế Việt Nam

4. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về tác động đối với ngành nông nghiệp và thương mại. Đây
là những ngành chủ lực và quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tác giả
sẽ nghiên cứu 2 ngành này kể từ khi tham gia vào AEC nên cần số liệu
của nền kinh tế Việt Nam trong vòng 3 năm kể từ năm 2017, 2018, 2019

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

● Ý nghĩa khoa học


6
Đề tài đã làm rõ được một số lý luận cơ bản về Cộng đồng kinh tế
ASEAN(AEC), đồng thời đề tài đã làm rõ được nhân tố của AEC tác
động tới nền kinh tế Việt Nam.Trên cơ sở các lý luận đưa ra, sau khi phân
tích về tác động của AEC tới nền kinh tế Việt Nam tác giả đã đưa ra các
đánh giá trên hai khía cạnh ưu, nhược điểm. Đồng thời cũng phân tích và
nêu ra cơ hội và thách thức Việt Nam phải đối mặt khi tham gia AEC.

Đề tài đã đưa ra một số giải pháp để nền kinh tế Việt Nam có thể
phù hợp với AEC trên cơ sở các hạn chế còn tồn tại nhằm thiết lập một
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.
● Ý nghĩa thực tiễn:
Tác giả đã phân tích ở những khía cạnh và góc độ khác nhau về
thực trạng tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt
Nam. Nhũng thực trạng đó liên quan tới lợi ích và khó khăn mà Việt Nam
phải đối mặt khi gia nhập AEC. Tất cả những nghiên cứu đều khẳng định
AEC có tác động rất lớn và quan trọng đến Việt Nam.
Những tài liệu đã phác họa được bức tranh toàn cảnh về mức độ
quan trọng của AEC ảnh hưởng tới nhà nước nói chung và các doanh
nghiệp Việt Nam nói riêng.
Tác giả nghiên cứu cũng đã đề xuất một số giải pháp phát huy lợi
ích mà AEC đem lại cũng như khắc phục những hạn chế do AEC mang
đến.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu. phần kết luận, phần tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung chính của bài luận sẽ được chia làm 3 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan về Cộng đồng kinh tế ASEAN

Chương 2: Những tác động đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia
vào Cộng đồng kinh tế ASEAN

Chương 3: Kết luận và một số biện pháp đề xuất


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ
ASEAN

1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế


1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
- Việc nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế có thể dưới những góc
độ khác nhau, hiện tại có hai quan điểm hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là việc các
quốc gia tiến hành đàm phán, thương lượng với nhau để đi đến ký kết các
hiệp định kinh tế, thương mại, đầu tư song phương, đa phương nhằm đảm
bảo tính đồng bộ, thống nhất của nền kinh tế quốc gia với kinh tế khu vực
và thế giới.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là việc các quốc
gia từng bước loại bỏ các rào cản thương mại, đầu tư nhằm tạo điều kiện
cho việc di chuyển, trao đổi các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia để các
quốc gia có điều kiện phát triển nền kinh tế trong nước nhanh hơn, có hiệu
quả hơn.

8
- Do đó, ở phạm vi của một quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế là thực
hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh
tế khu vực và thế giới, tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế
quốc tế, vào hệ thống thương mại đa phương.
1.1.2. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Thực chất hội nhập kinh tế quốc tế
Thực chất của hội nhập kinh tế là phát triển kinh tế quốc gia trong
sự cạnh tranh với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy,
tiêu chuẩn để đánh giá quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc
gia phải thể hiện ở việc thực hiện được các mục tiêu phát triển ở mức độ
cao trong điều kiện nền kinh tế mở cửa cùng với việc nâng cao được năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp trong nước.
1.1.2.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
a. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong
khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ những nguyên tắc của
các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia
+ Tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng
+ Áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu
đãi cho các nước đang và chậm phát triển.
+ Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt.
b. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là việc thực hiện tự do hóa
thương mại và đầu tư. Vì vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế các nước cần
phải từng bước dỡ bỏ các rào cản về thương mại và đầu tư tham gia vào
liên kết kinh tế quốc tế. Đối với một quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế
được thể hiện thông qua việc Chính phủ đàm phán ký kết các hiệp định
song phương đa phương, tham gia đưa ra và thực hiện các cam kết sau:
+ Cam kết dành ưu đãi cho các nước khác trong quan hệ kinh tế,
thương mại;
+ Cam kết về mức độ và lộ trình mở cửa của thị trường nội địa;
+ Cam kết về mức độ cắt giảm thuế quan từng bước dỡ bỏ rào cản phi
thuế quan trong quan hệ thương mại và đầu tư;
+ Cam kết thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc
minh bạch và công khai của hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến
thương mại và đầu tư.
1.1.2.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam
Ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là 1 trong
những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Quốc gia nào đóng cửa với
thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc
hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất
định, song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với
những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết
chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể
hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới.
- Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày
càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn
bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi
đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
- Về tài chính: số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã
tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các
tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy
nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa.

10
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những
lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo
có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá
trình hội nhập. Từng là một nước nghèo trên thế giới, sau hơn hàng chục
năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, từ
một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế
thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không vì thế
mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận
thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một
bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể không hội nhập với thế giới. Chỉ
có hội nhập mới khiến Việt Nam khai thác hết những nội lực sẵn có để có
thể có những thuận lợi trong phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà đại hội
Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối
chiến lược: “ Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết Trung
ương 4 đã đề ra nhiệm vụ: “Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ
tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với
khu vực và thế giới”.

1.2 Lịch sử hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN

● Năm 1992: khái niệm hội nhập kinh tế ASEAN lần đầu tiên được
đưa ra trong Hiệp định khung về Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế ASEAN
ký tại Singapore. Hiệp định này nhấn mạnh tầm quan trọng trong
hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, năng lượng và
khoáng sản, tài chính và ngân hàng, thực phẩm, nông nghiệp và lâm
nghiệp, giao thông và truyền thông.
● Năm 1992: Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu
lực chung (CEPT) được ký kết, sau đó được thay thế bởi Hiệp định
về Thương mại Hàng hoá ASEAN 2010.
● Năm 1995: Hiệp định khung về Dịch vụ ASEAN được ký kết
● Năm 1998: Hiệp định khung về Đầu tư ASEAN được ký kết, sau đó
được thay thế bởi Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN 2012.
● Năm 2003: Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 9, các nhà lãnh đạo
ASEAN lần đầu tiên tuyên bố mục tiêu hình thành một Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC). Mục tiêu này cũng phù hợp với Tầm nhìn
ASEAN 2020 thông qua vào năm 1997 với mục tiêu phát triển
ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN.
● Năm 2006: Tại cuộc họp các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 38,
Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint) đã được đưa ra
với các mục tiêu và lộ trình cụ thể cho việc thực hiện AEC.
● Năm 2007: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã đồng ý đẩy nhanh việc hình thành AEC vào
năm 2015 thay vì 2020 như kế hoạch ban đầu.
● Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức vào tháng 2 năm
2009 tại Thái Lan, các Nhà Lãnh đạo đã đưa ra Tuyên bố Cha Am
Hua Hin về “Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015)”
với 3 trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Cộng đồng
Chính trị - An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội
ASEAN.
● Ngày 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, các
nhà lãnh đạo ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc
thành lập AEC.
1.3 Các nội dung chính của Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức tại Thái Lan cũng thông
qua “Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN” với các
biện pháp và lịch trình cụ thể thực hiện AEC, bao gồm các nội dung:
(i) Xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông
qua các biện pháp dưới đây:
● Tự do lưu chuyển hàng hoá
● Tự do lưu chuyển dịch vụ
● Tự do lưu chuyển đầu tư

12
● Tự do lưu chuyển vốn
● Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề
● Lĩnh vực hội nhập ưu tiên
● Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp
(ii) Đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh
cao trên cơ sở thực thi những chính sách về:
● Cạnh tranh
● Bảo hộ người tiêu dùng
● Quyền sở hữu trí tuệ
● Phát triển cơ sở hạ tầng
● Thuế quan
● Thương mại điện tử
(iii) Phát triển kinh tế đồng đều thông qua thực hiện các biện pháp về
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Sáng kiến Hội nhập ASEAN nhằm
giúp các nước CLMV (Campuchia, Lào, My-an-ma và Việt Nam) nâng
cao năng lực bằng:
● Các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
● Sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong
ASEAN
(iv) Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu trên cơ sở tham gia vào
các Hiệp định thương mại tự do (FTA), tích cực tham gia vào chuỗi cung
ứng toàn cầu bằng những biện pháp như:

● Tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác kinh tế
● Nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu

1.4 Tổng quan về tác động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến nền
kinh tế Việt Nam

1.4.1 Tiến trình Việt Nam tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Trong vòng một thập kỷ kể từ khi thành lập ASEAN, kim ngạch
thương mại Việt Nam và ASEAN đã tăng gần 4 lần, từ khoảng 9 tỷ USD
năm 2018 lên đến gần 28,1 tỷ USD năm 2013. ASEAN trở thành thị
trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ và EU, với
kim ngạch 18,47 tỷ USD, tăng 4,4% so với năm trước đó. Về đầu tư. các
dự án có xuất xứ từ ASEAN hoặc thông qua ASEAN ngày một gia tăng.
Đồng thời, ASEAN cũng là thị trường đầu tư chủ yếu của các doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian qua.

Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động, tích cực
và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lập AEC luôn là một trong những
ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với ASEAN, Việt Nam quyết tâm và dành nỗ lực cao nhất để triển
khai các cam kết, chương trình, sáng kiến hướng tới mục tiêu thành lập
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, đặc biệt là các biện
pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.

Theo Báo cáo gần đây nhất của Ban Thư ký ASEAN về tỷ lệ thực hiện
các biện pháp trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC), ASEAN đã thực hiện được 91,5% các biện pháp ưu tiên có tác
động lớn đối với thương mại và đầu tư. Việt Nam là một trong các nước
đứng đầu về tỷ lệ thực hiện (tỷ lệ thực hiện các biện pháp ưu tiên đạt
94,5%). Để tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp xây dựng AEC,
các nước ASEAN nhất trí về một số định hướng, bên cạnh các biện pháp
khác, như sau: đánh giá các biện pháp chưa hoàn thành nhằm xác định lý
do chưa hoàn thành là vấn đề kỹ thuật hay vấn đề chính sách; tiếp tục
thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp còn lại trong Lộ trình tổng thể xây
dựng AEC.

14
Thực hiện chỉ đạo của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về việc xây dựng
Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015, Việt Nam đã cùng các nước
ASEAN khác hoàn tất dự thảo Lộ trình tổng thể xây dựng AEC sau năm
2015 tới 2025, dự kiến sẽ được các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua tại
Hội nghị cấp cao vào tháng 11 sắp tới tại Ma-lai-xia. Nội dung chủ yếu
của tài liệu này là các biện pháp chiến lược xây dựng một nền kinh tế
ASEAN hội nhập, cạnh tranh, năng động, lấy con người làm trung tâm,
phát triển các ngành có lợi thế và hướng ra toàn cầu. Đây cũng sẽ là
khuôn khổ để tất cả các cơ quan chuyên ngành trong trụ cột AEC xây
dựng kế hoạch hành động chuyên ngành tới năm 2025.

Nhìn vào quá trình thực hiện các cam kết của Việt Nam trong
AEC, có thể thấy rằng mức độ sẵn sàng của Việt Nam xét về góc độ Chính
phủ là tương đối cao. Theo ASEAN Scorecard, tính chung cho giai đoạn
từ năm 2008-2013, Việt Nam đạt 84,5% so với mức chung của ASEAN là
78,1%, nằm trong nhóm 3 nước hoàn thành tốt nhất (sau Singapore và
Thái Lan). Đối với các biện pháp ưu tiên mà các Bộ trưởng Kinh tế
ASEAN đã đề ra tới hết năm 2013. Việt Nam là một trong 2 nước có tỷ lệ
cao nhất trong ASEAN, đạt khoảng 90%, so với mức chung của ASEAN
là 81,7% (ngang với Singapore). Như vậy, nếu xét trên chỉ số này, sự sẵn
sàng của Việt Nam hướng tới AEC là rất cao. Tuy nhiên, biểu chấm điểm
này chỉ thể hiện số lượng các biện pháp mà các quốc gia đã thực hiện theo
cam kết, chưa thể hiện được hiệu lực thực thi cũng như mức độ hiệu quả
của biện pháp đó. Vì vậy, mức độ hoàn thành cao theo biểu chấm điểm
mới chỉ thể hiện mức độ sẵn sàng về mặt kiểm đếm số lượng, chưa thể
hiện rõ ràng mức độ sẵn sàng về chất lượng.
Hơn thế nữa, mặc dù định hướng, quan điểm hội nhập kinh tế nói
chung của Đảng và Nhà nước là rất rõ ràng và nhất quán, tuy nhiên quan
điểm hội nhập cho từng tiến trình, mối quan hệ của các tiến trình hội
nhập, cũng như các biện pháp định hướng cụ thể cho từng tiến trình lại
chưa được công bố một cách cụ thể và rõ ràng. Nếu xét riêng về quan
điểm và định hướng hội nhập ASEAN, có thể thấy rằng quan điểm về vấn
đề này qua các thời kỳ là chưa nhất quán, đặc biệt quan điểm về hội nhập
kinh tế ASEAN. Thời gian đầu khi mới gia nhập ASEAN, hội nhập của
Việt Nam vào ASEAN không thể hiện các bước chuyển rõ nét. Cho tới tận
năm 2003, Việt Nam vẫn hội nhập vào ASEAN theo hướng: cam kết càng
ít càng tốt, lộ trình càng dài càng tốt. Dó đó, hội nhập ASEAN ở thời kỳ
đầu mang nhiều màu sắc chính trị hơn là kinh tế. Tuy nhiên kể từ khi gia
nhập WTO, quan điểm trên dần thay đổi, một phần do đòi hỏi hội nhập
sâu của các định chế đa phương và một phần là do quyết tâm chủ động
hội nhập của Việt Nam. Các bộ, ngành hiện nay đã khẳng định rõ ràng
quan điểm chủ động trong việc tham gia các tiến trình hội nhập AEC,
khác với quan điểm trong giai đoạn trước đây là hội nhập càng ít càng
tốt, lộ trình càng dài càng tốt. Vì vậy, các bộ, ngành như Bộ Công
Thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Ngoại giao đã triển khai nhiều biện
pháp cụ thể để chuẩn bị cho Việt Nam hội nhập AEC.
Đặc biệt, thông qua kết quả điều tra khảo sát, tác giả đánh giá Hải
quan là ngành có mức độ sẵn sàng cao và có nhiều hoạt động để tích cực
hội nhập AEC. Hải quan đã có những tiến bộ nhanh trong vấn đề hài hòa
hóa thủ tục, đã triển khai từ mức thủ công sang bán thủ công, sau đó qua
internet và hiện nay thực hiện VNACC/VCIS. Tuy nhiên, các bộ, ngành
trong quá trình hội nhập, làm giảm các kết quả của hải quan điện tử và
một số hoạt động khác của ngành Hải quan. Đối với mục tiêu “Một cửa
quốc gia (NSW), để hoàn thành đòi hỏi phải trang bị cơ sở vật chất, cơ sở
hạ tầng, nguồn nhân lực cho tất cả các cục, chi cục trong cả nước một
cách đồng bộ. Đây là việc làm lâu dài và đến năm 2015 Việt Nam chưa thể
sẵn sàng để hoàn thành NSW.

16
Cũng theo kết quả điều tra của tôi, các cơ quan quản lý địa phương
chưa quan tâm nhiều tới AEC cũng như cơ hội và thách thức mà AEC
mang lại. Các sở, ban, ngành, địa phương hầu như nắm bắt rất ít các
thông tin cũng như tiến trình thực hiện AEC. Hầu hết các địa phương
chưa có kế hoạch và hành động cụ thể để hội nhập ASEAN nói chung và
AEC nói riêng. Các địa phương chỉ có những hoạt động để hỗ trợ doanh
nghiệp hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, chứ không có những hoạt
động riêng hỗ trợ cho doanh nghiệp hội nhập AEC. Các hoạt động cho
AEC được lồng ghép trong các hoạt động khác về hội nhập kinh tế quốc
tế.
Như vậy, mặc dù hiện nay quan điểm hội nhập kinh tế ASEAN của
Việt Nam đã mang tính chủ động và tích cực hơn nhiều, song thực chất sự
hội nhập này, xét trên một số khía cạnh còn mang tính hình thức. Do đó,
mặc dù Chính phủ có các quan điểm về hội nhập rõ ràng, thực hiện các
cam kết AEC đạt mức cao so với các nước ASEAN khác, song có một
khoảng cách rất lớn giữa cơ quan trung ương và các cơ quan quản lý địa
phương. Do đó, các hoạt động hội nhập AEC cần được đẩy mạnh hơn ở
cấp độ địa phương; bên cạnh đó, các bộ, ngành cần lưu ý đến hiệu quả
của các hoạt động đã được triển khai, từ đó có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Xét trên góc độ của doanh nghiệp Việt Nam, theo đánh giá của các cơ
quan quản lý trung ương và địa phương, phần lớn các doanh nghiệp còn
khá thờ ơ với việc Việt Nam hội nhập vào AEC. Một số ít doanh nghiệp có
quan tâm đến hội nhập AEC nhưng mức độ quan tâm cũng chưa cao. Kết
quả điều tra cho thấy chỉ có 48,9% các doanh nghiệp được điều tra biết
chính xác về thời điểm thành lập AEC. Hơn 80% các doanh nghiệp được
điều tra không biết về ASEAN Scorecard. Do đó, sự quan tâm và chuẩn bị
cho việc hội nhập AEC của doanh nghiệp Việt Nam còn quá thấp, thể
hiện rõ sự bị động của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập AEC.
Cho nên ở đấy đặt ra vấn đề về sự tuyên truyền, phổ biến thông tin cũng
cần điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của từng địa phương.
Sự thiếu quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam tới AEC xuất
phát chủ yếu về quan điểm của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường
ASEAN. Các doanh nghiệp chủ yếu nhìn nhận các lợi ích từ AEC trên
phương diện tiếp cận thị trường, gia tăng xuất khẩu sang ASEAN, mà lợi
ích này từ AEC cho đến nay tương đối hạn chế. Nhiều doanh nghiệp cho
rằng ASEAN tính đến thời điểm hiện nay không phải là thị trường quan
trọng do thương mại nội khối còn thấp, lợi thế so sánh khá tương đồng,
mức bổ trợ thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cho rằng thị trường
ASEAN có dịch vụ chưa tốt, cơ sở hạ tầng kém, quản lý kém, thủ tục
phức tạp chồng chéo và thiếu sự hài hòa hóa về các tiêu chuẩn kỹ thuật,
hàng hóa phải kiểm định nhiều lần theo nhiều bộ tiêu chuẩn khác nhau
nên chi phí kinh doanh với các đối tác ASEAN khá cao. Từ đó, ta thấy
rằng hiểu biết của doanh nghiệp về những nội dung cơ bản của AEC còn
thấp. Các doanh nghiệp chưa hiểu rõ các cơ hội, thách thức đến từ AEC.
Hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ nhận thấy được các cơ hội đến từ các
trụ cột khác cũng như các cơ hội hợp tác trong dài hạn. Các doanh nghiệp
cũng mới chỉ nhìn nhận được những thách thức đến từ sự cạnh tranh. Do
hiểu biết của các doanh nghiệp còn thấp nên dẫn tới các doanh nghiệp
còn bị động và chưa thực sự quan tâm đến việc điều chỉnh chiến lược kinh
doanh để đón đầu các cơ hội, vượt qua các thách thức từ AEC.

18
Nguyên nhân của sự thờ ơ và bị động của doanh nghiệp đối với hội
nhập AEC không chỉ xuất phát từ những đặc điểm của thị trường
ASEAN, quan điểm của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường
ASEAN, sự khó khăn của bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới trong thời
gian qua mà còn từ nhiều nguyên nhân quan trọng khác – như cách thức
thông tin và tuyên truyền về AEC cho doanh nghiệp còn chưa hiệu quả,
vai trò của Hiệp hội chưa được phát huy đúng mức và bản thân các
doanh nghiệp còn khá thụ động trong việc tìm hiểu thị trường ASEAN
nói chung và AEC nói riêng. Do đó, sự chung tay của cả cộng đồng, từ các
nhà quản lý trung ương đến các nhà quản lý địa phương và các doanh
nghiệp để giải quyết được các nguyên nhân gốc rễ trên là điều cần thiết,
giúp Việt Nam không chỉ chuẩn bị tốt cho việc hội nhập AEC từ năm
2015 trở đi.
Ngày 31/12/2015, bản tuyên bố thành lập AEC chính thức có hiệu
lực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước thành viên của Cộng
đồng kinh tế ASEAN.

1.4.2 Tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt
Nam

1.4.2.1 Vị trí của nền kinh tế Việt Nam trong ASEAN

Thứ nhất, Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (World bank), tính
đến tháng 12/2018, Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ASEAN xét về tổng
sản phẩm quốc nội với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định . Bình quân
GDP đầu người đứng thứ 6 (2546 USD), diện tích đứng thứ 4 và dân số
lớn thứ 3 trong số 10 nước ASEAN.
Hình 1.1: GDP đầu người của các nước ASEAN năm 2018
( đơn vị: tỉ USD)
Nguồn: IMF
Theo IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), GDP của Việt Nam theo giá hiện
hành năm 2018 đạt 241,27 tỉ USD, tăng 1,42% so với 10 năm trước (năm
2008 đạt 96,269 tỉ USD). So với các nước trong khu vực, Việt Nam xếp
thứ 6 sau Indonesia (1075 tỉ USD), Thái Lan (484 tỉ USD), Si (1110 tỉ
USD), Malaysia (817 tỉ USD) và Philippines (743,898 tỉ USD).
Thứ hai, tỷ trọng ngành Công nghiệp Việt Nam cao thứ 6, tỷ trọng
ngành Dịch vụ cao thứ 3 trong 10 nước ASEAN, tuy nhiên tỷ trọng ngành
Nông nghiệp còn khá lớn (17%).

20
Hình 1.2: Cơ cấu GDP theo ngành của Việt Nam năm 2017
(đơn vị: %)
Nguồn: World Bank
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta diễn ra còn chậm so với
nhiều nước trong khối như Philippines, Singapore, Malaysia,... làm hạn
chế tốc độ bắt kịp cũng như khả năng thu hẹp khoảng cách với các nước
phát triển trong khu vực.
Thứ ba, tính tới hết năm 2018, Châu Á vẫn là đối tác Việt Nam
xuất nhập khẩu nhiều nhất với kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm tới
80,2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, lớn hơn nhiều lần
so với các châu lục khác. Có thể thấy rằng, hoạt động khu vực của nước
ta đang diễn ra mạnh mẽ hơn nhờ tận dụng các lợi thế từ liên kết khu vực
trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là xuất nhập khẩu.
Hình 1.3: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam sang các
châu lục năm 2018 (Đơn vị: tỷ USD)
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
ASEAN là một thị trường xuất nhập khẩu đứng thứ 2 của Việt
Nam tại Châu Á so với các đối tác chính như Trung Quốc. Nhật Bản và
Hàn Quốc và cũng là một trong các đối tác thương mại quan trọng hàng
đầu và là động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ
tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, theo ASEAN Stats (bộ phận thống kê ASEAN), quy mô
nền kinh tế hiện hành của Việt Nam tương đối thấp so với các nước
ASEAN, nhưng mức chênh lệch này ngày càng thu hẹp đáng kể trong
những năm gần đây. Quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt
Nam năm 2005 chỉ bằng 1/3 Thái Lan, gần 1/2 Singapore, gần 1/5
Indonesia. Tuy nhiên, đến năm 2018 con số này đã cải thiện đáng kể:
bằng 1/2 Thái Lan và dưới 1/2 Singapore.

22
ASEAN Stats cho biết, trong lúc các nước phát triển cao như
Brunei, Singapore, Thái Lan và Malaysia đang vật lộn với những khó
khăn do khủng hoảng kinh tế, với GDP tăng trưởng thấp, thậm chí Brunei
còn tăng trưởng âm 1,8% , thì Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng
trưởng tương đối và đứng thứ 6 trong khu vực, sau Lào, Campuchia,
Philippines, Indonesia và Myanmar.
Việt Nam đã gia nhập nhóm các nước thu nhập trung bình , với
GDP bình quân đầu người tiếp tục tăng qua từng năm. Trong năm 2018,
GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng tới 7,08%, cao nhất trong 10
năm trở lại đây
Bảng 1.1: Thu nhập bình quân đầu người các nước thành viên ASEAN
năm 2018 (đơn vị: USD)
Nguồn: IMF

Tên quốc gia GDP/ người (đơn vị: USD)

Singapore 61.767

Thái Lan 6992

Indonesia 4052

Malaysia 11.237

Myanmar 1338

Brunei 33.233

Việt Nam 2546

Philippines 3095

Lào 2706

Campuchia 1499
1.4.2.2 Tác động của AEC tới tổng thể nền kinh tế Việt Nam

Một năm sau khi gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN, đã có những
sức ép đổi mới thể chế pháp luật và cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh ở Việt Nam.

Đánh giá sau một năm gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC),
các chuyên gia nhận thấy những cam kết pháp lý, các thỏa thuận, tuyên bố
và lời hứa hợp tác như Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA);
Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS); Hiệp định về di chuyển thể
nhân; Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)… cùng các thỏa thuận
thừa nhận lẫn nhau hay những lĩnh vực hợp tác khác đều chưa đạt được
nhiều tiến bộ như kỳ vọng.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa thu được những hiệu quả tích cực
về tình hình xuất khẩu, sự phát triển của các lĩnh vực, ngành hàng như
thương mại bán lẻ, dịch vụ logistics, du lịch, giáo dục, y tế... Mặc dù vậy,
kể từ khi có AEC cùng các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt
Nam với các nước, các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới, đã
có những sức ép trong đổi mới thể chế pháp luật, cải thiện môi trường đầu
tư kinh doanh ở Việt Nam, đồng thời góp phần tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp.

Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
sau 1 năm AEC chính thức có hiệu lực, với 9 thị trường trong khối ASEAN
được tháo bỏ rào cản thuế quan đã mở ra cơ hội xuất khẩu to lớn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam. Chưa khi nào, các quy trình lưu chuyển hàng
hóa trở nên thống nhất và thuận lợi đến thế với cơ chế một cửa ASEAN;
hệ thống hải quan điện tử quá cảnh; các quy trình đánh giá tuân thủ được
thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN và cùng áp dụng chung một biểu thuế
quan hài hòa ASEAN.

24
Tính tới hết tháng 6 năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa
Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỉ đô la Mỹ, trong đó kim ngạch xuất khẩu là
12,2 tỉ đô la Mỹ và kim ngạch nhập khẩu là 15,9 tỉ đô la Mỹ.Cũng theo Bộ
Công Thương, tính đến năm 2018, tỉ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam
trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là
98%. Như vậy, trong số 10 FTA mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội
khối ASEAN (AFTA) có tỉ lệ xoá bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ
trình thực hiện là 19 năm.

Hơn nữa, việc mở cửa thị trường rộng lớn, thống nhất và sôi động
trong khu vực ASEAN, Việt Nam cũng như các nước thành viên trong khu
vực đều được hưởng lợi về thị trường đầu ra cũng như thị trường đầu vào
cho sản phẩm, thị trường nguồn lao động. Bên cạnh đó còn có nền tảng tốt
hơn về chính sách cạnh tranh và đầu tư, nền tảng hạ tầng về giao thông,
năng lượng và công nghệ thông tin hoàn thiện hơn, nền tảng về quản trị và
tiêu dùng….

Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với rất
nhiều thách thức khi mở cửa thị trường nội địa cho hàng hóa từ nước
ngoài tràn vào. Xét về năng lực cạnh tranh, Việt Nam khó có thể là đối thủ
ngang sức, ngang trình độ so với nhiều nước khác trong khu vực ASEAN.
Kể từ khi AEC có hiệu lực, những ràng buộc về quy chuẩn kỹ thuật đã
vuột khỏi tầm kiểm soát và nằm trên hệ thống pháp luật của quốc gia. Đây
cũng chính là khó khăn và bất lợi đối với các doanh nghiệp trong nước
hiện nay.

Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam - đại diện cho
tiếng nói của các doanh nghiệp cũng cho biết, với khoảng 3.000 doanh
nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này thì chỉ có 1.300 doanh nghiệp
hoạt động tính cực và có hiệu quả; trong đó 54% các doanh nghiệp đang
làm ăn hợp tác các thị trường trong AEC.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp logistics hiện
nay là việc thành lập các hiện diện thương mại tại các nước ASEAN và
chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhiều nước phát
triển trong khu vực do hạn chế về công nghệ thông tin cũng như về trình
độ quản lý và chất lượng nguồn nhân lực. Vì thế khó lòng tận dụng AEC
cùng những thuận lợi, cơ hội để phát triển.

Từ đó đi đến nhận xét: AEC khó đi vào cuộc sống và đem lại tác
động tích cực ngay tức thì đối với các doanh nghiệp logistics là vì các
doanh nghiệp còn chưa nhiều quan tâm, bởi những cam kết phải thực hiện
theo AEC là cả quá trình chứ không phải những bắt buộc lập tức.

Thêm nữa, việc tuyên truyền về AEC từ các cấp ngành có liên quan
còn quá yếu và thiếu. Doanh nghiệp chỉ mới tiếp cận được thông tin Việt
Nam cam kết những gì, mở cửa thị trường bao nhiêu phần trăm, cắt giảm
thuế đối với bao nhiêu danh mục mặt hàng… song thông tin về các nước
đối tác, về những cam kết của những nước thành viên thuộc AEC, tỷ lệ mở
cửa thị trường ở nước họ, những quy định về vi phạm hay những ưu đãi
đầu tư ra sao… thì rất thiếu hoặc chưa được làm đầy đủ. Chính vì lẽ đó,
doanh nghiệp dù biết nhưng chưa được hiểu đầy đủ, chưa biết làm thế nào
để biến thách thức thành cơ hội, thậm chí chưa biết cách tận dụng những
lợi thế và ưu đãi gì từ AEC…

Theo thống kê của VCCI, đã có 46,79% doanh nghiệp chủ động tìm
hiểu thông tin về AEC. Trong gần 94% doanh nghiệp biết về AEC thì chỉ
có 16,4% doanh nghiệp thực sự hiểu rõ về AEC và các cam kết pháp lý có
liên quan. Nguyên do là doanh nghiệp quá thiếu những thông tin bổ ích,
những kênh tiếp cận hữu hiệu và thuận lợi để nắm bắt thông tin thị
trường, thông tin đối tác, thông tin hàng hóa theo các cam kết hoặc về
những đối tác cạnh tranh trong khu vực.

26
Việc chưa tận dụng được những lợi thế khi gia nhập AEC chính là
do nhận thức của phần đông người Việt Nam, của tuyệt đại đa số doanh
nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Hầu như 100% dân chúng đều biết về
AEC nhưng tỷ lệ biết rõ, hiểu rõ về AEC thì rất thấp.

Mặc dù, cộng đồng đều có chung cảm nhận tích cực về AEC và
những tác động đối với nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt
Nam. Song hầu hết họ đều hoài nghi về khả năng tiến triển và thực thi của
AEC.

“Nhận thức về AEC cũng cần phải thoát khỏi tư duy cũ, đừng chỉ
nhìn vào kim ngạch xuất khẩu. Ngoài thương mại hàng hóa, hãy nhìn cơ
hội từ AEC ở góc độ rộng lớn hơn như về sản xuất tiêu dùng, về dịch vụ,
đầu tư, du lịch, giáo dục… Quan trọng nhất, AEC đang mang lại cơ hội
kết nối để tiến tới nền kinh tế Xanh, kinh doanh văn hóa biểu tượng, công
nghệ thông tin….”,
CHƯƠNG II: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Đối với hầu hết các quốc gia ASEAN, nông nghiệp được coi là
“điểm tựa” của nền kinh tế giúp các nước vượt qua nhiều biến động và
khủng hoảng, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương thực và phát
triển bền vững. Nông nghiệp đóng vai trò cốt lõi ảnh hưởng tới sự ổn định
về kinh tế, chính trị và xã hội của từng quốc gia thành viên và các đối tác
trong khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì vâ ̣y, hợp tác
nông nghiệp vẫn luôn là một trong những nội dung then chốt của Cộng
đồng Kinh tế ASEAN.

Bên cạnh đó, trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra
mạnh mẽ, thị trường trong nước có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường
ngoài nước thông qua hoạt động giao thương. Sự phát triển mạnh mẽ của
thương mại sẽ bảo đảm mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra
của thị trường trong nước và bảo đảm sự cân bằng giữa hai thị trường
đó. Vì vậy, thương mại có vai trò là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong
nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa. thương mại là
điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động
thương mại trên thị trường quốc tế, các chủ thể kinh doanh có cơ hội mở
rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ. Không có hoạt động thương mại phát
triển thì sản xuất hàng hóa không thể phát triển được, dẫn đến kinh tế
trong nước và khu vực trì trệ, lạc hậu so với thế giới.

Nông nghiệp và thương mại đều là những ngành rất quan trọng đối
với Việt Nam. Tác giả đi sâu vào phân tích những tác động của AEC lên
hai ngành này để làm rõ nhưng thuận lợi cũng như bất lợi khi tham gia
vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN vì những tác động đến hai ngành này là
rõ ràng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam

28
2.1 Tầm quan trọng của ngành nông nghiệp và thương mại đối với
nền kinh tế Việt Nam

Nông nghiệp là ngành kinh tế lâu đời và chiếm phần lớn tỉ trọng
trong cơ cấu ngành kinh tế cũng như tỉ trọng trong cơ cấu lao động theo
ngành ở Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam vẫn đang là nước nông nghiệp, vì
vậy, những tác động khách quan tới ngành nông nghiệp đều gây ra những
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam.

Cũng như nông nghiệp, thương mại là một ngành có ảnh hưởng lớn
đến một quốc gia, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi mà các quốc
gia đang tăng cường liên kết với nhau thông qua những tổ chức hay hiệp
định thương mại như hiện nay. Có thể nói thương mại là một ngành rất
quan trọng đối với nền Việt Nam và cũng là một ngành rất dễ bị tác động
với những ảnh hưởng của thế giới, đặc biệt bị ảnh hưởng trực tiếp bới các
hiệp định và liên kết quốc tế.

2.2 Tác động của AEC tới ngành nông nghiệp Việt Nam

2.2.1 Nông nghiệp Việt Nam sau khi mới gia nhập AEC
Mặc dù, ASEAN là khu vực thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của
Việt Nam, chỉ đứng sau thị trường Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ và
Trung Quốc. Nhưng theo Tổng cục Hải quan, năm 2016- năm đầu tiên
AEC chính thức có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản sang
các nước ASEAN chỉ đạt hơn 1,6 tỷ USD, giảm 20,3% so với năm 2015.
Đáng nói nhất là các mặt hàng giảm mạnh nhất đều là những sản phẩm
chủ lực: Cao su (giảm 40,7%), gạo (giảm 48,8%), hồ tiêu (giảm 25,5%),
sắn và các sản phẩm từ sắn (giảm 19,2%),... Đối với mặt hàng gạo, tính
đến hết năm 2016, ba thị trường trọng điểm trong ASEAN sụt giảm
nghiêm trọng về sản lượng so với năm 2015, đó là Philippines (giảm
65%), Malaysia (giảm 48,1%), Singapore (giảm 30,7%). Sự sụt giảm kim
ngạch xuất khẩu nông, thủy sản sang các nước ASEAN một phần do sản
lượng giảm, phần khác bởi giá các hàng nông sản như sắn, cà phê, cao su
giảm mạnh. Cụ thể, trong năm 2016, giá cà phê giảm 21,2%, cao su giảm
12,5%, sắn giảm 14%. Riêng cà phê, giá giảm đã khiến kim ngạch xuất
khẩu giảm tới gần 59 triệu USD. Năm 2016, trong 100% hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam chỉ có khoảng 9,8% vào ASEAN, thấp hơn nhiều so
với tỷ lệ xuất khẩu trung bình trong khu vực là 24%. Tương tự, tỷ lệ
nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN khoảng 13,7%, trong khi trung bình
khu vực là 22%

30
Thực tế phản ánh Việt Nam chưa thực sự vận dụng tốt những ưu đãi
thuế quan sau khi xuất khẩu sang thị trường khu vực trong thời gian sau
khi mới gia nhập AEC. CỤ thể, theo thống kê của Phòng Công nghiệp và
Thương mại Việt Nam (VCCI), tỷ lệ tận dụng ưu đãi hiệp định thương
mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) năm 2106 là 31,8%, cao hơn năm 2105 là
24,2%, tỷ lệ này vẫn thấp, cao nhất là vẫn tận dụng ưu đãi trong Hiệp
định ASEAN - Hàn Quốc với tỷ lệ khoảng 60% trong năm 2105. Chưa kể
đến là sự hiểu biết của các doanh nghiệp trong xuất khẩu trong nước về
AEC còn hạn chế. Chỉ có 46,79% doanh nghiệp chủ động tìm hiểu thông
tin về AEC. Trong gần 94% doanh nghiệp biết về AEC thì chỉ có 16,4%
thực sự hiểu rõ về những cam kết khu vực kinh tế thương mại này.

2.1.2 Những thành tựu đạt được của ngành nông nghiệp Việt Nam
sau khi gia nhập AEC

Sau những bước đi đầu tiên còn gặp phải khó khăn, các doanh nghiệp
Việt nam đã từng bước thay đổi để nắm bắt cơ hội và vươn lên. Bên cạnh
đó là sự hỗ trợ to lớn đến từ phía các cơ quan Nhà nước trong việc tạo
hành lang, pháp lý thuận lợi đồng thời là các chính sách khuyến khích
phát triển giúp nâng tầm doanh nghiệp.

Bước sang năm 2018, tình hình xuất nhập khẩu nông sản vào ASEAN
của Việt Nam đã có những khởi sắc nhất định. Theo thống kê của Tổng
cục Hải quan, kim ngạch hàng hóa giữa Việt Nam và các nước ASEAN
trong năm 2017 đạt 56,29 tỷ USD, tăng 13,76% so với năm 2017 và chiếm
10,07% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trong đó, xuất
khẩu nông sản đạt 2,05 tỷ USD, tăng 54,1% so với 2017. Đây là con số
đáng khích lệ nếu biết rằng năm 2016 xuất khẩu Việt Nam đã giảm tới
20,3% so với năm 2015, khoảng thời gian sau khi mới gia nhập AEC.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, quan hệ thương mại Việt
Nam - ASEAN trong lĩnh vực nông nghiệp tiếp tục có dấu hiệu khởi sắc
trong 10 tháng đầu năm 2018 khi giá trị trao đổi được gia tăng và cao hơn
trong cả năm 2017. Cụ thể: kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản đạt 2,13
tỷ USD (bằng 124% so với cả năm 2017). Đáng chú ý là bên cạnh những
thị trường xuất khẩu chủ lực truyền thống thì đã xuất hiện những thị
trường mới như Indonesia. Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
nông, thủy sản sang 4 quốc gia trong khu vực ASEAN có giá trị cao nhất
lần lượt là Philipines (0,572 tỷ USD), Indonesia (0,513 tỷ USD), Malaysia
(0,446 tỷ USD) và Thái Lan (0,41 tỷ USD).

Sang đến năm 2019, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng
9/2019 của cả nước ước đạt 3,5 tỉ USD.Theo đó, tổng giá trị xuất khẩu 9
tháng đầu năm 2019 đạt 30,02 tỉ USD, tăng 2,7% cùng kì năm 2018. Tuy
nhiên, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước giảm 7,2%
xuống gần 14 tỉ USD; giá trị xuất khẩu thuỷ sản, vốn là ngành thế mạnh
trước đây nhưng tình hình xuất khẩu trong 9 tháng qua ước giảm 2%
xuống 6,23 tỉ USD.Còn giá trị xuất khẩu chăn nuôi ước đạt 0,53 tỉ USD,
tăng 8,6% và giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt gần 8
tỉ USD, tăng 18%.Trong 8 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu các mặt hàng
nông lâm thủy sản của Việt Nam vào ASEAN chiếm 9,6% thị phần phần
xuất khẩu của Việt Nam

Ở chiều ngược lại, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2019
ước đạt hơn 2,4 tỉ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 9 tháng đầu năm đạt
23,16 tỉ USD, giảm 0,7% so với cùng kì năm 2018. Trong đó, giá trị nhập
khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản chính ước đạt 19,37 tỉ USD, giảm
1,7% so với cùng kì năm 2018, giá trị nhập khẩu chăn nuôi ước đạt gần
2,77 tỉ USD, tăng 18,4% so với cùng kì năm 2018.

32
Tính trong 8 tháng đầu năm 2019, có 3 thị trường nhập khẩu chính
gồm Trung Quốc, Mỹ và Argentina với các giá trị nhập khẩu lần lượt là
3,14 tỉ USD, 2,55 tỉ USD, và 1,92 tỉ USD.

Như vậy, thặng dư thương mại nông, lâm, thủy sản 9 tháng đầu năm
nay đạt 6,86 tỉ USD, cao hơn so với cùng kì năm ngoái 957 triệu USD.

Xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt gần 14 tỉ USD trong 9
tháng đầu năm 2019, giảm 7,2% so với cùng kì năm 2018.

2.1.3 Hạn chế trong ngành nông nghiệp khi tham gia AEC

Bên cạnh những thuận lợi, những cơ hội nhìn thấy được từ một
không gian thị trường rộng lớn là những khó khăn thách thức:

Thứ nhất, tuy lực lượng lao động của nước ta dồi dào nhưng chất
lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển
và hội nhập. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang thiếu
lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao.

Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ
đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân
hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm;
Malaysia đạt 5,59 điểm... Bởi vậy nên năng suất lao động của Việt Nam
thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15
lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần).

Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái
Lan. Bên cạnh đó, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là
nông nghiệp nên tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính
thức còn thấp. Chỉ có 40% nhân lực có trong hợp đồng quan hệ lao động,
60% là lao động tự do, không có trong các quan hệ làm việc chính thức.
Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát
triển và hội nhập.
Thứ hai, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện
nay còn nhiều yếu kém và hạn chế. Thị trường lao động hiện tại là thống
nhất, không rào cản, nhưng thông tin thị trường lao động dường như bị
chia cắt, tổ chức theo từng tỉnh, thiếu chia sẻ trong vùng, miền và cả nước;
khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được
nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng
lao động và người lao động. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của
cung - cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước.

Thứ ba, trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề
già hóa dân số sẽ làm cho lợi thế lực lượng lao động trẻ mất dần đi theo
thời gian. Một vấn đề khác là nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ
hiện tượng biến đổi khí hậu khiến một số ngành suy giảm mạnh và lợi thế
cạnh tranh.

Hội nhập, tự do di chuyển lao động sẽ tạo nên môi trường cạnh
tranh gay gắt, càng góp phần gia tăng sự mất cân đối trong cung – cầu lao
động trong nước, đặc biệt là nguồn cung về lao động có kỹ năng, trình độ
cao. Trong khi nguồn cung trong nước hạn chế thì dòng dịch chuyển lao
động có trình độ cao của nước ngoài sẽ chiếm lĩnh các vị trí việc làm đòi
hỏi trình độ cao trong thị trường lao động của Việt Nam.

Thứ tư, môi trường càng ngày càng ô nhiễm, biến đổi khí hậu và
thiên tai khắc nghiệt không ngừng gây khó khăn cho ngành nông nghiệp
nước ta. Thêm nữa đất ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long một phần đang
rơi vào tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn, đòi hỏi chính quyền và nông
dân phải có những biện pháp phù hợp để đối phó hoặc thích ứng với sự
khắc nghiệt này.

2.3 Tác động của AEC đến ngành thương mại Việt Nam

2.3.1 Thành tựu của thương mại Việt Nam sau khi gia nhập AEC

34
Theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong ấn
phẩm thường niên WTO Trade Profiles 2017, thứ hạng về xuất nhập khẩu
của Việt Nam đã tăng lên rõ rệt. Cụ thể, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
tăng từ vị trí 50 trong năm 2007 lên vị trí 26 ghi nhận trong năm 2018.
Trong khi đó, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng tăng lên từ vị trí
thứ 41 trong năm 2007 lên vị trí 23 ghi nhận trong năm 2018. Các xếp
hạng này của Tổ chức Thương mại thế giới tính cả xuất nhập khẩu hàng
hóa giữa (nội khối) giữa các thành viên Liên minh châu Âu (EU). Trong
nội khối ASEAN, Việt Nam có vị trí thứ 3 về xuất khẩu, chỉ sau Singapore
và Thái Lan.

Về kim ngạch xuất nhập khẩu: theo thống kê sơ bộ của Tổng cục
Hải quan, tổng trị giá trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và các nước
ASEAN trong năm 2017 đạt 49,53 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm trước
2016 và chiếm 11,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân
thương mại giữa Việt Nam và ASEAN các năm 2011-2017

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp Việt
Nam sang thị trường ASEAN đạt 21,51 tỷ USD, tăng mạnh 23,9% (tương
ứng tăng 4,15 tỷ USD về số tuyệt đối) so với một năm trước đó và chiếm
10,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Nguyên nhân chính giải thích cho việc kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường ASEAN tăng mạnh là do trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng
tăng cao như: điện thoại các loại & linh kiện tăng 948 triệu USD, sắt thép
các loại tăng 722 triệu USD, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện tăng
488 triệu USD, dầu thô tăng 378 triệu USD, hàng dệt may tăng 181 triệu
USD. Chỉ tính riêng 5 nhóm hàng này đã đóng góp gần 2,72 tỷ USD, chiếm
gần 70% trong phần kim ngạch tăng thêm của xuất khẩu sang thị trường
ASEAN năm nay.

Ở chiều ngược lại, tổng trị giá hàng hóa các doanh nghiệp Việt Nam
nhập khẩu có xuất xứ từ thị trường này là 28,02 tỷ USD, tăng 16,4% và
chiếm tới 13,3% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước từ tất cả các thị
trường trên thế giới.

Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam có xuất xứ từ ASEAN trong
năm nay tăng so với năm trước, chủ yếu do nhập khẩu một số nhóm hàng
chủ lực tăng cao như: xăng dầu các loại tăng 873 triệu USD, hàng rau quả
tăng 464 triệu USD, máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng tăng 313 triệu
USD, ô tô nguyên chiếc các loại tăng 307 triệu USD, hàng rau quả tăng 464
triệu USD, kim loại thường tăng 269 triệu USD, than đá tăng 258 triệu
USD…

Về cán cân thương mại hàng hoá giữa Việt Nam với ASEAN : số liệu
thống kê của Tổng cục Hải quan ghi nhận trong năm 2017 mức thâm hụt
cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về phía Việt Nam với 6,51 tỷ USD
(giảm nhẹ so với mức thâm hụt trị giá 6,7 tỷ USD trong năm 2016), bằng
30,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này.

Thái Lan là thị trường có thặng dư cán cân thương mại (xuất siêu
với Việt Nam) lớn nhất trong thương mại với Việt Nam trong số các thành
viên ASEAN, với mức thâm hụt báo cáo là 5,88 tỷ USD; tiếp theo là

36
Singapore với 2,34 tỷ USD, Malaysia với 1,65 tỷ USD,…Trong khi đó ở
chiều ngược lại, Campuchia và Philippin là 2 thị trường mà Việt Nam có
thặng dư thương mại lớn nhất, lần lượt đạt 1,76 tỷ USD và gần 1,68 tỷ
USD.

Biểu đồ 2.2: Cán cân thương mại của các nước thành viên ASEAN
với Việt Nam trong năm 2017

Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu: ASEAN là khu vực thị trường
xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam, chỉ đứng sau thị trường Liên minh
châu Âu (EU) và Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trong năm qua, Việt Nam chủ
yếu xuất sang ASEAN các nhóm hàng chủ lực như: điện thoại các loại &
linh kiện; máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện; sắt thép; máy móc
thiết bị dụng cụ & phụ tùng; phương tiện vận tải & phụ tùng; hàng dệt
may; dầu thô; xăng dầu…

Bảng 2.1: Kim ngạch, tỷ trọng xuất khẩu một số nhóm mặt hàng
chính của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong năm 2017
Nguồn: Tổng cục Hải quan

Ghi chú: 1. Tốc độ tăng/giảm là tốc độ tăng/giảm nhóm hàng đó năm


2017 so với năm 2016

2. Tỷ trọng 1 là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của từng mặt hàng
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN

3. Tỷ trọng 2 là tỷ trọng trị giá xuất khẩu nhóm hàng của Việt Nam
sang ASEAN so với kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng đó của cả nước sang
tất cả các thị trường.

Các nhóm hàng nhập khẩu chủ yếu: trong các năm trước đây, hàng
hoá mà các doanh nghiệp của Việt Nam nhập khẩu có xuất xứ từ ASEAN
chủ yếu là những mặt hàng thiết yếu, nguyên phụ liệu đầu vào, máy móc
thiết bị phục vụ sản xuất như: xăng dầu các loại; nguyên phụ liệu dệt may

38
da giày; chất dẻo nguyên liệu, hóa chất, máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ
tùng... Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, Việt Nam nhập thêm một số
mặt hàng phục vụ gia công sản xuất xuất khẩu và hàng tiêu dùng như:
máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện; điện thoại các loại & linh kiện;
ô tô nguyên chiếc…

ASEAN là đối tác lớn thứ hai (sau Trung Quốc) xuất khẩu hàng hoá
có xuất xứ ASEAN sang Việt Nam trong nhiều năm qua. Nhiều nhóm hàng
được nhập khẩu từ thị trường này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam bao gồm: xăng dầu, dầu thô, giấy các loại,
chất dẻo nguyên liệu, dầu mỡ động thực vật, gỗ & sản phẩm gỗ …

Bảng 2.2: Kim ngạch, tỷ trọng nhập khẩu một số nhóm hàng chính
của Việt Nam có xuất xứ từ ASEAN trong năm 2017

Nguồn: Tổng cục Hải quan


Ghi chú: 1.Tốc độ tăng/giảm là tốc độ tăng/giảm nhóm hàng đó năm
2017 so với năm 2016

2. Tỷ trọng 1 là tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu của từng mặt hàng
trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN

3. Tỷ trọng 2 là tỷ trọng trị giá nhập khẩu nhóm hàng của Việt Nam
từ ASEAN so với kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng đó của cả nước từ tất
cả các thị trường.

Về các đối tác trong nội khối ASEAN: Trong năm vừa qua, Thái
Lan tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đạt 15,11 tỷ
USD, chiếm 30,5% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam
với cả khối ASEAN. Tiếp theo là Malaisia đạt 10,07 tỷ USD (chiếm tỷ
trọng 20,3%), Singapore đạt 8,26 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 16,7%),
Inđônêxia đạt 6,5 tỷ USD (tỷ trọng 13,1%); Campuchia đạt 3,8 tỷ USD (tỷ
trọng 7,7%), Philippin đạt gần 4 tỷ USD (tỷ trọng 8,1%), Lào đạt 892 triệu
USD (tỷ trọng 1,8%), Mianma đạt 828 triệu USD (tỷ trọng 1,7%), và
Brunei đạt 73 triệu USD (tỷ trọng 0,1%).

Bảng 2.3: Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm xuất khẩu, nhập khẩu của
Việt Nam với các nước ASEAN trong năm 2017

40
Nguồn: Tổng cục Hải quan

Biểu đồ dưới cho thấy các nước: Thái Lan, Singapore và Malaysia là
3 đối tác thương mại lớn nhất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong
ASEAN, với tỷ trọng lần lượt là 21,5%; 19,6% và 13,8%.

Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường ASEAN trong năm 2017
Trong nội khối ASEAN, Biểu đồ dưới cho thấy các doanh nghiệp
Việt Nam nhập khẩu hàng hóa nhiều nhất có xuất xứ từ Thái Lan và
Singapore với tỷ trọng chiếm 37,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam từ ASEAN; tiếp theo là Malaixia (20,9%), Singapore (18,9%),... .

Biểu đồ 2.4: Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam các hàng
hóa có xuất xứ từ ASEAN trong năm 2017

42
Sang đến năm 2018, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam thậm
chí còn đạt được những thành tựu xuất sắc hơn nữa. Theo số liệu thống
kê của Tổng cục Hải quan, Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của
cả nước năm 2018 đạt 480,17 tỷ USD, tăng 12,2% (tương ứng tăng 52,05
tỷ USD) so với năm trước. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt
243,48 tỷ USD, tăng 13,2% và nhập khẩu đạt 236,69 tỷ USD, tăng 11,1%.
Kết thúc năm 2018, cán cân thương mại của Việt Nam vẫn thặng dư 6,8
tỷ USD.

Tính tới hết tháng 6 năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỉ đô la Mỹ, trong đó kim ngạch xuất
khẩu là 12,2 tỉ đô la Mỹ và kim ngạch nhập khẩu là 15,9 tỉ đô la Mỹ. Xuất
khẩu vào ASEAN tăng 13,9% và chiếm tỷ trọng 10,2%. Nhập khẩu đạt
31,8 tỷ USD, chiếm 13,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, tăng
12,2% so với năm 2017.
2.4 Hạn chế của ngành thương mại Việt Nam sau khi gia nhập
AEC

Với việc đẩy mạnh tự do hóa thương mại nội khối, hàng rào thuế
quan và phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên AEC sẽ dần xóa bỏ.
Hàng hóa của các nước ASEAN tràn đã xuất hiện nhiều hơn trên thị
trường Việt Nam, dẫn đến việc cải thiện tình trạng nhập siêu của Việt
Nam với các nước ASEAN trở nên khó khăn hơn.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2018, cán cân thương mại
Việt Nam - ASEAN từ nhiều năm qua vẫn bị thâm hụt. Kim ngạch nhập
khẩu giai đoạn 2017-2019 tuy có giảm hơn so với giai đoạn 2009-2016
nhưng vẫn có những tháng gấp gần 2 lần so với kim ngạch xuất khẩu.
Như vậy, tính chung cả giai đoạn từ sau khi gia nhập AEC, mức thâm hụt
thương mại vẫn đang nghiêng về phía Việt Nam.
Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh của hàng hóa các nước khác trên thị trường ASEAN. Trong thời
gian tới, AEC hình thành sẽ tạo ra thị trường chung, không còn rào cản
hàng hóa, dịch vụ, vốn... Hàng hoá ở các nước thành viên ASEAN sẽ có
mức thuế ưu đãi như nhau, khi đó sức cạnh tranh sẽ tập trung vào chất
lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm. Trong khi đó, với thiết bị, công
nghệ hiện nay, sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh
tranh với sản phẩm xuất khẩu của các nước trong khối. Khi mức thuế
quan được ưu đãi như nhau, với năng lực công nghệ kém hơn, các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ khó khăn hơn khi giữ vững vị thế trên
thị trường thuộc ASEAN.
Bên cạnh đó, khi Việt Nam thực hiện cam kết giảm thuế suất đối
với các sản phẩm nhập khẩu từ các nước đối tác mà Việt Nam đã cùng
ASEAN ký kết Hiệp định thương mại, hàng hóa Việt Nam sẽ phải đối mặt
với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu từ các nước đối tác này. Khi một
nền kinh tế chưa được chuẩn bị đầy đủ trước những đối thủ cạnh tranh
trong điều kiện các hàng rào thuế quan đã sớm bị dỡ bỏ, sẽ dẫn đến

44
những tổn thất về kinh tế trong cuộc cạnh tranh không cân sức, đồng thời
còn gây sức ép đối với nền công nghiệp non trẻ của Việt Nam. Thị trường
ASEAN vốn là thị trường có mức tiêu dùng cao, không chuộng sản phẩm
kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Khi ASEAN thực hiện tự
do hóa thương mại với các đối tác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản,
Ấn Độ, EU..., các sản phẩm có chất lượng cao của Nhật Bản, Hàn Quốc,
EU sẽ có nhiều thuận lợi khi thâm nhập thị trường ASEAN. Như vậy, sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ càng gặp khó khăn hơn.
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

3.1 Kết luận

Sau khi tham gia vào AEC, Việt Nam đã có những thành tựu cũng
như gặp phải khó khăn nhất định đối với ngành nông nghiệp và ngành
thương mại. Về tổng thể, nông nghiệp và thương mại nước ta đã phát
triển theo hướng tích cực, mang lại những lợi ích to lớn cho các ngành đó.

Gia nhập AEC đã mang lại những tiềm năng to lớn cho các doanh
nghiệp trong khối khi có điều kiện tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản
thế giới. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam được xuất khẩu sang các
sang các đối tác AEC, CPTPP, EVFTA... Đồng thời, việc này cũng giúp
thu hút đầu tư vào ngành nông nghiệp, nhất là đầu tư vào nông nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ ngành nông nghiệp- những lĩnh vực
hiện nay còn bỏ ngỏ do thiếu nguồn lực. Các tác động lan tỏa từ gia tăng
đầu tư vào nông nghiệp sẽ thực sự quan trọng đối với nền kinh tế Việt
Nam, khi gánh nặng của ngành nông nghiệp nội địa được san sẻ. Bên
cạnh đó, là thúc đẩy cải cách thể chế, môi trường kinh doanh trong nước,
việc làm mà người sản xuất thực sự mong đợi trên cơ sở hệ thống chính
sách sẽ được điều chỉnh phù hợp với thông lệ quốc tế. Những thay đổi này
một mặt tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, mặt khác đặt ra yêu
cầu doanh nghiệp phải tự đổi mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
phù hợp với hoàn cảnh.

Đối với thương mại, hợp tác trong ASEAN không chỉ gói gọn trong
10 nước thuộc khối mà còn hợp tác với rất nhiều các quốc gia, khu vực
ngoại khối như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ,…

Hợp tác kinh tế với bên ngoài được ASEAN tiếp tục thúc đẩy thông
qua các FTA hiện có với các đối tác, trong đó, ASEAN và Ấn Độ đang
phấn đấu ký Hiệp định thương mại về dịch vụ và đầu tư, ASEAN và Nhật
46
Bản đang đàm phán chương trình thương mại dịch vụ và đầu tư trong
khuôn khổ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEPT). Việc
đàm phán RCEP cũng đạt một số tiến triển, cụ thể với việc Hội nghị Bộ
trưởng kinh tế ASEAN (Hà Nội, tháng 3/2013) thông qua việc thành lập
Ủy ban Đàm phán thương mại RCEP và Điều khoản tham chiếu của Ủy
ban này. Hai phiên đàm phán đã diễn ra trao đổi về các tài liệu phạm vi
cho đàm phán thương mại, hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trong RCEP. Các
bên đã tổ chức hội nghị Bộ trưởng RCEP lần thứ nhất và hiện đang xây
dựng chương trình công tác bảo đảm hoàn tất đàm phán vào cuối năm
2015.

Như vậy, ngoài việc khai thác thị trường nội khối, các doanh
nghiệp Việt Nam còn có nhiều cơ hội trong việc tiếp cận với các thị
trường ngoại khối với nhiều ưu đãi hơn trong việc tham gia các Hiệp định
hợp tác của ASEAN.

Bên cạnh đó AEC cũng giúp cho ngành thương mại Việt Nam phát
triển hơn khi mở rộng thị trường ưu đãi, thu hút thêm được vốn đầu tư
nước ngoài, tạo điều kiện cho nước ta tiếp thu công nghệ tiên tiến của các
nước, đào tạo cán bộ quản lý và kinh doanh để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa; có cơ hội hoàn thiện các thể chế, hệ thống luật
pháp và quản lí Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế.

Có thể nói, việc tham gia vào AEC là bước tiến lớn cho sự phát
triển của ngành thương mại và nông nghiệp nói riêng cũng như nền kinh
tế của Việt Nam nói chung.

3.2 Một số khuyến nghị

3.2.1 Xét về khía cạnh vĩ mô

Tham gia AEC, Việt Nam gặp phải những thuận lợi nhưng bất lợi
là điều không thể tránh khỏi. Những khó khăn này xuất phát từ những
bất cập chủ quan còn tồn tại ở Việt Nam
Thứ nhất là sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc
gia trong ASEAN, cụ thể là sự chênh lệch trình độ phát triển giữa Việt
Nam so với các nước ASEAN - 6 do nguồn lực và kĩ năng tay nghề của lao
động của Việt Nam còn hạn chế. Hơn nữa, năng suất lao động của Việt
Nam không cao. Những vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng lao
động cung như chất lượng hàng hóa, dịch vụ, làm giảm sức cạnh tranh
của các sản phẩm đến từ Việt Nam so với sản phẩm của các nước cùng
khu vực. Vì vậy, nâng cao tay nghề và tăng năng suất lao động là một
trong những vấn đề cốt lõi để phát triển những ngành có sử dụng nhân
công lớn như nông nghiệp và thương mại.

Thứ hai là vấn đề ở trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt
Nam. Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, thiếu vốn
kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm.
Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có
nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng
rộng nhưng thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mỏng; thiếu
thông tin, thiếu hiểu biết về thị trường và khách hàng. Đây là những hạn
chế vốn đã tồn tại ở các doanh nghiệp Việt Nam lâu nay. Vấn đề này chỉ
có tự thân các doanh nghiệp phải tìm các thay đổi nếu không muốn chết
chìm trong khi nước ta gia nhập không chỉ những cộng đồng như AEC
mà còn những hiệp định kinh tế hoặc các tổ chức kinh tế trên thế giới.

Không chỉ người lao động và doanh nghiệp mà Chính phủ và


những cơ quan nhà nước khác cũng phải đưa ra những quyết sách phù
hợp, kịp thời để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động trước những khó
khăn như thiên tai, dịch bệnh,... cùng với sự phát triển của chủ nghĩa bảo
hộ trên thế giới. Bên cạnh đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật còn thiếu
sót, chưa thống nhất để các doanh nghiệp không bị bối rối khi ra quốc tế.

48
3.2.2 Nông nghiệp

Để tận dụng được nhiều hơn những lợi thế và cơ hội từ việc tham
gia AEC, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh cần thiết cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi tham gia sâu rộng hơn vào sân chơi quốc tế, cần
phải có những giải pháp đồng bộ từ Chính phủ và cơ quan hữu quan,
trong đó cần chú trọng một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ trong việc hoàn thiện
cơ sở hạ tầng cho ngành nông nghiệp theo hướng quy hoạch rõ ràng các
vùng sản xuất, chế biến các sản phẩm theo hướng bán công nghiệp và
công nghiệp, giảm thiểu được tình trạng sản xuất kinh doanh manh mún,
nhỏ lẻ. Các chính sách về khuyến khích đầu tư khoa học công nghệ và
nâng cao chất lượng lao động trong ngành cũng cần được chú trọng. Tại
các địa phương, cần tăng cường công tác phòng chống bệnh dịch, kiểm
soát vệ sinh dịch tễ cho các khu vực sản xuất nông nghiệp nhất là với
ngành chăn nuôi. Xây dựng, củng cố mạng lưới tổ chức thú y từ tỉnh đến
cơ sở, thực hiện tốt các quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn cho sản
xuất. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác tập huấn chuyển giao
khoa học kỹ thuật và công nghệ cao cho các cán bộ trong ngành cũng như
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông nghiệp nhất là các doanh
nghiệp xuất khẩu.

Thứ hai, đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục thực hiện tái cơ cấu
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, quy hoạch nông nghiệp
theo hướng dựa vào thị trường mở và bảo tồn diện tích đất nông nghiệp.
Trong thời gian tới, cần tập trung mạnh vào tái cơ cấu đầu tư công và
dịch vụ công trong nông nghiệp.

Thứ ba, ngành nông nghiệp cần tăng cường liên kết sản xuất, theo
đó liên kết ngang trong ngành để tạo ra các doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp mũi nhọn, thu hút các vệ tinh là các hộ chăn nuôi, trồng trọt nhỏ
hoặc các doanh nghiệp nhỏ, quy hoạch thành các vùng nguyên liệu thức
ăn chăn nuôi, trồng trọt; cụm công nghiệp dịch vụ hỗ trợ chăn nuôi, trồng
trọt. Liên kết dọc đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng từ đầu
vào,sản xuất, chế biến, đóng gói, phân phối và bán lẻ, ở mỗi mắt xích sẽ
quyết định tự cung cấp hoặc thuê bên ngoài dựa trên cạnh tranh về giá.
Liên kết như vậy giúp giảm chi phí trung gian, ổn định đầu vào đầu ra,
tận dụng lợi ích kinh tế nhờ quy mô mà còn giúp giảm ô nhiễm môi
trường do các loại rác thải được tập trung xử lí qua nhà máy hoặc tái chế
làm thức ăn. phân bón, sản xuất điện.

Đồng thời cần gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm:
Khuyến khích hình thức hợp tác liên kết sản xuất với vai trò trung tâm
của doanh nghiệp để phát triển hoạt động sản xuất chế biến sản phẩm;
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các hội chợ để quảng bá
thương hiệu, tìm kiếm đối tác, công nghệ. Quảng bá kết nối giữa sản xuất
và tiêu dùng thông qua các doanh nghiệp đầu mối, các siêu thị, các cơ sở,
chợ, cửa hàng,... để đưa sản phẩm tiếp cận người tiêu dùng thuận lợi.

Thứ tư, các doanh nghiệp cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để nâng
cao năng lực cạnh tranh, chủ động, sáng tạo, không ngừng tự đổi mới, xây
dựng chiến lược kinh doanh cụ thể để thâm nhập thị trường. Theo đó, để
hàng hóa, sản phẩm Việt Nam xuất đi các thị trường doanh nghiệp cần
phải có chiến lược kinh doanh, theo sát xu hướng tiêu dùng của người
dân mỗi nước ASEAN, liên kết với nhà phân phối nội địa uy tín, có năng
lực… đay là việc làm quan trọng bởi sản phẩm của mỗi nước, mỗi doanh
nghiệp đều năm trong chuỗi giá trị khu vực hay chuỗi giá trị toàn cầu.

Bên cạnh đó, cần chủ động đối mới khoa học công nghệ, nâng cao
năng lực sản xuất, năng lực khoa học công nghệ trong sản xuất cũng như
chế biến sản phẩm. Nghiên cứu, áp dụng thành tựu khoa học của thế giới
vào sản xuất sản phẩm nhằm đáp ứng các yêu cầu khắt khe về kiểm soát
hàng hóa nhập khẩu cũng như yêu cầu ngày càng cao của người tiêu
dùng.

50
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực tìm kiếm các thị
trường mới trong khu vực, đặc biệt doanh nghiệp Việt cần trang bị các
kiến thức về pháp lý, kỹ thuật hoặc các điều kiện cần thiết xuất khẩu
hàng hóa cào các nước mà có phần đông dân số theo đạo Hồi như
Indonesia và Malaysia. Đây là khu vực thị trường giàu tiềm năng và còn
bỏ ngỏ trong thời gian qua.

3.2.2 Thương mại

❖ Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương


1. Thực hiện đổi mới kinh tế và cải cách hành chính
Để tham gia hiệu quả vào lộ trình AEC, một trong những yếu tố
quan trọng nhất là chúng ta cần nỗ lực trong việc cải cách các quy chế
trong nước như:
- Đơn giản hóa và áp dụng các hoạt động điện tử hoá các thủ tục
hành chính, hệ thống hóa và điều chỉnh các điều luật không hiệu
quả hay có sự mâu thuẫn lẫn nhau tạo nên khuôn khổ pháp lý vững
chắc.
- Các cơ quan hành chính cần phải có các quy định cụ thể và nhất
quán về các thủ tục, có chế độ hướng dẫn bằng văn bản và tư vấn
hiệu quả cho các doanh nghiệp trước khi tiến hành các thủ tục hành
chính
- Đồng thời, bên cạnh thực hiện đúng và đủ các cam kết, Chính phủ
Việt Nam cần có sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp về mặt công cụ
chính sách minh bạch, thống nhất, tạo môi trường kinh doanh, môi
trường pháp lý và các ảnh hưởng xã hội khác.
2. Hình thành chính sách tự do ngoại thương trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần
Tự do hóa ngoại thương là sự nới lỏng can thiệp của nhà nước hay
chính phủ vào lĩnh vực trao đổi, buôn bán quốc tế. Tự do hóa thương mại
vừa là nhu cầu hai chiều của hầu hết các nền kinh tế thị trường, bao gồm:
nhu cầu bán hàng hóa, đầu tư ra nước ngoài và nhu cầu mua hàng hóa,
nhận vốn đầu tư của nước ngoài tế nhiều thành phần.
Đặc điểm của chính sách tự do hóa ngoại thương:
● Mua bán tự do
● Nhà nước không can thiệp vào điều tiết xuất nhập khẩu
● Quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường sẽ chi phối hoạt
động ngoại thương.
Do đó, khi hình thành chính sách tự do hóa ngoại thương thì Việt
Nam sẽ có được những lợi ích sau đây :
● Thứ nhất, xóa bỏ những trở ngại trong thương mại quốc tế.
● Thứ hai, thị trường đa dạng giúp cho người tiêu dung có thể dễ lựa
chọn.
● Thứ ba, doanh nghiệp trong nước có điều kiện cạnh tranh phát
triển, kích thích nâng cao chất lượng, hạ giá thành. Tạo môi trường
cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa từ đó kích thích nhà sản
xuất trong nước phát triển và hoàn thiện.
● Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, loại bỏ cá
thể yếu, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng.
3. Đổi mới trong công cụ quản lý hoạt động ngoại thương
Việt Nam cần đưa ra được các định hướng chính xác về đẩy mạnh
phát triển các chính sách ngoại thương :
● Thứ nhất, xác định những mặt hàng xuất khẩu chủ lực và
tiềm năng để có những biện pháp bảo vệ và hỗ trợ thích hợp,
đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
● Thứ hai, phát triển nhanh các doanh nghiệp xuất - nhập
khẩu, doanh nghiệp phân phối lớn có phạm vi hoạt động rộng
với nhiều phương thức và hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng phù hợp.
● Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động xuất–nhập khẩu hàng hóa theo
hướng vừa mở rộng thị trường, mặt hàng, vừa nâng cao hiệu
quả xuất - nhập khẩu phù hợp với mục tiêu phát triển bền

52
vững. Hạn chế khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên cũng như các hoạt động chế biến gây ô nhiễm môi
trường.
● Thứ tư, tăng cường đàm phán với các đối tác mà Việt Nam
đang nhập siêu nhằm xóa bỏ những rào cản đối với các mặt
hàng xuất khẩu nước ta đang có lợi thế so sánh, thực hiện tối
đa các ưu đãi thuế quan trong các hiệp định FTA đã ký kết.
● Thứ năm, tăng cường nghiên cứu áp dụng các biện pháp tự
vệ, chống bán phá giá và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước, phù hợp với
các nguyên tắc của WTO.
● Thứ sáu, các chính sách ngoại thương phải phù hợp với mục
tiêu phát triển bền vững của đất nước
❖ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng các công cụ quản lý
ngoại thương
- Công cụ thuế quan
Đối với thuế xuất khẩu: Chính phủ nên bỏ việc thu thuế xuất khẩu.
Việc bỏ thuế xuất khẩu sẽ khiến hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh
cao hơn trên thị trường nước ngoài. Hoặc ít nhất, Chính phủ nên thu hẹp
diện các mặt hàng chịu thuế, chỉ nên đánh thuế xuất khẩu đối với những
mặt hàng thực sự cần thiết, thuế có khả năng hạn chế hoặc có khả năng
thu được như: những mặt hàng nguyên liệu sản xuất trong nước, những
tài nguyên khoáng sản không khuyến khích xuất khẩu, những sản phẩm
có thị trường ổn định. Trước mắt, xoá bỏ thuế xuất khẩu đối với mặt
hàng hải sản nhằm hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích ngành nghề khai
thác, nuôi trồng, chế biến hải sản, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Đối với thuế nhập khẩu: Cần bảo hộ có chọn lọc một số ngành,
tránh tình trạng bảo hộ tràn lan khiến nền kinh tế trở nên kém hiệu quả.
Hiện nay Việt Nam ưu tiên cho 6 ngành công nghiệp: Điện tử ( sản xuất
linh kiện điện tử, viễn thông), Cơ khí luyện kim ( đóng tàu, máy nông
nghiệp, CN ô tô, thép chế tạo), Dệt may, Năng lượng ( thăm dò khai thác
dầu khí xa bờ, khai thác than đồng bằng sông Hồng, thiết bị tiết kiệm
năng lượng), Hóa chất ( lọc hóa dầu, nhựa), Chế biến nông lâm sản thực
phẩm. Giảm mức thuế nhập khẩu hiện nay xuống còn 4 hoặc 5 mức. Sự
chênh lệch giữa các mức là do yêu cầu bảo hộ đối với từng ngành sản
xuất. Thuế bảo hộ ở mức 1 là dưới 10%, mức 2 là 20%, mức 3 là 30%,
mức 4 là 40%, mức 5 là 50%. Thuế suất tối đa chỉ nên chiếm trên dưới
10% tổng danh mục hàng nhập khẩu chịu thuế. Về lâu dài, mức thuế cao
nhất phải giảm và số lượng mức thuế cũng phải giảm để phù hợp với các
quy định của các tổ chức Việt Nam đã tham gia (AFTA, WTO…) nhưng
phải cắt giảm dần dần.
● Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách thuế xuất
nhập khẩu:
● Thứ nhất, xây dựng luật thuế xuất nhập khẩu: cần giảm tối đa việc
giao cho các bộ chức năng đưa ra những quy định hướng dẫn thực
hiện luật.
● Thứ hai, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập
khẩu một cách thường xuyên và kịp thời là cần thiết để phù hợp với
sự thay đổi của thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, cần có
thời gian cho doanh nghiệp thích nghi kịp thời, tránh gây ra thiệt
hại cho doanh nghiệp.
● Thứ ba, các thông tin về thuế XNK phải được thông báo nhanh
chóng, chính xác, công khai minh bạch đến các doanh nghiệp, tạo
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có phương án kinh doanh.
● Thứ tư, đơn giản hoá các thủ tục về thuế xuất nhập khẩu.
Về công cụ phi thuế quan
+ Về hạn ngạch: Để phù hợp với quy định của các tổ chức tham gia
cũng như của các hiệp định, Việt Nam cần cắt giảm dần công cụ hạn
ngạch, thực hiện mở cửa thị trường.
+ Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật:
➢ Một là, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn hàng hoá
(như các tiêu chuẩn về thông số, kích thước, nhãn mác, bao gói, thời

54
gian sử dụng…). Điều này không những giúp bảo hộ các ngành sản
xuất trong nước mà còn khiến cho việc nhập khẩu các mặt hàng của
Việt Nam trở nên có chọn lọc hơn.
➢ Hai là, xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn về môi trường
➢ Ba là, tăng cường các biện pháp kiểm dịch động thực vật, vệ sinh an
toàn thực phẩm
+ Về các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu
➢ Cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu, nhưng phải phù
hợp với quy định của các tổ chức quốc tế đã tham gia.
➢ Cung cấp đầy đủ thông tin về môi trường thương mại, luật pháp –
chính sách của các thị trường, nhất là các thị trường mới thông qua
các cơ quan như đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài để các
doanh nghiệp có định hướng thuận lợi nhất
➢ Ổn định tỉ giá hối đoái
➢ Đối với các mặt hàng nông sản, chính phủ có thể tiến hành thu mua
dự trữ để tránh tình trạng bị ép giá khi vào mùa vụ, nhằm tạo điều
kiện có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
➢ Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ
các ngân hàng
❖ Đề xuất đối với các doanh nghiệp
Bên cạnh việc Nhà nước hỗ trợ thì bản thân các doanh nghiệp Việt
Nam muốn tồn tại được trên thị trường AEC trước mắt và trên thế giới
về sau phải nỗ lực hết mình để có thể giúp sản phẩm của mình được nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Muốn làm được điều đó, doanh
nghiệp phải thực hiện các giải pháp sau đây:
● Thứ nhất, phải nhận thức được cơ hội và thách thức trong quá
trình hội nhập đặc biệt là áp lực cạnh tranh rất khốc liệt khi ta mở
cửa thị trường.
● Thứ hai, xây dựng chiến lược phát triển ổn định lâu dài, thích ứng
với điều kiện thị trường nhiều biến động, giảm ưu tiên, tối đa hoá
lợi nhuận trong ngắn hạn mà dành thời gian để củng cố vị thế
(thương hiệu, sản phẩm …) nhằm từng bước tạo uy tín trên trường
quốc tế.
● Thứ ba, có chiến lược sản phẩm, khai thác có hiệu quả các lợi thế so
sánh trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu
nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế
sản phẩm, chọn lựa hệ thống quản lý tiên tiến, phù hợp với doanh
nghiệp để nâng cao chất lượng hàng hoá. Làm tốt công tác nghiên
cứu thị trường, phát triển mạng lưới tiêu thụ, nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống phân phối, nắm bắt và phản ứng kịp thời
của đối thủ cạnh tranh, tìm kiếm những thị trường mới.
● Thứ tư, nâng cao trình độ năng lực kinh doanh, điều hành, quản lý
doanh nghiệp, tay nghề của người lao động, kiến thức về tiếp thị,
tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, chú trọng đến
những sáng kiến, cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau
trong hoạt động doanh nghiệp.
● Thứ năm, tăng cường vai trò của các hiệp hội, ngành hàng, củng cố
tổ chức này ngang tầm với những đòi hỏi của doanh nghiệp trong
bối cảnh hội nhập.
❖ Tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với các quốc gia trong
ASEAN
Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, sản xuất hàng xuất khẩu của
Việt Nam dựa trên ngành hàng có lợi thế so sánh, trong những năm trước
mắt những nguồn lực có lợi thế so sánh tĩnh (tài nguyên, lao động rẻ…) có
vị trí quan trọng trong việc hạ thấp chi phí và giải quyết việc làm cho
nhân dân.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của ta hiện nay giống các nước ASEAN,
chủ yếu dựa vào tài nguyên và sản phẩm nông sản nhiệt đới. Theo quy
định của CEPT thì những nông sản chế biến mới được hưởng ưu đãi thuế
quan. Việt Nam phải nâng cao kỹ thuật sản xuất, phát triển công nghệ
chế biến để đạt giá trị cao đồng thời tham gia cạnh tranh trong thị trường
ASEAN.

56
Tác động của AEC, một mặt thúc đẩy chuyên môn hoá và hợp tác
sản xuất đặc biệt ở các quốc gia có chi phí sản xuất thấp. Vì thế, việc phân
bố lại cơ cấu sản xuất là yêu cầu cần thiết. Mặt khác, để hưởng mức thuế
ưu đãi, Việt Nam phải chủ động:
- Tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất sản phẩm
xuất khẩu phù hợp với CEPT.
- Đẩy mạnh công nghiệp chế biến, tham gia cạnh tranh và giữ thị
phần trong ASEAN.
- Kết hợp nhiều trình độ để khai thác, sản xuất những mặt hàng có
lợi thế so sánh. Chú trọng công nghệ hiện đại để khai thác lợi thế
mũi nhọn. Nâng dần những hàng có lợi thế so sánh tĩnh sang lợi thế
so sánh động.
- Liên doanh, liên kết sản xuất là con đường khả dĩ giúp Việt Nam
vừa chuyển đổi cơ cấu sản xuất vừa rút ngắn mức độ chênh lệch
trong công nghệ sản xuất giữa Việt Nam với các nước ASEAN.
PHỤ LỤC

Tài liệu tham khảo

1. PGS. TS. Nguyễn Văn Dần; TS Đỗ Thị Thục. (2014). Giáo trình
Kinh tế Vĩ mô 1, Hà Nội , NXB Tài Chính.
2. PGS. TS. Vũ Thị Bạch Tuyết; PGS. TS. Nguyễn Tiến Thuận .
(2010). Giáo trình Kinh tế quốc tế, Hà Nội, NXB Tài Chính.
3. Báo cáo của Tổng cục thống kê năm 2017, 2018(http://gso.gov.vn/)
4. Báo cáo của Tổng cục hải quan năm 2017, 2018
(https://customs.gov.vn/)
5. TS. Ngô Tuấn Anh, Tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN, cơ hội –
thách thức và khuyến nghị giải pháp đối với Việt Nam trong thời gian
tới, Hội thảo quốc tế "Tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN:
Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam", Đại học Quốc gia Hà
Nội, 11/10/2013.
6. Bộ Công thương. Hợp tác kinh tế Việt Nam với ASEAN và ASEAN
mở rộng, Nhà xuất bản Công thương, 2010.
7. Ban thư ký ASEAN, Sổ tay kinh doanh trong cộng đồng kinh tế
ASEAN, Jakarta, Tháng 11/2011.
8. PGS.TS Hà Văn Hội, Cộng đồng kinh tế ASEAN: Những tiến triển
và tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam, Hội thảo quốc tế
"Tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Kinh nghiệm quốc tế và
hàm ý cho Việt Nam", Đại học Quốc gia Hà Nội, 11/10/2013
9. PGS.TS Hà Văn Hội, Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN và những
tác động tới thương mại quốc tế của Việt Nam, Tạp chí Khoa học –
Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế kinh doanh, Tập 29, số 4 (2013),
trang 44-53, 23/12/2013.
Các website tham khảo

58
1. World bank data (http://data.worldbank.org/)
2. ASEAN stats (http://www.aseanstats.org/)
3. ASEAN Website (http:// www.asean.org)
4. Pháp luật và chính sách cạnh tranh trong ASEAN (CPL)
(http://www.asean-competition.org/)

You might also like