Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 127

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG


----------

BẠCH THANH MINH

GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT

CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NÓI TIẾNG ANH

BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG
----------

BẠCH THANH MINH

GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT

CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NÓI TIẾNG ANH

BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành : Việt Nam học

Mã số : 60220113

Người hướng dẫn khoa học


PGS.TS Trần Xuân Mai
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Tốt nghiệp Thạc sỹ Việt Nam học với đề tài
“Giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp
giao tiếp” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các trích dẫn nêu trong luận văn này là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 02 năm 2016

Tác giả luận văn

Bạch Thanh Minh

- iii -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Trường Đại học Quốc
tế Hồng Bàng, Viện đào tạo sau đại học, nơi đón nhận và nâng dỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu đề tài này. Tôi đặc biệt cám ơn
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hùng – nguyên Hiệu trưởng nhà trường và PGS.TS Trần
Xuân Mai, những người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi để tôi hoàn thành luận văn
theo đúng thời gian quy định. Tôi cũng xin cám ơn PGS.TS Phan An, PGS.TS Phan
Huy Xu…, những người thầy đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để luận văn phong
phú, chuẩn mực hơn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn Quý GS.TS, các Thầy Cô đã tận tình cung
cấp những tri thức quý báu cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập tại lớp Cao
học Việt Nam học 1, khóa 1 của nhà trường. Tôi cũng xin cám ơn tất cả các bạn học
viên cùng lớp luôn khích lệ động viên tôi để tôi có được kết quả ngày hôm nay.
Do sự hiểu biết của tôi có hạn nên nội dung Luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong nhận được sự hướng dẫn góp ý của Quý Thầy, Cô.
Chân thành cảm ơn !

Tác giả luận văn

Bạch Thanh Minh

- iv -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Giải thích Trang


CLB Câu lạc bộ Nhiều trang
ĐH&THCN Đại học và trung học chuyên nghiệp 100
GS.NGND Giáo sư – Nhà giáo nhân dân Nhiều trang
GS.TS Giáo sư – Tiến sỹ Nhiều trang
HN Hà Nội 100
PGS.TS Phó giáo sư – Tiến sỹ Nhiều trang
NXB Nhà xuất bản 100,101,102
NGND Nhà giáo Nhân dân 112
THPT Trung học phổ thông Nhiều trang
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh Nhiều trang
TS Tiến sỹ Nhiều trang
UBND Ủy ban nhân dân Nhiều trang
United Nations Educational Scientific and
UNESCO Cultural Organization (Tổ chức văn hóa, khoa Nhiều trang
học, giáo dục, Liên hiệp Quốc )
ĐHQGHN Đại Học Quốc Gia Hà Nội 2
HUFLIT Trường Đại Học Ngoại Ngữ - Tin Học TP.HCM 2
BCH-TƯ Ban Chấp Hành – Trung Ương 9
ASEAN Hiệp hội những Quốc Gia Đông Nam Á 96
TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương 96
NCS Nghiên cứu sinh Nhiều trang
VNH Việt Nam Học 62
GD&ĐT Giáo Dục và Đào Tạo 92

-v-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số bảng Tên bảng Trang

1 Danh mục chữ viết tắt v

2 Danh mục các bảng biểu vi

3 Danh mục các hình vẽ, đồ thị vii

1.1 Bảng so sánh phương ngữ 24

Bảng so sánh một số từ thông dụng tại các vùng


1.2 25
trong phương ngữ tiếng Việt

1.3 Biểu đồ dạy bốn kỹ năng: Nghe - Nói - Đọc - Viết 39

2.1 Sự khác nhau về cách dùng thì và chia động từ 48

Bảng thống kê tỷ lệ các dạng bài tập trong sách


2.2 60
dạy tiếng Việt được khảo sát

Bảng thống kê chi tiết phân bổ các dạng bài tập


2.3 61
theo chủ đề

Bảng khảo sát học viên tại Trường Đại Học


2.4 63
Quốc Tế Hồng Bàng

3.1 Bảng phân tích SWOT 96

- vi -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

Số hình Tên hình Trang


1. Tác giả và các học viên học tiếng Việt 104
Các giáo sinh người nước ngoài theo học khóa bồi
2 dưỡng Tiếng Việt tại Trung Tâm Ngôn Ngữ Quốc Tế 104
Hồng Bàng
Danh sách học viên nước ngoài học tiếng Việt tại
3 105
Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng.
4 Giao tiếp giữa thầy và trò trong giờ học. 106
5 Giảng bài trên lớp 106
6 Giao tiếp trong giờ học 107
7 Giáo trình dạy tiếng Việt 107
8 Giáo trình dạy tiếng Việt 108
9 Giáo trình dạy tiếng Việt 108
10 Giao tiếp tiếng Việt qua ngữ cảnh 109
11 Giao tiếp tiếng Việt qua ngữ cảnh 109
12 Giao tiếp tiếng Việt qua ngữ cảnh 110
13 Dạy viết tiếng Việt 110
14 Giao tiếp trực tiếp 111
15 Giao tiếp trong giờ học 111
16 Giao tiếp trên lớp 112
GS.TS.NGND Đinh Văn Đức phát biểu tại lễ bế
17 112
giảng khóa học
18 Lễ bế giảng khóa học 113
19 Hình ảnh vui nhộn trong sách Giáo khoa 113
20 Giao tiếp trên lớp học 114
21 Giao tiếp trực quan 114

- vii -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... iii

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ...................................................v

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .............................................................................. vi

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH ................................................................................ vii

MỤC LỤC ................................................................................................................. viii

TÓM TẮT ..................................................................................................................xii

ABSTRACT .............................................................................................................. xiii


MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 3

4. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 3

4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài........................................................................... 3

4.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 3

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu .......................................................... 3

6. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................... 4

7. Bố cục của luận văn .............................................................................................. 5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................................... 6

1.1. Cơ sở lý luận........................................................................................................... 6

1.2. Tổng quan về Tiếng Việt ........................................................................................ 6

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của tiếng Việt ..................................................... 6

1.4. Văn hóa ................................................................................................................... 9

- viii -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

1.5. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ............................................................... 10

1.6. Văn hóa giao tiếp .................................................................................................. 12

1.6.1. Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam ........................................................... 12

1.6.2. Tiếng Việt và văn hóa giao tiếp của người Việt Nam..................................... 13

1.6.3. Tính cộng đồng trong văn hóa giao tiếp của người Việt................................. 15

1.7. Về cách thức giao tiếp của người Việt Nam ........................................................ 15

1.8. Hệ thống nghi thức lời nói của người Việt rất phong phú ................................... 16

1.9. Đặc điểm của Tiếng Việt ...................................................................................... 17

1.9.1. Chữ viết của tiếng Việt ................................................................................... 17

1.9.2. Đặc điểm loại hình .......................................................................................... 18

1.9.3. Đặc điểm từ vựng ............................................................................................ 19

1.9.4. Đặc điểm ngữ pháp ......................................................................................... 20

1.9.5. Tục ngữ ca dao ................................................................................................ 29

1.9.6. Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt ........................................................................... 30

1.9.6.1. Âm tiết tiếng Việt không có hiện tượng nốì âm........................................... 32

1.9.6.2. Âm tiết tiếng Việt mang tính biểu hiện ý nghĩa ........................................... 32

1.10. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................... 33

Tiểu kết ........................................................................................................................ 40


CHƯƠNG 2: CÁC NGUYÊN TẮC DẠY TIẾNG VIỆT NHƯ LÀ MỘT NGOẠI
NGỮ CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ................................................................. 42

2.1. Sự khác nhau về ngữ âm và ngữ điệu .................................................................. 42

2.1.1. Sự khác nhau về ngữ âm.................................................................................. 42

2.1.2. Sự khác nhau về thanh điệu ............................................................................ 44

2.2. Sự khác nhau về ngữ điệu..................................................................................... 45

2.2.1. Sự khác nhau cơ bản về ngữ pháp................................................................... 46

- ix -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

2.2.2. Sự khác nhau về trật tự từ ............................................................................... 46

2.2.3. Sự khác nhau về xưng hô ................................................................................ 46

2.2.3.1. Sự khác nhau về cách dùng thì và chia động từ ........................................... 48

2.3. Một số lỗi thường gặp của học viên nước ngoài khi học tiếng Việt .................... 49

2.3.1. Những sự nhầm lẫn khi dùng từ ...................................................................... 49

2.3.2. Dạng câu hỏi “đâu” và “ở đâu" ....................................................................... 52

2.4. Quan hệ và ý nghĩa ngữ pháp được thể hiện bằng trật tự từ và hư từ .................. 53

2.4.1. Dùng sai trật tự từ trong phạm trù sở hữu ....................................................... 54

2.4.2. Dùng sai trật tự từ của các chỉ định từ ............................................................ 54

2.4.3. Dùng sai trật tự từ các các định ngữ của danh từ ............................................ 54

2.5. Phạm trù thì (Tense) ............................................................................................. 55

2.5.1. Các từ “ đã”,“đang”, “sẽ ” biểu thị tình thái liên quan đến thì: ...................... 55

2.5.1.1. Các từ “ đã”, “đang”, “sẽ” theo quan điểm của người nói ........................... 55

2.5.1.2. Ý nghĩa thời gian được đánh dấu bằng trạng từ và trạng ngữ thời gian ...... 55

2.5.2. Thứ tự từ ngữ có thể biểu hiện ý nghĩa thời gian ............................................ 55

2.6. Thể bị động (Passive voice ) ................................................................................ 56

2.7. Khảo sát bài tập trong một số sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và khảo
sát học viên tại Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng ........................................ 58

Tiểu kết ........................................................................................................................ 66


CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP VÀO VIỆC GIẢNG DẠY
TIẾNG VIỆT ........................................................................................................ 68
3.1. Giảng dạy tiếng Việt bằng phương pháp giao tiếp cho người nước ngoài .......... 68

3.1.1. Phương pháp giáo dục truyền động (transaction) ............................................. 69

3.2. Các bước tiến hành học ngôn ngữ theo phương pháp giao tiếp : ......................... 71

3.2.1. Qui trình thực hiện phương pháp giao tiếp........................................................ 75

3.3. Áp dụng phương pháp giao tiếp để dạy phát âm tiếng Việt ................................. 75

-x-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

3.3.1. Dạy ngữ pháp bằng phương pháp giao tiếp. ................................................... 77

3.3.2. Dạy kỹ năng nghe - nói theo phương pháp giao tiếp ...................................... 79

3.4. Dạy kỹ năng đọc và viết theo phương pháp giao tiếp .......................................... 87

3.5. Những ưu điểm của phương pháp giao tiếp ......................................................... 91

3.6. Những đề xuất cho việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bằng phương
pháp giao tiếp...................................................................................................... 92

Tiểu kết ........................................................................................................................ 97


KẾT LUẬN ................................................................................................................. 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 100

PHỤ LỤC .................................................................................................................. 103

- xi -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NÓI TIẾNG ANH
BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP
Tóm tắt
Người nước ngoài học tiếng Việt không chỉ để biết và sử dụng tiếng việt mà
còn muốn thông qua việc học tiếng Việt để hiểu thêm về con người Việt Nam và
cả những biểu hiện văn hóa được phản ảnh qua tiếng Việt. Dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài thực chất là truyền bá văn hóa Việt. Người dạy tiếng Việt là
người đại diện cho nền văn hóa Việt Nam cho nên họ không chỉ có kiến thức,
năng lực sư phạm mà còn phải có nhân cách và lòng tự hào dân tộc. Tiếng nói đâu
chỉ đơn thuần là vốn quý, mà còn là tượng trưng cho bản sắc nòi giống của mình.
Một dân tộc có mạnh thì tiếng nói của dân tộc ấy mới sống được. Nhưng tiếng nói
của dân tộc mất, thì dân tộc ấy cũng không còn. Tiếng Việt còn là nhờ tinh thần
bất khuất của dân tộc. Và dân tộc Việt Nam còn là nhờ ở tiếng Việt còn. Tiếng
Việt quả là một tiếng nói quật cường cho một dân tộc quật cường. Nhiều người
nước ngoài không chỉ vì mục đích kinh tế mà vì yêu thích Việt Nam nên học tiếng
Việt lại càng yêu thích Việt Nam hơn. Tiếng Việt chính là một môn học tạo ra
năng lực về từ vựng, cung cấp kiến thức về ngôn ngữ cần thiết cho chúng ta, để
chúng ta có thể lĩnh hội cái hay cái đẹp trong văn học. Hơn nữa, “Tiếng Việt là thứ
của cải vô cùng quý giá”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Nó cũng chính là
linh hồn của cả dân tộc nhờ đó mà trải qua bao thăng trầm lịch sử bị ngoại xâm,
người Việt Nam ta vẫn giữ được bản sắc dân tộc mình”.
Một số ý kiến và gợi ý thú vị trên đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài “ Giảng
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bằng phương pháp giao tiếp”. Tôi tin rằng
với đề tài này sẻ giúp cho học viên thành công trong việc của họ.

- xii -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ABSTRACT
The foreigners study Vietnamese not only for the purpose of understanding and
using it but they also want to know more about the Vietnamese people together with
their cultural characteristics reflected in the Vietnamese language. Teaching
Vietnamese to foreigners is in reality to propagate the Vietnamese culture. The
persons who teach Vietnamese culture; therefore, they must not only be well-
learned, have pedagogical ability but also have human dignity and a national pride.
Language is not only a highly valuable property but also a symbol of its racial
charater. A language can only survive if its people are strong. And a people will
perish if their language ceases to exist. The survial of the Vietnamese language is
due to the indomitable spirit of the Vietnamese people. And the surial of
Vietnamese people owes to their languages. The Vietnamese language is indeed the
unassimilated language of an indomitable people. Many foreigners don’t learn
Vietnamese because of their economic interest but because they hold Vietnam in
high esteem. The Vietnamese language is a subject creating energy for vocabulary,
providing us with necessary language knowledge in order that we can grasp the
beauty and the quintessence of literature. Moreover, “The Vietnamese language is
the most valuable property” as president Ho Chi Minh proclaimed. “It’s also our
people’s souls. Thanks to it, through many ups and downs in the history being
invaded , we, Vietnamese people can preserve our own national identity”.
Some above interesting opinions and suggestions do drive us to choose the
thesis entitled “Teaching the Vietnamese language to the English speaking learners
by the communicative language teaching approach”- which, I believe, helps foreign
language learners successful in their studying.

- xiii -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam học là một bộ môn khu vực học, trong đó hàm chứa toàn bộ thông
tin về khu vực như hoàn cảnh tự nhiên, văn hoá, lịch sử, phong tục, tín ngưỡng tập
quán…, trong đó, yếu tố văn hoá đóng vai trò hết sức quan trọng. Văn hoá mỗi quốc
gia, mỗi khu vực được thể hiện rất rõ nét qua ngôn ngữ. Như vậy, văn hoá và ngôn
ngữ có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, dạy ngôn ngữ cũng có nghĩa là dạy văn
hoá. Việt Nam học ra đời từ nhu cầu của người nước ngoài muốn tìm hiểu đất nước,
con người Việt Nam để duy trì mối quan hệ trong làm ăn, giao lưu, hợp tác, vì vậy
họ học tiếng Việt cũng giống như mình học tiếng nước ngoài vậy. Trong suốt thời
kỳ ngàn năm Bắc thuộc, chúng ta phải dùng chữ Hán, sau đó từ chữ Hán ta chuyển
sang chữ Nôm, rồi từ chữ Nôm chuyển sang chữ Quốc ngữ. Như vậy, chúng ta đã
“dùng đá người để mài dao nhà” mà có tiếng Việt của ngày hôm nay, trong cả hai
phương diện tiếng nói và chữ viết. Rất nhiều người Việt Nam theo học các ngoại
ngữ khác nhau trên thế giới nhưng cũng không ít người nước ngoài học tiếng Việt
của chúng ta. Đây là niềm tự hào dân tộc.
Việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, trong đó có cộng đồng những
người nói tiếng Anh đã diễn ra từ nhiều năm nay. Các thế hệ thầy cô đã khổ công để
trang bị kiến thức tiếng Việt cho các thế hệ học trò. Đây là việc làm rất khó, nếu
không có cách làm tốt thì sẽ không có hiệu quả cao. Trong thời kỳ hội nhập và phát
triển kinh tế,nhu cầu học tiếng Việt của người nước ngoài ở Việt Nam đã tăng lên rõ
rệt. Họ học tiếng Việt chủ yếu để làm ăn để nghiên cứu, nhưng có khi cũng từ lý do
rất đơn giản là để giao tiếp, để tìm hiểu, khi đi tham quan, du lịch. Để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao trong dạy và học tiếng Việt, chúng ta phải tích cực đầu tư cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhưng trên hết, phải đầu tư trí tuệ để sẵn sàng làm
tốt công việc này. Chúng ta học tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Nhật… là học ngoại
ngữ, thì họ học tiếng Việt cũng chính là học ngoại ngữ vậy. Trong xu thế hiện đại,
người nước ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt ngày càng tăng, họ học tiếng Việt
với nhiều mục đích khác nhau:
- Để giao tiếp trong đời thường: Người học là khách du lịch, tham quan hoặc

-1-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

làm công tác trao đổi văn hóa giáo dục, họ cư trú ở Việt Nam trong thời gian ngắn.
- Để giao tiếp trong sản xuất kinh doanh: Học viên thường là các doanh nhân,
các nhà đầu tư nước ngoài nghiên cứu thị trường hoặc đầu tư, làm ăn ở Việt Nam
ngắn hoặc dài hạn.
- Học tiếng Việt để nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học, ngôn ngữ, kinh tế
Việt Nam… . Học viên là những sinh viên, nghiên cứu sinh, nhân viên của các tổ
chức Quốc Tế, Chính Phủ và Tư nhân đến từ nước ngoài như Úc, Nhật, Mỹ, Anh…
Tất cả các đối tượng trên đều có mục đích và nhu cầu riêng khi học tiếng
Việt. Chúng tôi thiết nghĩ, dù là tiếng Việt dùng trong giao tiếp, du lịch, kinh tế hay
khoa học cũng đều là tiếng Việt văn hóa, cần phải tuân theo những chuẩn mực nhất
định. Chúng ta không xem nhẹ bất cứ ngôn ngữ chuyên ngành nào trong giảng dạy
tiếng Việt. Người ta nói rằng ngôn ngữ là sản phẩm, cũng là biểu hiện bản sắc của
một nền văn hóa. Ngôn ngữ Việt là phương tiện hữu hiệu đầu tiên để văn hóa Việt
Nam giao lưu với các nền văn hóa khác trên thế giới. Đó chính là lý do chúng tôi
quyết định chọn đề tài: “Giảng dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài nói tiếng
Anh bằng phương pháp giao tiếp”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố trong hệ thống
các đề tài giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bằng phương pháp giao tiếp,
trong đó điển hình là: “Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài”
của Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQGHN). “Giảng dạy tiếng
Việt như một ngoại ngữ” của GS Phan Văn Giưỡng. “Vấn đề dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài” của Nguyễn Văn Huệ (tham luận trong hội thảo khoa học toàn
quốc do Trường đại học Sài Gòn, Trường đại học HUFLIT tổ chức 2010), v.v…
Đây là những công trình đề cập khá chuyên sâu về việc dạy tiếng Việt theo
phương pháp giao tiếp. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau, cung cấp cho ta nhiều ý kiến để tham khảo. Tất cả những công
trình nghiên cứu trên là cơ sở, nền tảng giúp cho việc nghiên cứu đề tài của chúng
tôi được thuận lợi.
Nhìn chung, các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về việc dạy tiếng Việt

-2-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

cho người nước ngoài. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ khái quát về những điểm
chung trong việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, chưa đi sâu tìm hiểu cụ thể
những biểu hiện trong văn hóa ứng xử, cách dung câu từ trong giao tiếp của người
Việt hoặc sự khác biệt của cấu trúc, văn phạm sử dụng trong giao tiếp. Tất cả
những nội dung này được phương pháp giao tiếp hay còn gọi là tiến trình giao
tiếp, thỏa mãn đầy đủ và thực tế nhất so với các phương pháp dạy Tiếng khác. Vì
vậy, tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của những công
trình đi trước và phát triển, đề xuất thêm những lãnh vực chính yếu như: Ảnh
hưởng của văn hóa trong ngôn ngữ, phương pháp dạy các kỹ năng trong giao tiếp,
đặt biệt là kỹ năng nói và nghe, cũng như môi trường học v.v… đối với phương
pháp giao tiếp trong việc dạy tiếng Việt cho cộng đồng người nói tiếng Anh.
Phải nói rằng kết quả của các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu
quý giá để tác giả luận văn kế thừa và phát triển trong quá trình thực hiện đề tài của
mình.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu tính khoa học và tính ưu việt cũng như sự phát triển của phương
pháp giao tiếp so với các phương pháp khác trong việc giảng dạy tiếng Việt,
- Áp dụng phương pháp giao tiếp trong giảng dạy tiếng Việt tại TP.HCM nói
chung và tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng nói riêng, trong thời kỳ hội nhập
của đất nước ta.
4. Đối tượng nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Một số phương pháp giảng dạy tiếng Việt đã và đang áp dụng hiện nay:
 Phương pháp văn phạm - phiên dịch (The Grammar-Translation Method)
 Phương pháp trực tiếp (The Direct Method)
 Phương pháp nghe – nói (Audiolingual Method)
 Phương pháp giao tiếp (Community Language Learning / Communcative
Approach).
- Lớp học tiếng Việt của học viên nước ngoài tại Trường Đại học Quốc tế
Hồng Bàng.

-3-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

- Một số giáo trình tiếng Việt dạy cho người nước ngoài tiêu biểu đang được
giảng dạy tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng và một số trung tâm dạy tiếng
Việt tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu đề tài tại thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt là
tại Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng. Chú trọng đến trình độ tiếp cận ban đầu
của học viên trong việc học tiếng Việt.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Phương pháp phân tích lí thuyết, ở đó xác định sự thống nhất giữa giáo trình và
nội dung lý thuyết gỉang dạy (có dẫn chứng và so sánh).
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
- Phương pháp phân tích thực nghiệm xã hội học về việc sử dụng giáo trình,
tiến trình dạy tiếng Việt trong một lớp học.
- Phương pháp đối chiếu so sánh
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp SWOT.
- Tài liệu được sử dụng từ nhiều nguồn: Sách tham khảo, tên các trang mạng,
khảo sát và phỏng vấn một số học viên trong lớp học tiếng Việt.
6. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn trình bày về cơ sở khoa học áp dụng phương pháp giảng dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh. Sau khi khảo sát một số giáo trình dạy
tiếng Việt vốn đã và đang được áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời
phỏng vấn một số học viên trong lớp học tiếng Việt.Chúng tôi nghiên cứu và đề
nghị bổ sung thêm một số phương thức quan trọng trong việc dạy và học Tiếng Việt
nhằm đem lại kết quả tốt nhất trong công tác giảng dạy Tiếng Việt hầu đáp ứng
được yêu cầu của ngường học, trong thời kỳ phát triển và hội nhập của đất Nước ta.
Chúng tôi cũng hy vọng rằng luận văn này đáp ứng được cả về lí thuyết và thực
hành trong việc dạy và học tiếng Việt.

-4-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

7. Bố cục của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương
như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Chương 2: Các nguyên tắc dạy tiếng Việt như là một ngoại ngữ cho người
nước ngoài.
- Chương 3: Ứng dụng phương pháp giao tiếp vào việc giảng dạy Tiếng Việt
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

-5-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Tổng quan về Tiếng Việt
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường, nhánh Môn-Khmer
của họ ngôn ngữ Nam Á, là một họ ngôn ngữ đã có từ rất xưa trên một khu vực
rộng lớn của Đông Nam Châu Á, vùng này thời cổ là một trong những trung tâm
văn minh trên thế giới.
Ví dụ:
Trong tiếng Việt, có từ “tay” thì từ tương đương trong tiếng Mường là
“thay”, trong tiếng Khmer nghe như “tai”.
Tiếng Việt có mối quan hệ xa xưa với nhóm Thái.
Ví dụ:
Những từ gà, vịt, đồng, rẫy…được chứng minh là cùng gốc với những từ
tương đương trong nhóm tiếng Thái.
Phần lớn những ngôn ngữ của các dân tộc thuộc khối cộng đồng Việt Nam
đều sinh ra từ một cội nguồn chung xa xưa. Từ cội nguồn ấy, tiếng Việt đã có quá
trình phát triển riêng trong xã hội của người Việt, là một xã hội sớm đạt tới trình độ
tổ chức khá cao, với một nền văn minh tương đối hoàn chỉnh. Trải qua giai đoạn
này, tiếng Việt đã thành một ngôn ngữ thống nhất và nó có bản sắc của nó. Bản sắc
ấy khá vững bền, nó tiếp tục phát huy ở giai đoạn sau, giai đoạn của sự tiếp xúc
ngôn ngữ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển tiếng Việt
 Tiếng Việt ở giai đoạn dùng chữ Hán
Chữ Hán còn gọi là chữ Nho, chữ Trung Quốc, là một dạng chữ viết biểu ý
của tiếng Trung Quốc. Chữ Hán có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước
lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tại các quốc gia
này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở
từng nước. Cũng như các chữ viết khác trên thế giới, chữ Hán được hình thành từ

-6-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

các nét vẽ miêu tả các sự vật hiện tượng xung quanh con người. Nhưng khác ở đây
là chữ Hán đã chọn một cách phát triển không giống các chữ viết khác trên thế giới.
Với các chữ viết khác trên thế giới, khi xã hội phát triển, con người đã đơn giản các
nét vẽ và dùng các nét đó để thể hiện cho một âm tiết nào đó trong tiếng nói của các
dân tộc họ. Còn với chữ Hán, nó vẫn giữ lại ý nghĩa tượng hình ban đầu của chữ và
dùng các phép tạo chữ khác để tạo nên các chữ có ý nghĩa trừu tượng. Chính vì thế,
chữ tượng hình mặc dù chiếm một phần không lớn trong chữ Hán, nhưng lại có tầm
quan trọng rất lớn trong hệ thống chữ Hán.
Trong suốt thời gian Bắc thuộc, với chính sách Hán hóa của nhà Hán, tiếng
Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt đã chấp nhận ngôn ngữ mới đó
song song với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng. Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng
Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán-Việt.
Từ đó đã có rất nhiều từ Hán-Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển
của tiếng Hán ở Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc song song với sự phát triển của
tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời đó.
Năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, người Việt đã giành
độc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn đậm
ảnh hưởng của tiếng Hán. Sang thời kỳ tự chủ chữ Hán giữ địa vị là văn tự chính
thức nhưng cách đọc đã phát triển theo hướng riêng, khác với sự phát triển tiếng
Hán ở Trung Quốc. Sang thời Hậu Lê, Hàn Thuyên đã sáng tạo ra chữ Nôm
 Tiếng Việt ở giai đoạn dùng chữ Nôm
Sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt-Hán đã diễn ra cả nghìn năm dưới chế độ đô hộ
của phong kiến Trung Hoa. Suốt giai đoạn này, chữ Hán giữ địa vị rất quan trọng.
Nó được dùng trong hành chính, tế lễ, học thuật, thơ văn. Chữ Nôm là một thứ chữ
được tạo ra theo nguyên tắc và trên cơ sở của chữ Hán. Chữ Nôm xuất hiện vào
khoảng thế kỷ IX-X, nhưng mãi đến thế kỷ XIII-XV mới có thơ phú “quốc
âm”,“quốc ngữ” viết bằng chữ Nôm. “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi - tập thơ
này là thành công đầu trong nền văn học viết của tiếng Việt.
Vào cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỳ XIX, trào lưu văn học Nôm phát triển
mạnh với nhiều tác phầm được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Những tác phẩm

-7-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

như “Chinh phụ ngâm”, “Kim Vân Kiều” (truyện Kiều) đã phản ánh cách đặt câu,
cách làm thơ qua trào lưu văn học Nôm đạt tới trình độ điêu luyện mà vẫn bền
vững, nhuần nhuyễn tính cách Việt Nam.
 Tiếng Việt ở giai đoạn dùng chữ Quốc Ngữ
Chữ quốc ngữ là một thứ chữ được xây dựng theo nguyên tắc ghi âm, bằng
chữ cái La tinh - loại chữ này đã được dùng phổ biến từ rất lâu ở Châu Âu. Đến cuối
thế kỷ thứ XVIII, một số giáo sỹ phương Tây (người Bồ Đào Nha, Pháp) đem
nguyên tắc ấy dùng vào việc ghi âm tiếng Việt, tạo ra một thứ chữ thuận lợi hơn cho
việc ghi chép và truyền đạo. Cố đạo Alexandre De Rhodes là người có công trong
việc hoàn chỉnh và phổ biến chữ quốc ngữ, ông đã biên soạn từ điển “Việt-Bồ-
Latinh” xuất bản ở Rome năm 1651. Tuy nhiên, sự tiếp xúc đó chưa ảnh hưởng sâu
rộng đối với người Việt, nó chỉ có phạm vi sử dụng hạn chế trong những kinh bổn
đạo Thiên Chúa.
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và đặt ách đô hộ lên nước Việt
Nam, thực thi chính sách đẩy lùi ảnh hưởng của tiếng Nôm (gốc Hán) và từng bước
đưa tiếng Pháp vào thay thế tiếng Việt. Tuy nhiên, tiếng Việt không những không bị
thay thế mà còn chủ động, lựa chọn những cái có lợi cho mình cả về từ vựng lẫn
ngữ pháp.
Từ đầu thế kỷ XX, tiếng Việt đã được dùng trong mọi thể loại văn học, mọi
địa hạt văn hóa, khoa học, kỹ thuât, nó phát triển thành ngôn ngữ văn học toàn diện.
Đây là giai đoạn hiện đại hóa tiếng Việt. Ở giai đoạn này, sự phát triển của tiếng
Việt diễn ra mạnh và nhanh, và cũng là giai đoạn sử dụng chữ quốc ngữ thay cho
chữ Nôm.
Trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở đầu thế kỷ thứ XX, một số nhà
nho yêu nước đã nêu việc dùng chữ quốc ngữ lên hàng đầu trong sáu biện pháp của
bản sách lược gọi là Văn Minh Tân Học Sách (1907) và lên tiếng kêu gọi đồng bào
vì tương lai đất nước mà nên dùng thứ chữ tiện lợi ấy. Những tài liệu văn hóa bằng
chữ quốc ngữ do phong trào này phát hành đã được phổ biến khá rộng. Sách báo
chữ quốc ngữ được xuất bản nhiều là từ khoảng 1920 trở về sau.
Không những sách báo công khai mà cả sách báo bí mật cũng dùng chữ quốc

-8-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ngữ. Sách báo công khai là những “Nhật trình”, “Tuần san”, “Nguyệt san”, sách
báo bí mật là những tờ báo nhỏ, những tài liệu chính trị của tổ chức như “Công hội
đỏ”, “Nông hội đỏ” những tài liệu quan trọng như “Đường Cách mệnh” của Hồ
Chí Minh, “Luận cương chính trị” của BCH-TƯ Đảng Cộng sản Đông Dương, đã
được truyền trong thời kỳ này.
Trong thời kỳ ấy, văn xuôi tiếng Việt đã thực sự ra đời và được luyện dần
trong các thể loại nghị luận chính trị, xã hội. Cách đặt câu đổi mới, coi trọng tính
chất rõ ràng, khúc chiết hơn là tính chất đối xứng, nhịp nhàng. Những tri thức mới
về chính tri, khoa học đòi hỏi nhiều từ mới phải đưa vào tiếng Việt.
Những từ như: kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, giai cấp…xuất hiện trong
tiếng Việt từ thời bấy giờ. Văn xuôi nghệ thuật cũng dần dần trở thành phổ biến.
Lúc đầu còn là văn dịch, rồi khoảng từ 1930 về sau, lớp văn sỹ “Tân học” ngày
càng đông, đã sáng tác theo thể loại mới: truyện ngắn, truyện dài, kịch, nói… . Cuối
cùng, văn xuôi rời bỏ hẳn lối đặt câu biến ngẫu, có xu hướng gần gũi hơn với lời nói
bình thường. “thơ mới” lại càng mạnh dạn hơn, nó phá bỏ những luật lệ khắt khe,
và xích tới gần văn xuôi.
Trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật thì số lương thuật ngữ mới hoặc gốc
Hán như: tâm, bán kính, ẩn số hoặc gốc Pháp như: A-xít, ô-xy, mê-tan…đã tăng lên
nhiều, và được bắt đầu truyền bá qua một số công trình dịch thuật và biên soạn có
tính chất giáo khoa phổ thông. Đó là những công trình có ý nghĩa quan trọng, do
những nhà khoa học, cũng qua những công trình đó mà văn xuôi khoa học tiếng
Việt hình thành và phát triển nhanh chóng.
Ngày nay, tiếng Việt được dùng bằng chữ quốc ngữ là ngôn ngữ chung, dùng
trong mọi địa hạt giao lưu giữa các thành phần dân tộc, và đặc biệt trong sự xây
dựng và phát triển nền văn hóa và khoa học-kỹ thuật chung của khối cộng đồng dân
tộc Việt Nam.
1.4. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm được hiểu theo nhiều góc độ, ý nghĩa khác nhau.
Do đó, hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Trong giao tiếp, người ta thường quan niệm văn hóa là trình độ học vấn, khi

-9-
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

họ nói “Anh ấy có văn hóa cao” tức là “ Anh ấy có học vấn cao”.
Văn hóa cũng được người ta hiểu là cách ứng xử trong quá trình giao tiếp:
Nếu hành động cử chỉ hoặc lời nói nào đó không hợp với cách ứng xử chung trong
cộng đồng, để phê phán người ta thường nói: “Ô, sao anh ta lại vô văn hóa đến
thế?”
Có thể nói rằng, cách tiếp cận khái niệm văn hóa hoàn toàn phụ thuộc vào
trình độ và quá trình nhận thức của con người trong tiến trình phát triển lịch sử.
Hiện nay, nhìn chung, giới khoa học đều nhất trí coi văn hóa là khái niệm chỉ một
phức thể bao gồm cả các sản phẩm vật chất và tinh thần do con người tạo ra. Như
vậy, văn hóa không chỉ có các hiện tượng như phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật…mà gồm cả những hiện tượng về vật chất như: Đền đài,
cung điện, đình chùa, miếu mạo. Bởi thế, mới có khái niệm văn hóa vật thể và phi
vật thể (tức văn hóa mang tính vật chất và văn hóa mang tính tinh thần, chính xác
hơn là văn hóa được vật thể hóa và tinh thần hóa).
Nói tóm lại, văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
tri thức, và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội mà nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống
giá trị, truyền thống và đức tin”.
1.5 . Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Với ngành Việt Nam học, nhìn từ góc độ giao tiếp thì nét đặc trưng nổi trội
nhất của văn hóa là thái độ hay hành vi ứng xử của con người trong cộng đồng xã
hội. Tạo nên nét đặc trưng này chính là cái giá trị được coi là bản sắc vùng miền,
hay bản sắc dân tộc. Trong đó ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng nếu không
muốn nói là yếu tố quyết định tạo nên bản sắc ấy. Nếu người tham gia giao tiếp
không chú ý tới yếu tố văn hóa trong ngôn ngữ, thì họ khó thành công trong giao
tiếp ngôn ngữ đó. Chính vì lí do này, bên cạnh khả năng ngôn ngữ, người học ngoại

- 10 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ngữ (tiếng Việt) phải hiểu ngôn ngữ Việt đó được sử dụng thế nào trong các bối
cảnh văn hóa - xã hội cụ thể.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa được xác định một cách cụ thể là “vô
cùng chặt chẽ, tới mức mà ta không thể hiểu và đánh giá đúng được cái này nếu
không có kiến thức về cái kia” (Sapir , 1991). Ngôn ngữ là một phần của văn hóa và
văn hóa là một phần của ngôn ngữ, cả hai đan xen nhau để cái nọ không tách khỏi
cái kia mà không mất đi ý nghĩa của ngôn ngữ hay văn hóa.
Ngôn ngữ có nguồn gốc từ văn hóa, văn hóa được phản ánh và chuyển tải bởi
ngôn ngữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ta có thể nói, mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và văn hóa là mối quan hệ có tính tương tác qua lại, tác động hỗ trợ lẫn nhau để
cùng phát triển. Nói cách khác, ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải mọi kiến thức,
trong ý nghĩa đó ngôn ngữ là một phần của văn hóa tư duy.
Rõ ràng ngôn ngữ và văn hóa là mối quan hệ có tính phản ánh, văn hóa là nội
dung và ngôn ngữ là phương tiện để mô phỏng nội dung đó. Từ quan điểm trên, có
thể nhận thấy tầm quan trọng của kiến thức văn hóa trong giao tiếp là không thể phủ
nhận. Giáo viên giảng dạy tiếng Việt nhất thiết phải áp dụng phương pháp giao tiếp
trong quá trình dạy và học đồng thời bổ sung các tài liệu giảng dạy có yếu tố văn
hóa để cung cấp cho học viên nước ngoài những thông tin về ngôn ngữ xã hội mà
họ đang theo học.
Chúng ta đã xác định rằng, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài như dạy một
ngoại ngữ. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tiếng Việt, chúng ta cần có
phương pháp giảng dạy khoa học, tích cực, hiệu quả. Dù là phương pháp gì đi nữa,
nếu không xuất phát từ những kinh nghiệm quý báu được tích lũy và hệ thống hóa
một cách khoa học, thì không thể giúp cho chúng ta trong việc học đạt kết quả tối
ưu. Cho nên việc dạy và học ngoại ngữ cần phải có phương pháp phù hợp. Việc học
ngoại ngữ đã trải qua rất nhiều thay đổi. Trước kia nó được coi là dấu hiệu học thức
của một thiểu số, nội dung chương trình là những thông tin lựa chọn trong văn
chương, đặt nặng về ngữ pháp – dịch thuật... Ngày nay, việc học mở rộng cho mọi
tầng lớp dân chúng, nó chú trọng đến giao tiếp thông hiểu giữa các dân tộc nhất là
trong giai đoạn hội nhập và phát triển của đất nước ta hiện nay. Chúng ta biết rằng

- 11 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng nói và viết, được biểu hiện qua các ký hiệu mang
tính vật chất là âm thanh và chữ viết (văn tự). Mọi hoạt động nhận thức của con
người đều tuân theo nguyên lý kế thừa và phát triển. Ngôn ngữ hoạt động với tư
cách là công cụ cho con người tiếp thu cái mới, nâng cao năng lực nhận thức và
kích thích sáng tạo. Trong văn hóa giao tiếp, ngôn ngữ phát triển đổi mới cũng đã
góp phần tạo ra tính dân chủ, bình đẳng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa mọi
thành viên trong xã hội. Nó tạo nên bộ mặt mới về đời sống tinh thần của người
Việt Nam hiện đại, vừa giữ gìn được những bản sắc của văn hóa truyền thống trong
thời kỳ hội nhập, tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nước ngoài. Trong ngành Việt
Nam học khi nói đến ngôn ngữ không thể không nói đến văn hóa. Tương tự khi dạy
tiếng Việt chúng ta không chỉ thuần dạy tiếng mà bỏ đi yếu tố quan trọng trong
ngôn ngữ đó là văn hóa.
1.6. Văn hóa giao tiếp
Văn hóa giao tiếp là yếu tố quy định ngôn ngữ giao tiếp, là một khái niệm để
chỉ các hình thức giao tiếp mang tính đặt thù cho hoàn cảnh giao tiếp hoặc trình độ
giao tiếp ở những cộng đồng người, thuộc các nhóm nghề nghiệp hoặc xã hội khác
nhau.
Văn hóa giao tiếp là một bộ phận trong tổng thể văn hóa nhằm chỉ quan hệ
giao tiếp có văn hóa của mỗi thành viên trong xã hội (giao tiếp một cách lịch sự, có
thái độ thân thiện, chân thành, cởi mở, thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau) là tổ hợp của
các thành tố: lời nói, cử chỉ, hành vi, thái độ, cách ứng xử…
1.6.1. Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam
Ta biết rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt được nảy sinh do
nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người. Loài người khác với loài vật ở chỗ
giao tiếp của con người được thực hiện bằng ngôn ngữ, nó hình thành bằng những
phản xạ không điều kiện. Loại phản xạ này hoàn toàn khác với loại phản xạ có điều
kiện ở thế giới động vật.
Cùng với tư duy ngôn ngữ được hình thành trong quá trình lao động, đã thoát
khỏi tình trạng giao tiếp mang tính bản năng động vật, chuyển sang hình thức giao
tiếp mang tính xã hội. Ở phương diện này ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò sợi dây

- 12 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

liên kết các thành viên trong cộng đồng mà nó còn là yếu tố tác động ngược trở lại
làm cho lao động phát triển. Tính chuẩn mực hay không chuẩn mực, đúng đắn hay
không đúng đắn của hoạt động giao tiếp đều được nhìn nhận qua văn hóa giao tiếp.
1.6.2. Tiếng Việt và văn hóa giao tiếp của người Việt Nam
Tìm hiểu sự phát triển của văn hóa nói chung và văn hóa giao tiếp của người
Việt Nam nói riêng ta không thể không nói tới ngôn ngữ.
Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam được biểu hiện qua nhiều hình thức
vô cùng phong phú và được thể hiện qua các đặc trưng sau:
Xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, ta có thể thấy đặc
điểm của người Việt là vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè, e ngại.
Người Việt Nam có thói quen quan tâm đến việc giữ gìn các mối quan hệ với
mỗi thành viên trong làng xóm, tập thể, cộng đồng. Điều này dẫn đến trong văn hóa
giao tiếp của người Việt họ rất coi trọng đến việc giao tiếp, và nó thể hiện ở hai
điểm nổi bật sau đây:
- Gia chủ rất thích có khách đến thăm nhà. Thăm viếng nhau ở đây không còn
là nhu cầu công việc mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt
thêm quan hệ.
- Người Việt Nam có tính hiếu khách: “ Khách đến nhà chẳng gà thì vịt”, bởi
lẽ “đói năm, không ai đói bữa.” Khi có khách đến nhà, cho dù bạn là người thân
quen hay xa lạ, thì chủ nhà luôn tiếp đãi khách một bữa thịnh soạn, cho dù gia cảnh
lúc đó có khó khăn. Tính hiếu khách càng được thể hiện rõ ràng hơn khi bạn về
những vùng quê hẻo lánh, hay miền rừng núi xa xôi.
Như đã đề cập, ngoài việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có một đặc
tính gần như ngược lại đó là rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài hay
nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách dường như trái ngược nhau, tính
thích giao tiếp và tính rụt rè này chính là bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng
xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị:
Rõ ràng là người Việt Nam rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi họ thấy mình
đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng (liên kết) ngự
trị. Còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính

- 13 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ngự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, bao giờ cũng tỏ ra rụt rè.
Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy lại không hề mâu thuẫn với nhau, vì
chúng bộc lộ trong những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng
một bản chất. Chúng biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
- Xét về quan hệ giao tiếp: Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam luôn lấy tình
cảm lấy sự yêu sự ghét làm nguyên tắc ứng xử.
“ Yêu nhau chín bỏ làm mười”; “Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ
hòn cũng méo” (Tục ngữ)
“Yêu nhau yêu cả đường đi,
“Ghét nhau ghét cả tông ty họ hàng”
Người Việt Nam sống có lý, có tình, nhưng thiên về tình cảm hơn mọi thứ trên đời.
Khi cân nhắc giữa tình và lý thì người Việt đề cao tình hơn lý: “Một bồ cái lý không
bằng một tý cái tình” (Tục ngữ). Trong gia đình thì Vợ chồng là nghĩa ở đời, Ai ơi
chớ nói những lời thiệt hơn (Ca dao). Ngoài xã hội, ai giúp mình một chút gì đều
phải nhớ ơn, ai bảo ban mình một tý gì cũng đều tôn làm thầy. Ở Việt Nam khái
niệm “thầy” được mở ra rất rộng – thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói,
thầy địa lý, thầy phù thủy, thầy cãi…
Với đối tượng giao tiếp: Người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát,
đánh giá…
Thói quen ưa tìm hiểu về tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội,
tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ chồng chưa, có con chưa, mấy trai
mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen này khiến
cho người nước ngoài có nhận xét, là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này dù
gọi bằng tên gì đi nữa chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng đồng làng
xã mà ra.
Người Việt tự thấy có ý thức trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, đó
là do tính cộng đồng, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Hơn nữa do các
thói quen trong quan hệ xã hội trong cách xưng hô, muốn lựa từ xưng hô cho thích
hợp với người đối thoại nên họ cần phải có đủ thông tin cần thiết về cá nhân của
người đối thoại đó.

- 14 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Người Việt Nam có tính hay quan sát thông quan kinh nghiệm xem tướng rất
ư là phong phú: chỉ cần nhìn vào dáng đi, cái mặt, cãi mũi, con mắt…thì họ đã đoán
được tính cách của con người đó, ví dụ: ta thường nghe câu ca dao sau:
Những người ti hí mắt lươn
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
Người Việt Nam thường biết nhận diện và chọn đối tượng để giao tiếp thích
hợp;“Chọn mặt gửi vàng”(Tục ngữ). Nếu việc chọn này không thực hiện được thì
người Việt sẽ có những chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: “Đi với bụt mặc áo
cà sa, đi với ma mặc áo giấy” (Tục ngữ).
1.6.3. Tính cộng đồng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
Tính cộng đồng còn làm cho người Việt Nam luôn trọng danh dự: “Tốt danh
hơn lành áo; Đói cho sạch rách cho thơm”. Danh dự gắn với năng lực giao tiếp:
“Lời hay nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến tai nhiều
người, tạo nên tai tiếng”.Vì quá xem trọng danh dự nên người Việt Nam mắc phải
bệnh sĩ diện: “Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi;
Một quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng”. Ở làng quê, thói sĩ diện thể
hiện trầm trọng qua tục lệ ngôi thứ, nơi đình trung, và tục chia phần.
Do sĩ diện, các cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì miếng ăn: “Một miếng giữa
đàng bằng một sàng xó bếp”. Lối sống trọng danh dự đưa đến cơ chế tạo tin đồn,
tạo nên dư luận như một vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì ổn định
của làng xã.
1.7. Về cách thức giao tiếp của người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự
hòa thuận
Với sự tế nhị của người Việt cho nên trong giao tiếp họ không bao giờ đi thẳng vào
vấn đề như người phương Tây mà thường “vòng vo tam quốc”. Truyền thống Việt
Nam khi bắt đầu giao tiếp lại phải xấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn.
Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng trầu là đầu câu chuyện. Với
thời gian, chức năng “ mở đầu câu chuyện” này của “miếng trầu” được thay thế bởi
chén trà, điếu thuốc lá…Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng
tình và lối tư duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kỹ

- 15 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

càng khi nói năng: “Ăn có nhai, nói có nghĩ”; “Người khôn ăn nói nửa chừng, để
cho người dại nửa mừng nửa lo”… .Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người
Việt Nam giữ được sự hòa thuận, không làm mất lòng ai, nhưng nhược điểm là làm
mất đi tính quyết đoán.
Người Việt Nam rất hay cười, nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen
giao tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả lúc không
đáng để cười mà vẫn cười. Người phương Tây rất ngỡ ngàng và đôi khi họ còn lo sợ
với những nụ cười “bất chợt” của người Việt. Điều này, người làm công tác giảng
dạy cũng nên làm sáng tỏ yếu tố văn hóa này cho người nước ngoài học tiếng Việt
biết được và hiểu nhau. Tâm lý ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương
nhường nhịn: “Một sự nhịn là chín sự lành”,“Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi
nhỏ lửa có đời nào khê”…
1.8. Hệ thống nghi thức lời nói của người Việt rất phong phú
Hệ thống xưng hô của người Việt rất là phong phú. Khi giao tiếp tất nhiên ta
phải có xưng hô; hoạt động giao tiếp luôn diễn ra trong những tình huống, phạm vi
cụ thể cho nên xưng hô phải được xem xét trong từng phạm vi, tình huống cụ thể
bởi vì hành vi xưng gọi đã trừu tượng hóa thuộc tính xã hội của đối tượng giao tiếp
như học vấn, địa vị, nghề nghiệp, tuổi tác, tôn giáo, tín ngưỡng, các đặc điểm của
tình tiết cụ thể (thân mật, bình thường, xuề xòa, suồng sã…), tùy thuộc vào từng
giai đoạn lịch sử, địa phương, thành thị hay nông thôn và điều đặc biệt là phải có sự
hiểu biết về văn hóa. Có như vậy mới hiểu được hệ thống xưng hô trong tiếng Việt.
Sử dụng được từ xưng hô thích hợp sẽ tạo thêm được sự thân mật với người tham
gia đối thoại, và do đó dễ đạt được hiệu quả giao tiếp mong muốn.
Chúng ta biết rằng trong các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử
dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ
chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô, và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át
các đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hô này có đặc điểm:
- Thứ nhất, trọng tình cảm có tính chất thân mật hóa, xem mọi thành viên trong
cộng đồng như là bà con, họ hàng trong một gia đình.
- Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống này không có

- 16 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không
gian giao tiếp cụ thể: “Chú khi ni, mi khi khác”. Cùng là hai người, cách xưng hô có
khi thể hiện được hai quan hệ khác nhau: chú-con, ông-con, bác-em, anh-tôi…Lối
gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
- Thứ ba, thể hiện tính tôn ti: Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc
xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn
trọng). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng xưng là em và cùng gọi
nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: Xưa kia chỉ gọi
đến tên riêng khi chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng tên của những
người bề trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt
Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai phải hỏi tên chủ nhà để khi nói
chuyện có động đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình
cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung
cho mọi trường hợp như người phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách
cảm ơn, xin lỗi khác nhau.
Ví dụ: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà…)
Chị chu đáo quá (cảm ơn khi được quan tâm)
Bác hay bày vẽ quá (cảm ơn khi được đón tiếp)
Anh quá khen (cảm ơn khi được khen)
Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ…)
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người
Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm.
Trong khi đó, văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào
theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, chào buổi trưa, chào
buổi chiều, buổi tối…[10,tr.94-101]
1.9. Đặc điểm của Tiếng Việt
1.9.1. Chữ viết của tiếng Việt vào loại tiên tiến.
Chữ viết là kí hiệu ghi lại ngôn ngữ. Ngôn ngữ có hai phần: Ngữ âm và ý
nghĩa. Chữ ghi ý là chữ viết cổ nhất của loài người, mỗi một chữ biểu thị nội dung ý

- 17 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

nghĩa của một từ, nó biểu thị bằng một kí hiệu duy nhất không có liên quan đến âm
thanh cấu tạo nên từ.
Chữ ghi âm thì ngược lại không biểu thị ý nghĩa của từ mà diễn tả chuỗi âm
thanh nối tiếp ở trong từ. Chữ ghi âm nó phát triển từng bước khác nhau, ví dụ: như
loại chữ Triều Tiên, Nhật Bản.
Chữ Việt Nam hiện nay – chữ Quốc ngữ - là loại chữ viết ghi âm vị, dựa trên
cơ sở chữ cái Latinh. Nếu không có loại chữ ghi âm vị này thì việc học tiếng Việt,
chữ Việt sẽ rất khó khăn. Chúng ta biết rằng chữ Nôm đã có tác dụng tích cực trong
việc gìn giữ và phát triển tiếng Việt, nó quyết định hình thành văn học, nó nói lên ý
chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Tuy thế chữ Nôm có những mặt hạn chế như:
Cách viết không có quy định thống nhất, cấu tạo rườm rà, rắc rối, khó học.
Từ thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ trở thành một công cụ giao tiếp thuận lợi. Chữ
Quốc Ngữ góp phần tích cực trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc xây dựng
một xã hội văn minh của đất nước ta. Chữ Quốc ngữ tuân theo các nguyên tắc âm
học. Nó dùng một số kí hiệu nhất định ở hệ thống chữ cái Latinh, và bổ sung một số
phụ đề ghi các âm vị và thanh điệu. So với chữ Nôm, một loại chữ ghi ý, thì chữ
Quốc ngữ đơn giản, tiện lợi hơn nhiều. Chữ Quốc ngữ giúp ta dễ học, dễ viết và
cũng giúp ta dễ dàng tiếp thu các ngoại ngữ khác cùng một hệ chữ Latinh.
1.9.2. Đặc điểm loại hình tiếng Việt
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập, tức là mỗi một tiếng (âm tiết) được phát
âm tách rời nhau và được thể hiện bằng một chữ viết. Đặc điểm này bao quát tiếng
việt cả về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Ở loại hình này,từ không có hiện tượng
biến hình, tức khi tham gia cấu tạo lời nói từ không biến đổi hình thái. Trong phát
ngôn dù nằm ở bất kì vị trí nào trong câu thì từ cũng vẫn giữ nguyên dạng (như ở
trong từ điển).
Ví dụ: Tôi tặng cô ấy cuốn tiểu thuyết, cô ấy cho tôi bó hoa.
Dù thay đổi chủ ngữ, về mặt ngữ âm và chữ viết vẫn không thay đổi.
Tiếng Anh: I give her the novel, she gives me the flowers.
(Thay đổi chủ ngữ và động từ theo sau, thay đổi ngữ âm trong ngôn ngữ biến hình
như câu tiếng Anh ở trên).

- 18 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Điều này khác hẳn với một số ngôn ngữ mà từ có biến đổi hình thái, những
ngôn ngữ khúc chiết (langue flexionnelle) chẳng hạn trong tiếng Anh, tiếng Nga,
tiếng Pháp…Tính chất không biến đổi hình thức của từ trong giao tiếp, làm cho
tiếng Việt khi đọc và viết rất dễ nhớ.
Tính phân tiết nói trên của âm tiết tiếng Việt đã tạo điều kiện để mở thêm
cách chơi chữ bằng trùng điệp. Dùng toàn những âm tiết có cùng một âm đầu hoặc
cùng một vần, hoặc cùng thanh điệu để đặt thành câu văn, câu thơ, hoặc cả bài văn,
bài thơ. Chẳng hạn, để chế giễu một anh chàng có “máu dê” có thể đặt một bài thơ
với bốn câu đầu “d, b, r, h”:
Danh giá gì dan díu giống dê!
Bạc bồ bạc bó, bẩn bề bề.
Rúc ra rúc rích râu ria rậm.
Hang hốc hung hăng hí hoáy : hề!
Trong ngôn ngữ Việt sự có mặt của yếu tố Hán-Việt còn tạo điều kiện cho
lối chơi chữ kết hợp giữa đồng âm và đồng nghĩa.
Ví dụ: Chuồng gà kê áp chuồng vịt.
“Kê” (thuộc yếu tố Hán-Việt) nghĩa là “gà”, “áp” ( yếu tố Hán-Việt) nghĩa là “vịt”.
Cách chơi chữ này hết sức độc đáo, ta có thể nói chỉ có trong tiếng Việt mới
thể hiện được nét văn hóa đọc đáo trên. Vậy, người giảng dạy tiếng Việt cần phải
nắm vững và hiểu rõ những đặc điểm này để giúp cho học viên nước ngoài nắm bắt
được cái hay, cái đẹp, cái tế nhị và tao nhã của ngôn ngữ Việt.
1.9.3. Đặc điểm từ vựng
Mỗi tiếng trong ngôn ngữ Việt là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ sở
của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị
từ vựng khác để định danh sự vật hiện tượng…chủ yếu nhờ phương thức ghép và
phương thức láy.
Việc tạo ra đơn vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của quy
luật kết hợp ngữ nghĩa, ví dụ: Đất nước, máy bay, nhà lầu, xe hơi, nhà tan cửa nát…
Đây là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các đơn vị từ vựng. Theo phương thức
này, tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ thuần Việt hay vay mượn từ

- 19 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

các ngôn ngữ khác, để tạo ra các từ, ngữ mới, ví dụ: Tiếp thị, karaoke, thư điện tử,
thư thoại, phiên bản (version), xa lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập ngẫu
nhiên…
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ
âm chi phối chủ yếu việc tạo ra các đơn vị từ vựng, chẳng hạn: Chôm chỉa, chỏng
chơ, đỏng đa đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng la lúng liếng…
Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là các từ đơn tiết (một âm tiết,
một tiếng). Sự linh hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ dàng
đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vốn từ, vừa phong phú về số lượng, vừa
đa dạng trong hoạt động. Cùng một sự vật, hiện tượng, một hoạt động hay một đặc
trưng, có thể có nhiều từ ngữ khác nhau biểu thị. Tiềm năng của vốn từ ngữ tiếng
Việt được phát huy cao độ trong các phong cách chức năng ngôn ngữ, đặc biệt là
trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của
khoa học-kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, thì tiềm năng đó còn được phát
huy mạnh mẽ hơn.
1.9.4. Đặc điểm ngữ pháp tiếng Việt
Như đã nói ở trên, tiếng Việt không biến đổi hình thái, khi diễn đạt các hình
thức ngữ pháp, tiếng Việt không dùng cách thay đổi hình thức của từ mà dùng trật
tự từ và hư từ để diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp.
Ví dụ:
Để diễn đạt ý nghĩa về thì, ta thường dùng các hư từ chỉ thời gian như đã, sẽ,
đang, để diễn đạt ý nghĩa số nhiều của danh từ thì người ta dùng các lượng từ như:
Những, các, một số, một vài, tất cả… .Ở các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Nga, để
diễn đạt các ý nghĩa này bằng cách chia động từ và cấu tạo danh từ số nhiều bằng
cách thêm s hoặc es vào sau danh từ chính (tiếng Anh) hoặc biến đổi a thành I (tiếng
Nga).
Ví dụ:
- Những quyển sách. (tiếng Việt)
- Books. (tiếng Anh)
- Kinigi (tiếng Nga)

- 20 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Các nhà nghiên cứu cho biết, trật tự từ là phương thức ngữ pháp quan trọng
nhất trong tiếng việt nó mang đậm nét văn hóa trong cách dung từ ở tiếng Việt. Nó
khác với các ngôn ngữ biến hình, đối với tiếng Việt khi trật tự từ trong câu thay đổi
thì nội dung cũng biến đổi theo. Như những ví dụ sau đây:
Ví dụ: Ta thường thấy bảng cấm nơi công cộng có ghi “Cấm không được hút
thuốc” nếu ta đọc ngược lại, ta sẻ có một câu phản nghĩa “Thuốc hút được không
cấm”
Ta xét thêm những câu sau đây, khi thay đổi trật tự từ, câu sẻ mang ý nghĩa khác.
- Sao nó bảo không đến?
- Sao bảo nó không đến?
- Sao không bảo nó đến?
- Sao không đến bảo nó?
- Nó không bảo, sao đến?
- Nó không đến bảo sao?
- Bảo nó đến không sao.
- ………
Ví dụ :
(1) Tôi nhìn họ.
(2) Họ nhìn tôi.
Rõ ràng hai câu (1) và (2) khác nhau hoàn toàn.Ta thấy “tôi” là chủ ngữ
trong câu (1) cũng giống như “tôi” là bổ ngữ trong câu (2), “họ”là bổ ngữ trong câu
(1) cũng giống như “họ” là chủ ngữ trong câu (2), không có sự biến đổi hình thái về
từ khi kết hợp trong câu, nhưng trật tự từ trong câu thay đổi đã làm ý nghĩa của hai
câu trên khác nhau.
Tiếng Anh: (1) I saw them.
(2) They saw me.
Trong khi đó có sự biến đổi hình thái về từ khi kết hợp trong câu tiếng Anh.
“I” làm chủ ngữ trong câu (1) khác với “they” làm chủ ngữ trong câu (2).
Các nhà nghiên cứu đã từng coi, thành phần trạng ngữ là thành phần tự do
nhất, nó có thể đứng ở bất kì vị trí nào trong câu. Tuy nhiên, khi thay đổi vị trí của
trạng ngữ trong câu, ý nghĩa của câu cũng thay đổi theo.

- 21 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Ví dụ :
(1) Cô đi bao giờ?
(2) Bao giờ cô đi?
Hai câu trên đều là câu hỏi về thời gian.
Nhưng ở câu (1): Ý nghĩa thời gian hỏi về quá khứ. Câu (2): Ý nghĩa thời gian hỏi
về tương lai.
Hư từ cùng với trật tự từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu cùng có nội
dung thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Ví dụ:
Chúng ta hay so sánh các câu sau đây:
-“Anh ấy không uống rượu.”
-“ Rượu, anh ấy không uống.”
-“Rượu, anh ấy cũng không uống.”
Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu. Ngữ
điệu giữa vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong câu, nhờ
đó nhằm đưa ra nôi dung muốn thông báo. Trên văn bản, ngữ điệu thường được
biểu hiện bằng dấu câu. Chúng ta thử so sánh 2 câu sau để thấy sự khác nhau trong
nội dung thông báo:
- Đêm hôm qua, cầu gãy.
- Đêm hôm, qua cầu gãy.
Qua một số đặc điểm nổi bật vừa nêu trên đây, chúng ta có thể hình dung
được phần nào bản sắc và tiềm năng của tiếng Việt.
- Phương Ngữ:
Phương ngữ của tiếng Việt cũng là vấn đề đáng được chú ý khi giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài, chủ yếu là về mặt ngữ âm. Có một số từ vựng tuy
cùng một nghĩa nhưng mỗi địa phương lại sử dụng từ khác nhau. Trong trường hợp
này giáo viên cần giúp cho học viên nhận thức sự khác nhau của phương ngữ.
Thông thường ở nước ngoài người ta chọn tiếng nói của thủ đô làm ngôn ngữ
chuẩn, nhưng ở Việt Nam tiếng Hà Nội chỉ được coi là cơ sở của tiếng Việt chuẩn
chứ không hoàn toàn là tiếng chuẩn. Tiếng Sài Gòn tuy là một phương ngữ nhưng
có vị thế khá đặc biệt so với các tiếng địa phương khác. Tiếng Sài Gòn ngày nay
được xem là ngôn ngữ chuẩn của phương ngữ Nam Bộ chứ không chỉ đơn thuần là

- 22 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

một thứ tiếng địa phương. Ngày nay, ngày càng nhiều người đến đất nước Việt Nam
để công tác, làm ăn, hoặc du lịch…Họ đến khắp 3 miền của đất Việt, họ gặp không
ít khó khăn về vấn đề phương ngữ của 3 miền, hệ thống ngôn từ đa dạng và khác
biệt nhau. Sau đây tôi xin trích một số từ tượng trưng trong hệ thống phương ngữ
của 3 miền.

- 23 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

1.1, Bảng so sánh phương ngữ (nguồn: https://vi.wikipedia.org, internet)


Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam
Này ni, nì nầy

thế này ri này vầy, như vầy

ấy nớ, tê Đó

thế, thế ấy rứa, rứa tề, rứa đó vậy, vậy đó

Kia Tê Đó

Kìa tề Đó

Đâu Mô Đâu

Nào mồ Nào

sao, thế nào Răng Sao

Tôi Tui Tui

Tao Tau Tao

chúng tôi bọn tui tụi tui

chúng tao choa, bọn choa tụi tao

Mày Mi mầy

chúng mày bây, bọn bây tụi mầy

Nó hắn Nó

chúng nó bọn hắn tụi nó

ông ấy ông nớ ổng

bà ấy bà nớ Bả

cô ấy dì nớ cổ

chị ấy Chị nớ chỉ

anh ấy anh nớ ảnh

- 24 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

1.2, Bảng so sánh một số từ thông dụng tại các vùng trong phương ngữ tiếng Việt:

Thể loại Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam

lợn lợn, heo Heo


Động vật ngan Ngan vịt Xiêm

hổ cọp cọp, ông ba mươi

quả quả Trái

hoa Hoa Bông

đỗ độ đậu

ngô ngô, bắp bắp

dứa dứa thơm

lạc lạc đậu phộng

roi mận mận

táo Táo táo, bôm

táo ta táo ta táo


Thực vật
na Na mãng cầu ta

mãng cầu gai na gai mãng cầu Xiêm

hồng xiêm hồng xiêm sabôchê

củ đậu củ độ củ sắn

sắn sắn khoai mì

dưa chuột dưa chuột,dưa leo dưa leo

dọc mùng dọc mùng bạc hà

rau mùi Mùi ngò rí

mùi tàu ngò tàu ngò gai

- 25 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

(cây/hoa) dâm bụt râm bụt (cây/hoa) bông bụp

cây cảnh cây cảnh cây kiểng

chè (tươi) chè xanh, trà trà (xanh)

xì dầu xì dầu nước tương,xì dầu

mì chính mì chính bột ngọt

tào phớ đậu pha tàu hủ ngon


Thực phẩm
nem rán nam, chả cuốn chả giò

ô mai ô mai, xí muội xí muội

ly đá tẩy

bánh caramen bánh caramen bánh flan

kính Kính kiếng

ô ô, dù dù

rọ cạo rổ tre

chăn chăn, mền mền

(mắc) màn (mắc) màn (giăng) mùng

áo phông áo phông áo thun


Vật dụng áo ấm áo ấm áo lạnh

mũ mụ, mạo nón

tất tất vớ

ảnh ảnh hình

(thắp nến) (thắp) nến đèn cầy (đốt) đèn cầy

dĩa Dĩa nĩa

đĩa địa dĩa

- 26 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

thìa Thìa muỗng

muôi Môi vá

chén( rượu, trà) ly(rượu, trà) chung, ly(rượu,


trà)

bát bát, đọi chén

bát tô Tô tô

cốc Ly tách, ly

lọ Chai chai

chậu Thau thau

tẩy Tây gôm

bút Bút viêt

túi bóng bao bóng bịch/bọc( nylon)

ô tô ô tô, xe con xe hơi

tàu hỏa tàu hỏa xe lửa

(má) phanh (má) phanh (bố) thắng

lốp (xe) lốp (xe) vỏ (xe)

săm (xe) ruột (xe) ruột (xe)

xích (xe) xích (xe) sên (xe)

dầu nhờn dầu nhớt dầu nhớt

bố bố, ba ba

anh cả anh cả, anh hai anh hai


Xưng hô
anh hai anh hai, anh ba anh ba

(dạ) vâng dạ dạ

- 27 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

dùng dùng, xài xài

là (bàn) ủi (bàn) ủi

đèo chở chở

rẽ rẹ quẹo

ngã bổ té

đỗ (xe) độ (xe) đậu (xe)

(thi) đỗ (thi) độ (thi) đậu

(thi) trượt (thi) trượt (thi)rớt


Hành động
xơi, ăn Ăn ăn

bổ xẻ

vồ vồ chụp

véo Véo ngắt, nhéo

(buồn) nôn (buồn) nôn (mắc) ói

bắt nạt bắt nạt ăn hiếp

mặc cả mặc cả trả giá

đánh rắm địt địt

gầy gầy ốm

béo Béo mập

muộn muộn trễ


Tính chất buồn nhột nhột

kiêu Kiêu chảnh

(làm) cảnh (làm) cảnh (làm) kiểng

hỏng Hư hư

- 28 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

lác (mắt) lác( mắt) lé

ngõ Ngõ hẻm

ngách hẻm hẻm

hàng, quán Quán tiệm, quán

nghìn nghìn, ngàn ngàn

mồm miệng miệng


Khác đá bóng đá bóng đá banh

rán Rán chiên

(bị) bệnh (nặng) (bị) bệnh (nặng) (bị) bịnh (nặng)

(bị) ốm (bị) ốm (bị) bịnh

cân, kilogram cân, lô ký

tiền thừa tiền thối tiền thối

1.9.5. Tục ngữ ca dao


Trong ngôn ngữ tiếng Việt, tục ngữ ca dao phản ảnh mọi mặt về cuộc sống
của người dân Việt, qua quá trình lịch sử, là một bức tranh sinh động, phong phú
đầy màu sắc Việt Nam.
Đó là những quan niệm về trời, đất, về nguồn gốc con người. Phản ánh công
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, chống áp bức bóc lột và xâm lược. Những kinh
nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi, gieo trồng mùa vụ. Những kinh nghiệm trong
sinh hoạt thường ngày. Những điều cần giáo dục truyền bá cho nhau về cách sống
làm người, những lời răn dạy về nói năng giao tiếp, về nhân đức, về việc học hành,
về tình nghĩa vợ chồng và những điều cần phải tránh v.v …
Ví dụ:
- Răn dạy về cách ăn ở trong gia tộc
 Đạo làm con:
Tu đâu cho bằng tu nhà.

- 29 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu. (ca dao)


 Cha mẹ với con cái:
Hổ chẳng nỡ ăn thịt con.
Cha muốn cho con hay.
Thầy mong cho trò khá.
 Lời răn dạy về nói năng giao tiếp:
-Học ăn, học nói, học gói, học mở.
-Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.
 Lời răn dạy về nhân đức:
-Sinh ra trong cõi hồng trần
Làm người phải lấy chữ nhân làm đầu
-Một miếng khi đói bằng một gói khi no
-Làm sao như quế trên non
Trăm năm khô mục vẫn còn thơm tho.
Là giáo viên dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, chúng ta phải truyền bá
cho học viên những câu tục ngữ ca dao. Đó là những bài học quý giá, rất phong
phú, đa dạng, chuẩn mực về lối sống và nhân cách Việt Nam, đậm đà bản sắc dân
tộc Việt Nam trong giao tiếp hằng ngày của cuộc sống người Việt.
1.9.6. Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt
Trong tiếng Việt có một loại đơn vị xưa nay ta quen gọi là “tiếng” hay là
“chữ” ví dụ: đi, ngồi, ăn, nói, học....ta gọi đơn vị này là “tiếng” tức ta căn cứ vào
ngữ âm (mặt nghe được). Ta cũng gọi là “chữ” tức căn cứ vào văn tự (mặt thấy
được). Cái thấy được là kí hiệu để ghi lại cái nghe được.
Mỗi tiếng (âm tiết) của tiếng Việt gồm 3 phần: Âm đầu, vần, và thanh điệu.
Trong văn nói của người Việt, có dạng nói lái. Khi nói lái, người Việt tách âm đầu,
vần và thanh điệu ra khỏi âm tiết, để tái cấu tạo những âm tiết mới.
Ví dụ: - “Vũ Như Cẩn”. Ta nghe giống như tên họ của một người nào đó,
nhưng thật ra là “Vẫn như củ”.
Tương tự “Nguyễn Y Vân” nói lái là “Vẫn y nguyên”.
- Thủ tục đầu tiên - Tiền đâu?

- 30 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

- Đá chanh - Đánh cha


- Đá banh - Đánh ba
- Thầy giáo - Tháo giầy
- Thầy tu - Thù tây
- Đấu tranh - Tránh đâu
- Hiện đại - Hại điện
- Hạ cờ Tây - Hạ cầy tơ
Đây là một nét văn hóa dùng từ trong ngôn ngữ tiếng Việt mà các ngôn ngữ
khác hiếm thấy được.
Về mặt phát âm của tiếng, mỗi tiếng bao giờ cũng phát ra bằng một hơi
tương ứng với một đợt căng cơ thịt của bộ máy phát âm, tương ứng với một lần tăng
giảm độ vang và mang một thanh điệu nhất định-“tiếng” tức là âm tiết.
Về mặt chữ viết, từ chữ Nôm cho đến chữ quốc ngữ hiện nay, mỗi tiếng lúc
nào cũng viết rời ra từng chữ một. Sự tương ứng giữa “tiếng” và “chữ” làm cho
việc học tiếng Việt dễ dàng hơn.
Về phương diện âm vị học của tiếng,hệ thống âm vị tiếng Việt rất là phong
phú nó có tính cân đối tạo ra tiềm năng rất lớn của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể
hiện các đơn vị có nghĩa. Trong tiếng Việt có 5 hệ thống âm vị, tương ứng với 5
thành tố trong âm tiết tiếng Việt: Âm đầu - Âm đệm - Âm chính - Âm cuối và
Thanh điệu.
Cấu trúc âm tiếng Việt có tính ổn định cao khiến cho việc dạy cho người học
tiếng Việt tập đánh vần, ghép vần,nhận diện một âm tiết “tiếng” rất dễ dàng.Đặc
điểm cấu tạo ngữ âm của âm tiếng Việt cũng là cơ sở để tạo lên nhạc điệu cho câu
thơ, câu văn. Khi tạo câu, tạo lời, người Việt rất chú ý đến sự hài hòa về ngữ âm,
tạo nên sự trầm bổng nhịp nhàng. Sự phối hợp của âm đầu, vần và đặc biệt thanh
điệu của các âm tiết trong câu làm cho câu văn nghe êm ái, đó là một tác dụng quan
trọng của các thành tố trong âm tiết. Hơn nữa sự phối hợp ngữ âm (vần và nhịp) còn
tạo nên một tác dụng nhất định về nghĩa trong một hoàn cành nhất định.
Những đặc điểm nói trên luôn được người Việt khai thác trong quá trình sử
dụng. Nếu người học nắm bắt tốt được mặt này thì họ không chỉ nói tiếng Việt đúng

- 31 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

mà còn nói hay nữa.


1.9.6.1. Âm tiết tiếng Việt không có hiện tượng nốì âm
Âm tiết tiếng Việt thể hiện tính độc lập rất cao.
Ví dụ:
Các âm tiết: Tôi, hứa, với, anh, là, ngày, mai, tôi, đến. Khi tạo thành lời nói
“Tôi hứa với anh là ngày mai tôi đến.” vẫn giữ nguyên ranh giới như cũ.
Trái lại, trong tiếng Anh hiện tượng nối âm giữa hai từ theo một số quy luật
văn phạm có xảy ra.
Ví dụ:
Your eyes are very beautiful. (Đôi mắt em rất đẹp).
Ở đây hai từ “your” [jɔ:] và eyes [ai] được đọc nối bằng một âm tiết [jɔrais].
1.9.6.2. Âm tiết tiếng Việt mang tính biểu hiện ý nghĩa
Đây là điều mà nhiều ngôn ngữ khác không có được. Trong tiếng Việt, tuyệt
đại đa số các âm tiết đều có nghĩa.
Trước hết, chúng ta thấy trước hết đó là từ đơn, tức là có một âm tiết. Những âm
tiết này là những âm tiết tự thân có nghĩa và chúng chiếm số “lượng đa số” trong
tiếng Việt.
Ví dụ: Mắt, đầu, tay, đi, ăn, chạy, uống, mây, gió, nhà...
Bên cạnh những từ đơn thân có nghĩa này,chúng ta vẫn thấy có những âm tiết
tham gia vào các từ ghép cũng có thể được coi là những âm tiết tự thân có nghĩa.
Ví dụ:
Trong các từ như: Giảng đường, sinh viên, quốc kỳ… là những tiếng âm tiết
có nghĩa.
Những từ giảng, đường, sinh, viên, quốc, kỳ là những âm tiết có nghĩa.
Hoặc các âm tiết trong các từ ghép như: Xe máy, xe đạp, máy bay… đều là
những âm tiết có nghĩa riêng của chúng.
Trong tiếng Việt hiện đại có một số âm tiết hiện nay được coi là vô nghĩa.
Ví dụ:
Các âm tiết trong các từ như: Núc (bếp núc), sá (đường sá). Tuy nhiên, ấn tượng
này chỉ là bề ngoài, thực chất, các âm tiết ấy đều là những âm tiết có nghĩa.

- 32 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Như “núc” có nghĩa là bếp (tiếng Thái), “sá” có nghĩa là đường (tiếng Rục)
dấu vết này nói rằng trước đây trong tiếng Việt, các âm tiết ấy là những âm tiết có
nghĩa. Trong các ngôn ngữ Châu Âu, âm tiết không bao giờ có khả năng có nghĩa
nếu âm tiết đó không phải là một từ đơn thực sự. Trong tiếng Việt âm tiết không chỉ
là một đơn vị ngữ âm mà nó còn là một đơn vị từ vựng (có quan hệ với đơn vị khác)
và đây chính là một đặc trưng riêng của tiếng Việt.
Tuy chữ Quốc ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ tiên tiến nhất hiện nay nhưng ta
cũng thấy rằng chữ Quốc ngữ ra đời vào lúc ngôn ngữ học chưa phát triển, nhất là
chưa có khoa âm vị học nên nó còn một số điểm bất hợp lí như:
- Không bảo đảm sự tương ứng một đối một giữa âm và chữ. Ví dụ: Âm vị
/k/ được ghi bằng một trong ba con chữ: c, k, q (cá, kể, quả); con chữ “g” lại dùng
để ghi một trong hai âm vị /g , z/ ( gà, gì, giếng…).
- Có những nhóm hai ba con chữ dùng để ghi một âm vị đơn như: gh, th, ph,
ng, ngh… .Những nhược điểm này cũng gây khó khăn cho việc học tiếng Việt.
1.10. Cơ sở thực tiễn
Học Tiếng Việt rất khó, đó là nhận định của hầu hết của những người nước
ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Họ có thể học được rất nhiều thứ
tiếng nước ngoài nhưng ngoại trừ tiếng Việt. Khi Việt Nam bước vào thời kỳ hội
nhập kinh tế,ngày càng nhiều công ty nước ngoài đầu tư làm ăn ở Việt Nam cũng
như khách du lịch, các nhà nghiên cứu, sinh viên v.v... theo học tiếng Việt ở thành
phố Hồ Chí Minh các khóa học ngắn hạn hoặc dài hạn, tùy theo mục đích của học
viên.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đến sống và làm việc tại
Việt Nam, vấn đề quan trọng là làm sao xóa bỏ rào cản ngôn ngữ cho họ. Trên thực
tế, tiếng Việt khó hơn tiếng Anh rất nhiều bởi vì tiếng Việt có dấu, có cách phát âm
và ngữ pháp phức tạp hơn.
Do đó, người nước ngoài thường lúng túng khi sử dụng tiếng Việt. Không ít
người nước ngoài bắt chước nói giọng Việt bập bẹ rất khó nghe.
Họ mất rất nhiều thời gian để học tiếng Việt, dù có cố gắng tự học, tự luyện
giọng mãi nhưng vẫn không sao thông thạo được từ giọng điệu cho đến cấu trúc câu

- 33 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

từ ngữ pháp rắc rối của tiếng Việt. Vì lý do này, hiện tại thành phố Hồ Chí Minh
cũng như các thành phố lớn trong cà nước đang mở ra các trung tâm và lớp dạy
tiếng Việt cho học viên nước ngoài. Việc này đòi hỏi đội ngũ giáo viên không
những vững về chuyên môn mà còn hiểu biết về văn hóa của mình và của học viên.
Một giáo viên bản ngữ vừa giỏi tiếng Việt, vừa biết sử dụng tiếng Anh, hoàn toàn
có thể làm được điều này nếu có phương pháp dạy tốt. Người học phải nhận được
kiến thức từ một phương pháp giảng dạy phù hợp, giúp cải thiện kỹ năng giao tiếp
của họ trong thời gian ngắn. Phải tạo điều kiện cho họ có nhiều cơ hội để giao tiếp
với người Việt, giúp họ ngày càng tự tin và sử dụng tốt tiếng Việt trong giao
tiếp.Việc hiểu và tiếp cận nền văn hoá Việt Nam và tìm hiểu tâm lý con người Việt
Nam là một trong những chìa khóa quan trọng, để mang đến thành công cho người
nước ngoài trong giao tiếp cũng như sinh sống làm việc tại Việt Nam. Ta hãy xem
xét và tìm hiểu các phương pháp dạy tiếng Việt đã và đang được áp dụng hiện nay
để so sánh với phương pháp giao tiếp hầu rút ra những ưu, khuyết điểm để chúng ta
có thể chọn lựa phương pháp tốt nhất cho việc dạy và học tiếng Việt.
Tóm lược một số phương pháp giảng dạy ngoại ngữ
 Phương pháp dịch - ngữ pháp (The Grammar-Translation Method)
Phương pháp dịch - ngữ pháp được xem như là phương pháp giảng dạy ngoại
ngữ cổ điển. Mục đích của phương pháp này giúp người học ngoại ngữ đọc được
những tài liệu và những tác phẩm văn học bằng ngôn ngữ đích. Giáo viên giữ vai
trò tuyệt đối điều hành trong lớp, trong khi đó học viên chỉ là người thụ động tiếp
nhận thông tin từ giáo viên. Giáo viên chỉ sử dụng ngôn ngữ nguồn trong việc giảng
dạy và hướng dẫn. Một bài học tiêu biểu của phương pháp này bao gồm sự trình bày
công thức ngữ pháp, danh sách các từ mới và bài tập dịch.
 Phương pháp trực tiếp (The Direct Method)
Phương pháp trực tiếp còn được gọi là phương pháp tự nhiên (Natural
method) vì phương pháp này bắt chước cách tiếp thu ngôn ngữ tự nhiên của con
người. Phương pháp này có những đặc điểm như sau:
- Chỉ có ngôn ngữ đích được dùng trong lớp học.

- 34 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

- Ý nghĩa được gắn liền trực tiếp với ngôn ngữ đích bằng cách liên kết hình
thức ngôn ngữ với hoạt động, đối tượng bắt chước, cử chỉ và tình huống.
- Việc dạy đọc và viết phải tiến hành sau việc dạy nói.
- Ngữ pháp được lĩnh hội bằng con đường quy nạp.
 Phương pháp nghe-nói (Audiolingual Method)
Phương pháp nghe nói hay còn gọi là phương pháp Quân đội (Army method).
Phương pháp này gần giống với phương pháp trực tiếp. Gồm có những điểm chính
sau đây:
- Nhấn mạnh dạy nghe và nói trước việc dạy đọc và viết.
- Sử dụng các bài hội thoại và luyện tập
- Không khuyến khích việc dùng tiếng mẹ đẻ trong lớp học.
- Thường sử dụng thao tác phân tích, đối chiếu.
Phương pháp Nghe – Nói chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ học cấu trúc và chủ
nghĩa hành vi.
 Phương pháp con đường im lặng (The silent way)
Đây là phương pháp do C.Gattegno đề xướng. Phương pháp này sử dụng cử
chỉ, bắt chước lẫn nhau, tức là những tấm thẻ gỗ có chiều dài và màu sắc khác
nhau mà
giáo viên dùng để giúp học viên nói. Phương pháp này có tên như vậy là do sự
im lặng tương đối của giáo viên sử dụng những kỹ thuật này. Nguyên tắc cơ
bản của phương pháp “con đường im lặng” là “Việc dạy là phụ trợ cho việc
học”
 Phương pháp phản ứng (The total physical response)
Phương pháp này do Asher đưa ra, thuộc một cách tiếp cận mới đối với việc
dạy tiếng và có tên gọi là: “Cách tiếp cận hiểu” (The comperhension approach). Nó
được gọi như thế bởi vì tầm quan trọng mà nó dành cho việc nghe hiểu (Listening
comprehension).
Trong phương pháp phản ứng các học viên nghe và phản xạ lại những yêu
cầu bằng lời trong ngôn ngữ đích của giáo viên. Các đơn vị được giới thiệu bằng
ngoại ngữ là các mệnh lệnh, yêu cầu và chỉ dẫn, đòi hỏi một sự đáp lại bằng hành

- 35 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

động thể chất của người học. (Thí dụ : “Hãy mở cửa sổ” hoặc “Hãy đứng dậy”).
 Phương pháp giao tiếp (Communicative Language Learning /
Communicative Approach)
Phương pháp giao tiếp do các nhà ngôn ngữ học ứng dụng người Anh đề
xướng. Phương pháp này nhấn mạnh: Mục đích của việc học ngoại ngữ (ở đây là
tiếng Việt) là năng lực giao tiếp (Communitive Competence), nghĩa là, muốn cho
học viên giao tiếp bằng ngôn ngữ đích. Có rất nhiều nhà phương pháp luôn nhấn
mạnh đến sự thủ đắc các cấu trúc ngôn ngữ hoặc từ vựng. Các nhà sư phạm chủ
trương phương pháp giao tiếp đều hiểu rằng cấu trúc ngôn ngữ và từ vựng là quan
trọng. Tuy nhiên, họ nhận thấy rằng việc chuẩn bị cho sự giao tiếp sẽ không đạt kết
quả tốt nếu chỉ dạy cho học viên những điều trên. Học viên có thể biết được một số
công thức các cách dùng ngôn ngữ chứ không thể dùng ngôn ngữ. Trong giao tiếp
chúng ta dùng ngôn ngữ để thực hiện một số chức năng như tranh luận, thuyết phục,
hứa hẹn, v.v… Những chức năng này được tiến hành trong cuộc sống hàng ngày.
Khi thực hiện giao tiếp, người nói sẽ chọn cách riêng để thể hiện việc tranh
luận của mình. Người nói không chỉ dựa vào ý định hoặc tình cảm riêng của mình
mà còn tùy thuộc vào đối tượng mà mình đang giao tiếp và quan hệ với đối tượng
giao tiếp. Chúng ta biết giao tiếp là một tiến trình, học viên chỉ đạt được một phần
tri thức về các hình thức, ý nghĩa, chức năng của ngôn ngữ. Học viên phải có khả
năng áp dụng những tri thức này đúng với ý nghĩa giao tiếp.
Thông qua sự trao đổi giữa người nói với người nghe hoặc người đọc với
người viết, ý nghĩa của nó sẽ trở nên rõ ràng. Khi người nghe trao cho người nói sự
phản hồi (feedback), thì chứng tỏ người nghe hiểu hoặc không hiểu cái điều người
nói đã nói. Bằng cách này người nói có thể nhận thức lại điều mình đã nói và cố
gắng truyền đạt lại điều đó, nếu cần thiết.
Nhiệm vụ chính của những giáo viên sử dụng phương pháp này là làm thế
nào để học viên có năng lực giao tiếp (Communitive Competence).
Với yêu cầu này, cũng là mục đích của nhiều phương pháp khác, thì ở
phương pháp giao tiếp khái niệm năng lực giao tiếp được đặc biệt quan tâm và mở
rộng hơn.

- 36 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Năng lực giao tiếp thể hiện ở chỗ người ta có thể sử dụng ngôn ngữ phù hợp
trong một bối cảnh có sẵn. Để làm được điều này, học viên cần có tri thức về các
cấu trúc ngôn ngữ, từ vựng và chức năng. Họ cần hiểu rằng có nhiều hình thức
ngôn ngữ khác nhau có thể dùng để biểu thị một nội dung, và cũng có khi một
trường hợp một hình thức ngôn ngữ có biểu thị nhiều nội dung. Họ phải chọn trong
số đó những hình thức phù hợp nhất dành cho bối cảnh xã hội và vai trò của người
cùng đối thoại (The interlocuter). Thêm vào đó, họ cũng phải điều chỉnh tiến trình
giao tiếp với người đối thoại của mình.
Với phương pháp này, học viên có kiến thức ngôn ngữ giới hạn cũng có thể
giao tiếp thành công. Giáo viên giữ vai trò như một người cố vấn cũng như là người
thúc đẩy việc học của học viên, trong khi đó học viên là người giao tiếp. Giáo viên
được xem như người quản lý những hoạt động trong lớp và học viên được xem như
là người tự quản lý có trách nhiệm về việc học của mình.
Ngôn ngữ nguồn gần như không có vai trò riêng trong lớp học mà ngôn ngữ
đích được xem như là công cụ để giao tiếp chứ không phải là chủ đề để học.
Ngôn ngữ đích được giáo viên và học viên sử dụng cho những hoạt động,
hướng dẫn và giải thích. Sự tương tác giữa học viên với học viên xảy ra rất thường
xuyên trong những hoạt động nhóm, cặp, trong thảo luận. Bốn kỹ năng ngôn ngữ
được giảng dạy từ khi học viên mới bắt đầu học. Chương trình học được thiết kế
chủ yếu dựa vào hoàn cảnh và mục đích cụ thể của người sử dụng ngôn ngữ trong
bối cảnh đó.
Ngôn ngữ được giảng dạy bằng phương pháp này chủ yếu dành cho việc giao
tiếp và những chủ đề văn hóa tập trung vào cuộc sống thường ngày của người nói
ngôn ngữ đích. Từ vựng được giảng dạy chủ yếu bằng cách dạy nghĩa của từ thông
qua
những công cụ nghe nhìn, những mô hình, những vật thể thực sự và dạy từ vựng
chủ yếu qua văn cảnh hoặc những trò chơi. Phương pháp này chủ yếu nhấn mạnh
vào việc phát triển kỹ năng nghe -nói-đọc-viết mà ít chú ý đến kiến thức từ vựng.
Điều này dẫn đến tình trạng học viên có kỹ năng giao tiếp tốt nhưng sẽ cảm
thấy hơi khó khăn trong việc giao tiếp vì thiếu hụt một số lượng từ vựng.

- 37 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Học viên có thể phần nào khắc phục tình trạng này bằng cách tăng cường,
thực hiện các cuộc giao tiếp và thảo luận với nhiều chủ đề đa dạng.
Phương pháp này có ưu điểm là dạy từ vựng gắn liền với văn cảnh và trò
chơi. Học viên có thể nắm vững được cách sử dụng từ trong từng tình huống cụ thể.
Hơn nữa, học viên có thể hình dung được những từ cụ thể thông qua những minh
họa trực quan và sinh động.
Tóm lại, chúng tôi kết hợp các phương pháp trên và rút ra những ưu điểm.
Để chọn một phương pháp dạy tối ưu nhằm thông qua hoạt động của ngôn ngữ mà
đất Nước, con Người và văn hóa Việt được giới thiệu với bạn bè khắp năm châu đó
là: Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài theophương pháp giao tiếp.
Để nắm vững và áp dụng đúng theo yêu cầu của phương pháp này, chúng ta
nên phân biệt giữa tiếng nói và chữ viết vì phân biệt giữa tiếng nói và chữ viết giúp
cho việc giảng dạy đúng với nhu cầu giao tiếp của ngôn ngữ. (xem hình 1.3)
Hệ thống tiếng nói là một hệ thống phát âm và thu nhận âm; có nghĩa là một hệ
thống mô tả và phân tích giữa người nói với người nghe. Muốn giao tiếp bằng tiếng
nói ta phải nói được và nghe được, hiểu được. Đây là hai kỹ năng phải được trau dồi
để học
viên có thể dùng ngôn ngữ trong giao tiếp.
Hệ thống chữ viết là một hệ thống ký hiệu để ghi lại âm thanh của hệ thống
tiềng nói. Ký hiệu đó gọi là chữ viết.
Muốn giao tiếp bằng chữ văn bản (chữ viết), học viên phải được trau dồi kỹ
năng đọc hiểu và viết.
Dạy ngôn ngữ là dạy 4 kỹ năng: Nghe-Nói-Đọc-Viết. Đối với phương pháp
giao tiếp, kỹ năng nghe và nói được chú trọng nhất vì hoạt động chính của ngôn ngữ
là nghe và nói. Tuy vậy phương pháp này cũng không xem nhẹ các kỹ năng còn lại,
chúng được giáo viên rèn luyện cho học viên suốt trong quá trình học thông qua các
bài đàm thoại …vv.

- 38 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Hình 1.3: Biểu đồ dạy bốn kỹ năng: Nghe - Nói - Đọc - Viết

Theo biểu đồ trên ta thấy việc dạy ngôn ngữ (tiếng Việt) là luyện bốn kỹ
năng: nghe, nói, đọc và viết để học viên có thể dùng trong việc giao tiếp. Trong
thực tế đời sống hằng ngày, việc giao tiếp trực tiếp nhiều hơn là giao tiếp gián tiếp,
nghĩa là chúng ta dùng phần lớn hệ thống tiếng nói trong giao tiếp. Chính vì lẽ ấy,
trong phương pháp giao tiếp, kỹ năng nói và nghe nên cho học viên được rèn luyện
rất kỹ song song với kỹ năng đọc và viết. [12, tr.13]
Đứng trên quan điểm và góc nhìn của Việt Nam học, người làm công tác
giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh, ngoài kiến thức về Việt
ngữ học, về phương pháp sư phạm ngoại ngữ cũng cần phải có kiến thức nhất định
về văn hóa Việt Nam và văn hóa của người học. Dạy và học một thứ tiếng là dạy và
học ngôn ngữ của một cộng đồng có những đặc thù văn hóa riêng hay nói một cách
khác, tức là dạy và học một bộ phận văn hóa của dân tộc đó. Bởi ngôn ngữ là một
trong những thành tố quan trọng nhất cấu thành nên nền văn hóa dân tộc và phản

- 39 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ảnh chính nền văn hóa đó. Học tiếng Việt là phải tiếp nhận văn hóa Việt Nam thông
qua sự truyền giảng và giải mã của giáo viên.
Chính bởi vậy, ngoài kiến thức về ngôn ngữ ra, người thầy cần phải hiểu
biết về văn hóa càng nhiều càng tốt.
Ngôn ngữ và văn hóa đóng vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân, qua giao
tiếp ta có thể đánh giá một người có văn hóa hoặc thiếu văn hóa, lịch sự hoặc không
lịch sự. Văn hóa còn ảnh hưởng đến phong cách, tư duy của mỗi con người. Ngôn
ngữ và văn hóa phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, khi dạy ngôn
ngữ dù ở cấp độ nào ta không thể tách rời văn hóa khỏi ngôn ngữ. Việc sử dụng các
yếu tố văn hóa trong giảng dạy ngôn ngữ sẽ mang lại những kết quả tốt nhất cho
học viên. Có như thế người dạy tiếng Việt mới có thể giới thiệu văn hóa, đất nước
và con người Việt Nam cho người nước ngoài một cách hiệu quả thông qua việc
giảng dạy ngôn ngữ tiếng Việt theo phương pháp giao tiếp (hay còn gọi là tiến
trình giao tiếp: The communicative language approach).
Tiểu kết
Trong bối cảnh đất nước Việt Nam đã và đang nỗ lực thúc đẩy tiến trình hội
nhập quốc tế, toàn cầu hóa, cùng với sự giao lưu, đi lại trên toàn thế giới ngày nay
càng dễ dàng. Điều này đưa đến sự bùng nỗ học ngoại ngữ, trong đó có tiếng Việt
của chúng ta, việc đáp ứng nhu cầu này đã đưa việc giảng dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài hiện nay trở thành một một vấn đề quan trọng. Học viên học tiếng ngày
nay, ngoài học và thực tập tiếng với giáo viên trong lớp, học viên còn được sự hỗ
trợ của phương tiện nghe nhìn, của Internet, báo chí, phim ảnh vv.. Học viên có cơ
hội học ngoại ngữ (tiếng Việt) trong ngữ cảnh sống động, có nhiều sự trợ giúp. Họ
học đạt hiệu quả tốt hơn so với bất cứ giai đoạn nào trước đây. Khi nói đến ngôn
ngữ thì hoạt động chính cuả ngôn ngữ đó là giao tiếp. Muốn giao tiếp và tìm hiểu
văn hóa của một dân tộc, trước hết người ta phải học ngôn ngữ của dân tộc đó.
Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất giúp ta hiểu được văn hóa của một dân tộc.
Chúng ta biết rằng, văn hóa của mỗi dân tộc lại xác định đặc tính ngôn ngữ của dân
tộc đó. Vì thế, khi dạy một ngôn ngữ (Tiếng Việt) dù ở trình độ nào, chúng ta cũng
không thể tách rời văn hóa khỏi ngôn ngữ trong việc dạy tiếng Việt. Việc chúng ta

- 40 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

sử dụng các yếu tố văn hóa và chọn lựa phương pháp dạy tối ưu nhất, chắc chắn sẽ
mang lại những kết quả tốt, thỏa mãn được yêu cầu trước tiên của học viên trong
việc học ngôn ngữ đó là khả năng giao tiếp.

- 41 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

CHƯƠNG 2
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN DẠY TIẾNG VIỆT
NHƯ LÀ MỘT NGOẠI NGỮ CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Giống như các ngoại ngữ khác, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, giáo
viên cần hiểu rõ một số đặc điểm ngữ âm, đặc điểm cấu thành từ vựng và đặc
điểm về ngữ pháp, phương ngữ v.v…
Thêm vào đó, giáo viên cũng phải nắm vững về loại hình ngôn ngữ và phong
cách mà tiếng Việt được xếp vào. Với các tiêu chí trên, việc dạy tiếng Việt cũng
giống như dạy một ngoại ngữ khác như tiếng Anh, Pháp v.v…
 Đối chiều và so sánh cơ bản giữa Tiếng Việt và Tiếng Anh
Trong ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh có những điểm giống và khác nhau
về mặt cấu trúc văn phạm cũng như ý nghĩa của từ.... Giáo viên cần phải làm rõ
những điểm cơ bản giống và khác nhau cho học viên nắm được. Việc giao thoa giữa
ngôn ngữ đích và ngôn ngữ nguồn của học viên nước ngoài khi học tiếng Việt là
điều không thể tránh khỏi được. Do đó, giáo viên phải thật sự quan tâm về cách sử
dụng từ, câu trong văn viết cũng như văn nói của học viên người nước ngoài khi học
tiếng Việt. Điều này rất quan trọng trong việc giảng dạy Tiếng Việt như một ngoại
ngữ.[19, tr.54-63]
2.1. Sự khác nhau về ngữ âm và ngữ điệu
Đặc điểm ngữ âm Trong tiếng Việt có một loại đơn vị đặc biệt gọi là "tiếng".
Về mặt ngữ âm, mỗi tiếng là một âm tiết.
2.1.1. Sự khác nhau về ngữ âm
Tiếng Anh: Là ngôn ngữ đa âm: Khi nói, đưa hơi lên mũi.
Tiếng Việt: Là ngôn ngữ đơn âm: Khi nói, không đưa hơi lên mũi.
Tiếng Anh: Khi phát âm, đầu lưỡi chuyển động và chạm vào nhiều nơi trong
khoang miệng.
Tiếng Việt: Khi phát âm, đầu lưỡi thường ở khoảng giữa khoang miệng.
Tiếng Anh: Sau khi phát âm, luồng hơi từ phổi di chuyển đến khoang miệng và
thoát ra ngoài khá nhiều.
Tiếng Việt: Sau khi phát âm, luồng hơi từ phổi bị giữ lại trong khoang miệng và
thoát ra ngoài rất ít.

- 42 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Tiếng Anh: Phụ âm ở đầu từ có thể là hợp âm phụ âm; phát âm đầy đủ các phụ âm
ở đầu từ, các phụ âm ở giữa từ và các phụ âm ở cuối từ.
* Khác phụ âm đầu dẫn tới khác nghĩa:
Ví dụ:
 ray /reɪ/ tia sáng
 pray /preɪ/ cầu nguyện
 spray /spreɪ/ xịt (thuốc)
* Khác phụ âm giữa dẫn tới khác nghĩa:
Ví dụ:
 word /wɜːd/ từ, lời nói
 world / wɜːld/ thế giới
 rely (on) /rɪ ' laɪ/ dựa vào
 reply /rɪ 'plaɪ/ hồi đáp
* Khác phụ âm cuối dẫn tới khác nghĩa:
Ví dụ:
 white /waɪt/ màu trắng
 wine /waɪn/ rượu vang
 wide /waɪd/ rộng
* Trong tiếng Anh, phải phát âm đầy đủ các phụ âm trong từ. Nếu phát âm thiếu và
không rõ các phụ âm trong từ, người nghe có thể hiểu nhầm ý của người nói.
Tiếng Việt: Phụ âm ở đầu từ là âm đơn; không có phụ âm ở giữa từ; không phát
âm phụ âm cuối từ.
Tiếng Anh: Vì tiếng Anh có phát âm phụ âm cuối từ nên trong tiếng Anh có nối
âm.
Tiếng Việt: Vì tiếng Việt không phát âm phụ âm cuối từ nên trong tiếng Việt
không có nối âm.
Tiếng Anh: Có bật hơi khi phát âm phụ âm k, p, t.
Ví dụ: key /kiː/ cái chìa khóa
to /tuː/ đến, tới
* Nhận xét:

- 43 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

– Âm /kiː/ được phát âm mạnh hơn cách phát âm chữ “khi” của tiếng Việt
– Tiếng Việt: Không có bật hơi khi phát âm phụ âm k, p, t.
Tiếng Anh: Có phân biệt rất rõ ràng giữa phụ âm vang và phụ âm điếc.
Tiếng Việt: Không có phân biệt rõ ràng giữa phụ âm vang và phụ âm điếc.
Tiếng Anh: Có phân biệt rất rỏ ràng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn.
Ví dụ:
seat /siːt/ chỗ ngồi
sit /sɪt/ ngồi
shot /ʃɒt/ phát súng
short /ʃɔ:t/ ngắn
Nếu không phát âm rõ ràng nguyên âm dài và nguyên âm ngắn, người nghe
có thể hiểu sai ý của người nói.
Tiếng Việt: Tiếng Việt không có phân biệt rõ ràng giữa nguyên âm dài và nguyên
âm ngắn.
Tiếng Anh: Một số âm có trong tiếng Anh, nhưng không có trong tiếng Việt, như:
/θ/, /ð/, /ʧ/, /ʤ/,/æ/…
Nếu không biết cách phát âm những âm trên, bạn sẽ không thể nói đúng
tiếng Anh và có thể khiến người nghe hiểu nhầm ý bạn muốn nói.
Ví dụ:
tin /tɪn/ thiếc
thin /θɪn/ gầy ốm
2.1.2. Sự khác nhau về thanh điệu
Thanh điệu trong tiếng Việt:
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập có 6 thanh điệu (thanh không hoặc
không dấu, thanh huyền hoặc dấu huyền, thanh sắc hoặc dấu sắc, thanh hỏi hoặc
dấu hỏi, thanh ngã hoặc dấu ngã, thanh nặng hoặc dấu nặng). Về phương diện
phát âm, mỗi âm tiết gắn với mỗi thanh điệu.
Thanh điệu là một yếu tố thể hiện độ cao và sự chuyển biến của độ cao
trong mỗi âm tiết. Mỗi âm tiết tiếng Việt nhất thiết phải được thể hiện với một
thanh điệu. Thanh điệu có chức năng phân biệt vỏ âm thanh, phân biệt nghĩa

- 44 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

của từ.
Người nước ngoài khi học tiếng Việt thường nhầm lẫn phát âm giữa các
thanh điệu như sau:
- Nhầm thanh không dấu sang thanh huyền và ngược lại.
Ví dụ:
Ma phát âm thành mà hoặc ngược lại.
- Nhầm thanh ngã sang thanh sắc.
Ví dụ:
Mã phát âm thành má.
- Nhầm thanh hỏi sang thanh huyền.
Ví dụ:
Mả phát âm thành mà.
Giáo viên cần lưu ý ở tiếng Việt các âm tiết (tiếng) được phát âm tách rời
nhau, một hoặc vài ba âm tiết tạo thành một từ, các từ có thể trực tiếp tạo thành
câu hoặc tạo thành các nhóm từ rồi các nhóm từ mới tạo thành câu…Vì thế,
nguyên tắc là muốn phát âm tốt một câu tiếng Việt trước hết cần phát âm tốt
từng âm tiết, từng nhóm âm tiết. Ví dụ: “Cảm ơn” phải phát âm rõ “Cảm” và
“ơn”, không nên đọc luyến âm giống như tiếng Anh thành “Camon” (điều này
rất nhiều người nước ngoài mắc phải). Tất nhiên, bình thường người Việt không
nói rõ từng từ, vì họ nói nhanh, nhưng đối với người nước ngoài, phải học cách
nói đúng và nói chậm, sau đó họ tự nói nhanh những vẫn chính xác mà không bị
sai.
- Tiếng Việt là ngôn ngữ có nhiều thanh điệu nhất (sáu thanh).
- Người nước ngoài khi học tiếng Việt thường nhầm lẫn phát âm giữa các thanh
điệu như sau:
 Nhầm thanh không dấu sang thanh huyền và ngược lại. Ví dụ: (tôi = tồi).
 Nhầm thanh ngã sang thanh sắc. Ví dụ: (đã = đá).
 Nhầm thanh hỏi sang thanh huyền. Ví dụ: (mả= mà).
2.2. Sự khác nhau về ngữ điệu
Thông thường người Việt nói lúc nào cũng rõ từng âm tiết, nhấn bằng nhau

- 45 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

nghe đều đều. Trong câu người Anh nói ta thấy có hiện tượng: Những âm tiết nhấn
của câu xuất hiện gần như cách đều nhau trong dòng chảy âm thanh, giữa chúng là
những âm tiết nói nhanh lướt qua không nhấn,khiến tạo cảm giác người Anh nói
nhanh hơn người Việt. Những khác biệt lâu, mau, dài, ngắn của các âm trong khi
nói tạo nên tiết tấu của ngôn ngữ, giống như tiết tấu âm nhạc là trật tự và tỉ lệ trong
thời gian liên quan tới trường độ lâu, mau, dài, ngắn của một nốt nhạc.
2.2.1. Sự khác nhau cơ bản về ngữ pháp
Trong ngôn ngữ Tiếng Việt khi đối chiếu và so sánh với Tiếng Anh ta nhận
thấy về ngữ pháp, thành phần cơ bản của một câu ở Tiếng Việt và Tiếng Anh đều có
chung một cấu trúc đó là: Chủ ngữ + động từ + bổ ngữ
Ví dụ:
- Cô ta là một ca sĩ.
- She is a singer.
Tuy thế, nếu đi vào chi tiết ngữ pháp giữa Tiếng Việt và Tiếng Anh thì có rất
nhiều điểm khác nhau cơ bản. Giáo viên cần làm rõ cho học viên nắm bắt được
những điểm khác nhau quan trọng này.
2.2.2. Sự khác nhau về trật tự từ
-Giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt, xét về trật tự từ có chung loại hình đối với các
thành phần của câu: S+V+O (chủ ngữ + động từ + bổ ngữ)
-Phần chỉ định từ (determiner), mạo từ (article) và giới ngữ (prepositional phrase)
sau danh từ.
-Điểm khác biệt lớn nhất về trật tự các định tố trong một danh ngữ tiếng Anh và
tiếng Việt là: Trong tiếng Anh, các tính từ đứng trước danh từ, còn trong tiếng Việt
thì ngược lại.
2.2.3. Sự khác nhau về xưng hô
Việc chọn lựa cách xưng hô thế nào cho phù hợp cũng phải dựa vào một số
nguyên tắc như: Lịch sự, trọng tình, xưng khiêm - hô tôn, lấy mình hoặc người khác
làm trung tâm để quy ra các quan hệ xung quanh, tôn ti, quan hệ thân - sơ, địa vị, tuổi
tác, giới tính… . Xu hướng xưng hô bằng danh từ chỉ quan hệ thân tộc là phổ biến hơn
cả, không chỉ trong các quan hệ gia đình mà cả ngoài xã hội. Đại từ nhân xưng tiếng

- 46 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Anh và tiếng Việt có một số yếu tố tương đồng và khác biệt cơ bản như:
 Giống nhau:Trong cả hai ngôn ngữ, đại từ nhân xưng có cùng chức năng
thay thế chỉ người hay vật tham gia quá trình giao tiếp và được sắp xếp theo 3 ngôi:
Ngôi 1 (người nói), ngôi 2 (người nghe), ngôi 3 (đối tượng được nói đến). Cả hai
ngôn ngữ đều sử dụng đại từ nhân xưng trong phạm trù lịch sự (categeory of
politeness).
 Khác nhau :
Về phương diện ngôn ngữ:
Đại từ nhân xưng tiếng Anh mang sắc thái trung tính, không thể hiện quan hệ
hay tình cảm giữa người nói và người nghe hoặc người /vật được nói đến. Trong khi
đó ở tiếng Việt, do ảnh hưởng truyền thống, đại từ nhân xưng thể hiện rõ mối quan
hệ và tình cảm giữa các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp, và tùy hoàn cảnh mà
đại từ nhân xưng tương ứng được lựa chọn cho phù hợp, đồng thời cũng cho thấy rõ
sắc thái nghĩa (lịch sự/ không lịch sự).
Tất cả các đại từ trong tiếng Anh đều có nghĩa tương đương như đại từ trong
tiếng Việt. Nhưng đại từ “nó” trong tiếng Việt không hoàn toàn giống đại từ “it”
của tiếng Anh.Trong khi đại từ“nó” trong tiếng Việt không những chỉ trẻ sơ sinh,
đồ vật được nói tới, mà còn dùng để chỉ cả người trưởng thành với nét nghĩa miệt
thị, thì đại từ“it”trong tiếng Anh dùng cho trẻ sơ sinh(chỉ người), phần lớn dùng để
chỉ đồ vật, con vật.
Với loạt đại từ “chúng tôi”, “chúng tao” đã loại trừ người nghe, còn “chúng
ta” bao gồm cả người nghe. Nhưng đại từ “ we” (danh cách) và “us” (đối cách)
trong tiếng Anh không thể hiện ý bao hàm (inclusive) hay loại trừ người nghe
(exclusive).
Nếu cần thiết phân biệt, người ta thường thêm một danh từ hay danh ngữ hoặc mệnh
đề bổ nghĩa.
Ví dụ: We, two pupils, are going to school.
Một đại từ tiếng Anh có thể ứng với nhiều dạng khác nhau trong tiếng Việt.
Ví dụ: Tiếng Anh ngôi thứ nhất, số ít, danh cách “I”, đối cách “me”, thì trong
tiếng Việt có bốn cách diễn tả: Tôi, tớ, tao, ta tùy thuộc vào văn cảnh (dùng cho

- 47 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

cả hai cách trong tiếng Anh).


Trong tiếng Việt có sự tham gia của một số danh từ chỉ quan hệ thân tộc
được “đại từ hóa” và được dùng trong giao tiếp như từ xưng hô. Đại từ dùng trong
thế đối xứng ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.
Ví dụ: bác - cháu cô- cháu chú - cháu cậu - cháu
ông- bà bà - cháu anh- em chị - em
Ngoài ra còn một số đại từ chỉ nghề nghiệp,chức vụ cũng được sử dụng làm từ xưng
hô: thầy, cô, bác sĩ…
Ở ngôi thứ hai trong khẩu ngữ nhiều địa phương Việt Nam có kiểu xưng hô
với nhau bằng cách nhắc ra mối quan hệ của người đó với đối tượng thứ ba (gọi tên
con, cháu, vợ, chồng).
Ví dụ: Ông nó, thầy nó, bu nó, vợ thằng Đậu…
Ngôi thứ ba còn có sự kết hợp danh từ chỉ quan hệ thân tộc với “ta” như: anh
- anh ta, cô - cô ta…mà ở một số địa phương Nam Bộ thường được nói ngắn gọn và
nêu được khác biệt trong ngôn ngữ: anh ta - ảnh, cô ta - cổ…
2.2.3.1. Sự khác nhau về cách dùng thì và chia động từ
Hình 2.1: Sự khác nhau về cách dùng thì và chia động từ

Tiếng Việt Tiếng Anh

1. Trong tiếng Việt các đặc điểm ngữ pháp 1. Động từ chính trong tiếng Anh
được thể hiện bên ngoài từ vì tiếng Việt là ngôn liên quan đến thời, thể, ngôi, dạng,
ngữ không biến hình. thức, . . . được biểu thị bằng phương
thức hình thái học (biến hình từ).

Ví dụ: Ví dụ:

- Cô ta đã đi Đà Lạt ngày hôm qua. - She went to Da Lat, yesterday.

Hoặc: - I am studying English.

- Tôi đang học tiếng Anh.


2. Trong tiếng Việt vì không có trợ động từ, 2. Dạng bị động (Passive voice)và trật

không có dạng bị động, nên để diễn đạt ý nghĩa tự: “ trợ động từ to be + quá khứ phân từ

tiếp thu và ý nghĩa tình thái nên nó dùng nhóm (pastparticiple) của động từ chính”.

- 48 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

từ (“bị”, “được ”, “phải” + động từ).


Ví dụ:
Ví dụ:
- Nó bị phạt.
- He is punished
3. Các động từ tổng hợp của tiếng Việt lại được
3. Các động từ tổng hợp trong tiếng Anh
cấu tạo bởi cấu trúc song tiết (bắt bớ, giặt giũ,
gồm một động từ và một tiểu từ. Có hai
chăm chút, gặp gỡ, làm lụng, lo lắng, nắn nót,
loại động từ tổng hợp: động từ tổng hợp
mò mẫm, săn sóc,...) tạo nên ý nghĩa khái quát,
nội động và động từ tổng hợp ngoại
trừu tượng, và phong phú hơn, và chúng thường
động.
không thể xen bất cứ từ nào vào giữa cấu trúc
So sánh:
song tiết đó.
Ví dụ:
Ví dụ:
- Cô ta đang săn sóc Nam.
- I put on a new hat.
- Dạo này nó không làm lụng gì cả.
- I put it on.
Tuy nhiên, để nhấn mạnh đôi khi người ta có thể
xen vào yếu tố tu từ (với/ chả/ chẳng).
Ví dụ:
- Nam bệnh gì đâu mà săn với sóc.
- Áo quần đâu có bẩn mà mày giặt với chả
giũ.
2.3. Một số lỗi thường gặp của học viên nước ngoài khi học tiếng Việt
2.3.1. Những sự nhầm lẫn khi dùng từ
 Từ chỉ loại
Trong một số trường hợp, tiếng Việt bắt buộc phải dùng từ chỉ loại mà
không có sự tương đương với tiếng Anh.
Ví dụ :
Tiếng Việt Tiếng Anh
Nó là cái nón (mũ). It’s a hat.
Nó là quyển sách. It’s a book.
Nó là quả táo. It’s an apple.
Trong tư duy của người nước ngoài học tiếng Việt, họ không biết thêm các

- 49 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

từ “ cái, quyển, quả” vào trước các danh từ. Hoặc nếu biết, họ khó phân biệt danh từ
nào thì đòi hỏi các từ chỉ loại nào, và thường dùng từ “cái” để chỉ loại chung cho tất
cả các danh từ.
Ví dụ : Cái nón , cái áo, cái sách , cái báo....
Chúng ta cần hệ thống để họ nắm bắt và sử dụng được chính xác.
Sau đây là một số liệt kê về từ chỉ loại:
- “ cái ”: Được dùng để chỉ đồ vật (things), ngoại trừ con dao (except: knife).
Ví dụ: Cái tủ, cái bàn, cái tủ lạnh…
- “con”: Được dùng để chỉ thú vật (animals)
Ví dụ: Con chó, con mèo, con gà…
- “quyển” hay “cuốn”: Được dùng để chỉ các loại sách (books), từ điển
(dictionaries), tập (notebooks), tạp chí (magazines)
Ví dụ: Quyển sách = cuốn sách, quyển từ điển, quyển tập,
quyển tạp chí
- “tờ”: Được dùng để chỉ giấy (papers), báo (newspapers)
Ví dụ: Tờ giấy, tờ báo…
- “bức”: Được dùng để chỉ hình (pictures), tranh (paintings), ảnh (photography)
Ví dụ: Bức hình, bức tranh, bức ảnh
- “tấm”: Được dùng để chỉ bản đồ (maps), bưu thiếp (post cards)
Ví dụ: Tấm bản đồ, tấm bưu thiếp
- “quả” hay “trái”: Được dùng để chỉ trái cây (fruits)
Ví dụ: Quả cam = trái cam, quả lê, quả mận…
 Các từ “là” và “thì”
Các từ “là ” và “thì”: Thường được dịch sang tiếng Anh là “to be”.
Ví dụ: Cô ấy là sinh viên. (She is a student.)
Cô ấy (thì) cao. (She is tall. )
Các học viên nước ngoài thường không biết khi nào thì sử dụng từ “là”.
Họ thường nói: Cô ấy là cao .
Muốn khắc phục lỗi này giáo viên cần phải chỉ dẫn cấu trúc sau :
“Là”: Cô ấy là sinh viên.

- 50 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Tiếng Việt: Chủ ngữ + là + Danh từ (subject + là + noun )


“ Thì” : Cô ấy thì cao = Cô ấy cao.
Tiếng Việt: Chủ ngữ + thì + Tính từ = Chủ ngữ + Tính từ (subject + thì +
adjective) = (subject + adjective).
Tuy nhiên,trong tiếng Việt từ “thì” đứng trước tính từ thường được lược bỏ.
Ngoài ra, học viên cũng thường nói sai khi dùng “là” ở thể phủ định, vì phần lớn
các học viên nói tiếng Anh vẫn quen dùng theo qui tắc: “không + động từ”.
Họ thường nói: Tôi không là bác sĩ. (dịch từ: I am not a doctor.)
Thay vì phải nói rằng : Tôi không phải (là) bác sĩ.
Như vậy, phải chỉ dẫn cho họ biết cấu trúc động từ “ là” ở thể phủ định:
“không phải là + danh từ”
Phạm trù số nhiều
Để diễn tả số nhiều, tiếng Việt thường dùng “ những” và “các ” trước danh
từ. Đôi khi “ những” và “các” được dùng thay thế cho nhau. Nhưng “những” và
“các” cũng có một vài điểm khác biệt nhất định. Đó là một trong những điểm tinh tế
và tế nhị của tiếng Việt mà tiếng Anh không có cách diễn đạt tương đương.
- “Các” đứng trước danh từ để biểu thị số nhiều không xác định. Nhóm
“các”+danh từ là một số lượng toàn thể, toàn bộ, không đối chiếu với các sự vật
khác.
Ví dụ: Thưa các ông, các bà!
- “Những” cũng đứng trước danh từ để biểu thị số nhiều không xác định nhưng số
nhiều này là số nhiều bộ phận và có đối chiếu với các sự vật khác).
Ví dụ: Những con gà này rất mập.
- “Toàn thể” đứng trước danh từ chỉ người.
Ví dụ: Ngày mai toàn thể giáo viên sẽ họp.
- “Tất cả” có thể đứng trước cả những danh từ chỉ người lẫn vật.
Ví dụ: Tất cả chúng tôi sẽ đi bằng tàu hỏa.
Tôi phải làm tất cả các bài tập ở trang 50.
- Từ “cả” được đùng chỉ một tổng thể hoặc toàn bộ một sự vật.
Ví dụ: Cả nước một lòng.

- 51 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Cả nhà đi vắng.
Phạm trù sở hữu
Trong tiếng Việt có 2 cách chủ yếu để biểu hiện phạm trù sở hữu. Cách thứ
nhất là dùng từ “ của.
Ví dụ : Tôi thích cái áo của anh ấy.
Hoặc lược bỏ từ “của ”, chỉ có chủ sở hữu và vật được sở hữu đứng liền nhau thôi.
Ví dụ : Tôi thích cái áo anh ấy.
So sánh :

Tiếng Việt Tiếng Anh


Cặp mắt của bé trai = Cặp mắt bé trai The boy’s eyes
Chân của cái ghế = Chân ghế The leg of the chair
Vì vậy, ngoại trừ các nhóm sỡ hữu với đại từ như: Ba tôi, mẹ tôi, chị
tôi…(my father, my mother, my sister…), học viên bỏ từ “của”, nhưng đối với
những mối quan hệ sở hữu khác, học viên thường thêm từ “của” vào, điều đó dẫn
đến một số lỗi dưới đây:
Ví dụ:
“Chai rượu” thì học viên nói “Chai của rượu” (dịch từ: A bottle of wine.)
“Tách cà phê” thì học viên nói “Tách của cà phê” (dịch từ : A cup of coffee.)
Để chữa những lỗi này, giáo viên nên cung cấp cho học viên biết những
trường hợp không thể bỏ từ “của”(vì trường hợp này không nhiều) như:
- Khi không có từ “của” thì cấu trúc này sẽ bị hiểu nhầm với cấu trúc mang nghĩa
khác.
Ví dụ: “Gà mẹ” khác với “ Gà của mẹ”.
“Sự săn sóc của con cái” khác với “Sự săn sóc con cái.”
- Khi đứng sau từ “là” bắt buộc phải dùng từ “của”.
Ví dụ: Sách này là của thầy giáo (đúng).
Sách này là thầy giáo (sai).
2.3.2. Dạng câu hỏi “đâu” và “ở đâu"
“Đâu” và “ở đâu” trong tiếng Việt chỉ là một từ duy nhất. Trong tiếng Anh là
“ Where”. Học viên nước ngoài thường nhầm lẫn khi sử dụng hai từ nghi vấn “đâu”

- 52 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

và “ở đâu”. Để khắc phục giáo viên cần giúp học viên như.
Trong tiếng Việt các động từ chuyển động như:“ đi, đến, ra, vào, sang, qua,
tới, lại... ” + “ đâu ” khi hỏi.
Ví dụ :
- Anh đi đâu ? ( Where do you go ? )
-Anh đến đâu ? (Where do you come ?)
Các động từ còn lại phải kết hợp với “ở đâu”
Ví dụ:
-Anh ăn trưa ở đâu? (Where do you have lunch?)
-Chị làm việc ở đâu? (Where do you work?)
2.4. Quan hệ và ý nghĩa ngữ pháp được thể hiện bằng trật tự từ và hư từ
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập. Khi tham gia cấu tạo lời nói, từ không
có hiện tượng biến đổi hình thái.Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp chủ yếu thể
hiện bằng trật tự từ và hư từ. Trật tự từ có vai trò hết sức quan trọng, nếu chúng ta
thay đổi trật tự sắp xếp của các từ trong một câu thì ý nghĩa ngữ pháp của các từ đó
cũng thay đổi và vì vậy, ý nghĩa của câu cũng thay đổi.
Hãy so sánh hai câu sau :
Tiếng Viêt:(1) - Tôi nhìn họ.
(2)- Họ nhìn tôi.
Chúng ta thấy “tôi” là chủ ngữ trong câu (1) cũng giống như “ tôi” là bổ ngữ
trong câu (2), “họ” là bổ ngữ trong câu (1) cũng giống như “họ” là chủ ngữ trong
câu (2), không có sự biến đổi hình thái về từ khi kết hợp trong câu. Nhưng trong
tiếng Anh trật tự từ trong câu thay đổi đã làm ý nghĩa của hai câu trên khác nhau.
Tiếng Anh: (1) I saw them
(2) They saw them
Trong khi đó có sự biến đổi hình thái về từ khi kết hợp trong câu tiếng Anh.
“I” làm chủ ngữ trong câu (1) khác với “me” làm bổ ngữ trong câu (2) “them” làm
bổ ngữ trong câu (1) khác với “they” làm chủ ngữ trong câu (2).
Ví dụ trên đây cho thấy vai trò của trật tự từ trong tiếng Việt rất quan trọng.
Chúng tôi xin nêu ra một số lỗi về trật tự từ mà học viên nói tiếng Anh thường mắc

- 53 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

lỗi khi nói và viết câu tiếng Việt.


2.4.1. Dùng sai trật tự từ trong phạm trù sở hữu
Trong tiếng Việt các nhóm từ sở hữu như: của tôi, của chị, của anh, của họ...(
tiếng Anh gọi là Possessive Adjective) có vị trí đứng sau danh từ.
Trật tự của tiếng Việt:Danh từ +tính từ sở hữu (Noun + Possessive Adjective)
Trật tự của Tiếng Anh:Tính từ sở hữu + danh từ(Possessive Adjective + Noun)
Ví dụ: TiếngViệt: Quyển sách của tôi
Tiếng Anh : My book
2.4.2.Dùng sai trật tự từ của các chỉ định từ
Học viên nước ngoài cũng thường dùng sai trật tự từ của các chỉ định từ như
: này, kia, ấy, đó của tiếng Việt. Từ “này” trong tiếng Việt tương đương trong tiếng
Anh là “this” còn ba từ “kia, ấy, đó”tương đương trong tiếng Anh là “that” nhưng
vị trí của các từ trên trong tiếng Việt khác với các từ “this” và “that” trong tiếng
Anh khi kết hợp với danh từ.
So sánh: Tiếng Việt TiếngAnh
này
Danh từ + kia This / That + Noun\
ấy
đó
Chính sự khác nhau về trật tự từ giữa tiếng Anh và tiếng Việt nên khi sử
dụng các chỉ định từ trên của tiếng Việt, học viên nước ngoài thường mắc lỗi do ảnh
hưởng trật tự từ của tiếng Anh.
Ví dụ : Tôi thích ấy áo đầm. (sai)
Câu này do ảnh hưởng trật tự từ của tiếng Anh là: “ I like that dress”
2.4.3. Dùng sai trật tự từ các các định ngữ của danh từ
Trong tiếng Việt, những định ngữ làm bỗ nghĩa cho danh từ thường có vị trí
sau danhtừ.
Ví dụ : Cô gái đẹp, Ngôi nhà mới, Quyển từ điển tiếng Anh
Ngược lại, trong tiếng Anh, những từ làm định ngữ cho danh từ lại thường
đứng trước danh từ.

- 54 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Ví dụ : Tiếng Việt: - Tuần trước tôi đến thăm Cát Tiên rừng. (sai)
- Đà lạt là đẹp thành phố. (sai)
Tiếng Anh: - Last week I visited Cat Tien forest
- Dalat is a nice city
2.5. Phạm trù thì (Tense)
2.5.1.Các từ “ đã”,“đang”, “sẽ ” biểu thị tình thái liên quan đến thì:
Trong tiếng Việt không có một lớp từ riêng biệt chuyên thể hiện thời gian
như một phạm trù ngữ pháp. Nói cách khác,trong tiếng Việt không có phạm trù thì
(tense). Ý nghĩa thời gian được biểu hiên qua từ hay từ ngữ trong tiếng Việt.
2.5.1.1. Các từ “đã”, “đang”, “sẽ” theo quan điểm của người nói
Nếu chúng ta nói rằng các từ đã, đang, sẽ để chỉ thì quá khứ, hiện tại và
tương lai của hành động nào đó là không thỏa đáng. Chúng ta thấy “đã” chẳng hạn,
có thể gắn với sự kiện xảy ra trong tương lai hoặc ở hiện tại như:
(1) Ngày mai cô ấy đã bay rồi.
(2) Khi chúng tôi đến thì căn hộ đã đang xây cất. (When we came, the house
was being built).
Chúng ta thấy chữ “đã” ở câu 1 cho ta một ý niệm, một hành động sẽ hoàn
tất ở tương lai. Câu 2 cho ta một ý niệm, một hành động đang xảy ra ở một thời
điểm trong quá khứ.
Đánh dấu các ý nghĩa về sự kiện xảy ra trong quá khứ, hiện tại, tương lai
theo quan điểm của người nói. Thông thường nó trùng với logic về thời gian của sự
kiện.
2.5.1.2. Ý nghĩa thời gian được đánh dấu bằng trạng từ và trạng ngữ thời gian
Như: Tuần trước, tháng sau, ngày mai, ngày hôm qua, dạo nọ, lúc này, hồi
đó.
Ví dụ: Ngày mai tôi đi Đà Lạt.
Hôm qua anh đi đâu ?
Hồi đó tôi rất sợ tắm sông.
2.5.2. Thứ tự từ ngữ có thể biểu hiện ý nghĩa thời gian
Ví dụ: (1) Áo này chị mua bao nhiêu ? (đã mua)

- 55 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

(2) Áo này bao nhiêu thì chị mua ? (chưa mua)


Các nghi vấn từ thuộc phạm trù thời gian như “ bao giờ,khi nào,lúc nào ".
Trong tiếng Việt vị trí của chúng tùy thuộc vào khoảng không gian mà người
hỏi muốn biểu thị. Chúng được đặt ở đầu câu khi hỏi về một sự việc xảy ra trong
tương lai, cuối câu khi hỏi về một việc xảy ra trong quá khứ. Còn tiếng Anh “when”
bao giờ cũng ở một vị trí duy nhất không thay đổi: Vị trí đầu câu.
Ví dụ : (1) Anh về bao giờ ? When did you return ? (quá khứ)
(2) Bao giờ anh về ? When will you come back ? (tương lai)
2.6. Thể bị động (Passive voice )
Trong tiếng Việt không có thể bị động, từ “ bị, được” không biến hình,
không phụ thuộc vào phạm trù thì, thể, cách, cho nên ý nghĩa của “ bị, được” nằm
trong bề mặt của cấu trúc câu, gắn với ngữ cảnh, tình huống rất chặt chẽ.
So sánh :
Tiếng Anh : (1) The tiger killed the deer. (thể chủ động )
(2) The deer was killed by the tiger. (thể bị động )
Tiếng Việt: (1) Con hổ giết con nai. (cấu trúc chủ động )
(2) Con nai bị con hổ giế.t (cấu trúc bị động )
Nhưng nếu chúng ta nói: “ Tôi bị ngã. ”
Chúng ta không thể dịch sang thể bị động (passive voice) ở tiếng Anh.
Ý nghĩa của “bị”, “được” trong tiếng Việt:
“Bị”, “được” là động từ tình thái trong tiếng Việt, nên chúng ta chuyên chở ý
nghĩa bằng phương tiện từ vựng.
-“Bị”: Chỉ sự không may (rủi ro), trạng thái không hài lòng.
-“Được”: Chỉ sự may mắn, trạng thái hài lòng.
Ví dụ:
- Anh ấy bị ốm.
- Cô giáo ấy được khen ngợi.
Hoặc nếu chúng ta nói:
- Anh ta bị nghỉ. (người nghe sẽ hiểu anh ta bị nghỉ việc).
- Anh ta được nghỉ. (người nghe sẽ hiểu anh ta được nghỉ phép hay nghĩ

- 56 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

lễ).
Ngoài ra, học viên nước ngoài thường gặp khó khăn trong cách sử dụng một số từ
tiếng Việt tiêu biểu sau đây trong giao tiếp cũng như văn viết. Giáo viên cũng phải
giúp họ nắm vững được cách sử dụng của chúng.
- Từ “ rất”, “lắm”, “quá” ở tiếng Anh có nghĩa là “very” hoặc “so”.
 “ Rất ” : Đứng trước tính từ (Adjective).
Mẹ tôi rất già . : My mother is very old.
 “ Lắm ” : Đứng sau tính từ.
Bé gái này xinh lắm : This little girl is very pretty.
 “ Quá ” : Đứng trước hoặc sau tính từ.
Cậu ấy thông minh quá . : He is very intelligent.
Hay quá : Very interesting
Nhiều sinh viên quá. : So many students
Câu phủ định: […không + tính từ +lắm ]
[… not very + Adj ]
Chiếc xe đạp này không đẹp (lắm).
This bicycle is not very nice.
- Từ “ nào ”: Có 2 nghĩa ở tiếng Anh : “which” và “any”.
Nha Trang và Vũng Tàu, thành phố nào rộng hơn?
Which city is larger, Nha Trang or Vung Tau?
Tôi chưa có cơ hội nào đi Hà Nội.
I haven’t had any chance to go to Ha Noi.
- Từ “ à ” : Ngữ khí từ , nó được đặt ở cuối câu để tạo ra câu hỏi toàn bộ.
Sáng mai chị bay đi Hà Nội à?
Will you fly to Ha Noi tomorrow morning, won’t you?
Cô muốn mua vé xe đi Cần Thơ à ?
Do you want a ticket to Can Tho?
- Cụm từ “ngoài…còn…” “ ngoài…ra còn…cả…”
Tiếng Anh: Apart from…also…
Ngoài giáo trình tiếng Việt, tôi còn mua cả Tự điển tiếng Việt.

- 57 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Apart from textbook “Vietnamese language”, I also bought a


Vietnamese dictionary.
Ngoài toán và văn (ra), tôi còn học (cả) tiếng Anh.
Apart from mathematics and literature, I also learn English.
- Từ “ chứ ”: Nó được dùng ở cuối câu hỏi để nói lên ý người nói muốn người nghe
đồng tình với mình.
- Em đi xem phim với anh chứ?
Go to the cinema with me, don’t you?
- Cô vẫn khỏe chứ?
You are well, aren’t you?
- Từ “lại” : Có nghĩa là ‘again” ở tiếng Anh.
“Lại” đứng ngay trước động từ để biểu thị sự lặp lại của hành động.
- Ông ta lại gọi điện đến văn phòng.
He phones to our office again.
Chúng ta có thể đặt từ “lại” đứng cả trước lẫn sau động từ, để nhấn mạnh vào ý
nghĩa lặp lại.
- Cô ấy lại hát lại bài hát.
She sings again and again the song.
- Tôi lại đọc lại truyện này.
I read again and again this story.
-Từ “trở nên”: thường đi trước tính từ (adjective).
- Thành phố Vũng Tàu sẽ trở nên sạch và đẹp hơn.
Vung Tau city will become cleaner and nicer.
-Từ “trở thành”: thường đi trước danh từ (noun).
- Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất.
Ho Chi Minh city becomes a busy trade center.
2.7. Khảo sát bài tập trong một số sách dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài và khảo sát học viên, tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng
Để đánh giá chất lượng một giáo trình dạy tiếng Việt, chúng ta không thể
không chú ý đến việc thiết kế bài tập của giáo trình đó. Vì bài tập là một yếu tố rất

- 58 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

quan trọng để đánh giá chất lượng và mức độ hiểu biết của học viên trong quá trình
học. Vì dạy theo phương pháp giao tiếp nên chúng tôi đặc biệt quan tâm đến kỹ
năng thực hành tiếng của người học tiếng Việt. Bài tập cung cấp và gợi nhớ cho học
viên những kiến thức thực hành ngôn ngữ và những kỹ năng ngôn ngữ mà học viên
đã được truyền thụ. Thông qua bài tập, giáo viên có thể đánh giá khả năng vận dụng
ngôn ngữ, mức độ nhanh nhẹn trong phản ứng giao tiếp của học viên. Cũng thông
qua bài tập, học viên có thể tự nâng cao kiến thức ngoại ngữ (tiếng Việt) cho mình.
Chúng tôi tiến hành khảo sát các dạng bài tập và sự phân bố bài tập trong giáo trình,
từ đó đánh giá mục tiêu của giáo trình hướng vào kỹ năng nào. Với những nhận xét,
đánh giá tổng quan ban đầu sau quá trình quan sát và tìm hiểu nghiên cứu với mong
muốn đóng góp một cái nhìn khách quan tổng thể về “thiết kế bài tập trong một số
sách dạy tiếng Việt hiện nay”. Chúng tôi hy vọng rằng sự khảo sát này sẽ góp một
phần nhỏ giúp các tác giả và giáo viên có thêm những đề xuất, ý tưởng mới để tham
khảo trong việc thiết kế bài tập của mình.
Khảo sát này chúng tôi đã tiến hành thống kê dựa trên 07 giáo trình sau đây:
Quyển 1: “Elementary Vietnamese”- Ngô Như Bình
Quyển 2: “Tiếng Việt cho người nước ngoài”- Nguyễn Anh Quế
Quyển 3: “Tiếng Việt Cơ Sở”- Vũ Văn Thi
Quyển 4: “Giao tiếp tiếng Việt”- Trường Đại học Ngoại ngữ
Quyển 5: “Tiếng Việt 1”- Thạch Ngọc Minh, Trần Thị Minh Giới
Quyển 6: “Vietnamese foreigners” – Mai Ngọc Chừ
Quyển 7: “Giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài” – Nguyễn Văn Huệ
Qua khảo sát 07 giáo trình dạy tiếng Việt trên, chúng tôi nhận thấy bài tập thường
tập trung qua các dạng sau:
1. Bài luyện âm 7. Nói theo vai giao tiếp
2. Bài tập đọc 8. Tìm thông tin
3. Đặt câu theo từ cho trước 9. Đặt câu hỏi cho câu trả lời
4. Điền từ 10. Luyện theo mẫu
5. Trả lời câu hỏi 11. Chuyển dạng câu
6. Nghe hiểu 12. Nói theo tình huống, viết theo chủ đề

- 59 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Ngoài ra, còn một số dạng bài tập khác như: Dịch thuận/nghịch, chuyển dạng
câu, nói, viết theo một số tình huống.
Sau khi khảo sát và phân loại, chúng tôi đã tiến hành thực hiện được bảng phân
bố các bài tập như sau:
Hình 2.2: Bảng thống kê tỷ lệ các dạng bài tập trong sách dạy tiếng Việt
được khảo sát

Các dạng bài tập Số lượng (%) trong tổng số bài tập
cùng chủ đề

1. Luyện âm 62 = 5,52%
2. Tập đọc 111 = 9,89%
3. Điền từ 173 = 15,4%

4. Trả lời câu hỏi 105 = 9,35%


5. Đặt câu theo từ cho trước 107 = 9,53%
6. Nghe hiểu 76 = 6,77%
7. Nói: đóng vai giao tiếp 198 = 17,6%
8. Đặt câu hỏi cho câu trả lời 69 = 6,1%
9. Tìm thông tin 15 = 1,33%
10. Luyện theo mẫu câu 111 = 9,89%
11. Các dạng khác 96 = 8,55%

Tổng số bài tập khảo sát: 1123 bài


Nhìn chung, các dạng bài tập ngày càng đa dạng hơn, được phân chia khá
đồng đều (9,89%; 9,53%; 9,35%). Các bài tập có khuynh hướng giúp cho học viên
theo phương pháp giao tiếp, nói: 17,6% ; tập đọc: 9,89% … .
Theo cách dạy truyền thống thì bài tập được đưa ra nhằm vào cách dịch, thì,
dạng bị động …, so với phương pháp hiện đại (phương pháp giao tiếp) bài tập hiện
nay đã phát huy tính chủ động sáng tạo của người học hơn các giáo trình dạy theo
truyền thống rất nhiều. Điều này làm cho học viên thay đổi hoàn toàn cách học và
cách suy nghĩ trong việc học tiếng của họ. Nó tạo cho học viên kỹ năng thực hành
giao tiếp, tích cực, sáng tạo, không còn tâm lý khó khăn, chán nản như cách dạy

- 60 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

truyền thống trước đây.


Theo số liệu khảo sát tổng hợp các giáo trình trên, việc phân bố bài tập là
như vậy. Tuy nhiên, nếu xét riêng từng giáo trình một thì cơ cấu bài tập lại có rất
nhiều vấn đề cho chúng ta quan tâm, mặc dù các giáo trình trên được biên soạn và
ấn bản khoảng mười năm trở lại đây và hiện nay vẫn lưu hành trong các lớp học.
Việc thiết kế bài tập không theo một định hướng chung: Phục vụ phương pháp dạy
tiếng Việt tối ưu và khoa học hiện nay đó là phương pháp giao tiếp. Có một số bài
tập được thiết kế ngược lại theo phương pháp giao tiếp. Tuy nhiên, mỗi tác giả có
một lý do riêng của mình và Giáo viên cũng tùy vào mục đích của học viên mà chọn
giáo trình phù hợp. Bảng thống kê dưới đây chúng tôi xin đưa ra tình hình phân bố
bài tập của một số giáo trình đã nêu ở trên. Từ đó chúng ta sẽ thấy rõ hơn ở từng
giáo trình một, dạng bài tập nào, kỹ năng nào của người học được người biên soạn
giáo trình quan tâm.
Hình 2.3: Bảng thống kê chi tiết phân bổ các dạng bài tập theo chủ đề

Quyển Quyển Quyển Quyển Quyển Quyển Quyển


Các dạng bài tập
1 2 3 4 5 6 7

Luyện âm 3 3 22 1 2 1 1

Tập đọc 10 28 15 28 15 15 28

Điền từ 28 51 22 18 21 14 18

Trả lời câu hỏi 18 32 5 3 14 14 35

Đặt câu theo từ 2 38 4 35 4 29 3


cho trước
Nghe hiểu 10 0 38 46 6 0 46

Nói: đóng vai 10 0 101 24 26 7 24


giao tiếp
Đặt câu hỏi cho 7 4 0 0 3 18 9
câu trả lời
Tìm thông tin 0 24 1 9 15 0 0

Luyện theo mẫu 32 0 0 0 1 78 0


câu

- 61 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Các dạng khác 11 25 14 2 1 13 2

Tổng 131 205 222 166 108 189 166

Nhìn vào bảng thống kê này ta thấy các giáo trình trên không có sự cân đối
về số lượng các dạng bài tập, có những dạng bài tập được tác giả rất chú ý, ngược
lại có những dạng bài tập dùng để cho có mà thôi. Thậm chí qua bảng khảo sát trên
những dạng bài tập dạy và học theo phương pháp giao tiếp không có mặt trong giáo
trình.
Qua khảo sát chúng ta thấy cơ cấu bài tập chưa có sự thống nhất, chưa đi
theo mục đích, phương pháp giảng dạy chưa thống nhất, mỗi giáo trình đi theo một
phương pháp riêng, mục đích truyền đạt riêng. Cũng qua khảo sát ta thấy giáo trình
nào cũng có dạng bài tập chủ đạo, chiếm tỷ lệ cao trong sách so với các dạng bài tập
khác. Ví dụ: ở giáo trình “Tiếng việt Cơ Sở ” (cuốn 3) có dạng bài tập “Nói: Đóng
vai giao tiếp” (44,5%); sự phân bố bài tập tương đối đồng đều nhưng bài tập điền từ
“cũng vẫn là chủ đạo so với các bài tập khác trong sách”.
Việc rèn luyện các kỹ năng thực hành tiếng theo phương pháp giao tiếp rất
quan trọng, vì vậy không thể biên soạn sách giáo khoa theo chủ quan của từng cá
nhân được. Mục đích của giáo trình là hướng tới khả nămg sử dụng ngôn ngữ của
học viên nên thiết kế các bài tập cũng phải hướng học viên vào phương pháp giao
tiếp và nâng cao khả năng, tính sáng tạo của người học theo phương pháp giao tiếp.
Theo chúng tôi, hiện nay quan điểm này phải được thực hiện qua một tập thể các
nhà chuyên môn về sư phạm, ngữ học, văn hóa học, v.v… . Chúng ta cũng cần có
những bộ giáo trình từ trình độ thấp lên cao đáp ứng được nhu cầu của người học về
ngôn ngữ tiếng Việt, văn hóa Việt trong thời đại hội nhập của đất nước ta với các
nước bầu bạn trên khắp thế giới.
Bảng khảo sát học viên tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng.
Chúng tôi được phép khảo sát học viên người nước ngoài (nói tiếng Anh) lớp
tiếng Việt, khoa Việt Nam Học do ThS.Bùi Thị Thu Thủy (Trưởng khoa VNH) phụ
trách về môn tiếng Việt tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng, vào ngày 29-02-
2016: Lớp học gồm 29 học viên (Danh sách đính kèm tại phần phụ lục). Chúng tôi

- 62 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

đã khảo sát 7 câu hỏi (được ghi trong bảng khảo sát dưới đây) trong 3 buổi học. Kết
quả như sau:
Ghi chú: 1 = Hoàn toàn không đồng ý 2 = Không đồng ý
3 = Còn phân vân 4 = Đồng ý
5 = Hoàn toàn đồng ý
Hình 2.4: Bảng khảo sát học viên tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng.

Câu phỏng vấn 1 2 3 4 5

1. Nghe hiểu trực tiếp tiếng Việt


10 6 13
không cần dịch sang tiếng mẹ đẻ.

2. Nói trực tiếp bằng tiếng Việt


không chuyển sang tiếng mẹ đẻ 12 6 11
trước khi nói.

3. Các chủ đề ngữ pháp được học


trong bài đàm thoại – không cần 20 9
chia thành baì học riêng.

4. Lịch sử văn hóa Việt Nam được


giới thiệu thông qua các bài học 6 23
đàm thoại thực tế.

5. Nên học phát âm theo giọng Hà


Nội hoặc Sài Gòn. Nếu có thể cho
nghe cách phát âm 3 miền (Bắc, 2 8 19
Trung, Nam) để so sánh.

6. Nên cho đọc các đoạn văn ngắn


nói về các sinh hoạt hằng ngày,
8 21
cũng như về các lễ hội, truyện dân
gian, v.v…

7. Viết lại các bài đàm thoại đã


6 8 15
học, cũng như viết email và các

- 63 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

bản báo cáo ngắn …

Tổng kết 30 62 110

- Tổng số ý kiến của học viên đối với nội dung của 07 câu khảo sát như sau:
Hoàn toàn đồng ý là 110; Đồng ý là 62; Phân vân là 30.
Từ bảng tổng kết phỏng vấn trên chúng ta thấy dạy tiếng Việt qua phương
pháp giao tiếp mang lại hiệu quả tích cực hơn so với các phương pháp khác
(phương pháp dịch-ngữ pháp, phương pháp trực tiếp …).
Mục đích của việc dạy và học tiếng Việt hiện nay là hướng vào giao tiếp nên
cần phải chú ý đến xu thế và nhu cầu của người học. Các câu khảo sát ở bảng trên
cho chúng ta nắm được thực tế nhu cầu của người học tiếng Việt hiện nay. Nếu thực
hiện được nội dung các câu hỏi nêu trên sẽ tạo cho học viên sự hứng khởi trong quá
trình học là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công của việc dạy và học tiếng Việt
cũng như việc dạy và học ngoại ngữ nói chung.
(Chúng tôi cũng được Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Quốc tế Hồng Bàng giao
nhiệm vụ hướng dẫn cho một số Giáo Sinh, quốc tịch Mỹ, Anh, New Zealand học
Tiếng Việt để đủ giao tiếp với sinh viên trong lớp khi thực tập giảng dạy.) xin xem
hình ở phần phụ lục

- 64 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Hình ảnh tiếp xúc và khảo sát học viên nước ngoài học Tiếng Việt
tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng.

- 65 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Về giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài: Giáo trình hiện nay
khá đa dạng, bước đầu có thể đáp ứng những yêu cầu đào tạo. Tuynhiên, vẫn rất cần
những bộ giáo trình tiếng Việt chuẩn có hệ thống, từ cấp cơ sở đến nâng cao, cập
nhật những lĩnh vực trong cuộc sống hiện tại, cũng như văn hóa truyền thống Việt,
những kiến thức ngữ pháp, cấu trúc áp dụng trong các ngữ cảnh giao tiếp để đáp
ứng được nhu cầu của giáo viên trong việc giảng dạy.
- Hầu hết các giáo trình do cá nhân hoặc 2-3 tác giả đồng biên soạn, bài học
quá dài, phân chia các bài tập không theo trọng tâm của chủ dề chính mà có tính
cách chia đều, bình quân.
- Về phương pháp giảng dạy: Đa số giáo viên chưa qua khóa đào tạo chuyên
môn nào về bộ môn dạy tiêng Việt cho người nước ngoài, nhất là dạy theo phương
pháp giao tiếp. Vẫn dựa theo kinh nghiệm dạy tiếng anh truyền thống của mình.
- Thực tập: Nói – nghe, thời gian quá ít. Đây là phần rất quan trọng trong học
tiếng, nhất là những học viên mới tiếp cận tiếng Việt.
- Về lớp học: Số lượng học viên trong một lớp quá đông. Cách sắp xếp học
viên trong lớp học vẫn theo truyền thống cũ (trên là giáo viên, đối diện phía dưới là
học viên, mặt bằng lớp học quá nhỏ). Không có sinh hoạt ngoại khóa hoặc câu lạc
bộ tiếng Việt. Thiếu thư viện, tài liệu tham khảo cho học viên (kể cả giáo viên).
- Về học viên: Thời gian tiếp cận tiếng Việt bước đầu quá ít. Nội dung học chỉ
dựa theo giáo trình, bài học quá dài. Học viên được nghe giảng bài học, từ vựng và
làm bài tập trong lớp là chủ yếu, có tính cách để đối đầu với các kỳ thi. Nếu có bài
học về đàm thoại, giao tiếp, học viên chỉ được giáo viên hướng dẫn về nội dung và
ý nghĩa, việc thực hành rất sơ sài, cho lấy có. (Có lẽ là thời gian bị khống chế do
thời khóa biểu quy định).
Tiểu kết
Trong lớp dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, việc rèn luyện bốn kỹ năng
cho người học như: Nghe, nói, đọc, viết là điều cần thiết. Trong bốn kỹ năng này,
không thể nói kỹ năng này quan trọng hơn kỹ năng kia. Tùy theo mục đích của
người học, cũng tùy theo yêu cầu của khóa học mà một trong bốn kỹ năng trên sẽ
được nhấn mạnh, hoặc đồng thời với một hay hai kỹ năng khác. Rõ ràng, dạy tiếng

- 66 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Việt cho người nước ngoài theo phương pháp giao tiếp, việc rèn luyện kỹ năng nghe
và nói là quan trọng nhất. Tuy nhiên, các kỹ năng còn lại không được xem thường.
Với mục đích tạo ra sự hấp dẫn cho mỗi tiết học, việc chuẩn bị của giáo viên cho
giờ lên lớp rất là cần thiết. Họ phải có những thủ thuật khai thác bài học tối ưu để
mang hiệu quả cao nhất cho học viên, đặc biệt giáo viên phải chú ý phát huy tính
sáng tạo của học viên. Sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ của học viên nước
ngoài và tiếng Việt không thể không xảy ra đối với học viên. Vì vậy, giáo viên cần
phải tận tâm hướng dẫn cho học viên những sự khác biệt cơ bản giữa từ, câu… tiếng
Việt với tiếng mẹ đẻ của học viên, không những so sánh mà còn làm cho học viên
nắm bắt được ý nghĩa văn hóa, truyền thống trong sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ
này. Điều này đòi hỏi giáo viên phải ra sức nghiên cứu không những về mặt sư
phạm mà còn về văn hóa của hai ngôn ngữ để giúp học viên so sánh và thấu hiểu
được cách sử dụng ngôn ngữ Việt. Thực hiện được như thế, học viên sẽ phấn khởi,
tự tin và từ đó họ cố gắng trau dồi tiếng Việt của mình ngày càng tốt hơn.

- 67 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

CHƯƠNG 3
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP VÀO VIỆC
GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT
Học viên người nước ngoài đến học tại các lớp trung tâm cũng như các lớp
dạy tiếng Việt, với mục đích trước mắt là làm sao thực hiện được các cuộc giao tiếp
thành công với người Việt. Từ mục tiêu này của người học, để dạy và học ngoại ngữ
(tiếng Việt) có kết quả, nhất định không thể tùy tiện muốn dạy và học thế nào cũng
được. Vì phương pháp là gì nếu nó không phải là kết tinh của những kinh nghiệm
quí báu được tích lũy và hệ thống hóa, giúp cho ta đạt được kết quả tối ưu.Vì vậy
việc giảng dạy ngoại ngữ cần phải có những phương pháp tiên tiến, thích hợp, hiệu
quả. Tuy nhiên, vì mỗi giáo viên áp dụng phương pháp vào việc dạy khác nhau,
khiến người ta tưởng lầm là “dạy sao cũng được”.
Trong các phương pháp dạy Tiếng như chúng tôi đã trình bày, phương pháp
nào cũng có cái tốt cái được của nó. Nhưng theo xu thế hiện tại của hội nhập và toàn
cầu hóa, thì dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bằng phương pháp giao tiếp là
khoa học, là đúng thực tế nhất so với mục đích và yêu cầu giao tiếp của người học.
Vì ta cũng xác định rằng hoạt động chính của ngôn ngữ đó là giao tiếp.
Việc học ngoại ngữ đã trải qua nhiều thay đổi lớn lao. Trước kia người ta coi
đó là dấu hiệu học thức của một thiểu số. Nội dung chương trình học là những cái
chọn lọc trong văn chương. Ngày nay việc học mở rộng cho mọi tầng lớp dân chúng
và chú trọng đến giao tiếp là chính. Qua giao tiếp, con người có thể hiểu biết nhau
nhiều hơn, xích lại gần nhau hơn, tạo sự cảm thông, đoàn kết, bắt tay nhau cùng duy
trì tình đoàn kết và hòa bình trên khắp các châu lục.
3.1. Giảng dạy tiếng Việt bằng phương pháp giao tiếp cho người nước ngoài
Phương pháp giao tiếp hay còn gọi là tiến trình giao tiếp (the communicative
language teaching approach) là giảng dạy năng lực giao tiếp (communicative
competence). Chúng ta hãy so sánh phương pháp này với phương pháp về ngữ
pháp. Năng lực ngữ pháp dùng để tạo câu (như kiến thức về từ loại, các phạm trù
ngữ pháp, ngữ đoạn…). Tiến trình giảng dạy ngữ pháp như sau:
Trước tiên là đưa ra một quy tắc ngữ pháp nào đó rồi thực hành qua các bài

- 68 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

tập. Đơn vị phân tích và thực hành chủ yếu là câu. Năng lực ngữ pháp là một yếu tố
quan trọng trong học tiếng nhưng không phải là tất cả, cho dù người học nắm vững
quy tắc tạo câu nhưng vẫn có thể không thành công khi sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp. Vì vậy, trong dạy tiếng, có một khái niệm nhằm chỉ khả năng sử dụng ngôn
ngữ để giao tiếp thành công được gọi là năng lực giao tiếp. Nó bao gồm những kiến
thức về ngôn ngữ như sau:
- Biết cách sử dụng ngôn ngữ theo những mục đích và chức năng khác nhau;
- Biết cách sử dụng ngôn ngữ một cách đa dạng theo tình huống và theo vị thế
của người tham thoại, chẳng hạn như việc biết khi nào dùng ngôn ngữ trịnh trọng
hay thông tục, hoặc sử dụng ngôn ngữ một cách thích hợp khi giao tiếp bằng văn
bản (viết) hay ngôn bản (nói).
- Biết cách tạo lập và thông hiểu các loại văn bản khác nhau (chẳng hạn như
tường thuật, thông báo, phỏng vấn, hội thoại).
- Biết cách duy trì cuộc thoại dù cho có những giới hạn về kiến thức ngôn ngữ
(chẳng hạn như thông qua việc sử dụng các chiến thuật giao tiếp khác nhau).
- Dạy tiếng Việt cho cộng đồng người nói tiếng Anh theo phương pháp
giao tiếp hay còn gọi là theo tiến trình giao tiếp (The communicative language
teaching approach). Tiến trình này dựa trên quan điểm giáo dục truyền động
(transaction) và xem ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp.
3.1.1 Phương pháp giáo dục truyền động (transaction)
Ta biết rằng giáo dục truyền thụ (transmission) đã được áp dụng trong nhiều
thế kỷ khi khoa học kỹ thuật còn chậm tiến. Giáo dục theo quan điểm truyền thụ thì
vai trò của giáo viên là trung tâm (teacher-centered). Tất cả mọi kiến thức, kinh
nghiệm mà học viên học hỏi được đều qua giáo viên. Những thiếu sót của người dạy
về mặt kinh nghiệm, kiến thức, chắc chắn đã phương hại đến sự phát triển của học
viên (xem mô hình 1).
Để tránh được sự tai hại đã nêu trên khi áp dụng theo phương pháp truyền
động.
Sau nhiều cuộc nghiên cứu và thí nghiệm, các nhà giáo dục và chuyên gia đã đưa
đến kết luận là việc giáo dục nhắm đến học viên là chính, học viên là trung tâm

- 69 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

(learner centered). Phải trang bị cho học viên vừa có kiến thức ở sách vở, vừa có
kiến thức thực tế ở cuộc sống hằng ngày, từ đó đặt giáo viên vào vị trí là người thực
hiện chức năng hướng dẫn, động viên, giúp học viên học hỏi, tìm tòi và khám phá.
Đó là quan niệm giáo dục truyền động (transaction) (xem mô hình 2)[12, tr.22-26]
Mô hình 1
A. Biểu đồ quan niệm giáo dục truyền thụ (Transmission)

Kiến thức-
Kinh nghiệm

Giáo viên

Học viên Học viên Học viên Học viên

Mô hình 2
B. Biểu đồ quan niệm giáo dục truyền động (transaction)

Kiến thức-
Kinh nghiệm

Giáo viên

Học viên Học viên Học viên

- 70 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Tiến trình giao tiếp dựa trên quan điểm về ngôn ngữ như sau :
- Ngôn ngữ là một hệ thống giúp con người diễn tả ý nghĩa.
- Chức năng chính của ngôn ngữ là dùng để giao tiếp.
- Cấu trúc ngôn ngữ được phản ánh trong chức năng dùng ngôn ngữ để giao tiếp.
- Những đơn vị căn bản của ngôn ngữ không phải đơn thuần là đặc điểm cấu trúc
và ngữ pháp, mà còn tùy thuộc vào ý nghĩa được diễn tả trong các thể loại ngôn ngữ
(ngữ thể, văn bản, ngôn bản: text-types, genres, discourse forms).
3.2. Các bước tiến hành học ngôn ngữ theo phương pháp giao tiếp :
- Tạo các hoạt động dùng ngôn ngữ có bối cảnh giao tiếp thực tế trong đời
sống.
- Ngôn ngữ dùng trong hoạt động phải mang ý nghĩa.
- Dùng ngôn ngữ có ý nghĩa là tiến trình học (Johnson, 1982).
Như vậy, chúng ta ứng dụng tiến trình giao tiếp vào việc dạy ngôn ngữ (tiếng
Việt) là ứng dụng tiến trình tạo hoạt động dùng ngôn ngữ giúp học viên tham gia
vào các hoạt động dùng ngôn ngữ, sau đó sẽ lấy những yếu tố ngữ pháp trong thể
loại (discourse form) cho học viên thực hành một số bài tập (exercises).
Tạo hoạt động ngôn ngữ:
Là cách dùng các thể loại trong từng hoàn cảnh giao tiếp. Trong đời sống
hàng ngày, các hoạt động không xảy ra riêng lẻ. Do đó, các hoạt động dùng ngôn
ngữ phải được tạo thành từng cụm hoạt động (activity cluster).
Việc trau dồi 04 kỹ năng ngôn ngữ, các loại hoạt động cần phải đáp ứng
những nhu cầu và mục tiêu sau:
- Các hoạt động tiếp thụ: Nghe hiểu và đọc hiểu.
- Các hoạt động diễn đạt: Nói và viết.
Trước khi tạo các hoạt động, giáo viên cần thực hiện những việc sau đây:
- Chọn đề tài: Phù hợp với trình độ, nhu cầu và sở thích của học viên.
- Đưa ra mục tiêu: Dựa vào mục đích học ngôn ngữ và mục tiêu cho từng bài
học.
- Chọn thể loại và ngữ pháp: Phải dựa theo trình độ ngôn ngữ và nhu cầu của
học viên, các thể loại được đưa vào các hoạt động. Từ các thể loại, giáo viên sẽ lấy

- 71 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

ra những điểm ngữ pháp cho học viên thực hành thông qua những bài tập.
- Sau cùng là tạo các hoạt động thành cụm có tính liên tục, từ các hoạt động
tiếp thụ đến các hoạt động diễn đạt.
Trong các hoạt động dùng ngôn ngữ, cần có thêm những bài tập để hỗ trợ
cho việc dùng ngôn ngữ, nhất là các bài tập nhằm trau dồi các yếu tố ngữ pháp, ngữ
âm (như phát âm), đọc vần, tạo từ, thành lập câu, diễn tả thời gian.
Nhưng những bài tập không phải là trọng tâm của một bài dạy mà chính các
hoạt động dùng ngôn ngữ do sinh viên thực hiện mới là chính.
+ Về các loại hoạt động thực hành trong lớp:
Phương pháp giao tiếp tạo nên một sự chuyển đổi từ hình thức học Tiếng
truyền thống, đó là tập trung vào việc nắm vững các vấn đề về ngữ pháp và việc
thực hành thông qua các hoạt động được “giám sát” chặt chẽ như việc học thuộc
lòng các bài tập ngữ pháp, các bài song thoại sang việc sử dụng các loại hoạt động
“tự do” hơn, như thực hành theo nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề…Các loại hoạt
động thực hành này bao quát cả bốn kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) nhằm
phát triển khả năng giao tiếp của người học.
+ Về vai trò của giáo viên và học viên:
Các loại hoạt động thực hành nêu trên phần nào cho thấy vai trò của giáo
viên và học viên trong phương pháp giao tiếp. Học viên phải tham gia vào các hoạt
động thực hành trong lớp theo cách thức hợp tác và riêng lẻ, đồng thời phải lắng
nghe và trao đổi với học viên khác trong nhóm, chứ không thực hành một cách máy
móc theo phương pháp truyền thống. Nhìn chung, phương pháp này đòi hỏi học
viên có trách nhiệm với việc học của mình, đòi hỏi tính chủ động và sáng tạo của
học viên hơn. Còn giáo viên, tùy theo giai đoạn, theo loại hình hoạt động mà đảm
nhiệm vai trò như là người điều hành (a controller), người tổ chức (an organizer),
người gợi ý (a prompter) hoặc người tham dự (a participant). Trong lớp học theo
phương pháp giao tiếp, cả giáo viên lẫn học viên phải phối hợp với nhau trong suốt
thời gian học tập. Sự phối hợp này chỉ có được, khi cả giáo viên và học viên đều
chuẩn bị chu đáo và xác định rõ nhiệm vụ của mình ngay từ khi lớp học bắt đầu.
Phương pháp giao tiếp hay còn gọi là tiến trình giao tiếp (the communicative

- 72 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

language teaching approach) đáp ứng nhu cầu mới ngày càng gia tăng về giao lưu
hợp tác giữa các dân tộc. Mục tiêu của việc học ngoại ngữ (tiếng Việt) thì khác nhau
như: để du lịch, để giao tiếp trong đời thường, giao tiếp trong sản xuất kinh doanh
để nghiên cứu ngôn ngữ, văn học, lịch sử, kinh tế, văn hóa Việt Nam v.v… Nhưng
tựu trung quy về yêu cầu chính là: Nghe - Nói để trực tiếp giao thiệp, hoặc Đọc -
Viết để xem sách báo, nghiên cứu, thưởng ngoạn.
Để dạy và học tiếng Việt bước đầu có kết quả thực tiễn, người ta đã đề ra 05
mục đích hướng dẫn phương pháp dạy và học cũng như biên soạn tài liệu giáo khoa.
[22, tr.13-14] Đó là:
- Ngôn ngữ là lời nói chứ không phải là chữ viết
Bước đầu phải tập nghe hiểu và nói được một ít câu thông dụng, xong mới
sang giai đoạn học đọc và viết. Trong khi tiếp tục học tới, tài liệu mới phải được
nghe nói kỹ càng trước rồi mới được trình bày dưới dạng chữ viết. Nhấn mạnh đến
phát âm và ngữ điệu. Nội dung học không phải những bài văn chương cao xa mà là
những câu nói thông dụng hằng ngày. Thường xuyên tập nghe và lặp lại những câu
này.
-Ngôn ngữ là một tập hợp những thói quen
Phải rèn luyện bằng cách bắt chước và ghi nhớ những câu đối thoại và tập
đọc lớn tiếng những câu mẫu cho tới khi tạo được phản ứng máy móc như tiếng mẹ
đẻ. Việc này đối với trẻ em thì dễ nhưng với người lớn phải cố gắng hơn nhiều.
-Dạy chính ngôn ngữ chứ không dạy về ngôn ngữ
Tức là học viên thực hành sử dụng ngoại ngữ qua nghe, nói, đọc, viết. Không
phải chỉ dạy những hiểu biết về ngôn ngữ như trước đây thường áp dụng mà coi nhẹ
thực hành sử dụng. Văn phạm chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu trước mắt đó
là giao tiếp tốt với người Việt. Chỉ một số học viên muốn đi chuyên sâu mới nghiên
cứu kỹ về văn học, ngữ học.
-Ngôn ngữ là những gì người bản ngữ nói, chứ không phải là những gì
chúng ta nghĩ họ nói.
Học ngôn ngữ bình thường hiện đại,chứ không phải thứ ngôn ngữ sách vở xa
lạ với đương thời. Dĩ nhiên cũng có để ý đến những dị biệt ngôn ngữ có tính cách

- 73 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

địa phương (phương ngữ, thổ ngữ), giai tầng xã hội (tiếng lóng) hoặc hoàn cảnh sử
dụng trong văn phòng nói khác viết, văn xuôi khác văn vần v.v…
-Các ngôn ngữ đều khác nhau
Nhấn mạnh đến những tương phản lớn về phát âm, cấu trúc giữa tiếng Việt
và tiếng mẹ đẻ, chúng thường là nguyên nhân của những khó khăn trong khi học.
Những cấu trúc thông dụng nhất và những gì dễ gây lầm lẫn nhất được học trước
tiên và tiếp tục rèn luyện về sau cho thành thạo.
Để cho công việc dạy và học tiếng Việt có tính chất khoa học và hệ thống ta
nên lưu tâm đến những nguyên tắc sau:
- Dạy nghe và nói trước rồi mới tới đọc và viết. Dù mục đích chỉ là đọc được
ngoại ngữ cũng phải nên làm chủ được những cấu trúc cơ bản của lời nói đã rồi mới
học tập được. Mẫu nghe để bắt chước phải đúng: tốt nhất là của người bản ngữ nói,
hay ít ra có băng mẫu để nghe.
- Ghi nhớ những câu đối thoại căn bản càng đúng càng tốt để sử dụng thực tiễn
được ngay.
- Thực hành các mẫu để xây dựng thói quen nói được những câu. Biết ngoại ngữ
có nghĩa là sử dụng được những mẫu cấu trúc với từ vựng thích hợp và tốc độ giao
tiếp bình thường.
- Học phát âm chỉ nghe mẫu không đủ mà phải xem biễu diễn chứng minh, hình
ảnh minh họa rồi mới bắt chước, đối chiếu với tiếng mẹ đẻ và thực hành thường
xuyên, liên tục.
- Từ vựng được giới hạn ở mức tối thiểu trong khi đang tập làm chủ hệ thống âm
ngoại ngữ và cấu trúc văn phạm, để tránh quá tải cùng lúc nhiều thứ, sau đó mới mở
rộng từ vựng.
- Dạy đọc và viết coi như hình thức biểu thị của những từ và cấu trúc đã học.
- Dạy các cấu trúc từ đơn giản đến phức tạp, ngày càng khó hơn. Bắt đầu bằng
câu, dừng bằng từ và sắp xếp tài liệu trên cơ sở cấu trúc câu: Các thành phần câu (từ
loại), các từ chức năng, và các cấu trúc biến đổi của câu, dần dần từng bước thêm
các yếu tố mới vào cái đã học và dạy theo trình độ khả năng của học viên. Trong khi
học đối thoại, chỉ cần một số cấu trúc giới hạn, sau này khá hơn sẽ học thêm nhiều

- 74 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

cấu trúc phức tạp.


- Phiên dịch không thay thế thực hành, chỉ được tạm dùng để chuyển nghĩa cả
câu đối thoại ngoại ngữ, coi như cách kiểm tra hiểu nghĩa. Khi đã khá, nếu muốn
rèn luyện dịch như một kỹ năng riêng.
- Dạy ngôn ngữ đang lưu hành, không phải thứ ngôn ngữ chúng ta cho là nên
nói.
- Thực hành: Bắt chước, ghi nhớ, đọc theo mẫu là cốt yếu, (chiếm 85% thời gian
tại lớp, 15% dành cho giảng giải, thảo luận).
- Cho học viên biết ngay, khi đáp ứng đúng, để tăng cường kích thích tự tin có
tác dụng tốt cho giảng giải, thảo luận.
- Dạy ý nghĩa của từ, câu trong bối cảnh văn hóa của tiếng Việt.
- Chú ý đến hiệu quả của phương pháp, kỹ thuật xem có đem lại tiến bộ hay
không, nếu không, phải liệu cách thay đổi, điều chỉnh.
- Phải lưu ý đến những yếu tố khác có ảnh hưởng đến việc học tiếng Việt. Đó là
học cụ, hoàn cảnh, thầy giáo, học viên (tuổi tác, trình độ văn hóa, khả năng, trở
ngại), cần chú ý đến mục tiêu và trình độ ngoại ngữ: Trình độ tiếng Việt càng cao
thì mức tiến bộ càng chậm, khó thấy một cách rõ rệt.
- Ngoài mục tiêu ngắn hạn là nghe nói để giao thiệp được với người nước ngoài
và đọc hiểu, viết ra được điều muốn diễn tả, cũng nên nghĩ tới mục tiêu dài hạn cao
hơn là thưởng ngoạn văn chương, tìm hiểu sâu về văn hóa, ngôn ngữ dân tộc bản
xứ.
3.2.1. Qui trình thực hiện phương pháp giao tiếp
Bước 1: Miêu tả tình huống giao tiếp giả định (cần ngắn gọn, rõ ràng).
Bước 2: Phân tích tình huống nêu ra, đưa ra những lời nói kèm theo việc miêu tả
tình huống ở bước 1(tranh luận, cảm ơn, khen, chê, bàn bạc…).
Bước 3: Hướng dẫn học viên nhận biết mức độ phù hợp giữa lời nói và hoàn
cảnh giao tiếp.
Bước 4: Điều chỉnh, sửa chữa những lời nói chưa phù hợp, rút ra những kết luận
cần thiết để học viên ghi nhớ, luyện tập.
3.3. Áp dụng phương pháp giao tiếp để dạy phát âm tiếng Việt

- 75 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Dựa vào đặc điểm ngữ âm, ngữ pháp tiếng Việt và áp dụng phương pháp
giao tiếp vào việc dạy phát âm tiếng Việt, ta theo những tiến trình sau đây:
 Thứ nhất, tập cho học viên dùng tiếng Việt bằng cách nghe và nói, luyện kỹ
năng giao tiếp trực tiếp các từ hoặc câu trong ngữ cảnh với ý nghĩa rõ ràng.
Ví dụ: Bài học đầu tiên, ta cho học viên tập nghe và nói:
- A! anh Nam. Chào anh. Anh khỏe không?
- Dạ khỏe. Cảm ơn.
Sau khi học viên chào hỏi, giới thiệu mình với các bạn, học viên chép lại
những gì vừa nghe và nói. Từ những từ và câu này, ta bắt đầu giới thiệu hệ thống
phát âm và chữ viết tiếng Việt. Việc học phát âm tiếng Việt rất quan trọng, đòi hỏi
phải có nhiều thời gian. Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng đối với học viên, nếu
nắm vững được cách phát âm tiếng Việt, học viên sẽ rất thuận lợi để tiếp tục học
nâng cao.
Ví dụ:Muốn dạy phát âm “a”, chúng ta chọn những từ có âm “a” như: A!, anh,
dạ, ta, ba,ca…để học viên thực tập cách phát âm a này.
Hệ thống âm và vần tiếng Việt cho chúng ta trình tự dạy từ dễ đến khó, từ
thông dụng đến ít thông dụng (chú trọng đến nhu cầu của người học). Hai nguyên
tắc dễ và thông dụng cho chúng ta lựa chọn âm/vần nào dạy trước và âm/vần nào
dạy sau.
Đến luyện các thanh điệu (dấu) cũng vậy, mỗi từ/câu phải có ý nghĩa thực
dụng và chỉ luyện một hoặc hai dấu một lần, chứ không dạy một lúc sáu dấu. Đặc
biệt cho học viên luyện từng cặp hai dấu như không dấu với dấu sắc (dưa-dứa), dấu
sắc với dấu huyền (dứa, dừa) với những hình ảnh và câu có nghĩa thực dụng.
Ví dụ: Bạn tôi ăn dưa, tôi uống nước dừa…
Người nói giọng Bắc thường phát âm đúng dấu hỏi và dấu ngã. Do đó nếu có
thể được, ta nên cho học viên thực tập và nghe những bài đàm thoại có giọng Bắc.
Những ví dụ các câu/ từ có vần và thanh điệu là lấy từ thể loại ngôn ngữ dùng hàng
ngày theo nhu cầu học viên, nhất là đàm thoại, đối thoại.
Thứ hai, học viên viết những chữ có âm/vần/âm tiết, ta hướng dẫn học viên
phân tích, nhận diện âm/vần/âm tiết trong từ/câu muốn dạy.

- 76 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Thứ ba, học viên tập phát âm, làm bài tập và đồng thời cho học viên đọc một
số từ có những âm/vần vừa phân tích/nhận diện với hình ảnh và ý nghĩa rõ ràng: Ví
dụ như vần “ười” trong từ “cười”. Khi học viên đã đọc được âm “ười”, thì họ dễ
dàng đọc các từ như lười, mười, người… không có gì khó khăn phải trở lại cách
“đánh vần”.
Đối với đặc điểm nối vần tiếng Việt, việc đọc vần rất thuận lợi.
Ví dụ: a-i =ai, ô-i=ôi, ư-ơ-i =ươi…
Việc làm bài tập không nên kéo dài quá thời gian vì nó dễ gây nhàm chán và không
thực dụng. Sự phân tách riêng dấu như cách đọc vần đang phổ biến hiện nay, có
phần không hợp lý: sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã là tên gọi thanh điệu chứ không thể
phát âm được. Dấu đánh trên vần mới thanh âm và thay đổi ý nghĩa của từ.
Chúng ta ghi nhận 4 cách đọc vần có từ trước đến nay:
Ví dụ: Cách đọc vần từ bán
Cách 1: Bờ a ba a nờ an là ban sắc bán
Cách 2: A nờ an, bờ an ban sắc bán
Cách 3: Bờ an ban sắc bán
Cách 4: Bờ án bán
 Từ những ví dụ, từ/câu có âm/vần vừa nhận diện, phân tích và làm bài tập,
cho học viên tham gia vào các hoạt động giao tiếp, dùng những từ có âm/vần vừa
tập phát âm ở giai đoạn 2.
Ví dụ:
- Đây là ba tôi.
- Đây là An, bạn tôi.
Những hoạt động này mới là trọng tâm của bài học, bao gồm nghe, nói, đọc
và viết (luyện 4 kỹ năng). Ở trình độ cao hơn, chúng ta cho học viên thực tập và
nghe, nói những thể loại dùng tiếng Việt khác nhau như đối thoại, đàm thoại, nghe
phát thanh…
3.3.1. Dạy ngữ pháp bằng phương pháp giao tiếp.
Như chúng ta đã biết, “ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp” và “mục đích của
việc học ngôn ngữ là để giao tiếp” quan điểm này khác với quan điểm truyền thống.

- 77 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Theo quan điểm truyền thống dạy ngôn ngữ theo quan điểm cấu trúc (structural
approach), việc dạy ngôn ngữ chú trọng dạy cho học viên nhiều về từ pháp và cú
pháp, đặc biệt chú trọng về từ loại. Trái lại, quan điểm của tiến trình giao tiếp là dạy
cho người học biết về đặc điểm cấu trúc của ngôn ngữ nhưng là để dùng trong giao
tiếp chứ không phải biết nhiều mà không dùng được.
Cách dạy ngữ pháp tiếng Việt
Khi dạy kiến thức ngữ pháp và dạy thực hành ngữ pháp giáo viên phải thông
qua hệ thống bài tập thích hợp. Dạy tiếng Việt là tạo hoạt động dùng tiếng Việt để
giao tiếp, do đó hệ thống bài tập này phải đi từ nhận diện, phân tích đến tổng hợp
ứng dụng vào tình huống giao tiếp. Các bài tập phải theo nguyên tắc giao tiếp thực
dụng và trực quan.
Ví dụ:
Đề tài: “Nói về ngày tháng”.
Hương Quang ơi! Cậu sinh ngày tháng năm nào?
Quang Tớ sinh ngày mùng năm tháng bảy năm một nghìn chín trăm
bảy (mươi) tám. (5/7/1978)
Giáo viên đã có dự kiến trước là thông qua bài đàm thoại này, lấy những
điểm ngữ pháp nào để dạy cho học viên hầu có thể soạn bài tập thích hợp.
Theo ví dụ trên giáo viên có thể chọn điểm ngữ pháp “Cách nói ngày của
tháng”
- Từ ngày 1 đến ngày 10 thì dùng từ “mùng” hoặc “mồng” đi với số đếm.
Ví dụ: Hôm nay là ngày mùng (mồng) một tháng tám.
- Từ 11 đến 31 ta chỉ dùng số đếm.
Ví dụ: Hôm qua là (ngày) ba mươi tháng tư.
Bài tập để nhận diện, phân tích theo phương pháp giao tiếp
- Hãy viết lại hai câu trong đó có dùng từ mùng/mồng dựa vào bài đàm thoại vừa
nghe.
- Hãy viết lại tên các tháng trong một năm.
- Trả lời thực tế với các câu: Hôm nay là ngày bao nhiêu?/ngày mấy?
Ngày mai là ngày bao nhiêu? /ngày mấy?

- 78 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Hôm nay là tháng mấy âm lịch?


Sau khi cho học viên làm bài tập về nhận diện, phân tích tiếp theo giảng viên
cho học viên làm bài tập hoạt động dùng tiếng Việt trong tình huống giao tiếp thực.
Bài tập vận thực dụng và sáng tạo
Mục đích dạy câu là dạy cho học viên diễn đạt ý nghĩ trọn vẹn trong tình
huống giao tiếp theo tiến trình tự nhiên: Đi từ ý đến lời, từ nội dung đến hình thức
câu nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp có thật, chứ không phải chỉ có tình huống học
tập trong lớp.
Ví dụ: Đặt câu với cụm từ “Tôi sinh ngày…”
- Đặt câu hỏi về ngày tháng năm sinh với bạn học ngồi kế bên...
- Đặt câu hỏi trong đó có nhóm từ “ngày bao nhiêu/ ngày mấy?”
Việc dạy lý thuyết đến thực hành trong tiến trình giao tiếp, đòi hỏi giáo viên
nỗ lực nhiều trong việc soạn bài tập về ngữ pháp có tính thực dụng, mới có thể giúp
học viên thích thú học. Giảng dạy tiếng Việt là giúp học viên diễn đạt thông thạo
tiếng Việt và tiếp thụ tinh hoa văn hóa Việt Nam.
3.3.2. Dạy kỹ năng nghe - nói theo phương pháp giao tiếp
Đa số học viên thường chú ý tập nói mà quên rằng, nếu nghe không ra những
từ, câu để hiểu thì làm sao đáp lại với người đối thoại. Nghe phải được coi là quan
trọng bậc nhất, vì nhờ nghe mới tham gia được vào cộng đồng: tiếp xúc người nước
ngoài, nghe diễn thuyết, đài phát thanh, xem kịch hoặc phim v.v… Nói không được
còn có thể tạm ra hiệu bằng tay, điệu bộ, cử chỉ hoặc dùng những câu thật dễ, nhưng
nghe không được thì đành chịu và bị lâm vào tình cảnh bối rối, ngượng ngùng.
Mỗi ngôn ngữ có những kiểu mẫu quy ước riêng. Phải nắm vững và thuộc
những cấu trúc này để sẵn sàng tạo một cái sườn dự đoán trước trong khi nghe, tức
là phải thực hành nhiều cho quen. Cái sườn này không phải chỉ gồm những chuỗi
âm thanh liên tiếp, mà còn cả mức độ mạnh yếu, cao thấp, ngắt nghỉ, lên bổng
xuống trầm cũng phải được tiên đoán nữa, vì chúng góp phần vào việc khêu gợi nên
ý nghĩa của lời nói. Mặt khác, phải học nhận biết những yếu tố giúp cho việc tiên
đoán được dễ dàng, làm giảm khả năng xuất hiện bất ngờ của một chi tiết ngôn ngữ.
Đó là những cấu trúc cú pháp, những nhóm từ hoặc tổ hợp âm thanh thường gặp,

- 79 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

những câu sáo ngữ, những công thức đàm thoại đưa đẩy trong khi nói chuyện nhằm
tạo sự linh động, tích cực trong giao tiếp với nhau.
Các phương pháp rằn luyện kỹ năng Nghe
Việc khởi động lớp học trước khi nghe là nhằm thu hút sự tập trung, chú ý
của học viên, đặt ra một mục tiêu nghe cho họ. Để đạt được mục tiêu trên, hoạt
động khởi động cần cung cấp thông tin nền về nội dung bài nghe cho học viên, giới
hạn ngữ cảnh nghe cho họ, đồng thời thực tế hóa nội dung bài nghe bằng cách liên
kết nó với kiến thức nền hoặc các thông tin thực tế của học viên (thông tin cá nhân,
kinh nghiệm bản thân…). Dưới đây là một vài hình thức hoạt động trước khi nghe
theo hướng tổng hợp:
- Đọc một văn bản ngắn có liên quan đến nội dung bài nghe và cho biết ý kiến.
- Viết chính tả một văn bản ngắn có liên quan đến nội dung nghe.
- Dùng hình ảnh (tranh, ảnh, đoạn phim) liên quan đến nội dung bài nghe để thảo
luận, hỏi và trả lời.
- Liên hệ với thực tế bằng cách thảo luận về những hiện tượng, sự kiện có liên
quan đến nội dung bài nghe.
- Dự đoán lượng từ vựng có khả năng xuất hiện dựa trên chủ để bài nghe và kiểm
chứng trong khi nghe.
- Dự đoán thông tin dựa trên chủ đề và bối cảnh bài nghe và kiểm chứng trong
khi nghe.
- Điền từ vựng thích hợp với ngữ cảnh câu hoặc đoạn văn có nội dung liên quan
đến bài nghe (một ngữ đoạn có trong bài nghe, một bản tóm tắt nội dung bài
nghe, một bài hội thoại có nội dung tương tự…)[22, tr.144-150]

Giải quyết vấn đề hoạt động trong khi nghe


Các hoạt động trong khi nghe thường được thực hiện các yêu cầu liên quan
trực tiếp đến nội dung văn bản nghe như sau:
- Nghe và nắm ý chính.
- Nghe và tìm thông tin chi tiết.
- Nghe và sắp xếp các thứ tự chính.

- 80 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

- Nghe và ghi chép ý chính cũng như ý chi tiết.


- Nghe và xác nhận các ý kiến hoặc thực hiện các hướng dẫn.
- Nghe và kiểm tra thông tin.
- Nghe và phát hiện lỗi.
- Nghe và viết chính tả.
- Nghe hiểu và hoàn thiện một sơ đồ, bản đồ, một bức tranh, một hình ảnh.
- Nghe về một sự mô tả và xác định tranh ảnh theo mô tả đó…
Nhìn chung, các hình thức phản hồi trong khi nghe là viết (theo nguyên văn
hoặc sắp xếp lại theo ý mình), trả lời (giải thích hoặc chỉ xác nhận đúng/sai), phản
ứng hồi đáp (phù hợp với tình huống nghe được), vẽ (theo sự mô tả của bài nói),
điền thông tin…
Hoạt động nghe diễn ra qua những giai đoạn
Học viên tập nghe sẽ phải trải qua một quá trình cảm nhận như sau:
Giai đoạn 1: Thoạt tiên chỉ nghe thấy một mớ âm thanh hỗn độn không phân
biệt được với nhau. Nghe dần dần sẽ nhận ra một trật tự trong đám hỗn âm: lên
xuống đều đều của giọng nói giữa các hơi thở. Khi đã học được một ít từ, một vài
cấu trúc đơn giản thì bắt đầu phân biệt được về mặt ngữ âm và cú pháp: đó là những
yếu tố được lặp đi lặp lại tạo hình cho từng đoạn lời nói nhưng vẫn chưa hiểu gì cả.
Giai đoạn 2: Nhận diện được những yếu tố quen thuộc trong đám âm thanh,
nhưng chưa thể nhận ra mối tương quan, liên hệ trong phạm vi cả dòng âm thanh,
giống như đi trong sương mù, chỗ này rõ chỗ kia lờ mờ. Phải thực hành nhiều mới
vượt qua giai đoạn này, tiến tới giai đoạn nhận biết dễ dàng những yếu tố chính, xác
định nội dung thông tin.
Giai đoạn 3: Nhận biết dễ các yếu tố chính nhưng vẫn không thể ghi nhớ
được vì phải tiếp tục theo dõi câu chuyện, không thể tập trung đủ thời gian để diễn
lại trong đầu cả chuỗi âm thanh đầy đủ ý nghĩa. Muốn nghe hiểu kịp phải tiên đoán
một vài hình thức cấu trúc mà kinh nghiệm cho biết đã xuất hiện trong những hoàn
cảnh tương tự và chú tâm vào những chi tiết thông tin cao, bất ngờ. Người học chỉ
có thực hành nhiều mới có kinh nghiệm nhiều để tiên đoán đúng, nghe hiểu kịp,
vượt qua giai đoạn hiểu được mọi điều đang nghe nhưng không thể nhớ lại để tổng

- 81 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

hợp thành đầy đủ ý nghĩa. Giai đoạn này là tự nhiên trong quá trình luyện nghe, ai
cũng gặp phải. Không nên vì thế mà ngã lòng thối chí.
Phân tích trên cho thấy học nghe một ngôn ngữ có thể coi như gồm hai giai
đoạn:nhận biết và tuyển chọn.
Giai đoạn nhận biết, liên quan đến nhận diện từ và câu trong những tương
quan cấu trúc cú pháp, hòa hợp về thời gian, hạng từ nào bổ nghĩa hạng từ nào,
những phần sáo ngữ, dư thừa; tất cả chiếm hoàn toàn hoạt động tri giác của học
viên.
Giai đoạn tuyển chọn, liên quan đến việc rút ra từ dòng âm thanh những yếu
tố, chi tiết có vẻ diễn đạt mục đích của người nói.
Thực hành rèn luyện kỹ năng nghe
Rèn luyện nghe từ những tài liệu của bài thực hành đọc miệng hoặc bài đọc,
bài viết. Các bài tập tiến hành qua bốn giai đoạn, với hình thức câu nói diễn ra như
thực tiễn, không phải xây dựng gò bó, gượng ép, không đọc chậm lại.
1. Nhận biết
Thực hành phân biết các âm, dấu nhấn, cao độ, ngữ điệu. Học đối thoại để
nhận diện các từ gom thành nhóm (theo hơi thở, gọi là mệnh đề phát âm), các kiểu
ngữ âm và cú pháp, những sáo ngữ hằng ngày.
2. Nhận biết và tuyển chọn không cần ghi nhớ
Nghĩa là nghe để hiểu, không cần trả lời các câu hỏi. Nghe những hoạt cảnh
ngắn miêu tả các nhân vật, nói những câu ngắn lặp lại nhiều lần của đối thoại hằng
ngày. Đọc truyện hoặc kịch trong đó có nhiều đối thoại. Nghe đối thoại nhóm, tập
nghe và nói điện thoại.
3. Nhận biết và tuyển chọn có hướng dẫn và ghi nhớ ngắn hạn
Học viên được chỉ dẫn trước về những gì sắp nghe, tài liệu như giai đoạn 2
nhưng đề tài đa dạng sống động hơn. Học viên có thể được báo trước một vài câu
hỏi để trả lời sau khi nghe xong bài. Đoạn văn nên lặp lại vài lần để thực hành được
nhiều cũng như dễ trả lời.
4. Nhận biết, tuyển chọn và ghi nhớ dài hạn

- 82 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Nghe tự do mọi loại tài liệu học tập, xem kịch phim, nghe đài, diễn
thuyết,chú ý phân biệt các phương ngữ, cũng như làm quen với đủ mọi giọng nói
khác nhau.
Tùy theo trình độ, có thể tóm tắt những hoạt động của mỗi giai đoạn luyện
nghe như sau (theo W.M.Rivers).
Trình độ sơ cấp:
Giai đoạn 1:
Phân biệt âm, các cụm từ ngắn.
Nghe đối thoại đã học.
Nhận biết cụm từ và câu của tài liệu đã học.
Tham gia trò chơi nhận diện từ và cụm từ bằng tai nghe.
Giai đoạn 2:
Nghe những biến đổi của đối thoại đã học.
Nghe tường thuật có biến đổi tài liệu của bài đọc đã học.
Giai đoạn 3:
Bảng câu hỏi “đúng – sai” trước mặt học viên khi nghe những biến đổi của
đối thoại hoặc tài liệu đã học.
Những câu trả lời tùy chọn đối với những câu hỏi miệng với cũng tài liệu
như trên trước mặt học viên khi nghe.
Câu hỏi được cung cấp trước, học viên vừa nghe vừa trả lời bằng tiếng mẹ
đẻ.
Giai đoạn 4:
Hoạt động tương tự như giai đoạn 3, nhưng sau khi đã nghe xong cả bài, học
viên mới trả lời câu hỏi viết trên giấy hay hỏi miệng.
Trình độ trung cấp:
Giai đoạn 1: Giống sơ cấp nhưng khó hơn.
Giai đoạn 2: Giống sơ cấp nhưng khó khăn hơn, thêm các hoạt động sau:
- Giáo viên thuật lại một chuyện vui ngắn vừa xảy ra.
- Giáo viên mở đầu bài học bằng vài sự kiến bối cảnh lý thú tới bài, hoặc học
viên thuật miệng một vài tin đã chuẩn bị trước.

- 83 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

- Giáo viên hoặc học viên đọc truyện có nhiều đối thoại, các học viên khác
ngồi nghe.
- Nghe đàm thoại nhóm do học viên khác chuẩn bị trước.
Giai đoạn 3: Giống sơ cấp nhưng khó khăn hơn. Thêm các hoạt động sau:
- Giáo viên hoặc học viên mô tả nhân vật hoặc địa điểm, các học viên khác
đoán tên nhân vật hoặc địa điểm đó.
- Điền miệng cho đủ những câu thiếu sót (ví dụ: Các định nghĩa, bổ sung
những thông tin về thời gian, mùa, nghề nghiệp…). Câu trả lời được chọn từ
một danh sách viết sẵn phát cho học viên, hoặc trả lời bằng miệng.
Giai đoạn 4: Giống sơ cấp, nhưng học viên có thể trả lời bằng từ ngữ tùy
chọn theo trình độ của mình chuẩn bị cho bài tập nói hoặc viết về sau.
Trình độ cao cấp:
Giai đoạn 1: Phân biệt những khác nhau nhỏ làm thay đổi nghĩa của câu. Ví dụ: Câu
phủ định, nghịch đảo, dạng khác nhau của các câu có ý nghĩa về thời gian…
Giai đoạn 2: Giống trung cấp. Thêm các hoạt động sau:
Nghe giáo viên đọc cả câu truyện mà học viên đã có học từng phần;
Nghe bài học viên khác điện thoại với nhau (có chuẩn bị);
Nghe báo cáo (có chuẩn bị) về một chuyện vui xảy ra;
Nghe đọc thơ, truyện đã học qua băng đĩa.
Giai đoạn 3: Giống trung cấp. Thêm các hoạt động sau:
Điền vào cuối cho thành câu đầy đủ ý nghĩa khi nghe những chuỗi âm thanh
ngày càng dài hơn.
Trả lời câu hỏi kèm theo giải thích lý do, hoàn cảnh.
Trả lời bằng tiếng Việt sau khi nghe những đoạn lời nói dài. Thỉnh thoảng
kết hợp với bài tập trả lời bằng tiếng bản ngữ của học viên.
Kết hợp với đọc chính tả: Giáo viên sơ lược về nhân vật, bối cảnh với hỉnh
ảnh minh họa, và thảo luận xong mới đọc một đoạn chính tả.
Giai đoạn 4:
Sau khi đọc những đoạn dài (truyện ngắn, giai thoại, tài liệu thông tin…),
học viên trả lời câu hỏi từ bảng câu hỏi “đúng – sai” đã cho trước, hoặc bảng trả lời

- 84 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

tùy chọn cũng cho trước. Khuyến khích học viên xem kịch, phim, nghe dài, tham
gia các câu lạc bộ tiếng Việt…
Trong khi tiến hành các bài tập luyện nghe hiểu, cần lưu ý các điểm sau:
- Tốc độ lời nói bình thường, không chậm hoặc nhanh quá, để học viên làm
quen được với thực tiễn một cách chính xác, khi gặp trường hợp thật ngoài đời
sẽ không luống cuống.
- Độ dài mệnh đề phát âm và ngắt nghỉ lâu mau giữa các mệnh đề này, cũng
rất quan trọng. Đề dễ dàng nhận diện, mỗi mệnh đề chỉ nên gồm 5 đến 8 từ, và
ngắt nghỉ hơi lâu một chút để trí óc kịp tổng hợp những gì vừa nghe thành nhóm
có ý nghĩa.
- Tài liệu học tập nên được lặp đi lặp lại và có thể dưới hình thức giải thích
hoặc miêu tả khác đi một chút để dễ nhận diện, gây hứng thú. Nếu đọc tài liệu
mới liên tục, có thể khiến người học khó nhận diện và sinh ra nản chí, bối rối
không lợi cho việc rèn luyện.
- Kỹ năng nghe phải được rèn luyện thường xuyên lâu dài, mỗi ngày một tài
liệu khó hơn, và rèn luyện song song với các kỹ năng khác.
Kết hợp cùng lúc luyện nghe và luyện nói
Thông thường, kĩ thuật dạy học chính là ghi nhớ đối thoại và tập đọc thực
hành mẫu cấu trúc, nhấn mạnh đến rèn luyện nói. Muốn kết hợp với luyện nghe, có
thể tiến hành những bước sau, trong khi tập đọc thực hành đàm thoại và mẫu câu.
1. Trình bày bài đối thoại thành một câu chuyện, dùng từ đơn giản. Giải thích trước
những từ mới trong bài đàm thoại bằng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, từ đồng nghĩa, trái
nghĩa hoặc đơn giản đã học. Lúc này mục đích không phải học nghĩa chính xác của
các từ mà là truyền đạt nội dung tổng quát câu chuyện. Về sau muốn thực hành
thêm kỹ năng nghe hiểu, có thể tô điểm câu chuyện bằng cách dựng nên những sự
việc (của các nhân vật) không có trong bài đàm thoại, và chỉ sử dụng các từ đã học.
2. Trình bày đúng nguyên văn bài đàm thoại, đóng các vai khác nhau. Nếu cần, vẽ
hình trên bảng để cho thấy rõ nhân vật nào đang nói. Ngừng để giải thích từ mới
bằng nét mặt, cử chỉ, từ đơn giản…Học viên chăm chú nghe theo dõi.

- 85 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

3.Trình bày đàm thoại lại một cách liên tục để học viên cảm thấy trong thực tế đàm
thoại diễn ra nhanh như thế nào.
4. Có câu hỏi “đúng- sai” để kiểm tra nghe hiểu của học viên. Giáo viên đọc một hai
câu đàm thoại, theo sau có câu hỏi, học viên viết trả lời trên bảng nhỏ hoặc giấy
trắng, rồi giơ lên cho giáo viên xem. Giáo viên giải đáp câu hỏi, nắm xem tình hình
hiểu bài của học viên, nếu thấy học viên gặp khó khăn, Giáo viên đọc lại câu đàm
thoại nào là câu trả lời đúng, hoặc giáo viên có thể lặp lại cả hoạt động để học viên
tập lại.
5. Lặp lại cả bài đàm thoại, tốc độ bình thường, không ngừng nghỉ, để tập trung
hơn, học viên có thể nhắm mắt lại để nghe khỏi bị phân tán vào việc khác.
6. Chỉ định học viên đóng các vai trong đoạn hội thoại. Đặt những câu hỏi ngoại
ngữ mà học viên tùy theo vai của mình phải trả lời đúng hoặc sai, hoặc trả lời ngắn
gọn, rồi để học viên tự diễn nghĩa là rèn luyện nghe cùng một bài học nhưng dưới
những hình thức khác để cho sống động hơn, bớt nhàm chán.
7. Báo trước sẽ đọc nhanh có có kiểm tra nghe hiểu đi kèm, rồi mới đọc lại cả bài
đàm thoại, học viên nhắm mắt lại tập trung nghe.
8. Ra bài kiểm tra nghe hiểu.
9.Thỉnh thoảng thực hành kiểu ôn tập, dùng các bài đàm thoại đã học trước hoặc
phim ảnh, băng đĩa mới nhưng các từ hầu hết đã học rồi.
Rèn luyện nói tiến hành qua hai giai đoạn
1. Xây dựng thói quen ngôn ngữ một cách máy móc bằng luyện đi luyện lại cho
thuộc làu những kết hợp của tiếng Việt về từ vựng, cấu trúc…, tức là phải thực hành
nhiều những kiểu mẫu ngữ điệu, những câu thực hành mẫu, những chọn lựa ngay
thành các câu đầy đủ ý nghĩa, những mở rộng câu bằng cách thêm bổ ngữ hoặc cụm
từ phụ, những thành ngữ, sáo ngữ…
2. Vận dụng cùng lúc và mau lẹ tất cả những yếu tố ngôn ngữ đã thuộc, để biểu thị ý
tưởng của mình bằng lời nói. Chú ý đến văn phong, các yếu tố về văn hóa trong
ngôn ngữ mà người tham gia đối thoại thể hiện thân mật, bình thường, lạnh lùng,
yêu sách, trang trọng…,cũng như giọng điệu cho thấy tình cảm hay khách quan,
chuyển động cơ bắp, ngừng nghỉ, kéo dài, rung giọng, lớn tiếng, cử chỉ, nét

- 86 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

mặt…thích ứng đi kèm với lời nói. Kỹ thuật tốt nhất là rèn luyện bằng đối thoại,
đàm thoại, đóng vai nhân vật trong một hoàn cảnh xã hội nào đó…rất có ích cho
giao tiếp thực sự ngoài đời.
3.4. Dạy kỹ năng đọc và viết theo phương pháp giao tiếp
Đọc tức là phát triển một loạt phản ứng thói quen đối với tập hợp những chữ
in trước mắt. Tức là biết rút ra ba mức độ ý nghĩa từ những hàng chữ:
- Ý nghĩa từ vựng: Đó là nội dung ngữ nghĩa của từ.
- Ý nghĩa cấu trúc: Đó là thứ tự và liên hệ giữa các từ.
- Ý nghĩa của văn hóa xã hội: Đó là giá trị mà cộng đồng gắn cho từ (chú ý
đến phương ngữ).
Rèn luyện đọc qua sáu giai đoạn từ dễ đến khó
Giai đoạn 1:
Ghi nhớ những câu đối thoại cơ bản. Thực hành đọc các câu này dưới dạng
chữ viết. Cả lớp đọc theo giáo viên rồi chia nhóm nhỏ hơn đọc, cuối cùng là cá nhân
đọc. Khi đọc phải nhìn vào chữ để làm quen với ký hiệu viết của âm thanh, nhận
diện chúng chứ không phải đọc như vẹt vì toàn là những câu đã thuộc, đồng thời
nhận xét mối tương quan giữa kí hiệu và âm thanh, để thấy một âm có thể được ký
hiệu bằng nhiều dạng chính tả khác nhau và ngược lại.
Giai đoạn 2:
Đọc những gì đã ghi nhớ nhưng dưới dạng những kết hợp mới. Đọc các câu
mẫu thực hành khai triển từ các câu đối thoại. Học một số giới hạn từ mới và cấu
trúc biến đổi giản dị. Có thể chuẩn bị trước những từ, trường hợp khó ở phần đầu
bài tập đọc hoặc ở phần cuối của bài học kì trước, rồi sau đó đoạn văn được phát âm
qua thầy giáo hoặc băng. Học viên đọc theo vài lần để nắm chắc không sai khi đọc
một mình. Thảo luận miệng xong, đọc lại bài cho thật đúng và diễn cảm. Mục đích
là đọc đúng âm của chữ viết.
Tập đọc thành từng nhóm chữ đủ ý nghĩa. Đừng đọc từng chữ một, mà phải
xác định xem nó thuộc nhóm chữ nào. Không thể đọc trôi chảy những gì chưa phát
âm được dễ dàng cho nên cần tạo cơ hội tập đọc lớn tiếng thường xuyên những tài
liệu quen thuộc: đó là các đối thoại đã học và các đoạn văn đã đọc. Nếu không rèn

- 87 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

luyện theo cách này mà tìm đọc bất cứ tài liệu nào lạ chưa phát âm quen, phải tra
cứu từ điển liên tục, sẽ có tác dụng không lợi cho việc phát triển thói quen đọc trực
tiếp.
Giai đoạn 3:
Đọc không cần có hướng dẫn của giáo viên. Song song với việc học thêm
được từ vựng và cấu trúc mới, học viên bắt đầu đàm thoại hoặc thuật sự đơn giản,
nội dung hứng thú. Các từ mới gặp trong bài đọc thường được trình bày sao cho có
thể đoán nghĩa từ trong văn mạch, và xuất hiện nhiều lần để ghi sâu trong ký ức.
Cách diễn đạt không nên khó quá mà chỉ ở mức trung bình của lớp. Nội dung là bối
cảnh văn hóa của dân tộc bản xứ, tạo thích thú cho học viên được làm quen với sinh
hoạt nước ngoài.
Cần chú ý tập nhận diện nhanh những dấu hiệu cấu trúc. Khi cố gắng đọc từng
nhóm chữ phải phân biệt ngay được những dấu hiệu về thời giang, phủ định, nghi
vấn, tán thán, từ bổ nghĩa, tương quan nhân quả, điều kiện… Giáo viên có thể đóng
góp bằng chuẩn bị ngắn trước về từ vựng mới, bối cảnh để giới thiệu câu chuyện tạo
hứng khởi. Có khi một phần câu chuyện được đọc đồng thanh cả lớp, hoặc được
diễn tập qua các vai do học viên đảm nhận, sau đó, học viên đọc lại cả câu chuyện
hoặc cả lớp yên lặng đọc theo dõi trong khi giáo viên đọc lớn; hoặc cả lớp gấp sách
lắng nghe giáo viên đọc lại; hoặc cả lớp yên lặng đọc lại câu chuyện trong phạm vi
thời gian giáo viên ấn định.
Giai đoạn 4:
Phân ra hai loại: Đọc tập trung và đọc mở rộng. Đọc tập trung có Giáo viên
hướng dẫn là cơ sở để hiểu rõ những cấu trúc phức tạp, để mở rộng từ vựng, rất có
ích cho hoạt động nói và viết của học viên. Tài liệu học gồm truyện ngắn, trích văn
tiểu thuyết. Kỹ thuật sử dụng có thể gồm bảng câu hỏi, thực hành những mẫu câu,
tập đọc từ vựng, nghiên cứu từ, đọc chính tả và thảo luận tổng quát.
Đọc mở rộng (trình độ thấp hơn đọc tập trung) có mục đích rèn luyện đọc
trực tiếp và trôi chảy tùy theo khả năng của mỗi học viên. Tài liệu học gồm truyện
ngắn, kịch viết trong phạm vi từ vựng lớp học. Nên đọc nhiều, tìm những đề tài
thích thú về cuộc sống hiện tại của cộng đồng người Việt trong sinh hoạt hằng ngày.

- 88 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Đọc không có giáo viên thường xuyên giúp đỡ. Giáo viên khuyến khích đọc
và chỉ cố vấn khi cần. Giáo viên có thể chuẩn bị chỗ khó, khêu gợi hứng thú, đọc
mỗi đoạn văn mở đầu rồi học viên tiếp tục đọc nốt phần còn lại. Nên đọc thầm vì
giúp ích cho việc nhận diện những gì đang đọc. Giáo viên có thể ra những câu hỏi
trước mà những câu trả lời học viên sẽ tìm thấy trong bài đọc. Mỗi đoạn đọc xong
có thể kiểm tra bằng trắc nghiệm hiểu bài, dần dần, sẽ đọc thêm tạp chí, báo viết
riêng cho người học tiếng Việt tùy theo trình độ mỗi người. Không nên đọc những
gì quá cao, vượt ra ngoài trình độ.
Mục đích đọc mở rộng là để giải trí và luyện đọc nhanh nên không cần tỉ mỉ
vì một vài chữ chưa quen. Nếu cần mở rộng từ vựng, thì ghi những câu có chữ đó
vào một tập riêng để sau này xem lại. Không nên chỉ ghi những chữ chưa biết, mà
phải ghi cả câu đủ văn mạch. Không nên cứ mỗi lúc mỗi dừng lại tra cứu tỉ mỉ, làm
giảm hứng thú đọc.
Giai đoạn 5:
Tiếp tục đọc tập trung và đọc mở rộng. Nguyên tắc vẫn là tài liệu đọc tập
trung phải ở trình độ cao hơn đọc mở rộng (tùy theo ý thích và khả năng học viên).
Đọc tập trung phải thảo luận chi tiết, có khi còn mổ xẻ phân tích, và dùng làm cơ sở
cho những bài tập viết, tập nói. Giáo viên cần có nhiều sáng kiến để trình bày bài
đọc cho linh hoạt. Có khi học viên đọc lần đầu tiên tại lớp để hưởng cái thú bất ngờ,
hay là của câu chuyện. Phải đọc cả đoạn để hiểu nghĩa rồi mới nghiên cứu, phân
tích từng chi tiết có tham khảo từ điển tiếng Việt.
Nếu thích đọc văn chương thì nên chọn văn chương đương đại, vì nội dung
đề tài gần gũi với học viên mà cấu trúc câu văn cũng không cầu kỳ, lỗi thời. Khi đã
khá có thể đọc thêm văn chương các thể kỷ 18, 19…Hiểu rõ văn minh văn hóa dân
tộc khác đem lại nhiều thông cảm hơn. Đọc mở rộng có thể chọn nhiều đề tài, tham
khảo Từ Điển bách khoa tiếng Việt, các tạp chí văn học, tạo thói quen sử dụng tiếng
Việt lâu dài về sau.
Giai đoạn 6:
Lúc này học viên đã cảm thấy tự tin, có thể đọc bất cứ sách báo nào tùy
thích, thỉnh thoảng mới phải tra từ điển. Nếu bây giờ có lòng ham mê tìm đọc thì đó

- 89 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

chính là kết quả của rèn luyện đọc có phương pháp từ trước, khiến nay có thể hiểu
nhanh, hiểu thằng. [Viên Quân (1989)]
Về kỹ năng viết
Ta không nên đòi hỏi quá đáng nơi học viên về kỹ năng viết tiếng Việt vì
thực tế cho chúng ta thấy:
1. Nhiều người nói năng lưu loát mà khi cầm bút viết tiếng mẹ đẻ còn cảm thấy khó
khăn, nói chi đến chuyện viết tiếng nước ngoài được dễ dàng.
2. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ học viên viết được dễ dàng. Kỹ năng này cũng chỉ đạt được
sau nhiều rèn luyện cộng với một chút năng khiếu tối thiểu, do đó, đa số học viên
chỉ cần viết được thư từ, báo cáo ngắn là tốt rồi. Thiểu số khá hơn có thể thử
nghiệm hình thức khó hơn như bài trần thuật, nghị luận. Tuy nhiên chỉ nên mong
đợi họ viết đúng, không nên đòi hỏi phải viết một cách bóng bẩy, vì dù rèn luyện
nhiều học viên nói và viết không thể nào bằng người bản xứ được. Nghe và đọc thì
có thể rèn luyện tới mức ngang bằng.
Kỹ năng viết không vì thế mà giảm tầm quan trọng, vì nó củng cố những gì
đã học được trong địa hạt nghe – nói – đọc, tạo cơ hội để thay đổi hoạt động tiếng
Việt và là phương tiện hữu dụng để trắc nghiệm mức tiến bộ qua các bài kiểm tra.
Từ xưa, tập viết được diễn ra dưới nhiều hình thức: Chép bảng đối ứng, làm bài tập
văn phạm, viết bài chính tả, dịch xuôi và dịch ngược, luận văn hướng dẫn hoặc tự
do… Trừ bài luận văn tự do mà ít học viên đạt được nhiều điểm cao, các bài tập
không nhất thiết phải thực sự phản ánh khả năng thấu hiểu và giao tiếp của học
viên. Phải coi chúng chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích của việc học tiếng
Việt. Giá trị của mỗi loại bài tập cần được xem xét trong tương quan với toàn bộ
chương trình phát triển mọi kỹ năng của ngôn ngữ.
Tập viết từ dễ đến khó có những hình thức sau:
- Ký âm: Ghi lại những dấu hiệu quy ước (mẫu tự) để biểu thị âm thanh vừa
nghe. Ở đây chú ý đến liên kết chính tả với âm thanh, không phải tương quan
nội dung ý nghĩa.
- Ký tự: Những cụm từ, thành ngữ có ý nghĩa hoàn chỉnh, học bài tập văn
phạm, bài đối thoại ngắn, bài dịch ngắn.

- 90 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

- Luận văn: Diễn tả tự do ý tưởng sao cho đúng và hay được thì càng tốt. Chú
ý đến khác nhau giữa văn phong nói và viết.
Như vậy học viên phải học mẫu tự mới, viết chữ theo qui ước mới, vận dụng
thành những câu sao cho người đọc hiểu, chọn lựa cách diễn đạt hiệu quả nhất theo
ý muốn. Ba hoạt động trên phải được rèn luyện thật kỹ cho thành thạo để khi bắt tay
vào viết chỉ còn bận tâm đến hoạt động thứ tư.
Tập viết không tách rời các hoạt động nghe – nói – đọc vì nó củng cố các
hoạt động này, viết bổ túc cho đọc và nghe nhiều, đọc nhiều có thể giúp cho viết
hay hơn tuy rằng mỗi người chỉ có thể viết đến một mức giới hạn nào đó thôi. Ngoài
ra, tránh viết quá tự do, nghĩ sao viết vậy, dùng chữ lạ chưa quen sử dụng tìm được
trong từ điển, hoặc viết câu lai căng, thiếu tự nhiên do ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ.
Nghĩa là phải rèn luyện kỹ năng viết có hệ thống để đạt được tiến bộ chắc chắn.
3.5. Những ưu điểm của phương pháp giao tiếp
 Phương pháp giao tiếp là một phương pháp khoa học đáp ứng được tốt nhất
yêu cầu chung của học viên hiện nay đó là nghe và nói.
 Phương pháp giao tiếp góp phần vào việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt
là phương tiện hữu hiệu để giới thiệu lịch sử, văn hóa, nếp sống truyền thống của
con người và đất nước Việt Nam cho bầu bạn trên khắp thế giới.
 Phương pháp giao tiếp còn là phương pháp giúp cho học viên rút ngắn được
thời gian học.
 Bên cạnh đó thì phương pháp giao tiếp còn giúp phát huy tính chủ động,
sáng tạo, tự tin, mạnh dạn, sinh động của học viên.
 Phương pháp giao tiếp: thực hành nhanh, dựa trên sản phẩm giao tiếp của
học viên để sửa chữa, bổ sung, giúp học viên tăng cường phản xạ ngôn ngữ, để làm
được điều này đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư về thời gian và công sức nhiều
hơn (chọn lọc và đa dạng hóa tình huống), giáo viên cần đưa ra những nhận xét
chính xác, kịp thời. Chúng ta biết rằng mục tiêu của việc dạy tiếng ngày nay là đem
lại cho học viên khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ họ đang học, giúp họ sử dụng
ngôn ngữ đó, chứ không trang bị cho họ kiến thức ngôn ngữ để nói về chính bản
thân ngôn ngữ. Sử dụng phương pháp giao tiếp (hay còn gọi là tiến trình tạo hoạt

- 91 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

động dùng ngôn ngữ) giúp cho giáo viên có điều kiện cải thiện kỹ năng giao tiếp
của học viên mình, giúp họ có những cơ hội giao tiếp giống như người bản ngữ, chứ
không phải dùng ngôn ngữ mang tính giáo khoa. Khác với phương pháp dựa vào
cấu trúc, văn phạm, thì phương pháp giao tiếp cho phép giáo viên và học viên
chuyển từ lý thuyết, kiến thức ngôn ngữ đến thực hành sử dụng kiến thức đó trong
tình huống giao tiếp thực trong đời sống xã hội hằng ngày. Nghe – hiểu là một kỹ
năng rất cần thiết khi chúng ta giao tiếp bằng ngoại ngữ (tiếng Việt). Nếu nói tốt mà
nghe không tốt, thì cuộc đối thoại sẽ không thành công, nhưng ngược lại nếu nghe-
hiểu tốt mà nói yếu, thì vẫn có hy vọng là người bản ngữ sẽ đoán ra được những gí
mà mình muốn nói. Nhưng dù sao, tất cả bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết cũng cần
phải được quan tâm đúng mức với sự gia giảm thích hợp tùy mục đích sử dụng và
mục đích của học viên theo học.
3.6. Những đề xuất cho việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bằng
phương pháp giao tiếp
Qua khảo sát và nghiên cứu chúng tôi rút ra được những ưu và khuyết điểm
trong các phương pháp đã và đang được áp dụng trong công tác giãng dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài.
Sau đây chúng tôi xin đóng góp một số ý kiến và đề xuất, theo đó hy vọng
rằng người làm công tác giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bằng phương
pháp giao tiếp có thể tham khảo để áp dụng vào trong việc giảng dạy của mình
nhằm đạt được hiệu quả tốt hơn.
Theo chúng tôi trong quá trình dạy và học tiếng Việt bao gồm bốn yếu tố
quan trọng sau đây: Giáo viên - học viên - sách giáo khoa (tài liệu và dụng cụ hỗ trợ
dạy) -phương pháp dạy - môi trường học.
 Hiện tại, một phần lớn giáo viên dạy tiếng Việt cho người nước ngoài tại
Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng cũng như trong thành phố Hồ Chí Minh chưa
qua đào tạo sư phạm về việc giảng dạy này. Các giáo viên chỉ dựa vào kinh nghiệm
sư phạm dạy ở tiếng Anh, Pháp hoặc Nga, vv... để chuyển sang dạy tiếng Việt. Do
đó, chúng tôi xin đề nghị Bộ GD&ĐT có chương trình đào tạo chuyên ngành trong
lĩnh vực này. Để đáp ứng được nhu cầu trước mắt, thiết nghĩ ngành giáo dục cũng

- 92 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

nên mở những lớp huấn luyện ngắn hạn, dài hạn cho các thầy, cô đang giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài, hiện có nhu cầu huấn luyện này.
 Học viên nước ngoài theo học tiếng Việt tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng
như các tỉnh thành khác đều có mục đích khác nhau, trình độ và tuổi tác khác nhau.
Xuất phát từ nhu cầu đó, các lớp học nên được phân chia theo đối tượng học, mục
đích học, tuổi tác, học ngắn hạn hay dài hạn. Nếu thực hiện được như vậy, thì sẽ tạo
cho lớp học thuận lợi, không chán nản, vui vẻ và tích cực trong việc học của họ.
Học viên phải được dành nhiều thời gian cho việc thực hành giao tiếp.
 Về sách giáo khoa hiện nay có nhiều loại do cá nhân hoặc tập thể hai ba tác
giả ấn bản. Nội dung trong các sách giáo khoa này được biên soạn theo chủ ý của
tác giả hoặc dựa vào nội dung giáo trình (ngoại ngữ) của các tác giả nước ngoài.
Thêm vào đó, các giáo viên lại chọn giáo trình theo ý thích của mình để dạy cho học
viên. Từ đó, mỗi trung tâm, mỗi trường có giáo trình học đều khác nhau, không
thống nhất. Chúng tôi thiển nghĩ rằng sách giáo khoa dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài phải được biên soạn thống nhất bởi một nhóm các chuyên viên giàu kinh
nghiệm về giáo dục, ngôn ngữ, văn hóa v.v… để sớm đưa ra một bộ sách tương đối
thỏa mãn các yêu cầu theo phương pháp giáo tiếp đã được đề cập trên, với mục đích
phục vụ cho việc dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài. Bộ sách nên được
biên soạn từ cấp độ cơ bản cho đến nâng cao, bao gồm các giáo trình cho học viên
chuyên ngành.
 Về phương pháp giao tiếp: Trên cơ sở nhận xét những ưu khuyết điểm từ bốn
phương pháp trên, chúng tôi nhận thấy rằng không có phương pháp nào được xem
là tối ưu nhất. Mỗi phương pháp đều có cái ưu và cái khuyết của nó. Mục tiêu cuối
cùng của hầu hết các phương pháp dạy ngoại ngữ (tiếng Việt) hiện nay là người học
có thể giao tiếp được ngôn ngữ đích. Do vậy, dạy tiếng Việt theo phương pháp giao
tiếp là một hướng đi đúng đắn. Tuy nhiên, bên cạnh phương pháp giao tiếp, giáo
viên còn phải biết vận dụng và kết hợp các phương pháp khác với nhau để nâng cao
hiệu quả giảng dạy, phát huy đến mức cao nhất có thể được, để tạo cho học viên
giao tiếp tự nhiên và hiệu quả bằng tiếng Việt. Ngoài ra, giáo viên cần phải quan
tâm đến kỹ năng đọc, viết cũng như các cấu trúc ngữ pháp từ dễ đến khó vốn được

- 93 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

lồng ghép trong bài học. Giáo viên cần phải cân đối giảng dạy các bình diện ngôn
ngữ và tạo ra một môi trường học tập lý thú, bằng cách vận dụng mọi thao tác
phương tiện, cử chỉ điệu bộ để tăng cường và thúc đẩy các hoạt động giao tiếp. Việc
sử dụng ngôn ngữ trung gian trong dạy tiếng Việt được xem như một công cụ để
hướng dẫn học viên học ngôn ngữ đích, chủ yếu là sử dụng ngôn ngữ trung gian từ
trình độ sơ trung. Ở trình độ nâng cao giáo viên nên hạn chế sử dụng ngôn ngữ
trung gian mà nên tăng cường tiếng Việt trong lớp, với những phương pháp giảng
dạy thích hợp.
 Về giảng dạy phát âm tiếng Việt, phần phát âm và chữ viết tiếng Việt ở phần
đầu giáo trình nên được trình bày theo số lượng vừa phải, từ từ theo từng cụm nhỏ,
phân bố thời gian học thích hợp và được đưa vào giảng dạy ghép nối thông qua các
bài học để đỡ gây nhàm chán và khó khăn cho học viên hầu đưa đến việc dạy và học
tiếng Việt hiệu quả hơn.
Theo chúng tôi, là điều quan trọng nhất, nhất là các học viên mới bắt đầu học tiếng
Việt. Theo kinh nghiệm bản thân, một số học viên học nửa chừng bỏ lớp hoặc một
số khác gặp khó khăn trong việc tiếp tục học nâng cao tiếng Việt được. Lý do có thể
do phương pháp giảng dạy và thời lượng dành cho thực hành phát âm được phân bổ
quá ít so với yêu cầu.
Chúng ta biết rằng họ có thể dùng sai văn phạm trong giao tiếp hằng ngày người
Việt vẫn hiểu họ được, nhưng nếu họ phát âm không đúng và không rõ, thì người
Việt không có thể hiểu những gì họ muốn nói. Điều này cho chúng ta thấy rằng việc
phân phối các tiết học cho các kỹ năng trong chương trình học nên được xem xét lại
cho hợp lý, đặc biệt là ngữ âm. Cho học viên học những từ, cụm từ mang tính “vạn
năng” giúp cho cuộc đàm thoại nâng cao tính tự nhiên và sinh động hơn trong giao
tiếp.
Ví dụ:
- Diễn tả ngạc nhiên, sửng sốt, thất vọng: Chúa tôi, mô Phật, trời ơi, quỷ thật,
chết tiệt, chết tôi, sao đắt thế, làm gì có chuyện này v.v…
 Về lớp học và môi trường học: Học tiếng Việt theo phương pháp giao tiếp
không nên bố trí bàn học trong lớp theo phương pháp truyền thống (ngồi trên là

- 94 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

thầy, ngồi dưới là trò). Với đặc thù của hoạt động ngôn ngữ trong giao tiếp, việc sắp
xếp lớp học phải tạo sự thông thoáng, thoải mái, tránh tiếng ồn, tạo bầu không khí
tích cực, vui tươi. Việc sắp xếp chỗ ngồi cần phải thay đổi cho phù hợp với các hoạt
động cho từng cá nhân, từng nhóm và đôi khi cả lớp (hoạt động lớp theo nội dung
yêu cầu của bài học).
Ví dụ: Tùy theo nội dung yêu cầu, chúng ta có thể sắp xếp theo mô hình lớp học
như sau:
- Từng hai học viên ngồi đối diện hay ngồi song song.
- Ngồi thành từng nhóm (4 đến 5 học viên).
- Cả lớp ngồi thành vòng tròn v.v…
- Số lượng học viên trong một lớp không được quá đông (số lượng lý tưởng một
lớp là 20 học viên).
 Tổ chức các hoạt động ngoại khóa. Một lợi thế để bổ sung cho các học viên
học tiếng Việt tại Sài Gòn ngoài giờ học tại lớp, đó là các buổi sinh hoạt ngoại khóa
như: Tham dự các lễ hội văn hóa, xem phim, kịch, thăm bảo tàng viện, tham dự các
cuộc hội thảo mở rộng, đi chợ, siêu thị, thăm các làng quê, làng nghề, nhà thờ, chùa
chiền, lăng miếu, v.v… Chính các hoạt động ngoại khóa này càng làm tăng lên khả
năng giao tiếp cho học viên. Họ nhận biết được cách sinh hoạt, truyền thống, văn
hóa của người Việt không những qua ngôn ngữ mà còn qua các hoạt động thực tế
diễn ra trong xã hội Việt hằng ngày.
 Cuối cung chúng tôi mong rằng Ban Giám Hiệu Trường xem xét và nghiên
cứu áp dụng phương pháp giao tiếp để giảng dạy cho học viên nước ngoài đến học
tại nhà Trường. Với phương pháp này, tôi tin tưởng số lượng học viên càng ngày
càng thu hút được nhiều hơn.

- 95 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Hình 3.1: BẢNG PHÂN TÍCH SWOT

S (Strengths: điểm mạnh) W(Weaknesses: điểm yếu)

- Đáp ứng được tốt nhất cho nghe và nói. - Giáo viên dạy tiếng Việt chưa qua đào
- Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. tạo sư phạm.
- Phương tiện giới thiệu đất nước Việt
- Chỉ dựa vào kinh nghiệm sư phạm dạy
Nam cho bầu bạn trên khắp thế giới.
ở tiếng Anh, Pháp hoặc Nga, vv…
- Rút ngắn được thời gian học.
- Phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự tin, - Học viên có nhiều khác biệt về tuổi.
mạnh dạn, sinh động của học viên. - Sách giáo khoa chưa được thống nhất
- Thực hành nhanh, dựa trên sản phẩm và chưa soạn theo yêu cầu này.
giao tiếp.
- Cư dân TP. Hồ Chí Minh nói nhiều
giọng khác nhau.

- Học viên nhiều người đi công tác xa


bỏ học giữa chừng.

- Phòng học chật chội chưa bố trí thích


hợp cho dạy giao tiếp.

O (Opprortunities: thời cơ) T (Threats: thách thức)

- Đang có sự hội nhập sâu và rộng. - Từ ngữ giao tiếp dồi dào nhưng các

- Người nước ngoài học tiếng Việt ngày thuật ngữ chuyên ngành thì còn thiếu.

càng đông. - Lớp học thiếu ổn định.

- Yêu cầu học viên ngày càng cao. - Đòi hỏi giáo viên có trình độ vững

- Hội nhập ASEAN, TPP… vàng không những về văn phạm mà còn
về ngoại ngữ.
- Khách du lịch, NCS, sinh viên, chuyên
gia đến Việt Nam thăm quan, công tác, - Dễ có nguy cơ vỡ lớp do học viên bỏ

nghiên cứu. học với nhiều lý do.

- 96 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

TIỂU KẾT

Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, học hành và sinh sống
ngày càng tang lên. Để sống và làm việc tại Việt Nam đòi hỏi người nước ngoài phải
biết tiếng Việt, phải hiểu văn hóa Việt Nam. Do đó, việc học Tiếng Việt là một nhu
cầu không thể thiếu đối với họ. Trong các lớp dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
đã áp dụng nhiều phương pháp. Theo chúng tôi, phương pháp giao tiếp là khoa học
và thực tế áp dụng cho nhu cầu giao tiếp mà hiện nay phương pháp này đã được sử
dụng hầu hết trên khắp thế giới. Tuy nhiên, giáo viên cũng không vì thế mà quá
cứng nhắc luôn bám vào phương pháp này, trái lại phải biết linh hoạt, áp dụng các
ưu điểm của những phương pháp khác để giảng dạy cho học viên, tùy theo trình độ,
mục đích học tiếng Việt của họ, làm sao để học viên đạt được tiến bộ và thành công
cao nhất trong việc học. Giáo viên phải chú trọng nhiều đến kỹ năng nghe-nói, phải
tận dụng mọi thao tác, cử chỉ điệu bộ, phương tiện của mình để tăng cường thúc đẩy
các hoại động về giao tiếp, phải tạo cho lớp học có bầu không khí vui vẻ tích cực, sự
gần gủi, thân mật giữa giáo viên với học viên, giữa học viên với học viên. Tuy kỹ
năng nghe-nói thường xuyên được nhắc đến nhưng giáo viên cũng không xem nhẹ
hai kỹ năng còn lại. Các hoạt động giáo tiếp trong lớp phải dựa vào bối cảnh thực tế
trong sinh hoạt hằng ngày của người Việt. Chúng tôi tin rằng, với sự nỗ lực của
Thầy và trò trong việc dạy và học theo phương pháp giao tiếp sẽ đáp ứng tốt được
yêu cầu của người học, đó là họ gặt hái được thành công trong giao tiếp với người
Việt trong sinh hoạt hằng ngày.

- 97 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

KẾT LUẬN
Đất nước chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tiến trình này đang từng bước làm biến đổi mối
quan hệ giữa con người với môi trường thiên nhiên, văn hóa, xã hội. Sự tác động của
nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã làm thay đổi và mở ra nhiều hướng phát
triển mới trong đời sống và văn hóa của người Việt Nam về cả hai mặt tích cực và
tiêu cực. Nhiều người trên khắp thế giới đã và đang đến với đất nước Việt để tham
quan, đầu tư kinh doanh, học tập, nghiên cứu v.v… . Trong số này có một số đang
theo học các khóa học tiếng Việt ngắn hạn, hoặc dài hạn hoặc các khóa học chuyên
sâu ở các tỉnh, thành lớn trong nước. Để đáp ứng nhu cầu này, nhà nước cần quan
tâm nhiều đến việc đào tạo giáo viên chính quy cho môn học này, cũng như tổ chức
biên tập các giáo trình chuẩn theo yêu cầu trên. Làm được như thế, văn hóa Việt sẽ
được lan truyền rộng rãi để nhiều bạn bè trên thế giới biết đến. Có thể nói rằng đó là
sự quảng bá văn hóa Việt miễn phí nhưng hiệu quả vô cùng lớn. Kết quả của việc
này là học viên nước ngoài học tiếng Việt, sẽ hiểu rõ hơn về tập quán, văn hóa, của
con người Việt cũng như đất nước Việt, giúp họ có thể giao tiếp một cách tự tin,
thành công, trong các sinh hoạt hàng ngày với người Việt. Từ đó họ không bị sốc về
phong tục, tập quán văn hóa của người Việt khi họ đầu tư, làm ăn, sinh sống, và du
lịch trên đất nước Việt Nam.
Rõ ràng, ngôn ngữ không những là một công cụ giúp tháo bỏ những rào cản
về văn hóa mà còn là một phương tiện tốt để giới thiệu đất nước, lịch sử, văn hóa,
con người Việt cho bạn bè khắp năm châu.
Chính vì vậy, việc mở lớp dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đang là một
yêu cầu lớn trong xu thế hiện tại. Câu hỏi đặt ra là phải thay đổi như thế nào để phù
hợp với nhu cầu mới, bởi vì tiếng Việt cũng giống như các ngoại ngữ khác, luôn
luôn phát triển không ngừng về mọi phương diện ngữ âm, ngữ pháp và ngữ thể, đặc
biệt là từ khi có chữ quốc ngữ đến nay.
Các phương pháp dạy ngôn ngữ từ xưa đến nay đã thay đổi rất nhiều theo thời
gian, theo sự thay đổi của xã hội. Học viên nước ngoài theo học tiếng Việt hầu hết
muốn sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, đó là điều trước tiên họ cần đạt được. Như

- 98 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

vậy việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài cần áp dụng theo phương pháp giao
tiếp, đó là một phương pháp đúng, đáp ứng được nhu cầu thực tế mục đích và yêu cầu
của người nước ngoài học tiếng Việt.
Từ bỏ một thói quen lâu đời thật là khó, nhưng tiếp cận một phương thức
mới còn khó hơn. Tuy nhiên dễ hay khó không còn là vấn đề nếu người dạy thấy
được kết quả của việc giảng dạy theo phương pháp mới. Chúng ta cần mạnh dạn
thay đổi và thường xuyên cập nhật kiến thức và phương pháp giảng dạy của mình.
Giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài là để giúp họ dùng tiếng Việt giao tiếp
theo nhu cầu của họ chứ không phải dạy cho họ kiến thức về cấu trúc tiếng Việt mà
trong thực tế họ không cần dùng và cũng không thể dùng được. Với ý nghĩa trên
chúng tôi chọn dạy tiếng Việt theo phương pháp giao tiếp vì kỹ năng nghe và nói là
hai kỹ năng đầu tiên để tiếp cận một ngoại ngữ. Việc giảng dạy tiếng Việt vừa để
đáp ứng nhu cầu giao lưu quốc tế nhất là trong thời kỳ hội nhập vừa góp phần tích
cực vào việc giới thiệu ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam ra các nước trên thế giới
vậy. Để làm được điều này, chính người Việt Nam phải hiểu rõ đất nước, con người
của mình, biết cách gìn giữ, khai thác và phát huy những giá trị di sản truyền thống
của dân tộc, và tìm mọi cách để cho hình ảnh của Việt Nam càng ngày càng được
khẳng định dần trong con mắt bạn bè quốc tế. Trong đó, việc dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài bằng phương pháp giao tiếp, ắt hẳn, nó cũng đóng góp một vai
trò hết sức quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh của đất nước ta đến với các bạn
bè trên khắp năm châu.

- 99 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Lê A (2012), Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt Nam.
[2] Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thy (2012), Ngữ pháp tiếng Việt tập 1, NXB
Giáo dục Việt Nam.
[3] Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thy (2012), Ngữ pháp tiếng Việt tập 2, NXB
Giáo dục Việt Nam.
[4] Diệp Quang Ban (2013), Ngữ pháp Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam.
[5] Đỗ Hữu Châu (2004), Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học Sư
phạm.
[6] Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt. tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ,
NXB Đại Học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[7] Trần Trí Dõi (2011), Giáo trình lịch sử tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt Nam.
[8] Nguyễn Đức Dân (1998), Lô gích và tiếng Việt, NXB Giáo dục.
[9] Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt,NXB Đại Học Quốc gia Hà Nội.
[10] Hữu Đạt (2009),Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp, NXB Giáo dục
Việt
[11] Đinh Văn Đức (1985), Ngữ pháp tiếng Việt- Từ loại, NXB ĐH&THCN, HN.
[12] Phan Văn Giưỡng (2010), Sổ tay giảng dạy tiếng Việt, NXB Văn Hóa Sài
Gòn.
[13] Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.
[14] Nguyễn Thiện Giáp (2010), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục.
[15] Nguyễn Thiện Giáp (2012), Dẫn luận ngôn ngữ, NXB Giáo dục Việt Nam.
[16] Nguyễn Thiện Giáp (Chủ biên) (2005), Lược sử Việt ngữ học - Tập 1, NXB
[17] Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt - Mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, NXB Giáo dục.
[18] Huỳnh Thị Hồng Hạnh - Nguyễn Hữu Chương (2014), Những vấn đề chính
tả tiếng Việt hiện nay, NXB Văn hóa văn nghệ.
[19] Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB Giáo dục.
[20] Nguyễn Chí Hoà (2000), Ngữ pháp tiếng Việt thực hành, NXB Đại Học
Quốc gia Hà Nội.

- 100 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

[21] Phan Khôi (1977), Việt ngữ nghiên cứu, NXB Đà Nẵng.
[22] Viên Quân (1980), Dạy và học ngoại ngữ như thế nào, NXB Khoa học và kỹ
thuật.
[23] Nguyễn Hữu Quỳnh (1994), Tiếng Việt hiện đại, NXB Hà Nội.
[24] Phạm Xuân Thảo (2003), Tự điển đàm thoại Việt – Anh, NXB Thanh Niên.
[25] GS - TS. Bùi Khánh Thế, Đề cương chuyên đề Lịch sử tiếng Việt.
[26] GS - TS. Bùi Khánh Thế, Về một cách tiếp cận đối với môn dẫn luận ngôn
ngữ học.
[27] Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
[28] Bùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, NXB Giáo
dục Việt Nam.
[29] Hoàng Văn Vân (2005), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt, NXB
Khoa học xã hội.
[30] Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam – cái nhìn Địa – Văn Hóa, NXB Văn
Hóa Dân Tộc.
[31] Searl John R. (1969), Speech Acts, Cambridge University Press.
Nguồn internet:
[32] www.123doc.org
[33] https://vi.wikipedia.org
[34] www.voer.edu.vn
[35] www.thuvien.kyna.vn

GIÁO TRÌNH THAM KHẢO


[36] Đại Học Ngoại Ngữ (1995), Giao tiếp bằng tiếng Việt, Hà Nội.
[37] Mai Ngọc Chừ (1996), Học tiếng Việt qua tiếng Anh, NXB Thế giới.
[38] Mai Ngọc Chừ (1995), tiếng Việt cho người nước ngoài (Vietnamse for
foreigners), NXB Giáo dục.
[39] Mai Ngọc Chừ (2011), Học tiếng Việt, NXB Bách khoa Hà Nội.
[40] Phan Văn Dưỡng (1996), Tiếng Việt thực dụng, NXB Đồng Nai.
[41] Phan Văn Dưỡng (1995), tiếng Việt - Vietnamese for beginners 1, 2, NXB

- 101 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

Đồng Nai.
[42] Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2013), Giáo trình tiếng Việt cho người nước
ngoài VSL1, Đại học Khoa học xã hội Nhân Văn.
[43] Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2013), Giáo trình tiếng Việt cho người nước
ngoài VSL2, Đại học Khoa học xã hội Nhân Văn.
[44] Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2013), Giáo trình tiếng Việt cho người nước
ngoài VSL3, Đại học Khoa học xã hội Nhân Văn.
[45] Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên) - Trần Thị Minh Giới - Nguyễn Ngọc Hân -
Thạch Ngọc Minh (2008), Giáo trình Tiếng Việt cho người nước ngoài
(Vietnamse as a second language), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh.
[46] Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2013), Giáo trình tiếng Việt cho người nước
ngoài VSL4, Đại học Khoa học xã hội Nhân Văn.
[47] Vũ Thị Thanh Hương (chủ biên) (2004), tiếng Việt nâng cao dành cho người
nước ngoài, NXB Khoa học Xã hội.
[48] Trí thức Việt (2010), Thực hành nói tiếng Anh, NXB Trí thức Việt.
[49] Lê Khánh Vy (2013), Cẩm nang học tiếng Việt, NXB Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
[50] Laurence C.Thomson (1965), A Vietnamese grammar, NXB University of
Washington Press.
[51] Dana Healy (2011), Tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.

- 102 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

PHỤ LỤC

- 103 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

1, Tác giả và các học viên học tiếng Việt - Ảnh Duy Linh chụp 25/12/2015

2, Các giáo sinh người nước ngoài theo học khóa bồi dưỡng Tiếng Việt tại
Trung Tâm Ngôn Ngữ Quốc Tế Hồng Bàng, Ảnh Duy Linh chụp 25/12/2015

- 104 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

3, Danh sách học viên nước ngoài học tiếng Việt tại Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng.
Ảnh Bạch Thanh Minh chụp ngày 27/12/2015

- 105 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

4, Giao tiếp giữa thầy và trò trong giờ học.


( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

5, Giảng bài trên lớp. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

- 106 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

6, Giao tiếp trong giờ học. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

7, Giáo trình dạy tiếng Việt. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

- 107 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

8, Giáo trình dạy tiếng Việt. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

9, Giáo trình dạy tiếng Việt. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn)

- 108 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

10, Giao tiếp tiếng Việt qua ngữ cảnh. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn

11, Giao tiếp tiếng Việt qua ngữ cảnh. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

- 109 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

12, Giao tiếp tiếng Việt qua ngữ cảnh. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

13, Dạy viết tiếng Việt. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn


)

- 110 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

14, Giao tiếp trực tiếp. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

15, Giao tiếp trong giờ học. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn)

- 111 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

16, Giao tiếp trên lớp. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

17, GS.TS.NGND Đinh Văn Đức (Nguyên Chủ nhiệm Khoa Tiếng Việt, nay là
Khoa Việt Nam học và tiếng Việt) phát biểu tại lễ bế giảng khóa học
( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

- 112 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

18, Lễ bế giảng khóa học. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn )

19, Hình ảnh vui nhộn trong sách Giaó khoa.


( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn
)

- 113 -
Giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài nói tiếng Anh bằng phương pháp giao tiếp

20, Giao tiếp trên lớp học. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn

21, Giao tiếp trực quan. ( Nguồn internet: www.tiengvietonline.com.vn


)

- 114 -

You might also like