Professional Documents
Culture Documents
Dinh Lang Viet
Dinh Lang Viet
Dinh Lang Viet
ĐỊNH
LÂNG
U Ì É T
.ầ L ,
■ ÍP ^
ềềẩắằẼ.
ÌNHLÀI VIỆT
(CHÂU THỔ BẮC BỘ)
Tới thời T rần, ngôi đình vẫn chỉ m ang tín h chất của m ột
điểm nghỉ chân. Bằng vào tài liệu viết, chúng ta biết rằng nó
ch ư a phải là nơi th ờ T hành hoàng của làng xã.
Đ iểm lại • đôi n é t còn biết được
• về diễn trìn h của loại• kiến
trú c được gọi là "đình", từ buổi đầu của thời kỳ độc lập cho đến
thờ i Lê sơ - Mạc và dừng lại trước triều C hính Hòa (cuối th ế kỷ
XVII), tức triều đ ại được đ án h dấu bởi m ột bước p h át triể n rực rỡ
củ a n g h ệ th u ậ t xây dựng đình làng. Trong buổi khởi nguyên của
nó, cái gọi là "đình" vốn là m ột n h à công cộng để nghỉ chân
(đình trạm ). Đ en đầu triều Trần, m ột số n h à nghỉ chân ấy còn
được dùng làm nơi thờ Phật, đồng thời vẫn giữ chức năn g cũ. Có
5
điều rằn g , giữ a hai chức năng cũ và mới ấy, cái nào trở th à n h
chính, th ì th ự c khó m à phỏng đoán. Thời Lê sơ, rồi đ ến thời Mạc,
ắ t h ẳ n n h iều ngôi đình vẫn là n h à nghỉ chân, n h ư n g nội dung
m ộ t số lời v ăn bia còn cho thấy, có n hữ ng ngôi đình đã trở th à n h
công trìn h kiến trú c công cộng của làng xã. C húng tôi th iế t nghĩ,
m ộ t khi đ ìn h đ ã th uộc về làng xã, th ì không có gì lạ, n ế u có
n h ữ n g vị th ầ n của làng xã được đưa vào đình, chẳng khác gì
P h ật cũ n g từ n g bước vào đình. Dưới thời Trần đạo P hật còn đóng
vai n h ư m ộ t quốc giáo, đến thời Lê tru n g hưng, th ì sự có m ặ t của
n h â n v ậ t gọi là "T hành hoàng" tro n g m ột số đình làng là điều
chắc ch ắn (nội d u n g văn bia đình An Khê ở Bắc Giang).
Ke ra, n ế u chỉ căn cứ vào nội dung các lời bia đã tó m tắt,
th ì có th ể n g h ĩ rằ n g bấy giờ chức năn g trạ m nghỉ ch ân v ẫn còn
chiếm ưu th ế so với chức năng th ờ phụng. Dù sao, q u a khảo sát
trê n th ự c địa, ta cũng thấy rằng, ngay từ th ế kỷ XVI (thời nhà
Mạc), m ộ t số ngôi đình lớn đã x u ấ t hiện với tư cách là m ộ t kiến
trú c công cộng củ a làng xã: các đình Thụy Phiêu sửa n ăm 1531
(Ba Vì, H à Nội), Tây Đ ằng (thị trấ n Tây Đằng, h u y ện Ba Vi, Hà
Nội), T h an h L ũng (huyện Ba Vì, H à Nội), Lỗ H ạnh (huyện Hiệp
Hòa, Bắc Giang), Thổ Hà (huyện Việt Yên, Bắc Giang), là n h ữ n g
ví dụ nổi tiến g . Mấy ngôi đình v ừ a kể là n h ữ n g tác phẩm ng h ệ
th u ậ t h o àn ch ỉn h củ a làng xã. Đ ương nhiên, với thời gian ch ú n g
không còn giữ được nguyên trạn g , n h ư n g ph ần còn lại cũ n g đủ
để ch ú n g ta n h ìn lại bộ m ặt thự c của từ n g ngôi đình: m ột công
trìn h kiến trú c d àn h cho việc thờ T hành hoàng làng, v ấ n đề vẫn
cần đ ặ t ra là n iê n đại khai sinh củ a loại đình làng ấy (không phải
là q u á n nghỉ, ch ủ yếu là nơi thờ T hành hoàng làng). Không m ột
tài liệu th u ộ c b ấ t cứ loại nào có th ể m inh chứng, n ê n ch ú n g tôi
chỉ n g h iê n cứu trê n các hiện v ật v à di tích để đoán định.
6
Song, vị ấy ở đâu ra? Theo nguồn gốc T rung Hoa, khái niệm
"Thành hoàng" từ n g được nhắc đến: Thần T h àn h hoàng của
T rung Hoa chỉ m ới x u ất hiện vào đời n h à Chu, cùng m ộ t lượt với
n h ữ n g th à n h q u ách của các lãnh chúa, và h o àn g là cái hào bao
q u an h bức cường. Đó lả th ần của th àn h trì v à th à n h phố.
T hần của ta là th ần làng xóm, chứ không phải là th ầ n của
th àn h phố. Nông th ô n ở T rung Hoa c ó th ần làng không? Có,
n h ư n g lại khác h ẳn th ần làng của ta. Thần của ta là n h â n v ật địa
phương, còn th ầ n các làng T rung Hoa là th ầ n đ ấ t đai. Ta có cất
nhà, họ thì lộ th iên . T hần của ta là của riêng của dân m ỗi làng.
T hần của T rung Hoa là của riên g lãnh chúa m à n h iề u làng phải
cùng th ờ với lãn h chúa.
Theo đó, tác giả Bình Nguyên Lộc nói rằng à nước ta thờ
T hành hoàng là sai. Nhưng dù sai hay đúng thì vẫn hiện diện m ột
thực tế lịch sử: Khái niệm Thành hoàng" gốc T rung Hoa đã "đổ bộ"
vào nông thôn nước ta. v ấ n đề là từ bao giờ? Chưa có bằng cứ gì
cho phép tin rằn g vị thần m ang tên gọi Trung Hoa ấy đã "có m ặt" ở
nòng thôn nước ta hồi thời Lý v à thời Trần. Thời Lê SƯ, Nho giáo
p h át triển m ạnh: trên đấu trường tranh chấp ý thức hệ chính làm
n ền cho m ột n h à nước quân chủ m à tính chất tru n g ương tập
quyền ngày càng được củng cố. Đạo giáo và P hật giáo bị đẩy lùi
m ột bước. Khác với nhà Lý, chính quyền Lê sơ, sau khi lãnh đạo
n h ân d ân đuổi giặc Minh, đã nhìn Trung Hoa n h ư m ộ t m ẫu m ực
cho việc tổ chức xã hội về m ọi m ặt. Thế là n h iều biểu h iện văn
hó a - n g h ệ th u ậ t cung đình của n h à M inh được đ em áp d ụ n g vào
nước ta. Và, tấ t n h iên nghệ th u ậ t - văn hóa d ân tộc có bị m ờ đi,
ph ải chăng đấy cũng là m ột thời kỳ để cho khái n iệm "T hành
h o àn g '' được tru y ề n bá vào nông thôn nước ta.
Có th ể th ấ y rõ là tro n g xã hội thời Lê sơ có n h iều b iến đổi
lớn so với các thời trước, đặc b iệt là, triề u đình không còn để cho
nông th ô n tự trị th eo lối cũ, không chỉ bóc lột n ô n g d ân th ô n g
7
q u a "chủ làn g " nữa, m à xã hội nông thôn được tổ chức lại, gắn
bó với triề u đ ìn h hơn về các m ặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Phải
chăng, tìn h h ìn h mới ấy đã tạo n ên điều kiện cho triề u đình đưa
"T h àn h h o àn g làng" vào làng xã, để qua đó m à cung cấp cho
người d ân m ộ t ông vu a tin h th ần ? Nếu q u ả thế, không có gì lạ
n ế u T h àn h h o àn g được cấy vào ngôi đình, m ộ t kiến trú c tuy vốn
phi tô n giáo, n h ư n g lại đã có tiền lệ tiếp n h ậ n tư ợng Phật, theo
lện h củ a v u a T rần.
8
trên . Cho nên, bên cạnh các hình thức đề cao v u a và chính th ể
quân chu y ên chế, đ ìn h còn khả năng thu h ú t các sinh h o ạ t văn
hóa và tin h th ần củ a làng xã. Ả nh hưởng của Ý thứ c hệ dội từ
triều đ ìn h xuống chủ yếu được biểu hiện tại đình, q u a lễ tế. Hội
đình còn bao gồm b iết bao sinh h o ạt văn hóa dân gian khác nữa,
với các h èm và trò chơi, kể cả diễn xướng.
Khi trao đổi ngoài lề với nhau, cũng có người cho rằng, T hành
hoàng là biến tướng của m ột vị thần nào đó, chẳng hạn th ần đ ất
của xóm làng thời cổ. Chúng ta không đủ cứ liệu để tá n th àn h hay
bác bỏ ý kiến này. Dù sao, đối với nhiều người, T hành hoàng là vị
th ần được du nhập vào làng xã Việt theo yêu cầu của điều kiện lịch
sử thời Lê sơ và thời Mạc. Không rõ hồi bấy giờ từ n g vị T hành
hoàng làng m ang diện mạo cụ thể ra sao, chỉ biết rằng, bước qua
thời Lê tru n g hưng (thế kỷ XVII), nếu căn cứ vào m ột số sắc phong
và các th ần phả còn sót lại đến nay (chủ yếu do N guyễn Bính ngồi
tại Bộ Lễ thảo ra), thì n hân vật đang được bàn đã hoàn to àn m ang
tín h bản địa. Nhiều khi, Thành hoàng được thờ tại m ột ngôi đình
không chỉ có m ột vị, m à tới năm sáu vị thậm chí nhiều hơn nữa.
T hành hoàng có th ể là danh nhân lịch sử (Lê Phụng Hiểu, Lý T hánh
Tông) có thể là sơn th ần (Tản Viên), là hoàng hậu cùng công chúa
(như ở đình Trà cổ), chẳng những thế còn có th ể là dâm thần, là
trẻ con, là ăn m ày ch ết vào giờ thiêng. Có ư ư ờng hợp làng lập đình,
nh ư n g vì làng không sẵn Thành hoàng, biết làng khác có vị T h àn h
h o àn g thiêng, b èn xin rước b át nhang về thờ. Thế là có vị T h àn h
h o àn g kiêm n h iệm hai địa phận. Điều đó khiến ch ú n g ta ngỡ
rằng, vì bản th â n khái niệm "T hành hoàng" được du n h ậ p từ
ngoài, cho n ên T h ành hoàng cụ th ể của các làng xã có x u ấ t xứ và
sự tích khác n h au . Đ ịnh cho m ọi T hành hoàng ở ta m ộ t ng u ồ n
gốc lịch sử chung, e rằ n g không phù hợp với th ự c tế lịch sử.
Thế là T h àn h h o àn g trở th à n h ông v u a tin h th ầ n củ a làng
xã, ch ú n g tôi m u ố n nói rằng, việc thờ ph ụ n g T h àn h h o àn g vô
9
hìn h ch u n g g ắn liền với việc sùng bái H oàng đế, v à qua H oàng
đế m à sù n g bái triều đình, vì đây là m ột h ìn h th ứ c sinh hoạt
triều đ ìn h th u nhỏ lại. Có thể nói thế, vì sự có m ặ t của vị th ần
này và ngôi đ ình, nơi th ờ vị th ần ấy, ở giữa lòng làng xã làm cho
người d â n q u ê q u en với cái trậ t tự của chế độ vua qu an đương
thời và góp p h ầ n dự ng m ột xã hội ổn định tro n g h ệ ý thứ c của
trậ t tự đó.
10
tôn. Cuối th ế kỷ XVII đáng được xem là m ột giai đoạn b ản lề, bia
ký đương thời xác n h ận tư cách th ắn g th ế của ngôi đ ìn h trong
làng xã. Nhiều đìn h ra đời có sự đóng góp của dân đ in h cả làng.
Đình thực sự trở th à n h công trìn h của tập th ể, và về m ặ t nào đó,
có gằn với chế độ ru ộ n o công, tro n g nhiều trư ờ ng hợp, khi iàng
xã q u yết dựng đình, th ì tấ t cả dân đinh, nghĩa là m ọi người được
chia ruộng công, đ ều có nghĩa vụ phải đóng góp.
11
làng xã phục hồi, cho n ên chúng ta hiếm gặp ngôi đình được
dựng lên lúc bấy giờ. Trong m ột số trường hợp, người ta chỉ tu
sửa, hoặc dự ng th êm n h à tiền tế, hay hậu cung, th ế thôi. Đó là
trư ờ ng hợp, của đìn h Hồi Q uan (Bắc Ninh), n h à h ậu cung đình
Phong Cốc (đảo H à Nam, Q uảng Ninh).
Triều N guyễn (thế kỷ XIX), dù cho chính sách của triề u đại
này là gì, thì, sau qu á nhiều năm chiến tran h , việc nước nhà
th ố n g n h ấ t cũng tạo điều kiện cho làng xã trê n đ ấ t Bắc ổn định
trở lại, ít n h ấ t cũng tro n g m ột thời gian nào đó, xóm th ô n không
còn qu á tiêu điều n h ư trong nử a đ ầu th ế kỷ th ứ XVIII nữa. Dòng
m ỹ th u ậ t tru y ền th ố n g có thời cơ để phục hồi. Cho nên, dưới thời
Gia Long, n h iều đình lớn được dựng, đặc b iệt đình An Đông
(Q uảng Ninh), với n h ữ n g cột cái lớn chưa từ n g th ấy (đường kính
chân cột n h ữ n g 105cm ). Rồi th ì đình Tam Tảo (Từ Sơn, Bắc
Ninh). C hùa cũng vậy, chẳng h ạn như ch ù a Đức La (Yên Dũng,
Bắc Giang) được dựng lại khá to lớn.
12
về sau, đình được dựng nhiều hơn ở m iền xuôi, vôi và gạch được
sử dụng, còn ở m iền núi, thì gỗ vẫn là nguyên liệu chính. Kiến
trúc đ ìn h th âm n h ập cả vào những vùng tương đối hẻo lánh của
m iền ngược, h àn g loạt đình được trải ra suốt từ Lạng Sơn qua
Bắc Sơn về Thái Nguyên; đình Long Đống, đình H ữu Vĩnh, đình
Nông Lục, đình H ưng Vũ, đình Dục Lắc, đình Q uỳnh Sơn...
T rên đất m iền Nam, kể từ nay trở đi, cũng có đình, cũng
thờ T h àn h hoàng. Song, qua n hữ ng đình ở Sài Gòn và ở nhiều
làng xóm xung quanh, thì cảm giác đầu tiên của chúng tôi là m ột
số n é t khác b iệt giữa đình ở đây và đình ở m iền Bắc: hội đình
kém náo nhiệt, T hành hoàng đình nào thiêng thì còn được dân ở
nhiều nơi khác đến lễ bái (đình Ông ở ấp Phong Phú, huyện Thủ
Đức, thư ờng n h ậ t th u h ú t cả người ở Chợ Lớn hay xa hơn tới lễ).
Tuy ch ư a có đủ bằng cứ để dám chắc n hư ng chúng ta cứ ngờ ngợ
rằn g ngôi đình ở m iền Nam, về thự c chất, gắn nhiều hơn với tính
chất củ a ngôi đền. Phải chăng tổ chức có phần lỏng lẻo hơn của
làng xã m iền Nam, so với tổ chức của làng xã m iền Bắc, đã làm
n h ạt đi vai trò của ngôi đình làng
Đ ình làng là công trìn h kiến trúc được coi là lớn n h ấ t của
làng xã, là m ột tru n g tâm văn hóa tru y ền thống của cộng đồng...
13
và tâm linh. Công trìn h nghiên cứu về đình làng trê n các phương
diện lịch sử và văn hóa với m ộ t cái n h ìn tổng th ể về bản chất của
cái đẹp hữ u th ể và cái đẹp vô th ể tro n g sự đan xen tương hỗ của
ch ú ng thuộc tru y ền th ố n g văn hóa n g h ệ th u ậ t của d ân tộc.
2. Lịch sử văn hóa - nghệ th u ậ t Việt Nam gắn chặt với
n h ữ n g bước th ăn g trầm , p h át triển tro n g từ n g thời điểm của văn
hóa - n ghệ th u ậ t dân tộc, ngôi đình là m ột tro n g nhữ ng sản
phẩm tiêu biểu, ứng hợp với từ n g điều kiện của lịch sử. Đó là
m ột đặc điểm rấ t riêng, bởi vì không phải b ất cứ dần tộc nào trê n
th ế giới, sự ứng hợp ấy cũng rõ n é t như vậy. Cũng giống như sự
p h át triể n của dân tộc về m ặt xã hội, sự p h át triển của m ỹ th u ậ t
nước ta diễn ra th à n h m ột chuỗi liên tục, không bị đứ t đoạn,
tro n g đó ngôi đình là m ột trong n hữ ng giá trị v ăn hóa - nghệ
th u ậ t và là m ột gạch nối trê n dòng chảy liên tục ấy để tạo nên
m ột bình diện độc đáo.
Công trìn h nghiên cứu về đình làng Việt Nam được trình
bày n h ư m ột tổng hợp tương đối đầy đủ n h ữ n g n h ận thứ c về tổ
hợp lịch sử văn hóa, kiến trú c nghệ th u ậ t đình làng. C húng tôi
hy vọng rằn g nó sẽ đáp ứng được phần nào yêu cầu của thực tế
và n h ư m ột "cửa mở" cho n hữ ng công trìn h tiếp sau.
14
Lào, Cam -Pu-Chia, Thái Lan... lại bị m ệnh danh là những nước
"Ấn Độ hóa". N ghiên cứu văn hóa nghệ th u ậ t truyền thống Việt
Nam nói chung, đình làng nói riêng, trên cơ sở quy luật lịch sử và
sự tiếp biến văn hóa, chúng ta sẽ loại bỏ dần nhận định chưa
khách quan trên, n hằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta đều hiểu rằng,
tiếp th u không đồng n h ất với "sao chép", v ả lại, bên cạnh những
yếu tố tiếp th u (mà cha ông ta đ ã từng dung hội m ột cách tuyệt
vời dựa trê n cơ sở của tinh th ầ n tự tôn dân tộc) còn có biết bao
yếu tố khác được b ắt nguồn từ rấ t xa xưa trê n đ ấ t nước này,
C húng ta cũng h iểu rằng, m ột th ứ lý luận chung chung, khô
khan, không th ể làm thay đổi m ột quan niệm đã được định hình.
Song, chỉ có th ể xóa bỏ nếp hằn tư duy dự a trê n n hữ ng tài liệu
sinh động, cụ th ể m à công trìn h nghiên cứu về văn hóa - nghệ
th u ậ t đình làng sẽ góp phần vào việc làm đó. Hy vọng rằng,
th ô n g qua công trìn h này, chúng ta sẽ dễ dàng và tự nhiên hơn
tro n g việc khám ph á sự sáng tạo độc đáo của tổ tiên, trê n lĩnh
vực sáng tạo cái đẹp,
Vói tinh th ần nêu trên, chúng tôi tin rằng ấn phẩm Đình làng
Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ) sẽ là m ột công trình nghiên cứu có
tín h chất tổng hợp liên ngành, góp phần nêu bật được giá trị bản
sắc văn hóa của ông cha ta, dẫn tới việc bảo tồn, xây dựng và phát
huy truyền thống tố t đẹp của Di sản Văn hóa Việt Nam.
15
Ọ uán nghỉ, T h u n g L ũng, Ba Vì, Hà Nội
(T ư liệu: V M T )
N hiều loại hìn h kiến trúc cổ truyền của người Việt còn lại
tới ngày nay, có th ể tạm phân định th àn h kiến trú c n h à ở dân
gian, kiến trú c cung điện, lăng tẩm , th àn h quách, kiến trú c tô n
giáo tín ngưỡng... Trong n h ữ ng kiến trúc kể trê n , ch ú n g ta
không th ể tiếp cận được với b ất kể m ột ngôi n h à d ân gian nào có
từ giữa th ế kỷ XVII trở về trước. Từ giữa th ế kỷ XVII trở về sau
cùng lắm chỉ có th ể tìm được nhữ ng kiến trú c n h à th ờ họ kiêm
n h à ở, còn n h à ở thông thường chủ yếu là sản ph ẩm của th ế kỷ
XX về sau. Vì th ế, tro n g việc nghiên cứu kiến trú c n h à ở b ắt
buộc ch ú n g ta phải tiếp cận từ góc độ lịch sử học kiến trú c và
dân tộc học kiến trú c để tìm ra m ột số vấn đề còn n g ư n g đ ọng về
kết Cấu củ a chúng tro n g thời q u á khứ.
17
nó p hản án h về vũ trụ quan và nh ân sinh qu an thuộc nhận thức
của con người. Chính n h ận thứ c đó ià nền tản g tin h th ầ n cho mọi
kiến trú c tôn giáo, tín ngưỡng và cả n hữ ng ngôi n h à thời sau
Rõ ràn g n h ữ n g ngôi nh à kiểu mới m à không m an g th ầ n thái Việt,
tức m ang b ản sắc ẩn tàn g trong tâm hồn của nó, th ì cũng trở
nên có p h ần lạc lõng và xa cách. Vậy kiến trú c n h à ở chính của
người Việt, n h ấ t là ở đồng bằng Bắc Bộ, đã m an g dáng dấp và ý
nghĩa gì?
T rong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của người Việt thì 3
dạng n h à sàn, nh à trìn h tường, nhà m ái dốc đã ít nhiều ảnh
hưởng tới n h ữ n g m ặt khác n h au của ngôi chùa, đình, đền... Vì
th ế ch ú n g tôi m uốn điểm lướt qua về th ần th ái của các ngôi nhà
này trước khi đi vào n hữ ng n é t cơ bản thuộc các kiến trúc đình.
Nhà sàn
Rất n hiều cư dân ở vùng Đông Nam Á có n h à sàn. Nhà sàn
h iện nay còn có m ặt ở hầu khắp địa bàn của các cư dân thiểu số
V iệt Nam, cả ở Tây Bắc, Việt Bắc cho đ ến tậ n Tây Nguyên.,.
Nhiều n h à n g h iên cứu dân tộc học văn hóa còn cho biết, váo thời
gian cách đây chỉ vài ba tră m năm , n h à sàn cũ n g có m ặ t ò vùng
châu thổ sông Hồng. Tới nay th ì n h à sàn cũng m ới chỉ lui về
m iền n ú i cách Hà Nội khoảng hơn 40 km. N hìn chung, ncười ta
có th ể n h ìn th ấ y n h à sàn được th ể hiện dưới h ai dạng: m ột là,
n h ữ n g n h à là nơi ở củ a tiểu gia đình, nó có độ dài vừ a đủ, nhiều
khi chỉ gồm m ộ t gian hai chái, với bốn m ái lá, được dựng trên
các cột cao, th ấ p không n h ấ t loạt như nhau, có khi chỉ cao vừa
18
đủ để chống sự ẩm thấp, n h ấ t là những ngôi n h à ở gần m iền
xuôi. Cũng có khi làm khá cao để còn sử d ụ n g không gian dưới
sàn. Ở vùng Tây Nguyên, thoáng như còn tà n dư của chế độ
"m ẫu hệ", các gia đìn h con gái khi chưa ra ở riêng (cũng có khi
không ỏ’ riêng) đã ở chung với bố m ẹ và dưới m ái nhà này
thường chiếm m ột không gian tương ứng, Do vậy m à ngôi nhà
sàn được kéo khá dài và có bờ nóc thường th eo trục Đông - Tây.
Có m ột điểm đặc b iệt là, n hà rông Tây N guyên có m ái rấ t cao,
như ng n h à ở th ì m ái thấp. Điều chúng ta q u an tâm là ý nghĩa và
n hữ ng n h ậ n th ứ c khác n h au thuộc tâm linh của ngôi nhà sàn ở
phía Bắc và ở Tây Nguyên.
Trong tru y ện cổ tích của người Việt có kể rằng; ở thời
nguyên thủy, tro n g cuộc sống hỗn m ang, con người còn ăn lông
ở lỗ, chư a có nhà, sống rấ t khổ cực. Một hôm , vị tù trư ởng bắt
được m ộ t con rùa, định làm thịt, thì rù a xin th a và nguyện dạy
cho người cách làm nhà. Rùa đứng lên và bảo hãy theo cái m ai
này lấy tra n h làm m ái, th eo cái bụng phẳng này lấy bương làm
sàn, theo chân này m à ch ặt cây làm cột... T ất nhiên, câu truyện
m ang h ìn h thứ c h u y ền thoại do chính con người tạo nên, nhưng
trê n tin h th ần ấy người ta có thể hiểu rằng, m ái nhà sàn cũng
n h ư m u rù a tư ợ ng trư n g cho bầu trời, sàn n h à cũng như bụng
rù a bằng ph ẳn g tư ợng trư n g đất, vì thế, sống trong ngôi nhà sàn
là nhập m ình tro n g sự đối đãi giao hoà của ầm - dương, trời -
đất, để con người được n h ập vào trong dòng sinh lực của vũ trụ,
n ên luôn được no đủ, khoẻ m anh và hạnh phúc mọi m ặt.
Ngôi n h à sàn dài của Tây Nguyên với trụ c m ái theo chiều
Đông - Tây cũng có ý thứ c hòa vào vũ trụ. N hưng điển hình của
n h à sàn Tây N guyên phải là nhà rông. Ý ng h ĩa về nhà rông cũng
n h ư h ìn h thứ c và n h ữ n g v ấn đề liên quan thuộc lĩnh vực văn hóa
của nó... đã được n h iều người nghiên cứu với n hữ ng công trình
dài n g ắn trê n sách, báo, n ên ở đây chúng tôi chỉ dừ ng lại trên
19
m ột khía cạnh th uộc lĩnh vực tâm linh, liên q u an đến kiến trúc
tru y ền thống. Nhà rông điển hình, thư ờ ng có m ái rấ t cao, th ân
rấ t th ấp được làm th eo kiểu n h à sàn, dự ng trê n cả m ột hệ thống
cột và rầm khá chắc chắn. Thông th ư ờ n g ở hai đầu bờ nóc là
"Đ ầu kìm " (như ''K hau cút"), gồm hai th e n gỗ hoặc tre b ắ t chéo,
n h ư n g n h iều khi lại là đầu chim , m ang m ộ t giá trị b iểu tượng
gắn với tâm linh núi rừng. Dọc bờ nóc nối từ "đầu kìm" bên này
đến "đầu kìm " b ên kia, nhiều khi cũng th ể h iện chim và hình
người. T rong q u an niệm của nhiều cư dân trê n th ế giới, th ì loài
chim do bay được ở trê n tần g cao nên đa số chúng tư ợ ng trư ng
cho tần g trời (trừ n h ữ n g con chim nước ít bay).
20
chắn hơn không? thì m ột người trả lời ngay: "N hư th ế người ở
chung với m a à". C húng tôi sửng sốt và chợt hiểu, ngoài n h ữ n g ý
nghĩa, n h ư ta đ ã biết với nhiều chức năng khác nhau, th ì nhà
rông còn có m ộ t chức n ăng khác là nơi tam tần g th ế giới giao
hòa, hay suy cho cùng cũng là m ột trục thông linh giữa tầ n g trê n
- nhân gian - th ế giới bên dưới. Và, ở m ột h ạn chế nào đó, ngôi
nh à này n h ư m ộ t sự k ết tụ tâm linh đến m ức độ cao để cho con
người khi ngồi tro n g không gian nội th ấ t của nó đã như được hòa
cá thẻ vào vũ trụ trư ờ ng tồn
Không gian gắn với ngôi nhà này chủ yếu ở châu th ổ sông
Hồnc và m ột p h ần ở H oa Nam. Nhà trìn h tư ờng thích hợp với
k h ô n j gian v ăn hóa cổ tru y ền của người Việt ở v ùng khí hậu
nhiệt đới gió m ùa. Chắc chắn nhà trìn h tư ờng khó có niên đại
sớm lơ n n h à sàn, nó thích ứng với vùng đồng bằng thấp, nơi có
th ể da cạn n h ữ n g n g uyên liệu tự nhiên. Không gian của nhà
trìn h tường, chủ yếu là ở các m iền quê châu thổ, gắn với các gia
đ ìn h tiểu nông tro n g cơ cấu xã hội thôn dã. Người ta có th ế nghĩ
rằ n g vào m ột làng qu ê của người Việt là tiếp cận ít n h ấ t với bốn
khôn} gian văn hóa. Nơi đồng ruộng tu y không còn chỗ nào
m anc tín h tự n h iên n h ư ở vùng đồng núi nữa, n h ư n g cũng có thể
tạ m coi đây là không gian th ứ n h ất có yếu tố th iên nhiên, không
g ian th ứ hai: giữa đồng ruộng và ven làng, m an g tín h n ử a thiên
nhiên, n ử a văn hóa, không gian thứ ba: vào tro n g làng là không
g ian văn hóa, vào tro n g n h à được coi là không gian văn hóa đậm
đặc. Trong không gian ấy, tư duy nông nghiệp Việt biểu h iện qua
m ộ t số ứng xử với th iê n n h iên và tâm linh đ ã bộc lộ rấ t rõ. Trước
h ế t rgôi n h à th ư ờ n g khá thấp, không bao giờ cao hơn n h ữ n g cây
có th ân gỗ tru n g bình, nó như m ang ý n g h ĩa bám lấy đ ất, chưa
có Ý “hức vươn th eo chiều cao (có lẽ x u ất p h á t từ tin h th ần , từ ý
th ứ c th ự c dụng, chư a đẩy th ầ n linh lên cao). N hiều người cũng
21
cho rằng, với ch ất lượng kém bền vững, ngôi n h à Việt khó vững
trước bão tố tự nhiên n ên không th ể vươn cao được, về không
gian m ặ t bằng của khuôn viên, chúng ta thư ờ ng th ấy các cây lớn
chủ yếu được đẩy ra v en/biên khuôn viên. Ngôi n h à thư ờ ng quay
về hướng Nam, n h ư vậy n h à được nằm chủ y ếu ở phía Bắc của
khuôn viên. Trước m ắt thường là khoảng sân khá rộng, h ìn h chữ
n h ật. Trước thời hòa bĩnh lập lại (1954) sân của n h à người nông
dân chủ yếu để đ ất n ện chặt, nhiều khi đ ất đó được trộ n với m ột
ít vôi trấ u n ên khá rắn chắc. Sân n h à ít n h ấ t có hai tác dụng, m ột
là để phơi lúa, hai là tạo n ên không gian th o án g đãng trước m ặt
nhà, ở phía trước của sân thường được trồng m ộ t dải hoa cảnh.
Tiếp đó thư ờng là vườn rau, cũng có khi lại điểm m ột số cây ăn
quả. N hững cây ăn quả lưu niên, thư ờ ng được trồ n g ở hai bên và
phía sau. N hà bếp được đặt vuông góc với n h à chính (chủ yếu
nằm ở bên trái). Nhiều n h à có giếng nước n ằm ở đầu hồi nhà
chính và n h à bếp (vị trí này không có quy định rõ rệt). Cũng có
khi n h à vệ sinh và chuồng lợn được nối đầu với nhà bếp... Cửa
vào của ngôi n h à rấ t kỵ đi th ẳn g từ m ặt trước vào gian chính, m à
thư ờng ở phía bên hoặc ở sá t góc phía trước, v ấ n đề đ ặt ra ở đây
không phải về tín h ch ất dân tộc học kiến trúc, m à hiện tượng mô
tả tương đối này chỉ để nhằm n h ấ n m ạnh không gian làm nền
cho ngôi n h à chính, ít khi (có n h ữ n g kiến trú c phụ) phá vỡ sự
th o án g đ ãn g ở trước m ặt. Từ thự c tế đó, ngôi n h à với mái thấp
càng có xu hướng n h ư bị h ú t xuống đất. T rong cách thức làm
n h à trìn h tường, người ta thấy có m ấy điểm nổi b ậ t như: sau khi
định vị về ngôi nhà, người ta vượt đ ất lên làm n ền n h à và tường.
Đưcmg nhiên, đ ất được trộ n với m ạ t cư a/trấu v à vôi bột... nhào
đều để tạo sự bền vững và trá n h n ứ t nẻ, n ề n n h à thư ờng cao
hơn m ặ t sân m ộ t chút, khoảng 20 - 30cm, n h ằm trá n h nước m ưa
vào tro n g lòng nhà.
22
giờ lát nền n hà (đây cũng là hiện tượng không lát nền của các
kiến trú c tín ngưỡng tru y ền thống...), vì người xưa quan niệm
rằng, lát nền n h à bằng gạch hoặc chất liệu n h ân tạo là ngăn cách
sự giao hòa của khí âm dương, khiến cho cuộc sống trong ngôi
nh à dường như duơng nhiều, âm ít, tạo sự m ất cân bằng và hệ
qu ả là khó có khả n ăn g dàí dòng ỉớn họ. Thiếu sự hỗ trợ của thế
giới âm , trong đó có cả tổ tiên, kèm theo đó là v ật nuôi, cây
trồng cũng khó có điều kiện sinh sôi và p h á t triển, dẫn đến gia
đình đó bị th ấ t bát. Vì thế, để lèn chặt nền n h à người ta thường
chỉ đóng xuống n ề n n h ữ n g n ử a h ạt trám hoặc đôi khi ở ven biển
là n h ữ n g vỏ sò... m à thôi. Đối với tường nhà, người xưa thường
sử dụng hai tấm ván dài đ ặt úp m ặt vào nhau, với khoảng cách
bằng độ m ở của tường, ken giữ cẩn thận, rồi đổ đ ất và dùng vồ
nện chặt. Sau đó n hấc ván ra để thực hiện ở độ cao kế liền. Cứ
như th ế lại n ân g ván lên để đổ lớp đ ất th ứ hai, thứ ba cho đến
khi h oàn th à n h bức tư ờng bao quanh ngôi nhà. N hững ngôi nhà
cổ trin h tường này có tường rấ t thấp, thư ờng chỉ ngang đầu
người (xấp xỉ 1,5 - l,6 m , có khi thấp hơn). Phía sau và hai bên
được bịt kín, p h ía trước tạo m ộ t cửa ra vào ở chính giữa, hai bên
có cửa sổ với chấn song bằng các th an h tre, cửa mở chỉ là m ột
tấm liếp đơn giản. Mái n h à cũng chỉ là n hữ ng v ật liệu gần như tự
cấp, tự túc, n h ữ n g đòn tay, đòn nóc là n hữ ng th â n tre được trồng
phía sau bếp, còn m ái rạ (phần dưới của cây lúa) thì có sẵn. Mái
này thư ờ ng được lợp dày, có khi tới 30 cm, n ên tạo cho ngôi nhà
m át về m ùa hè, ấm về m ùa đông. Trong cách xây dựng như vậy
th ì ngôi nhà này rấ t tối, vì th ế, chỗ tran g trọ n g n h ấ t và sáng
n h ấ t tro n g n h à th ư ờ n g là của bàn thờ. Ở đó, đối với n h ữ n g nhà
khá giả cũng n h ư n h à bình thường, đều chú ý tran g trí nhữ ng
m àu nóng, n h ằm trá n h không khí lạnh lẽo, m à thực ra chủ yếu
chỉ để sưởi ấm tâm hồn. Nhìn chung, n h à trìn h tường là m ột ngôi
n h à tiểu nông, th ích hợp với cả thự c tế khắc ng h iệt của thiên
n hiên v à tâm hồn người Việt trong quá khứ, tru y ền thống này
23
ản h hưởng sâu đậm đến m ột số vấn đề kết cấu của các kiến trú c
tôn giáo, tín ngưỡng Việt.
Nhà m ái dốc
Theo sử sách, dưới thời Trần, th ế kỷ XIII, xrv, sứ n h à
N guyên là T rần Phu có nói về ngôi n h à ở của người V iệt n h ư sau:
"Làm n h à không có kiểu gấp m ái hoặc chống kèo, m à từ đòn
dông đ ến m ái hiên cứ th ẳn g tu ộ t m ộ t m ạch, như đổ h ẳn xuống...
Nóc n h à tu y h ế t sức cao n hư ng m ái hiên thì chỉ chừ ng bốn năm
xích..., có n h à còn th ấp hơn nử a là khác, cho n ên tối, m ái n h à
n g ang m ặ t đ ấ t và trổ cửa sổ..." (theo An Nam tức sự).
Một là lều vịt nhỏ, hay lều can h ao, dưới dạng m ái đầu n h à
cong tròn, n h à này có khi làm trê n m ặt nước, chỉ có tấ m liếp làm
m ái khum trò n đầu, toàn m ặ t sàn chỉ to hơn chiếc chiếu c h ú t ít.
Hai là, kiểu n h à tạm khá lớn, dài..., thư ờng gặp ở n h ữ n g bãi m ía
v en sông Đáy của đ ất Hà Nội, người ta dùng tre tạo n ên kh u n g
n h à liền m ái. Theo độ m ở của nhà, hai cây tre được cắm chân
24
xuống đ ất ở hai đầu hồi rồi vít ngọn buộc với n h au ở trên đỉnh,
n h iều cây tre khác nối đòn nóc và chôn ch ân xuống hai bên, tất
n h iên phải có n hữ ng hoành buộc chặt với khung để làm bộ
xương cho mái. Ngôi nhà này khá cao (nếu đứng trong lòng nó),
mái được lợp bằng lá mía, chạy suốt từ đỉnh xuống sát dưới đất,
vì th ế không có tường, Cửa mở ở đầu n h à cũng có khi ở bên
hông. Tại m ột đầu là nơi để "máy" quay/ép m ía do trâ u kéo, ở
gần chính giữa là lò nấu m ật. Đe thoáng khí, người ta đã tạo m ột
"m ái bẩng" kênh lên ngay phía trên của lò nấu. Ngôi nhà này
cũng là kho m ía đem từ bãi về. Nhìn chung, n hữ ng ngôi n h à kể
trê n chỉ được làm m ang tín h tạm thời vào m ù a th u hoạch mía,
khi gió heo m ay về, gần tế t Nguyên đán m à thôi, n ên nó chỉ tồn
tại tro n g vòng vài ba tháng, chúng không được chú ý làm nền và
qua đó chỉ m ang bóng dáng gần với ngôi n h à m à Trần Phu đã kể
cho chúng ta biết.
25
đóng xuống m ặt đất tại vị trí ranh giới giữa gia đình của người chị
và của ngườỉ em tiếp theo. Ở phía trên cao, người ta làm m ộ t m ặt
sàn, có vách đứng bao quanh, để đựng lương thực. Cả h ệ thống
chứa lương thực này đều được đặt sát với đòn nóc. v ấ n đề đặt ra,
ngoài hình thức của bộ m ái và thân nhà thấp, thì sạp là nơi nghỉ
ngơi, còn sàn là nơi để lương thực. Đó là m ột dấu tích về kết cấu
nhà cổ truyền, để chúng ta suy nghĩ kỹ hơn về kết cấu ván sàn của
ngôi đình làng đ ất Bắc với nơi thờ Thành hoàng làng và nơi ngồi
họp của chức sắc cùng dân đình.
Mặt khác, chỉ có những công trình văn hóa ít nhiều gắn với
tôn giáo tín ngưỡng là sản phấm phổ biến trong cộng đồng, chúng
có m ặt thường xuyên ở nơi thôn dã, và bám rấ t chặt vào những
bước đi cơ bản của dân tộc; nó phản ánh, ở m ột khía cạnh nhất
định, tín h liên tục của lịch sử, và chính qua đó, nó duy trì bản sắc
văn hóa dân tộc. Các di tích này, tuy đã gắn với sinh hoạt tâm linh,
nhưng phạm vi phản ánh của chúng "m ênh m ông'' hơn rấ t nhiều,
đó là vấn đề của lịch sử và xã hội, là nhịp thở của thời quá khứ, là
những ước vọng truyền đời của tổ tiên... Vì thế, chúng đã vượt lên
trên yếu tố th ầ n linh để trở th à n h m ột đối tư ợ ng đ án g quan tâm
của lịch sử. Có th ể ng h ĩ rằng, n hữ ng di sản v ăn hóa v ật th ể này
là n h ữ n g tra n g sử cụ th ể bằng kiến trúc ng h ệ th u ậ t, đủ lực bào
m òn nhữ ng tư duy giáo điều, những định hình sai trái cho quá khứ.
26
thường, khi nói đ ế n ngôi đình, người ta n g h ĩ ngay tới kiến trú c
lớn n h ất của làn g xã, đ ồ n g thời cũng có th ể coi đây là m ột kiến
trú c bắt n g u ồ n từ thờ i tiề n sử, sơ sử của d ân tộc. N hiều n h à
n g h iên cứu củ a th ế kỷ XX đă cố công ngược dòng lịch sử đế
tìm về n g u ồ n gôc củ a đình, họ đã tiếp cận từ góc độ các vị
th ầ n linh liên q u an , cả trê n phương diện so sán h kiến trú c với
n h ữ n g ngôi n h à có n é t tư ơ n g đồng của tộc người th iể u số... để
gần Iihư tin rằ n g , ngôi đ ìn h của người V iệt là m ộ t sản phẩm
của sự v ận đ ộ n g tự th â n dân tộc, là sự tổ n g hòa của nh iều
dòng chảy v ă n h ó a như: n h à sàn, n h à rô n g Tây N guyên, n h à
th u y ền v en b iể n và n h iề u yếu tố khác. Người ta cũng chư a xác
đ ịn h được m ộ t cách cụ th ể n iên đại khởi d ự n g củ a đình làng,
khiến cho đ ến nay chư a có m ột giả th iế t nào đủ sức th u y ết phục
hoàn toàn tro n g n h ận thứ c của chúng ta. Trong n hữ ng năm
trước đây, m ộ t nhóm n h à nghiên cứu dân tộc học kiến trúc, dưới
sự trợ giúp của cố Giáo sư Từ Chi đã đưa ra m ột n h ận thứ c có
phần bất ngờ là: đìn h được phân định theo nhiều dạng khác
nhau, đồng thời đ ặt ra m ột "giả th iết để làm việc" về sự xuất
h iện của đin h làng là vào khoảng cuối th ế kỷ XV, định hình vào
th ế kỷ XVI, p h á t triể n vào cuối thế kỷ XVII, suy dần vào th ế kỷ
XVIII, và b iến đổi bản ch ất vào th ế kỷ XIX. Đây là m ột nhận
định tuy đ ộ t ngột, n h ư n g ngày càng được nhiều người quan tâm
và tan th àn h , đó là m ột trong không nhiều hướng nghiên cứu
được n êu ra với ch ú n g ta. Chúng tôi theo luận điểm này để dẫn
dòng chảy n h ậ n thứ c vào "đình làng Việt".
27
Đ ình quán, là q u án nghỉ được nằm rải rác ven n h ữ n g con
đường giao th ô n g cổ truyền, cũng có khi nó được d ự n g ở giữa
cánh đồng, m an g chức năng của m ột ngôi n h à nghỉ trá n h nắng,
m ư a cho n h ữ n g người đi đường, n hữ ng người nông dân làm
ruộng. H iện nay, đây đó, còn th ấy n hữ ng ngôi đình n ày ở vùng
nông thôn, n h iều khi nó chuyển hóa th à n h m iếu th ờ n h ữ n g th ần
linh không d an h tín h hay cô hồn bơ vơ, cũng có khi là nơi th ờ thổ
th ần /th ổ địa. T ất cả n h ữ n g ngôi đình này đều núp dưới bóng cây
um tù m và n h iều khi tro ng đình còn có qu án bầy bán chè xanh
và m ộ t vài sản phẩm nơi thôn dã. N hững ngôi đình này thư ờng
được làm rấ t đơn giản, nhiều ngôi m à chúng ta gặp được còn giữ
bóng dáng của kiến trúc 4 mái. Có lẽ nó đồng n h ấ t với n h ữ n g
dạng điếm th ờ của xóm, còn lại khá nhiều ở v ùng Sơn Tây
(những điếm này có khi vẫn còn sàn và có bàn thờ bày ở chính
gian giữa, chủ yếu là th ờ vị th ầ n bảo vệ đ ất đai của d ân cư xóm
làng. Kết cấu của kiến trúc này thư ờng nhỏ, m ột gian hai chái
với bộ khu n g bằng gỗ lợp ngói cổ).
Một dạng kiến trú c khác cũng được nhắc tới tro n g sử sách,
đó là tòa n h à ba gian tường hồi bít đốc, có khi để trố n g ở hai m ặt
trưốc sau, hoặc gian giữa, nhằm thông gió, đến m ù a đông thì
phía sau được bịt lại cho ấm bằng các v ậ t liệu khác nhau, tới
m ù a nực lại bỏ ra. Hai gian bên có khi xây bục để ngồi hoặc nằm
nghỉ. N hững n h à này cũng thư ờng có qu án nước, ch ú n g có th ể là
sản phẩm kiến trú c cách ngày nay khoảng vài ba trăm năm .
N hững q u án ng h ỉ kiểu này đã được dân địa phương coi n h ư m ột
kiến trú c h ằn sâu vào tư duy của m ình, vì vậy, gần đây ta vẫn
còn th ấy n h ữ n g đìn h /q u án đó được xây m ới bằng ch ấ t liệu hiện
đại, ch ẳn g h ạn n h ư ở v ùng Thạch T h ất (Hà Nội), gần con đường
Láng - Hòa Lạc có m ộ t ngôi n h à m ở cửa giữa, hai cử a sổ ở hai
gian b ên và có cả cửa sổ đầu hồi. So sánh giữa kiến trú c n ày với
điếm canh đê không xa cách n h au bao nhiêu.
28
Chúng ta có thể tin được rằng, ở nhiều nơi, m ột số đình/quán
kiểu này đã hội n h ập với các kiến trúc m an g n hữ ng chức năng
khác như m iếu "m ục đồng" hay m iếu ''thờ th ần lúa", m à từ nửa
sau th ế kỷ XX đến nay không còn thấy nữa, (chỉ biết được qua
điều tra hồi cố ở vùng T hanh Oai). Như thề, rõ ràng n h ữ n g đình
q u án này có chức năng chính là để nghỉ ngơi với ý thứ c thực
d ụ n g của nông dân Việt. Người ta cũng kết hợp chúng với m ột
p h ần của tứi ngưỡng dân gian để vừa làm chỗ nghỉ tạm cho
người, vừa làm nơi trú ngụ của m ột số th ầ n linh cấp thấp. Ngoài
ra, th e o lịch sử, vào thời T rần (Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu) có
cho b iết rằng: vào th u ở hàn vi, Thượng hoàng (Trần Thái Tông)
có tới nghỉ tại m ột đình quán và được m ột th ầ n n h ân coi tướng
đ oán định rằn g "người này về sau sẽ đại quý", nay n h à v u a lệnh
cho các nơi đem tư ợng Phật vào thờ. Như vậy, ngay từ thời Trần
đã có hiện tư ợng P h ật giáo hóa quán nghỉ.
Trở lại vấn đề lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu còn ngờ rằng,
x u ấ t p h át từ n h ữ n g ngôi đình quán dạng n êu trê n v à m ặ t nào có
sự ản h hưởng của văn hóa T rung Hoa, m à m ột số kiểu đ ìn h khác
được hìn h th àn h , tro n g đó có nhữ ng quán nghỉ của sứ th ầ n địa
phư ơng hoặc ngoại quốc, trước khi vào tiếp kiến n h à vua. Ngôi
đ ìn h q u án ấy th ư ờ n g ở sát kinh thành, kiến trú c của nó m ang
dạn g thứ c n h ư th ế nào hầu như không được ghi chép lại. Qua
khảo sát đ iền dã khảo cổ học, tại kinh th à n h Hoa Lư (Ninh Bình),
ch ú n g ta có th ể tạ m coi ngôi đình quán ở phía ngoài cửa động
29
T hiên Tôn là m ột ngôi đình có dấu v ết sớm n h ấ t về dạng đình
kiểu th ứ c này ở nước ta,
30
Đình làng, có th ể COI là m ột kiến trúc lớn n h ất trong nhữ ng
kiến trú c th ô n dã trước đây (chủ yếu ra đời dưới thời quân chủ
chuyén chế Nho giáo). Chúng có nhiều chức năng khác nhau,
trước h ế t có th ể coi là m ột trụ sở của chính quyền quân chủ Nho
giáo, nơi ban bố chinh lệnh của triều đình. Từ lúc hình thành,
đình làng củng là nơi giải quyết những việc công của làng như
sưu th u ế, phu, lính... Đình làng còn là m ột tru n g tâm sinh hoạt
văn hóa riên g của làng theo kiểu thức "trống làng nào làng ấy
đánh, T h án h lànq nào làng đó thờ". Đình làng là nơi tập hợp dân
đinh khi có việc làng, đồng thời cũng là nơi hội họp thư ờng
xuyên của các hội đồng kỳ mục, nơi khao thư ởng đón tiếp quan
chức cấp trên , đón tiếp người đỗ đạt... Đình làng là nơi thờ
T hành hoàng làng., đương nhiên vai trò của đình làng còn lệ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từ ng làng m à sẽ có th êm m ột
vài chức n ăn g khác.
Từ ngôi đìn h làng, người ta có thể tim ra được rấ t nhiều
vấn đề liên q u an tới lịch sử và xã hội chung của dân tộc. Trong
phần này. ch ú n g tôi chỉ d ư na lại à m ột số khía cạnh thuộc lĩnh
vực văn hóa v à nghệ th u ật, m à chưa có khả năng đi sâu toàn
diện vào mọi vấn đề. Dựa vào những kết quả n g h iên cứu hiện
nay về ngu ồ n gốc, diễn trìn h phát triển của đình làng, chúng tôi
sẽ đề cập m ộ t cách khái q u át những vấn đề liên qu an tới kiến
trúc này.
31
châu m ục ở x a dưới phương thứ c ky m i(1), dù cho thời T rần chặt
chẽ h ơ n th ờ i Lý, chính từ sự p h át triển đó đã tạo điều kiện cho
n h à Lê sơ ch iêu tậ p được nhiều th ủ lĩnh địa phương cùng th am
gia k h án g ch iến (việc T rần Lựu chém Liễu T hăng ở Chi Lăng là
m ộ t ví dụ). Có th ể từ đây người Việt đã n h ậ n th ứ c sâu sắc hơn
rằn g , m u ố n bảo vệ độc lập dân tộc thì buộc phải củng cố m ối đại
đoàn k ết cộng đồng n hiều tộc người, đồng thời củng cố uy lực
của triề u đ ìn h m ạ n h m ẽ hơn về m ặt chính trị cũng n h ư nhiều
m ặ t khác. T rên đ ịa bàn thự c tế đã thấy dấu tích của n h à Lê sơ để
lại từ n h ữ n g n ăm 30 của th ế kỷ XV ở Hoà Bình, Sơn La, Cao
Bằng v à n h iề u v ù n g xa khác, rồi đến n ử a cuối th ế kỷ này khẳng
đ ịn h hơn ờ v ù n g H ạ Long. Ngoài ra, Lê T hánh Tông (qua tru y ền
th u y ết) cũ n g đ ã để lại dấu tích của m ình trê n núi "đá bia" tại
m iền N am T ru n g Bộ,... T ất cả nhữ ng điều n êu trê n cho th ấ y sức
m ạ n h của ngư ời V iệt đã được khẳng định qua triề u đình đương
thời, với h ạ t n h â n cơ bản là tộc người chủ thể. Một "sán g kiến"
dưới thời Lê T h án h Tông là tạo ra ngôi đình th eo m ộ t dạn g mới.
C hưa rõ n h ữ n g ngôi đình này được đưa vào nông th ô n dưói hình
th ứ c nào, n h ư n g m ột tro n g n hữ ng ngôi đình được sách vở nhắc
tới là đ ìn h Q u ản g Văn, được làm vào năm 1492. Nếu chỉ dự a vào
sử sách th ì có th ể ng h ĩ rằng, ngôi đình trê n chỉ m an g tư cách là
trụ sở để b an bố ch ính lệnh của n h à vua. về m ặ t kiến trúc, đình
• I • 9
(1) Quản lý năng lực ràng buộc (qua phong tước, gả công chúa).
32
hơn, th ể h iện ở việc xác lập vai trò của Lý trưởng. N hân v ậ t này
ít n h iều n h ư làm cạn m òn đi yếu tố kính sỉ (trọng lão) vốn đ ã tồn
tại lâu đời ở nơi th ô n dã, để xác lập tính chất kính tước liên q u an
tới chế độ quân chủ chuyên chế Nho giáo. Có th ể n g h ĩ rằ n g Xã
trưởng, Lý trưởng gần n h ư có chức năng hai m ang, vừ a đại diện
cho triều đình tro n g mối q u an hệ với dân chúng, lại v ừ a đại diện
cho dân chúng trong quan hệ với triều đình, và n h â n v ậ t này
không do triều đình cử về m à do chính nhữ ng người d ân sở tại
cử ra. N hư vậy, tạm coi Lý trư ởng là m ột hình th ứ c n h â n dạng
của đặc tín h Việt tro n g mối quan hệ trên - dưới ở thời Lê sơ, và
ngôi đìn h cũng dường n h ư m ang tính chất đó dưới d ạn g kiến
trúc. Có lẽ tín h hai m ang đã tạo sức sống và sự tồ n tại cho ngôi
đình, để rồi trong diễn trìn h p h át triển, nó th ăn g trầ m cùng với
n h ữ n g biến động của làng xã.
33
chúng ta có th ể tạm nghĩ rằng, đây là trụ sở của chính quyền,
nơi m à n h ữ n g người đại diện cho triều đình tiếp cận với dân
chúng. Đ iều còn chưa rõ là kiến trúc này đã th ự c sự có m ặt rộng
rãi ở các làng xã chưa, hay mới chỉ dừng lại ở n h ữ n g tru n g tâm
lỵ sở (?). Vì th ế chúng tôi mới chỉ dừng lại ở m ứ c độ coi những
kiến trú c dạng trê n là sự m an h n h a của đình làng.
Ngôi đình làng sớm nhất, m à ta biết được h iện nay, là đình
Thụy Phiêu ở Ba Vì - H à Nội, có ghi rõ m ột n iên đại ở đầu cột vào
th ế kỷ XVI (Đại Chính nhị niên, 1531), và chỉ là niên đại trùng
tu, vì vậy có th ể nghĩ rằng, đình Thụy Phiêu đ ã được khởi dựng
vào m ột thời điểm trước đó. Từ đây có th ể đ ặ t ra m ộ t giả th iết là,
ngay đầu thời Mạc, xu hướng p h át triển của kinh tế thương mại
dọc th eo sông Hồng, sông Đáy cùng với sự phục hồi của văn hóa
dân dã đã cho phép ở m ặt nào đó giữa triều đình và q u ần chúng
nơi th ô n xã không còn có sự ng ăn cách rạch ròi n h ư dưới thời Lê
sơ, n ên h iện tư ợng dân gian hóa ngôi đình để chuyển nó th àn h
đình làng cũng là điều có th ể hiểu được. T rong buổi khởi đầu
này, khi đìn h trở th à n h m ột thực th ể văn hóa của làng xã, người
dân đã hội n h ập vào đình làng nhữ ng sinh h o ạt của thôn dã,
tro n g đó bao gồm cả sinh h o ạt trần gian và sinh h o ạt tâm linh,
có th ể coi đây là tiền đề cho sự x u ất hiện của các vị th ần linh
dân d ã hoặc được dân dã hóa tại chốn th âm nghiêm của đình
làng. Điều này đã xảy ra đối với nhiều ngôi đ ìn h ở v ù n g Ba Vì,
tro n g đó có đình Thuỵ Phiêu với Tản Viên Sơn T hánh. Như vậy,
ngay từ khi b ắ t đầu chuyển từ "trụ sở" th à n h đình làng thì kiến
trú c này đã có yếu tố của m ột ngôi đền th ờ th ần . T ất nhiên,
người ta v ẫn không bỏ đi chức năng khởi n g u y ên của nó, và tính
d u n g hò a đã khiến cho cả tần g lớp trê n và bình dân lớp dưới đều
được th ỏ a m ãn với dạng th ầ n linh này. Khồng rõ các vị th ần này
được gọi là T h àn h hoàng làng từ khi nào, chỉ b iết rằng, trong quá
trìn h p h á t triể n của kiến trú c tôn giáo ở n ông th ô n Việt thì
34
T hành hoàng làng thư ờng được thờ tại đ ìn h (nhiều khi cũng
được thờ tại n h ữ n g ngôi đền, nghè, m iếu có liên qu an trực tiếp
tới ngôi đình) T rong n h iều lễ hội, người ta rước T hành hoàng
làng từ m iếu - n g h è về đình để làm lễ tế v à thực hiện các sinh
h o ạt tâm linh liên quan. H iện tượng này củng ít nhiều tương
đồng với n h ữ n g lễ hội của các hệ kiến trú c đ ền th ờ nằm trong
m ột h ệ th ố n g tín ngưỡng khác, như trong h ệ thống th ờ Tứ Pháp
ở chùa Dâu. Vào ngày hội người dân các làng thường rước tượng
của các bà Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện ở các chùa Đậu, chùa
Tướng, ch ù a Giàn về chùa Dâu rồi rước v ề chùa M ãn Xá; hay
n h ư ở Nghi Lộc, T hanh Oai, nhiều làng kết chạ cũng rước bài vị
T hành hoàng làng của th ô n m ình về đình làng Nghi Lộc. Nhiều
n h à n g h iên cứu n g h ĩ rằng, hiện tượng kể trê n x u ất p h á t từ nhiều
nguồn gốc: Một là, các vị th ầ n này, m ột sản phẩm của tư duy dân
dã, theo sự tích có mối liên quan trực tiếp với cuộc sống của con
người (như m ây, m ưa, sấm , chớp gắn với nguồn nước no đủ)
hay n h ư ở đ ìn h Nghi Lộc là gắn với hệ "Tam Sơn" trong tín
ngưỡng cổ tru y ền . Hai là, các lànơ này có m ộ t mối quan hệ thân
th iết, chẳng h ạ n n h ư kết chạ (liên kết an h em), để hỗ trợ nhau
tro n g sản x u ất cũng n h ư tro n g quá trìn h khai canh, m ở đất, hoặc
do dân đông làng lón, với n h u cầu p h át triể n m à phải chia tách
làng, th eo đó ph ải chia tách th ần linh th àn h nơi thờ chính và nơi
thờ phụ...
Đôi khi, ở n h ữ n g làng m à vai trò của giới "Nho sĩ dân gian"
p h át triể n m ạn h th ì T h àn h hoàng làng có khi không được th ờ ở
đ ìn h m à chỉ th ờ ở m iếu, n g h è của các thôn, chỉ vào ngày hội mới
rước về hội tụ ở đìn h để sinh hoạt tâm linh.
35
thường, (khiến cho) m ọi chức n ăn g của ngôi đình, n h ư về sau,
chưa m ạn h và có lẽ cũ n g do vị th ế của ngôi chùa và các kiến trú c
tôn giáo khác còn khá đậm , người dân chưa hẳn qu an tâm m ạnh
m ẽ đ ến ngôi đình. Tạm có th ể đ ặt ra m ột giả định rằng, dưới thời
Mạc, h ìn h thứ c của ngôi đinh làng còn m ang dáng vẻ áp chế,
nặn g nề, với n hữ ng m ái lớn, th â n thấp, đặc biệt là bờ m ái th ẳn g
chưa d ù n g tầ u mái, chư a có góc m ái cong thuộc k ế t cấu bộ
khung, đình chưa có tư ờ ng bao. Vào đầu th ế kỷ XVII đình làng
gần n h ư kém p h át triển , hiện tại chúng ta chỉ tìm th ấy đình
Tường Phiêu ở xã Tích G iang (Tùng Thiện), huyện Phúc Thọ, Hà
Nội, đình X uân Dục, Gia Lâm, Hà Nội (xác định năm 2006). Trên
m ột phương diện n h ấ t định cũng có th ể xếp đình Phù Lưu ở thị
xã Từ Sơn, Bắc Ninh vào giai đoạn này. Đây là thời kỳ của cuộc
chiến tra n h Nam Bắc triề u (Trịnh, Mạc) vừa kết thúc, các yếu tố
thư ơng m ại vốn được đ ề cao, nay như bị đẩy xuống dưới yếu tố
nông nghiệp, khiến cho sự tiến bộ của lịch sử dường n h ư bị kéo
lùi trở lại. Sự "ngỡ n g à n g của thời cuộc" không th ể không ảnh
hưởng tới kiến trúc tru y ề n thống cửa dân tộc. Vào giai đoạn đầu
th ế kỷ XVII, hiếm th ấy n h ữ n g kiến trúc tôn giáo của cộng đồng
làng xã được xây dựng mối, m à chủ yếu chỉ thấy sự ra đời (hoặc
trù n g tu) n h ữ n g công trìn h lớn n h ư n h ữ n g ngôi đền, ngôi chùa
kiểu "trăm gian" (có sự bảo trợ của tần g lớp quý tộc ở triều đình)
tại các "tru n g tâm " tín ngưỡng có ảnh hưởng tới đông đảo tín đồ
th ập phương. Có th ể n g h ĩ rằng, tầ n g lớp trê n chưa m uốn tham
gia tô n tạo n h ữ n g ngôi đình làng vì không gian ảnh hưởng của
nó còn q u á "eo hẹp". Trở lại với ngôi đình Tường Phiêu, có lẽ,
nối tiếp bước đi của ngôi đình thời Mạc, ngôi đình thời này đã
h ằn sâu hơn vào tâm h ồ n của cư dần làng xã để chuyển hóa cả
về chức n ăn g và về h ìn h thứ c k ết cấu. Neu ở thời Mạc, vào cuối
th ế kỷ XVI người ta còn tìm th ấy đôi rồng cuộn th ân với nhau,
ngóc đầu lên đỡ m ột tấ m biển đề 4 chữ "H oàng Đe vạn tu ế" như
để khẳng đ ịn h vai trò của n h à v u a (đình làng Lỗ H ạnh, H iệp Hòa,
36
Bắc Giang), thì đến th ế kỷ XVII hiện tượng này hầu như không
còn. Từ đây, các th ần linh q uen thuộc ở n hữ ng đền, m iếu, vốn
được coi là th ầ n làng, thì nay m ột số vị "quan trọng" gần như
đồng loạt được chuyển đối th àn h Thành hoàng làng, ngự trị
tro n g đình. Các vị th ần này được quân chủ hóa, m ang tước
vương, m ộ t biểu hiện tôn vinh phù hợp với yêu cầu của quần
chúng, đồng thời, trê n m ột phương diện nào đó cũng phù hợp
với yêu cầu của tần g lớp trên, vì tôn trọng T hành hoàng làng -
ông v u a tin h th ầ n của làng xóm cũng đồng n h ấ t với việc tôn
trọ n g ông vua đương nhiệm , người "cao" hơn cả T hành hoàng
làng vì có quyền ban sắc phong tước cho th ầ n linh ở các địa
phương. Có th ể thấy, trong xã hội nông nghiệp có sự phân hóa
xã hội không cao như ở nước ta, th ì sự phong vương cho T hành
ho àn g làng không đơn giản chỉ là sự chuyển đổi th à n h phần có
tính ch ất giai cấp, thự c ra trong th âm tâm của người dân, việc
làm đó thư ờng chỉ là sự đề cao, sang hóa, vinh quang hóa vị th ần
của họ m à thôi.
37
n g h ệ th u ậ t của dân tộc và đây là m ột sáng kiến lớn trê n bước
đường p h á t triể n của nghệ th u ậ t kiến trúc đình làng. Đ ồng thời,
h ìn h thứ c đó cũng là sự m ở đầu của việc chuyển tải n é t duyên
d án g vào các loại h ìn h kiến trúc khác. Tuy nhiên, m ộ t tr á trê u
củ a lịch sử là, m uốn tạo ra kết cấu góc m ái cong, người đời sau
đ ã sẵn sàn g xâm p hạm tới kết cấu của thời trước, chẳng h ạn nh ư
ở đình Tây Đằng, tầu m ái được lắp mới đã làm m ấ t đầu n hữ ng
con lân hay làm cụ t n h ữ ng hình hoa trê n các bức p h ù điêu ở đầu
bẩy m ộ t cách không thư ơng tiếc.
"m uôn đời m uôn thuở" Việt. Tuy nhiên, dù góc m ái có tạo sự
"bay" cao lên, dẫn tới cảm giác n h ẹ nhàng, n h ư n g xu hướng
ch u n g vẫn chư a p h ản án h được ý thứ c đưa kiến trú c vươn theo
chiều cao. Tỷ lệ giữa m ái với th â n tuy vẫn còn rấ t lớn, song các
cột đ ã cao hcm, lòng đình có ph ần rộng ra, th o án g đãng, và hầu
n h ư ch ư a th ấy phổ biến dấu v ết tường bao, tấ t cả n h ữ n g điều đó
n h ư để th ể h iện về m ộ t tâm hồn m ở của kiến trú c d ân tộc.
38
Vào th ế kỷ XIX, ru ộ ng đ ấ t công của làng xã suy giảm
m ạn h , k h iến cho chính vua M inh M ạng và Tự Đức phải ra sắc
lện h th u lại ru ộ n g tư để chuyển hóa th à n h ru ộ n g công. Tuy
việc làm này kh ô n g th àn h , n hư ng cũng chứ ng tỏ, kinh tế nông
n g h iệ p m ang n ặn g tín h cộnq đồng không còn chiếm th ế
"th ư ợ n g p h o n g ". Đó là m ộ t tro n g n h ữ n g lý do để cho n h ữ n g
ngôi đ ìn h dưới thời N guyễn được xây dự ng kh ắp nơi th eo m ộ t
d ạn g th ứ c k hác và nó n h ư vư ợt ra ngoài không gian tâm linh
cổ tru y ề n củ a làn g xã, có th ể n h ữ n g kiến trú c tô n giáo nói
ch u n g đã có sự th a m gia của tầ n g lớp buôn b án nhỏ v à chính
q u y ền sở tại. Đe thời kỳ này, không riên g ở phía Nam m à cả
trê n đ ấ t Bắc, ngôi đìn h đã m ang n h iều hơn về tín h ch ấ t của
m ộ t ng ô i đ ề n th eo q u an niệm th ô n g thư ờng.
39
số p h ận của n h ữ n g kiếp đời ở trầ n gian m ột cách chủ q u an nhiều
khi độc đoán. Còn với người Việt - m ột cư dân nông nghiệp lúa
nước, từ sớm đã n h ận thứ c có trời cha đ ất m ẹ. Trời là ng u ồ n sinh
lực vô biên, giữa trời và đ ất có mối liên h ệ thì m u ô n loài mới
p h át sinh p h á t triển . T ất nhiên, mối liên h ệ ấy được hội tụ vào
n h ữ n g cơn m ư a hay n hữ ng đỉnh núi cao, và bằn g vào chiêm
nghiệm , người xưa còn cho rằng, tro n g không gian bao la vẫn có
n h ữ n g dòng chẩy sinh lực vô hình từ tần g trê n xuống. Thông
thư ờng m ản h đ ấ t đó phải đ ạt được n hữ ng chuẩn cơ bản là cao
ráo, sạch sẽ, th o án g đãng, tươi nhuận, cây cối x an h tốt, chim
m uông hội tụ ... Nơi ấy được coi là đất của th ầ n linh, và khi con
người n h ập vào không gian này, thư ờng cảm th ấy khoẻ khoắn
tươi tỉnh. Đó là m ản h đ ất gắn với nơi của các kiến trú c có yếu tố
tôn giáo tín ngưỡng (ít n h ất từ th ế kỷ XVIII trở về trước, khi nền
kinh tế nông nghiệp thự c dụng chưa đủ làm tàn phai n h ận thứ c
gốc của tru y ền thống). Tuy nhiên, trong cách ứng xử vối các di
tích khác nhau, có nghĩa là với các th ầ n linh khác n h a u và x u ất
p h át từ n h ữ n g lý do khác nhau m à không gian của m ỗi kiến trúc
cũng có sự khác nhau.
40
của kiến trú c tín ngưỡng. Có th ể còn đưa ra nhiều n h ận x ét khác,
song đối tư ợ n g của chúng tôi là ngôi đình n ên điểm qua đôi nét
về chùa, đ ền để n h ư lấy m ột thực th ể kiến trúc đối sánh với
không gian tâ m linh của ngôi đinh làng.
41
hìn h thứ c n h ư kể trên là m ột yêu cầu có tín h chất tiê n quyết đối
với n h ữ n g ngôi đình cổ (ít n h ấ t từ th ế kỷ XVII trở về trước). T ất
nhiên, sự bồi bổ cho không gian này đã được thay đổi th eo sự bổ
sung chức n ăn g cho đình. Ở th ế kỷ XVI đình cũng p h ầ n nào đã
chuyển dần th à n h m ột tru n g tâm văn hóa của làng xã, tấ t nảy
sinh xu hướng dân gian hóa từ n g phần, tro n g đó T h àn h hoàng
làng chỉ còn là m ột danh xư ng để đề cao vị th ầ n liên q u an trực
tiếp tới cuộc sống tâm linh của người dân sở tại và tu y đình vẫn
còn đề cao n h à vua (đình Lỗ H ạnh ở Hiệp Hòa, Bắc Giang) m à
m ộ t biểu h iện cụ th ể ngay ở bức "cốn" gian giữa phía ngoài có
rồng n ân g ho àn h phi đề bốn chữ "H oàng Đế vạn tu ế " th ì đã có
m ột vị th ầ n dân dã yên vị ở h ậu cung rồi.
T rong các kiến trúc có liên qu an đến tín ngư ỡng tôn giáo
của người Việt, theo bước đi của lịch sử thì mỗi thời th ư ờ n g được
th ể h iện m ộ t cách thứ c riêng, n h ư n g cùng m ột thời th ì mối ứng
xử với các di tích khác nh au cũng có sự ph ân biệt. Với chùa và
đền..., được coi n h ư nơi con người đến đó để hòa tâm vào vũ trụ
th iên nhiên, đi sâu vào yếu tố tâm linh, ít n h iều có n é t th o á t tục,
để tạo sự cân bằng cho cuộc sống, th ì kiến trú c đình lại thường
nh ập vào cuộc sống trầ n th ế để khẳng định về m ộ t th ế đứng,
m ột tin h th ầ n ít n h iều có n é t xác n h ận về th â n phận, n h ư ph ản
án h m ộ t bóng d án g của trậ t tự xã hội đã h ìn h th à n h tro n g lịch
sử. về h ìn h thứ c, chùa, đền n h ư cố th u m ình lại, cố ẩn đi, th ì
đình lại n h ư m uốn bộc lộ sự bề th ế uy nghiêm , ít n h iều có tín h
42
ch ất áp đ ặt vào tâm tư của người tiếp cận Tuy nhiên, trong m ột
không gian nền tảng chung, là ở nông thôn, nên dù cho có m ang
tính áp đặt, thì đình làng vẫn đã tồn tại, ắt nó phải phù hợp, có
nghĩa là nó cũng phải tuân th ủ theo m ột số nguyên tắc đã có sẵn
trong tâm thức của người dân, là nằm trê n m ột th ế đất khang
trang, rộng rãi, phía trước m ặt không có v ật cản, phía sau và hai
bên, tốt đẹp n h ất là có thế tựa, thế tì. Vì thế, đình thường ở bìa
làng, nằm trong không gian giữa "tự nhiên và văn hóa", nơi thuận
tiện cho sự qua lại, phù hợp với yêu cầu của lịch sử và tâm linh. Từ
khi ra đời, đình là m ột kiến trúc phản ánh rõ n ét n h ất về yếu tố
này. Theo bước đường phát ư iển của kinh tế m à đình có những
thích ứng m ềm dẻo, khởi đầu nẩy sinh từ yêu cầu ban bố chính
lệnh của triều đình ở những trung tâm lỵ sở, dần dần cùng với bàn
tay chính trị của tầng lóp quân chủ, đình vươn tới xã thôn. Đe tồn
tại (như trê n đã nói) đình phải thêm chức năng tín ngưỡng, sau đó
được bổ sưng th êm về không gian kết cấu m ặt bằng. Chúng ta
thường th ấy (như chùa, đền), đình cũng được kết cấu theo quy luật
của âm dương đối đãi. Kết cấu m ặt bằng của đình không thể thiếu
m ột bộ phận gắn với nước, về nguyên tắc, các di tích nói chung của
người Việt Nam là thường sử dụng nguồn nước tự nhiên để dễ hòa
vào không gian vũ trụ, thì ở đình nhiều khi không hẳn như vậy,
người ta đ ã sử dụng nhiều tới nguồn nước nhân tạo ở phía trước
m ặt như m ột cái hồ lớn, m à chủ yếu là hồ bán nguyệt. Có nghĩa là
yếu tố âm, dương ở đây cũng m ang nhiều yếu tố áp đ ặt nhân tạo
hơn ở các di tích chùa đền. Mặt khác, trong các kiến trúc tôn giáo
tín ngưỡng truyền thống thì các cây cối lớn thường được gán cho có
nhữ ng ý nghĩa tâm linh rõ rệt, để cho kiến trúc nhập vào không
gian th iên g , th ì ở đình hầu như ít quan tâ m đến đặc điểm này.
Cây cối chỉ n h ư m ang tín h chất nền, gần nh ư để tô điểm thêm
cho kiến trúc; n h ữ n g cây thiêng, cây th ế ở đình chỉ là sản phẩm
m uộn khi hội vào tro n g bản th ân nó yếu tố tín ngưỡng tương tự
như củ a "đền" m à thôi.
43
T rên diễn trìn h lịch sử, ngôi đình n h ư có m ộ t sự thích ứng
với n h ữ n g biến động xã hội nhiều hơn ở các kiến trú c khác. Một
số n h à n g h iên cứu đã th ấy rằng, dù cho n h ữ n g ngôi chùa Q uan
Âm (thế kỷ XVI, đầu th ế kỷ XVII) gắn với n h ữ n g luồng thư ơng
m ại x u ấ t h iện ở ven sông, th ì về cơ bản, ngôi chùa đó vẫn m ang
m ộ t không gian ch u n g để dẫn d ắt tâm hồn con người khi tiếp
cận th ế giới tâm linh n h ư ở nhiều chùa khác. Song, theo dòng
chảy lịch sử chung đó thì đình đã ph ản án h rõ n é t hem về mối
q u an hệ này. Lấy m ột ví dụ, qua nhữ ng ngôi đình ở vùng xứ
Đoài, có m ấy yếu tố tin h th ần m à chúng tôi m uốn đề cập tới.
44
lịch sử m à được cấy vào đình. Tích truyện này n h ư còn phản ánh
về m ộ t bước chuyển tiếp của sự p h á t triển kinh tế nông nghiệp.
Cụ th ể là, ngược dòng sông Hồng đi lên phía trê n ch ú t ít, nơi m à
dòng sông H ồng khi chưa có đê, thì truyền th u y ết CÒI1 kể lại Sơn
T inh v à T hủy Tinh là bạn hữu của nhau, có nghĩa là 'nước vờn
chân núi, sơn th ủ y hữư tình". N hưng đến vùng Ba Vì, kinh tế lúa
nước được k h ẳn g định và để bảo vệ đồng ruộng m ên h mông,
trá n h lũ lụt, người dân buộc phải đắp đê thì nảy sinh huyền thoại
về m ộ t cuộc chiến: Sơn Tinh - Thủy Tình, trườn dài theo các m ùa
m ư a nắng. Và m ột không gian tâm linh, với vị th ầ n Tản Viên phủ
đầy n h ữ n g ngôi đình liên quan, tro n g đó có nhữ ng ngôi m ang
n iên đại sớm n h ấ t hiện còn biết được.
45
Q&ìe&Ể)
chạy ra sông Đáy). Và, cũng ở vùng Sơn Tây còn có m ộ t ngôi
đình Tường Phiêu tương đối nguyên vẹn (đầu th ế kỷ XVII), gần
sông Tích, thuộc huyện Tùng T hiện cũ, rồi đình X uân Dục gần
sát bờ sông Đ uống,...
Hai là, tro n g bước đường p h át triển của các ngôi đình, khởi
đầu có th ể tạm coi n h ư chúng không gắn với tín ngưỡng, m à là
m ột kiến trú c áp đ ặt của triều đình xuống xã thôn. Song, cũng
ngay từ thời Lê sơ cùng với việc hình th à n h ngôi đình làng thì, vị
Lý trưởng, Xã trư ở ng (như trê n đã nói) m ang tín h hai m ang, đại
diện của triề u đình đối với dân và cũng là đại diện củ a dân đối
với tổ chức chính quyền quân chủ... Đó là m ột tro n g n h iều điều
kiện để ngôi đình cũng m ang tính "lưỡng", và có lẽ đặc tín h này
đã q u y ết định đến khả năn g tồn tại của đình làng. Một biểu hiện
cụ th ể, n h ấ t là đối với th ầ n linh, người dân đã cấy dần vào trong
hệ th ố n g tín ngưỡng của đình n hữ ng vị th ầ n m à làng x ã tôn thờ,
chính điều đó (với người dân) ngôi đình đã m ộ t bước chuyển
sang m an g tín h ch ất đền. Thực ra, nhiều th ầ n linh gắn với đình
cũng đã đáp ứ ng được yêu cầu của triều đình, vì thế, được triều
đình ủ ng hộ và phong tước, có thể từ đó dưới sự áp đ ặ t của triều
đình, d an h vị T hành hoàng được đưa vào tro n g đình th à n h m ột
vị th ầ n tối thượng, "tra n h chấp" quyền uy đối với các th ầ n linh
khác. Ở đây, d an h xưng "T hành hoàng" không còn m an g bản
ch ất gốc của vị th ần bảo vệ th àn h th ị nữ a m à chủ yếu là vị th ần
đứ ng đầu tro n g việc bảo hộ làng xóm. Từ "T hành hoàng" chỉ còn
m ang ý n g h ĩa n h ư m ột "tên gọi", m ột chức vị tin h th ầ n cao trong
46
hệ thống th ần linh ở nơi thôn dã Thành hoàng đại diện cho tinh
th ần của triều đình, của nh à vua, tùy theo th ần tích, vai trò đối
với lịch sử, với làng xóm m à được ban cấp khác nhau: Thượng,
Trung, H ạ đẳng th ần và đa số đều được m ang cấp vương, có
nghĩa m ặt nào đó là hìn h tương tinh th ầ n của n h à vua... góp
phần vào việc bảo vệ trậ t tự của chế độ qu ân chủ chuyên chế.
T ất n h iên , n h ữ n g vị T hành hoàng này ban đầu phải có đủ tư
cách xứ n g đ án g với chức vị của m ình, đó là n hữ ng tướng lĩnh,
người có công tro n g việc khai phá đ ất đai (những người gắn với
việc d ự n g nước và giữ nước), củng có nhiều làng đã đưa những
vị th ần m an g yếu tố "anh h ù ng văn hóa" vào trong hệ thống này.
Vai trò của T hành hoàng làng đối với dân chúng không phải
n h ấ t q u án tro n g dòng trôi chảy của lịch sử, m à cũng th ăn g trầm
theo diễn biến của tin h th ầ n tín ngưỡng. Nếu thuở ban đầu,
T hành hoàn g với n h ữ n g vẻ đẹp th án h thiện, chủ yếu là nhữ ng
phúc th ần , quyền uy siêu việt, thì sau đó (chủ yếu b ắt đầu từ th ế
kỷ XVIII, n h ấ t là từ cuối th ế kỷ XIX) đã có m ột số vị T hành
hoàng có gốc từ n h ữ n g người hạ đẳng, th ậ m chí là n hữ ng kẻ có
hại với dân, với nước, hoặc có khi là cả trẻ con và đôi khi là người
vẫn đ an g còn tồ n tại ở trê n đời. Đa số hiện tượng này thự c sự đã
nảy sinh từ n h ữ n g n h ận thứ c liên quan đ ến m ê tín dị đoan ở m ột
thời kỳ tư tư ở ng xã hội bị khủng khoảng trầ m trọng...
Trở lại với lịch sử ngôi đình, ở lĩnh vực không gian lớn, đình
gắn với các T h àn h hoàng làng m ang chức vương, n ên thường
nằm ở bìa làng và quay hướng Nam với đặc tín h "T hánh nh ân
Nam d iện nhi th ín h th iên hạ" (thánh n h ân /v u a chúa/ những
người tài, ngồi quay hướng Nam để nghe lời tâu bầy của thiên
hạ), đồng thời đình cũng là trụ sở của chính quyền nơi ban bố
chính lện h của n h à vua, n ên khởi đầu nó có hình thức bề thế, áp
chế, phía trước m ặt có m ột sân rộng, để tạo m ột không gian
"m ên h m ông" thuộc tư tưởng... như đã trìn h bày. Chỉ b ắt đầu
47
vào thời Mạc và n h ấ t là từ cuối th ế kỷ XVII, khi vị th ầ n dân gian
được T hành hoàng hóa, chủ yếu nh ằm đề cao vị th ầ n của dân thì
kiến trú c đình làng cũng có ph ần được th ay đổi. C húng ta đã
từ n g gặp dấu tích của ngôi chùa, đình, đền, thời Mạc chưa có tầu
m ái, th ì ở th ế kỷ XVII tầ u m ái đã x u ất hiện đầy đủ, tạo cho bộ
khung củ a kiến trú c đã có k ết cấu góc m ái cong. Ở m ặ t tin h th ầ n
m à nói, k ết cấu không cong góc m ái đã tác động tới n h ận thức
của người tiếp cận, khiến kiến trú c n h ư có xu hướng bị h ú t
xuống đ ấ t m ột cách m ạnh m ẽ, có phần n h ấn m ạn h sự "đè n én " ở
lĩnh vực tư tưởng. Còn góc m ái cong lại giải th o á t sự "đè nén " ấy
và p h ần nào có cảm giác tạo cho kiến trú c như bay lên. Thực ra,
hìn h thứ c này không đơn giản là giải quyết sự n ặ n g nề của kiến
trú c dưới m ắt của con người, m à nó còn là vấn đề n h ận thức.
Trước h ết, nó khẳng định hơn về vị thế của ngôi đ ìn h làng trong
không gian nông thôn. Từ đây, đình làng trở th à n h m ộ t thự c th ể
văn hóa của cộng đồng thôn dã, n ên ngoài T hành hoàng là th ần
linh được dân gian hóa, thì kiến trú c này đã m an g nhiều n ét
uyển chuyển nhịp nhàng, đầy chất trữ tình, gắn vói tâm hồn Việt
m uôn đời m uôn th ủ a, đó là th ứ tâm hồn được nảy sinh từ th ự c tế
sản x u ấ t th eo chu trìn h thời gian khép kín, gắn với m ùa m àng
nông nghiệp.
48
tự, ổn định về m ặt tinh th ần của xã hội đời thường, cầm cân nảy
m ực về sự công bằng của những th àn h viên trong làng xã.
T rên dòng chảy của lịch sử kiến trúc tru y ền thống, thì
n h ữ n g kiến trúc tô n giáo tín ngưỡng không đơn giản chỉ là chỗ
để thờ cúng, m à m ột ý nghĩa sâu xa và bao trù m hơn, đó là giá
trị văn hóa n g h ệ th u ật. ít n h ấ t chúng ta đ ã đọc ra được ở nhữ ng
kiến trú c này sự phản ánh về bước đi của dân tộc từ lúc sơ khai
đến khi th ố n g n h ấ t to àn cộng đồng quốc gia, di tích kiến trúc
cũng phản án h về tư tưởng xã hội của từ ng thời kỳ lịch sử, thậm
chí p h ản án h cả về m ột số vấn đề thuộc sự p h át triển kinh tế,
chiến tra n h và n h ữ n g vấn đề khác. Ở lĩnh vực nghệ th u ậ t, thực
sự n h ữ n g m ảng chạm , n h ữ n g pho tượng, đã nói lên m ột cách h ết
sức rõ rệ t về tâm hồn Việt m an g nhiều yếu tố phi Hoa, phi An,
nó cho b iết m ộ t cách khá cụ th ể về n h ận thứ c của con người
Việt, về vũ trụ q u an và n h ân sinh quan... Suy cho cùng, kiến trúc
tru y ền th ố n g là m ột cuốn sách sinh động bằng hiện v ật rấ t đáng
tin cậy, tự nó không ồn ào tro n g việc ph ản án h thự c tế lịch sử,
nó cung cấp n h ữ n g n h ận thứ c chân thực n h ấ t khó có th ể chối
cãi... Với tin h th ầ n đó thì đền, chùa và đình làng là các loại hình
thứ c kiến trú c cơ bản, thay n h au ph ản án h về bước đi của văn
50
hóa dân tộc. Chúng ta có th ể thấy rất rõ rằng, ngôi chùa tu y có
lúc th ăn g trầm , n hư ng nó như m ột m ạch chảy cơ bản trê n dòng
văn hó a của dân tộc. Còn đinh làng, tuy hiện nay được nhiều nhà
n g h iên cứu cho là m an h n h a vào thế kỷ XV và định hình vào thế
kỷ XVI..., thì rõ là n g ngay từ khi xuất hiện với sự bảo trợ của
triều đ ìn h và sự thích ứng trong tinh th ần làng xã, cũng như yêu
cầu củ a tâm hồn q u ần chúng, m à kiến trúc này đã sớm chiếm
th ế "th ư ợ n g phong" cả về ý nghĩa lẫn văn hóa nghệ th u ật.
Vào năm 1492, khi vu a Lê Thánh Tông lệnh cho làm đình
Q uảng Văn, sự kiện này có ghi như sau: "Mùa đông Kỷ Dậu
(1489) ông (Bùi Xương Trạch) vâng m ệnh đi sứ cống n h à Minh.
Năm H ồng Đức th ứ 24 (1493), ông vâng m ệnh làm bài ký ở đình
Q uảng Văn. Bài ký v iết rằng: "Tôi nghe: Trời không nói m à bốn
m ù a ch uyển vận, m uôn v ật vẫn sinh. Mặt trời, m ặt tră n g là hiện
tư ợng củ a trời. T hiên tử ngồi yên m à thiên hạ và m uôn nơi vẫn
trị. M ệnh lệnh là pháp độ của thiên tử.
T hánh Thiên tử nắm m ện h trời, lên ngôi báu, n ền trị rực rỡ.
Hưn 20 n ăm võ công m ạn h m ẽ, văn đức được sửa sang. Bốn
biển, chín châu đều là th ần thiếp. Nên ven rừng, góc biển nào
hiệu lện h n h à vu a cũng đều khắp. Nơi nào sương móc rơi xuống,
nơi nào th u y ền xe đến được, cũng theo chính sóc n h à vua. Tóm
lại, n h ữ n g dân ở cõi xa đều là bề tôi của vua m à theo m ệnh lệnh
của v u a cả.
51
<&srse©0
hình thứ c đình th ì cột rấ t cao, chạm đục th ư a thớt. Dấu th ấp m à
không xấu xí, dẫu đẹp m à không lộng lẫy. Thế là m ẫu m ự c được
vừa phải. Khi xong, vua đ ặt tê n là đình Q uảng Văn. Mỗi khi triều
đình b an p h át hiệu lệnh mới, như trù tín h việc quân, việc nước,
tỏ bầy ng h i văn về lễ nghĩa, chính lệnh của các quan, công việc
của dân chúng, việc gì cũng nhờ đó m à rõ ràng mỗi ng ày thêm
sáng tỏ. Cốt là để cho sự tai ng h e m ắt th ấy của m uôn phương
th êm m ới ra m à biểu hiện văn m inh trong m ột đời chứ không
phải làm ra để bỏ không. Đương khi pháp lệnh mới làm xong,
ai xem cũng đều ngưỡng mộ chế độ mới, thấy nó rực rỡ như
áng mây.
52
làng, đó là m ột tro n g nhiều lý do để các nhà nghiên cứu nghĩ tới
sự x u ất h iện của đình làng là từ thế kỷ XV.
53
đã qu a n h iều không gian khác nhau, với kiến trú c tôn giáo tín
ngưỡng là "tru n g tâm " của không gian văn hóa đậm đặc. Ở
n h ữ n g nơi này, thư ờng tập tru n g nh iều tinh hoa v ăn hóa n h ấ t để
ứng xử với yêu cầu tin h thần. Tuy nhiên, tro n g mỗi loại hình
kiến trúc, th ì sự ứng xử có khác nh au m à m ột biểu hiện ngay từ
b ên ngoài là cách sử dụng cây cối. về "nguyên tắc" tro n g kiến
trú c cổ tru y ền của người Việt (theo tư liệu điền dã) thì kiến trúc
không bao giờ cao hơn cây, rõ rà n g đó là m ột h iện tư ợ ng phản
ánh kh á rõ n é t về tâm hồn tru y ền thống của người Việt. Người
xưa m uốn "hòa" kiến trú c vào tự nhiên cũng n h ư m uốn "hòa"
tâm h ồn vào vũ trụ, ý thức này rấ t hợp với tin h th ầ n m uốn xóa
bỏ tiểu ng ã (Atman), tức cái cá n h ân riêng biệt, chỉ có ai tu thì
người đó được hưởng quả phúc để nhập vào cái đại ngã trư ờng
tồn (Brahm an) n h ằm "tự độ độ th a, tự giác giác th a " không phân
biệt giữa ng ã n h ân và th a nhân. Có nghĩa là, kiến trúc tô n giáo
tín ngưỡng còn chịu ản h hưởng tư tưởng này m à h ò a quyện cùng
tự nhiên, cũng có nghĩa cùng với cây cối tạo n ên m ột tổ n g th ể
kiến trú c tru y ền thống (cây cối n h ư m ột phạm trù của kiến trúc).
Tuy nhiên, ở các ngôi chùa, ngôi đền..., thì cây cối n h ư m uốn giải
tỏa sự to lớn của kiến trúc, để cho con người khi tiếp cận sẽ cảm
th ấy gần gũi m à không bị ám ảnh bởi tín h áp chế. Vì thế, cây cối
ở n h ữ n g di tích thư ờng được sắp đ ặ t cả ở bốn phía theo m ộ t trậ t
tự với các loại cây được gán cho có n hữ ng sức linh n h ấ t định.
Còn với đình, vì có th ể đã xuất p h á t từ m ột ý n g h ĩa khác, nhằm
tạo n ên uy th ế cho T hành hoàng làng (m ang tước vương) đại
diện tin h th ầ n của n h à vua, của chế độ qu ân chủ, n ên p h ải tạo
cho đìn h có m ột không gian th iên g liêng, quang quẻ, song cũng
cần cây cối tố t tươi, chim m uông tụ hội. Đe đ ạt được n h ữ n g yêu
cầu n h ư vậy, th ì trước đây người ta thư ờng trồ n g cây lớn ở phía
sau, cùng lắm là trồ n g ở hai bên m à thôi. Từ th ế kỷ XVIII trở đi,
đình làng hội n h ập m an h hơn với yếu tố đ ền thờ, đồng thời n ân g
cao hơn tín h ch ất dân gian, thì cây cối cũng đã được trồng ở phía
54
Q&ìe&Ế)
trước m ặt n h ư để lấy bóng m á t hay để tạo th ế gần gũi và ít
nhiều th iên g liêng, n h ư cây bàng (đình Thượng Cát, Từ Liêm),
cây gạo (đinh Tây Đằng), m ang yếu tố gắn với th ầ n của đình.
Đ ình làng, như trìn h bầy ở trên, có th ế đã ra đời m uộn hơn
các kiến trú c tru y ền thống khác cho nên trước h ế t đình làng
cũng chịu ản h hưởng chung của các tôn giáo tín ngưỡng trước
đó. Vào th ế kỷ XVI và XVII, người ta thư ờ ng gặp nhữ ng ngôi
đình quay về hướng Nam và m ột số đình khác quay về hướng
Tây. Chỉ tới th ế kỷ XVIII - XIX thì hiện tượng chọn hướng ít
nhiều đã có sự thay đổi, cũng như nhiều di tích khác, đình lệ
thuộc vào dòng sông, hoặc đường cái. Có th ể giải thích rằng, ở
giai đoạn từ th ế kỷ XVIII trở đi, nền kinh tế tư nh ân phát triển
m ạnh, n h ữ n g người đóng góp trực tiếp cho việc hình th àn h
n h ữ n g kiến trú c này không h ẳ n chỉ là nông dân làng xã nữ a m à
m ột phần đ án g kể lại thuộc tần g lớp thư ơ ng nhân, chính từ
n h ữ n g con th u y ền xuôi ngược và luồng buôn bán theo đường bộ,
m à p h ần nào di tích bị lệ thuộc vào "m ạch m áu giao thông" đó.
Trử lại với n h ữ n g hướng m ang gốc cổ truyền, chúng ta nhận
thấy, n h ữ n g hướng này thư ờng gắn với yếu nghĩa x u ất p h át từ
tâm linh về q u a n hệ giữa th ế gian và thiên nh iên vũ trụ, nó ít có
tín h thự c d ụ n g .
- H ướng Bắc: Đây là hướng giá ré t về m ù a đông và nóng về
m ù a hè. ở lĩnh vực tín ngưỡng, đó là hướng m ang nhiều sự hắc
ám , ít n h iều g ắn với quỷ dữ. Vì thế, kiến trú c của người Việt ít
quay nh ìn về hư ớ ng này. T ất nhiên vần có n h ữ n g ngôi chùa hoặc
m ột di tích nào đó được chủ động nhìn về hướng Bắc. v ề cơ bản
n h ữ n g di tích này ít gắn với th ế gian m à thư ờ ng liên quan đến
các kiếp đời đ ã qua, n h ư m ộ t số chùa ở nghĩa tra n g để cầu siêu
độ cho n h ữ n g linh hồn ở th ế giới bên dưới.
- H ướng Đông: N hững cư dân trong khu vực Đông Nam Á
th ư ờ n g q u a n niệm đây là hướng của th ầ n th á n h (kể cả quan
55
niệm của người Việt), vì th ế nh iều kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng
của các cư dân phía Nam thư ờng quay nhiều về hư ớ ng này để
đón sin h lực vũ trụ (mà nh iều khi đồng n h ấ t với án h sán g m ặt
trời). N hưng q u an niệm của người Việt, nặng tư duy nông
nghiệp, coi trọ n g yếu tố âm, vì th ế th ầ n linh, dù là ai, th ì yếu tố
âm cũng là điều trọ n g yếu, qu y ết định đến hạn h phúc no đủ về
m ọi m ặ t của các kiếp đời. Đặc biệt là trong nhữ ng kiến trú c tôn
giáo tú i ngưỡng tru y ền th ố n g của người Việt, ít n h ấ t ở nông
thôn, th ì hiện tư ợng tường bao kín xung quanh được x u ấ t hiện
rấ t m uộn, đồng thời kiến trú c chủ yếu theo lối nằm ngang, vì thế
ánh sáng ban m ai có th ể chiếu th ẳn g vào tận bàn thờ, kh iến hồn
th ầ n dễ bị tán m à khó tụ, làm cho sức m ạn h của th ầ n bị h ạn chế,
dẫn đến sự hỗ trợ cho con người cũng trở nên ít ỏi hoặc không
còn... Có th ể lấy m ột ví dụ cụ thể, như ở đền Ngọc Sơn. Đền có
cầu Thê Húc chạy về hướng Đông, m ang ý nghĩa đón án h sáng
ban m ai, n h ư n g ngôi đền bên trong đã không quay theo hướng
này m à vẫn quay th eo hướng Nam. Ở các kiến trú c phía Nam,
n h ư chùa của người Khơme hay th áp Chăm đều quay về hướng
Đông, n h ư n g bàn thờ của họ lại nằm ở đầu hồi hậu, kiến trú c lại
có tư ờng bao gần n h ư kín, các cửa vào không để án h sáng rọi vào
bàn thờ, còn với th á p Chăm th ì ô cửa vào nơi thờ được làm nhô
h ẳn ra phía trước đã tạo ra tại cửa chính m ột kết cấu ng h ệ th u ậ t
cao, đồng thời ở lĩnh vực tâm linh nó cũng cản trở ánh sán g ban
m ai rọi th ẳ n g vào tru n g tâm điện thờ.
56
Việt, m à của n h iều cư dân trên thế giới, âm và dương tuy khác
nhau n h ư n g chỉ được xác nhận khi có nhau, đồng thời phải có sự
k ết hợp với n h au mới tạo nên sự p h át sinh p h át triển, m ột "gốc
gác tin h th ầ n ” của m ọi vụ m ùa bội Ihu. Trong cách ngồi quay
hướng Tây, I i g u ờ i ta còn cho rằng, VỊ thần đã tụ hội được m ọi sức
linh của bốn phương. Vì, m ặt thần là dương, nhìn về hướng Tây,
m ang yếu tố âm của vũ trụ, tạo th àn h m ột cặp âm dương "đối
đãi" giữa đại vũ trụ và tiểu ngã nhân thân, lưng th ầ n là âm, quay
về hướng Đông, là dương, cũng tạo nên m ột cặp âm dương đối
đãi tương tự. Tay phải của th ần là dương, hướng về phía Bắc,
m an g yếu tố âm . Tay trái của th ần là âm, hướng về phía Nam,
thuộc dương, n h ư vậy cả 4 phía đều là 4 cặp âm dương đối đãi...,
đã tạo cho cách ngồi này ở hướng nào cũng thích hợp, khiến th ần
yên vị. Trong q u an niệm của người Việt, ở m ột khía cạnh nào đó,
th ần linh cũng đồng n h ất với nguồn sinh lực vũ trụ vô biên, do
đó, th ầ n ngồi yên vị tại đình hoặc các di tích tín ngưỡng đã như
m ột đảm bảo về m ặt tin h th ần cho mọi ước vọng của người xưa.
- Hướng Nam: Theo quan niệm cửa dân gian thì "lấy vợ hiền
hòa làm nh à hướng Nam". Đây là hướng thích hợp với những ngôi
nh à ở Bắc Bộ vì ngôi nhà được m át mẻ vào m ùa hè, ấm áp vào m ùa
đông, đây cũng là m ột hướng chứa đầy sinh lực, vì đó là hướng
m àu đỏ, m ang đầy sinh khí vũ trụ (hướng Nam m àu đỏ, Bắc đen,
Đông - xanh lá cây, Tây - trắng, Trung phương màu vàng).
+ Đối với đạo Phật, hướng Nam là phương của Bát nhã, tức
trí tu ệ. Đạo P h ật q u an niệm rằng, nhờ trí tu ệ mới diệt trừ được
vô m inh, tức ngu tối, m à ngu tối là m ầm m ống của tội ác. v ì thế,
hướng Nam là hướng của th iện tâm trên nền tản g trí tuệ.
+ Trong cả nghìn năm Bắc thuộc và nghìn năm dưới chế độ
q u ân chủ chuyên chế, người Việt đã ảnh hưởng khá nh iều văn
h ó a T rung Hoa, m à ở lĩnh vực phương hướng này người T rung
H oa đã từ n g q u an niệm "Thánh nh ân Nam diện nhi thích thiên
57
hạ", m à T hánh n h ân /th ần linh/vua chúa/người tài/với trí tu ệ cao
có th ể tác động lớn đến xã hội...; Nam diện: là ngồi quay m ặt về
hướng Nam để biểu h iện quyền uy. Có nghĩa là, T h án h n h ân ngồi
quay m ặ t về hướng Nam để ng h e lời tâu bày của th iê n hạ... Ý
thứ c của người Việt m uốn được th ầ n th án h ng h e th ấ y lời kêu cầu
m à dùng pháp lực vô biên để cứu vớt và hỗ trợ. Đó là m ột hướng
phù hợp với ước vọng tru y ền đời của người xưa.
58
trậ n m ưa. Và, dù cho n ền đất này ít có mối quan hệ với kết cấu
của di tích th ì người ta vẫn thường bó vỉa đá xung q u an h (về sau
cũng có th ể bó bằng gạch). Không bao giờ người ta lát m ặt đ ất
dưới lòng n ền đình, cũng n hư rất ít khi lát lòng n h à ở nơi thờ tự
hoặc nơi ở, phần n h iều chi n ện chặt cho chắc đ ất m à thỏi. Người
xư a q u an niệm rằng, lát n ền n h à có nghĩa là ngăn cản sự đối đãi
của khí âm và khí dương, khiến không thể dài dòng lớn họ được,
lúa giống để trong n h à khó đảm bảo cho nhữ ng vụ m ùa bội thu.
Đối với di tích tô n giáo tín ngưỡng, không gian của kiến
trú c là nơi của th ầ n linh thì chắc chắn không có tà khí, m a quỷ...
Neu lát n ền n h à th ì hiện tượng thông tam tầng th ế gicri trong tín
ngư ỡng bị "đổ vỡ", khiến sự hỗ trợ của th ần linh bị hạn chế đi
rấ t n h iều và tín ngư ở ng dễ bị tàn phai. Trong tư duy m ên h m ông
n g an g tầm trời đ ấ t của dân gian xưa kia, thì quan niệm này rấ t
được coi trọng, đôi khi còn được thực hiện cả ở hệ thống di tích
liên quan. Lấy đ ền H ùng làm m ột ví dụ, ngoài hiện tượng thông
ba tần g th ế giới củ a từ n g di tích, thì cả hệ thống cũng được biểu
h iện rấ t rõ rệ t về ý n g h ĩa này Kẻ hành hương lên đ ền Thượng
n h ư để tiếp cận với tần g trên , m à ở đây vua H ùng và các thần
n ú i gần n h ư đại diện cho th ế giới trê n cao, m ang yếu tố dương,
trở xuống tới đền G iếng đã như m ang yếu tố âm, m à chính giếng
n ày đã như m ộ t con đường đi sâu vào thế giới bên dưới.
59
ngôi đ ìn h thư ờng theo dạng bốn h àn g chân, với hai h àn g cột cái
và hệ th ố n g cột quân bao quanh. Vào thế kỷ XVII cũng có nhiều
đình đã m ở rộng lòng hơn n ên chuyển hóa th àn h sáu h à n g chân
với hai h àn g cột cái, hai hàng cột qu ân và hệ thống cột h iên bao
quanh, tới nay người ta chưa tìm được dấu vết h ậu cung của
đình theo kiểu chuôi vồ có m ang niên đại thời Mạc. Chuôi vồ (tức
hậu cung) thự c sự chỉ phổ biến vào th ế kỷ XIX trở về sau. Gần
đây, m ột p h át h iện mới đ ã cho chúng ta biết kết cấu chữ Đinh,
với chuôi vồ m ang tín h chất hậu cung, đã xuất hiện từ đ ầu th ế
kỷ XVII, ở đình Bảng Môn (Thanh Hóa). H iện tượng này cũng đã
gặp ở m ộ t số kiến trúc khác, n h ư đ ền Độc Cước, thuộc s ầ m Sơn,
T hanh Hóa, đình N hân Lý, Nam Sách, Hải Dương, đình H àng
Kênh, Hải Phòng... Trở lại với ngôi đình có m ặt bằng h ìn h chữ
N hất, th ô n g thư ờng nơi thờ là m ột "khám " lửng, đ ặ t trê n sàn,
gắn liền với kiến trúc, sàn này khá cao, có th ể đứng th ẳ n g người
ở gầm bên dưới. Không gian của nó thư ờng từ hai cột cái phía
tro n g của gian giữa chạy về tới hai cột qu ân ở phía sau. Người ta
cũng th ư ờ n g làm ở trước m ặt của "khám " m ột sàn th ờ hẹp, vừa
đủ, để đ ặt n h ữ n g đồ thờ, n h ư th ế buộc sàn phải nhô ra phía
trước và tì lực trê n hai cột nhỏ đứ ng chân xuống n ề n nhà. Trong
kết cấu m ặt bằng của mọi ngôi đình cổ truyền, thì chỉ có sàn chủ
yếu ở các gian bên, còn gian giữa (được gọi là gian lòng nước)
bao giờ cũng không có sàn, m à phổ biến là được lát đá. v à o thời
gian sau, h ãn h ữ u gian lòng nước được lát gạch. N hiều cuộc điều
tra điền dã và điều tra hồi cố ở địa phương, nhữ ng người cao tuổi
đã cho biết, hiện tư ợng lát đ á ở gian giữa chủ y ếu để tạo khí
th iên g tin h khiết cho thần. Đ á là v ật tự nhiên, không phải là
n h ân tạo (dù cho có sự tác động của con người tạo th à n h đá
phiến). N hư th ế, đá không n g ăn cản hiện tượng th ô n g tam tầng
th ế giới, m à nó lại còn có ý ng h ĩa đảm bảo cho h iện tư ợng này
được tố t đẹp hơn. c ố Giáo sư T ừ Chi có chỉ ra: nh iều nhà nghiên
cứu dân tộc học trê n th ế giới đ ều đ ã th ấy rằng, tro n g tự n h iên có
60
nhữ ng ch ấ t liệu m ang ý nghĩa thiêng liêng, tự nó đã chứa nguồn
sinh lực hoặc có khả n ăn g dẫn dòng sinh lực, để có khi nó như
"cái th a n g " tro n g đường "đi về" của các linh hồn.
Nhìn chung, về cơ bản trong cả quá trìn h tồ n tại và phát
triển, đinh làng ít có sự thay đổi ở bộ phận kết cấu chính m à chủ
yếu nó th ư ờ n g được bổ sung thêm , trong đó tập tru n g n h ấ t là
hậu cung, tả hữu vu và nghi môn.
- về tòa Hậu cung: Hiện nay đình Bảng Môn ở H oằng Hóa,
T hanh H óa có th ể coi n h ư m ột kiến trúc có tòa Hậu cung lồi ra
phía sau (m ang d áng dấp kiểu chuôi vồ) sớm n h ấ t nưốc ta với
niên đại đ ầu th ế kỷ XVII. Ở đ ất Bắc m ột tòa H ậu cung điển hình
là tại đ ìn h H ữu Bằng, Thạch Thất, Hà Nội. Thực ra đình này có
kết cấu m ặ t bằng th eo kiểu chữ Đinh, như ng m ặt bằng m ái lại
theo kiểu chữ "Công". Đó là m ột ngôi đình có tòa Hậu cung khá
đầy đủ, m an g niên đại ở nửa cuối th ế kỷ XVII trê n đ ất Bắc.
C húng ta còn có th ể tìm thấy hiện tượng đình có hậu cung ở m ột
số nơi khác nữa, n h ấ t là ở đất Hà Nội. Theo tru y ền thống kiến
trúc, thì k ết cấu này thực sự đã tạo nên m ột Hậu cung kép, với
sự hội n h ập từ kiểu "H ậu cung'' thờ trê n sàn lửng dạng "khám "
được b ư ng kín lồng tro n g phần chuôi vồ của đình. Như vậy, Hậu
cung gỗ dự ng trê n sàn cao được lọt trong m ột hậu cung bao
ngoài liên quan ch ặt chẽ với tổng th ể kiến trú c của đại đình.
C húng ta có th ể th ấy rõ chức năng của tồa Hậu cung này m ột
cách rõ rệ t. Ở H ậu cung m ang tính chất "khám ", thư ờng có sập
thờ để đỡ ngai đ ặt bài vị của T hành hoàng làng và nhữ ng đồ thờ
tự liên quan: bát hương, cây nến, m âm bồng, tam sơn, bàn tròn
thái cực, lọ hoa... Ở ngoài của khám, đôi khi người ta cũng bày
bộ tam sự hoặc n gũ sự, có khi cả m ột số đồ thờ khác.
P hần giữa H ậu cung kiểu "khám " và hậu cung kiểu chuôi
vồ, th ư ờ n g để n h ữ n g đồ nghi trượng gắn với lễ hội, n h ư kiệu và
nhữ ng đồ dùng, vật dụng phục vụ cho việc đình (bát, đĩa, chiếu...).
61
Khoảng th ế kỷ XIX trở về sau, n h ất là ở vùng châu thổ
thấp, h iện tư ợng hậu cung dưới dạng gác lửng đã bị giải thể, chỉ
còn m ột H ậu cung thống n h ất tro n g kiến trúc đại đình. P hần hậu
cung này bao giờ cũng được bư ng cửa kín, trong đó người ta xây
bệ th ấp dần từ tro n g ra, thông thư ờ ng với 3 cấp, trê n là nơi của
ngai và bài vị. Rất hiếm đình làng Việt có tư ợng thờ, ngoại trừ
m ột số n h ân v ật lịch sử nổi tiến g hóa th ân th à n h T h àn h hoàng
làng và b ản th â n ngôi đình m ang cả hai chức n ăn g của m ộ t đình
th ô n g th ư ờ n g và của m ột đền th ờ (đình Nam Đ ồng, quận Đống
Đa, Hà Nội thờ Lý Thường Kiệt là m ột ví dụ cụ th ể). Cũng ở đây,
để trá n h sự "cô đơn" cho ngai, bài vị, nhiều khi người ta cũng
đ ặt thêm hai cây đèn, còn các đồ th ờ chủ yếu được đ ặ t ở hai cấp
bệ dưới, về nguyên tắc của m ột kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng cổ
truyền, th ì bao giờ ở phía sau ban/bệ thờ cũng có m ộ t khoảng
không gian trố n g (trong chùa cũng có hiện tư ợ ng này, song ở
nhiều chùa p h ần không gian trố n g ấy được đ ặt th ô n g lòng dưới
nơi thờ của tượng Tam Thế). P hần không gian th ô n g thoáng này
gọi là đường th ô n g thủy. Lòng bệ thờ nhiều khi cũng được để
trống và coi n h ư m ột chiếc "hòm " đựng nhữ ng v ậ t dụng liên
q u an đ ến việc đìn h (bát, đĩa hoặc m ột số đồ thờ nhỏ ít dùng tới),
ngay sau bục th ờ hoặc hai bên sườn, người ta th ư ờ n g đ ặt nhữ ng
hòm kiệu khá lớn đựng đồ thờ cúng và chỉ m ở ra sử dụng những
khi có lễ hội, rước xong lại tháo bỏ vào hòm , n h ữ n g hòm này
thư ờ ng để kê trê n n hữ ng giá chân ngự a cẩn th ận . Ở trong không
gian này, hầu n h ư không có h iện tư ợng lát nền, m à chủ yếu là
đ ất nện, n h ằm th ô n g khí âm dương (hiện tượng lá t n ền bằng
gạch b át hoặc gạch m en hầu n h ư chủ yếu là sản ph ẩm của th ế kỷ
XX m à thôi, khi tín ngưỡng cổ tru y ền p h ần nào bị su y lạc).
Suy cho cùng, Hậu cung của đình được ra đời không phải có
ngay từ giai đ oạn x u ấ t hiện của loại hình kiến trú c này, m à dần
dần nó trở n ên không th ể th iếu khi chức năng trụ sở của chính
62
quyền và m ột số chức năng liên quan khác bị hạn chế dần để
chức năng của đ ền thờ thâm nh ập m ột cách m ạnh m ẽ, có nghĩa
là tín h dân gian hóa về túi ngưỡng của ngôi đình ngày m ột sâu
đậm hưn.
- về tả hữ u vu: vào các giai đoạn đầu, hiện tượng tả hữu vu
thư ờng không có trong đình. Cho đến nay, trê n thực tế, chúng ta
chỉ tìm được n h ữ n g sản phẩm kiến trúc này nảy sinh từ thế kỷ
XIX về sau. Tuy nhiên, trong kiến trúc của người Việt th ì dấu vết
có th ể được coi là tả hữu vu đã xuất hiện từ th ế kỷ XV, như ở
điện Lam Kinh, T hanh Hóa (kết quả khai q u ật của Bảo tàn g Lịch
sử, năm 2004). H iện tượng tả hữu vu đưa vào đình đã h ạn chế
tính khang tran g m ang n é t áp chế của đình làng, nó phá vỡ
không gian m ên h m ông trước m ặt đình, để chuyển hóa và bổ
sung chức n ăn g của đình sang m ột th ế ứng xử mới.
Một ý n ghĩa khác thuộc lĩnh vực tâm linh liên quan đến bố
cục m ặt bằng, m à thông qua khảo sát điền dã, nhiều n h à nghiên
63
cứu dân tộc học nghệ th u ậ t với sự hướng dẫn của cố giáo sư Từ
Chi đã chợt n h ận ra rằng: đại đình, tả hữ u vu và hồ bán n g u y ệt ở
phía trước đã được coi như m ột biểu tượng liên qu an tới ước
vọng cầu được m ù a của người xưa. Với hình thứ c này, các n h à
ng h iên cứu đã đưa ra m ột giả th iế t để làm việc là, đại đình như
đầu của con hổ phù, tả hữ u vu n h ư hai tay của nó và hồ nước
n h ư biểu tư ợng cho m ặt trăng. Theo Cao Huy Đỉnh, tro n g T hần
thoại An Độ, trong câu chuyện "Khấy biển sữa vũ trụ ", để tìm
bát thuốc trư ờng sinh. Đứng lẫn trong hàn g ngũ của th ầ n có m ột
con quỷ, sau khi nó vừa uống được m ột ngụm thuốc th i bị th ầ n
m ặt trời và m ặt trăn g m ách, nên quỷ đã bị th ần V ishnu ch ặt đ ứ t
làm đôi, n h ư n g do uống được thuốc trường sinh nên quỷ không
ch ết và được các th ần cho lên trời để trở th à n h hai ngôi sao là Hổ
phù và Kế đô. Song, Hổ phù là phần đầu thư ờ ng giữ mối u ấ t hận
với m ặt trời, m ặt trăn g n ên luôn đuổi theo hai tin h cầu để nuốt,
nhằm trả th ù . Các cư dân Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam,
thư ờng quan niệm , m ặt trời là nguồn sinh lực vũ trụ vô biên,
n hư ng m ặt tră n g là m ột vị th ần của biển cả, gắn với th u ỷ triều,
ản h hưởng tới cư dân đi biển, đối với cư dân nông nghiệp th ì m ặt
trăn g lại liên quan tới sự sinh sôi phát triển, tới m ù a m àng...
Người xưa q u an niệm rằng, Hổ phù nuốt h ế t m ặt trăn g (nguyệt
thực to àn phần) th ì năm đó đói khổ, có khi chiến tran h , nếu
không n u ố t được, phải ọe ra, thì năm đó được m ùa lớn. Đối với
kiến trúc, với đại đình, tả hữu vu và hồ bán nguyệt đ ã m an g ý
nghĩa Hổ phù n h ả m ặt trăn g ra, đã nh ư m ột gợi ý nhắc nhở với
th ần linh rằng: hãy theo gợi ý của con người m à tác động đến đ ất
đai, cây trồng, để trầ n gian tràn đầy h ạn h phúc.
Ý thứ c này còn được nâng cao hơn n ữ a bởi nghi m ôn tứ trụ
của đình. Thực ra kiểu thứ c nghi m ôn này ra đời rấ t m uộn, với 4
trụ được coi n h ư răn g của Hổ phù - hai cột giữa gắn với cửa của
Thần, nơi kiệu và đoàn rước ra vào. Với tin h th ầ n đó, cột đã như
64
m ộ t trụ c vũ trụ đầy tính triế t học. Đỉnh trụ là 4 con Phượng lật,
tro n g đó, Phượng là tượng trư n g cho vũ trụ , cho sinh lực của
trời đ ất, cho th á n h n h ân ... Hội cả 4 Phượng n h ư hội sinh lực cả
4 p h ư ơ n g trời vào đầu trụ đế (qua uy lực của Thần) tru y ền
x u ố n g cho đ ất và nước. Đó là m ột ước vọng nông nghiệD được
biểu h iệ n qu a 4 Hổ phù đang ọe m ặt tră n g ra ở bốn m ặt m ui
luyện (hình tư ợng cầu được mùa) - Muốn vậy cần phải có nước,
ở đây được tượng trư n g bằng 4 rồng hoặc 4 cụm m ây ở 4 đao
góc. Ước vọng này còn được thể hiện ở lồng đèn với nhữ ng quả
n h iều h ạt/m úi/m ắt/tay/chùm và đạt được chuẩn về ngũ hành,
ngũ phương... M uộn hơn có thể ở lồng đèn là Tứ linh - Thân cột
là câu đối ca tụ n g Thần. Cùng đó là hai cột nhỏ ở hai bên, hợp
cùng cột cái tạo th à n h cửa ra vào thường n h ậ t của dân. Đỉnh mỗi
cột là m ộ t lân ngồi nh ìn xuống (do lân là hiện th ân của sức m ạnh
tần g trê n , của th ầ n linh và của trí tuệ) để kiểm soát tâm hồn của
kẻ h à n h hương .
Cùng với nghi m ôn, thường có bức bình phong để chống khí
độc thổi vào T hần điện, do đó m ặt bình phong phải kín Binh
pho n g đ ặ t ở tro n g hay ngoài nghi m ôn lệ thuộc vào sự tích của
th ầ n . M ặt ngoài của bình phong phải có hổ (phía Nam lá long
m ã) với khả năng trừ tà, sát quỷ, giữ yên cõi thiêng.
M ặt khác, tro n g quá trìn h phát triển của các kiến trúc phụ
liên q u an đến ngôi đình, thì việc ứng xử với T hành hoàng làng
cũng n g ày m ột th âm nghiêm hơn, có nghĩa, đình chuyển hóa để
m an g tín h ch ất củ a n hữ ng ngôi đền ngày càng m ạnh th ì việc
th iê n g hóa toàn ngôi đình cũng được quan tâm ngày m ột nhiều
hơn. Vốn dĩ, m ột chức năng cơ bản của ngôi đình là ngôi nhà
công cộng, không có tường bao (đình Tây Đ ằng ở Ba Vì, Hà Nội,
th u ộ c th ế kỷ XVI, đìn h Hữu Bằng, Thạch Thất, Hà Nội, có niên
đại cuối th ế kỷ XVII là n hữ ng ví dụ cụ thể). Có lẽ tới cả th ế kỷ
XVIII, n h iều ngôi đìn h cũng không có tường bao, hiện tượng bao
65
kin bằng tường xây có th ể chỉ được phổ biến dần từ n ử a đầu th ế
kỷ XIX trở về sau, người ta đã bưng bít cả n h ữ n g ngôi đình cổ có
từ trước và n h ấ t là với nhữ ng ngôi đình m ới... Tất nhiên, nhữ ng
ngôi đìn h bằng gỗ là sản phẩm của n ử a sau thời tru n g đại, niên
đại sớm n h ấ t chỉ cách ngày nay trên dưới 500 năm , khó có thể
đối sán h với nghệ th u ậ t hang động của thời nguyên th ủ y (m ột
th ứ n g h ệ th u ậ t được chạm vẽ trong ph ần sâu tối của hang.
Người xưa cho rằng, đi sâu vào hang động là nhập vào tử cung
của bà m ẹ vũ trụ để tìm chất vô nhiễm linh thiêng, giúp cho con
người trá n h được sự b ất trắc của tự nhiên. N hiều khi n h ữ n g hình
vẽ th ú v ật hay con người đã được coi n h ư m ộ t gợi ý với bà m ẹ vũ
trụ, h ãy tạo cho th ế gian này sự phồn sinh). Còn với ngôi đình thì
yếu tố tâm linh của "thời gian chiêm bao" với tư duy m ên h m ông
ngang tầm trời đ ất không thể còn n h ư thời trước nữa, m à ở đó
n h ữ ng m ảng chạm chủ yếu để nói lên ước vọng, th ậm chí đã
phản án h cả sinh h o ạt đời thường, n h ư vui chơi, tìn h yêu và
nhiều m ặt khác, nó liên quan trực tiếp tới ước vọng và cuộc sống
đời thư ờng... Vì thế, với tư duy thực d ụng củ a nông dân Việt, có
th ể tin được rằng, người xưa không th ể chạm trổ rất kỹ, tin h xảo
có giá trị ch u ẩn m ực..., rồi bưng kín lại để không th ể nhìn thấy
gì. Thực tế n hữ ng m ản g chạm này chủ yếu để phục vụ cho đời
thư ờng và p h ần nào là để cho thần, đó là lý do chúng cần phải có
đủ án h sán g để chiêm ngưỡng. Một thự c tế, vào khoảng nử a sau
của th ế kỷ XVII, điện T hánh của chùa T hầy (Quốc Oai, Hà Nội)
đã được bư ng kín b ằn g ván đố, để tạo sự th âm nghiêm cho đức
T hánh Từ Đạo H ạnh, n ên lòng n h à rấ t tối, ở đó trong th ứ ánh
sáng tâm linh m ờ n h iều hơn tỏ, người ta chỉ n h ận ra được nhữ ng
sự gồ ghề của k ết cấu là nhữ ng rường, xà, cột..., phần chạm khắc
chủ yếu được làm nổi khối bằng n hữ ng đấu "ba chạc" lớn. Ngoài
ra, tra n g trí kiến trú c tro n g lòng n h à không có gì đáng kể. Ngược
lại, ở m ặ t ngoài của điện Thánh, rấ t n h iều m ản g chạm đã được
th ể h iện tin h tế, vô cùng đẹp, với bố cục khá chuẩn m ực. Có
66
nghĩa là, n h ư trê n đã nói, tính thực dụng dân dã "không cho
phép" các đề tài chạm trổ tốn công của, được đ ặt tại nhữ ng nơi
không th ể chiêm ngưỡng... Trở lại với ngôi đình và các kiến trúc
nói chung, q u a khảo s á t điền dã, chúng ta chưa gặp được những
ván đố sử d ụ n g làm tư ờng bao cho các di tích có niên đại thế kỷ
XVI. Tới th ế kỷ XVII, ván đố lụa đã xuất hiện ở m ột vài ngôi
chùa (như ch ù a T hầy làm ví dụ). Tuy nhiên, trong kết cấu chữ
Công của Tiền đường và điện Phật thì nhờ th iên tỉnh (giếng trời)
và hệ th ố n g chấn song con tiện ở phía trước, đồng thời để hở
to àn bộ tư ờ n g hậu khiến cho lòng nhà vẫn đủ ánh sáng để chiêm
ngưỡng các m ản g chạm . Vào thế kỷ thứ XVIII, có lẽ tường bao
bằng ván đố đã n h iều hơn, như ng bằng cách này hay cách khác,
n h ư “chấn song con tiện " hoặc cửa mở ở toàn bộ m ặt trước cũng
đã đủ án h sán g để khi vào hành lễ người ta có th ể chiêm ngưỡng
được các m ản g chạm m ột cách khá rõ rệt. Lúc này, trong ánh
sáng m ờ tỏ đó lại có tác dụng trán h được n h ữ n g khiếm khuyết
của các m ản g chạm , khiến cho chúng như hoàn chỉnh hơn, lung
linh và sinh động hơn. Cũng từ nhận thức ấy m à nhiều hình
tượng về đề tài con người ở trên cao, nhiều khi được khái quát
hóa, bỏ bớt n h ữ n g chi tiế t rườm rà, thậm chí bỏ cả điểm nhãn
(không có m ắt) m à người xem không nhận ra nổi nhữ ng "khiếm
khuyết" cố tìn h này.
Tuy nhiên, phải nói rằng hiện tượng tường bao kín là một
h iện tư ợ ng tấ t y ếu trê n đường p h át triển của kiến trúc tín
ngưởng cổ tru y ền Việt, ít n h ấ t với hai lý do cơ bản:
M ột là, tro n g sự suy đồi của chế độ quân chủ và sự tàn phai
ở m ột m ức độ giới h ạn với tôn giáo tín ngưỡng, P hật giáo rơi vào
thời m ạt pháp, lòng tin vào Nho giáo bị khủng hoảng, tín ngưỡng
nói chung m an g n h iều yếu tố tiêu cực... đã dẫn đến hiện tượng
đối với ngôi đìn h củng cần phải được thâm nghiêm hóa để như
tạo th êm sự linh th iên g và xa cách cho T hành hoàng làng.
òt
Hai là, sự p h át triể n của kinh tế đô thị cùng vói sự kiêm
tin h ru ộ n g đ ất của địa chủ ở nông thôn khiến cho kinh tế tập th ể
ở làng xã bị cạn m òn, dẫn đ ến nhữ ng ngôi đền, đình không chỉ
còn là sản p hẩm thuộc về tư duy nông nghiệp tru y ền th ố n g nữa.
Thực tế đó đã dẫn đến các kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng ít
được chạm khắc ở bên trong, m à chủ yếu được th ể h iện ở bên
ngoài và trê n m ái x u ấ t hiện dần hình thức rồng chầu m ặ t trời.
Trong tấ t cả n h ữ n g điều kiện n h ư vậy thì tư ờng bao đã th ích ứng
với m ọi kiến trúc, nó không chỉ dừng ở đền, ch ù a m à còn cả ở
đình nữa.
68
hiện tượng di chuyển di tích thường chỉ xảy ra khi làng có đại sự,
chẳng hạn lũ lụt, lở đất, tai họa lớn...
- Đặc điểm cấu tạo: cấu tạo kiểu khung chịu lực gồm các bộ
vì (rường, cột) và hệ giằng (các loại xà) bằng vật liệu gỗ. Phương
thứ c xây dự n g th eo kiểu lắp ghép các cấu kiện được chế tạo sẵn.
Liên kết các cấu kiện với nhau bằng các kiểu m ộng có tín h chất
n ử a khớp, n ử a ngoàm . Lắp dựng theo lối cuốn chiếu từ n g bộ vì
(từ giữa san g 2 bên hoặc từ "vì" đầu tới "vì" cuối) và đ ặt trực
tiếp trên chân tảng mà không có liên kết với móng. Một đặc
điểm khác là, trê n các cấu kiện khung kết cấu thường kết hợp với
các th ủ p h áp chạm khắc trang trí, vừa tăng th êm vẻ đẹp cho
công trình, v ừ a giấu đi vẻ nặng nề vốn rấ t thô mộc, cứng nhắc.
Đặc điểm chung n h ất của kết cấu khung gỗ chịu lực trong
kiến trúc đ ìn h làng là p hần th ân nhà thấp, m ặc dù đến thời kỳ
m u ộ n sau n ày có được nâng lên cao hơn.
69
dạng, tù y th eo khả năng về tài chính của cộng đồng. Thông
thư ờng các kiến trúc chung của cộng đồng sử d ụ n g n hữ ng loại
gỗ quý có khả năng chịu lực tốt, n h ư trước th ế kỷ XVII, các kết
cấu gỗ chịu lực thư ờng sử dụng gỗ m ít, sau này lại thường sử
dụng các loại gỗ cứng n h ư đinh, lim (tứ thiết) đ ể làm các cấu
kiện khung chịu lực. T ất cả các loại gỗ đều có đặc điểm sử dụng
giống n h au là v ật liệu gỗ toàn khối, tự nhiên, không gắn chặt.
về m ặt cấu trúc, hầu như tất cả các đình của thế kỷ XVI và
đầu th ế kỷ XVII đều làm theo m ột dạng. Khác với ngôi chùa đã
có m ặt từ n h iều th ế kỷ trước, đình làng hầu như chỉ tìm thấy từ
th ế kỷ XVI trở đi. về cơ bản cấu trú c bộ vì của đ ìn h không khác
lắm so với chùa, m à nói đúng hơn, có th ể nghĩ tới dẫn x u ất từ
chùa, có nghĩa trong giai đoạn này kiến trúc bộ vì, về cơ bản vẫn
theo lối giá chiêng. Tuy nhiên, kiến trú c giá chiêng thời Mạc so
với thời T rần có n é t khác nh au bởi trong đó sự phối hợp giữa
kiến trú c và các m ảng phù điêu đã phần nào có n h ữ n g thay đổi
về n h ận thức. Đó cũng là m ột sự thay đổi rấ t lớn tro n g tạo hình,
phần nào chịu ản h hưởng từ thư ợ ng tần g xã hội, trong đó có
hiện tượng từ chế độ quân chủ chuyên chế P hật giáo chuyển
sang chế độ quân chủ chuyên chế Nho giáo, thự c ra, giai đoạn
bản lề này là từ thời Lê sơ, nó góp phần chấm d ứ t n ền nghệ
th u ậ t tạo hìn h chịu ản h hưởng của văn hóa phương Nam, lấy Ấn
Độ làm tru n g tâm , để tới th ế kỷ XVI (thời Mạc) chuyển sang m ột
n ền kiến trú c tạo hìn h m ang n é t p h át triể n của n g h ệ th u ậ t dân
gian, ít n h iều chịu ản h hưởng của tạo hình phương Bắc. Vì thế, ở
lĩnh vực tin h th ần , n g h ệ th u ậ t chạm gỗ thời T rần tu y có khoáng
đ ạt hơn nghệ th u ậ t thời Lý, n hư ng dù sao so với thờ i Mạc về sau
nó vẫn còn n ặn g tín h quy phạm tro n g n h ữ n g n g u y ên tắc đã ước
định. Cho đ ến th ế kỷ XVI, m ột ý thức mới gắn với kiến trúc và
tạo hìn h có phóng tú n g hơn. Ở lĩnh vực kiến trú c người ta chú ý
đ ến sự b ền chắc m ập m ạp, song đôi khi yêu cầu về các m ảng
70
chạm khắc lại được đặt ra như m ột trọng tâm của công trình,
khiến phần nào đã ảnh hưởng trực tiếp tới n hữ ng bộ phận cấu
kiện th a m gia vào nghệ th u ật, đặc biệt là đối với các đấu ở vì
nóc, vì gian ở các ván lá gió, đầu xà, đầu kẻ... Lấy kiến trúc đình
Tây Đ ầng n h ư m ột điển hình của nghệ th u ậ t th ế kỷ XVI ỉàm
trọng tâm cho m ộ t ví dụ cụ thể:
T rong k ế t cấu kiến trúc đình Tây Đằng, nếu đem so sánh
với n h ữ n g ngôi đình khác, ta có thể nhận ra m ộ t nguyên tắc phổ
biến là: ở trê n cùng bao giờ cũng có m ột chiếc xà rấ t lớn gọi là
thư ợng lương hay xà nóc, xà này tỳ lực trê n chiếc rường nhỏ
ngắn th ô n g q u a m ột đấu dài tạm gọi là đấu hình thuyền, đấu
được tra n g trí giật cấp th ó t dần xuống cả ở hai đầu. Một rường
nhỏ (cũng gọi là rường bụng lợn hay rường con cung) gồ lưng lên
phía trê n đỡ đ ấu và dồn lực về hai đầu rồi tì qua đấu vuông th ó t
đáy kê trê n đầu cột trốn. Thực ra đấu vuông này cũng có ăn
m ộng n gầm với rường con cung và có chốt ở chính tâm đâm
th ẳn g xuống đầu cột trốn, so về tỷ lệ kích thước thì cột trố n của
thời Mạc có p h ần n gắn so với cột trốn trc-ng kiến trúc thời Trần
(như ở chùa T hái Lạc, Văn Lâm, Hưng Yên) các cột này đều được
chạm khắc để trá n h n é t thô đơn th u ần của kiến trúc, chúng như
đã chu y ển hó a cột th à n h m ột kiểu đấu th ó t cổ bồng cả ở trê n lẫn
dưới với đài sen ở hai đầu, th ân cột được chạm chú bé ngộ
n g h ĩn h hoặc đề tài hoa lá. P hần không gian giữa hai cột trố n của
thời T rần còn khá rộng, đủ chỗ để lắp m ột chiếc ván lá đề lớn, là
tru n g tâ m củ a nghệ th u ậ t chạm khắc, còn ở thời Mạc, nh ư đình
Tây Đ ằng v à các đình khác ph ần không gian này đã quá hẹp, vì
th ế đôi khi chiếc lá đề lại chuyển hóa để có cả m ũi nhọn đâm
xuống và tro n g m ột số trư ờ ng hợp m ũi lá đã ăn lẹm xuống cả bộ
p h ận k ết cấu b ên dưới. So sán h với thời Trần, phần ngoài cột
trố n của vì nóc thư ờ ng được lắp m ột ván bưng khá dầy rồi khoét
lỗ để lồng h o àn h m ái. N hưng sang thời Mạc th ì hầu n h ư ván
71
bưng ở vì nóc đã được bỏ đi m à thay bằng m ột hoặc hai con
rường ngắn, ăn m ộng từ th â n cột trốn, vươn đầu ra để đỡ hoành.
72
nách cũng ăn m ộng vào th â n cột cái rồi vươn ra gối lên đầu cột
quân, thông q u a m ột đấu vuông th ó t đáy khác và đội chiếc
h o àn h th ứ 4 của m ái dưới (xà này ở cốn đốc/hồi nhà, được gọi là
xà đùi).
Từ kiến trú c thời Mạc về sau, bộ phận cốn luôn được quan
tâm để tra n g trí với đề tài thường là n h ữ n g hình tư ợng thuộc
h o ạt cảnh, v ật linh hay hoa cỏ thiêng, đồng thời ở các đầu con
rường và xà cũng được chạm trổ khá kỹ với n h ữ n g hoa văn m ang
tín h biểu tượng. Phần m ái đua được tì lên trê n hệ thống đầu bẩy,
bẩy của thời Mạc thư ờng khá dài và nặng, nhiều khi chúng
chiếm tới ba khoảng hoành. Hệ thống đầu bẩy này thự c sự là
m ộ t khúc gỗ, chắc, được lắp ghép vào đầu cột quân theo kiểu
m ộng én. Đuôi bẩy dạng h ìn h tam giác ốp sát vào phần cổ xà
nách, đuôi này ít khi có tran g trí và được gọi là nghé. Đầu bẩy
th ư ờ n g được bào phẳng ở lưng và bụng, hai bên bào cong kiểu
ốp vỏ m ăng và phần đầu gọt cong, trê n lưng bẩy là m ột ván
nong (cũng gọi v án dong) rấ t dầy, tạo th à n h m ột m ặt rộng, khiến
người xưa có th ể chạm n hữ ng đề tài như vân xoắn, iân, hoa lá
th iên g trê n to àn bộ phận kép này.
Thông q u a n h ữ n g m ảng chạm đó chúng ta có th ể xác định
được n iên đại củ a kết cấu bộ khung ngôi đình thuộc th ế kỷ XVI,
đồng thời, cũng n h ư các loại hình kiến trúc khác, cho th ấy di tích
thời n ày chưa có tầu mái, cũng như chưa có lá m ái và như th ế
chư a có k ết cấu góc m ái cong thuộc hệ khung gỗ (hiện tư ợng lắp
tà u m ái vào kiến trú c n h ư ở đình Tây Đằng, được thự c hiện sám
n h ất, cũ n g vào th ế kỷ XVII, bởi rõ ràng n h ữ n g hình chạm trê n
ván nong bị cắt xén m ột cách không thư ơng tiếc, n h ư lân thường
bị cụ t đầu, hoa lá biểu tượng th iên g đã bị kh o ét m ất m ộ t ph ần để
lắp h o àn h m ái...).
T rong liên kết dọc giữa các bộ vì với n h au người xưa
th ư ờ n g lắp hệ th ố n g xà dọc ở nơi đầu cột cái và cột quân. Hệ
73
th ố n g xà th ư ợ n g chủ yếu chỉ có m ộ t xà cũ n g ăn m ộng vào đầu
cột cái củ a gian nọ nối với đầu cột cái của gian kia. Ở trê n lưng
của xà này được lắp ván gọi là lá gió (diệp thượng). Diệp thư ợng
là p h ần ván lá gió lắp tro n g không gian giữa hoành m ái ở đầu cột
cái với xà thượng. Ở khoảng cách giữa hai đầu cột cái của mỗi
gian th ư ờ n g lồng tro ng mỗi lá gió hai h ệ đấu củng (con
sơn/consol). Đ ấu củng thự c sự là m ộ t đấu "ba chạc" được kết cấu
th eo kiểu m ột tần g hoặc hai tần g , gồm n h ữ n g đấu vuông thót
đáy và n h ữ n g tay đòn ăn m ộng chạy ra b a phía. C hính giữa đấu,
ở trên , là m ột tay đòn nhô h ẳn đ ầu và đuôi ra, nhiều khi được
chạm đầu rồng hoặc vân xoắn. Ở đình Tây Đ ằng và m ột số kiến
trú c khác, sá t với hoành m ái, trê n lưng rồng đòn tay này thường
được lắp m ột tư ợng th iên thần, hoặc nhạc sĩ th iên th ần ... hiện
tư ợng này có lẽ chịu ảnh hưởng từ tạo h ìn h P hật giáo, được dẫn
x u ất từ tích đức P hật x u ất th ế (khi Thích Ca mới lọt lòng thì có
hai vị v u a trời là Phạm Thiên và Đe Thích đã cho nhạc sĩ thiên
th ần , vũ nữ th iên th ầ n tu n g hoa n h ã nhạc vang lừng bầu trời
chúc m ừng th á n h n h ân x u ất th ế cứu đời). N hiều khi hai bên đầu
cũng được chạm nổi n h ữ ng cụm v ân xoắn lớn nhỏ nối nhau theo
d ạng hoa v ăn tay m ướp, ở lưng m ỗi vân xoắn thư ờ ng có m ột đao
lượn sóng bay ra.
74
Một đặc điểm của đình thời Mạc, m à điển hình là đình Tây
Đằng, còn được thể hiện hình thức cánh gà. Đó là m ột hệ kết cấu
gồm hai hoặc ba th an h đòn (trên to dưới nhỏ) ăn m ộng với nhau và
lồng vào đầu cột cái, hoặc cột quân để đội bụng xà thượng hoặc xà
hạ Chính vì tay đòn trên lớn tay đòn dưới nhỏ như chiếc cánh nên
mới có tên này. Đương nhiên hệ thống cánh gà ở đầu cột cái
thường lớn hơn ở đầu cột quân. Người xưa thường chạm trổ rất kỹ
hình tượng rồng và hoa lá ở hệ thống này. Tại đầu cột cái đôi khi
con chèn đội phía dưới cánh gà là m ột th en được chạm nổi hình
người, như tại gian giữa của đình Tây Đằng (Hà Nội) và chùa Cói
(Vĩnh phúc) là cảnh nhiều người chèo thuyền. Còn ở những cánh gà
cột quân thư ờng chỉ có m ột con rồng toàn thân chia làm hai nửa ở
hai bên cột, dưới rồng là con chèn được chạm nổi hình hoa thiêng
cách điệu. Các kẻ góc của đình thường khá dài, kẻ này cũng tì lực
trên đầu cột quân góc và th ân kẻ được chạy thẳng lên ăn m ộng qua
đầu cột trốn của "vì" đầu hồi. Chính vì đầu kẻ quá dài n ên người
xưa cũng thường làm m ột tay chống ăn m ộng vào bụng của đầu kẻ,
còn đầu kia của tay chống ăn mộng vào thân của cột góc. Qua thời
gian tồn tại, gỗ bị phong hoá, mộng bị lỏng ra, đầu bẩy và kẻ khó
có khả năng chịu được sức nặng của bộ m ái hiên nên người thời
sau thường tạo nên hệ thống cột hiên đội bụng đầu bẩy, đó là hiện
tượng đã gặp ở đình Tây Đ ằng cũng như ở chùa Thầy. Tuy nhiên,
cũng chính ở thời Mạc người xưa đã biết rú t kinh nghiệm nên ở
m ột số đình n h ư đình Là thuộc Thường Tín đã có kết cấu dạng 6
hàng chân, có nghĩa là sớm hĩnh thành hệ thống cột hiên và trong
những trường hợp này mối liên kết giữa cột quân và cột hiên nhiều
khi không còn cốn m à chỉ có m ột chiếc kẻ ăn m ộng qua đầu hai
cột này, n g h ĩa là đỡ m ái h iên ít khi có bẩy m à thư ờng là kẻ.
2.3.1. Mối liên kết các cấu kiện trong kiến trúc đình
Kết cấu chịu lực chính của ngôi đình tru y ền thố n g là hệ
k hung gỗ, được cấu tạo bởi các cấu kiện gỗ lắp ráp với n h au bằng
75
liên k ết m ộng. Đây là đặc trư n g nổi b ật n h ấ t của kết cấu gỗ. Sự
tài tình, khéo léo của ng h ệ n h â n kiến trú c cổ th ể h iện rấ t rõ ở
các liên k ết m ộng này. Chỉ n h ìn vào các m ộng liên kết, có th ể
đ án h giá được trìn h độ tay n g h ề của người thợ là cao h ay thấp.
Tùy th eo tín h ch ất chịu lực của từ n g loại cấu kiện m à liên k ết
m ộng có th ể là m ộng đơn hay m ộng kép, với cấu trúc đơn giản
hay phức tạp.
Mộng sập
Là kiểu m ộng m à các cấu kiện được lắp khớp với n h au theo
phương pháp h ạ sập từ trê n xuống, sử dụng chính tải trọ n g của
cấu kiện để sập giữ ổn định cho liên kết. Loại m ộng này được
dùng phổ biến n h ấ t đ ể liên k ết các cấu kiện lớn ở đầu cột như
câu đầu, kẻ, bẩy, xà nách, đầu dư... Ngoài ra, còn kết hợp với các
loại h ìn h m ộng khác để liên k ết m ột số cấu kiện n h ư xà, con
chồng (đều là m ộng xuyên lửng k ết hợp m ộng sập), tầ u m ái
(m ộng áp k ết hợp m ộng sập). Ở các kiểu m ộng kết hợp này,
m ộng sập thư ờ ng được biến th ể tạo th à n h m ộng th ắ t (còn gọi là
m ộng đuôi cá hoặc m ộng én có dạn g hình th a n g cân, phía ngoài
nhỏ, phía tro n g lớn hơn để trá n h sự chuyển vị gây tụ t m ộng.
Mộng xuyên
Là kiểu m ộng liên k ết bằn g cách cấu kiện nọ đâm xuyên
vào cấu kiện kia. Nếu đâm xuyên q u a to àn bộ gọi là m ộng xuyên
suốt, n ếu chỉ đ âm xu y ên vào m ộ t p h ần gọi là m ộng xuyên lửng.
M ộng xuyên su ố t th ư ờ n g được khóa bởi m ộng chốt, điển hình ở
các cấu kiện n h ư xà lòng, xà đùi, th e n tầu, cái cửa, khuôn
76
tran h ... M ộng xuyên lửng lại thường được khóa bởi m ộng sập
kiểu đu ô i cá (đuôi én), có th ể thấy ở các cấu kiện n h ư xà, xà
nách, con chồng... Cũng có khi, m ộng xuyên lại làm chức năng
khóa cho các m ộng khác (m ộng nối hoành, thượng lương).
Mộng chốt
Là kiểu m ộng dùng m ột cấu kiện phụ khác để liên kết các
cấu kiện chính với n h au gọi là chốt hay con xỏ. Phương thứ c liên
kết loại m ộng này có phần gần giống với m ộng xuyên (nhưng
m ộng xuyên để liên k ết trực tiếp 2 cấu kiện chính với nhau). Vai
trò chịu lực của m ộng chốt không lớn, bản th â n các chốt con xỏ
th ư ờ n g có kích thước nhỏ. Do vậy, sự chịu lực của m ộng chốt chỉ
m ang tín h bổ trợ, chủ yếu d ù n g để định vị, chống xô lệch cấu
kiện v à khóa h ãm các liên k ết chính khác. Mộng chốt thường
được sử d ụ n g tro n g các trư ờ ng hợp như chốt hãm liên kết m ộng
xuyên (xà lòng, xà đùi, th e n tầu, cái cửa, bạo cửa, khuôn
tran h ...), đ ịn h vị các cấu kiện (hoành mái, thư ợng lương, ván mê,
bạo cửa, k h u n g tran h , các chí tiế t tran g trí...). Một m ộng chốt có
th ể đ ịn h vị hoặc chốt hãm m ộ t hoặc nhiều cấu kiện. Ngược lại,
m ột cấu kiện có th ể có m ột hoặc nhiều m ộng chốt tham gia định
vị, ch ố t h ãm liên kết.
Mộng áp
Là kiểu m ộng dùng để đấu nối, liên k ết các cấu kiện gỗ
(thường là cù n g loại) với nhau. Đặc điểm cấu tạo của m ộng áp là
p hần m ộng củ a hai cấu kiện đ ấu nối với nh au luôn tương đương
n h au và được áp vào nhau th eo kiểu âm dương. C hính do đặc
điểm cấu tạo đơn giản n h ư vậy n ên tính liên kết của m ộng áp
yếu. Để khắc phục nhược điểm này, m ộng áp thường được kết
hợp với các loại m ộng khác để tăn g khả năng liên kết. Tuy vậy,
tro n g th ự c tế m ộng áp cũng chỉ sử dụng ở nhữ ng vị trí ít chịu lực
hoặc đã có sự hỗ trợ gia cường khả năng chịu lực n h ấ t định.
77
Trong kiến trú c tru y ền thống, việc sử dụng m ộng áp (có k ết hợp
với các loại m ộng khác) thư ờng th ấ y ở liên k ết nối hoành, thư ợ ng
lương (kết hợp m ộng xuyên lửng), nối cột, tầu m ái (kết hợp
m ộng sập); đấu 2 đầu kẻ nóc (kết hợp m ộng chốt).
Mộng hèm
Từ các loại m ộng cơ bản trê n đây, người th ợ V iệt vói trí
th ô n g m in h và b àn tay khéo léo của m ình đ ã biến hóa, k ế t hợp,
sáng tạo ra rấ t n h iều loại m ộng biến th ể khác n hau, làm tăn g
khả n ăn g liên k ết cấu kiện, đồng thời cũng tạo ra n h ữ n g dấu ấn
cá n h â n v à bí q u y ết n g h ề n g h iệp riêng. T rong kiến trú c công
trìn h (bất động sản) chủ yếu sử d ụng các liên k ết m ộng cơ bản
trên , ít có biến th ể do các cấu kiện kiến trú c to lớn, n ặn g nề, khó
78
xoay sở khi lắp dựng, các loại m ộng biến hóa vô cùng linh hoạt,
rất phức tạp (cần có n h ữ n g đề tài nghiên cứu, tìm hiểu riêng).
Cột
Là th à n h p h ần duy n h ấ t chịu lực theo phương th ẳn g đứng
tro n g kết cấu bộ k h u n g chịu lực, liên kết tấ t cả các cấu kiện chịu
lực theo phương n g a n g tro n g h ệ khung, n h ận và tru y ền tải trọng
từ các cấu kiện đó xuống n ền m óng. Trong m ột bộ vì, căn cứ vào
số lượng cột để xác địn h kiến trú c đó là loại kiến trúc có m ấy
hàn g chân, s ố lượng cột tro n g m ột bộ vì lại tù y thuộc vào số
bước cột trọ n g hệ đó, th eo công thức: số bước cột + 1 = số cột.
Các bước cột tro n g bộ vì (còn được gọi là lòng cột) được đ ặt tên
từ giữa san g hai b ên (trước - sau) là bước giữa, bước nách và
bước hiên. Kiến trú c tru y ền thố n g Việt ở Bắc Bộ có tối đa 5 bước
79
cột 6 h àn g chân. Có 3 loại cột trong m ột bộ vì tín h từ bước giữa
san g 2 b ên là cột cái, cột quân và cột hiên.
Cột có th ể tiế t diện tròn hoặc vuông, loại cột có tiế t diện
vuông chỉ m ói x u ấ t h iện trong kiến trú c tru y ền thống Bắc Bộ phổ
biến dần n ử a cuối th ế kỷ XIX.
H ình dáng của cấu kiện cột thư ờng được làm th eo kiểu
th ư ợ n g th u h ạ th ách , đặc biệt rõ n é t ở loại cột tròn (dáng đòng
đòng/cũng gọi: đầu cán cân, chân qu ân cờ) theo công thứ c tương
đối 2/3 chiều cao ph ía trê n th u nhỏ lạ il,5 c m - 2cm /lm chiều cao;
1/2 chiều cao phía dưới chân cột th u nhỏ lại 2 - 3cm; đoạn còn
lại tương đối đ ều không thu. Tuy nhiên, trong thực tế do gia
công bằng th ủ công n ên ở nhiều công trình, công thức này không
được chính xác h o àn toàn. Từ th ế kỷ XVIII trở về trước, trên
đĩnh cột còn có th êm đấu đầu cột để đỡ câu đầu, hình thứ c này
m ất dần từ khoảng cuối thế kỷ XVIII.
80
Đình T â y Đằng, Ba Vì, Hà N ội, T K XV!
(T ư liệu: V M T )
S a Óó r r iỉt bÃ*Ọ
5 c ci/ d ọ c Í S
Đấu vật, trên nghé kẻ, đình H ư ơ n g C anh, B ình X uyên, V ĩnh P h ú c , TK X V II
(T ư liệu: V M T )
Đ ấ u v ật trên rư ờ n g vì nách, đình H ư ơ n g C a n h , B ình X uyên, V ĩnh Phúc, T K X V II
(T ư licu: V M T )
81
Hai bộ vì liền sát nhau, liên kết với n h au qua h ệ th ố n g xà
dọc tạo th à n h m ộ t gian. Đó chính là đơn vị không gian m ặt bằng
để tù y th eo công năng kiến trú c m à tổ chức cho phù hợp. Hai vì
tạo th à n h m ột gian n ên số gian thư ờng là số lẻ (3 - 5 - 7). Người
Việt trá n h làm n h à có số gian chẵn. Gian là m ộ t khái niệm của
kiến trú c gỗ cổ tru y ền Việt, xác định quy m ô, tầm cỡ của m ột
công trình.
Vì giá chiêng
Là kiểu liên kết vì có niên đại sớm nhất trong các kiến trúc
bằng gỗ hiện còn. Niên đại được xác nhận vào nửa cuối thế kỷ XIV.
Bộ vì kiểu này dựa trê n kết cấu bốn h àn g chân cột bằng gỗ
m ít - ngu y ên liệu chính của các kiến trúc gỗ bấy giờ (đình Thụy
Phiêu, Tây Đ ằng...).
Mở đầu cho bộ vì, từ trê n xuống là thư ợ ng lương, cũng
m ang chức n ăn g là m ột hoành mái, đương thời bộ vì nóc có ba
khoảng hoành, nghĩa là vì nóc đỡ bốn h o àn h m ái m ỗi bên. Trừ
th ư ợ n g lương ra, các hoành nằm trê n ba vị trí chính: trên cột
trốn, trê n v án nong (hay rường) và trê n cột cái. Tuy nhiên, trên
thự c tế số h o àn h m ái của bộ vì nóc có khi n h iều hơn. Chắc chắn
là qu a n h iều lần tu sửa, để tăn g sự bền vững, người ta đã phải
tăn g th êm hoành.
Để đỡ n h ữ n g hoành mới này, người ta đ ã khoét thêm vào
ván nong (hay rường cụt) n h ữ n g ổ đỡ hoành và đ ặt th êm nhữ ng
con chèn, guốc/dép ho ành trê n rường bụng lợn. Câu đầu tỳ lực
trê n hai đầu cột cái qua hai đấu vuông th ó t đáy lớn. Cột cái
th ư ờ n g được làm bằng gỗ m ít. Thân cột có đưcmg kính lớn,
n h ư n g n g ắn /th ấp .
Thời Mạc, đã b ắt đầu có n h u cầu mở rộng lòng công trình,
n ên k ết cấu giá chiêng phần nào thay đổi. Bộ m ái bè ra hơn,
khiến cột trố n của giá chiêng ngắn lại. Ván lá đề cũng bè ra,
82
nhiều khi m ũi lá đề lẹm vào rường bụng lợn, hoặc ăn lẹm ch ú t ít
xuống xà kê trê n lưng câu đầu. Và, nhiều khi tuy công trìn h vẫn
chỉ có bốn cột cái, n h ư n g lại có tới bốn bộ vì nóc. Hai bộ vì chính
đứng lực trê n bốn cột cái, còn hai bộ vì phụ đứng trê n bốn cột
trố n đ ặ t chân trê n n h ữ n g xà đùi (ở đầu hồi). Kết cấu biến th ể kể
trên làm lòng công trìn h được mở rộng sang hai bên.
83
nh ẹ đi. Vào khoảng th ế kỷ XIX, người ta sán g tạo ra biến th ể bán
giá chiêng. Kết cấu này có m ột giá chiêng lớn đỡ th ư ợ n g lương,
hai bên là n h ữ n g nử a giá chiêng cùng cả m ột hệ th ố n g cột trố n
cao - th ấp , to - nhỏ nối n h au chạy xuống, hiện tư ợ ng này có ở vì
n ách (đình D ương Liễu, Hoài Đức, Hà Nội, đình H ữu Vĩnh và m ột
loạt các đìn h từ Đồng Đ ăng đến Bắc Sơn - Lạng Sơn).
Vì chồng rường
Có lẽ kết cấu chồng rường nảy sinh bởi có chất liệu chịu lực
cao hơn của gỗ lim và do yêu cầu mở rộng hơn lòng công trìn h
để tăn g diện tích sử dụng. Ở Việt Nam, kết cấu này x u ấ t hiện
khá m uộn. Chưa th ấy bộ vì nóc theo kiểu chồng rường của người
Việt có n iên đại từ đầu th ế kỷ XVII trở về trước. H iện tượng
chồng rường sớm n h ấ t dưới dạng giá chiêng - con nhị là ở tòa
điện T h ánh chùa Thầy (Quốc Oai, Hà Nội). Rõ n é t hơn là vì nóc
chồng rư ờng đìn h H ưng Lộc (Nam Định). Kiểu kết cấu vì này khá
đơn giản, chỉ gồm n hữ ng con rường dài ng ắn khác nhau, kê trê n
n h au q u a n h ữ n g đấu vuông th ó t đáy m ỏng - thấp. Các rường
n g ắn d ần về phía thư ợng lương để con rường cuối cùng đội
thư ợng lương không khác m ột đấu. Một bộ vi nóc kiểu này
thư ờng gồm từ 3 đến 4 con rường. Tùy theo sự dãn cách của cột
cái m à số rường có th ay đổi. Có bộ vì nóc xếp tới 07 con rường
chồng khít n h au (đình H ưng Lộc, Nam Định). N hiều khi để trá n h
sự n ặn g n ề cho bộ vì nóc, và cũng để tiế t kiệm , tậ n dụng gỗ m à
vẫn th ỏ a m ãn n h u cầu m ở rộng lòng công trình, người ta đã th ay
đổi con rư ờng ở sát câu đầu bằng m ột đôi rưòng cụt. Vô h ìn h
chung, k ết cấu này vừ a m ang tín h chất chồng rường vừ a m an g
n h ư tín h ch ất giá chiêng biến thể.
Các đấu vuông th ó t đáy kê giữa các con rường, càng về sau
càng được làm dầy hơn - cao hơn. K hoảng cách giữa các con
rường vì th ế cũng ngày m ột lón hơn.
84
Ở cuối th ế kỷ XVII, chiếc câu đầu vẫn được làm từ m ột th ân
gỗ lớn, n h ư n g dài hơn trước. Và, cho đến thời kỳ này, câu đầu
vẫn n ằm trê n các đấu vuông th ó t đáy liên k ết chắc chắn bởi các
chốt đóng xuyên qu a ru ộ t đấu xuống đầu cột.
Vĩ kèo
85
chạy từ thư ợng lương, ăn m ộng qua đầu cột cái, kéo dài xuống
tậ n đầu cột q uân th ì gọi là kẻ suốt. Nếu dừng lại ở đầu cột cái,
rồi nối xuống cột q u ân bằng m ột kẻ th ứ hai thì gọi là hệ kẻ
chuyền. T hân kẻ đỡ m ột ván nong dày, có khoét các ổ làm chỗ
đứng chân cho các ho ành mái. Trong kết cấu này, còn m ộ t cột
trố n đứ n g chân trê n quá giang, vươn lên đội vào phía dưới chỗ
đầu hai kẻ gác m ộng. Cột trố n này thường không để thô m à
thư ờng là m ột th â n gỗ thẳng, nhiều khi được k ết hình n ậ m rượu.
Cả chiếc đấu kê ở chân cột trố n cũng được cách điệu, tra n g trí.
Trong m ột số công trìn h lớn, ở các góc m ái ngoài đầu hồi, người
ta còn làm các kẻ góc/xó/moi, đó là m ột th ân gỗ liền, vư ơn lên
sát th ư ợ n g lương và chạy d ài'x u ố n g tận cột qu ân góc. Đuôi kể
này ăn m ộng qu a cột quân góc, m ang tư cách n h ư m ột bẩy (có
người gọi là bẩy liền kẻ). Ở Huế, cột trố n nói trê n được làm khác
với Bắc Bộ. Đầu cột không chống th ẳn g vào hai kẻ m à chỉ đội
m ột đòn ngang vươn sang hai bên đỡ bụng hai kẻ. H ình thứ c kẻ
chuyền ở T rung Bộ cũng có phần khác. Kẻ gồm từ hai đ ế n ba cấu
kiện, tù y thuộc vào số lượng hàng cột. Phần vì nóc được tạo
th à n h bởi hai kẻ, chốt với nh au ở đầu để đỡ thư ợ ng lương (tiếng
địa phư ơ ng là đòn Dông, đòn Đông). Chân kẻ ăn m ộng q u a đầu
cột cái, nhô phần đuôi sang bên kia cột để liên kết với đ ầu m ột
kẻ khác. Kẻ th ứ hai liên kết với đuôi của kẻ trê n và nối xuống cột
quân. Đuôi kẻ cũng nhô ra phần ngoài th ân cột quân, liên kết với
đầu m ộ t kẻ th ứ ba chạy xuống liên k ết với cột hiên. Đuôi kẻ th ứ
ba vươn dài hơn, đỡ m ái đua. Trong các kiến trú c phụ ở Bắc Bộ,
chiếc cột trố n n h iều khi được thay bằng m ột th â n ván dày, ăn
m ộng vào đầu hai kẻ. Từ th â n của cột ván này lại nảy sinh ra hai
th e n gỗ nhỏ, vươn san g hai bên, khóa m ộng vào dạ hai kẻ. T hậm
chí, để chắc chắn hơn, ở chỗ hai th e n gỗ ăn m ộng với kẻ, người
ta còn làm hai th a n h ván nhỏ chống th ẳn g xuống quá giang. Kết
cấu này rấ t phổ biến từ cuối th ế kỷ XIX. Ở vùng đồng b ằn g ven
b iển m iền T rung (từ Q uảng Bình đến Q uảng Nam), k ế t cấu vì
86
kèo được sử d ụ n g phổ biến trong cấu trúc nhà rội, nhà rường.
Tuy n h iên k ết cấu vì và cả tên gọi các cấu kiện có m ột số biến
đổi. Nơi hai kẻ gặp nhau, ăn m ộng đỡ đòn Đông (xà nóc) được
gọi là giao nguyên. Kẻ nóc, kẻ ngồi, kẻ hiên trong kết cấu kẻ
chuyền được gọi là kẻ lòng nhất, kẻ lòng nhì, kẻ lòng ba. Liên kết
các cột th eo chiều ngang, không thực hiện ở đầu cột m à ở vị trí
th ấp hơn là các xà ngang được gọi là trin h (hay trến). Liên kết
kèo - kẻ chỉ được nâng đỡ bởi các cột m à không có cấu kiện phụ
khác n h ư ở Bắc bộ. Thậm chí, ở kiểu nhà Rội, chỉ có m ột cây cột
cái duy n h ấ t chống th ẳn g lên giao nguyên, liên kết với cột quân
ở phía sau b ằn g trin h đoản. Có lẽ đây là m ột hiện tượng b ắt
nguồn từ kiểu n h à Mã Lai cổ. Rõ ràng liên kết vì của n h à Rội,
n h à Rường v ẫn chỉ là m ột biến th ể địa phương của kết cấu
vì kèo.
Vì ván mê
Liên k ết kiểu này h ế t sức đơn giản, chỉ gồm n hữ ng tấm ván
cùng độ dày, soi m ộng, được lồng giữa hai kẻ cùng quá giang.
Kiểu vì nóc này thư ờng được nghệ th u ậ t hóa bằng cách trổ thủng
tấm ván dưới cùng, sát quá giang, để tạo th àn h dạng thức có
hìn h cánh dơi lớn. Mặt các tấm ván này thường được chạm khắc
hình hổ phù, rồng hoặc n h iều đề tài khác. Kiểu vì này thường
gặp được ch ạm khắc ở các kiến trúc m uộn hoặc phụ trong công
trìn h đã có sẵ n (như ở tả hữ u vu của đình).
Cũng vào thời kỳ này, ở Bắc Bộ, nhiều ngôi đình làng có vì
nóc kiểu vì kèo. Chiếc trụ trố n được thay thế bằng m ộ t ván gỗ có
tai cột, tạo h ìn h cân xứng (dưới dạng cánh chim, cánh dơi, cánh
87
bướm xòe rộng, hoặc hình lá cúc) gắn dưới hai đầu liên k ết với
hai kẻ nóc. Ở m iền T rung biến th ể của vì ván m ê th ư ờ n g là m ột
loại h ìn h tro n g hệ vì vỏ cua. Vì này nhỏ, nhiều khi là m ộ t tấm
ván liền, được chạm th ủ n g th à n h các đề tài tran g trí.
88
m à v ẫn có n h ữ n g trư ờ ng hợp ngoại lệ, đây chỉ là nguyên tắc cơ
bản. T rong hệ xà này, cần nói thêm về cấu kiện xà th ế hoành,
đây là cấu kiện v ừ a làm chức năng của m ộ t hoành m ái lại vừa
làm chức n ăn g liên kết giằng ở đầu cột. c ấ u kiện này ra đời khá
m uộn (khoáng nữa cuối thế kỷ XIX) khi đá xuất h iện loại hoành
có tiế t diện vuông.
X à g iằng cột thư ờ ng chỉ được tran g trí bằng cách soi gờ chỉ,
ít khi chạm khắc cầu kỳ.
X à nách
Là th à n h p h ần chịu lực nằm ngang ở bước nách trong các
kiến trú c gỗ cổ tru y ền thống có vì nách/cốn kiểu chồng rường,
cốn m ê hoặc kẻ ngồi. Riêng các kiến trúc có vì nách kiểu kẻ (kẻ
liền bẩy, kẻ tru y ề n hoặc kẻ suốt) nhiều khi không có cấu kiện xà
n ách (niên đại th ư ờ n g vào cuối th ế kỷ XIX về sau).
Tuy nhiên, trong cùng một kiến trúc có thể kết hợp nhiều kiểu
vì nách/cốn n ên có thể có bộ vì nách, có bộ vì không có xà nách.
Xà n ách Liên kết đầu cột quân vào cột cái, n h ận và truyền
tải trọ n g từ vì n ách xuống cột quân và cột cái. Xà nách có m ột
đầu ăn m ộng trự c tiếp vào cột cái, đầu kia liên k ết với đầu cột
q u ân bằng cách gối lên đấu đầu cột (đến th ế kỷ XVIII) hoặc án
m ộng trự c tiế p vào đầu cột quân (từ cuối th ế kỷ XVIII).
Xà nách thư ờng được trang trí bằng cách soi gờ chỉ hoặc kết
hợp chạm khắc, cũng có nhiều công trình, xà nách được chạm khắc
tra n g trí to àn bộ (chủ yếu ở hai bên, phần nào ở b ụng xà).
89
cột, song còn m ột chức năng khác là liên k ết giữ bạo cửa (bạo
ngang) trê n đó có quang cửa làm chức năng b ản lề cho cửa.
Xà cửa thư ờng chỉ tra n g trí đơn giản bằng các gờ chỉ, hiếm có
chạm khắc.
Xà vách
Cấu kiện có chức năn g chủ yếu liên kết giằng cột và giữ
khung vách. Xà vách có vị trí ở phía trê n vách, n g an g với xà cửa.
T rang trí thư ờ ng đơn giản bằng gờ chỉ. Tuy nhiên, xà vách ở các
vách n g an g và m ột số vách dọc lại được tạo h ìn h khá đặc biệt
cũng b ằng các gờ chỉ, song còn m ang tìn h chất tra n g trí (còn gọi
là xà lợi bát).
X à ngưỡng
Cũng có chức năng giằng cột như ng còn thự c hiện các chức
n ăn g riên g b iệt khác: ngưỡng cửa và đỡ cối cửa (trước kia, xà
ngưỡng cửa được làm liền với quang cửa, sau này xà ngưỡng cửa
được làm riêng, quang cửa được làm riêng và liên kết vào xà
ngưỡng); xà ngưỡng ở các vị trí có vách đã th ê m chức năng đỡ và
giữ khu n g vách. Xà ngưỡng có vị trí ngang với m ặ t dưới cánh
cửa, th ư ờ n g ít được tran g trí hoặc chỉ tra n g trí b ằn g gờ chỉ.
Xà ngạch
Là cấu kiện phía dưới xà ngưỡng, sát với ch ân cột, chỉ có
chức n ăn g đỡ và giữ ván ngạch. Cũng có nhiều công trìn h không
có xà ngạch, th ậm chí có công trìn h thay th ế v án ngạch bằng kết
cấu xây gạch. Song, nhìn chung các kiến trú c tru y ề n thống tiêu
biểu và đầy đủ đều phải có xà ngạch và ván ngạch, c ấ u kiện này
thư ờ ng được làm đơn giản, không có tran g trí.
Xà giằng vì
Là loại xà có chức năn g liên kết giằng các vì m ái. Chỉ có ở vì
nóc và chỉ có loại hìn h vì nóc có cọc báng hoặc trụ trố n (vì kiểu
90
kèo, vì kiểu giá chiêng) mới có th ể có cấu kiện xà giằng vì. Vì
vậy, tín h ch ất của các xà này tương tự như xà giằng cột. Nếu xà
ở trụ trố n gọi là xà trụ trốn, nếu xà ở cọc báng hoặc trụ nóc gọi
là x à nóc. Loài xà này được tra n g trí bằng gờ chỉ.
Ván gió
Là loại cấu kiện được nong vào giữa các xà giằng cột, có tác
d ụ n g n g ăn chia không gian m ột cách giả định và tác dụng tran g
trí nội th ấ t kiến trúc.
Có kiểu ván gió đơn và ván gió kiểu ô hộc (liên ba). Ván gió
đơn là tấm gỗ ván đơn th u ần , có thể để mộc hoặc chạm khắc
tra n g trí rấ t cầu kỳ (có niên đại từ nhữ ng ngôi đình và chùa của
th ế kỷ XVI).
Ván gió kiểu ô hộc, cấu tạo hởi hệ khung phân chia th àn h
các ô nhỏ có nong ván. H ệ khunơ thư ờng được soi gờ chỉ, còn
ván nong có th ể chỉ huỳnh m ột m ặt hoặc có chạm khắc các đề tài
tra n g trí (chủ yếu tro n g kiến trúc Huế và m ột số nơi khác).
Ván dong
Là cấu kiện gỗ tấm chạy dọc trên lưng (cật) các kẻ, bẩy, có
tác d ụ n g đỡ các ho àn h m ái đồng thời điều chỉnh cao độ m ặt mái,
v án dong có th ể để trơn (mộc) như ng cũng có th ể chạm khắc
tra n g trí rấ t cầu kỳ, tin h xảo.
91
m ặt m ái giữ a hai cột kể trên.
92
Liên kết kiểu kẻ ngồi
Thông thường, với vì nóc theo kiểu vì kèo (hay cụ thể là vì cột
trốn - kẻ suốt, vì cột trốn - kẻ chuyền) thì vì nách chi là m ột kẻ ngồi
ăn m ộng nơi đầu cột cái rồi chạv xuống khớp với đầu xà nách qua
m ột m ộng khác. Kẻ này hơi cong lên phía trên để dồn lực xuống
đầu các cột. Lưng kẻ đội m ột ván nong dày có khoét các ổ đỡ
hoành. Kiểu liên k ết này khá phổ biến ở Bắc Bộ và T rung Bộ như
đình Võ Liệt (Nghệ An) đền T rang Liệt (Bắc Ninh)...
Trong nhiều trường hợp chiếc kẻ này được tạo hình theo dạng
"cổ ngỗng", tỳ lực ở cột quân rồi vươn đầu cong theo chiều ngược
lại để đỡ luôn cả m ái đua. Đôi khi người ta còn bỏ không làm xà
nách n h ư ở hậu cung đình Thổ H à và m ột số nhà dân kiểu "đại
khoa" ở làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh... Cách thức này có niên đại rất
m uộn, phổ biến n h ất dưới thời Thành Thái, Khải Đinh, Bảo Đại.
r • « I Ẵ. Ị ỊẬ Ậ
Liên kêt kiêu côn mê
Tương tự kiểu vì ván m ê ở nóc, nhiều khi vì nách cũng được
tạo bởi n h ữ n g tấm v án dày ken nhau. Mặt ván có chạm m ột hay
nh iều đề tài tran g trí. Một tiêu biểu là vì nách của đình Phù Lão,
Bắc Giang. Các kiểu liên kết vì nách kể trên được sử dụng khá
linh hoạt. Không n h ấ t th iế t vì nóc và vì nách của m ộ t công trìn h
phải có kiểu liên k ết giống nhau.
Thực tế, người ta "lắp ghép" vì nóc kiểu này v à vì nách kiểu
khác. T hậm chí các vì n ách của các bộ vì cũng không giống nhau,
vì n ách gian giữa khác vì nách gian bên. Tất cả phối hợp tạo nên
n h ữ n g liên kết "Vì" đ a dạng, phong phú. Loại kết cấu này thư ờng
gặp phổ biến từ th ế kỷ XIX về sau.
93
B ẩy hiên : Theo chúng tôi, chỉ có n hữ ng cấu kiện có phần
đuôi tam giác (nghé) đội vào dạ/bụng xà nách, chỉ ăn m ộng ở
m ột điểm tự a duy n h ấ t trê n đ ầu cột quân, dùng sức n ặ n g của
m ái trê n đè xuống, theo đ úng ng h ĩa đòn bẩy, mới được gọi là
bẩy. Đây là cách liên k ết đỡ m ái hiên phổ biến n h ấ t và có niên
đại sớm n h ấ t (hiện biết) vào th ế kỷ XIV. Lưng bẩy thư ờng đỡ m ột
ván nong (hoặc m ột th â n gỗ n g ắn hơn) có khoét các ổ đỡ hoành.
Phần m ái h iên dù đu a dài bao nh iêu cũng không vượt quá ba
khoảng hoành, nghĩa là nh iều n h ất, bẩy cũng chỉ đỡ đến ba
hoành m ái (kể cả tàu mái). T hân bẩy và ván nong là nơi tập
tru n g n h iều đề tài chạm khắc.
111 Thời gian ông Đặng Văn Tu làm giám đốc sở VHTT Hà Tây, do KTS.TS Hàn Tất
Ngạn thiết kế và thục hiện.
94
m ở rộng thêm . Liên kết bẩy khá linh động, tùy theo nhu cầu cần
rộng hiên trước hay hiên sau để th àn h các kiểu "tiền bẩy-hậu
kẻ" hay "tiền k ẻ-h ậu bẩy".
Kẻ h iên : K ết cấu của hiên bằng kẻ gắn với liên kết của vì
n ách b ằn g kẻ ngồi hay kẻ cổ Iigỗng. Chiếc kẻ của vì nách chui
m ột đ ầu vào cột cái, ăn m ộng én qua đầu cột quân, vươn dài ra
đỡ m ái hiên. N hiều người gọi cách liên kết này là "kẻ liền bẩy"
hay "bẩy liền kẻ". Tuy nhiên, đây là kiểu liên kết riêng biệt, x u ất
nguồn từ liên k ết vì kèo tre. Hoàn toàn không n ên gọi n h ư vậy
dễ n h ầm kiểu liên kết này với cách xử lý hiên bằng bẩy. Theo kỹ
th u ậ t học và k ết cấu, rõ ràng cấu kiện này là m ột th â n gỗ liền, ăn
m ộng ở cả đầu cột cái và đầu cột quân.
95
cấu có sáu h àng chân cột đã có từ nử a cuối th ế kỷ XVII. Thực tế,
từ cuối th ế kỷ XIX về sau, với sự th am gia của gạch - vôi - vữa,
n hiều khi người ta lại bỏ bớt các hàn g chân cột: hàng ch ân cột
q uân phía sau bị th ay bằng tường hậu. Rồi tường gạch th ay th ế
h àn g cột q u ân (và cả cột cái) của hồi, dẫn đến h iện tư ợ ng có các
kiến trú c kiểu tường hồi bít đốc? Có m ột điểm cần lưu ý ngay
rằng: khái niệm cột hiên không bao gồm các cột đứng sá t chân
m ái giọt gianh. N hững hàn g cột này không hề th am gia vào liên
kết chính m à thư ờng chi có tác dụng đỡ đầu bẩy (hoặc kẻ) nhiều
khi được th êm vào về sau. Các cột phụ kiểu này thư ờng được làm
bằng ch ấ t liệu khác (gạch xây, đá); nếu bằng gỗ thì thư ờ ng có
kích thư óc nhỏ hơn so với các cột khác.
- Tất cả các kiểu loại liên kết "vì" cùng những biến thể của
chúng, được sử dụng ở khắp nơi, tro n g m ọi công trìn h kiến trúc
có n h ữ n g công n ăng khác nhau. Không kể hai loại h ìn h cơ bản,
phổ biến n h ấ t (vì giá chiêng, vì chồng rường), hai loại h ìn h sau -
vì kèo v à vì ván m ê - tu y có hạn chế, bó h ẹp hơn tro n g sử dụng
n h ư n g cũ n g không hoàn to àn chỉ là kết cấu của các n h à phụ.
N ghĩa là, cùng m ộ t khung kết cấu ấy, vẫn m ộ t kiểu loại liên
kết "vì" ấy, người V iệt dùng cho h ầu h ế t các loại h ìn h kiến trúc.
Từ n h à ở, lầu gác, cung điện đến đình, chùa, quán, m iếu... đều
96
có thể chung n h ữ n g kiểu loại liên kết ở bộ vì. K hung gỗ liên kết
của n h ữ n g loại hìn h kiến trú c khác nhau không h ẳn có sự khác
n h au về k ết cấu. Mà, có chăng chỉ là n hữ ng sai biệt về kích
thước các cấu kiện và m ức độ tran g trí chạm khắc. Hoặc giả có
khác n h au ch ú t ít, biến đổi kết cấu đi chút ít th ì chủ yếu là để
tiện cho việc bài trí nội th ất.
- Các kiểu liên kết vì cổ tru y ền xuất hiện có sớm, có m uộn
do n h u cầu sử dụng không gian m ặt bằng công trìn h và cả do
ch ất liệu gỗ. Tuy nhiên, các kiểu loại ra đời sau, dù có nhữ ng ưu
điểm riêng, vẫn không loại trừ các kiểu loại có trước đó. Kiểu vì
giá chiêng với n iên đại khá sớm đã được biến đổi để phù hợp với
n h ữ n g n h u cầu mới và tồn tại cho tới nay. Các kiểu loại nhiều khi
được ph a trộn, phối hợp với n h ữ n g ưu điểm về kết cấu và cùng
được sử dụng. T rên thự c tế ở các di tích, bên cạnh các loại "vì' cơ
bản, ch ú n g ta th ư ờ n g gặp rấ t nhiều biến th ể phức tạp. Kết cấu vì
nóc n h iều khi khó đ ặt tên và khó phân biệt bởi được pha tạp, kết
hợp từ n hiều loại hình chính.
Khởi đẩu thứ c kiến trú c cột - xà - kẻ có th ể được du nhập,
n h ư n g dần dần được Việt hóa, nói nh ư vậy có nghĩa là kiến trúc
gỗ Việt Nam cũng có n h ữ n g ản h hưởng tiếp th u từ n h ữ n g truyền
th ố n g kiến trú c khác. Song, tư duy nông nghiệp thự c tiễn và
thự c dụng của người Việt chỉ tiếp n h ận nhữ ng gì phù hợp với cái
đã có, đã tồn tại. Kiểu chồng đ ấu-tiếp rui đòi hỏi n h ữ n g biến đổi
tương đương của các kết cấu khác thuộc hệ khung và hệ m ái đã
ít được người Việt chấp nhận.
- Trong k ết cấu khu n g liên kết nói chung, tro n g liên k ết bộ
"vì" nói riêng, m ỗi cấu kiện đều giữ m ột vai trò, đều có m ột công
n ăn g kỹ th u ậ t. H ầu n h ư ít có cấu kiện thừ a. Các yếu tố cấu tạo
và yếu tố chạm trổ hòa quyện vào nhau. Kiến trú c với các cấu
kiện kỹ th u ậ t đ ã làm n ền chuyển tải các đề tài chạm khắc m ang
ngu ồ n gốc d ân d ã và đầy ch ất biểu trưng. Khác với m ột số truyền
97
thống kiến trú c xung q u an h nước ta, kiến trúc cổ tru y ền V iệt
Nam ít có các cấu kiện chỉ th u ầ n túy m ang tín h chất tran g trí.
Các đề tài chạm trổ được th ể hiện ngay trê n các cấu kiện chịu
lực. Các cấu kiện n h iều khi được cách điệu, phủ đầy hoa văn,
n h ư n g khả năng chịu lực của cấu kiện vẫn được bảo đảm .
Ngay với các cấu kiện nhỏ, th ứ yếu cũng vậy. Một chiếc đấu
được chạm th àn h hìn h đài sen, hay hình hổ phù, m ột chiếc cán h
gà được chạm lộng hay chạm kênh bong hình rồng m ột cách cầu
kỳ, mới nhìn tưởng n h ư được làm thêm cho đẹp. Thực chất đó
vẫn là n h ữ n g chi tiết thuộc cơ cấu chịu lực. Đấu sen hay đấu
vuông th ó t đáy kê ở đầu và chân cột trốn, trê n đầu các cột, dưới
các con rường đều có cùng m ột tác dụng như nhau. Các "cánh
gà" thự c chất là n h ữ n g con chèn có khi m ô phỏng kết cấu con
sơn - đấu củng T rung Hoa, nhằm đỡ th êm cho n hữ ng xà chỉ ăn
m ộng vào đầu cột, n h ằm tăn g sự vững chắc cho liên kết. H ầu
n h ư tấ t cả các cấu kiện ít nhiều đ ều được chạm khắc. Các x à đai
trước đó thư ờng chỉ được chạm ở đầu, như ng từ th ế kỷ XVIII
cũng được chạm khắc nhiều dần ở phần giữa xà. Chỉ có m ộ t vài
cấu kiện (cột, hoành, tầu mái) là rấ t hiếm th ấy được chạm khắc,
n h ư n g bản th â n các cấu kiện ấy đã có vẻ đẹp riêng của liên kết.
Các cấu kiện cũng ít khi chỉ là nhữ ng th â n gỗ tự nh iên m à
thư ờ ng được gia công tạo hình, cách điệu. Rường, kẻ được uốn
m ềm th à n h "hình lưng thú, hình bụng lợn, h ìn h cổ ngỗng...".
Cột th ì có "đầu cán cân, chân qu ân cờ". H ình dáng ấy của các
cấu kiện đã phổ biến từ khá sớm. Sang th ế kỷ XVII, rường - xà-
kẻ còn được soi các đường viền chỉ dọc theo chiều dài. Đến
khoảng giữa th ế kỷ XIX lại phổ biến h ìn h thứ c xẻ vuông th à n h
sắc cạnh.
98
giờ cũng lớn hơn hai m ái đầu hồi. Đứng từ xa nhìn lại, người ta
có th ể th ấ y m ái đình rất lớn, th ân khá thấp. Theo tỉ lệ thông
thường, độ cao của m ái từ bờ nóc xuống giọt gianh nh iều khi gấp
2 đ ến 2,5 ĩần từ giọt gianh xuống tới m ặt sàn, có khi th â n n h à lộ
ra còn th â p hơn nữa, chỉ xấp xỉ trê n dưới 1 m é t m à thôi. Có lẽ
k ết cấu này b ắt nguồn từ dạng nhà cổ tru y ền m à sứ n h à N guyên
là T rần Phu ở thời T rần đã nói tới. Trong sự đối sán h giữa đền và
chùa thì p h ần nào từ m ái giọt gianh xuống n ền của đình có phần
cao hơn, cụ th ể như ở đền Độc Cước - T hanh Hóa, người ta phải
cúi xuống mới vào được trong đền cổ, từ bụng đầu bẩy đến nền
chỉ cao khoảng l,2 m . Đối với đình, độ cao này n ếu đo từ m ái giọt
gian h xuốn g sàn cũng chỉ tương đồng m à thôi, n ên lối vào
th ư ờ n g chỉ m ở ở gian giữa (ở m ặt kết cấu cổ truyền, không có
m ột cửa nào khác để vào đình). Gian giữa chỉ được lát bằng đá
phiến, ken n h au th eo m ột trậ t tự so le rấ t th u ậ n m ắt, hai bên
nằm tro n g không gian giữa hai cột cái chính của gian này bao giờ
cũng có bậc lên sàn, n h ư vậy mọi bô lão cũng n h ư chức sắc khi
đến chỗ naồi của m ình (ở trong đình) hầu n h ư phải diễu qua
trước m ặt T h àn h hoàng làng với m ột sự cung kính n h ấ t định, ở
lĩnh vực kiến trú c th ì chỉ có cửa giữa này là m ái giọt gianh cũng
nh ư các bộ p h ận kiến trúc không ngáng cản khi tiếp cận với
T h àn h hoàng làng.
99
p h át kiến riên g có m ang bản sắc của kiến trú c tru y ền thống Việt
được xem n h ư m ột tro n g nhữ ng tiêu chí để p h ân biệt với kiến
trúc của các dân tộc khác (Theo ý kiến của tiế n sĩ khảo cổ học
N guyễn H ồng Kiên, cấu kiện này mới chỉ x u ấ t h iện từ đầu thế kỷ
XVII). M ột đặc điểm khác biệt với kiến trú c gỗ ở nhiều nước
tro n g khu vực n h ư T rung Quốc, N hật Bản, H àn Quốc, Thái Lan...
Hệ k ết cấu đỡ m ái của kiến trúc gỗ tru y ền th ố n g Việt tạo m ái
theo m ặ t phẳng (trừ các góc m ái cong do tầu đao tạo nên); với độ
dốc tru n g bình khoảng 30 độ đến 45 độ.
T rong kết cấu m ái, hoành mái, tầu m ái và thư ợng lương là
các cấu kiện thuộc hệ kết cấu đỡ mái, n ằm trê n các bộ vì mái,
được đ ặ t theo phương vuông góc với các vì, có nhiệm vụ nhận và
tru y ền tải trọ n g m ái xuống các vì mái.
Thượng lương
Thực ch ất là h o àn h m ái ở trê n đỉnh vì m ái (còn có tên gọi là
đòn dông, cái nóc), chịu tải trọng khá lán từ các lớp m ái phía
trê n và bờ nóc. Do vậy, thượng lương thư ờng có tiế t diện lớn hơn
các h o àn h m ái thông thường, thượng lương có th ể có tiết diện
trò n hoặc tiế t diện vuông được đẽo vát 2 góc phía trê n theo độ
dốc m ái. Đây là cấu kiện có ý nghĩa quan trọ n g n h ấ t trong kiến
trúc tru y ền thống, do vậy khi lắp dựng cấu kiện này, người ta
phải làm lễ cúng tế (gọi là lễ cất nóc) và phải chọn người chủ lễ
rấ t cẩn th ận . M ặt dưới thượng lương (dạ th ư ợ n g lương) thường
được soi gờ chỉ tran g trí và chạm khắc văn tự ghi n h ận thời điểm
lắp dựng.
Hoành mái
Là n h ữ n g cấu kiện có cùng chức năng, đ ặ t song song, cách
n h au tư ơ n g đối đều theo chiều dốc m ái, tiế t diện trò n hoặc
vuông (hoành tiế t diện vuông chỉ mới x u ấ t h iện từ giữa th ế kỷ
XIX). T rong loại cấu kiện này, có m ột cấu kiện m ang tín h năng
100
khác h ẳn là xà th ế hoành, như đã phân tích ở phần xà giằng, về
tra n g trí, chỉ có h o àn h m ái vuông được soi gờ chỉ ở m ặt dưới.
Tầu mái
Là m ột cấu kiện đặc biệt nhất, tiêu biểu cho sự sáng tạo và
bán sắc kiến trú c Việt. Tầu m ái có chức năng như m ột cây hoành
m ái cuối cùng, v ừ a có tác dụng gông giữ chống lực xô của toàn
bộ kết cấu m ái. Tầu m ái có tiết diện chữ n h ậ t liên kết trự c tiếp
vào bẩy. Có hai loại tầ u m ái là tầu gian và tầu đao. Nếu nh ư tầu
gian có tiế t diện đồng đều và cấu tạo đơn giản th ì tầ u đao có tiế t
diện th ay đổi liên tụ c theo xu hướng tăn g cao dần đến góc m ái
với cấu tạo phức tạp, gồm nhiều tấm gỗ liên k ết chặt chẽ với
n h au , n h ằm th ự c h iện th êm m ột chức năn g đặc biệt là làm cong
góc m ái từ bộ khung. Trong kết cấu kiến trú c tru y ền thống Việt,
còn có sự k ết hợp th a m gia của m ột số cấu kiện phụ trợ khác
n h au là th e n tầu (th en co), khóa tầu (giằng góc hoặc th e n góc)...
Tầu m ái h ầu n h ư không có b ất cứ tran g trí gì trê n th ân bởi bản
th â n tầu m ái đã m an g m ột hình thứ c rấ t ấn tượng và nghệ th u ậ t
(Từ đầu th ế kỷ XX về sau, đôi khi được sử dụng để tra n g trí, như
ở ch ù a Bà Đ anh, H à Nam).
R u i mái
Là các cấu kiện đ ặ t trự c tiếp lên hoành m ái, thư ợng lương,
là điểm tự a cho các v ậ t liệu lợp m ái, nh ận và tru y ền tải trọng từ
kết cấu m ặt m ái xuố n g hoành, tầu và thư ợ ng lương. Rui m ái
thư ờng được đ ặ t song song với nhau, cách n h au từ 8 - 12cm
th eo phương vuô n g góc với hoành. Một số kiến trú c đặc biệt có
kiểu rui theo cả 2 phương vuông góc với n h au (rui ô cờ) song
thự c ch ấ t các ru i n g an g thường chỉ nhằm m ục đích tra n g trí là
chính. C ũng có m ộ t loại cấu kiện được gọi là rui châm (ở khoảng
h o àn h hai bên th ư ợ n g lương và khoảng hoành trê n cùng m ái hồi)
n h ư n g đó chỉ là ván ghép cho kín để xây bờ nóc, bờ hồi. Trong
101
kiến trú c tru y ền th ố n g ở Bắc Bộ, rui thư ờng để mộc, không có
tra n g trí.
Lá mái
Là cấu kiện đ ặt trê n tầu mái, có chức n ăn g đỡ h à n g cuối
cùng của m ái đ u a ra để trá n h nước m ư a chảy trự c tiế p vào tầu
m ái. Lá m ái có tiế t diện dày khoảng 3cm, n g an g khoảng 18cm
(nhỏ dần về phía góc đao) và được chế tác rấ t đơn giản.
Diềm mái
Là cấu kiện • được• liên kết vào m ặt • dưới lá mái, được
• chạm
•
khắc rấ t đẹp th eo kiểu tra n g trí đường diềm .
102
kìm ". Đ ầu kìm của n hữ ng thời kỳ trước th ế kỷ XVI, hiện nay, rất
khó xác định, n h ư n g kể từ thời Mạc về sau chúng ta đã thấy m ột
cách rõ ràng, n h ư ở chùa Mui (Thường Tín, Hà Nội) và ở đền v à -
Sơn T ây,... đó là n h ữ n g gợi ý để chúng ta suy nghĩ về nhữ ng đầu
kìm của ngôi đình thời Mạc (nay chỉ là sản phẩm của các thời kỳ
m uộn). Đ ầu kìm ở thượng điện chùa Mui cao 82cm , được thể
h iện đ ầu rồng với bộ tóc chải, m ặt khá dữ tợn, phần tóc chải
ngược lên phía trên , m ồm cắn bờ nóc. Ở đền Và thì đầu kìm là
m ột con lân nhỏ, đuôi cá, cõng m ột hệ thống vân xoắn khá lớn so
với ch ín h nó, có th ể ng h ĩ đây là cụm vân xoắn ở đầu kìm sớm
n h ấ t tro n g kiến trúc tru y ền thống ở nước ta, cụm vân xoắn kép
ch ạv từ lưng của lân ngược lên phía đầu rồi lộn chéo lên cao ra
p h ía sau rồi vòng xuống phía đuôi để tiếp cận với n hữ ng đao đỡ
p h ía dưới. T hông thư ờng trong tạo hình của đầu kìm ở m ọi kiến
trú c từ th ế kỷ XIX trở về trước đã có cụm vân xoắn này. Tới th ế
kỷ XX, do n h ận thức về tạo hình vượt ra ngoài không gian tâm
linh, với tín h ch ất tù y tiện, m à đôi khi đã làm n h ữ n g vân xoắn
th e o kiểu kép 3 và ngược lại (hiện tượng này đã xẩy ra với sự
sử a ch ữ a tùy tiệ n ở n hiều công trình, vào cuối th ế kỷ XX đầu thế
kỷ XXI).
Ở th ế kỷ XVII, các đầu kìm cũng thư ờng theo hai dạng này,
n h ư n g h iện tư ợng làm bằng đồ gốm lớn hầu nh ư dần bị h ạn chế.
Cũng tại chùa Mui, đầu kìm ở toà tiền đường được xác nhận có
n iê n đại vào th ế kỷ XVII, thì tóc chải của rồng đã trở n ên ngắn
n g ủ i... v à đ ầu rồng chỉ có kích thước vừa phải (cao toàn bộ
khoiảng 40cm ), có lẽ tới cuối th ế kỷ XVIII và sang th ế kỷ XIX mới
x u ấ t h iệ n loại đầu kìm là kiểu đầu rồng thô n g thư ờng khác, được
đ ắ p bằng vôi vữ a là chính, người ta cũng th ấy kiểu thứ c này xuất
h iệ n ở n h iều kiến trú c tận phía Bắc T rung Hoa. Bố cục của kìm
b ằn g vôi vữ a th ư ờ n g chỉ có m ột đầu rồng với m ũi sư tử, m iệng
h á ngậm bờ nóc, từ m iệng phun ra m ột luồng nước đè trê n lưng
103
bờ nóc, rồng còn có m ắt lồi kiểu giọt lệ, đặc b iệ t là sau chiếc
m ang nở có 5 dải tóc lượn sóng bay ra phía sau. Từ sau phần đầu
này là m ột hệ thống vân xoắn lộn ngược lên phía trê n phần trá n
rồi chạy chéo lên cao về phía đuôi và cuộn lại để trở th àn h m ột
vân xoắn lón dạng hình bầu dục, theo kiểu th ứ c từ thời Mạc.
Bằng điều tra hồi cố ở v ùng Sơn Tây, nơi nổi tiế n g của nghệ
th u ậ t đình làng (cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài) ch ú n g tôi có th ể
tạm đư a ra m ộ t giả th u y ế t để làm việc, nh ằm giải m ã về đầu kìm
n h ư sau:
104
Trở lại với chiếc đầu kìm, không n h ấ t th iế t đình nào cũng
th ể h iện h ìn h tượng si vẫn (rồng), m à nhiều ngôi đình, thường
chỉ tạo hai h ìn h sừ ng cong vừa đủ, cân đối, n h ư m ộ t cặp sừng
trâu , chúng ta tạm hiểu chúng n h ư m ột cặp âm dương đối đãi.
Với n h ữ n g đìn h m uộn, n h ất là đình theo kiểu tường hồi bít đốc,
đầu kìm đôi khi chỉ là m ột hệ thống đấu vuông, chồng nh au theo
kiểu g iật cấp cả trê n lẫn dưới (thông thư ờng trê n ba tần g dưới
m ộ t tầng) đ ứ n g trê n m ột trụ ngắn, m à người xưa gọi là đấu
n ắm cơm.
105
th ế nh ìn vào tâm đình, đôi khi cũng thay bằng đ ầu phượng hoặc
cụm m ây cuộn. Ý thứ c của người xưa th ậ t rõ rà n g tro n g bố cục,
n ên bao giờ cũng th ể hiện đầu đao cao hơn đầu g u ộ t để trá n h sự
đối m ặ t giữa rồng và v ật linh khác hoặc trá n h h iện tư ợ ng đầu
rồng n g an g với m ông lân, vì ngày xưa rấ t tôn trọ n g tô n ti tr ậ t tự
m ang yếu tố tâm linh.
106
Ở thời Mạc, ngói cũng đã x u ất hiện có m ấu để bám vào
m è, n g o ài ra còn m ộ t loại ngói khác được lợp ở bờ m ái gọi là
ngói g iọ t g ian h , ngói này cũ n g tương tự n h ư ngói m ũi hài,
n h ư n g ỏ dưới bụng, cách đầu khoảng 8cm , th ư ờ n g có m ộ t m ặ t
đứ ng vuông góc cao khoảng 6cm. Mật ngoài của kết cấu chữ nhật
này thường thể hiện nổi hình hoa dây, hoa thiêng, linh vật... chúng
được nối nhau để tạo thành m ột đường diềm trang trí cho bờ mái,
vì thế phần nào chúng cho biết dưới thời Mạc chưa có kết cấu tàu
mái, lá m ái và diềm m ái bằng gỗ như ở các thời kỳ sau. Từ giữa thế
kỷ XVII trở đi, ở đình Thuỵ Phiêu còn viên ngói ghi rõ niên đại vào
thời Thịnh Đức, thì m ũi hài đã nhỏ đi chút ít chúng chỉ có, dày 2 -
2,5cm, m ũi cao khoảng 5cm, rộng 20cm và chiều dài xấp xỉ 35cm .
Càng về sau ngói có phần càng nhỏ, đó là nhữ ng ngói vẩy rồng,
vẩy hến, có th ể cũng được lợp cả ở n h à dân, và n h ư th ế ngói
chuyên d ụ n g đã ít được quan tâm , bởi tín h thực dụng dân gian
trong sự p h át triển của xã hội đã nh ư làm m ờ yếu tố tâm linh.
Ở n h iều ngôi đình, phía dưới của lớp ngói lợp còn có m ột
loại ngói iót h ìn h chữ n h ật, tạo n ên m ặt phẳng khiến người đứng
dưới không nh ìn th ấy sự lô xô của bụng ngói lợp. Vào cuối th ế kỷ
XIX và th ế kỷ XX, m ột số đình ở m iền núi phía Bắc cũng như
n hiều kiến trú c đình đền phía Nam còn lợp ngói lòng m áng, m ột
úp m ột n g ử a dạng âm dương, đó là hiện tượng ít nh iều chịu ảnh
hưởng củ a T ru n g Hoa, đồng thời cũng có m ột số đình được lợp
b ằn g m ái lá (đình T ân Trào là m ột ví dụ cụ thể).
107
(Đan Phượng, Hoài Đức, Ba Vì...) còn gặp được nh iều ngôi điếm
m ộ t gian hai chái của các xóm, thờ vị th ần bảo vệ xóm vởi m ột
ban th ờ ở gian giữa, hai bên có sạp để ngồi, nh iều ngôi không có
tường bao, đôi khi chỉ xây tường ở phía lưng... Từ hình thứ c đó,
kết hợp với việc khảo sá t n h ữ n g ngôi đình cổ của các th ế ký XVI,
XVII, XVIII, chúng ta th ấy rằng, đình làng không có tường bao cả
bốn phía (trừ phía sau ở gian giữa hoặc ph ần hậu cu n g kiểu
chuôi vồ), cụ th ể n h ư đình Tây Đ ằng có niên đại th ế kỷ XVI, đình
H ữu Bằng hu y ện Thạch T hất có niên đại th ế kỷ XVII... Các đình
khác tro n g thời kỳ này nhiều khi cũng thấy được bưng bằn g hệ
ván đố, n h ư n g các n h à nghiên cứu liên quan đã h ầu n h ư rất
th ố n g n h ấ t rằng: sản p hẩm tường bao này không đồng n iên đại
với k ết cấu chính của đại đình m à chỉ m ang niên đại m uộn, chủ
yếu được lắp th êm ở th ế kỷ XIX, khi người ta đ ã th âm nghiêm
hoá m ộ t bước nữ a về T hành hoàng làng, n h ấ t là khi ngôi đình
được bổ su n g th êm tả hữ u vu và hiện tư ợng "hương đ ản g tiểu
triều đình" p h á t triển. Từ đây, đình đã bị h ạn chế tín h ch ất là nơi
sinh h o ạt th ư ờ n g xuyên của cộng đồng, m à chủ yếu chỉ còn duy
trì hìn h thứ c đó tro n g n hữ ng ngày lễ hội.
108
sản p h ẩm bằng n h ữ n g bậc vôi gạch hay xi m ăng của th ế kỷ XX
m à thôi, lan can của đình Hữu Bằng không thấy th ể hiện rõ về
các lối lên sàn này, n ên đây còn là vấn đề tồn nghi, rấ t tiếc là
bằng đ iều tra hồi cố điền dã chúng tôi vẫn còn phải chờ m ộ t dịp
m ay m ắn ở tương lai.
Sàn
Là các cấu kiện thự c h iện chức năng tạo m ặt bằng sử dụng,
bao gồm dầm sàn và ván sàn.
109
luôn cố gắng tậ n dụng các loại xà giằng cột để làm th êm chức
năng dầm chính. Dầm phụ gối lên các dầm chính th e o m ột
phương n h ấ t định có nhiệm vụ đỡ ván sàn, n h ận và tru y ề n tải
trọ n g từ sàn vào dầm chính.
Ván sàn
Được ghép khít n h au trê n dầm phụ theo phương vuông góc
với n h iều dầm phụ để tạo ra m ặt bằng sử dụng. Ván sàn thư ờ ng
có chiều dày dao động từ 3 - 4cm.
Trân
Là th à n h p h ần kiến trú c chỉ có ở n hữ ng vị trí qu an trọ n g với
chức n ăn g tran g trí, che bụi là chính. Kết cấu gồm dầm trần , ván
trầ n và n ẹp trần. Dầm trầ n được liên kết trự c tiếp vào kết cấu
khung chịu lực (thường là câu đầu). Ván trầ n được gh ép p h ẳn g
liên k ết với dầm trầ n ở phía dưới. Do chỉ có chức n ăn g tra n g trí
n ên ván trầ n thư ờ ng được làm rấ t m ỏng, chiều dày chỉ vào
khoảng 0 ,8 -l,2 c m cho nhẹ. X ung quanh ván trầ n là nẹp trầ n , có
tác dụng tran g trí cho trần . Nẹp trầ n thường được soi chỉ n ô n g
do có chiều dày rấ t nhỏ (thường chỉ dày bằng ván trần). T rần
thư ờ ng được tra n g trí bằng sơn vẽ, hiếm có chạm khắc, do quá
m ỏng (dấu tích v án trầ n sớm n h ấ t là ở chùa Dâu với n ẹp trầ n có
n iên đại khoảng th ế kỷ XVI - các ván trầ n khác chủ yếu m an g
n iên đại từ th ế kỷ XIX về sau.
Sàn
N hiều n h à n g h iên cứu, từ thời Pháp cho đến ngày nay, đã
đinh n in h rằn g sàn đìn h là sản phẩm được b ắt nguồn từ ngôi nhà
110
sàn. N hưng gần đây với xu hướng nghiên cứu mới, dưới góc độ
liên ngành, m ột vài nh à nghiên cứu dân tộc học văn hoá đã đặt
lại vấn đề về "sàn đình". Ý kiến đầu tiên được đưa ra là nếu ngôi
n h à sàn bỏ sàn đi th ì nó m ấ t gần h ết chức năn g thuộc cả lĩnh
vực kiến trú c và tâm linh (trước h ết ư lĩnh vực kiến trúc), nó
không còn m an g tư cách là ngôi nhà sàn nữa, nó không có được
n h ữ n g yêu cầu cần th iế t tro n g cuộc sống của cư dân ở núi rừng
và vùng đ ầm lầy (hiện vẫn cần tới nó). Gần đây, tro n g cuộc khảo
sá t điều tra và hội thảo về ngôi nhà rông (của Viện Văn hóa
N ghệ th u ậ t Việt Nam cùng s ở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Kom Tum), khi tiếp xúc vái m ột số cụ già ở địa phương Sa Thầy,
đã cho phép chúng ta tạm hiểu, ngoài ý nghĩa là m ộ t ngôi nhà
công cộng, ở n h iều địa phương (m ột số nhà rông chỉ là nơi sinh
h o ạt của n am giới) th ì n h à này ít nhiều còn m ang ý nghĩa và tư
cách và m ột trục vũ trụ để thông tam tần g th ế giới.
111
thời v ẫn thự c hiện cả m ọi sinh h o ạ t cộng đồng th ô n dã. Như vậy
ở m ặt ý n g hĩa cái gọi là sàn của đình và sàn của n h à sàn đã có
n h iều tín h ch ất và chức năn g khác nhau.
- Trở lại với kết cấu của "sàn đình" đây chỉ là m ột bộ phận
cấu trú c gá lắp vào hệ thống cột của đình. Người ta đục những lỗ
m ộng không sâu lắm vào phần dưới của cột cái và các cột khác
để lắp dầm sàn. Đôi khi, với m ộ t số ngôi đình hiện tượng lắp
dầm ít ăn m ộng vào cột cái m à nó được kê trê n n h ữ n g cột phụ
nhỏ ốp vào th â n cột rồi cùng đứng lực trê n hòn chân tản g chung.
Trong n h ữ n g trư ờ ng hợp có kết cấu được gọi là sàn này thì m ặt
n ền th ư ờ n g để lộ đất, nhiều khi không n h ấ t th iế t phải đầm hoặc
n én chặt. Ở n h ữ n g trư ờ ng hợp n h ư chân tản g bị sàn che khuất
không q u an sá t được m ộ t cách bình thư ờng th ì nhiều khi chỉ là
n h ữ n g h òn đá tự n h iên ít có sự gia công về n g h ệ th u ật, những
chân tản g bao q u an h hàng cột ngoài cùng cũng chỉ được gia
công th eo h ìn h thức âm dương đối đãi ch ú t ít m à thôi, có thể lấy
hình thứ c cụ th ể này với đình H ữu Bằng (thế kỷ XVII) Thạch
Thất, H à Nội làm m ột ví dụ điển hình. Ở m ột số ngôi đình m ang
niên đại m uộn, có sự gá lắp cột phụ để đỡ dầm thì những chân
tản g gầm sàn cũng được gia công chút ít, điều đó đã biểu hiển
về m ộ t sự th ay đổi n h ận thứ c so với thời gian từ th ế kỷ XVIII về
trước. Cũng có th ể đó là m ột biểu hiện về sự p h á t triể n của tâm
linh d ân dã x u ấ t p h át từ quan niệm âm dương đối đãi (theo điều
tra hồi cố tại đình làng đình Bảng, đĩnh Đồng Kỵ, Bắc Ninh). Trở
lại với hệ th ố n g sàn, vào nhữ ng ngôi đình cổ v à cả đình mới thì
gian "lòng nưóc" tức gian giữa, không bao giờ được lát ván sàn,
m à ở vị trí này thư ờ ng chỉ lát n ền bằng đ á tả n g khối chữ n h ậ t
lớn, khoảng (30-40) X (50-60) cm 2. Trong n h ận thức, thự c sự, sự
tế lễ của người xưa thư ờng ít n h iều gắn với h iện tượng thông
tam tầ n g th ế giới (trời/thần/thánh, người/thế gian và th ế giới bên
dưới). Người ta thư ờng quan niệm đ á bao giờ cũng chứa m ột
112
huyền lực n h ấ t định, nó như m ột vật có khả năn g tru y ền tải sinh
khí, vì vậy nó đã không ngăn cách mối liên hệ giữa th ế giới bên
dưới và bên trên . Hệ sàn chỉ được lắp ở các gian bên, thông
thư ờng p h ần nằm giữa các cột cái thấp hơn hệ sàn bao quanh là
nơi của các n h ân vât được tồn trọng. Do các già làng luôn giữ vai
trò q u an trọng, hiện th â n của đạo và đức nơi th ô n dã, đã vào tuổi
"lão giả an tri" n ên gần hơn với yếu tố "tĩnh" th ì nơi ngồi của các
cụ ở bên phải đình. Còn các chức sắc đang gắn bó với việc đời,
gần với yếu tố "động" hơn th ì ngồi bên trái. Đương nhiên, tuy
th eo cương vị m à chỗ ngồi gần xa nơi cửa T hánh có khác nhau.
N hững người có cấp bậc th ấp hơn và dân binh th ì chỉ được ngồi ở
hệ sàn cao n ằm giữa hệ cột cái và cột quân m à thôi.
Cho tới n ay do sự suy lạc của nhận thứ c m à nhiều khi trậ t
tự n h ư n êu trê n không còn được duy trì, th ậm chí người ta đã
phân địn h cho bên nam , bên n ữ trong n h ữ n g ngày hội và nhữ ng
ngày sóc, vọng...
Môt nhận xét khác (tuy chưa được khẳng định hoàn toàn) là ở
nhiều ngồi đình, khi được tu bổ hoặc được dựng mới, nếu không sử
d ụ n g sàn thì người ta thư ờng tạo cho đình m ột n ền khá cao,
n h iều khi tới trê n lm (vì thế, đ ã có n ền đắp cao thì n ên thôi sàn).
Nói đến kết cấu kiến trúc gỗ là nói đến công trình kiến trúc sử
dụng các loại gỗ là vật liệu chịu lực chính, không có nghĩa là công
trình chỉ được làm hoàn toàn bằng gỗ, m à vẫn có sự kết hợp sử
dụng các vật liệu phụ khác n hư gạch (xây tường, lát nền...), ngói
(lợp mái, làm bờ...), gốm (hoa văn, con giống...), đá (kê cột, lát nền...),
vữa (xây, trát, lát...), đất (làm tường, đắp nền...), sỏi (làm móng...).
113
- P hần th â n bao gồm: kết cấu khung chịu lực và kết cằu bao
che, n g ăn chia, tra n g trí.
114
Đặc điểm cấu tạo
T hủa ban đ ầu sau khi m ất sàn, hầu h ết các k ết cấu nền
tro n g các đình là đ ấ t n ện (trừ các công trình có sàn, không chú ý
tới n ền nhà), được làm theo cách rải từng lớp đ ất th ịt (đã được
để khô và đập nhỏ), san phẳng rồi tưới nước nện chặt bằng vồ.
Một n ền n h à làm kỹ có từ 3 đến 5 lớp như vậy với chiều dầy toàn
bộ khoảng 1 0 - 1 5 cm. Lớp cuối cùng được vỗ phẳng và m iết
nh ẵn bằng b àn xoa gỗ. Khi kinh tế xã hội đã đ ạt đến trìn h độ cao
hơn, th ư ơ n g n g h iệp p h át triển, v ật liệu xây dựng trở n ên phổ
biến, th ì cũng p h á t triể n nền lát bằng gạch.
Kết cấu n ề n lát được thực hiện bằng cách đầm chặt lớp đất
nền b ằn g vỗ tư ơ n g tự n h ư khi làm nền đ ất nện, sau đó rải vữa
liên k ết và x ếp v ậ t liệu lát sao cho bằng phẳng rồi tran g kín
m ạch. Kết cấu n ề n lát có ưu điểm về độ bền, dễ tạo phẳng, sạch
sẽ và dễ q u é t dọn.
Tuy n h iên cho tới nay, trong kiến trúc tru y ền thống của
người Việt vẫn song soncj cùng tồn tại cả hai hình thứ c kết cấu
n ền đ ấ t n ện và n ề n lát. Một phần iớn do yếu tố kinh tế, như ng
đồng thời cũ n g còn do các quan niệm về tâm linh (thông tam
tần g th ế giới) chi phối. Vì vậy có rấ t nhiều kiến trúc đã được lát
nền n h ư n g v ẫn để lại h u yệt đ ất hoặc đá để thông âm dương.
@riưQM&3
CHẠM KHẮC Ở ĐÌNH LÀNG
116
"bòng bong" ấy, Suy cho cùng có th ể gọi chính xác hơn, đây là
m ột dạng n g h ệ th u ậ t điêu khắc được diễn ra trên không gian hai
chiều và tin h th ầ n của nó vượt ra ngoài yếu tố chỉ để đơn th u ần
làm đẹp cho kiến trúc,
T rong m ộ t kiến trúc m ang yếu tố tôn giáo tứx ngưỡng, thì
hầu hết h ìn h th ứ c điêu khắc và đồ thờ được coi n h ư linh hồn của
kiến trú c đó, nó đảm bảo m ột nhịp sống tâm linh v à là mối liên
kết trực tiếp giữ a đời thư ờng với cõi siêu nhiên, giữa con người
với th ần th án h .
117
gì bia ở ch ù a và đền, kể cả hình .thức tra n g trí cũng đ ều th eo m ột
bố cục hoặc hoa văn chung.
118
thì hầu n h ư vẫn rấ t hiếm gặp chúng ở trên các góc mái. Chỉ tới
th ế kỷ XVII và XVIII đôi khi chúng đã có m ặt dưới dạng th àn h
bậc tại trước cửa đình và thư ờng được bố trí đôi rồng nguyên con
ở gian giữa và rồng m ây ở hai bên. Thực sự ở trê n nóc đình hiện
chỉ thấy rồng được đắp bằng vôi vữa với niên đại vào cuối th ế kỷ
XIX và đầu th ể kỷ XX m à thôi. Rồng thường được biểu hiện dưới
dạng m ột đầu không th â n n h ư n g có đuôi là cụm vân xoắn lớn,
còn gọi là si vẫn. T rong bố cục này chúng có dạng của th u ỷ quái
M akara hoá th â n th à n h rồng, với m ũi sư tử , m ang nở, m iệng hé
ngậm bờ nóc, đôi khi p h u n ra m ộ t dòng nước cuộn tì trê n bờ này,
rồ n g có sừ n g nai, tai th ú và th ô n g thường sau m ang là 5 lọn tóc
dưới dạng đao đuôi nheo và bằng vào điều tra hồi cố ở nhiều địa
phương, ch ú n g ta tạm hiểu đó là biểu tượng của nhữ ng tia chớp
to ả về năm phương tạo nên m ư a n h u ần m uôn cõi (Đông - T â y -
Nam - Bắc và T rung phương), biểu hiện về m ột ước vọng cầu
được m ùa. Từ sau 5 cụm tóc này có m ột vân xoắn lớn vượt lên
chạy ngược đến đỉn h đầu rồi lộn về phía sau và cuộn lại dưới
d an g hình bầu dục Thực ra hình tượng n h ư nêu trê n đã từ ng
gặp ở các kiến trú c khác có n iên đại từ th ế kỷ XVI, n hư ng trong
n h ữ n g đ ìn h của th ế kỷ này thì chưa thấy chúng x u ất hiện.
119
Lân
120
nung. N goài Ý nghĩa kiểm soát tâm hồn kẻ hàn h hương, nhiều
khi tro n g n h ận thứ c người xưa, con ỉân còn biểu hiện cho sức
m ạnh tầ n g trên , cho trí tu ệ..., n ên người xư a cũng đưa nó lên
trên m ái dưới dạng tượng tròn. Vị trí của chúng thư ờng nằm ở
"khúc ngư ỷnh" tro n g th ế chạy xuống, nhin vào giửa sân, đó là
những con xô/con náp. Vào th ế kỷ XVII, chúng ta đã gặp lân dưới
dạng th â n hươu có chân khá cao, m ắt quỷ, m iệng lang, sừng nai,
tai thú, cổ rắn, vẩy cá chép... Đôi khi cũng có vẩy kép... Đáng
quan tâ m là điểm xuyến trê n th â n chúng có n hữ ng đao m ác và
vân xoắn... n h ư đã tạo n ên sức linh của con v ật tần g trê n và uy
lực vô b iên của nó. Vào cuối th ế kỷ XIX và đầu th ế kỷ XX, nhữ ng
con lân trê n m ái thư ờ ng chỉ được đắp bằng vôi vữa hoặc làm
theo d ạn g gốm m en n h iều m àu theo kiểu "Sư tử hý cầu", đôi khi
có d áng tu ỳ tiện n h ư lân ở trê n đỉnh của nghi m ôn tứ trụ.
121
tóc trĩ, cổ rắn, vẩy cá chép (nhiều khi có vẩy nhọn đầu cũng như
để tư ợng trư n g cho lông vũ) cánh cụp, đuôi công, chân được tạc
vẩy đến khuỷu, ống chân cao, ngón chim ưng (ba trư ớc m ộ t sau),
m óng vu ố t nhọn. Phượng thư ờng được th ể hiện béo tố t hơn hạc,
đuôi dài và th ư ờ n g điểm xuyết những đao nhỏ ở trê n th ân , như
phượng tại đìn h Phú Gia có những đao m ác khá đ iển hình m ang
niên đại vào n h ữ n g năm 60, 70 của th ế kỷ XVII.
122
tài "ngồi khóc cho m ăng m ọc". Tuy vậy, tính đồng hiện trong
chạm khắc có th ể chỉ đến đỉnh cao thuộc giai đoạn ''n g h ệ th u ậ t
đìn h làng" vào cuối th ế kỷ XVII. Khoảng cuối th ế kỷ XIX, đầu th ế
kỷ XX, tín h đồng h iện phẩn nào giảm để các m ảng chạm m ang
tín h hoạt cảnh liên thông găn với các đề tài có sự tích riêng, như
đề tài về Đ inh Tiên Hoàng, Q uan Âm Thị Kính hay Tây du ký...
123
cận, khiến n h iều khi tâm tư người xem vượt ra ngoài nghệ th u ậ t
đơn th u ầ n để tìm th ấy m ột số vấn đề thuộc lịch sử và xã hội
đương thời gắn với các m ảng chạm đó. Nhìn chung các m ảng
chạm đ ã n ân g giá trị n g h ệ th u ậ t của ngôi đình lên rấ t cao.
124
nghệ n h â n th ư ờ n g chỉ được ẩn vào các giá trị kỹ th u ậ t chứ không
phải n ằm tro n g sự sán g tạo nghệ th u ậ t riên g biệt. Tình hình như
nêu trê n cho th ấy trê n đồ đá chỉ là sự nối tiếp kỹ th u ậ t chạm
khắc cu a thời g ian trước, còn trên đồ gỗ dễ đục chạm hơn, n h ất
là ở đ ìn h làng, đ ã cho phép p h át triển ký th u ậ t chạm khắc từ nổi,
chìm san g kết hợp với bong kênh, thậm chí cả chạm lộng.
Tuy nh iên về đề tài vẫn chỉ nằm trê n dòng chảy chung. Có
chăng sự khác b iệt thư ờng x u ất p h át bởi sự biến động (nhiều
hơn) của lịch sử và xã hội.
125
có dấu v ế t chạm khắc nghệ th u ật, ngoài m ộ t vài vân xoắn lơn ở
các đầu rường của vì nóc và cốn. Tình trạ n g n h ư n êu trên , về cơ
bản, cũng vẫn th ấy ở các th ế kỷ sau. Song, từ n ử a cuối thế kỷ
XVII, ngoài n h ữ n g vân xoắn lớn nổi khối ở các đ ầu rường thì
h ìn h tư ợng đao m ác cũng đ ã x u ấ t hiện ở phần đ ầu câu đ ầu của
đình, dù cho thự c sự chưa nh iều lắm . Đôi khi ở p h ần giữa m ặt
bên của câu đầu cũng đã th o án g có hình chạm , n h ư m ột bông
cúc cách điệu m ãn khai, hay m ột đề tài nào đó, v ừ a đủ, để trán h
đi sự khô cứng của cấu kiện.(1)
(1> Trong một số trường hợp đặc biệt, như ở đình Hung Lộc (Nam Định), ? rường
vì nóc kê sát vào nhau, tạo thành một mặt phẳng đã đuợc chạm khắc lon đặc
các hình tượng rồng.
126
<&®rse®Ể>
3.2.3. Đề tài chạm khắc cơ bản của đình
Ở thời Mạc, nghệ th u ậ t chạm khắc nổi b ật trê n kiến trú c với
ch ất liệu gỗ, h ìn h thứ c này được diễn ra ở bộ vì nóc, cốn, lá gió,
các đ ấu, con ch ồ n g kiểu cánh gà... Kiến trú c đình ở thời này hầu
n h ư ch ư a có tư ờ n g bao và h ệ th ố n g ván bư ng ở ngưỡng, nên
n g h ệ th u ậ t chạm khắc chỉ n h ậ n b iết được gắn với các bộ phận
chính (hiện tư ợ n g chạm th ẳn g vào các kết cấu của kiến trú c vẫn
127
còn h ạ n chế). T rong n h ữ n g đ ìn h được xác n h ận vào n iên đại
thờ i Mạc có m ộ t số h ìn h tư ợ ng th ư ờ n g x u y ên gặp, đó là rồng.
C h ú n g được th ể h iện ở ván lá đề của vì nóc, ở các đ ầu dư, đầu
đ òn ta y kê trê n đ ấu b a chạc làm nơi "ngồi" của các th iê n th ầ n ,
rồi ở các con chồng kiểu cánh g à đầu cột quân, n h iều khi cũng
gặp ch ạm nổi trê n v án lá gió n h ư dưới d ạn g cá hoá rồ n g chầu
m ặ t trờ i kiểu ho a cúc cách đ iệu (như ở đình Lỗ H ạnh, Bắc
G iang), h a y đôi rồ n g cuộn th â n với n h a u ở cốn để n â n g m ộ t
chiếc h o à n h phi đề "H oàng đế v ạn tuế". T ất cả nhữ ng con rồng
trê n gỗ n ày đa p h ần đ ã Việt hóa khá m ạn h m ẽ, dù cho m ặ t nào
vẫn có d án g dấp rồ n g thời Minh. So với thời Lê sơ th ì ch ú n g ấm
áp h ơ n với m ắ t to hơn, m õm n g ắn lại, th â n m ập, đặc biệt có
n h ữ n g đao m ảnh, dài lượn sóng n h ẹ bay ra từ m ắt và khuỷu rồi
đè lên th â n , chạy về phía sau.
về n h ữ n g đề tài khác, ngoài hình tư ợng rồng, chúng ta
cũng đã gặp được một số phượng chạm trên gỗ như ở đình Tây
Đ ằng. Đó là đôi phư ợ ng m úa trê n n ền của n hữ ng cụm v ân xoắn
dưcri d ạn g dây leo. H ình tượng này được lồng trong ván lá đề của
vì nóc. Tại vị trí này, ở chùa Bối Khê có đôi phượng cũng đ ã tạc
tro n g lá đề, song được diễn ra dưới dạng ng ậm hoa. Người xưa
th ể h iệ n ch ú n g với n h ữ ng động tác khá sinh động, con cao con
th ấp , m ở rộ n g hai cánh, m à phối hợp giữa hai con tạo th à n h m ột
đư ờng v iền nghệ th u ậ t viên m ãn. Phượng đã vượt ra ngoài
k h u ô n khổ có tín h n g u y ên tắc quy phạm của các thời gian trư ốc
v à sau. M ột con phư ợng khác đầy tín h ch ất dân gian đã được làm
ở vì nóc đ ìn h Thổ Hà, trê n m ặt ngoài ván lá đề và không m ộ t chi
tiế t p h ù trợ. Con phư ợ ng đứ ng ch ên h vênh, m ột m ình, tro n g tư
th ế m ú a. Người ta có cảm giác đ ầu phượng gần gũi với đầu quạ
cách điệu, th â n nhỏ, trơn, chân thấp, hai cánh dang rộng lưa
th ư a v ài chiếc lông, b a dải lông đuôi q u ặt ngược bay lên trên .
T hực sự h ìn h tư ợng rấ t đơn giản n h ư n g bố cục lại khá ch u ẩn
m ự c với n é t khái q u á t cao, đầy gợi cảm.
128
Lân, đình T r ù n g T hư ợng, T h â n trí tuệ (người và lân),
G a V iễn, N in h Bình, T K XVII đình P h ong C ốc, Q u á n g N in h , T K XVII
(T ư liệu: V M T ) (T ư liệu: V M T )
Trị tội, đình P h ư ơ n g C hâu, Ban nguồn sữa ngọt, đình V ĩn h T ư ờng,
B a Vì, H à N ội, T K X V I I Vĩnh Phuc, TKL X V IĨ
(T ư liệu: V M T ) (T ư liệu: V M T )
Đ ấu thú, đình T â y Đ ầ n g , Ba Vì, H à N ộ i, T K X V I
( T ư liệu: V M T )
Bản vẽ rồng, lân, đình Lồ H ạnh, Hiệp Hòa, Bắc G iang, T K XVỈ
( T ư liệu: V M T )
P h ư ợ n g trên sập thờ, đ ìn h Phú Gia, Bản rập p hư ợ ng trêr bộ vì,
T ừ L iê m , Hà N ội, T K X V II đình T h ổ Hà, Bắc G iang T K X V I I
(T ư liệu: T ạ p chí Di sản V ăn hóa) (T ư liệu: V M T
R ồng trên y m ôn, đình K iền Bái, Kiến T hụy, Hải Phòng, T K X V II
( T ư liệu: V M T )
C ử a võng, đình D iềm, Bắc Ninh, T K XV II
( T ư liệu: V M T )
M ột hìn h thứ c dân gian khác lại được th ể hiện ở con
p hư ợng của đình Lỗ H ạnh, con chim th iên g này được bố cục theo
d ạng n h ìn nghiêng, mỏ không khoằm, m ắt giọt lệ, th â n trò n nổi
m ập, rấ t gần gũi với con chim nước. Đuôi là n h ữ n g cụm vân
xoắn được tỏa ra kết hợp với nhữ ng vân xoắn khác tạo th à n h nền
th iê n g liêng cho phượng. Có th ể còn tìm thấy, đó đây, n h iều con
Dhượng khác nữa, n h ư n g suy cho cùng rõ ràng ở thời Mạc, qua
phượng, m ột tin h th ầ n nghệ th u ậ t đã như tự do phóng khoáng
m u ố n vượt ra ngoài khuôn khổ để hòa vào n h ữ n g "th ổ n thức"
đời th ư ờ n g .
129
m ạnh trí tu ệ của tầ n g trê n nhằm kiểm soát tâm hồn kẻ h àn h
hương khi tới đình. T rên lĩnh vực tạo hình, nh iều lân được tạc
dưới d ạn g n h ìn th ẳn g từ trê n xuống. Các chi tiế t được th ể hiện
rõ rà n g để ta th ấy ch úng gần gũi với dạng "sư tử hí cầu" của
T rung Hoa. Một số con lân khác được th ể hiện có nh iều y ếu tố
dân gian, n h ư đôi lân ngồi chầu m ặt trời theo kiểu chó ở trê n
đình Lỗ H ạnh. Có th ể coi n h ư đây là m ột bố cục sớm n h ấ t của đề
tài này. Lân có th â n chắc lẳn, thon, cao, sự th iên g hóa chỉ được
đ ặt vào m ột vài chi tiế t kèm theo như ở các biểu tư ợng v ân xoắn,
m ặt
e trời... Hoặc
• lân ở đình Thổ H à lại* được• th ể hiện
• với th ân
dạng đứng, đầu chim , có mỏ, phải chăng đó là m ộ t sự phối hợp
của tư duy liên tư ởng dân dã ở đương thời - m ột dấu ấn rơi rớt từ
nghệ th u ậ t còn ản h hưởng từ phương Nam (có gốc An Độ). Trong
hìn h thứ c này, lân được đứ ng chầu vào ván lá đề chạm rồ n g ở vì
nóc, và n h ư th ế, nó cũng như m ột biểu tư ợng tro n g sự phối hợp
các linh khí của tần g trên .
130
M ột dạng linh v ật khác cũng đáng chú ý đó là voi. Điển
hình là con voi trê n ván lá gió của đình Tây Đằng. Voi này có đầu
nhin về phía sau, vòi cong lên, bộ m ặt n h ư có th ần , chân trước
chân sau đều duỗi, nó n h ư đang bay trong m ột khung, được viền
hai b ên bằng n h ữ n g vân xoắn lớn. Đã có nh iều ý kiến xung
q u a n h n é t tạo h ìn h về con voi này, hầu nh ư m ọi n h ận x ét đều ca
tụ n g về ý thứ c v à tài hoa gắn với tạo hình của người đương thời.
Song, ở lĩnh vực tâm linh, m ộ t số nhà n g h iên cứu dân tộc học
n g h ệ th u ậ t còn n h ư th ấy được ở đây voi là biểu tư ợ ng của nguồn
nước, của m ưa, của sức m ạn h m ang tín h chân lý, nằm ở giữa
n h ữ n g vân xoắn và đang vận động trong th ế n h ư bay... bố cục
này cho phép ch ú n g ta ngờ rằ n g phải chăng đó là m ộ t biểu tượng
cầu m ư a của người xưa.
131
trên , vì th ế con hổ được chạm ở m ột m ảnh ván trê n cốn củ a đình
Lỗ H ạnh h iện v ẫn còn là m ột dấu hỏi cho các n h à n g h iên cứu.
132
th ể n g h ĩ hổ phù được đồng n h ất với m ặt trăn g (những hình
tượng linh v ật có th â n th iếu thốn thường đồng n h ấ t với m ặt
tră n g hoặc liên q u an đến m ặt trăng). Hổ phù được tạo n é t gồ ghề
(m ắt, m ủi, m ồm ), phối hợp cùng n hữ ng đao m ác bay chéo lên ở
hai bên đã n h ư n h ấ n m ạn h cho nó m ột sức th iên g n h ấ t định.
Trong n h ậ n thứ c củ a người Việt - cư dân trồ n g lúa nước, th ì m ặt
trời là n g u ồ n sinh lực khởi nguyên có sức m ạn h vô bờ bến,
ngu ồ n gốc của m ọi sự sống... còn m ặt trăn g lại có khả năng thúc
đẩy cho sự sinh sôi, gắn với ước vọng được m ùa... Có lẽ vì th ế
m à hiện tư ợng hổ phù đã liên quan trự c tiếp tới các tin h th ể này,
đây là m ộ t hìn h tư ợ n g cầu phồn thực và hạn h phúc m uôn m ặt
của người xưa. H ình tư ợng hổ phù ngày m ột p h át triể n và nó
được h óa th â n với n h iều cách th ể hiện khác nhau. Vào các thời
gian sau ch ú n g ta cũ n g đ ã gặp văn triện rồi hoa lá hóa hổ phù ở
trê n kiến trúc.
M ột vài đề tài khác, thư ờng được thời kỳ này h ế t sức chú ý,
đó là h ệ th ố n g v ân xoắn lớn, có th ể th ấy chúng được biểu hiện
nổi khối m ập, m ặt b ên th â n cong kiểu ốp vỏ m ăng, được chạm ở
đầu các con rường, đề tài này có xu hưởng tạo khối gồ ghề,
n h ư n g v ẫn uyển ch u y ển nhịp nhàng. Qua m ẫu hình đã gặp, hiện
tượng v ân xoắn lớn n ằm ở vị trí tru n g tâm của m ảng chạm , với
n h iều đường chỉ và đường diềm vân xoắn dấu hỏi, có điểm xuyết
các lá cúc cách điệu đã chiếm tới 1/3 không gian của đề tài theo
phương n ằm ngang. Rõ ràn g ở lĩnh vực tạo hình đơn thuần, hiện
tư ợng này cũng làm h ạn chế xúc cảm ng h ệ th u ậ t của người xem .
Song, n ếu n h ìn đây là m ộ t biểu tượng th iên g liêng, m à nhiều
n h à n g h iên cứu cho rằ n g nó gắn với ước vọng cầu m ư a với h ạn h
phúc đa diện, để cõng trê n lưng m ột vẻ đẹp tâm linh, thì m ặc
n h iên ch ú n g trở n ê n có m ột giá trị đặc biệt, th ậm chí làm "nhòe"
đi cả nhược điểm g ắn với tạo hình đơn th u ần . C húng ta cũng đã
gặp các hệ vân xoắn, đ ặt ở dưới và hai bên n h ữ n g đấu, được
133
chạm nổi trê n n ền của ván lá gió. Có lẽ hiện tư ợ ng này chủ yếu
chỉ gặp ở phong cách Mạc vào cuối th ế kỷ XVI đ ầu th ế kỷ XVII.
N hững vân xoắn này lấy gốc từ chiếc đấu (có khi là đấu ba chạc)
làm tâm để tỏa đều sang hai bên. Từ lưng của m ỗi vân xoắn, to
nhỏ nối n h au th eo kiểu tay m ướp, đều bay ra m ộ t chiếc đao có
khi dưới dạng lá th iên g có sống (lá cúc cách điệu). Cũng theo
kiểu thứ c này, n h iều khi n h ữ n g v ân xoắn được k ế t nối với nhau
để th o án g tạo th à n h n h ữ n g đường diềm dưới dạng chạm thủng.
về đề tài con người, tới thế kỷ XVI đã trở n ê n gần đời hơn.
Đôi khi họ x u ất h iện là th iên th ần , có khi là h o ạt cản h th ế nhân.
Chắc chắn ở đây không còn m an g dấu tích của n h ữ n g con người
thuộc phong cách của thời Lý và T rần nữa. Ở thời Mạc, điển hình
là tại đìn h Tây Đ ằng, hệ thống tư ợ ng trò n m ang tư cách nhạc sĩ
th iê n th ầ n dưới d ạn g cả nam lẫn nữ được điểm x u y ết cưỡi trê n
các đòn tay chạm rồ n g đ ặt trê n đ ấu ba chạc, họ đ ều nằm tro n g
hệ lá gió của đầu cột cái và cột quân, nh ư biểu h iệ n về các tần g
trời cao th ấ p khác nhau. Các tư ợ n c này chỉ được tạo các p h ần
trên , còn n ử a dưới được xẻ th à n h m ộ t m ộng n g o àm ngậm vào
th â n đòn tay, n h ữ n g th iê n th ầ n thư ờ ng cầm n h ạc cụ trong động
134
tác nào đó. Q ua đây, chúng ta có thể thấy được ph ần nào cách
phục tra n g củ a người đưong thời. Đó là khăn m ỏ quạ, khăn như
cái th ớ t (gần gũi tượng nhà m ồ Tây Nguyên), m ột gợi ý về tiền
th ân của k h ăn v àn h dây. N hiều nhạc cụ dân gian củng được tạc
kèm theo. Tượng có khuôn m ặ t tự nh iên m ang n é t khái quát,
n h ư n g p h ân b iệt rõ nam nữ. Với m ột số tượng nữ, hoa tai thường
rấ t dài gần ch ấm đ ến vai, m à bằn g điều tra hồi cố, th ì hình thức
này đã biểu h iệ n cho sự sang quý. Nhìn chung, tu y là th iên th ần
n h ư n g đ ều tỏ ra không xa cách, đôi cánh của tư ợng thư ờng chỉ
tạo đơn giản rồi gắn vào hay được chạm chìm trê n n ền ván lá
gió. Một ý kiến khác, khi đi điền dã với cố giáo sư T rần Quốc
Vượng, ông có gợi ý rằn g hệ th ố n g tượng bao q u an h này phần
nào n h ư chịu ản h hưởng từ tích truyện P hật Giáo, khi đức Thích
Ca M âu Ni x u ấ t thế, các ông v u a trời là Phạm T hiên và Đe Thích
đã cho các n h ạc sĩ th iên th ầ n tu n g hoa n h ã nhạc van g lừng bầu
trời để chúc m ừ ng... Ở đây, h iện tượng này n h ư nh ằm đề cao
th á n h T ản Viên.
135
Đồng thời h ìn h tượng nử a trê n là người, n ử a dưới là rồ n g /rắn đã
được coi n h ư bóng dáng về diêm vương trong n h ậ n thứ c của
n h iều cư dân phía Nam dãy Hi Mã Lạp Sơn. Ở đây th iê n th ầ n vừa
có đuôi rồ n g lại vừa có cánh đã được coi n h ư hợp th ể của âm và
dương, hỗ trợ cho mối tìn h đặc biệt gắn với huyền thoại ờ th ế
gian. Ngoài n h ữ n g hìn h tư ợng như n êu trên , n h ìn chung đề tài
con người được làm m ột cách khái quát, đơn giản n h ư n g vô cùng
sinh động để p h ản án h về các m ặt sinh h o ạt trong đời sống như
cảnh đi th u y ền hái hoa (vì nóc), trai gái tìn h tự, ngồi khóc cho
m ăn g m ọc (lá gió), cảnh đẽo gỗ, gán h con, tạo cho ch ú n g ta
n h ữ n g suy n g h ĩ đa diện. Có th ể thấy ở đó là n h ữ n g m ảng chạm
p h ản án h m ột tư duy tạo hình đ ạt đ ến ch u ẩn m ực rấ t cao trong
th ế khái q u át cô đọng. Ví dụ, đứa bé con ngồi tro n g th ú n g (cảnh
m ẹ g án h con), chỉ m ột u trò n tượng cho đầu, m ộ t vòng trò n
tượng cho hai tay ôm lấy hai u tròn tư ợ ng cho hai đ ầu gối... Một
chi tiế t khác của thời kỳ này còn th ể hiện nhữ ng sin h h o ạt văn
hóa vui chơi, n h ư cảnh làm xiếc, chèo th u y ền chạm ở đình Tây
Đ ằng v à chùa Cói. Nổi lên tro n g các hình tượng liên qu an đến
người lao động là phục tran g của người đàn ông, họ thư ờ ng đội
m ũ bì biện (mũ chóp nhọn bằng da ôm sá t đầu) v à m ặc váy có
khi n g ắn trê n đầu gối... Bằng vào n h ữ n g hình tư ợ n g trên , m ột
giả th iế t làm việc đ ặt ra là đương thời nam giới ở tầ n g láp dưới
vẫn còn phổ biến kiểu phục tra n g với váy cũn cỡn v à có th ể đóng
khố (người săn th ú trê n vì nóc đình Tây Đằng). Ở m ộ t số di tích
khác n h ư tại chùa Thổ H à đ ã có h iện tư ợ ng người đ àn bà ngồi
dạng cả chân tay n ân g cầm con rắrr đư a ra phía trước, như m ột
hìn h tư ợ ng khởi đầu cho loại đề tài b à Banh/Đ anh, phổ biến hơn
tro n g chạm khắc trê n kiến trú c và bia ký ở thế kỷ XVII. Đồng
thời ở đ ìn h Lỗ H ạnh với hiện tượng tiên cưỡi th ú h ay cưỡi rồng
n h ư m ộ t tiền đề cho đề tài tương đồng, rấ t phong phú ở thời
gian sau... Suy cho cùng, tấ t cả n h ữ n g hình tư ợ ng con người
chạm gỗ ở th ế kỷ XVI ngoài phản án h về m ột số khía cạnh nào
136
đó của cuộc sống thì hầu n h ư đã được th iên g hóa. Song, các hình
tượng đã gặp phần nhiều như m uốn làm nhòe đi cái ra n h giới
giữa th ế n h â n và siêu nhân.
137
m uôn loài sinh sôi. Trong tạo h ìn h th ì rồng là biểu tư ợ n g của
m ây với đao m ác của nó là sấm chớp, đó là hợp th ể tạo ra m ưa
tro n g ước vọng cầu phồn thự c của con người, ở m ột khía cạnh
nào đó, người ta đã nh ìn n h ận rồ n g đồng n h ấ t với tin h dịch của
trời cha, n h ư th ế nó cũng trở th à n h linh v ật đầy tính "đĩ th õ a" ăn
nằm với cả rồng (chùa Điềm Giang) và đủ m ọi loài (đền Đ inh Lê,
Hoa Lư, N inh Bình)... Vì th ế có th ể nghĩ rằ n g nhữ ng con v ậ t nhỏ
leo trê n râu rồng là con của nó, n h ư để biểu h iện về tìn h
phụ/m ẫu tử. N hận th ứ c này có lẽ ngày m ột mở rộng, n ê n trong
hình thứ c chạm khắc nhiều khi h ìn h tượng các con th ú và người
đã được th ể hiện tro n g m ột không gian đầy rồng to n h ỏ khác
nhau... và n h iều trư ờ ng hợp không phân định nổi được đó là
rồng cha hay rồng m ẹ và n hữ ng loài kia là con hay là n h ữ n g con
vật được linh hóa điểm xuyết dưới góc độ tạo hình.
138
chạm trước m ặt rồng để cho biết đó là hỏa long (đình Liên Hiệp,
Hà Nội)(lì, hay rắ n chạy ra từ m ũi của rồng, đó là th ủ y long (Phù
Đổng, Hà Nội).
(1) Thạch Sùng là một biểu tuợng của thần giữ lửa. Chúng được đúc trên các nồi
ba muơi xua (để giữ nóng khi luộc bánh chưng). Chúng cũng xuất hiện nhiều ở
hai bên biểu tuợng mặt trời (Nghệ thuật Tây Nguyên).
139
đình Đ ông Viên, hay làm nhiều chuyện th ầ m kín của vợ chồng
n h ư ở đ ền /ch ù a Điềm Giang (Ninh Bình), đình Phù Lão (Bắc
Giang)... n h ữ n g h ìn h tư ợng ấy rấ t bạo dạn, quá gần với thực.
Cũng khó có th ể tìm th ấy ở đó m ột ý nghĩa cưỡng lại đạo đức
Nho giáo, n h ư m ột thời dài đã lầm tưởng, m à theo các n h à dân
tộc học n g h ệ th u ậ t th ì h ìn h tượng này ít nhiều có x u ất p h á t điểm
từ thự c tế cuộc sống đời thường, ít n h ấ t ở chính địa phương có di
tích. M ặt khác, đó cũng là hình tượng m à người xưa m uốn dùng
chính m ìn h làm m ẫu để gợi ý với th ần linh, nhằm thông qua đó,
để nhắc n h ở th ầ n linh thúc đẩy cho m uôn loài và cây trồ n g sinh
sôi p h át triể n (hiện tượng nh ư trê n đó cũng gần gũi với n h iều lễ
hội có tập tục tự do giữa nam nữ, m à thời gian n ử a đầu th ế kỷ
XX về trước vẫn còn tồ n tại).
140
của nghệ th u ậ t T rung Hoa, vì thế, hệ thống linh v ật theo m ột
quy chuẩn khác đã chi phối đến chạm khắc trê n kiến trúc. C húng
ta đã gặp rấ t n hiều m ảng chạm tứ linh và n hữ ng cây cỏ thuộc hệ
tứ liên, tứ hựu. Trong đó, nhiều khi linh v ật có th â n được chạm
nỗi, n h ư n g đầu lại được chạm tròn, đó là n hữ ng hình tượng
(phần nhiều) th uộc th ế kỷ XIX. Khoảng cuối th ế kỷ XIX và đầu
th ế kỷ XX, n h ữ n g con rồng thường m ảnh hơn và có n hữ ng vây
lưng khá gai góc. H ình thức phượng củng trong xu hướng tương
tự ... Nếu, từ th ế kỷ XVII về trước, lân được th ể h iện dưới dạng
gần gũi với th ú được th iên g hóa và con long m ã (m ột dạng lân)
chủ yếu được th ể hiện trê n các hiện vật th ì tới nay chúng xuất
h iện gần n h ư phổ biến trê n kiến trúc, kể cả trê n gỗ và trên
n h ữ n g bức tư ờng xây. Có th ể hiểu được long m ã n h ư sau:
141
<a®3e@Í!>
ngưỡng th ì q u an trọ n g n h ấ t là bàn thờ của các vị Thần Thánh,
đối tư ợ n g để tiế p cận q u a n g h i lễ. Vì vậy, cần có n h ữ n g h iện
v ậ t để xác n h ậ n về vị th ầ n tro n g di tích đó, n h ư n h ữ n g tư ợ ng
chính, bài vị với tê n tu ổ i cụ th ể . M ột v ấn đ ề khác cần qu an
tâ m là từ chức n ăn g sự n g h iệp của vị th ầ n m à người xư a đáp
ứ n g n h ữ n g đồ th ờ liên q uan, ch ẳ n g h ạn n h ư gắn với n h ữ n g
th ầ n có n h iề u ch iến công th ì hầu n h ư đồ th ờ có bộ chấp kích,
văn võ song to àn th ì có bộ chấp kích kèm b át bửu, th ầ n có công
với đời sống th ư ờ n g n h ậ t của nh ân d ân n h ư chống lụt thì thường
có n h ữ n g "th ần cụ" tro n g việc chống th u ỷ quái, rồi tu ỳ theo công
trạ n g và sự phong th ầ n tro n g quá khứ m à th ầ n có lọng, tàn, tán
khác nhau.
Ngoài ra, đồ thờ còn liên quan đến lòng suy tô n của người
đời, được biểu hiện q ua ngai thờ, ghế thờ, kiệu rước các loại và
các đồ nghi trư ợ ng liên quan. Suy cho cùng, người đời xưa
thư ờng cố gắng tạo uy linh cho th ầ n bởi trong tư duy của họ
th ư ờ n g ng h ĩ rằ n g th ầ n càng uy linh th ì làng xóm càng vinh
quang, sẽ được hư ở ng tố t lành nh iều hơn tai họa..., th ần như
m ột th ế lực siêu hìn h bảo vệ cho con dân tro n g cộng đồng m à
th ần cai quản.
Bàn thờ
T rong m ột đình th ư ờ ng có nhiều ban th ờ n h ư bàn thờ công
đồng, b àn th ờ T hánh, đôi khi cũng có nh iều b àn th ờ khác của
th ầ n linh liên quan. Song, về tin h th ầ n th ì bàn th ờ nào, dù ở thời
nào cũng thế, đ ều m an g m ột tín h ch ấ t cơ bản để biểu hiện về
tần g trời. Người ta có th ể thấy rấ t rõ ở đây với hai cây n ến đều
được đ ố t bằng lửa, để tượng cho m ặt trời, m ặ t trăng. Theo
nguyên tắc tả dương hữ u âm (nhìn từ tro n g ra), cây nến/đèn ở
góc ngoài bên trái là tư ợng cho m ặt trời, b ên phải là tượng cho
m ặt trăn g , b át hương ở chính giữa sá t m ép ngoài của bàn th ờ để
tượng cho tin h tú. T rụ hương vòng, ngoài có khói để thông linh,
142
còn được coi n h ư m ột "trục vũ trụ" nhằm chuyển sinh khí từ
tần g trên xuống tầng dưới, đem hạn h phúc đến cho th ế gian. Vì
th ế no th ư ờ n g sơn m ầu đỏ (sinh khí) và có chữ Hỉ ở giữa th ân
"tượng trư n g cho mọi nguồn h ạn h phúc", nhiều khi người ta
th ay đổi trụ hương vòng bằng m ột cây trầm hoặc kỳ n am khúc
khủy để tư ợng cho cành th iên m ệnh, cũng là m ột trụ c vũ trụ nối
giữa siêu n h iên với cõi thế.
Người xưa thư ờng th ắp hương vòng, theo nguyên tắc khi
cháy phải chạy theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, để phản
ánh về ý thứ c thờ m ặt trời, nguồn sinh lực khởi nguyên và
vô biẻn của m uôn loài (được hội về đầu trụ và tru y ền xuống
trầ n gian).
143
không th ể tự đi lên tầ n g trời, không th ể trự c tiế p gặp gỡ các
th ần , chỉ tới khi họ th ấ y được đặc đ iểm của lử a th ì y êu cầu
tâm lin h đó m ới p h ần nào được giải q u y ết. T hông th ư ờ n g có
lử a th ì có khói, m à khói th ì luôn có xu h ư ớ n g bay lên cao, đó là
m ộ t gợi ý để con người m ượn khói tiế p xúc với các đ ấ n g vô
biên. R ất n h iề u tộc người trê n th ế giới, m à h iệ n n ay v ẫ n còn
tư ơ ng đối phổ b iến ở ch âu Phi đen, th ổ d ân ch âu ú c ... rồi ở
v ù n g rừ n g n ú i ch âu Á, tro n g đó có cả V iệt Nam , th ư ờ n g đốt
n h ữ n g đ ố n g lử a lớn để tổ chức lễ hội. Người ta th ư ờ n g m úa
n h ảy với n h ịp điệu m ạn h , đầy gợi ý, p h ần n h iều v ận ch uyển
th eo bước đi ngược ch iều kim đồng hồ q u a n h đống lửa. C húng
ta có th ể th o á n g n h ư tìm th ấy ở đây m ộ t h ìn h th ứ c gắn với tục
th ờ m ặ t trời (hội Lồng Tồng - lễ xuống đ ồng củ a người th iểu
số V iệt Nam), tro n g đó n h ữ n g động tác m ú a n h ảy đ ã m an g đầy
sự gợi ý b ằn g ch ín h cơ th ể con người, chủ y ếu là giới nữ, lực
lượng tạo n ê n sự sin h nở và nuôi dưỡng (nói lên k h á t v ọ n g cầu
no đủ, sin h sôi, p h á t triển ...). T ất cả có th ể tạ m h iểu rằn g ,
người ta m u ố n d ù n g n h ữ n g h ìn h ả n h v à động tác củ a điệu
m ú a để th ô n g q u a lửa khói m à gửi lời cầu của con người lên
cõi th iê n g liêng. T ạm có th ể diễn giải lời cầu đó n h ư sau: Hỡi
các th ầ n lin h đầy sức m ạn h siêu p h àm , h ãy cho m uôn loài
m u ô n v ậ t th eo sự gợi ý qua th â n xác của ch ú n g tôi đây, m à
b an cho ch ú n g tôi n h iều của cải cho cây trồ n g và v ậ t nuôi sinh
sôi p h á t triể n , để ch ú n g tôi luôn có m ù a vụ bội th u và cuộc đời
đầy h ạ n h phúc.
144
nhiên, với việc khói bay lên đã như m ang tín h th ô n g linh, đối với
cư dân Á Đ ông ít n h iều ý n g hĩa này đã chịu ản h hưởng của văn
hóa T rung Hoa, về cơ bản, hương m ang ý nghĩa là thơm . Song,
đây là thơm của tin h thần, bởi chất thơm đã biểu hiện lòng
kính trọ n g củ a ch ú n g sinh đối với các th ần linh và n h ấ t là đối với
Phật với tuệ, với tầm . Vì thế, "tâm hương" được hiểu là ngũ hương,
bao gồm:
Tuệ /Huệ hương-, nhờ định (thiền định) mới có trí tu ệ (Phật
đã dạy tâm tĩn h /đ ịn h tu ệ sinh) từ đó kẻ hàn h giả m ới đoạn tu y ệt
được các m ối tà ác để chứng được chân lý.
Giải thoát hương-, nhờ trí tu ệ mơi dẫn đến giải th o á t khỏi sự
ràng buộc dục vọng để được tự tại, nghĩa là th o á t khỏi sự phiền
não (làm m ê hoặc v à ràn g buộc th â n tâm ), đó là con đường dẫn
tới N iết Bàn.
Giải thoát tri kiến hương-, là dẫn tới sự hiểu b iết cao độ để
đắc đạo. Tri kiến có m ức cao thấp, rộng h ẹp khác n h au tu ỳ theo
khả n ăn g tu ch ứ n g của từ n g h ạn g chúng sinh m à cao n h ấ t là
tri kiến của P h ật N hư Lai, m ang nghĩa giải th o á t hoàn toàn
trọ n vẹn...
145
đ ậy th ầ m tâ m th ì tự n h iê n ánh sán g trí tu ệ sẽ rọi tới (n h ư m ột
cuộc h à n h trìn h đi tìm ch â n lý của đạo củ n g ch ín h ỉà m ộ t cuộc
h à n h h ư ơ n g đi tìm ch ín h m ình) hội cả n g ũ h ư ơ n g được biểu
trư n g b ằ n g m ộ t n é n h ư ơ n g . Thông th ư ờ n g ngư ờ i V iệt th ờ th ầ n
lin h th e o lối th ế g ia n (lối bình dân) th ì p h ầ n n h iề u d ù n g 3 n én
h ư ơ n g , th íc h ứ n g tro n g điều kiện kêu cầu hoặc m ong có sự
c h u y ể n đổi tíc h cực n ào đó, vì th eo q u a n n iệm của ngư ời V iệt,
số 3 là số lẻ, lẻ th ì đ ộ n g chuyển, động th ì b iến đổi, b iến đổi th ì
p h á t triể n .
146
cực c ủ a xã hội n ê n tro n g th ờ i gần đây, c h ú n g đ ã bị đ ậ p bỏ
hoặc đ ã bị m ấ t cắp, khiến m ai m ột g ần h ế t. M ột b á t h ư ơ n g
đ iể n h ìn h về n g h ệ th u ậ t và đầy n é t sá n g tạo ở đ ìn h Lệ M ật
(Long Biên, H à Nội), đó là m ộ t b át hư ơng kép 3, th e o th ế "tam
sơn" b ằn g gốm n u n g , m à ch úng ta ngờ là s ả n p h ẩ m B át T rà n g
(Gia Lâm - H à Nội). Bát h ư ơ ng này nhỏ, b ề rộ n g trê n dưới 40
cm , cao xấp xỉ 25 cm , m an g h ìn h th ứ c r ấ t độc đáo, quý h iếm ,
h ầ u n h ư ch ứ a đ ự n g m ộ t ý th ứ c sán g tạo. Có th ể n g h ĩ là m ộ t
sả n p h ạ m đ ặ t h à n g chứ ch ư a phải là sản p h ẩ m sả n x u ấ t h à n g
loạt. K hoảng cuối th ế kỷ XIX và tro n g th ế kỷ XX, ý th ứ c th ự c
d ụ n g v à đơn g iản ho á các b át hư ơng của đ ìn h th ư ờ n g được th ể
h iện với h ai loại, đ ều dưới d ạn g h ìn h trụ , có v iền nổ i con
ch ạ ch ở s á t ch ân , n h ữ n g b át hư ơ ng gốm m e n trắ n g vẽ h o a v ăn
m àu ch à m , th ư ờ n g có h ìn h lưỡng long ch ầ u n h ậ t/n g u y ệ t, về
b á t h ư ơ n g đ ồ n g cũ n g g ần m a n g h ìn h th ứ c n h ư b á t h ư ơ n g gốm ,
ngư ờ i ta tạo ra đư ờng gân nổi chứ kh ô n g p h ả i v ẽ tr ê n gốm ,
th ư ờ n g có 3 ch ân , đôi khi có cả đế bằn g đồng.
N h ữ n g ch â n n ế n có n iê n đại từ th ế kỷ XVIII v ề sau
th ư ờ n g làm đơn g iản b ằn g đồng, bằng gỗ m à n ay d ạ n g n à y v ẫn
còn p hổ b iến . N hữ ng ch ân n ế n /đ è n của th ế kỷ XVI, XVII đ ã đ ạ t
được g iá trị n g h ệ th u ậ t r ấ t cao. Đó là n h ữ n g cây đ è n c ủ a thờ i
Mạc g iố n g n h ư chiếc độc bình, có b ụ n g v à c h â n là m ộ t khối
riê n g , p h ầ n đ ầu n h iều khi là m ộ t khối riê n g khác, s ở dĩ có h iệ n
tư ợ n g n ày là do ch ú n g n h ư đ ã m an g y ếu tố th ư ơ n g m ại. Các
n h à n g h iê n cứ u n g h ệ th u ậ t d ân tộc học đ ã cho rằn g ; h iệ n
tư ợ n g m ộ t h iệ n v ậ t gốm lớn đầy đủ với sự g á lắp b ằ n g n h iề u
bộ p h ậ n khác n h au , đ ã m an g tín h th ư ơ n g m ại, là đ ể tiệ n cho
sự đ ó n g gói, dễ v ận ch u y ển đi xa, đồng th ờ i th íc h hợp với sự
sản x u ấ t h à n g lo ạt v à tín h ch u y ên b iệt. Đ ầu củ a n h ữ n g cây
đ è n n ày là m ộ t khối trụ cao trê n dưới 10 cm , p h ía tr ê n hơi lõm
x u ố n g và m ặ t đ ứ n g (th àn h đèn) bao q u a n h đ ề u vẽ h a y g ắn
n h ữ n g cá n h se n v u ô n g m à tro n g lòng m ỗi c á n h có v â n xo ắn
147
cù n g h o a cúc cách điệu, c ổ đèn cũ n g là lá th iê n g , B ụng đ èn
được vẽ m ây cuộn và m ộ t đặc điểm nổi b ậ t là được người
đ ư ơ ng th ờ i đ ã tạo n ên m ộ t con rồng bằn g đ ấ t sé t trắ n g luy ện,
th â n r ấ t dài để d án q u a n h b ụng đèn. P hần không gian n g ă n
cách g iữ a đ ầu v à đuôi rồ n g n h iều khi đã được ghi n iên đ ại và
ngư ời công đức cây đ èn cho các di tích cụ th ể , với h ìn h th ứ c
ch ữ v iế t n ày th ư ờ n g là v ạch trê n th â n đ èn khi đ ấ t còn ẩm sau
khi đ ã h o à n ch ỉn h sản phẩm , trư ớc khi n u n g . Vì th ế m ép ch ữ
n h iề u khi khô n g n h ẵ n n h ụ i (nhữ ng n iên đại th ư ờ n g gặp, đó là
D iên T h àn h , Đ oan Thái, Sùng K hang của thờ i Mạc), c ổ dưới
củ a đ è n th ư ờ n g th ó t lại rồi loe ch ân ra để tạo m ặ t đ ứ n g v ữ n g
chãi. Ở p h ầ n b ụ n g dưới và cổ này cũng v ẽ cán h sen v u ô ng,
tư ơ n g tự n h ư p h ầ n đầu, so n g cán h hoa th ư ờ n g cao hơn. M ột số
cây đ è n được làm th eo đơn đ ặ t h àn g h o ặc n h ữ n g cây n hỏ
th ư ờ n g khô n g có rồ n g dán, ch ú n g được làm rấ t kỹ v à h iếm có
h iện tư ợ n g ỉắp ghép.
Ở cuối th ế kỷ XVI và tro n g th ế kỷ XVII n h ữ n g cây đ èn
n ày có p h ầ n ch u y ển hóa th à n h dạn g trụ v u ông. Đ ỉnh củ a cây
đ è n cũ n g làm v u ông, có "tai" ở bốn góc. Người ta làm đư ờ ng
diềm nổi b ằn g k h u ô n rồi d án vào đ ỉn h đ èn v à đầu trụ . Đ ế đ èn
th ư ờ n g có lân p h ụ c. Một tro n g bốn m ặ t củ a trụ n h iề u khi khắc
ch ữ chìm ghi tê n của di tích hoặc người công đức. Ở n h ữ n g
cây đ è n do lân đội này rõ rà n g đ ã m an g tín h c h ấ t sả n x u ấ t
h à n g loạt, y ếu tố th ư ơ n g m ại được sử d ụ n g , ch ú n g ta có th ể
n h ìn n h ậ n n iê n đ ại của ch ú n g th ô n g q u a n h ữ n g h o a văn, m à
chủ y ếu với n h ữ n g đao m ác trê n th â n củ a lân đội đèn. Thời
n ày có n h iề u sả n p h ẩm rấ t đẹp, có loại chỉ cao 20 cm , có loại
cao tr ê n 50 cm , ch ú n g th ư ờ n g được phủ m e n trắ n g ngà, đ iểm
m en x a n h lá cây v à hoa v ă n dán không m en . Theo đ iều tr a hồi
cố, trư ớ c đây ở ch ù a Keo Thái Bình và c h ù a Bối Khê (khi cây
đ èn n ày ch ư a bị m ất), các cụ già địa phư ơ ng cho b iế t nó tư ợ n g
trư n g cho án h sá n g của P h ật Pháp, được coi n h ư m ộ t b iểu
148
tư ợ ng, n ê n to àn bố cục của cây đ èn vừ a hợp lý và ch u ẩn m ực
về n g h ệ th u ậ t n h ư n g cũ n g hợp lý về cả y ếu tố tâm linh...
149
k iểm s o á t tâ m h ồ n kẻ h à n h hư ơng..., nắp đ ỉn h h ìn h m u i luyện
(d ạn g lợi c h ậ u úp , có đục khe cân xứ ng để th o á t khói). Tai
đ ỉn h là n h ữ n g b iể u tư ợ n g của các lực lượng tự n h iê n tro n g ý
th ứ c c ầ u m ư a, g ắ n với sự sinh sôi thuộc tư duy n ô n g n g h iệp
(còn c h â n đ ỉn h là h ìn h tư ợ ng m ộ t con quỳ h ìn h con v ậ t chỉ có
đ ầ u liề n m ộ t c h â n , đ ã được nhắc tới từ đời K hổng Tử, với ý
n g h ĩa tư ợ n g trư n g cho sự x u ấ t h iện của T h án h n h ân ). Suy cho
cù n g , tro n g n h ữ n g n g à y hội, với khói trầ m bay lên c ũ n g m an g
tư cá c h th ô n g lin h v à tạo n ên n é t uy n g h i cho T h à n h h o àn g
làn g . Vào cuối th ế kỷ XIX và th ế kỷ XX, đ ã có h iệ n tư ợ ng
c h u y ể n từ đ ỉn h 3 c h â n san g đỉnh 4 chân. T rong h ìn h th ứ c này,
n h iề u đ ỉn h c ũ n g được tra n g trí bằn g các đề tài nổi ho ặc chìm ,
đôi k h i là b iể u tư ợ n g m a n g yếu tố Dịch học, với h ìn h b á t quái:
Kiền, K hảm , c ấ n , C hấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Ở m ặ t bên
th ư ờ n g có n h ữ n g h ìn h tra n g trí tứ linh, tứ hự u ho ặc n h ữ n g
c ả n h liê n q u a n tới các th á n h n h ân với h ìn h th ứ c " tiê n phong
đạo c ố t" ... N goài ra, còn rấ t n h iều dạng đ ỉn h khác được cúng
vào đ ìn h , đó là sả n p h ẩ m của các hiệp th ợ đúc đồng ở H uế và
r ấ t n h iề u nơi k h ác, n h ư n h ữ n g đỉnh h ìn h trá i đào, đ ỉn h đ ứ n g
tr ê n cóc, h o ặc dưới n h iề u dạn g khác n h a u , suy cho cùng ý
n g h ĩa khởi n g u y ê n c ủ a chúng v ẫn ít khi th a y đổi. Ở thờ i gian
này, tạ i m ộ t số đ ìn h (Ngự Triều Di Quy, c ổ Loa, H à Nội), p h ần
n ào do c h ịu ả n h h ư ở n g của T rung H oa hay do ch ín h người Hoa
c ú n g tiế n m à có m ộ t số đỉnh không m an g d ạn g trê n . C húng
k h ô n g có c h â n q u ỳ m à chỉ có m ộ t con rồ n g u ố n th â n đội đỉnh.
N h ữ n g đ ỉn h n à y k h á đ ẹp , song ch ú n g vư ợ t ra n g o ài n h ậ n th ứ c
tâ m lin h q u e n th u ộ c c ủ a người Việt, bởi ch ú n g có p h ầ n m an g
tín h á p c h ế với n g h ệ th u ậ t nằm ngoài dòng tru y ề n th ố n g .
Ở m ộ t số đ ìn h có vị th ầ n linh th ư ợ n g đ ẳn g v à có sự th a m
g ia c ủ a tầ n g lớp N ho sỹ, th ì n h iều khi, đ ằ n g sau đ ỉn h còn để
m ộ t b á t h ư ơ n g /đ in h trò n bè, th ấp , dạn g b a chân, ta i là hai m ặ t
150
hổ n ổ i vừ a phải, cũ n g có chân m an g h ìn h tư ợ n g củ a con quỳ,
đó là "Bàn trò n T hái cực". Hầu n h ư m ọi h iệ n v ậ t n ày đ ề u làm
b ằn g đồng, h ãn h ữ u có khi được làm b ằ n g gỗ (h iện n ay ch ư a
tìm được m ộ t h iệ n v ậ t tư ơ n g ứ ng nào được làm b ằ n g đ á và
gốm ). N hữ ng trư ờ n g hợp này th ì ch ấ t liệu đ ồ n g đ ã đ ả m bảo
cho y ếu tố linh th iê n g (như đã trìn h bày ở trê n ), còn đ ĩn h gỗ
th ì chắc ch ắ n p h ải là gỗ m ít và được sơn m à u h u y ế t dụ, được
viền v àn h đ en ở m iện g , n h ư th ế, h iện v ậ t gỗ n ày đ ã m a n g ý
n g h ĩa về trí tu ệ v à sin h lực th iê n g liên g ... T hự c ra, h iệ n v ậ t
này n h ư m ộ t b iểu h iệ n về sự đóng góp củ a y ế u tố N ho giáo.
Tuy n h iên , với ngư ờ i d ân bình th ư ờ n g th ì ý n g h ĩa sâ u x a của
nó k h ô n g m ấy được q u an tâm , m ặc dù nó m a n g y ế u tố dịch
học, tự th â n n h ư tư ợ n g cho th ái cực, th á i cực v ậ n đ ộ n g tạo cho
âm dư ơ n g n ảy sin h , đó là lưỡng nghi, n h ư h a i ta i củ a h iệ n v ậ t,
từ đó m à m u ô n loài m u ô n v ật p h á t sinh. Đ ằn g sa u "b à n trò n
th á i cực" th ư ờ n g là ng ai v à bài vị, đa số n h ữ n g n g a i c ủ a đ ìn h
được làm r ấ t cẩn th ậ n , với tay ngai n g a n g v ai c ủ a b ài vị, cũ n g
n h ư n g a n g vai củ a vị th ầ n N hững ngai b ằ n g gỗ sớm nhất, của
nước ta, h iệ n n ay còn tìm được có niên đ ại vào k h o ả n g th ế kỷ
XVI (đình Đ ông K ết, H ư n g Yên).
151
h iệ n về sự h iểu b iế t tro n g quần ch ú n g còn h ạ n chế, n ê n cách
sắp đ ặ t đó v ư ợ t q u a n g u ỵ ên tắc, dẫn tới vị trí của các h iệ n v ật
này không cố định, ch ú n g chỉ p h ản án h m ộ t tin h th ầ n sù n g
kính củ a n h â n gian m à thôi.
152
T rên sà n cử a cu n g cấm nay lại bày m ột hệ th ố n g đồ th ờ như
b á t hư ơ ng, ta m sơn, đỉn h đồng, n h iều khi cả đôi h ạc th ờ ngậm
cuống đ ĩa đ è n d ạn g lá sen. T rong trư ờ n g hợp này, hạc và cây
đ èn n h ư đ ã trở th à n h linh v ậ t b iế t giảng về đạo lý, để lúc đó
án h sá n g c ủ a cây đ èn đồng n h ấ t với đạo pháp. Trở lại lĩnh vực
k iến trú c , tro n g ý th ứ c đề cao th ầ n , người x ư a th ư ờ n g làm m ột
h ệ th ố n g "c ử a võ n g " bao lấy m ặ t trước H ậu cung.
153
H ậu cung. P hần dưới của sàn hậu cung từ xà nối cột phụ và đôi
khi cả đầu cột cũng được chạm trổ rấ t kỹ, thông thư ờng đó là
rồng chầu m ặ t trời điểm xuyết hoa văn, vân xoắn. Có th ể thấy
n h ữ n g th a n h xà của th ế kỷ XVII, thư ờng chỉ ở vị trí này mới
được chạm trổ đặc kín trê n th ân (hiện tượng như nêu trê n không
được th ự c h iện ở các xà phụ và chỉ từ cuối th ế kỷ XIX đến đầu
th ế kỷ XX h iện tư ợng chạm trê n th â n xà, quá giang của đình mới
phổ biến dần).
Thông thư ờng n h ữ n g m ảng chạm liên quan đến cửa cung
sẽ dừng ở đây, n h ư n g riên g đối với đình Diềm, th ế kỷ XVII, niên
đại C hính Hoà 13 (1692) th ì người xưa vẫn tạo nên m ộ t khung
tra n g trí nữa, viền dưới x à cột lửng và cả ở hai bên phía trong
cột cái, có lẽ vị trí này là m ột "ran h giới" ph ân chia giữa th ần và
th ế gian, n ên đã chạm trổ n h ữ n g rồng phượng chầu m ặt trời
điểm x u y ết hìn h tư ợng dân gian vói nhiều hoạt cảnh... Trong
"không gian th iên g " đó, hai tai của cột được chạm th ủ n g , với đề
tài trú c và chim cách điệu cao. Dưới chân của m ảng chạm tai cột
thì h o àn to àn gắn với trầ n gian, có hình tượng tru n g tầm là voi
và ngựa, cùng với q u ản tư ợ ng và giám m ã đều trong hình thứ c
đóng khố đội m ũ h ìn h quả dưa. Một chi tiế t vui của m ảng chạm
th ủ n g bong k ên h này được th ể h iện m ột con quỷ th ân người, đầu
khỉ đ an g ôm phía dưới b ụng ngự a và m ột tay bóp đầu sinh thự c
khí củ a ngựa, H ình tượng này nói lên điều gì trong tâm thức dân
gian hay m an g yếu tố tâ m linh nào(?) thì tới nay chư a th ể b iết
m ột cách chắc chắn...
154
lòng củ a bộ phận chuôi vồ đã có thêm m ột phần kiến trúc gỗ
nằm lọt tro n g hệ th ố n g cột cái của kiến trúc mới. C húng tôi ngờ
rằng, hiện tượng này là sự kế th ừ a gần gũi của dạng H ậu cung
của kiến trú c ngôi đình hình chữ Nhất bước sang giai đoạn chuẩn
hoá th à n h kết cấu hìn h chữ Đinh, để rồi dần dần bỏ h ẳn Hậu
cung gỗ m à th ay bằng Hậu cung xây, đưa th ầ n ngồi ở bàn thờ
đ ặ t trự c tiếp trê n m ặt đất.
N hìn chung, trê n trụ c tru n g tâm của đình, thư ờng được mô
tả n h ư trên . Song, đồ thờ gắn với đình còn phải được quan tâm
tới cả ở các gian bên như: Đôi hạc lớn đứng trê n rùa, m à trong
đó m iện g hạc thư ờng ngậm viên ngọc sáng tượng cho đạo pháp,
có n g h ĩa chim th iên g này th ay m ặt T hành hoàng làng hay th ần
linh đ ể giáo hóa cho người đời. Hạc còn tượng cho tầng
trên /d ư ơ n g tính, rù a tư ợng cho tầng dưới/âm tính. Cặp hạc, rù a
đã tư ợng cho âm dương đối đãi, gắn với sinh sôi p h át triể n và
trư ờ ng tồn.
Rồi hai hàng Lỗ bộ - chấp kích và Bát bửu nhằm tôn vinh
thần. Ở các gian bên còn có ngự a hồng {đặt ở bên trái thần) và
ngự a bạch (đặt ở bên phải thần) đứng chầu vào, ngự a to như
thực, có lắp b ánh xe để kéo đi rước. Ngựa là linh v ật cõng bầu
trời, có gù trò n ở đầu, tượng cho m ặt trời. Gù trò n ở phía hông
trê n đuôi tượng cho m ặt trăn g , xung quanh viền th ấ t tin h - Yên
ngự a là phượng (Đầu đội công lý và đức hạnh, m ắt là m ặt trời,
m ặt trăn g , lưng cõng bầu trời, cánh là gió, lông là cây cỏ, đuôi
công là tin h tú, chân là đất), tượng trư n g cho vũ trụ - Như thế,
n g ự a và phượng đủ tư cách là vật cưỡi của thần. Vì thế, ngày
thư ờng đầu và đuôi phượng được cất đi để th ầ n luôn tại vị.
Ngoài ra, khi đình chuyển hóa, m ang yếu tố đền với sự
th ầm n ghiêm hóa (bưng ván kín hoặc chỉ bưng ở hậu cung), với
việc tế lễ, th ì đồ thờ thư ờng có thêm cồng đ ặt ở tòa tiền tế (bên
trái thần) và trố n g sấm (trống to sơn đỏ đ ặt bên phải), c ồ n g phải
155
có n ú m (tượng cho m ặ t trời) vành cồng tượng cho bầu tròi.
N hiều chiếc cồng cổ thư ờng bao quanh núm (ở ngoài hoặc tro n g
lòng) là hoa 8 cánh. Qua điều tra hồi cố, khi tế lễ, người xướng
ngôn th ư ờ n g hô: Khởi T rinh (Cồng) cổ (Trống) - T iếng cồng như
tiến g gọi th ô n g linh, xin m ở cửa trời, tiếp sau là tiến g trống th ay
lời cầu m ưa. "Sự chào hỏi" tâm linh này n h ư lời cầu xin T hành
hoàng chứ ng giám cho buổi lễ tế. Tất nhiên trong đình còn nh iều
đồ th ờ khác, n h ư kiệu long đình, kiệu b át cống, kiệu võng, kiệu
bành... tư ơng ứng với vai trò của T hành hoàng làng. Song,
n h ữ n g kiệu này chỉ được lắp trong ngày hội có rước thần, và,
đình nào cũng có lá cờ th ầ n lớn chỉ treo ở cột (đặt) trê n trục th ầ n
đạo khi có hội - Cũng ngày này mới sử dụng cờ ngũ phư ơng/hành
cho việc rước th ần .
Đ ông phai! s ắ c đào rực rỡ n h ư đem sinh khí tới m uôn nhà.
T huở ấy, khi tiến g pháo đầu m ù a xô đẩy h ạ t m ư a bay và làm
n gập n g ừ n g cơn gió lạnh thì lòng già ấm lại, trẻ nhỏ reo ca... nơi
nơi bừ n g dậy m ột ngu ồ n vui b ấ t tậ n - X uân mới, m ở đầu cho m ột
chu trìn h thời gian m ới chìm tro n g ước vọng - Sức sống trà n về,
người người náo nức lo tới hội xuân. Người ta dàn h nh iều thời
gian cho vui chơi, n g h ỉ ngơi, dọn dẹp tran g hoàng n h à cửa để nơi
tra n g n g h iêm n h ấ t luôn đủ hương đèn đón tổ tiên về. Ngày hội
ch u n g thôi th ú c tâm hồn, cảnh sắc trở n ên ấm áp hơn với câu đối
đỏ, b án h ch ư n g xanh. Và T ết chẳng riêng ai, T ết m ọi nhà...
Song, n g ày tế t ch u n g ấy lại rấ t riêng, ngoài sự th ăm hỏi, chúc
m ừ n g sum họp gia tộc... th ì hiếm có nhữ ng sinh h o ạt cộng đồng.
N hưng, sau đó là sự "dồn n én " mới, chờ ngày khai hội x u ân của
vùng, làng, để m ong cho đ ất trời hoà hợp, cho con người thực
h à n h lẽ th ô n g linh, cho trai gái yêu nhau... Lễ hội, n ếu như
không còn th ì khó m à tưởng tư ợ ng nổi, xã th ô n n h ư trở về m iền
h o an g dã, lấy gì để cân bằng cho m ột năm đầy v ất vả, cho hoà
157
hợp yêu thư ơ ng và phần nào bản sắc sẽ dễ tàn phai, làm cạn
m òn lòng yêu quê hương nguồn cội...
Lễ hội của người Việt là m ột thuộc tín h cơ bản tro n g hệ
th ố n g sinh h o ạt văn hóa của người Việt. Có thể nghĩ rằng, lễ
hội đã được nảy sinh từ thời nguyên thủy hay ít n h ấ t từ khi
người V iệt đ ã gắn sản x u ất nông nghiệp vào n h ận thứ c liên quan
đến thời gian và không gian của tự nhiên và vũ trụ . T rong m ột
giới h ạn n h ấ t địn h chúng tôi đề cập tới lễ hội của cộng đồng,
được thự c hiện ở các công trình, di sản văn hóa, n h ất là với ngôi
đình làng.
Gần đây, n h iều n h à lãnh đạo và nghiên cứu văn hóa đã chú
ý n h iều đến lễ hội, từ đó nảy sinh n h ữ n g qu an niệm rấ t khác
nhau, n h ư n g h ìn h n h ư mới chỉ quan tân đ ến cái "th ể" thự c tại
của lễ hội, m à ch ư a m ấy người chú ý tới cái "m ật" và "dụng" của
nó, n ên đã đưa ra m ộ t số ứng xử có vẻ như vư ợt ra ngoài "đường
ray" của khoa học, dẫn đến nhữ ng hiện tượng như "kịch bản hóa
lễ hội", rồi "tăn g cường hội m à giảm lễ", coi lễ (cơ bản) là cúng
bái và hội chỉ là trò chơi dưới các dạng thư ợ ng võ h ay nhữ ng
sinh h o ạt th ể th ao và vui chơi khác. Có th ể nói rằng, n h ữ n g nh ận
thứ c đó tư ởng n h ư là tích cực, song, rõ rà n g nó đã làm m éo mó
n h ận thứ c về lễ hội tru y ền thống làm nhòe tinh th ầ n tích cực
thuộc lịch sử tro n g vai trò cốt lõi của lễ hội, cũng có ng h ĩa làm
nhòe tin h th ầ n tìm về bản sắc văn hóa d ân tộc theo n h ư Nghị
q u yết 5 của Ban chấp h àn h T rung ương Đ ảng khóa VIII.
Thực ra, vấn đề lễ hội phức tạp hơn rấ t nhiều, bởi chữ hội
không m an g n g hĩa là trò chơi, m à m ang nghĩa là tập hợp. Vậy, lễ
hội là m ộ t cặp p hạm trù thống nhất, vì lễ hội là sự tập hợp m ột
cộng đồng người n h ấ t định để thự c hiện n h ữ n g điều về lễ. Suy
cho cùng, chính lễ là cái cơ bản, m à cúng bái (bị hiểu lầm là lễ)
chỉ là m ộ t thuộc tín h phổ biến tro n g m ối q u an hệ với th ế lực siêu
n h iên /h ìn h m à thôi.
158
C húng ta có th ể thấy được trong lễ hội đã từ n g xảy ra
n h ữ n g hiện tượng tra n h cướp vô cùng m ất trậ t tự để dẫn đến
nh ận th ứ c "tả tơi chơi hội" như: hiện tượng cướp cầu (Phú Thọ),
cướp k én {Sơn Tây), cướp gậy đỏ (Sơn Đồng)... và nhiều hiện
tượng ở các nơi kliác. Cũng trong lễ hội biết bao hiện tưựnq gắn
với th iê n nh iên vũ trụ , n h ư m úa rồng, sư tử, rồi n h ữ n g hình thức
vừa giữ cóc tro n g vòng tròn, đồng thời vừ a thổi cơm thi, ở Hà
Tây xưa. Ngoài ra, còn biết bao tục hèm m à theo n h ận thứ c của
tần g lớp trí th ứ c Nho học coi là tục tữu, kể ra không thiếu...
chúng ta còn phải q u a n tâm đ ến n hữ ng lễ hội cầu m ưa, cầu m ùa
sinh sôi, n h iều khi gắn với tục đốt pháo. Cũng không th ể bỏ qua
được h iện tư ợng rước và tế th ầ n m à hầu n h ư tới nay ở m ọi lễ hội
đình đ ều thư ờ n g có.
1. Sự quay lại vói thòi hỗn mang (thời gian chiêm bao, như
chưa đi vào trật tự):
159
kiếp đời đã qua. Rồi tế t lại đến và m ộ t chu trìn h m ới gần như
nguyên v ẹn sẽ diễn ra. Chính với chu trìn h sản x u ấ t khép kín
này đã tạo n ên cho người Việt và nh iều cư dân tư ơ n g đồng khác
m ột n h ận thứ c v ăn hóa có phần riêng, đặc biệt là ở tạo h ìn h có
n é t uyển chuyển, m ềm mại, lặp đi lặp lại, đầy c h ấ t trữ tình...
Song, có m ột điều đ áng quan tâm hơn là người V iệt cũng đã
đồng n h ấ t chu trìn h này với lịch sử p h á t triể n của loài người, m à
giai đoạn khởi đ ầu th ì người nguyên th ủ y còn sống tro n g m ông
m uội, chìm tro n g "thời gian chiêm bao" với tư duy liên tư ởng
m ên h m ông n g an g tầm trời đất, nh ư cố Giáo sư T ừ Chi đã nói:
đó là thời kỳ "vàng son" của tư duy n h ân loại. T uy n hiên, thời kỳ
này, vũ trụ và th ế gian còn hỗn độn, chưa hề có tr ậ t tự . Ả nh xạ
của nó vào tro n g lễ hội là nhữ ng hình thứ c có vẻ n h ư ”phi lý",
song th ự c sự vẫn hữ u lý trong tư duy dân gian, n h ư h iện tượng
cướp cầu và n h iều hìn h thức m ất trậ t tự khác. Lấy m ộ t vài ví dụ,
n h ư tục n ém đá chùa Hương, giữa người Yến VT và Đục Khê.
Ngay trước tế t, m ộ t số bà m ẹ của làng Yến Vĩ âm th ầ m tắm rử a
sạch sẽ, ăn chay để phần nào là m ộ t hóa th â n củ a b à m ẹ đất,
khoảng ngày 28 th á n g Chạp, lặng lẽ ra n h ặ t n h ữ n g h ò n đá, vừa
n ắm tay, xếp th à n h đống bên bờ dìa... đến ngày m ồng 2, đàn ông
con trai làng Yến Vĩ xách giỏ n h ặ t n h ữ n g hòn đ á th iê n g đó tới
làng Đục Khê. Và, cuộc ném đá bắt đầu. Cả m ột trời đ á bay, hai
bên n ém n h au (không được sử dụng b ất kể ch ất liệu nào ngoài
đá). Tiếng hò reo vang trời, cho đến sáng ng ày m ồ n g 6 th án g
G iêng với lễ Mở cửa rừ n g th ì tục ném đá mới k ết th ú c. Trong lễ
này, ông Mo k hấn th ầ n linh, đ ất trời... m à n h ư cố Giáo sư Từ Chi
đã tóm tắ t lời khấn, có th ể như sau: Hỡi các th ầ n linh, hôm nay,
ngày rày, cuộc n ém đ á đã dừng lại (thời hỗn m a n g đ ã qua rồi)
xin các th ầ n linh hãy đưa th iên nh iên vũ trụ đi vào trậ t tự , để
m ư a th u ậ n gió hòa, cho chúng tôi th u ậ n tiệ n kiếm được của cải
tro n g rừ n g và m ù a m àng bội th u ... cố Giáo sư Từ Chi có nói
rằng, n h ữ n g ý này không phải là dịch từ tiến g M ường m à chỉ là
160
lấy theo n h ữ n g nghĩa chính của lời khấn m à thôi. Đe giải m ã câu
chuyện này, ông cũng đã chỉ ra, vào thời nguyên thủy, con người
đã chế tác ra n h ữ n g công cụ bằng đ á và bằng đồng (nhiều hiện
v ật m ang giá trị n g h ệ th u ậ t rấ t cao). Rồi thời gian đó qua đi,
n h ữ n g công cụ này không dùng tới nửa, chúng chim dần vào
tro n g lòng đ ất. về sau, do vô tìn h q u a hiện tượng cầy xới, họ tìm
lại được các h iện v ật đó, như ng họ không tin là do chính con
người làm ra, họ cũng không tin là có trong tự nhiên... cuối cùng
họ gán cho là của th ần linh. Và, là của th ầ n linh th ì tự nó đã
chứa đự ng m ộ t sức linh n h ất định. Theo dòng tín ngưỡng thì
ch ất liệu b ằn g đá hay đồng cũng d ần trở n ên thiêng. Cho đến
nay, để đảm bảo sự th iên g liêng đó thì nh iều đồ th ờ cũng làm
bằng ch ất liệu đá, đồng hoặc đ ất luyện... Như vậy, chúng ta có
th ể hiểu được cả m ột trời đá bay là bầu trời sinh lực m ang ước
vọng vô bờ b ến của cư dân nơi đây gắn chặt với nhữ ng tín
ngưỡng liên q u an tới nền sản xuất, ít nhiều đồng n h ấ t với
không/thời gian từ thời hỗn m ang.
161
2. Mối quan hệ với thần linh, cộng đồng và bản thân
Trước đây, người Việt thường chưa đẩy th ần linh lên cao,
tro n g m ộ t giới h ạn n h ấ t định họ đã coi th ầ n linh n h ư m ộ t th ứ
công cụ tin h th ầ n th iên g liêng, phải vì con người m à tồ n tại.
Q uan niệm này p h ần nào cho thấy th ần linh đã rấ t đời v à là sự
tích tụ ước vọng đời thường. Tấm bia đời Thái Hòa (1443 - 1453)
ở chùa Bối Khê, T hanh Oai, Hà Nội đã từ n g ghi: "A nh tú của đ ất
trời là sông núi, an h tú của sông núi là th ầ n linh..." và th ầ n linh
cần phải đ em đ ến cho con người m ưa th u ậ n gió hòa, m ùa m àng
tố t tươi. Từ n h ận thứ c đó, con người luôn ứng xử với th ầ n linh
với m ột lòng kính trọng, m iễn sao th ần đưa đến h ạn h phúc, theo
q u an n iệm của họ. Việc ứng xử với th ầ n linh trong lễ hội thư ờng
diễn ra dưới n h iều d ạn g thức khác nh au n h ư cúng bái, m à nhiều
người n h ầm lẫn đấy mới là lễ, song thự c tế, cúng bái chỉ là m ột
thuộc tín h tro n g m ối ứng xử với th ần linh m à thôi. Cũng từ sự
ứng xử này, người ta đề cao th ần linh, ít n h ất, dưới hai hình thức
khác n h au , đó là: tế th ần , chủ yếu ở đình, rồi sau có cả ở đền.
Đây là m ộ t hìn h thứ c chịu ảnh hưởng từ việc sinh h o ạt của triều
đình, được th ô n g qu a nhữ ng tổ chức chính quyền và các hội
đồng của làng xã, n h ấ t là ở thời kỳ m uộn, được tổ chức theo kiểu
''hư ơng đ ản g tiểu triề u đình". H ình thứ c này có tác dụng đề cao
vị th ần , ít n h iều cũ n g đáp ứng được yêu cầu của qu ần chúng.
M ặt khác, đó cũng là h iện tượng quân chủ hóa vị thần, dẫn tới
m ột tín h tiêu cực của nó là, từ danh nghĩa tô n trọ n g vị th ầ n dưới
h ìn h th ứ c ng h i lễ k h ắt khe, sẽ dẫn tới đồng n h ấ t với việc tôn
trọ n g chế độ q u ân chủ đương thời.
162
M ặt khác, có m ột hìn h thứ c th ứ hai, đó là rước kiệu. Hiện
nay, chúng ta ch ư a tìm được m ột bộ kiệu nào của làng từ th ế kỷ
XVI trở về trước, m à chủ yếu chỉ p h át hiện được ở nử a cuối th ế
kỷ XVII về sau. Như vậy, m ộ t giả th iết đ ặt ra là, việc rước sách
đã được phổ b iến hơn, ít nhiều gắn với thời kỳ chế độ qu ân chủ
tập quyền sau thời Nam Bắc triều. Song, dù cho việc rước sách
đã được d ân g ian hóa (cũng n h ư việc tế lễ nh ằm đề cao thần) th ì
vẫn n h ằm đề cao chính quyền đương nhiệm , vái trố n g rong cờ
m ở chẳng khác gì h iện tượng rước vua, hay gắn với hình thức
vinh quy củ a n h ữ n g người đỗ đ ạt cao. Ở đây, trong đoàn rước,
ngoài cờ biển, b á t bửu, phường b át âm ... th ì n hữ ng ước vọng cầu
m ưa, cầu m ùa, n h ư m úa rồng, hổ, hay n hữ ng tục lệ nổi b ật nào
đó vẫn được bổ su n g vào để tạo n ên m ột hình thứ c rấ t khác với
sinh h o ạt của tầ n g lớp trên .v .v... Có th ể lấy ví dụ như, tro n g hiện
tượng m ú a rồng, người đ ất Bắc luôn cho cọn rồng chạy lên chạy
xuống, bao q u a n h lấy đám rước, n h ư m ột biểu hiện về sự vần vũ
của bầu trời m ây đọng nước, với n hữ ng tiếng trống sấm , làm náo
nức lòng người, n h ư tiến g gọi m ưa rơi, đem sinh lực của trời cha
tràn vào lòng đ ấ t m ẹ, m à ở đây, biểu tư ợng cho đ ất là m ột ông
Hổ vàng. H ình th ứ c đó đã th ích hợp với qu an niệm về ầm dương
thuộc tư duy nông nghiệp của người Việt, đồng thời cũng biểu
h iện cho ước vọng th eo tin h th ần "phi trí b ất hư ng". Bởi rồng là
biểu tư ợng củ a học vị tiến sĩ, Hổ là biểu tư ợng của học vị cử
n h ân tro n g th ế "long hổ hội". Có th ể cho rằng, ý nghĩa th ứ hai
này ít n h iều được nảy sinh từ các n h à nho th ô n dã và được nh ân
dân chấp n h ậ n để q u á trìn h thự c hiện, đã dân dã hóa nó cho hợp
với dòng tư d uy nông nghiệp.
Ở đây là cộng đồng làng xóm và cộng đồng gia tộc. Cộng
đồng làng xóm đã có từ rấ t sớm, ăn sâu bén rễ vào tâm khảm
của từ n g người. Con người luôn có ý thứ c phải xác định được vị
163
th ế của m ình tro n g cộng đồng đó, mối quan hệ này được biểu
hiện th ô n g qu a n h ữ n g hương ước v à hội lệ. Trong hội, con người
trở n ên dễ hòa hợp • X hơn,' m ột
• tôn ty
i trật t tự• th u ộ• c luật
• tụ• c được
•
nhắc n h ở để tín h vị kỷ được hạn chế và lòng n h ân ái vị th a được
củng cố. Trong hội, người ta n h ư dễ xác n h ận được m ình là ai để
giữ lấy m ộ t tru y ền th ố n g tốt đẹp. Mối quan hệ này tạo điều kiện
cho sự cố k ết cộng đồng, về mối q u an hệ ứ ng xử giữa con người
với dòng tộc, thự c ch ất chỉ p h át triể n m ạn h khi nền kinh tế tư
n h ân đ ã có chân đ ứ ng vững chắc tro n g xã hội m à có th ể nghĩ tới
b ắt đầu từ th ế kỷ XVI. Chính lễ hội của cộng đồng làng xóm
cũng là điều kiện để các dòng tộc tụ hội. Đây là m ột dịp để khối
đoàn k ết họ h àn g được nhắc nhở n h ằm ôn lại công lao của tổ
tiên, trá n h tín h kiêu căng ích kỷ m à p h át triển sự cưu m ang.
Lễ hội còn là dịp con người tự coi lại chính m ình nhằm chấn
chỉnh n h ữ n g lệch lạc của tâm hồn, củng cố lòng tự tin. Đặc biệt
là, với n ền kinh tế nông nghiệp ở nước ta, chủ yếu là kinh tế tiểu
nông - th eo kiểu gia đình m ột vợ, m ộ t chồng, con trâu đi trước,
cái cầy th eo sau... dễ dẫn đến p h át triể n tín h cá nhân. N hưng lễ
hội đ ìn h /đ ền đã kéo họ ra khỏi không gian c h ậ t hẹp ấy, để "ăn
cơm n h à vác tù và h àn g tổng", đi tìm "m ột m iếng giữa làng hơn
m ộ t sàn g xó bếp"... Như vậy, con người mới vư ợt lên trê n được
chính m ìn h để n h ập vào với cộng đồng, góp p h ần đề cao sự đoàn
k ết làng xóm , đó là điều kiện cần th iế t tro n g việc bảo vệ sự bình
ổn của làng xã. Suy rộng ra, cộng đồng làng xóm được bảo vệ và
bình ổn cũng góp phần vào sự bình ổn xã hội, bởi đương thời
làng xóm là tế bào của quốc gia v à nh ư th ế ít nhiều lễ hội góp
phần vào việc giáo dục Ý thức yêu quý b ản sắc văn hóa dân tộc,
yêu quê hương xử sở, n h ấ t là tin h th ầ n yêu nước của người Việt
x ư a kia... Ngoài ra, lễ hội không bao giờ chỉ n h ằm m ục đích vui
chơi, vì n g ày hội thư ờ ng được định bởi không gian thiêng và cả
thời gian th iê n g liên qu an đến di tích. Rõ rà n g là, m ọi thứ trò
164
Đ ồ rư ớ c , đìn h T n r ờ n g L â m , L o n g B iên, H à N ội
( T ư liệu: T ạ p c h í Di s ả n V ă n h ó a)
R ư ớ c kiệu, đ ìn h T h ồ H à , V iệ t Y ê n , B ắ c G i a n g
( T ư liệu: V M T )
N g ư ờ i d â n t ro n g lê hội đ ìn h G iá , H à N ội
( T ư liệu: V M T )
Đ ầu v à đ u ô i rắ n th ần , đ ìn h T r ư ờ n g L â m , L o n g B iên , H à N ội
( T ư liệu: T ạ p chí Di sản V ă n h ó a )
M ú a rồ n g , đ ìn h T r ư ờ n g L â m , L o n g B iên , H à Nội
( T ư liệu: T ạ p c h í Di sả n V ă n h ó a)
H ìn h t ư ợ n g rắ n lột, đ ì n h T r ư ờ n g L â m , L o n g B iên , H à N ộ i
( T ư liệu: T ạ p chí D i s ả n V ă n h ó a)
L ễ tế T h à n h h o à n g đ ìn h L iê n H i ệ p , H à N ộ i
( T ư liệu: V M T )
diễn tro n g hội thư ờng cũng m ang ý nghĩa th iê n g liêng phản ánh
mối q u an hệ và ước vọng của con người m à chủ yếu là với th iê n
nhiên, m ặt nào n h ư m ột gợi ý có tín h "đặt cược" với th ần linh, v í
dụ n h ư hội chọi trâ u ở Đồ Sơn và nhiều đ ìn h /đ ền khác, đã cho
th ấy môi q uan hệ của con người với m ặt trăng, với th ủ y triều và
ước vọng bình yên cho những con thuyền ra khơi. Nó nh ư chỉ
được thự c hiện vào n h ữ n g m ùa m ưa bão. H iện tư ợ ng này được
diễn ra ở ven biển, m ột địa điểm gần gũi với b iển cả, với bão tố.
Rồi sau khi lễ chọi trâ u kết thúc, con trầu n h ấ t được đư a lên
chiếc m ản g chở ra th ậ t xa để hiến tế cho Long Vương... H iện
tượng chọi trâ u có khi đi sâu vào trong đ ất liền, n h ư ở Phú Thọ
hay n h iều khi được chuyển hóa với cách th ứ c làm jnô hình đầu
trâu để người đội lên m à chọi (Hiếu Giang, Đ ông Hà, Q uảng Trị).
Có th ể còn n h iều ví dụ khác để chúng ta tin rằng, n h ữ n g trò diễn
tro n g lễ hội p h ần n h iều không chỉ là trò chơi đơn th u ần , vì th ế
không n ên n h ập n h ữ n g trò diễn tru y ền thố n g cùng với các trò
chơi th ể dục th ể thao n h ư trong lễ hội hiện nay vào trong không
gian th iê n g truyền thống.
3. Mối quan hệ vói thiên nhiên trên nền tảng nông nghiệp
(một trụng tâm của lễ hội)
Ngay từ rấ t sớm, khi bước vào với nông nghiệp, người Việt
đã có n h ận thứ c về mối quan hệ đối đãi âm dư ơng. Khởi nguồn
từ bà m ẹ rừng, m à hội tụ vào bà Đông Cuông, th ì đối trọng với
bà ở bên kia sông đã có đền của Đức Ông, khi xuống tới Phú
Thọ, th ì n ề n nông n g h iệp trồng lúa đ ẫ được k h ẳn g định, đã x u ấ t
hiện với bà m ẹ xứ sở Âu Cơ. Người đương thời đ ã sớm n h ận b iết
có tối - sáng, có ngày - đêm , có trời - đất, có đực - cái, suy cho
cùng, phải có âm và dương thì mới có th ể p h á t sin h p h át triển .
Rồi tro n g q u á trìn h sản xuất, cha trời và m ẹ đ ấ t là đối tượng để
họ cầu m ong. Họ đã sớm n h ận ra m ư a là tin h dịch của trời cha
trà n vào lòng đ ấ t m ẹ cho m uôn loài sinh sôi, n h ư n g không phải
165
lúc nào trời cũng m ư a và khi rời khỏi rừng núi, "quay nhìn lại",
họ th ư ờ n g n h ậ n th ấ y đỉnh núi có mây, ch â n núi ăn vào lòng
đ ất, từ đó d ần d ần có n h ận thứ c n ú i là trụ c sinh ìự c nối bầu
trờ i và m ặ t đ ất, đặc b iệ t với n h ữ n g quả n ú i tư ơ ng đối độc lập.
Và, ngư ờ i V iệt đ ã hội tâm vào nú i Ba Vì. Đó là m ột n g ọ n chủ
sơn củ a d ân tộc (vì th ế m à, trong tín ngư ỡ ng dân gian th ầ n nú i
T ản V iên/C ao Sơn trở th à n h đức T h án h Cả và làm T h àn h
h o àn g làn g ở n h iề u đình). Khi người Việt xu ố n g tới v ù n g tru n g
và h ạ ch âu th ổ th ì họ sớm n h ận ra rằng, nước là yếu tố số m ột
tro n g sản x u ấ t n ô n g nghiệp, m à chủ yếu với phư ơng th ứ c sử
d ụ n g nước tạ i chỗ, ít sử dụng m ương phai (m ột cụ th ể là tro n g
các câu ca dao củ a người xưa h ầu h ế t đ ề u gắn với việc cầu
m ưa). Từ th ự c tế đó lễ hội gắn với nông n g h iệ p ở đ ìn h /đ ề n của
người V iệt th ư ờ n g chủ yếu gắn với việc cầu m ưa. Ý th ứ c này
rấ t m ạ n h v à n h iề u khi ám ản h tro n g tâm thứ c của cả n h ữ n g
ngư ời ở v ù n g trũ n g . Đ ến lễ hội đ ìn h nào cũ n g vậy, ngay từ xa
khách h àn h hương đã nghe thấy tiếng trố n g liên hồi, n hữ ng
chiếc trố n g đó khá lớn được sơn m ầu đỏ và có tên là trống sấm .
Người xưa và nay còn coi đó là tiếng gọi m ù a vui, với sự rộ n rã.
N hưng thự c ch ấ t tro n g sâu thẳm n h ận thứ c thì tiếng trống được
coi n h ư đồng n h ấ t với tiếng sấm , bởi mỗi khi gõ trống th ầ n đã
làm ru n g động bầu sinh khí ờ tần g trên.
Vào tới địa điểm lễ hội, ở nhiều đình thư ờng có m ú a rồng,
m ú a sư tử. Suy cho cùng, hình thức này để biểu hiện ước vọng
liên q u an đ ến cầu nguồn nước. Lấy ví dụ như m úa sư tử của
người Việt, th ì đầu con sư tử (không có th ân ) được coi n h ư đầu
của hổ p h ù đ an g ọe m ặt trăn g ra, đây là h ìn h ảnh gắn với ước
vọng cầu được m ùa. Đuôi sư tử (trước đây) chủ yếu là m ấy m ét
vải đỏ, để khi sư tử m úa thì chiếc đuôi được vẫy theo, n h ư biểu
hiện về m ột sự vận động sinh lực của bầu trời. Kèm theo đó là
trố n g lớn, với tiến g của nó biểu hiện cho sấm . Hai bên có đèn
166
QgrsegỂ)
ông sao tượng cho bầu trời và đèn thiềm th ừ (cóc) nh ư biểu
tượng của vị th ầ n gọi m ưa, phía trước m ặ t của sư tử có m ột
th an h niên m ú a q u ả lôi buộc các giải ngũ sắc, tượng cho sấm
chớp. Hội lại n h ư để tạo nên m ột "cơn m ư a tinh th ần " trong tâm
tư con người và m ong cho m ặt đ ất tố t tươi, tượng bằng ông địa
m ặt tròn, với n ụ cười hớn hở. Suy cho cùng, tiếng trống theo
nhữ ng điệu th ứ c th ậ t vui, cùng n h ữ n g động tác m úa nhảy của sư
tử rộn ràng, không đơn giản chỉ là m ộ t trò chơi ngày hội, m à đó
n h ư còn là m ộ t gợi ý của con người cho th iên n h iên tạo nên
nhữ ng n g u ồ n nước phồn thực th iên g liêng.
Và, cùng m ộ t ý n g h ĩa n h ư vậy là hiện tư ợng m úa rồng để
biểu hiện về sự vần vũ của m ây trời. Một đặc điểm đối với cư dân
đ ất Bắc (trước đây) là không hề có hiện tượng m úa giữa rồng và lân
trong hội đình, v ì quan niệm âm dương trong nông nghiệp chỉ sử
dụng rồng và hổ, m ột trên, m ột dưới tạo nên m ột cặp đối đãi để
gợi ý với th iê n n h iên (người Việt cho rằn g rồng và lân trong
trường hợp này đều m ang yếu tố dương n ên không thích hợp).
Một biểu h iện khác gắn với cầu m ư a là hội pháo, nổi lên với
hội đình Đ ồng Kỵ, song điển hình và tư ơng đối cụ th ể là hội làng
Bối Khê. Hội này vào ngày 12 th á n g Giêng Âm lịch, dân làng
dựng m ột th â n tre cao, trê n đỉnh có g ắn m ột m àn th a n có đường
tròn rộng khoảng 2 thư óc ta được phủ giấy bản q u é t thuốc pháo
đen tượng trư n g cho bầu trời m ây đọng nước, ở m ặ t trê n được ẩn
m ột quả pháo đại v à n h iều quả pháo con. v à o ngày hội, đại diện
các giáp lần lượt vào lễ th ần xin được đốt m àn th a n bằng pháo
nhị th a n h hoặc pháo th ă n g thiên, họ phải cắt thuốc sao cho pháo
bay tới m àn th a n th ì vừa nổ để làm bùng cháy m àn này. Màn
th an cháy, được coi n h ư chớp, dẫn đ ến các pháo con nổ như
tiến g sấm rề n và cuối cùng pháo lớn nổ n h ư tiến g sấm đại.
Người d ân vui m ừ n g coi đó là m ộ t h ìn h thứ c cầu m ư a và như lời
nhắc nhở với th á n h N guyễn Bình An (được thờ ở tro n g di tích),
167
rằng: hỡi T h án h th iên g liêng hãy theo gợi Ý của chúng tôi đây
m à nổi sấm lên gọi m ây về cho m ưa xuống để chúng tôi có vụ
m ù a bội th u . Cùng với việc cầu m ưa thì nh iều khi trong lễ hội
còn có n h ữ n g h iện tượng gắn với việc chống lụ t hay cầu tạn h m à
biểu h iện cụ th ể là chèo thuyền vào th án g Chín, với hình thứ c
người chèo đ ứ n g lên cùng các động tác dậm m ạn h chân (chèo
th u y ề n cầu m ư a tro n g hội xuân thường n h ẹ nhàng hơn), đó là
m ộ t h iệ n tư ợ n g cầu tạn h để cho lúa chắc h ạt. Cũng trong lễ hội
m ù a th u , cầu tạ n h còn có tục th ả diều, th ả chim và nhiều tục
khác nữa.
168
với bài hát: Cái L ch ê n h hếch, cái đít choi loi; chổng cho th ầ n coi,
để th ần p h ù hộ (theo Trịnh Ngữ, cán bộ di sản văn hóa T h an h
Hóa, hiện đã về hưu). Còn ở Bắc Giang, người ta đã h át: "C ủa bà
thì m éo, củ a tôi th ì tròn; giã trậ t hai hòn, thờ cô Tích Mễ". Rồi ở
hội đình làng Dị Nậu (gần đền Hùng), cho đến nay vẫn còn thự c
h iện h àn h động "linh tinh tìn h phộc", tạo n ên hình th ứ c giao
phối tư ợ ng trư n g trước m ặt thần, với cả nam và n ữ đ ều cầm
n h ữ n g h ìn h sinh thự c khí khá lớn, để khi tìn h phộc th ì lại cắm
vào n h au ... N hững d ẫn chứng không thiếu, n hư ng suy cho cùng
ở tro n g hội chỉ là n h ữ n g Tĩính thứ c để gợi ý cho th ần n h ằm m ong
với n h ữ n g siêu lực vô biên của các Ngài sẽ tác động tới cây trồ n g
và v ậ t nuôi đem đ ến sự phồn th ịn h cho dân chúng.
170
1. Kiến trúc cổ của người Việt (chùa, đình, đền...) chủ yếu ở nông
thôn, chủ nhân chính là nông dân, trên nền tảng tư duy nông nghiệp, sự
phân hóa xã hội chưa cao, nền kinh tế của quốc gia không tập
trung vào triều đình m à tự phân về các làng xã... Thực tế đó như
quyết định m ột "lối đi" riêng cho các công trình văn hóa truyền
thống là: ngưòi Việt khó có thể có các kiến trúc kỳ vĩ như của các
dân tộc xung quanh, ngược lại di sản văn hóa kiến trúc của người
Việt lại phát triển m ạnh theo số lượng, đa dạng, tràn lan ở nhiều
làng xã và đặc biệt là đậm yếu tố nghệ th u ậ t dân gian. Đó là m ột
hiện tượng được quy đinh bởi hoàn cảnh lịch sử và xã hội riêng.
2. Đ ình làng Việt, ngoài các chức năng cơ bản là m ột trụ sở
của chính quyền dưới thời qu ân chủ chuyên chế, là tru n g tâm
văn hóa của làng xã với tính chất ngôi n h à chung... còn là m ột
kiến trú c tín ngưỡng thờ T h ành hoàng làng, nó đã m ang dấu ấn
của sự dung hội về m ặt chính trị, xã hội, văn hóa giữa chính thể
q u ân chủ với tổ chức làng xã cổ tru y ề n của người Việt - đó là
m ộ t trong n h ữ n g điều kiện để đình làng m ang h ìn h thứ c to lớn
n h ấ t tro n g các kiến trúc ở nông th ô n nước ta.
3. Từ khá sớm, đình đã x u ấ t h iện trong kiến trú c của người
Việt, n h ư đìn h trạm , đình quán, đình tạ, th u ỷ đình, phương
đình... n h ư n g dựa trê n thực tế khảo sát điền dã và m ột số vấn đề
lịch sử liên quan, th ì gần đây, nh iều n h à nghiên cứu cho rằng:
đình làng Việt đã ra đời từ yêu cầu của xã hội vào giữa thời quân
chủ chuyên chế, kiến trúc này m an h n h a từ th ế kỷ XV, định hình
vào th ế kỷ XVI, p h á t triển ở cuối th ế kỷ XVII, suy tà n dần vào
th ế kỷ XIX... T rên bước đường tồn tại này, đình làng đ ã phản
án h được p h ần nào n h ữ n g nhịp th ở văn hóa của xã hội, từ chỗ ít
n h iều có h ìn h th ứ c áp chế chuyển dần sang đại diện cho m ột
p h ần vẻ đẹp và n h ậ n thức tâm linh của quê hương, nó chi phối
tâm hồn (cả đẹp và xấu) của người bình dân th ô n dã như:
171
Hay:
172
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy A nh (1964), Đ ất nước Việt Nam qua các đời, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Phương Anh, Thanh Hương (1973), Hà Bắc ngàn năm văn hiến,
tập 1, Ty Văn hoá xuất bản, Hà Bắc.
3. Phương Anh (1988), "Nhà ở dân gian trong lịch sử ', Tạp chí Kiến
trúc số 3 - 4.
4. Toan Ánh (1968), Hội hè đình đám, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn.
5. Toan Anh (1968), Làng xóm Việt Nam, Phương Quỳnh, Sài Gòn.
6. Trần Huy Bá (1979), "Chùa Cố/', Tạp chí Khảo cổ học số 3.
7. Trần Lâm Biền (1983), "Quanh ngôi đình làng - lịch s ử ', Tạp chí
Nghiên cứu nghệ thuật số 4.
8. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
9. Trần Lâm Biền (2000), Một con đương tiếp cận lịch sử, Nxb. Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
10. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2001), Trang trí trong m ỹ thuật truyền
thống của người Việt, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Nxb. Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
11. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
12. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2008), Diễn biến kiến trúc truyền thống
Việt (vùng châu thổ sông Hồng), Hà Nội, Nxb. Văn hoá Thông tin.
13. Trần Lâm Biền - Trịnh Sinh, (2010), Thế giới biểu tượng trong di sản
văn hoá Thăng Long - Hà Nội, Hà Nội, Nxb. Hà Nội.
14. Nguyễn Du Chi (1993), Nghệ thuật kiến trúc thời Mạc, M ỹ thuật
thời Mạc, Viện Mỹ thuật, Hà Nội.
15. Nguyễn Du Chi (1993), Những công trình kiến trúc thời Mạc nay
còn vết tích nghệ thuật, Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật, Hà Nội.
173
16. Nguyễn Từ Chi (1978), Hoa văn Mường, Nxb. Văn hóa dân tộc,
Ha Nội.
17. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá và văn hoá
tộc người, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, Nxb. Vàn hóa
thông tin, Hà Nội.
18. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí - 3 tập, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Đoàn Trung Còn (1966), Từ điển Phật học, Sài Gòn.
20. Nguyễn Văn Cương (2000), " về yếu tố đặc sắc của đình làng Bắc
b ộ ", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 7.
21. Nguyễn Manh Cường, Đặng Hữu Tuyền (1989), "Kiến trúc chùa Kừn
Liên với thời đại Tây Sơrí', Tạp chí Khảo cổ học số 1.
22. Ngô Văn Doanh (1986), " Tháp Phổ Minh: m ột tác phẩm nghệ thuật
tiêu biểu của Phật giáoViệtNam đời Trần”, Tạp chí Khảo cổ học số 2.
23. Ngô Đức Thịnh (2001), Tứì ngưỡng Thành hoàng trong tửì ngưỡng
và văn hoá Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Phạm Đức Dương, Châu Thị Hải (chủ biên) (1998), Bước đầu tìm
hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá Việt - Hoa trong lịch sử, Nxb.
Thế giới, Hà Nội.
25. Cao Huy Đỉnh (1964), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
26. Đại Việt sử lược (1960), Bd., Nxb. Văn sử Địa, Hà Nội.
27. Đại Việt sử k ý toàn thư( 1998), Bd. Ngô Đức Thọ, 3 tập, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
28. Kim Định (1971), Triết lý cái đỉnh, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn.
29. Lê Quý Đôn (1987), Đại Việt thông sử, tập 3, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
30. Thu Hằng (1983), "Từcon thuyền đến ngôi đừih", Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật số 63.
31. Nguyễn Duy Hinh (1982), về m ột số đặc điểm truyền thống của
kiến trúc cổ Việt Nam, Góp phần nghiền cứu bản lĩnh bản sắc dân
tộc
• Việt
# Nam,9 Nxb. Khoa học
• xã hội,
• ' Hà Nội.
•
174
32. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng làng Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Hồng Kiên (1991), "Bộ vì nóc của k ết cấu nhà khung gỗ cô
truyền Việt Nam", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 97.
34. Nguyễn Hồng Kiên (1996), "Đình làng Việt”, Tạp chí Kiến trúc Việt
Nam số 1.
35. Nguyễn Hồng Kiên (1996), "Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt', Tạp chí
Kiến trúc số 3.
36. Nguyễn Hồng Kiên (1996), "Điêu khắc trên kiến trúc gỗ cổ truyền
Việt', Tạp chí Kiến trúc Việt Nam số 2.
37. Nguyễn Hồng Kiên (1999), "Những thành phần bao che trong kiến
trúc gỗ cổ truyền của người V iệt', Tạp chí Kiến trúc số 3.
38. Nguyễn Hồng Kiên (1999), "Mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ
truyền của người V iệt', Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 11.
39. Nguyễn Hồng Kiên (2003), Đình làng Việt Nam thế k ỷ 16, Luận án
Tiến sĩ, Viện Khảo cổ học, Hà Nội.
40. Vũ Tam Lang (1999), Kiến trúc cổ Việt Nam. Nxb. Xây dựng,
Hà Nội.
41. Trần Lâm (1993), Trang trí thời Mạc, M ỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ
th u ậ t, Hà Nội.
42. Trần Lâm - Hồng Kiên (1987), "Diễn biến của các loại hình kiến
trúc cổ Việt Narĩi' , Tạp chí Kiến trúc số 2 & 3.
43. Trần Lâm - Hồng Kiên (1996), "Đình Tây Đằncf' , Tạp chí Kiến trúc
số 6.
44. Lưu Bái Lâm (2001), Phong thuy, quan niệm của người Trung
Quốc về m ôi trường sống, Nxb. Đà Nang.
45. Nguyễn Bá Lăng (1972), Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, Tập 1. Đại
học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
46. Hoàng Linh (1979), "Bẩy và Kẻ", Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ
thuật số 4.
47. L. Bezacier (1955), Ư art Vietnamien. Bản dịch tư liệu Viện Khảo
cổ học.
175
4 8 . B ìn h N g u y ê n Lộc (1 9 7 1 ), Nguồn gốc Mả Lai của dân tộc Việt Nam,
N xb. Lá Bối, Sài G òn.
53. Nguyễn Quân, Phan cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt,
N xb. M ỹ th u ậ t, H à N ội.
54. Ngô Huy Quỳnh (1986), Tỉm hiểu kiến trúc Việt Nam, Nxb. Xây
dựng, Hà Nội.
55. Ngô Huy Quỳnh (1986), Kiến trúc Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
5 6 . T rần M ạnh P h ú (1 9 7 1 ), "Nghệ thuật chạm g ỗ ở đình Tây Đằncj',
Tạp chí Mỹ thuật số 11.
57. Trần m ạnh phú (1972), "Điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam", Tạp chí
Văn hoá nghệ thuật số 2.
58. Sở Văn hoá Thông tin Hà Tây (1999), Di tích Hà Tây.
59. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Kự (1993), Chùa Việt Nam, Nxb. Khoa
h ọ• c x ã h ội,
• 9 H à N ội.
•
60. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Kự (1998), Đhiiì Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh.
61. Nguyễn Đức Thiềm (1983), "Đóng góp vào việc nghiên cứu nghệ
thuật kiến trúc đình làng miền Bắd', Tạp chí Dân tộc học số 2.
62. Nguyễn Đức Thiềm (chủ biên) (1997), cấu tạo kiến trúc nhà dân
dụng, Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
63. Nguyễn Đăng Thục (1973), " Vần hoá đỉnh ỉànự', Tập san Tư tường
số 7, S ài G òn.
64. Phan cẩm Thượng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật,
Hà Nội.
176
65. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và
thời Trần (th ế kỷ 1 1 -1 4 ), N xb. K hoa học xã h ội, H à Nội.
66. Huynh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường - Hồ Tường (1993), Đỉnh
Nam bộ tín ngưỡng và nghi lễ, N xb. Tp. H ồ Chí M inh.
67. Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường (1999), Đình Nam bộ xưa
và nay, N xb. Đ ồ n g Nai.
6 8 . C hu Q u a n g Trứ (1 9 9 9 ), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam,
Nxb. M ỹ thuật, Hà Nội.
69. Chu Quang Trứ (2001), Sáng giá chùa xưa - Mỹ thuật Phật giáo,
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
70. Chu Quang Trứ (2002), Văn hoá Việt Nam - nhìn từ M ỹ thuật (2
tập). Nhà xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội.
71. Thơ văn Lý Trần (1997), Viện Văn học dịch, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
7 2 . N g u y ễ n A n h T u ấn , N g u y ễ n M ạnh C ường (1 9 9 5 ), "Đừứi làng - tính
hai m ặt và quá trình biến đổỉ', Tạp chí Khảo cổ học số 3.
7 3 . N g u y ễ n Q uốc T u ấ n (1 9 9 2 ), " Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở
Bắc b ộ ', Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật số 1.
74. Nguyễn Khắc Tụng (1996), Nhà ở cổ truyền của các dân tộcViệt
Nam, tậ p 2, N xb. X â y d ự n g, H à N ội.
7 5 . T rần T ừ (1 9 8 4 ), Cơ cấu tổ chức của làng người Việt c ổ truyền ở
Bắc bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Từ điển Văn hóa cổ truyền Việt Nam (1995), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
77. Trịnh cao tưởng (1979), "Bảy và k ế , Tạp chí Nghiên cứu nghệ
thuật số 1.
7 8 . T rịn h Cao T ư ở n g (1 9 8 1 ), "Kiến trúc đình lànc/ ' , Tạp ch í K hảo cổ
học số 2.
79. Trịnh Cao Tưởng (1982), "Đình làng, điểm lại bước đi ban đầư',
Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật số 1.
80. Trịnh Cao Tưởng (1982), "Kiến trúc đình làng, hình tượncỊ', Tạp
chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật số 2.
81. Trịnh Cao Tưởng (1994), Đình làng Phù Lảo - Hà Bắc trong nền
cảnh đình làng Bắc bộ, Luận án PTS Khoa h ọ c lịch sử.
177
8 2 . T h ái Bá V ân (1 9 7 6 ), "Điêu khắc đỉnh ỉàng'', T ạp ch í N g h iê n cứ u
n g h ệ th u ậ t s ố 4.
83. Viện Nghệ thuật - Bộ Văn hóa (1973), M ỹ thuật thời Lý, Nxb. Văn
h o a , H a N ội.
84. Viện Nghệ thuật - Bộ Văn hóa (1977), M ỹ thuật thời Trần, Nxb.
V ă n H oa, H à N ội.
86. Viện Nghệ thuật - Bộ Văn hóa (1993), M ỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ
th u ậ t, H à N ội.
87. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1991), Di tích lịch sử văn hoá Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam,
N x b . K hoa h ọ c x ã hội, H à N ội.
90. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam - cái nhìn địa văn hóa, Tạp chí
V H N T , N xb V H D T , Hà N ội.
9 1 . T rần Q uốc V ư ợ n g (1 9 98), Theo dòng lịch sử, Nxb. V ăn h ọc, H à N ội.
92. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy
ncfẫiĩì, Tạp chí VHNT, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
MỤC
• LỤC
4
Trang
© H ư o /^ e 1
K H Á I Q U Á T V Ề S ự H ÌN H T H À N H
V À P H Á T T R IỂ N C Ủ A Đ ÌN H L À N G V IỆ T N A M ....................................... 1 7
©HươAịe 2
N G H Ệ T H U Ậ T K IẾ N TR Ú C Đ ÌN H L À N G ................................................... . 5 0
©Hưo^e 3
C H Ạ M K H Ắ C Ở Đ Ì N H L À N G ..........................................................................1 1 6
<pjfụC0ƠHO
VỀ LỄ H Ộ I G Ắ N V Ớ I Đ ÌN H L À N G ............................................................. 1 5 7
K ẾT L U Ậ N ....................................................................................................................... 1 7 0
ấm LÀNI VIỆT
(CHÂU THỔ BẤC BỘ)
TR Ầ N LÂM BIỀN
In 800 cuốn, khổ 16 X 24, tại Doanh nghiệp tư nhân in Hà Phát, số 6 Ngọc Hà,
P.ĐỘi Cấn, Ba Đỉnh, Hà Nội. số đăng ky KHXB: 1039-2017/CXBIPH/22-15/HĐ.
Số QĐXB củaNXB: 867/QĐ-NXBHĐ, ngày 26/5/2017.
In xong và nộp lưu chiểu năm 2017
(ISBN): 9 7 8 - 6 0 4 - 9 5 5 - 3 1 1 - 0