Professional Documents
Culture Documents
Nguyên tắc PLTV tảo
Nguyên tắc PLTV tảo
LÊ THỊ THÚY HÀ
BÀI GIẢNG
Dùng cho đào tạo Thạc sỹ, chuyên ngành Thực vật học
Nghệ An – 2017
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC SAU ĐẠI HỌC
MÔN HỌC: NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI THỰC VẬT
Chương 3. Mô ̣t số phương pháp cơ bản khi nghiên cứu thực vâ ̣t bâ ̣c cao (14 tiết)
3.1. Nghiên cứu thành phần loài thực vâ ̣t
3.1.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên
3.1.2. Công tác nô ̣i nghiê ̣p
3.2. Nghiên cứu dạng sống thực vâ ̣t
3. 2.1. Các phương pháp nghiên cứu dạng sống thực vâ ̣t
3.2.2. Phân loại dạng sống
3.3. Nghiên cứu quần xã thực vâ ̣t
3.3.1. Đă ̣t và mô tả ô tiêu chuẩn, diê ̣n tích và cách tính
3.3.2. Thống kê thành phần loài trong quần xã thực vâ ̣t
3.3.3. Những bảng biểu để mô tả ô tiêu chuẩn
Chương 4. Phương pháp thu và xử lý mẫu tảo (6 tiết)
4.1. Phương pháp thu mẫu tảo trong các môi trường sống khác nhau
4.2. Phương pháp tách tảo ra khỏi cơ chất
4.3. Phương pháp xử lý mẫu tảo (phục vụ cho công việc định loại)
4.4. Phương pháp đo kích thước tế bào tảo
Chương 5. Tiêu chí để phân loại tảo (9 tiết)
Cần xác định rõ các tiêu chí (dấu hiệu phân loại) cơ bản để phân loại tảo thuộc các
ngành tảo sau:
5.1 Ngành Vi khuẩn lam – Cyanobacteria (= Tảo lam – Cyanophyta)
5. 2. Ngành Tảo Hai rãnh (Dinophyta),
5 3. Ngành Tảo roi không đều (Heterokontophyta)
5.3.1. Lớp Tảo vàng ánh (Chrysophyceae)
5. 3.2.Lớp Tảo vàng lục (Xanthophyceae)
5.3.3. Lớp Tảo silíc (Bacillariophyceae)
5.4. Ngành Tảo mắt (Euglenophyta)
5. 5. Ngành Tảo lục (Chlorophyta)
Bài tập trên phòng thi nghiệm: Phân tích và xác định tên khoa học các loài thực vật
bậc cao (4 tiết) . Phần bậc thấp (3 tiết)
Tổng cộng 36 9
(2 tiết bài tập thực tế trong phòng thi nghiệm bằng 1 tiết chuẩn)
12. Phương pháp đánh giá môn học: số lần kiểm tra, bài tập hoặc tiểu luận, thi, số bài
thực hành, trọng số mỗi lần đánh giá.
12.1.. Kiểm tra-đánh giá định kỳ, bao gồm:
* Chuyên cần và tiểu luận: trọng số 0,3.
* Thi cuối kỳ:trọng số 0,7.
12.2. Tiêu chuẩn đánh giá
Đánh giá theo thang điểm 10/10, điểm đạt yêu cầu là 5.
13. Các quy định khác đối với môn học: (nếu có)
Mỗi học viên nhất thiết phải nắm vững nguyên tắc phân loại và phải xác định
được tên khoa học một số loài thực vật thường gặp.
4.1. Phương pháp thu mẫu tảo trong các môi trường sống khác nhau
4.1.1. Chuẩn bị hóa chất, dụng cụ thu mẫu:
Để thu mẫu có hiệu quả cần phải chuẩn bị hóa chất, dụng cụ
Dụng cụ thu mẫu:
1. Chai, lọ đựng mẫu: tốt nhất lọ màu nâu, có nút mài, 100ml
2. Nhiệt kế
3. Lưu tốc kế để đo tốc độ dòng chảy
4. Giấy đo pH (máy đo pH xách tay)
5. Đĩa shechi
6. Lưới vớt thực vật nổi (phytoplankton), thường sử dụng lưới số 75, tốt nhất sử
dụng lưới kép
7. Batômét để thu mẫu tảo phân tầng
8. Gàu Petecxen để thu mẫu tảo đáy
9. Tỷ trọng kế hoặc thiết bị đo độ muối
10. Xẻng cầm tay để thu mẫu tảo đất
11. Đĩa petri để nuôi cấy tảo đất và phân loại tảo
12. Túi nilon, túi vải để đựng mẫu tảo đất
13. Bút chì 2B, giấy bóng mờ và bút dạ không xóa để ghi nhãn mẫu.
Dung dịch cố định mẫu tảo
a. Dung dịch foocmalin 4% (5ml dung dịch foocmalin đậm đặc + 500ml nước cất).
Ngoài việc giữ nguyên hình dạng, dung dịch này còn làm giảm sự co nguyên sinh
của hầu hết các loài tảo, trừ một vài dạng đơn bào
b. Hỗn hợpfoocmalin – cồn – nước (1V foocmalin đậm đặc: 10V cồn etylic 95%:
10V nước)
c. Hỗn hợp iốt với KI (hòa tan 10g KI trong 100ml nước, cho thêm 3g iốt tinh thể
+ 100ml nước nữa, lắc đều. Thường dùng 1V I-KI: 5V mẫu thu được.
Hình 1: Lưới vớt TVN vàdụng cụ thu mẫu tảo theo tầng
Nếu không có phòng đếm Sedgwick-Rafter ta sử dụng phòng đếm hồng cầu
Goriaev.
Phòng đếm Goriaev có 25 ô vuông, mỗi ô có 16 ô vuông nhỏ. Diện tích mỗi ô
vuông nhỏ = 1/400 mm2, h mỗi ô nhỏ = 1/10 mm. Vì vậy thể tích mỗi ô nhỏ V=
1/4000mm3= 1/4.106 cm3. Suy ra thể tích toàn phòng đếm V = 25 X 16/4.10 6cm3 =
100/106 cm3
Tiến hành đếm trực tiếp số lượng tế bào tảo có trong 1 g đất (hoặc 1 cm 3). Muốn
vậy, mẫu đất lấy phải được trộn đều (của 3 mẫu gần nhau tại 1 điểm nghiên cứu),
sau đó cân lấy 1g rồi đếm. Số lần lặp lại không ít hơn 5 lần. Lấy kết quả sau khi đã
xử lý số liệu theo phương pháp xác suất thống kê.
- Để xác định sinh khối (Biomass) của vi tảo người ta sử dụng phương pháp tính
thể tích các hình khối tương ứng rồi từ đó suy ra khối lượng.
Đối với những loài có hình dạng phức tạp thì phải chia chúng ra các hình khối
tương ứng, sau đó cộng lại để tính thể tích của loài.
Kết quả của mỗi loài được áp dụng cho các điểm nghiên cứu khác nhau nếu ở đó
có loài đó.
Lưu ý:
Khi thu mẫu thực vật nổi thì cần tiến hành đo đồng thời độ trong, hay ghi nhận
các chỉ tiêu hóa lý nước khác: thời gian, nhiệt độ, độ pH, độ muối tan (độ dẫn
diện), cũng như các mô ta khác về đặc trưng vực nước, chế độ dòng chảy, thuỷ
triều (nếu có).
Trong quá trình thu mẫu cần vợt đi vợt lại nhiều lần, sau đó giữ thẳng lưới cho
lọc cho nước chảy đến khi nào chỉ còn một ít ở phía dưới ống thì mở vòi cho chảy
vào trong các lọ đựng mẫu có dán nhãn ghi địa điểm, thời gian thu mẫu… Khi lọc
như thế tảo sẽ bị lắng xuống phía dưới ống phía dưới lưới.
4.1.3. Thu mẫu tảo đất và phân lập chúng:
Dùng thuổng nạo lớp đất bề mặt S=20 x 20cm. Lấy 3 chỗ gần nhau trộn đều lấy 1
mẫu (100g).
Nếu nghiên cứu theo độ sâu: 0, 20, 40, 60, 80cm..
Mẫu lấy đựng vào túi nilon hoặc túi vải, ghi nhãn mẫu, thời gian và địa điểm thu.
Tại phòng thí nghiệm, lấy một ít mẫu rắc thành lớp mỏng lên đáy đĩa Petri (100 x
20 mm) đã khử trùng rồi rắc cát khô đã khử trùng lên thành một lớp dày hơn đất 2,
3 lần. Dùng dung dịch nuôi cấy chuẩn của Knốp:
Ca(NO3) 2 0,25g/l
MgSO4.7H2O 0,06g/l
KH2PO4 0,06g/l
KCl 0,08g/l
Làm ướt đất (không để nước thừa, ứ đọng lại). Đặt đĩa Petri dưới đèn neon có
cường độ 1.000lux, với quang chu kỳ 18 giờ, nhiệt độ không cao quá 25 0C, thời
gian 1 -2 tuần. sau đó trên bề mặt cát sẽ xuất hiện các tập đoàn tảo. Cẩn thận lấy
chúng ra khỏi mặt cát (bằng que cấy VSV) và chuyển lên vòng trên cùng trong số
5 -7 vòng giấy lọc đã khử trùng rồi xếp chồng nhau vào đĩa Petri khác. Giữ mẫu
giấy trong trạng thái ẩm bằng dung dịch Knốp. Tảo lam sẽ phát triển về phía dưới
qua chồng giấy. Tách lấy 2 -3 lá phía trên ta có thể thu được giống tảo nuôi thuần
khiết, sau đó đưa chúng lên môi trường thạch một lần nữa bằng phương pháp gây
cấy dùng que.
Bùn được lấy từ ao, hồ, sông suối hoặc các vũng chứa nước bẩn trong đó gồm vi
khuẩn tự dưỡng, tảo lam và VK quang hợp. Trộn một ít bùn với giấy lọc có thể tích
tương đương (giấy lọc được ngâm trong nước một vài ngày, sau xé vụn và phơi
khô) ta được một hỗn hợp bùn nhão. Trộn bùn nhão với CaCO 3 có thể tích bằng
nhau. Cho hỗn hợp đó vào ống đong bằng nhựa trong suốt. Sau đó đổ đầy bùn vào
ống, đổ nước ngập bùn và cách bùn khoảng 1-2cm. Dùng đèn (100W) chiếu sang
ống bùn trong 1ngày đêm (khoảng cách đèn và ống chừng 20 – 30cm để tạo nhiệt
độ cao).
Sau 1 vài tuần, các dạng tảo, VK kỵ khí bắt buộc sẽ ở tận đáy ống, nhóm kỵ khí
không bắt buộc ở cao hơn. Còn vi sinh vật quang hợp chỉ ở phía có ánh sang. Khi
hỗn hợp trong ống khô dần, đạt đến trạng thái ẩm ít, ta lấy chúng ra khỏi ống rồi
lấy mẫu ở những vùng khác nhau để tiếp tục phân lập. Bằng cách đó sẽ phân lập
được các loài sống trong bùn đáy.
Tảo bám là thành phần chiếm ưu thế trong sinh vật bám. Tảo bám có vai trò rất
quan trọng trong hệ sinh thái.Chúng là nguồn carbon sơ cấp ở những hồ cạn và
suối, là nguồn thức ăn cho nhiều động vật. Vật bám của chúng rất đa dạng từ đá,
cát, nền đáy bùn, thực vật (lớn, tảo) hay động vật. Tảo bám thường gặp các ngành
vi khuẩn Lam, tảo silic, tảo lục, tảo đỏ…
Đối với những nghiên cứu chuyên sâu về tảo silic sống bám cần có phương pháp
thu và xử lý mẫu đặc biệt trước khi xác định thành phần và số lượng.
Đối với mẫu định tính tảo bám có thể dùng cách cạo hoặc dùng bàn chải trên
những bề mặt cần thu đối với những cơ chất tự nhiên có bề mặt đồng nhất.
Đối với vật bám (cơ chất) tự nhiên như thực vật thủy sinh, mẫu sinh vật bám có
thể được thu bằng cách cạo, lắc và dùng hóa chất.
Dụng cụ thu mẫu tảo bám
Nhiều loại dụng cụ và kỹ thuật lấy mẫu khác nhau đã được phát triển cho việc thu
thập mẫu tảo bám. Việc chọn lựa dụng cụ và kỹ thuật lấy mẫu phù hợp tùy thuộc
vào điều kiện vật lý của môi trường lấy mẫu (như là độ sâu của nước, vận tốc
dòng chảy và điều kiện môi trường sống) và mẫu thu được dùng cho việc định
tính hay địnhlượng.
a) b)
c)
Hình 2: Một số dụng cụ để thu tảo bám
4.3. Phương pháp xử lý mẫu tảo (phục vụ cho công việc định loại)
- Để định loại tảo silic thì chúng ta phải đốt mẫu. Lấy 1 giọt nước mẫu cho lên
lame và đốt trên bếp điện 4- 6 h, sau đó cố định mẫu bằng baume Canada rồi mới
quan sát dưới kính hiển vi.
- Chúng ta cũng có thể sử dụng cách tẩy vỏ bằng axit
4.4. Phương pháp đo kích thước tế bào tảo
Trong phân loại tảo, một tiêu chí rất quan trọng đó là đo kích thước tế bào. Dạng
đơn bào đo chiều dài và chiều rộng tế bào. Dạng tập đoàn đo chiều dài, chiều
rộng hoặc đường kính tập đoàn và tế bào trong tập đoàn. Khi định loại không bao
giờ được xác định độ dài bằng mắt thường mà phải sử dụng thước đo (cần phải có
trắc vi thị kính, trắc vi vật kính). Thước đo tùy thuộc vào đối tượng nghiên cứu
mà sử dụng cho thích hợp.
- Trắc vi vật kính: thước đo có 100 vạch có tổng độ dài 1000 μm = 1mm
- Trắc vi thị kính cũng có 100 vạch nhưng muốn đo được kích thước ta phải quy
đổi từ trắc vi vật kính.
Đối với những kính hiển vi có phần mềm để đo kích thước thì chúng ta sử dụng
để đo.
Mục đích: xác định thành phần loài tảo → cần phải sử dụng các khóa định loại
để phân loại:
- A. Shirota (1966) : The plankton of South Vietnam, fresh water and marine
water plankton. Oversea Technical Coopertion Agency Japan
- Dương Đức Tiến (1996): Phân loại vi khuẩn lam ở Việt Nam. Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội.
Các khóa trên được thiết lập trên sự đối lập của các dấu hiệu đặc trưng của tảo
để chọn giữa “có” và “không” dẫn đến tên gọi đúng đắn của loài tảo. Khi làm
việc với khóa định loại cần chú ý:
Do khóa lập ra phải ngắn và chính xác nên người nghiên cứu phải luôn luôn
sử dụng từ điển. Đừng bao giờ cho rằng mình đã biết mọi thuật ngữ đầy đủ,
cho dù là đã quen, hãy kiểm tra ý nghĩa của nó.
Đối tượng định loại cần phải còn nguyên vẹn
Luôn luôn phải chú ý đọc thuận tính và đối tính, ngay cả khi cảm thấy mục
đầu là thích hợp, mục thứ hai có thể lại tỏ ra thích hợp hơn
Không khi nào được đoán nghĩa của thuật ngữ và hãy tìm nghĩa của nó trong
từ điển
Không bao giờ được xác định độ dài bằng mắt thường mà phải sử dụng
thước đo (cần phải có trắc vi thị kính, trắc vi vật kính). Thước đo tùy thuộc
vào đối tượng nghiên cứu mà sử dụng cho thích hợp.
Luôn luôn kiểm tra lại dấu hiệu trên một vài cá thể.
Cuối cùng, khi đã tìm được câu trả lời thích đáng, hãy đọc một cách chăm
chú bảng mô tả loài dù cho sự xác định loài không phạm lỗi.
- Để công việc định loại có hiệu quả, trước tiên cần nắm vững các kiến thức cơ
bản về các ngành tảo; nắm chắc các khái niệm về các dấu hiệu định loại. Do kích
thước của tảo rất bé nên cần phải kiên trì, chịu khó. Thiếu kiên nhẫn sẽ phương
hại đến kết quả và kế hoạch nghiên cứu thường bị đổ vở.
- Cần chú ý đến màu sắc của tảo để sớm nhận ra chúng thuộc ngành nào. Quan
sát dạng sống: đơn bào hay tập đoàn (colonie), cộng tộc (xenobie), sống bám, tự
do hay cộng sinh…
- Chú ý đến màng tế bào nguyên hay xẻ thùy, có gai, lông, hạt hoặc không và
hình dạng của chúng.
- Hình dạng sắc thể (hình sao, hình chén, hình chuông, hình chữ H, hình xoắn,
hình bản, hình hạt…), vị trí và số lượng của chúng trong tế bào.
Đối với ngành tảo giáp (Dinophyta) chú ý đến rãnh ngang, rãnh dọc, điểm mắt,
các mảnh giáp.
Đối với lớp tảo silic (Bacillariophyceae): để phân loại phải xử lý mẫu bằng cách
đốt trên bếp điện khoảng 4 -5 h, sau đó dung bom Canada để cố định mẫu. Khi
phân loại cần chú ý:
- Cấu tạo mặt vỏ: hình dạng, đường sống (có hoặc không) và vị trí của nó; kiểu
đường vân (vạch liền, ngắt quãng, dạng buồng nhỏ (areola); số lượng đường vân
trên 10μm; mặt vỏ có u lồi, gai, cánh phù du hay không
- Rãnh thật và rãnh giả: Rãnh thật dùng để chuyển động, nó nối 3 u với nhau, u giữa
phản quang mạnh. Rãnh giả (gặp ít) – đó là tuyến giữa mặt vỏ chạy theo trục dài,
hoàn toàn trơn nhẵn, không có các điểm vân. Hai bên rãnh giả các tuyến vân sắp
xếp đối xứng
- Đai xen kẽ, màng ngăn: Đai xen kẽ là những đường cong bao quanh mặt vòng vỏ
tế bào (có 2 loại đai: đai vẩy cá và đai cổ áo)
- Màng ngăn (Cent) là do các đai xen kẽ dạng cổ áo khi hướng vào phía trong tế
bào phát triển và kéo dài ra tạo nên (toàn bộ ặt trong vỏ hoặc chỉ một phía)
Đối với ngành tảo mắt (Euglenophyta) cần chú ý đến các hạt Paramilon, số lượng,
hình dạng và cách sắp xếp của chúng trong tế bào. Chú ý loài có thể biến đổi hình
dạng tế bào hay giữ nguyên hình dạng, có lớp vỏ cứng bao ngoài hay không?
Đối với ngành tảo lục (Chlorophyta) đa dạng và phong phú nhất, cần lưu ý đến
hình dạng tế bào, sắc thể và vị trí của chúng. Các kiểu sắp xếp của roi (4 kiểu sắp
xếp).
Có ba đặc điểm quan trọng nhất mà khoảng 20 năm trở lại đây được sử dụng
để phân loại tảo lục, đó là :
1. Dựa vào cấu trúc của tế bào mang roi, điều này xuất phát từ ý tưởng cho rằng,
tế bào mang roi là nơi lưu trữ các đặc điểm nguyên thủy nhất.Ví dụ, cấu tạo của
roi kiểu “9 +2” gặp ở hầu hết các cơ thể có nhân thật (tảo, một số nấm, rêu,
dương xỉ, tuế và động vật), và theo truyền thống tảo Chlamydomonas được xem là
đại diện có roi nguyên thủy nhất của ngành tảo lục. Thực tế, trong ngành tảo lục
có ít nhất 4 kiểu tế bào mang roi khác nhau.
2. Dựa vào quá trình nguyên phân (mitosis) và phân bào (cytokinesis).
Quá trình nguyên phân ở tảo lục có thể là nguyên phân mở (open mitosis) hoặc
nguyên phân đóng (closed mitosis).
Nguyên phân mở - nghĩa là khi nhân phân chia thì màng nhân bị phá vỡ và biến
mất ở kỳ đầu và tái lập vào kỳ cuối, ví dụ ở Pyramimonas.
Nguyên phân đóng - thì ngược lại, màng nhân hầu như vẫn còn nguyên vẹn
trong quá trình mitosis, ví dụ ở Chlamydomonas.
Sự phân bào (cytokinesis) - đó là sự phân chia tế bào chất (cytoplasm), nó
thường xẩy ra sau khi nhân đã phân chia xong.
Tuỳ thuộc vào loài mà sự phân bào được thực hiện hoặc là bằng khe cắt
(cleavage furow - nó được hình thành vào trong do màng nguyên sinh chất lấn vào,
việc này được xảy ra vào đầu kỳ giữa – metaphase và kết thúc cùng với sự đứt của
thoi tơ vô sắc ở kỳ cuối – telophase), hoặc là bằng tấm tế bào (cell plate do các túi
lưới nội chất nhẵn nằm ở mặt phân chia tế bào thực hiện). Ví dụ, ở
Chlamydomonas (thuộc bộ Volvocales) phân bào bằng khe cắt, nhưng ở
Cylindrocapsa (thuộc bộ Chlorococcales) lại bằng tấm tế bào.
3. Dựa vào mức độ cấu trúc hình thái của tản, cấu trúc của sắc thể (lục lạp), tổ hợp
của các sắc tố quang hợp, chất dự trữ, cấu tạo của vách tế bào và chu trình sống. ở
tảo lục gặp các mức độ cấu trúc hình thái sau:
- Kiểu đơn bào có roi - monad (ví dụ, ở Chlamydomonas )
- Kiểu tập đoàn có roi ( ở Volvox, Gonium, Eudorina)
- Kiểu tập đoàn palmelloid, hoặc tetrasporal ( Sphaerocystis, Coccomyxa )
- Kiểu coccoid ( ở Chlorococcum, Chlorella, Oocystis )
- Kiểu sarcinoid (giống như 1 bó, gói) ở Chlorosarcinopsis
- Kiểu sợi ( ở Ulothrix, Oedogonium, Spirogyra )
- Kiểu bản ( ở Ulva )
- Kiểu ống - siphonous ( ở Bryopsis, Codium, Caulerpa ).
Theo truyền thống, nguyên tắc cơ bản đựoc sử dụng để phân loại tảo lục là dựa
vào các kiểu cấu trúc hình thái của tản.
Môi trường nuôi cấy: tùy đối tượng nghiên cứu có môi trường nuôi cấy phù hợp.