Di Truyen Hoc Qua Trinh Lap Rap Va Su Dieu Chinh Cua He Thong Quang Hop

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 25

CHƯƠNG 10: DI TRUYỀN HỌC, QUÁ

TRÌNH LẮP RÁP VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH


CỦA HỆ THỐNG QUANG HỢP

I. TỔ CHỨC GENE CỦA VI KHUẨN QUANG HỢP KỊ


KHÍ.

- Sự quang hợp của những sinh vật quang dưỡng kỵ khí được nghiên

cứu kỹ ở nhóm vi khuẩn tía.

- Tổ chức gen và sự điều chỉnh của chúng tương đối ổn định.Đây là

nhóm sinh vật quang hợp kỵ khí duy nhất được nghiên cứu rộng rãi.

- Trình tự bộ gen của những vi khuẩn tía sau đây đã được xác định rõ :

rhodobacter capsulatus, rhodobacter sphaeroides và

rhodopseudomonas palustris, vi khuẩn xanh chlorobium tepidum và

aurantiacus choloroflexus.

- Bộ máy quang hợp ở vi khuẩn tía được xác định bởi các thông tin di

truyền cần thiết, các thông tin di truyền này được nằm trong một cụm

gen quang hợp ( PGC), cụm gen này có chiều dài ~ 41-46Kb và bao

gồm các DNA nằm ở trong NST vòng của tế bào.

- Cụm gen nay mã hóa cho 38 khung đọc mở và bổ sung các thông tin

cần thiết.

- Sự sắp xếp DNA trong PGC thì :


+ 50% dùng để mã hóa cho các enzyme tham gia vào các giai

đoạn tổng hợp diệp lục

+ 18% tổng hợp carotene

+ 8% giúp cho gen cấu trúc hấp thụ ánh sáng và giúp cho trung

tâm phản ứng protein xảy ra.

+10% là dành cho các gen khác cần thiết cho sự tăng trưởng quang

hợp cộng với một vài khung đọc mở không rõ và khu vực không

mã hóa.

- Giai đoạn đầu để tổng hợp diệp lục thì phải theo thứ tự từ

protoporphyrin IX và được dùng chung cho sự tổng hợp hem.

- Các gen hem này nó mã hóa các enzyme nằm ở vị trí khác trên NST,

như là pet gen mã hóa cho các cytochrome bc1 phức tạp, đồng thời nó

cũng dùng cho các con đường hô hấp.

- Các gen quang hợp khác (không phải là một phần của PGC) bao gồm

các gen mã hóa cho các enzyme trong chu trình calvin và các gen puc

mã hóa cho phức hệ LH2 của anten.

- Rhodobacter capsulatus và Rhodobacter sphaeriodes là hai loài vi

khuẩn được tìm hiểu rộng rãi nhất và có cụm gen quang hợp (PGC) cơ

bản giống hệt nhau .Ở các loại vi khuẩn tía khác cũng có những biểu

hiện sắp xếp tương tự. Ở vi khuẩn G+ Heliobacillus mobilis cũng có


cụm gen quang hợp nhưng ở vi khuẩn lục chứa lưu huỳnh và không

chứa lưu huỳnh và vi khuẩn lam thì không chứa cụm gen quang hợp.

- Ở đầu mút của một số sinh vật có cụm gen quang hợp mang thông

tin di truyền tới thưc hiện quang hợp trong khi đó ở những loài khác

thì không.

- Các loại vi khuẩn khác xếp thành nhóm thường được tìm thấy khi

các gen dịch chuyển một đoạn theo chiều ngang sang những sinh vật

khác. Mặt khác nó có thể dựa vào sự điều khiển của bộ máy quang

hợp để buộc các gen đóng trên nhiễm sắc thể.Tuy nhiên điều này

không quan trọng ở phần lớn các sinh vật khác.

- Một vài cụm gen nhỏ được dùng mã hóa cho sự tổng hợp

bacteriochlorophyll,caroten và cấu trúc protein của hệ thống quang

hóa.

- Trung tâm phản ứng L và M của các protein và các peptide α và β

của phức hệ LH1 được chứa trong một operon gần cuối đầu 3’của PGC

được gọi là puf ( đơn vị quang-cố định). Đơn vị H nằm ở gần đầu kết

thúc khác của PGC và được mã hóa bởi gen puhA.

- Các gen tổng hợp bacteriochlorophyll và carotene được định vị trong

vài cụm gen ,chúng được sao chép thành các operon.

- Phức hệ anten LH2 được mã hóa bằng puc operon, puc operon này
không thuộc PGC nhưng có khoảng 20kb được định vị trên gen puhA.

II. SỰ BIỂU HIỆN GENE VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA VI


KHUẨN QUANG HỢP MÀU TÍA.

- Vi khuẩn quang hợp tía là những sinh vật đặc biệt có khả năng biến
đổi linh họat và có thể tạo ra năng lượng bằng cách quang hợp, hô hấp

hiếu khí và kỵ khí,lên men.Để đáp ứng nhu cầu trao đổi chất của

những dạng sống khác nhau, sự biểu hiện gen đóng vai trò điều chỉnh.

Các biểu hiện của bộ máy quang hợp được tiến hành dưới trạng thái

kỵ khí .Ngoài ra, giá trị thực của các trung tâm phản ứng và các cụm

ăng ten LH1 và LH2 được sửa đổi phù hợp với cường độ ánh sáng.

- Cấu tạo màng tế bào vi khuẩn tía về cơ bản là thay đổi theo biểu hiện

của bộ máy quang hợp, với sự hình thành của hệ thống màng

invaginated intracytoplasmic (Chương 6).

- Quy chế của sự biểu hiện bộ máy quang hợp được điều khiển bởi

một số mạch tương tác có ảnh hưởng đến sự phiên mã của các

operons khác nhau (Bauer và Bird, 1996; Zeilstra-Ryalls et al., 1998;

Gregor và Klug, 1999). Như là đặc trưng cho vi khuẩn, sự sắp xếp

được thực hiện chủ yếu ở cấp độ phiên mã, và nhiều, nếu không phải

là hầu hết, các gene được tổ chức tại operons của một số gen với chỉ

một ARN vận chuyển duy nhất, sau đó dịch sang protein ở ribosome.

- Trong một số trường hợp, có nhiều bản sao khác biệt.Hình thức các

bản sao đa gene chồng chéo lên nhau gọi là superoperons.Mặc dù kết
quả tổng thể của các cơ chế điều tiết gần như là giống nhau trong hai

vi khuẩn tía đã được nghiên cứu, là Rb.capsulatus và Rb.sphaeroides,

nhưng cơ chế phân tử của chúng lại khác nhau,điều đó đòi hỏi các văn

bản gốc phải được tư vấn để biết chi tiết chính xác của bất kỳ hệ thống

nào .

- Cấp độ đầu tiên của sự điều chỉnh là ức chế các biểu hiện của gene

quang hợp trong điều kiện hiếu khí . Khi có khí oxy, một chất kìm

hãm được tổng hợp để ức chế sự biểu hiện của tất cả các operons

quang hợp . Các gen mã hóa cho chất kìm hãm này là ppsR (còn gọi là

crtJ), có vị trí ở giữa của PGC. Sản phẩm gen này ức chế sự sao chép

của tất cả các operons khác trong PGC bằng cách gắn vào một chuỗi

palindrome bảo tồn. Trong điều kiện kỵ khí, sự ức chế này mất đi, và

tất cả các gen trong PGC được phiên mã đến một mức độ vừa phải.

- Cấp độ thứ hai của sự điều chỉnh là kích hoạt trung tâm phản ứng và

gen protein cấu trúc hút ánh sáng (puf, puhand PUC) trong điều kiện kỵ

khí. Điều này được quy định bởi một hệ thống tải nạp hai thành phần bao

gồm một tín hiệu kinase cảm biến membranebound (RegB) và một chất

điều chỉnh phản ứng hòa tan (Rega). Sự đáp ứng của RegB sẽ phù hợp

với lượng oxy và sau đó sẽ đến Rega họat động, trong liên kết chuyển

sang promoter ngược dòng của operon và kích hoạt phiên mã. Ngoài ra,

sự biểu hiện của cytochrome c2 và các enzym trong chu trình Calvin
cũng được quy định bởi hệ thống này. Cuối cùng, hệ thống này phải

tương thích với sự oxy hóa khử của tế bào. Các cytochrome oxidase phức

tạp cytochrome cũng có liên quan (Oh và Kaplan, 1999). Các oxygen thụ

cảm khác cũng có mặt, bao gồm thioredoxin; nhưng sự ảnh hưởng chưa

được hiểu rõ (Gregor và Klug, 1999).

- Cấp độ thứ ba của sự điều chỉnh sao chép được thể hiện trong điều kiện

ánh sáng yếu, nơi mà mức độ biểu hiện của các operons puh và puf được

tăng lên trong ánh sáng mờ (Bauer và Bird, 1996). Điều này được quy

định bởi một mạch nhạy cảm ánh sáng không được tìm hiểu kĩ ở cấp độ

phân tử ,bao gồm các sản phẩm gen hvrA và cũng có thể là cả một tế bào

nhận kích thích ánh sáng xanh dương. Cuối cùng, tỷ lệ của Trung tâm

phản ứng và các phức hệ LH1 và LH2 cũng được điều tiết bằng cường

độ ánh sáng. Hiệu ứng cũng được điều khiển bởi operon puc (Gregor và

Klug, 1999).

- Việc ánh sáng và khí oxy có ảnh hưởng đến quang hợp là hiển nhiên.

Trong điều kiện hiếu khí gần như hầu hết các gen quang hóa bị ức chế, và

nó sẽ được kích hoạt khi các tế bào trở thành kỵ khí. Trong ánh sáng lờ

mờ, những bản sao thêm vào của những thành phần quang hóa được thực

hiện, cấp độ của phù hợp của trung tâm phản ứng và phức hợp ăng-ten

cũng tốt hơn. Cấp độ khác của sự điều chỉnh đòi hỏi liên quan đến sự ổn

định mRNA và lắp ráp của các phức protein quang hóa (Hebermehl và

Klug, 1998).
III. SỰ SẮP XẾP GEN Ở VI KHUẨN LAM
- Về cơ bản thì mô hình sắp xếp và điều chỉnh gen ở vi khuẩn lam

xuất phát từ vi khuẩn tía ( không cần oxi). Vi khuẩn lam bắt buộc phải

điều chỉnh bộ gen 1 cách nhịp nhàng và sống trong 1 khu vực rộng lớn

để thực hiện việc trao đổi chất. Sự thay đổi này bắt buộc phải có sự

điều chỉnh và biểu hiện gen cho phù hợp. Nói chung, vi khuẩn lam là

1 đại diện cho cơ chế điều tiết trung gian giữa vi khuẩn tía không cần

oxi ( cao) và lục lạp ( thấp).

- Bộ gen hoàn chỉnh của Synechocystis PCC 6803 đã được xác định.

Nó là 1 bộ gen vòng gồm 3,6 triệu base cộng với vài plasmic nhỏ.

- 50 ARN tâp hợp trên gen và khoảng 3000 protein được tìm thấy,

trong đó 50% không rõ về chức năng hoặc chức năng đó chưa được

công nhận trong các cơ thể khác nhau. Như vậy, mức độ của sự bổ

sung, điều chỉnh mọi bộ gen được bộc lộ trong quá trình quang hợp ở

các cơ thể còn non. Quang hợp ở vi khuẩn nhân sơ không khác gì với

vi khuẩn tía, nó cũng gồm 1 bộ gen trong đó 50% gen chưa biết.

- Những cụm gen quang hợp ở vi khuẩn lam tương phản với vi khuẩn

tía, những gen quang hợp ở vi khuẩn lam nằm rải rác trên toàn bộ

gen, gồm cụm gen nhỏ và vài operon. Những operon này thường nhỏ

hơn các operon ở vi khuẩn tía. Ví dụ ở vi khuẩn tía những gen điển
hình tạo thành phức hợp cytochrome b6f là 1 operon đơn nhưng ở

Synechocystis PCC 6803 thì nó gồm 2 operon nhỏ hơn và 1 vài gen.

Hầu hết các gen thực hiện quá trình quang hợp ở vi khuẩn lam được

biểu hiện 1 cách cơ bản. Những gen điều chỉnh quá trình sao chép

chính và thực hiện quang hợp ở vi khuẩn lam có vai trò quan trọng

hơn các gen thực hiện trao đổi chất ở vi khuẩn tía. Nhận định này

được làm rõ trong quá trình quang hợp ở sinh vật nhân chuẩn, quá t

rình này phức tạp hơn, có sự điều chỉnh và phối hợp giữa 2 bộ gen

khác nhau.

- Một số trường hợp thiếu operon và cụm gen tác động thì những gen

tạo thành phức hợp protein ( các protein này neo vào màng thylakoid)

ở 1 số loài có khả năng thích nghi màu. Những cơ thể này có khả năng

thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường, đó là mức độ cao của

sự điều chỉnh và năng lực biểu hiện gen phụ thuộc vào bên ngoài.

IV. HỆ GEN CỦA LỤC LẠP

- Lục lạp ở những tế bào sinh vật quang hợp nhân chuẩn thì chứa 1 hệ

gen ADN mạch vòng, nó giống như cái được tìm thấy ở vi khuẩn.

- Chắc chắn hệ gen này là cái còn lại nói về nguồn gốc phát triển của lục

lạp như vi khuẩn lam nội cộng sinh. Thuyết nội cộng sinh có nội dung
là những bào quan của tế bào sinh vật nhân chuẩn có nguồn gốc từ

những sinh vật nhân sơ Prokaryotic sống bên trong các tế bào nhân

chuẩn Eukaryotic như một sinh vật cộng sinh ở bên trong. Lục lạp tiến

hóa từ vi khuẩn lam nội cộng sinh.

- Bộ gen hoàn chỉnh được sắp xếp theo trình tự của lục lạp ở các thực

vật và 1 số ngành tảo.

- Sự nổi bật nhất là hệ gen lục lạp có kích thước nhỏ hơn hệ gen của vi

khuẩn lam cho nên nội dung di truyền cũng giảm. Sự giảm kích thước

này là những thông tin cần thiết cho việc thực hiện quang hợp đã được

chuyển vào hạt nhân.

- Kích thước của hệ gen lục lạp được sắp xếp theo trình tự từ 120 => 191

kb. Hệ gen của lục lạp ở những thực vật bậc cao thì có 50=> 80 trình tự

mã hóa bao gồm những protein cốt lõi của hệ thống quang hóa, phức hệ

cytochrome b6f , bộ NST của tARN và hầu hết các nguyên tố của lục lạp

được tổng hợp.

- Hầu hết các thành phần khác của protein trong lục lạp được mã hóa

bởi nhân ADN rồi đưa vào lục lạp sau đó tập hợp thành phức chất.

- Hệ gen lục lạp lớn nhất đế nay được sắp xếp theo trình tự của tảo đỏ

Porphyra purpurea, kích thước khoảng 191 kb và mã hóa cho khoảng

250 gen kể cả ARN, 200 trong số đó là gen mã hóa protein.


- Hệ gen nhỏ nhất được tìm thấy trong cây thông, kích thước 120kb và

69 gen mã hóa protein.

- Ba nhóm sinh vật có hệ gen lục lạp không điển hình là:

 Ngành trùng 2 roi, trong đó có 1 số lượng lớn những phân

đoạn nhỏ của ADN và được xem là gồm các hệ gen lục lạp.

 Thực vật kí sinh bị mất khả năng quang hợp. Lục lạp của

chúng mất các gen mã hóa protein quang hợp.

 Ký sinh trùng bao gồm sinh vật gây sốt rét, hiện tại thì chúng

không quang hợp được nhưng chắc chắn tổ tiên của chúng làm

được.

- Những sinh vật này có giữ lại 1 bộ gen lục lạp nhỏ có chức năng chủ

yếu trong việc tổng hợp axit béo.

- Một đặc tính tiêu biểu của hệ gen lục lạp là vùng đảo ngược được lặp

lại nhiều. Cấu trúc này có chức năng chưa được rõ ràng nhưng kích

thước thì khác nhau ở nhiều loại thực vật. Điều đó đã hỗ trợ cho việc

thúc đẩy sự ổn định hệ gen.

- Phần lớn những gen của lục lạp là những cistron đơn và sự phiên mã

không phải là cơ sở chính cho việc điều chỉnh hệ gen của lục lạp.

- Hệ gen của hạt nhân sẽ đươc nối tiếp ở thực vật bậc cao ( cây mutac

Arabidopsis thaliana), hiện tại thì đã hoàn tất và 1 số khác như gạo,
ngô…Khi được phân tích đầy đủ sẽ mở ra 1 hướng mới về nghiên cứu

hệ gen của hạt nhân và lục lạp.

Hình: Bản đồ gen lục lạp của gạo. Gen bên ngoài vòng tròn thì sao chép
ngược chiều kim đồng hồ. Gen bên trong vòng tròn thì được sao chép theo
chiều kim đồng hồ. Vùng lặp lại và đảo ngược là IRA và IRB. Phần sao chép
lớn là LSC, phần sao chép nhỏ là SSC.

V. CON ĐƯỜNG, CƠ CHẾ XÂM NHẬP PROTEIN VÀ MỤC


ĐÍCH CỦA NÓ TRONG LỤC LẠP

- AND của lục lạp chứa các trình tự mã hóa cho các pro cốt lõi tham gia

vào Quang hợp ( ví dụ như protein D1, D2 của phức hệ PS II ).Còn

những protein khác thì được tổng hợp từ bên ngoài và được đưa vào

gọi là sự xâm nhập protein.


- Việc xâm nhập này gồm có 2bước:

+ Cơ chế xâm nhập protein.

+ Việc đưa những protein này đến nơi cần thiết để thực hiện chức

năng.

- Ở trong nhân, các trình tự mã hóa cho những protein này đã được xác

định trước cho lục lạp. Hầu hết chỉ có một đoạn cuối là cần thiết để

dịch ra sản phẩm, khi đến stroma trình tự này sẽ được tách rời ra.

- Quá trình xâm nhập này buộc protein phải đi qua 3màng. Do đó,cơ

chế xâm nhập lại có thêm 2bước:

+ Bước 1: Sự xâm nhập vào lục lạp qua 2màng tế bào.

+ Bước 2: Diễn ra sự vận chuyển vào lumen của thylakoid.

1. CƠ CHẾ XÂM NHẬP PROTEIN:

Những giai đoạn của việc xâm nhập protein có thể quan sát bằng thực

nghiệm. Một số giai đoạn cần năng lượng ATP, GTP, một số khác đòi

hỏi năng lượng tự do.

- Sự xâm nhập vào lục lạp:

- Giai đoạn đầu tiên là việc tập hợp những protein mà được vận chuyển

qua màng.

-> Giai đoạn này nhờ năng lượng tự do do sự tương tác giữa protein –

lipid ( protein xâm nhập và nhóm lipid chính của màng bao lục lạp –
monogalactosyldigliceride và digalactosyldiglyceride.

 Những giai đoạn tiếp theo nhờ năng lượng tự do do sự tương tác giữa

protein – protein ( protein xâm nhập và protein vận chuyển chúng ).

- Phức hệ protein vận chuyển gồm có hai loại :

+ Toc ( Translocon at the outer membrane Chloroplast )

+ Tic ( Translocon at the inner membrane Chloroplast )

 Những thành phần protein khác của chúng được xác định bởi khối

lượng kDa của chúng -> tên gọi. Ví dụ: Toc 159, Toc 75…Tic 20, Tic

55…

i. PHỨC HỆ TOC:

- Phức hệ Toc gồm có 3protein màng: Toc 159, Toc 75 và Toc 34.

+ Protein Toc 75: hình thành một kênh hẹp có đường kính 8 – 9 A0, để

cho protein xâm nhập qua ( protein đã được mở gấp thành chuỗi dài )

 Giai đoạn này đòi hỏi năng lượng GTP và cả Toc 159 hay Toc 34

cũng vậy. Việc cần năng lượng GTP mà không phải ATP là do chức

năng đảm bảo việc chọn chính xác protein đi vào con đường này (

ATP là đồng tiền năng lượng – có thể sử dụng chung, GTP được sử

dụng cho những trường hợp riệng biệt ).

- Ngoài ra: Protein Toc 159 chỉ thực hiện chức năng khi thủy phân tạo

ra Toc 89 ( vai trò chính tham gia vào việc vận chuyển protein xâm
nhập qua màng ).

- Một số phân tử đi kèm cũng tham gia vào quá trình xâm nhập là Com

70 và Hsp 70 (đây là những protein kém chịu nhiệt có khối lượng 70

kDa )

+ Com 70: nằm cạnh bên ngoài màng ngoài - thuộc Cytosol.

+ Hsp 70: nằm cạnh bên trong màng ngoài - thuộc khoảng

không gian giữa màng ngoài và màng trong. Giúp kéo protein

qua khỏi màng ngoài.

- Hoạt động của Tic thì ngắn hơn Toc. Nhưng việc lắp ráp này chỉ xảy

ra khi 2 phức hệ này liên kết chặt chẽ với nhau tạo diêu phức hơp –

gắn kết màng ngoài và màng trong giúp protein đi vào màng trong

một cách trực tiếp.


- Thành phần của Tic gồm có 3 protein:

+ Tic 22 nằm ở bên ngoài màng trong, là thành phần đầu tiên

dời chỗ, giúp khép chặt siêu phức hợp -> protein đi vào dễ

dàng.

+ Tic 20 là một protein xuyên màng, kết hợp với Tic 22 vận

chuyển protein đi vào.

+ Tic 110 là một protein gắn chặt trên màng, hầu hết khối lượng

của nó nằm ở màng trong.Nó liên kết với các phân tử khác như:

. ClpC: giúp kéo protein ra khỏi màng, cần năng lượng

ATP.
. GroEL/ GroES, Cpn60: có nhiệm vụ gấp protein đã xâm

nhập vào để trở thành dạng hoạt động.

- Trước đó, khi chuỗi protein đã vào stroma, nó sẽ được protein stromal

protease cắt đi, chỉ lấy phần trình tự cần thiết.

- Trình tự protein có thể được vận chuyển vào lumen hoặc gắn trên

màng thylskoid tùy vào mục đích sử dụng chúng.

2. VIỆC VẬN CHUYỂN PROTEIN VÀO THYLAKOID ĐỂ THỰC

HIỆN NHIỆM VỤ:


- Việc vận chuyển các protein này vào lumen hay thylakoid qua bốn

con đường chính.

- Mỗi con đường có một thành phần tham gia riêng mà không có ở con

đường khác.

.
i. Con đường thứ nhất : ( Secretory ) tương tự như hệ thống kích thích
bài tiết tìm thấy

nhiều trong vi khuẩn, nó đòi hỏi năng lượng thủy phân ATP để vận

chuyển vào plastocyanin và độ chênh lệch pH.

+ Protein 33kDa của OEC ( PS II ) và các protein subunit của

PS I dùng đến con đường này.

ii. Con đường thứ hai tương tự như hệ thống nhận dạng hạt SRP – tham

gia vào việc bài tiết của lưới nội chất ở eurkaryote và vi khuẩn ), hoạt

động cần đến năng lượng GTP và pH để đưa hệ thống anten LHC vào

thylakoid.

 Cả Sec và SRP được kích thích bởi pH khác nhau nhưng việc cần

đến năng lượng NTP là tuyệt đối cần thiết.

iii. Con đường thứ ba chỉ được tiền hành khi có sự chênh lệch pH (pH)

và không cần đến năng lượng. Nó có thể chuyển protein ở dạng gấp mà

không cần phải tháo xoắn trở thành dạng chuỗi.

+ Protein 17kDa và 23kDa của OEC ( PS II ) sử dụng con

đường này.

iii. Con đường thứ tư không cần đến năng , cũng không cần đến pH,

nó xuất hiện sự kết hợp một cách töï ñoäng ñi vaøo maøng

thylakoid. Sau đó sẽ được enzim thylakoid protease tách ra trong

lumen.
 Đến bây giờ vẫn chưa giải thích được vì sao chỉ có một con đường

xâm nhập vào lục lạp mà lại có đến bốn con đường đi vào thylakoid.

 Một trong những lí do đó là do sự khác biệt của những protein chỉ

dành riêng cho mỗi con đường.

Ví dụ: Một protein rời khỏi màng lục lạp vào stroma, cần được tập hợp lại

phải nhờ có SRP nhận dạng. Hoặc việc vận chuyển protein gấp chỉ co con

đường pH mới làm được.

VI. SỰ ĐỀU CH ỈNH VÀ VI ỆC L ẮP R ÁP HỆ THỐNG


QUANG HỢP CỦA
VI KHUẨN LAM VÀ LỤC LẠP
___________________

Hầu hết các protein (có chức năng trong quá trình quang hợp) là một

phần của các phức hợp đa protein (như hệ thống quang hoá, phức hợp

cytochrome b6f hoặc phức hợp rubisco). Những phức hợp này luôn có một

phép tính hợp thức cố định Protein cơ định, (như phức hợp rubisco L8S8).

Phép tính hợp thức cố định này cho biết nhu cầu để điều chỉnh số lượng của

mỗi Protein cơ định. Nếu như sự đều chỉnh này không xuất hiện (…) thì có

thể gây độc cho cơ thể sinh vật. Hiệu ứng tiêu cực này đặc biệt nghiêm trọng

nếu những thành phần thừa bao gồm diệp lục, bởi vì nó nhanh chóng dẫn tới

sự sản xuất singlet oxy (singlet ôxy thường được tạo thành từ nước qua quá

trình quang hợp sử dụng năng lượng mặt trời) gây hại cho các thành phần
sinh học. Ngoài ra, toàn bộ những phức hợp này phải được điều chỉnh sao

cho phù hợp với những chức năng hiệu quả nhất của bộ máy quang hợp.

Cuối cùng, sự điều chỉnh (ngắn hạn) của những phức hợp này (do sự

phosphoryl hoá hay mức caroten) giúp cho việc phân bố năng lượng. (Cơ

chế điều chỉnh này đã được trình bày ở chương 5 và chương 7).

Từ những lý do đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng tổng hợp và lắp ráp

các thành phần quang hợp được điều chỉnh rất chặt chẽ. Mặc dù nhiều chi

tiết của hệ điều chỉnh phức tạp này vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng chúng ta

đã đạt được những tiến bộ đáng kể và một số nguyên tắc tổng quát trở thành

điều hiển nhiên.

Trái ngược với vi khuẩn quang hợp anoxygenic (đã được trình bày ở

trên) về sự kiểm soát phiên mã qua sự biểu hiện gen (cơ chế tiêu biểu của vi

khuẩn), điều này ở vi khuẩn lam và đặc biệt là trong lục lạp có nhiều điểm

khác biệt. Những bản sao mARN hạt diệp lục điển hình sống rất lâu, với thời

gian bán huỷ từ 6-40 giờ (Kim et al., 1993). Nó được so sánh với thời gian

bán huỷ mARN trong vài phút của vi khuẩn điển hình và ít hơn một giờ ở vi

khuẩn lam. Những nhân tố (chuyển cho mARN hạt diệp lục) xuất hiện từ rất

lâu, nằm chủ yếu ở đầu 5’ (ít hơn ở đầu 3’) những vùng không dịch mã chỉ

ngược dòng từ vùng mã hoá của gen. Các nhân tố dịch mã có hạt nhân mã

hoá kết khôi lại tới những vùng này và điều chỉnh khả năng thông báo để
tương tác với ribosome hạt diệp lục, do đó kiểm soát được tốc độ sản xuất

protein được mã hoá bởi hạt diệp lục. Như vậy điều khiển sự tổng hợp ở

mức tịnh tiến là rất lớn và chủ yếu được kiểm soát bởi những tín hiệu từ hạt

nhân. Một bằng chứng thực tế, việc giảm bớt số lượng bản sao của AND lục

lạp bởi một nhân tố của mười chất ức chế bằng cách sử dụng của AND nhân

rộng làm giảm mức độ của các bản sao một cách đáng kể nhưng hầu như

không có hiệu ứng nào liên quan tới tốc độ của sự tổng hợp protein được mã

hoá bởi hạt diệp lục (Hosler et al., 1989).

Ngoài sự kiểm soát dịch mã, sự giảm phẩm cấp của những protein

thừa hoặc thiếu những protein thiết yếu, chúng ta có thể thấy được trong

nhiều trường hợp. Chẳng hạn như apo- plastoxyanin, apo- cytochromes và

những protein hạt diêp lục không có chất màu nhanh chóng bị giảm sút bởi

sự thuỷ phân protein. Mức thứ hai của sự kiểm soát dịch mã của tốc độ của

một số cấu trúc dưới phân tử trong các protein thiếu (hợp bởi những cấut rúc

dưới phân tử khác) sẽ được mô tả ở phái dưới.

Có phải diệp lục đã gửi một vài tín hiệu ảnh hưởng đến sự biểu hiện

của gen hạt nhân hay không? Nhiều gen hạt nhân được điều chỉnh ánh sáng

chủ yếu bởi phytochrome và các cơ quan nhận tia sáng xanh, Các hệ thống

báo hiệu được điều chỉnh bởi ánh sáng này không phải được định vị trong

hạt diệp lục. Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng về việc các tín hiệu
được gửi đến hạt nhân có nguồn gốc từ lục lạp (nơi mà chúng ảnh hưởng

đến sự biểu hiện gen hạt nhân) và đó có thể là bản dịch của mARN trên

ribosome tế bào chất (Goldschmidt-Clermont, 1998). Điều này đặc biệt đúng

đối với các gen Lhcb cho các protein anten LHC (còn gọi là Cab cho các

diệp lục a/b.

Sự kiểm soát dịch mã của sự biểu hiện gen hạt diệp lục được hoàn

thành mở mức độ phân tử như thế nào? Mặc dù nhiều chi tiết của quá trinh

điều chỉnh này vẫn chưa được hiểu rõ hết nhưng đã đạt được nhiều tiến bộ

(Bruick Mayfield et al., 1999). Sự kiểm soát dịch mã của sự biểu hiện gen

hạt diệp lục được điều chỉnh bởi một lượng lớn các nhân tố protein được mã

hoá bởi hạt nhân. Những protein hạt nhân này được tổng hợp trên ribosome

tế bào chất và được đưa vào trong hạt diệp lục qua các hệ thống đã nêu trên.

Sau dó, chúng gắn vào vùng không dịch mã và ảnh hưởng đến khả năng

tương tác của bản sao với ribosome. Các trường hợp nghiên cứu tốt nhất là

gen psbA mã hoá cho protein D1 của hai trung tâm phản ứng của hệ thống

quang hoá. Các protein 60,55,47 và 38 kDa được gắn vào vùng không dịch

mã của gen psbA. Protein 47kDa tương đồng với protein bắt buộc poly A.

Protein này kết khối lại tại vùng không dịch mã của gen psbA trong một hệ

thống nhạy cảm với cả ánh sáng lẫn thế cộng hưởng. Protein 60kDa là một

loại enzim đồng phân hoá có liên kết disunfit, mối liên kết disunfit cystine
làm gảm nhóm SH trong ánh sáng khi mà tại hạt diệp lục cũng có sự giảm

sút này. Protein 60kDa gây giảm lượng liên kết disunfit trên protein bắt buộc

47kDa poly A. Trong trạng thái khöû, protein 47kDa kết khối lại tại vùng

không dịch mã của gen psbA và tăng cường kết hợp với ribosome, tạo thành

bản dịch của protein D1. Trong trạng thái tối, thế cộng hưởng cao hơn, liên

kết disunfit được thành lập lại, ngăn chặn bản dịch. Ngoài ra, (an ADP-

dependent protein kinase phosphorylates the 60kDa protein disulfide

isomerase in the dark when ADP level are high). Nó khử hoạt tính của

enzim đồng phân hoá, điều chỉnh sự sao chép của gen psbA.

Một số thể đột biến hạt nhân đã bị cô lập (là ví dụ minh hoạ về sự

kiểm soát dịch mã của sự biểu hiện kiểu gen hạt diệp lục). Những thể này hạ

thấp xuống mức protein 47kDa trong diệp lục (mặc dù không có đột biến

trong cấu trúc gen protein 47kDa). Điều này dẫn đến sự giảm sút trong nhịp

độ của bản dịp của gen psbA. Sự ràng buộc psbA mARN tới ribosome gần

như phụ thuộc tuyệt đối vào protein 47kDa. Sự ràng buộc và đều tiết ở mức

độ phân tử vẫn chưa được hiểu rõ.

Trái ngược với trường hợp mô tả trên trong ñoù quá trình tịnh tiến và quá

trình tịnh tiến sau chi phối sự biểu hiện gen hạt diệp lục. Pfannschmidt et

al.(1999) cho thấy chất lượng ánhd sáng (the different spectral distributions

of light that can differentalyy drive the two photosystems) ảnh hưởng đến
nhịp độ của sự sao chép ở hệ quang hợp 1 và hệ quang hợp 2 và sự khác

nhau phiên mã này được phản ánh trong các mức của phức hợp protein hoạt

động. (This control was show to be responsive to the redox state of the

plastoquinone pool).

Những việc trên vẫn chưa được sáng tỏ, hoặc ngay cả khi, những quan

niệm về sự điều chỉnh sự biểu hiện gen hạt diệp lục rất khác này có thể được

đều hoà. Một mặt, sự nhìn nhận được mô tả trên, theo đó sự điều chỉnh gần

như trọn vẹn qua tịnh tiến và tịnh tiến sau, và nhịp độ của sự sao chép không

phải được điều chỉnh (được hỗ trợ bởi một số ngiên cứu) (Bruick and

Mayfield,1999; Wollman et al., 1999). Ngược lại, quan điểm của Allen và

cộng sự về hiệu ứng phiên mã là rất cần thiết, chúng là cơ chế thiết yếu của

sự điều chỉnh sự biểu hiện gen hạt diệp lục qua những hiệu ứng oxy hoá-

khử trên những nhịp độ phiên mã (Allen et al.,1995;Pfannschmidt et

al.,1999; Allen and Pfannschmidt,2000).

VII. SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÉP TÍNH HỢP THỨC


PROTEIN THIẾU HỢP BỞI CƠ CHẾ NHỮNG CES:

- Trong nhiều trường hợp, mức độ tích tụ của các tiểu đơn vị của một

đa protein được kiểm soát bởi một trong những thành phần tổng thể,

được gọi là tiểu đơn vị thống lĩnh.


- Các tiểu đơn vị khác đáp ứng với mức độ tích tụ, đặc biệt, tỷ lệ của
chúng tổng hợp được giảm bớt nếu các tiểu đơn vị chi phối là không

có mặt hoặc có mặt với số lượng giảm. Các tiểu đơn vị phụ thuộc

được điều khiển bởi tổng hợp eptistatic (CES) và do đó được chỉ định

cấu trúc dựa trên CES.

- Trong hầu hết phức chất đa protein thiếu hợp của những màng quang

hợp, tính trội và những cấu trúc CES được tìm thấy. ( Wollman etal,

1999).

VÍ DỤ:

- Protein D2 của trung tâm phản ứng phức hệ 2 là các tiểu đơn vị chi

phối, và các protein D1 là tiểu đơn vị CES. Lần lượt, Protein D1 thì

trội đối với anten CP 47 phức tạp.

- Trong một trường hợp cơ chế tác dụng CES được hiểu tương đối tốt.

Cytocrome f là CES tiểu đơn vị trong lắp ráp cytocrome b6 f phức tạp.

Cytocrome b và tiểu đơn vị IV là các tiểu đơn vị chi phối, nếu

cytocrome f không lắp ráp thành một thành phần phức tạp, thì một

phần C-terminal của protein liên kết với các khu vực chưa được dịch

5 'của RNA thông tin của nó, sẽ ức chế sự tương tác của nó với các

ribosome.

- Nhiều bằng chứng cho rằng những hiệu ứng CES đã thu được từ tảo
lục Chamydomonas, là một hệ thống mô hình tuyệt vời cho sự nghiên

cứu của sự biểu hiện gen của sinh vật quang hợp nhân chuẩn.

- Để phát triển cao hơn nữa những nghiên cứu từ tảo lục

Chamydomonas người ta đã ứng dụng vào thực vật lớp cao, và kỳ

vọng rằng cùng với những nguyên tắc tổng quát, sẽ vận hành trong

những hệ thống này nữa.


CHÂN THÀNH CẢM ƠN!!!!!

You might also like