Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ THÚY HÀ

BÀI GIẢNG

NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI THỰC VẬT


PHẦN:NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI TẢO

Dùng cho đào tạo Thạc sỹ, chuyên ngành Thực vật học

Nghệ An – 2017
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC SAU ĐẠI HỌC
MÔN HỌC: NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI THỰC VẬT

1. Họ và tên người dạy:


- PHAM HỒNG BAN ; Chức danh, học vị: PGS.TS
- LÊ THỊ THÚY HÀ; Chức danh, học vị: GV.TS
- Địa chỉ: Viện Sư phạm Tự nhiên, Trường Đại học Vinh
2.Tên môn học: NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI THỰC VẬT (Principles of plant
classification)
Chuyên ngành: Thực vật
3.Loại môn học: Môn bắt buộc
4. Mã số môn học:
5. Bộ môn, khoa phụ trách giảng dạy: Bộ môn Thực vật, Viện Sư phạm Tự nhiên
6. Giờ tín chỉ đối với các nội dung của môn học: 3 tín chỉ
+ Giảng lý thuyết: 38
+ Phân tích mẩu ở phòng thí nghiệm: 7
7. Mục tiêu môn học:
- Học viên phải sử dụng được các khoá định loại để xác định được các mẩu nói
riêng và các taxon thực vật nói chung.
- Nắm được luật Quốc tế về danh pháp thực vật.
- Nguyên tắc công bố tên gọi, nguyên tắc ưu tiên và cách trích dẫn tên tác giả, các
tài liệu kèm theo tên gọi.
8. Mô tả môn học:
Chuyên đề nguyên tắc phân loại thực vật nhằm trang bị cho học viên những khái
niệm về phép phân loại và các kiểu khoá phân loại. Những luật Quốc tế về danh pháp
thực vật, các nguyên tắc công bố tên gọi của loài, nguyên tắc ưu tiên và danh pháp của
các taxon.
Vĩ trí phân loại và một số phương pháp nghiên cứu các ngành thực vật
9. Nội dung môn học:
Chương 1. Luật quốc tế về danh pháp thực vật (12 tiết)
1.1. Sơ lược lịch sử của luật danh pháp thực vật
1.2. Nội dung luật danh pháp thực vật
1.2.1. Các nguyên tắc chung
1.2.2. Các bậc phân loại
1.2.3. Nguyên tắc công bố tên gọi
1.2.4. Các loại typ danh pháp
1.2.5. Nguyên tắc ưu tiên.
1.3. Danh pháp của các taxon
1.3.1. Tên của các taxon trên bậc họ
1.3.2. Tên họ và phân họ, tông và phân tông
1.3.3. Tên của chi và những phân nhóm của chi
1.3.4. Tên loài
1.3.5. Tên gọi của taxon dưới bậc loài
1.4. Trích dẫn tên tác giả.và các tài liệu kèm theo tên gọi
1.4.1. Trích tên tác giả
1.4.2. Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi
1.4.3. Công bố có hiệu quả và có giá trị chính xác tên một taxon
1.5. Chính tả về tên, tính ngữ và giống ngữ pháp của tên chi
1.5.1. Chính tả của tên và các tính ngữ
1.5.2. Giống ngữ pháp của tên chi
1.6. Mô ̣t số từ viết tắt và rút ngắn thường được sử dụng
1.7. Mô ̣t số trường hợp đă ̣c biê ̣t
Chương 2. Các dạng sơ đồ hệ thống và các kiểu khoá phân loại (4 tiết)
2.1. Các dạng sơ đồ của hệ thống phát sinh chủng loại
2.2. Các kiểu khoá phân loại
2.2.1. Khoá lượng phân
2.2.2. Cấu tạo của bảng khoá

Chương 3. Mô ̣t số phương pháp cơ bản khi nghiên cứu thực vâ ̣t bâ ̣c cao (14 tiết)
3.1. Nghiên cứu thành phần loài thực vâ ̣t
3.1.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên
3.1.2. Công tác nô ̣i nghiê ̣p
3.2. Nghiên cứu dạng sống thực vâ ̣t
3. 2.1. Các phương pháp nghiên cứu dạng sống thực vâ ̣t
3.2.2. Phân loại dạng sống
3.3. Nghiên cứu quần xã thực vâ ̣t
3.3.1. Đă ̣t và mô tả ô tiêu chuẩn, diê ̣n tích và cách tính
3.3.2. Thống kê thành phần loài trong quần xã thực vâ ̣t
3.3.3. Những bảng biểu để mô tả ô tiêu chuẩn
Chương 4. Phương pháp thu và xử lý mẫu tảo (6 tiết)
4.1. Phương pháp thu mẫu tảo trong các môi trường sống khác nhau
4.2. Phương pháp tách tảo ra khỏi cơ chất
4.3. Phương pháp xử lý mẫu tảo (phục vụ cho công việc định loại)
4.4. Phương pháp đo kích thước tế bào tảo
Chương 5. Tiêu chí để phân loại tảo (9 tiết)
Cần xác định rõ các tiêu chí (dấu hiệu phân loại) cơ bản để phân loại tảo thuộc các
ngành tảo sau:
5.1 Ngành Vi khuẩn lam – Cyanobacteria (= Tảo lam – Cyanophyta)
5. 2. Ngành Tảo Hai rãnh (Dinophyta),
5 3. Ngành Tảo roi không đều (Heterokontophyta)
5.3.1. Lớp Tảo vàng ánh (Chrysophyceae)
5. 3.2.Lớp Tảo vàng lục (Xanthophyceae)
5.3.3. Lớp Tảo silíc (Bacillariophyceae)
5.4. Ngành Tảo mắt (Euglenophyta)
5. 5. Ngành Tảo lục (Chlorophyta)

Bài tập trên phòng thi nghiệm: Phân tích và xác định tên khoa học các loài thực vật
bậc cao (4 tiết) . Phần bậc thấp (3 tiết)

10. Học liệu:


1. J. Hutchinson: Những họ thực vật có hoa T1,T1.Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội,
1978 ( Tài liệu dịch )
2. Phạm Hoàng Hộ: Cây cỏ Việt Nam T1,2,3,4,5,6. Montreal, Pari, 1993.
3. Võ Văn Chi: Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam. NXb Giáo dục, 2007.
4. Nguyễn Tiến Bân: Nguyên tắc phân loại và hệ thống thực vật (Bài giảng sau Đại học).
Hà nội, 1997.
5. Klein R.M, D.T. Klein, Phương pháp nghiên cứu thực vật (Tập 1), Nxb. Khoa học và
kỹ thuật, Hà Nội, 1979
6. Dương Đức Tiến – Võ Hành, Tảo nước ngọt Việt Nam, Phân loại bộ tảo lục
(Chlorococcales), Nxb. Nông nghiệp, Hà nội, 1997
11. Hình thức tổ chức dạy học:
Hình thức
Nội dung Lý Bài tập, Thảo
thuyết tiểu luận luận
Chương 1. Luật quốc tế về danh pháp thực vật (12 10 2
tiết)
1.1. Sơ lược lịch sử của luật danh pháp thực vật
1.2. Nội dung luật danh pháp thực vật
1.2.1. Các nguyên tắc chung
1.2.2. Các bậc phân loại
1.2.3. Nguyên tắc công bố tên gọi
1.2.4. Các loại typ danh pháp
1.2.5. Nguyên tắc ưu tiên.
1.3. Danh pháp của các taxon
1.3.1. Tên của các taxon trên bậc họ
1.3.2. Tên họ và phân họ, tông và phân tông
1.3.3. Tên của chi và những phân nhóm của chi
1.3.4. Tên loài
1.3.5. Tên gọi của taxon dưới bậc loài
1.4. Trích dẫn tên tác giả.và các tài liệu kèm theo tên
gọi
1.4.1. Trích tên tác giả
1.4.2. Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi
1.4.3. Công bố có hiệu quả và có giá trị chính xác tên
một taxon
1.5. Chính tả về tên, tính ngữ và giống ngữ pháp của tên
chi
1.5.1. Chính tả của tên và các tính ngữ
1.5.2. Giống ngữ pháp của tên chi
1.6. Mô ̣t số từ viết tắt và rút ngắn thường được sử dụng
1.7. Mô ̣t số trường hợp đă ̣c biê ̣t

Chương 2. Các dạng sơ đồ hệ thống và các kiểu khoá 4


phân loại
2.1. Các dạng sơ đồ của hệ thống phát sinh chủng loại
2.2. Các kiểu khoá phân loại
Chương 3. Mô ̣t số phương pháp cơ bản khi nghiên 12 2
cứu thực vâ ̣t bâ ̣c cao
3.1. Nghiên cứu thành phần loài thực vâ ̣t
3.1.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên
3.1.2. Công tác nô ̣i nghiê ̣p
3.2. Nghiên cứu dạng sống thực vâ ̣t
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu dạng sống thực vâ ̣t
3.2.2. Phân loại dạng sống
3.3. Nghiên cứu quần xã thực vâ ̣t
3.3.1. Đă ̣t và mô tả ô tiêu chuẩn, diê ̣n tích và cách tính
3.3.2. Thống kê thành phần loài trong quần xã thực vâ ̣t
3.3.3.Những bảng biểu để mô tả ô tiêu chuẩn

.Chương 4. Phương pháp thu và xử lý mẫu tảo


4.1. Phương pháp thu mẫu tảo trong các môi trường
sống khác nhau
4.2. Phương pháp tách tảo ra khỏi cơ chất
4 2
4.3. Phương pháp xử lý mẫu tảo (phục vụ cho công
việc định loại)
4.4. Phương pháp đo kích thước tế bào tảo

Chương 5. Tiêu chí để phân loại tảo


Cần xác định rõ các tiêu chí (dấu hiệu phân loại) cơ
bản để phân loại tảo thuộc các ngành tảo sau:
5.1 Ngành Vi khuẩn lam – Cyanobacteria (= Tảo lam –
Cyanophyta)
5. 2. Ngành Tảo Hai rãnh (Dinophyta),
5 3. Ngành Tảo roi không đều (Heterokontophyta) 6 3
5.3.1. Lớp Tảo vàng ánh (Chrysophyceae)
5. 3.2.Lớp Tảo vàng lục (Xanthophyceae)
5.3.3. Lớp Tảo silíc (Bacillariophyceae)
5.4. Ngành Tảo mắt (Euglenophyta)
5. 5. Ngành Tảo lục (Chlorophyta)

Tổng cộng 36 9
(2 tiết bài tập thực tế trong phòng thi nghiệm bằng 1 tiết chuẩn)
12. Phương pháp đánh giá môn học: số lần kiểm tra, bài tập hoặc tiểu luận, thi, số bài
thực hành, trọng số mỗi lần đánh giá.
12.1.. Kiểm tra-đánh giá định kỳ, bao gồm:
* Chuyên cần và tiểu luận: trọng số 0,3.
* Thi cuối kỳ:trọng số 0,7.
12.2. Tiêu chuẩn đánh giá
Đánh giá theo thang điểm 10/10, điểm đạt yêu cầu là 5.
13. Các quy định khác đối với môn học: (nếu có)
Mỗi học viên nhất thiết phải nắm vững nguyên tắc phân loại và phải xác định
được tên khoa học một số loài thực vật thường gặp.

Hiệu trưởng Trưởng Khoa Giảng viên

PGS. TS. Phạm Hồng Ban

TS. Lê Thị Thúy Hà


NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI THỰC VẬT
NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI TẢO

Chương 4. Phương pháp thu và xử lý mẫu tảo

4.1. Phương pháp thu mẫu tảo trong các môi trường sống khác nhau
4.1.1. Chuẩn bị hóa chất, dụng cụ thu mẫu:
Để thu mẫu có hiệu quả cần phải chuẩn bị hóa chất, dụng cụ
Dụng cụ thu mẫu:
1. Chai, lọ đựng mẫu: tốt nhất lọ màu nâu, có nút mài, 100ml
2. Nhiệt kế
3. Lưu tốc kế để đo tốc độ dòng chảy
4. Giấy đo pH (máy đo pH xách tay)
5. Đĩa shechi
6. Lưới vớt thực vật nổi (phytoplankton), thường sử dụng lưới số 75, tốt nhất sử
dụng lưới kép
7. Batômét để thu mẫu tảo phân tầng
8. Gàu Petecxen để thu mẫu tảo đáy
9. Tỷ trọng kế hoặc thiết bị đo độ muối
10. Xẻng cầm tay để thu mẫu tảo đất
11. Đĩa petri để nuôi cấy tảo đất và phân loại tảo
12. Túi nilon, túi vải để đựng mẫu tảo đất
13. Bút chì 2B, giấy bóng mờ và bút dạ không xóa để ghi nhãn mẫu.
Dung dịch cố định mẫu tảo
a. Dung dịch foocmalin 4% (5ml dung dịch foocmalin đậm đặc + 500ml nước cất).
Ngoài việc giữ nguyên hình dạng, dung dịch này còn làm giảm sự co nguyên sinh
của hầu hết các loài tảo, trừ một vài dạng đơn bào
b. Hỗn hợpfoocmalin – cồn – nước (1V foocmalin đậm đặc: 10V cồn etylic 95%:
10V nước)
c. Hỗn hợp iốt với KI (hòa tan 10g KI trong 100ml nước, cho thêm 3g iốt tinh thể
+ 100ml nước nữa, lắc đều. Thường dùng 1V I-KI: 5V mẫu thu được.

Hình 1: Lưới vớt TVN vàdụng cụ thu mẫu tảo theo tầng

4.1.2.Thu mẫu thực vật nổi:


Thực vật nổi (Phytoplankton) là những sinh vật có khả năng quang tự dưỡng,
sống lơ lửng trong nước, là một thành phần quan trọng tạo nên năng suất sơ cấp
của thủy vực. Để hiểu về chức năng sinh học của hệ sinh thái nước ngọt và tìm ra
sự thay đổi theo thời gian thì việc điều tra sự phát triển của quần xã thực vật nổi là
rất cần thiết vì chúng đặc biệt nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố môi
trường. Việc đo lường thực vật nổi nhằm ước tính độ phong phú toàn diện của
chúng hay chỉ là đếm riêng biệt vài taxa nhất định (ví dụ như vi khuẩn lam). Định
lượng thực vật nổi sẽ cho biết sự hiện hiện và độ phong phú của các loài và thông
tin về tình trạng dinh dưỡng.
4.1.2.1. Cách chọn vị trí thu mẫu
Thu mẫu trong các thủy vực nước đứng (hồ, vũng, phá,…)
- Trong trường hợp hồ cạn (dưới 2m), lấy mẫu ở độ sâu 0,5m bên dưới lớp nước
mặt nếu nước tại đây được hòa trộn tốt. Nếu nước có sự phân tầng hoặc có sự
hiện diện của tảo di động thì mẫu được lấy ở các tầng nước khácnhau.
Thu mẫu ở các thủy vực nước chảy (sông,suối)
- Nếu nước tại thủy vực chảy khá mạnh và có sự hòa trộn tốt, mẫu được thu ở
giữa dòng, ở độ sâu 0,5m bên dưới mặt nước. Nếu không có thuyền thì sẽ thu
mẫu từ trên bờ bằng cách dùng một cây gậy có chiều dài trên3m.
- Nếu nước tại thủy vực chảy chậm và không có sự trộn lẫn tốt, nên thu mẫu ở
tầng nước sâu hơn và ở giữa dòng. Nếu không chắc chắn về sự khác biệt trong
phân bố thực vật nổi dọc theo sông, có thể thu mẫu từ hai bên bờ và giữa dòng
sau đó trộn lẫn các mẫu lại với nhau.
- Thu mẫu toàn cột nước
Trong một số nghiên cứu ở vực nước sâu (như trên các vùng đầm phá, biển), có
sự phân tầng nước đáng kể, khi muốn xác định đầy đủ thành phần phiêu sinh
phân bố trong cột nước thì người ta dùng lưới vớt thực vật nổi thả xuống tới đáy
và kéo lên tới mặtnước.
4.1.2.2.Thu mẫu thực vật nổi
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ hóa chất, dụng cụ và khảo sát địa điểm thu mẫu thì
tiến hành thu mẫu. Các lọ đựng mẫu cần có phiếu thu mẫu chi tiết được sử dụng
để ghi lại những thông tin cần thiết cho việc nhận xét sau này.
Thu mẫu định tính
- Cách đơn giản nhất để lấy mẫu là dùng một lưới tiêu chuẩn với một vật nặng
gắn vào đầu của sợi dây kéo. Bằng cách này có thể kéo lưới ở gần bề mặt hoặc
sâu hơn. Lọ thu mẫu sẽ nhận hầu hết thực vật nổi khi lưới được kéo qua, nhưng
một số tế bào còn lưu lại trên lưới và phải được rửa vào lọ thu mẫu sau khi kéo
lưới. Mẫu thực vật nổi sẽ được thu ở từng độ sâu bằng cách kéo lưới theo chiều
ngang trong khi vật nặng sẽ giữ lưới ở độ sâu đã chọn.
- Đối với nghiên cứu theo tầng thì ta thu mẫu thực vật nổi được thu ở một độ sâu
nhất định bằng cách bơm nước ở độ sâu đã chọn và lọc qua lưới.
- Trong trường hợp kéo lưới theo chiều thẳng đứng, toàn bộ thực vật nổi có
trong cột nước hoặc một phần chiều đứng được lấy mẫu. Lưới được hạ thấp từ
cái neo hay thả trôi đến độ sâu mong muốn và từ từ kéo lên theo chiều thẳng
đứng.
- Trong môi trường nước nghèo phiêu sinh thực vật, thu mẫu phiêu sinh thực vật
với chỉ một lần kéo lưới theo chiều dọc sẽ không đạt hiệu quả. Do vậy một
lượng mẫu lớn hơn ở cùng một tầng nước sẽ được thu theo một đường xiên.
- Tốc độ kéo lưới không vượt quá 1m/giây. Nếu kéo lưới quá nhanh, áp lực trên
lưới có thể sẽ quá cao và do đó làm cho lưới bị rách. Khi sử dụng lưới có kích
thước mắt lưới nhặt (nhỏ hơn 20 µm), nên kéo lưới với tốc độ chậm hơn,
khoảng dưới 0,3 m/giây để làm giảm sự cản trở ở mức tốithiểu.
- Sau khi kéo lưới, thực vật nổi bám trên lưới được rửa và giữ lại bằng cách treo
lưới lên và phun nước phía ngoài hoặc phía trong bề mặt của lưới để gom phiêu
sinh vào lọ thu mẫu (gắn ở đáy lưới).
- Mẫu thực vật nổi sau khi thu sẽ chuyển vào lọ đựng mẫu và được cố định bằng
formol5%.
Thu mẫu định lượng
- Với môi trường giàu dinh dưỡng, giàu thực vật nổi (được thể hiện bởi màu
nước) thì 1 lít thể tích mẫu được thu. Trong môi trường nghèo dinh dưỡng được
thể hiện qua độ trong của nước, cần một thể tích mẫu lớn hơn. Thu mẫu bằng
cách lọc qua lưới và lấy phần cặn có thực vật nổi. Mẫu thu được cố định bằng
formol 5% (hoặc bằng lugol). Lưu ý ghi rõ thể tích nước thu mẫu(V1).
*Phân tích mẫu thực vật nổi
Sử dụng phiếu phân tích mẫu để ghi lại kết quả định tính và định lượng.
Mẫu định tính
Dùng pippet hoặc ống hút lấy 1 giọt mẫu được cho lên lamelle và đậy lamen,
quan sát dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 100 và 400 lần. Sau đó chụp hình, ghi
lại các đặc điểm hình thái, đo kích thước, so với các tài liệu định danh để xác
định tên (loài/chi) của mẫu vật.
Mẫu định lượng
- Mẫu định lượng khi mang về phòng thí nghiệm được cho vào một bình cao
(ống đong) và để cẩn thận không làm xáo trộn và để lắng trong khoảng 1-3 ngày
tùy vào thể tích nước trong ống đong Thường trong thời gian 1 giờ thì lắng được
1cm. Sau khi mẫu đã được lắng, cẩn thận tách bỏ lớp nước phía trên bằng ống
xiphôn. Cẩn thận không phá vỡ hay làm xáo trộn lớp cặn ở đáy.
- Ghi nhận lại thể tích nước mẫu còn lại (V2). Trộn đều lượng mẫu còn lại này
và lấy 1ml trong dung dịch còn lại đó cho vào phòng đếm Sedgwick-Rafter để
xác định mậtđộ.
- Tính kếtquả:
N = (V2*A)/V1
Trong đó:
N: tổng số PSTV có trong 1 lit mẫu (đơn vị là tế bào hay cá thể) A: là số PSTV
đếm được trong 1ml
V1: là thể tích mẫu thu ngoài hiện trường V2: là thể tích mẫu sau khi lắng

Nếu không có phòng đếm Sedgwick-Rafter ta sử dụng phòng đếm hồng cầu
Goriaev.

Phòng đếm Goriaev có 25 ô vuông, mỗi ô có 16 ô vuông nhỏ. Diện tích mỗi ô
vuông nhỏ = 1/400 mm2, h mỗi ô nhỏ = 1/10 mm. Vì vậy thể tích mỗi ô nhỏ V=
1/4000mm3= 1/4.106 cm3. Suy ra thể tích toàn phòng đếm V = 25 X 16/4.10 6cm3 =
100/106 cm3

Giả sử ta đếm trong 25 ô vuông to là m tế bào, vậy trong 1 ml nước mẫu có :

100/106 cm3→ m tế bào

1cm3 (ml) → x tế bào

X= m: 100/106 = m/100 x 106 tế bào/l

Xác định số lượng tảo đất

Tiến hành đếm trực tiếp số lượng tế bào tảo có trong 1 g đất (hoặc 1 cm 3). Muốn
vậy, mẫu đất lấy phải được trộn đều (của 3 mẫu gần nhau tại 1 điểm nghiên cứu),
sau đó cân lấy 1g rồi đếm. Số lần lặp lại không ít hơn 5 lần. Lấy kết quả sau khi đã
xử lý số liệu theo phương pháp xác suất thống kê.

Xác định khối lượng (sinh khối vi tảo)

- Để xác định sinh khối (Biomass) của vi tảo người ta sử dụng phương pháp tính
thể tích các hình khối tương ứng rồi từ đó suy ra khối lượng.
Đối với những loài có hình dạng phức tạp thì phải chia chúng ra các hình khối
tương ứng, sau đó cộng lại để tính thể tích của loài.
Kết quả của mỗi loài được áp dụng cho các điểm nghiên cứu khác nhau nếu ở đó
có loài đó.
Lưu ý:
Khi thu mẫu thực vật nổi thì cần tiến hành đo đồng thời độ trong, hay ghi nhận
các chỉ tiêu hóa lý nước khác: thời gian, nhiệt độ, độ pH, độ muối tan (độ dẫn
diện), cũng như các mô ta khác về đặc trưng vực nước, chế độ dòng chảy, thuỷ
triều (nếu có).
Trong quá trình thu mẫu cần vợt đi vợt lại nhiều lần, sau đó giữ thẳng lưới cho
lọc cho nước chảy đến khi nào chỉ còn một ít ở phía dưới ống thì mở vòi cho chảy
vào trong các lọ đựng mẫu có dán nhãn ghi địa điểm, thời gian thu mẫu… Khi lọc
như thế tảo sẽ bị lắng xuống phía dưới ống phía dưới lưới.
4.1.3. Thu mẫu tảo đất và phân lập chúng:
Dùng thuổng nạo lớp đất bề mặt S=20 x 20cm. Lấy 3 chỗ gần nhau trộn đều lấy 1
mẫu (100g).
Nếu nghiên cứu theo độ sâu: 0, 20, 40, 60, 80cm..
Mẫu lấy đựng vào túi nilon hoặc túi vải, ghi nhãn mẫu, thời gian và địa điểm thu.
Tại phòng thí nghiệm, lấy một ít mẫu rắc thành lớp mỏng lên đáy đĩa Petri (100 x
20 mm) đã khử trùng rồi rắc cát khô đã khử trùng lên thành một lớp dày hơn đất 2,
3 lần. Dùng dung dịch nuôi cấy chuẩn của Knốp:

Ca(NO3) 2 0,25g/l

MgSO4.7H2O 0,06g/l

KH2PO4 0,06g/l

KCl 0,08g/l

Fe2Cl6 1giọt dung dịch 1%

Làm ướt đất (không để nước thừa, ứ đọng lại). Đặt đĩa Petri dưới đèn neon có
cường độ 1.000lux, với quang chu kỳ 18 giờ, nhiệt độ không cao quá 25 0C, thời
gian 1 -2 tuần. sau đó trên bề mặt cát sẽ xuất hiện các tập đoàn tảo. Cẩn thận lấy
chúng ra khỏi mặt cát (bằng que cấy VSV) và chuyển lên vòng trên cùng trong số
5 -7 vòng giấy lọc đã khử trùng rồi xếp chồng nhau vào đĩa Petri khác. Giữ mẫu
giấy trong trạng thái ẩm bằng dung dịch Knốp. Tảo lam sẽ phát triển về phía dưới
qua chồng giấy. Tách lấy 2 -3 lá phía trên ta có thể thu được giống tảo nuôi thuần
khiết, sau đó đưa chúng lên môi trường thạch một lần nữa bằng phương pháp gây
cấy dùng que.

4.1.4. Thu mẫu tảo ở bùn và phân lập chúng

Bùn được lấy từ ao, hồ, sông suối hoặc các vũng chứa nước bẩn trong đó gồm vi
khuẩn tự dưỡng, tảo lam và VK quang hợp. Trộn một ít bùn với giấy lọc có thể tích
tương đương (giấy lọc được ngâm trong nước một vài ngày, sau xé vụn và phơi
khô) ta được một hỗn hợp bùn nhão. Trộn bùn nhão với CaCO 3 có thể tích bằng
nhau. Cho hỗn hợp đó vào ống đong bằng nhựa trong suốt. Sau đó đổ đầy bùn vào
ống, đổ nước ngập bùn và cách bùn khoảng 1-2cm. Dùng đèn (100W) chiếu sang
ống bùn trong 1ngày đêm (khoảng cách đèn và ống chừng 20 – 30cm để tạo nhiệt
độ cao).
Sau 1 vài tuần, các dạng tảo, VK kỵ khí bắt buộc sẽ ở tận đáy ống, nhóm kỵ khí
không bắt buộc ở cao hơn. Còn vi sinh vật quang hợp chỉ ở phía có ánh sang. Khi
hỗn hợp trong ống khô dần, đạt đến trạng thái ẩm ít, ta lấy chúng ra khỏi ống rồi
lấy mẫu ở những vùng khác nhau để tiếp tục phân lập. Bằng cách đó sẽ phân lập
được các loài sống trong bùn đáy.

4.1.5. Thu mẫu tảo bám

Tảo bám là thành phần chiếm ưu thế trong sinh vật bám. Tảo bám có vai trò rất
quan trọng trong hệ sinh thái.Chúng là nguồn carbon sơ cấp ở những hồ cạn và
suối, là nguồn thức ăn cho nhiều động vật. Vật bám của chúng rất đa dạng từ đá,
cát, nền đáy bùn, thực vật (lớn, tảo) hay động vật. Tảo bám thường gặp các ngành
vi khuẩn Lam, tảo silic, tảo lục, tảo đỏ…
Đối với những nghiên cứu chuyên sâu về tảo silic sống bám cần có phương pháp
thu và xử lý mẫu đặc biệt trước khi xác định thành phần và số lượng.
Đối với mẫu định tính tảo bám có thể dùng cách cạo hoặc dùng bàn chải trên
những bề mặt cần thu đối với những cơ chất tự nhiên có bề mặt đồng nhất.
Đối với vật bám (cơ chất) tự nhiên như thực vật thủy sinh, mẫu sinh vật bám có
thể được thu bằng cách cạo, lắc và dùng hóa chất.
Dụng cụ thu mẫu tảo bám
Nhiều loại dụng cụ và kỹ thuật lấy mẫu khác nhau đã được phát triển cho việc thu
thập mẫu tảo bám. Việc chọn lựa dụng cụ và kỹ thuật lấy mẫu phù hợp tùy thuộc
vào điều kiện vật lý của môi trường lấy mẫu (như là độ sâu của nước, vận tốc
dòng chảy và điều kiện môi trường sống) và mẫu thu được dùng cho việc định
tính hay địnhlượng.

a) b)
c)
Hình 2: Một số dụng cụ để thu tảo bám

Thu mẫu định tính


- Mẫu tảo bám định tính có thể được thu bằng cách cạo (hình 2a) hoặc dùng bàn chải
(hình 2b) trên những bề mặt cần thu (đối với cơ chất tự nhiên có bề mặt đồng
nhất) để gom tảo bám.
- Đối với những cơ chất tự nhiên như là thực vật thủy sinh, mẫu sinh vật bám có
thể được thu bằng cách cạo, lắc và dùng hóa chất. Khi cơ chất có hình dạng đồng
nhất, phương pháp cạo thường được sử dụng. Nếu cơ chất có hình dạng không
đồng nhất thì phương pháp lắc thường được sử dụng để tách mẫu vật ra khỏi cơ
chất. Ngoài ra còn có thể sử dụng phương pháp hóa học là dùng dung dịch FAA
(2 formal: 10 ethanol 95%: 1 acid acetic: 7 nước), khuấy cơ chất trong dung dịch
trên để tách tảo bám ra khỏi vật bám đó rồilọc.Nếu cơ chất nhân tạo là những vật
thể rắn được đặt chìm trong nước trong khoảng thời gian từ hai tuần đến 1 tháng
(tùy thuộc vào chất lượng nước, nhiệt độ và mục đích nghiên cứu) để cho tảm
bám lên. Khi thu mẫu, cạo những trầm tích bám trên bề mặt cơ chất.
Mẫu định lượng
Tùy theo hình dạng và bề mặt cơ chất
- Nếu là cơ chất nhân tạo, có thể dễ dàng xác định được diện tích bề mặt của
cơ chất.
- Nếu là dạng cơ chất tự nhiên thì sẽ xác định diện tích bề mặt hoặc
đường kính của cơ chất (đối với các trường hợp đá) hoặc trọng lượng khô
của cơ chất (đối với các trường hợp cơ chất là dạng thực vật thủysinh).
Mẫu thu được cho vào túi nylon hoặc lọ đựng mẫu và lưu trữ bằng formol 5%.
Sau đó mang về phòng thí nghiệm để phân tích.
Phân tích tảo bám
Mẫu định tính
Cho một giọt dung dịch mẫu lên lamme và lamelle rồi quan sát dưới kính hiển
vi, chụp hình và định danh tảo bám dựa vào các tài liệu phân loại tảo bám.
Mẫu định lượng
Đối với mẫu định lượng, dung dịch chứa mẫu khi mang về để lắng và loại bỏ
phần nước trên mặt, xác định chính xác lượng thể tích chứa mẫu còn lại, sau đó
cho 1ml nước mẫu vào phòng đếm Sedgwick-Rafter để xác định số tế bào tảo
bám trong 1ml nước mẫu còn lại và từ đó suy ra được mật độ tảo bám trong 1
đơn vị diện tích (hay trọng lượng) vật bám.
Nếu không có phòng đếm Sedgwick-Rafter ta sử dụng phòng đếm hồng cầu
Goriaev.

4.2. Phương pháp tách tảo ra khỏi cơ chất


- Tảo bám có thể dùng hóa chất FAA (2 formal de huyt: 10 ethanol 95%: 1 axit
axetic: 7 nước khuấy vào dung dịch này để tách khỏi cơ chất.

4.3. Phương pháp xử lý mẫu tảo (phục vụ cho công việc định loại)

- Để định loại tảo silic thì chúng ta phải đốt mẫu. Lấy 1 giọt nước mẫu cho lên
lame và đốt trên bếp điện 4- 6 h, sau đó cố định mẫu bằng baume Canada rồi mới
quan sát dưới kính hiển vi.
- Chúng ta cũng có thể sử dụng cách tẩy vỏ bằng axit
4.4. Phương pháp đo kích thước tế bào tảo
Trong phân loại tảo, một tiêu chí rất quan trọng đó là đo kích thước tế bào. Dạng
đơn bào đo chiều dài và chiều rộng tế bào. Dạng tập đoàn đo chiều dài, chiều
rộng hoặc đường kính tập đoàn và tế bào trong tập đoàn. Khi định loại không bao
giờ được xác định độ dài bằng mắt thường mà phải sử dụng thước đo (cần phải có
trắc vi thị kính, trắc vi vật kính). Thước đo tùy thuộc vào đối tượng nghiên cứu
mà sử dụng cho thích hợp.
- Trắc vi vật kính: thước đo có 100 vạch có tổng độ dài 1000 μm = 1mm
- Trắc vi thị kính cũng có 100 vạch nhưng muốn đo được kích thước ta phải quy
đổi từ trắc vi vật kính.
Đối với những kính hiển vi có phần mềm để đo kích thước thì chúng ta sử dụng
để đo.

Chương 5. Tiêu chí để phân loại tảo


Cần xác định rõ các tiêu chí (dấu hiệu phân loại) cơ bản để phân loại tảo thuộc
các ngành tảo sau:
5.1 Ngành Vi khuẩn lam – Cyanobacteria (= Tảo lam – Cyanophyta)
5. 2. Ngành Tảo Hai rãnh (Dinophyta),
5 3. Ngành Tảo roi không đều (Heterokontophyta)
5.3.1. Lớp Tảo vàng ánh (Chrysophyceae)
5. 3.2. Lớp Tảo vàng lục (Xanthophyceae)
5.3.3. Lớp Tảo silíc (Bacillariophyceae)
5.4. Ngành Tảo mắt (Euglenophyta)
5. 5. Ngành Tảo lục (Chlorophyta)

Phân tích mẫu định tính:

Mục đích: xác định thành phần loài tảo → cần phải sử dụng các khóa định loại
để phân loại:

 Tảo Lam (Cyanophyta): M.M.Gollerbakh và cộng sự (1953), T.V.


Desikachary (1959), Komárek (2009, 2013)
 Tảo vàng ánh (Chrysophyta):A.M.Matvienko và cộng sự (1978)
 Tảo giáp (Pyrrophyta): I.A.Kiseler (1954, 1965),A.M.Matvienko và cộng sự
(1977)
 Tảo vàng lục (Xanthophyta): A.M.Matvienko và cộng sự (1978)
 Tảo silic (Bacillariophyta): N.M. Zabelina và cộng sự (1951)
 Tảo mắt (Euglenophyta) của T.G. Popova và cộng sự (1976)
 Tảo lục (Chlorophyta):Bộ Protococcales của I.T.Philipose (1968), A.
Ergashev (1979, 2 tập)

Bộ Desmidiales: E.K. Kosinski (1968), T.M. Palamar – Mordvinova (1982)

 Tảo vòng (Charophyta) : M.M. Gollerbakh và L.K.Krasavina (1983)

Ngoài ra cần tham khảo thêm các tài liệu sau :

- A. Shirota (1966) : The plankton of South Vietnam, fresh water and marine
water plankton. Oversea Technical Coopertion Agency Japan
- Dương Đức Tiến (1996): Phân loại vi khuẩn lam ở Việt Nam. Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội.

Các khóa trên được thiết lập trên sự đối lập của các dấu hiệu đặc trưng của tảo
để chọn giữa “có” và “không” dẫn đến tên gọi đúng đắn của loài tảo. Khi làm
việc với khóa định loại cần chú ý:
 Do khóa lập ra phải ngắn và chính xác nên người nghiên cứu phải luôn luôn
sử dụng từ điển. Đừng bao giờ cho rằng mình đã biết mọi thuật ngữ đầy đủ,
cho dù là đã quen, hãy kiểm tra ý nghĩa của nó.
 Đối tượng định loại cần phải còn nguyên vẹn
 Luôn luôn phải chú ý đọc thuận tính và đối tính, ngay cả khi cảm thấy mục
đầu là thích hợp, mục thứ hai có thể lại tỏ ra thích hợp hơn
 Không khi nào được đoán nghĩa của thuật ngữ và hãy tìm nghĩa của nó trong
từ điển
 Không bao giờ được xác định độ dài bằng mắt thường mà phải sử dụng
thước đo (cần phải có trắc vi thị kính, trắc vi vật kính). Thước đo tùy thuộc
vào đối tượng nghiên cứu mà sử dụng cho thích hợp.
 Luôn luôn kiểm tra lại dấu hiệu trên một vài cá thể.
 Cuối cùng, khi đã tìm được câu trả lời thích đáng, hãy đọc một cách chăm
chú bảng mô tả loài dù cho sự xác định loài không phạm lỗi.

Một số đặc điểm cần chú ý khi phân loại vi tảo:

- Để công việc định loại có hiệu quả, trước tiên cần nắm vững các kiến thức cơ
bản về các ngành tảo; nắm chắc các khái niệm về các dấu hiệu định loại. Do kích
thước của tảo rất bé nên cần phải kiên trì, chịu khó. Thiếu kiên nhẫn sẽ phương
hại đến kết quả và kế hoạch nghiên cứu thường bị đổ vở.

- Cần chú ý đến màu sắc của tảo để sớm nhận ra chúng thuộc ngành nào. Quan
sát dạng sống: đơn bào hay tập đoàn (colonie), cộng tộc (xenobie), sống bám, tự
do hay cộng sinh…

- Chú ý đến màng tế bào nguyên hay xẻ thùy, có gai, lông, hạt hoặc không và
hình dạng của chúng.

- Hình dạng sắc thể (hình sao, hình chén, hình chuông, hình chữ H, hình xoắn,
hình bản, hình hạt…), vị trí và số lượng của chúng trong tế bào.

5.1. Ngành vi khuẩn lam (Cyanobacteria)

Đối với ngành Vi khuẩn lam cần lưu ý đến:

- Trichom: đó là toàn bộ các tế bào nối tiếp nhau.


- Bao: là lớp màng nhầy mềm hoặc cứng bao quanh trichom (các tri chom xếp
riêng rẽ hay thành nhiều dãy)
- Sợi: là thuật ngữ dung để chỉ một hay nhiều trichom có bao quanh. Trong
trường hợp trong bao có nhiều tri chom thì đó là tập đoàn (colonie) có nhiều
trichom chứ không được xem là một cơ thể riêng biệt. Các tế bào trong
trichom có thể đối xứng hoặc không đối xứng
- Tế bào dị hình hay dị nang (heterocyst): số lượng và vị trí của chúng
- Sự phân nhánh của sợi: nhánh thực, nhánh giả, nhánh chữ V

5.2. Ngành Dinophyta

Đối với ngành tảo giáp (Dinophyta) chú ý đến rãnh ngang, rãnh dọc, điểm mắt,
các mảnh giáp.

5.3. Ngành Heterokontophyta

5.3.1. Lớp tảo vàng ánh (Chrysophyceae)


Hầu hết là đơn bào hay tập đoàn, có thể gặp dạng amip, monat, hạt, chỉ có số
ít dạng sợi hay đa bào. Dạng chuyển động thường có 1 – 2 roi không đều nhau.
Roi nằm ở gần đỉnh tế bào. Điểm mắt nằm trong sắc thể.
Khi môi trường không thuận hợp, tế bào chống chịu bằng cách tạo ra nang
thủng (cystes) có vỏ dày bằng silic, có một cửa và có một nút đậy. Trước khi tạo
nang thủng, roi rụng đi, tế bào trở thành biến hình và vách nang thủng được tạo
ngay trong nguyên sinh chất (nang thủng nội sinh). Nhiều loài hoại sinh.

5.3.2. Lớp tảo vàng lục (Xanthophyceae)


Phần lớn là đơn bào và tập đoàn, dạng hạt. Một số là đa bào dạng sợi đơn
giản hay phân nhánh, dạng ống nhiều nhân. Chỉ có rất ít là dạng mô nát.
       Vách tế bào không có hoặc là bằng cellulose. Vách tế bào là nguyên vẹn, trừ
Tribonema vách tế bào gồm hai mảnh có hình chữ H và bao lấy hai phân nữa
của hai tế bào liên tiếp. Các đơn vị hình chữ H ấy chồng vào nhau cho ra một sợi
(có thể dùng KOH đậm đặc để tách vỏ rời nhau). Các loài là mô nát hay động
bào tử của các dạng không phải mô nát thường có hai roi không đều nhau, cũng
có khi là một hay nhiều roi xếp thành từng đôi không đều nhau đính ở đầu trước.
Roi dài thường có lông và dài hơn roi ngắn 4- 6 lần thường hướng về phía trước,
roi ngắn nhẵn hướng xiên so với trục dọc tế bào hoặc hướng hẳn ra sau. Cấu tạo
roi giống với Chrysophyta ở vùng chuyển tiếp giữa thân roi và chân roi có một
vòng xoắn, nhưng khác với Chrysophyta và Phaeophyta là roi nằm ở đỉnh tế bào
(ở Chrysophyta ở gần đỉnh, còn ở Phaeophyta roi nằm ở phía bên).
Tản có màu xanh hoặc vàng xanh nên khó phân biệt với tảo lục. Về hình
dạng ngoài, có một số chi của ngành Tảo lục rất giống với một số chi của ngành
Tảo vàng lục. Cách loại trừ trước hết là dùng thuốc thử KI. Đối với tảo thuộc
ngành Chlorophyta do có tinh bột nên ngả màu xanh đen, còn ở Xanthophyta do
ít tinh bột nên không ngả màu này.
5.3.3. Lớp tảo silic (Bacillariophyceae)

Đối với lớp tảo silic (Bacillariophyceae): để phân loại phải xử lý mẫu bằng cách
đốt trên bếp điện khoảng 4 -5 h, sau đó dung bom Canada để cố định mẫu. Khi
phân loại cần chú ý:

- Cấu tạo mặt vỏ: hình dạng, đường sống (có hoặc không) và vị trí của nó; kiểu
đường vân (vạch liền, ngắt quãng, dạng buồng nhỏ (areola); số lượng đường vân
trên 10μm; mặt vỏ có u lồi, gai, cánh phù du hay không
- Rãnh thật và rãnh giả: Rãnh thật dùng để chuyển động, nó nối 3 u với nhau, u giữa
phản quang mạnh. Rãnh giả (gặp ít) – đó là tuyến giữa mặt vỏ chạy theo trục dài,
hoàn toàn trơn nhẵn, không có các điểm vân. Hai bên rãnh giả các tuyến vân sắp
xếp đối xứng
- Đai xen kẽ, màng ngăn: Đai xen kẽ là những đường cong bao quanh mặt vòng vỏ
tế bào (có 2 loại đai: đai vẩy cá và đai cổ áo)

- Màng ngăn (Cent) là do các đai xen kẽ dạng cổ áo khi hướng vào phía trong tế
bào phát triển và kéo dài ra tạo nên (toàn bộ ặt trong vỏ hoặc chỉ một phía)

5.3.4. Ngành tảo mắt (Euglenophyta)

Đối với ngành tảo mắt (Euglenophyta) cần chú ý đến các hạt Paramilon, số lượng,
hình dạng và cách sắp xếp của chúng trong tế bào. Chú ý loài có thể biến đổi hình
dạng tế bào hay giữ nguyên hình dạng, có lớp vỏ cứng bao ngoài hay không?

5.3.5. Ngành tảo lục (Chlorophyta)

Đối với ngành tảo lục (Chlorophyta) đa dạng và phong phú nhất, cần lưu ý đến
hình dạng tế bào, sắc thể và vị trí của chúng. Các kiểu sắp xếp của roi (4 kiểu sắp
xếp).
Có ba đặc điểm quan trọng nhất mà khoảng 20 năm trở lại đây được sử dụng
để phân loại tảo lục, đó là :
1. Dựa vào cấu trúc của tế bào mang roi, điều này xuất phát từ ý tưởng cho rằng,
tế bào mang roi là nơi lưu trữ các đặc điểm nguyên thủy nhất.Ví dụ, cấu tạo của
roi kiểu “9 +2” gặp ở hầu hết các cơ thể có nhân thật (tảo, một số nấm, rêu,
dương xỉ, tuế và động vật), và theo truyền thống tảo Chlamydomonas được xem là
đại diện có roi nguyên thủy nhất của ngành tảo lục. Thực tế, trong ngành tảo lục
có ít nhất 4 kiểu tế bào mang roi khác nhau.
2. Dựa vào quá trình nguyên phân (mitosis) và phân bào (cytokinesis).
Quá trình nguyên phân ở tảo lục có thể là nguyên phân mở (open mitosis) hoặc
nguyên phân đóng (closed mitosis).
Nguyên phân mở - nghĩa là khi nhân phân chia thì màng nhân bị phá vỡ và biến
mất ở kỳ đầu và tái lập vào kỳ cuối, ví dụ ở Pyramimonas.
Nguyên phân đóng - thì ngược lại, màng nhân hầu như vẫn còn nguyên vẹn
trong quá trình mitosis, ví dụ ở Chlamydomonas.
Sự phân bào (cytokinesis) - đó là sự phân chia tế bào chất (cytoplasm), nó
thường xẩy ra sau khi nhân đã phân chia xong.
Tuỳ thuộc vào loài mà sự phân bào được thực hiện hoặc là bằng khe cắt
(cleavage furow - nó được hình thành vào trong do màng nguyên sinh chất lấn vào,
việc này được xảy ra vào đầu kỳ giữa – metaphase và kết thúc cùng với sự đứt của
thoi tơ vô sắc ở kỳ cuối – telophase), hoặc là bằng tấm tế bào (cell plate do các túi
lưới nội chất nhẵn nằm ở mặt phân chia tế bào thực hiện). Ví dụ, ở
Chlamydomonas (thuộc bộ Volvocales) phân bào bằng khe cắt, nhưng ở
Cylindrocapsa (thuộc bộ Chlorococcales) lại bằng tấm tế bào.
3. Dựa vào mức độ cấu trúc hình thái của tản, cấu trúc của sắc thể (lục lạp), tổ hợp
của các sắc tố quang hợp, chất dự trữ, cấu tạo của vách tế bào và chu trình sống. ở
tảo lục gặp các mức độ cấu trúc hình thái sau:
- Kiểu đơn bào có roi - monad (ví dụ, ở Chlamydomonas )
- Kiểu tập đoàn có roi ( ở Volvox, Gonium, Eudorina)
- Kiểu tập đoàn palmelloid, hoặc tetrasporal ( Sphaerocystis, Coccomyxa )
- Kiểu coccoid ( ở Chlorococcum, Chlorella, Oocystis )
- Kiểu sarcinoid (giống như 1 bó, gói) ở Chlorosarcinopsis
- Kiểu sợi ( ở Ulothrix, Oedogonium, Spirogyra )
- Kiểu bản ( ở Ulva )
- Kiểu ống - siphonous ( ở Bryopsis, Codium, Caulerpa ).
Theo truyền thống, nguyên tắc cơ bản đựoc sử dụng để phân loại tảo lục là dựa
vào các kiểu cấu trúc hình thái của tản.

Phân tích kết quả


Kết quả phân tích định tính và định lượng sẽ được nhập vào bảng tính Excel.
Sau đó sẽ sắp xếp theo ngành – lớp – bộ – họ (nếu cần) và thống kê có bao
nhiêu ngành, lớp, bộ, họ. Đơn vị tính sẽ là mật độ tảo bám (số tảo/đơn vị diện
tích bề mặt bám), mật độ theo loài trên đơn vị diện tích, tỷ lệ tương quan về
thành phầnloài.

Phương pháp nuôi trồng tảo


Phương pháp nuôi tảo trong phòng thí nghiệm là một quá trình rất phức tạp. Có thể
tạm chia làm 6 bước:
 Thu mẫu nước hoặc mẫu đất, nơi có đối tượng mà người nghiên cứu quan
tâm
 Thu gom một lượng tảo đủ lớn trong vực nước dựa vào thời kỳ sinh trưởng
và phát triển mạnh nhất (nhất là khi “nở hoa nước” ).
 Phân lập loài thuần khiết theo mục đích nghiên cứu
 Loại vi khuẩn khỏi đối tượng nuôi trồng
 Nuôi trồng tảo trong các điều kiện tối ưu hoặc điều kiện khống chế, tùy
thuộc vào mục đích của thí nghiệm
 Lưu và bảo quản giống.
 Khi thực hiện bước 1 và 2 cần chú ý: mẫu tảo nên thu xa bờ để tránh bẩn
(trừ khi cần nghiên cứu loài ở nơi nước bẩn). Về phòng thí nghiệm để mẫu
dưới ánh sáng trắng 2000 – 5000 lux, đối với tảo Protococcales – 5.000 – 10.
000 lux. Trong trường hợp cần nghiên cứu các loài chịu nhiệt thì để ở t 0: 30
– 400C, hoặc đối với các loài ưa lạnh (ví dụ tảo silic) thì hạ t 0 xuống 12 –
150C.
Thời gian thu mẫu tốt nhất từ tháng 4 đến tháng 8 và cần sử dụng môi trường
nuôi cấy thích hợp để chúng phát triển tốt.
Phân lập loài thuần khiết
Từ mẫu thu gom ở bước 2, ta phân lập mẫu thuần khiết (chỉ 1 loài tảo theo yêu
cầu thí nghiệm)
Loài nuôi cấy tốt nhất là từ một tế bào. Đây là bước khó khăn nhất. Thông
thường người ta sử dụng phương pháp cấy truyền trên môi trường thạch agar –
agar. Qua nhiều lần cấy truyền sẽ phân lập được loài cần thiết.
Công việc này có thể làm bằng cách:
* Chuẩn bị môi trường thạch agar, đổ vào đĩa Petri rồi lấy 1 ml nước mẫu đổ
vào, để dưới giàn đèn, sau một thời gian tập đoàn tảo sẽ phát triển, dung kính
lúp và que cấy lấy một số chuyển sang cấy tiếp. Vàcứ tiếp tục cho đến khi tuyển
được loài cần thiết.
* Dùng ống hút ở micro (micro pipet) tự tạo bằng cách đun ống thủy tinh mỏng
trên đèn cồn hoặc đèn hơi, khi thủy tinh nóng chảy thì dùng 2 tay kéo 2 đầu ống,
ta được 2 ống hút rất nhỏ.
Đem mẫu nước có tảo lên kính hai mắt, quan sát khi phát hiện đúng loài cần
phân lập, dung ống hút, hút nó và chuyển vào môi trường thạch nuôi cấy. Nên
làm nhiều đĩa Petri (và cả vào môi trường nuôi cấy lỏng). Sau một thời gian khi
tảo phát triển, kiểm tra qua kính và dung que cấy lấy đúng loài cần thiết lại tiếp
tục cấy truyền (cả 2 loại môi trường). Từ đó ta sẽ được một quần thể của loài
mong muốn. Sau đó chuyển vào môi trường cấy để nhân giống.
Để có cá thể cùng kích thước cần lọc qua giấy lọc thường hoặc phễu lọc Sotte
(N0 1 - 4). Khi nuôi cấy tảo mỗi ngày cần lắc đều bình nuôi 1 – 2 lần để tránh
tảo vón vào nhau.

Môi trường nuôi cấy: tùy đối tượng nghiên cứu có môi trường nuôi cấy phù hợp.

You might also like