Professional Documents
Culture Documents
Địa lý kinh tế thế giới của Singapore
Địa lý kinh tế thế giới của Singapore
Địa lý kinh tế thế giới của Singapore
TIỂU LUẬN
MÔN ĐỊA LÝ KINH TẾ THẾ GIỚI
Chương 1: Vị trí địa lý – điều kiện tự nhiên – tài nguyên thiên nhiên..........................2
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 28
Nguồn: Galaxylands
Singapore là một đảo quốc có chủ quyền tại Đông Nam Á, nằm ngoài khơi về mũi
phía nam của bán đảo Mã Lai và cách xích đạo 137 km về phía bắc. Lãnh thổ Singapore
bao gồm một đảo chính hình thoi và khoảng hơn 60 đảo lớn nhỏ. Singapore tách biệt với
bán đảo Malaysia qua eo biển Johor ở phía bắc cũng như tách biệt với quần đảo Riau của
Indonesia qua eo biển Singapore ở phía nam. Eo biển này giáp với biển Đông về phía
Đông và giáp với vịnh Malacca và Ấn Độ Dương về phía Tây. Láng giềng của Singapore
là Malaysia, Indonesia và Brunei.
Diện tích của Singapore là vào khoảng 710 km2. Tuy diện tích khá khiêm tốn, chỉ là
một dấu chấm tròn đỏ trên bản đồ thế giới, nhưng kinh tế của Singapore lại không nhỏ
chút nào, được mệnh danh là một trong bốn con rồng của Châu Á, bên cạnh Hồng Kông,
Đài Loan và Hàn Quốc. Singapore còn giữ vị trí chiến lược trên biển của Đông Nam Á.
1.3. Điều kiện tự nhiên
Do chỉ cách đường xích đạo 137 km, Singapore có khí hậu xích đạo ẩm đặc trưng
với các mùa không phân biệt rõ rệt. Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất
ổn định, độ ẩm cao và mưa nhiều. Nhiệt độ cao đều quanh năm nhưng không dao động
quá lớn, duy trì ở mức 24 độ C đến 32 độ C. Do ảnh hưởng của biển nên có độ ẩm khá
cao. Trung bình, độ ẩm tương đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều.
Tháng 12 là tháng mưa nhiều nhất còn tháng 2 là tháng nóng. Tuy nhiên tháng 7 và tháng
8 là hai tháng nóng nhất với nền nhiệt độ cao đạt mức tối đa.
Singapore có địa hình thấp với cao nguyên nhấp nhô, trong đó có lưu vực và những
khu bảo tồn thiên nhiên đang được chính phủ hết sức bảo vệ. Sự đô thị hóa đã làm biến
mất nhiều cánh rừng nhiệt đới một thời, hiện nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu
Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah. Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can
thiệp của con người, ví dụ như Vườn Thực vật Quốc gia Singapore. Kết hợp với khí hậu
nhiệt đới ẩm thì các khu bảo tồn này đã đem lại nguồn lợi lớn cho ngành du lịch
Singapore.
Singapore có diện tích nhỏ hẹp gồm 64 đảo, bao gồm 1 đảo lớn và 63 đảo nhỏ, trong
đó có 20 đảo có người ở; 1,9% diện tích đã được canh tác; 4,5% diện tích là rừng. Diện
tích đất đã được canh tác chủ yếu là để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, không dành
nhiều cho trồng cây lương thực.
1.4. Tài nguyên thiên nhiên
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu chủ yếu đều phải nhập từ bên
ngoài, hàng năm đều phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và nước ngọt để đáp ứng nhu
cầu trong nước. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của
Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông.
Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia
hoặc lấy từ nước tái chế - một loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy
sản xuất nước tái chế đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào
việc nhập khẩu.
Một số tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của Singapore bao gồm đất trồng trọt,
phong cảnh đẹp và cá.
Phong cảnh đẹp: Một trong những tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của
Singapore là phong cảnh tuyệt đẹp thu hút lượng lớn khách du lịch đến đất nước
này. Một số địa điểm đẹp nhất của Singapore bao gồm Bay East Garden, Sentosa
Island và Pulau Ubin thường được gọi là Đảo Granit, được khách du lịch ưa
chuộng chủ yếu vì nhiều loại động vật hoang dã trong khu vực. Các điểm đến phổ
biến nhất trong các đảo đá granite là Jawa vùng đất ngập nước Chek mà có diện
tích 0,386 dặm vuông và được coi là một trong những hệ sinh thái quý giá nhất tại
Singapore. Vườn East East nổi tiếng với khách du lịch vì những loại cây độc đáo
trong vườn. Singapore cũng là nơi có thác nước trong nhà cao nhất thế giới.
Singapore là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất thế giới và đã thu hút
hơn 17 triệu du khách trong năm 2017.
Đất canh tác: Trong năm 2015, đất trồng trọt chiếm 0,8% diện tích đất của
Singapore theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới. Dữ liệu cũng chỉ ra rằng quy mô đất
trồng trọt ở Singapore đã giảm từ năm 1966 khi nó chiếm 6% tổng diện tích đất
nước. Sự suy giảm quy mô đất trồng trọt ở nước này có thể là do sự giảm tầm quan
trọng của ngành nông nghiệp đối với nền kinh tế của Singapore. Thống kê từ bộ
lao động của Singapore chỉ ra rằng khoảng 0,95% lực lượng lao động của đất nước
đã được sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp. Hầu hết các trang trại ở Singapore
nằm ở khu vực nông thôn.
Cá: Singapore có trữ lượng cá đáng kể là một phần của tài nguyên thiên nhiên của
đất nước. Hầu hết việc đánh bắt cá thương mại ở Singapore được thực hiện ở Ấn
Độ Dương và cá được sử dụng để đáp ứng nhu cầu địa phương. Chính phủ
Singapore đã kêu gọi người dân áp dụng nuôi cá để tăng nguồn cung cấp cá của đất
nước.
Chương 2: Dân cư – xã hội và chế độ chính trị
2.1. Dân cư
Số dân của Singapore là 5.893.643 người vào ngày 6/7/2021 theo số liệu mới nhất
từ Liên Hiệp Quốc
Dân số Singapore hiện chiếm 0,07% dân số thế giới, đứng thứ 114 trên thế giới
trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ
Mật độ dân số: 8.419 người/km2
100% dân số sống ở thành thị
Độ tuổi trung bình: 42,7 tuổi
Nguồn: danso.org
Trong số hơn 5,8 triệu người dân của Singapore, ước tính chỉ có 60% là người
Singapore, còn lại có đến 40% là người ngoại quốc đến sinh sống và làm việc tại đảo
quốc này. Gần 25% dân số của Singapore không được sinh ra trên đảo quốc sư tử mà sinh
ra ở khắp các nơi trên thế giới sau đó theo cha mẹ hoặc tự mình đến Singapore để sinh
sống.
Cơ cấu tuổi của Singapore
14%: thanh thiếu niên dưới 15 tuổi
77%: người từ 15 đến 64 tuổi
9%: người trên 64 tuổi
Tuổi thọ trung bình của Singapore năm 2019: 83,7 tuổi
Tuổi thọ trung bình của nam giới: 81,6 tuổi
Tuổi thọ trung bình của nữ giới: 85,8 tuổi
Năm 2017, có khoảng 96,81% dân số trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) ở Singapore
có thể đọc và viết
Thành phần dân cư đa dạng. Một trong những đă ̣c điểm nổi bâ ̣t nhất của Singapore
là cơ cấu dân số đa dạng gồm nhiều chủng tô ̣c nhờ vào vị trí địa lý thuâ ̣n lợi và những
thành tựu thương mại của đất nước. Người Hoa chiếm 74,2% dân số Singapore, và người
Mã Lai – những cư dân đầu tiên ở nước này, chiếm 13,4%. Người Ấn chiếm 9,2%, còn lại
là người Á Âu, Perankan và các dân tộc khác chiếm 3,3%. Singapore còn là nơi sinh sống
và làm viê ̣c của mô ̣t cô ̣ng đồng người nước ngoài rô ̣ng lớn khác nhau như Bắc Mỹ, Úc,
Châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.
Bốn ngôn ngữ chính thức trong Hiến pháp của Singapore là: tiếng Anh, tiếng Hoa,
tiếng Mã Lai và tiếng Tamil. Mặc dù tiếng Malay là ngôn ngữ quốc gia, nhưng tiếng Anh
mới là ngôn ngữ thường được sử dụng trong giao dịch kinh doanh, chính phủ và các
phương tiện giảng dạy trong trường học.
2.2. Xã hội
2.2.1. Tôn giáo
Tôn giáo tại Singapore đặc trưng bởi sự đa dạng về tôn giáo và tín ngưỡng do tính
đa dạng và khác biệt của những sắc tộc đến từ những đất nước và nền văn hóa khác nhau.
Hầu hết các tôn giáo và tín ngưỡng lớn đều có ở Singapore. Một phân tích năm 2014 do
Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến hành cho thấy rằng Singapore là quốc gia có Chỉ số Đa
dạng Tôn giáo (tiếng Anh: Religious Diversity Index) cao nhất thế giới.
Tại Singapore có đến 10 tôn giáo, trong đó các tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo
giáo, Hindu giáo, Hồi giáo, Kitô giáo gồm Tin lành và Công giáo. Còn lại 0,6% dân số
theo tôn giáo khác và 14,8% dân số không theo tôn giáo nào.
Phật giáo: Phật giáo là tôn giáo được thực hành phổ biến nhất tại Singapore, với
33% số cư dân tuyên bố bản thân họ là tín đồ trong cuộc điều tra dân số gần đây
nhất. Hầu hết tín đồ Phật giáo tại Singapore là người Hoa và theo truyền thống Đại
thừa. Đại thừa Trung Hoa là tông phái Phật giáo chiếm ưu thế nhất tại Singapore.
Đạo giáo: mặc dù số lượng Đạo quán tại Singapore khá nhiều, con số thống kê về
số lượng tín đồ chính thức cho thấy trong giai đoạn 1990 đến 2000, số người dân
theo đạo giảm đáng kể, từ 22.4% xuống còn 8.5%. Tổng điều tra của hai năm 2010
và 2015 cho thấy tổng số tín đồ đã tăng vọt lên lại và chiếm khoảng 11% dân số
Singapore.
Hindu giáo: chiếm 4%, những người theo Hindu giáo - tôn giáo lâu đời nhất có
nguồn gốc từ Ấn Độ, tin rằng có Đấng Tối cao dưới nhiều trạng thái khác nhau.
Hồi giáo: 16% dân số Singapore tin vào Đạo Hồi, trong đó phần lớn dân số có
nguồn gốc từ Malaysia.
Kitô giáo: các nhà thờ Kitô giáo của hầu hết các giáo phái đều có tại Singapore.
Cùng với Phật giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo, đạo Kitô được coi là một trong bốn
nền đạo lớn ngày nay. Các tín đồ Kitô giáo chiếm 18.8% dân số Singapore.
2.2.2. Giáo dục
Singapore là một trung tâm giáo dục. Trong năm 2009, 20% học sinh của các trường
đại học Singapore là sinh viên quốc tế - mức tối đa cho phép, phần lớn là từ ASEAN,
Trung Quốc và Ấn Độ. Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ
Nanyang (NTU) được xếp hạng trong top những trường đại học tốt nhất châu Á và luôn
đứng trong top 13 các trường đại học chất lượng nhất thế giới những năm gần đây.
Giáo dục các cấp tiểu học, trung học và đại học hầu hết được nhà nước hỗ trợ. Toàn
bộ các tổ chức dù là công hay tư đều phải được đăng ký với Bộ Giáo dục. Tiếng Anh là
ngôn ngữ giảng dạy trong toàn bộ các trường học công và toàn bộ các môn học được dạy
và thi bằng tiếng Anh ngoại trừ bài luận bằng "tiếng mẹ đẻ”. Trong khi thuật ngữ "tiếng
mẹ đẻ" về tổng thể tầm quốc tế là đề cập đến ngôn ngữ thứ nhất, song nó được sử dụng
nhằm đề cập đến ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục của Singapore, do tiếng Anh
là ngôn ngữ thứ nhất.
Giáo dục gồm ba giai đoạn: tiểu học, trung học, và tiền đại học, trong đó chỉ có cấp
tiểu học là bắt buộc. Học sinh bắt đầu với 6 năm tiểu học, gồm 4 năm cơ sở và hai năm
định hướng, chương trình giảng dạy tập trung vào phát triển Anh ngữ, bản ngữ, toán học,
và khoa học. Trung học kéo dài 4-5 năm, dựa theo trình độ năng lực của mỗi học
sinh. Phân loại chương trình cơ bản tương tự cấp tiểu học, song các lớp học chuyên biệt
hơn nhiều. Giáo dục tiền đại học diễn ra trong 2-3 năm tại các trường cao đẳng, hầu hết
gọi là Học viện sơ cấp. Một số trường học được tự do trong chương trình giảng dạy của
mình và được gọi là trường tự chủ. Các trường này tồn tại từ cấp trung học trở lên.
2.2.3. Y tế
Singapore có một hệ thống chăm sóc y tế hiệu quả về tổng thể, dù chi phí y tế tại
đây tương đối thấp so với các quốc gia phát triển. Tổ chức Y tế Thế giới xếp hạng hệ
thống y tế của Singapore đứng thứ 6 về tổng thể trong Báo cáo Y tế thế giới 2000. Tuổi
thọ trung bình (năm 2012) tại Singapore là 83, trong khi số liệu toàn cầu là 70. Hầu như
toàn bộ dân cư được tiếp cận với nước và điều kiện vệ sinh được cải thiện. Singapore
được xếp hạng 1 về Chỉ số an ninh lương thực toàn cầu.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe của chính phủ dựa trên khung "3M". Điều này có ba
thành phần: Medifund, cung cấp một mạng lưới an toàn cho những người không có khả
năng chăm sóc sức khỏe, Medisave, một hệ thống tài khoản tiết kiệm y tế quốc gia bắt
buộc bao gồm khoảng 85% dân số, và Medishield, một chương trình bảo hiểm y tế do
chính phủ tài trợ. Các bệnh viện công ở Singapore có quyền tự chủ đáng kể trong các
quyết định quản lý của họ và cạnh tranh về mặt bệnh nhân, tuy nhiên họ vẫn thuộc quyền
sở hữu của chính phủ. Một chế độ trợ cấp tồn tại cho những người có thu nhập thấp. Năm
2008, 32% dịch vụ chăm sóc sức khỏe được chính phủ tài trợ. Nó chiếm khoảng 3,5%
GDP của Singapore.
2.3. Chế độ chính trị
Singapore thi hành chế độ cộng hòa nghị viện đa đảng nhất thể. Thể chế chính
trị của Singapore thi hành thể chế Westminster của Anh Quốc, do đó Tổng thống là
nguyên thủ danh nghĩa của quốc gia, chỉ chiếm lấy quyền lực mang tính tượng trưng. Vào
trước năm 1991, Tổng thống do Nghị viện ra lệnh bổ nhiệm. Sau khi Hiến pháp năm 1991
sửa đổi, Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kì 6 năm.
Tổng thống uỷ nhiệm lãnh tụ đảng đa số ở Nghị viện làm thủ tướng. Tổng
thống có quyền phủ quyết dự toán tài chính công và sự bổ nhiệm chức vị ban ngành công
cộng của chính phủ; có thể thẩm tra quyền lực mà chính phủ sử dụng và thực thi Pháp
lệnh An toàn Nội bộ (ISA) và Pháp lệnh Hoà hợp Tôn giáo (MRHA) cùng với vụ việc
kiện tụng điều tra tham nhũng. Hội xử lý sự việc Cố vấn Tổng thống (CPA) bị giao phó
đưa ra cung cấp thương lượng bàn bạc và kiến nghị hướng về Tổng thống. Tổng thống lúc
sử dụng và thực thi các chức quyền nào đó, ví như ra lệnh bổ nhiệm nhân viên công vụ
chủ yếu, trước tiên cần phải hỏi xin ý kiến của Hội xử lý sự việc Cố vấn Tổng thống.
Tổng thống và Nghị viện cùng nhau sử dụng và thực thi quyền lập pháp. Nghị viện gọi là
Quốc hội, thi hành chế độ nhất viện. Nghị viện do công dân đầu phiếu tuyển cử sản sinh,
nhiệm kì 5 năm, chính đảng chiếm chỗ ngồi đa số ở Quốc hội kiến lập và tổ chức chính
phủ.
Singapore thi hành thể chế Westminster của Anh Quốc và lập pháp, hành pháp, tư
pháp tam quyền phân lập.
2.3.1. Lập pháp
Cơ quan lập pháp của Singapore bao gồm: Tổng thống và Nghị viện (Quốc hội).
Nghị viện Singapore theo chế độ nhất viện (một viện). Thành viên của Nghị viện bao
gồm:
Thứ nhất: những thành viên được bầu từ những đơn vị bầu cử qua những cuộc
tổng tuyển cử theo những luật thành văn được Nghị viện ban hành, và những thành
viên không được bầu cử từ đơn vị bầu cử nào. Bao gồm: nghị sĩ bổ nhiệm được lựa
chọn, để đảm bảo cho một sự đại diện rộng rãi những quan điểm trong Nghị viện
(được quy định trong hiến pháp 1990). Theo đó Tổng thống có thể bổ nhiệm 9
Nghị sĩ thông qua sự giới thiệu của Uỷ ban lựa chọn đặc biệt của Nghị viện (mỗi
Nghị sĩ được bổ nhiệm có 2 nhiệm kỳ).
Thứ hai: Hiến pháp quy định có thể bổ nhiệm đến 6 Nghị sĩ từ những Đảng chính
trị đối lập. Điều này đảm bảo cho Nghị viện được đại diện những Đảng chính trị
không thành lập chính phủ, những Nghị sĩ này được bổ nhiệm từ trong số những
ứng cử viên đối lập không thắng cử mà người có phần trăm phiếu cao nhất trong
đơn vị tuyển cử. Số lượng Nghị sĩ này sẽ tùy thuộc vào ứng cử viên đối lập được
bầu vào Nghị viện.
Những thành viên Nghị viện không qua bầu cử không được bỏ phiếu ở Nghị viện
trong những trường hợp sau đây:
Một là: Dự luật sửa đổi Hiến pháp
Hai là: Dự luật về ngân sách và tài chính
Ba là: Dự luật bổ sung ngân sách
Bốn là: Bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ
Thẩm quyền lập pháp được thực hiện bằng một dự luật chuyển tới Nghị viện và
được Nghị viện thông qua và được phê chuẩn bởi Tổng thống. Tuy nhiên các thành viên
của Nghị viện có quyền trình dự thảo luật hay sáng kiến và những kiến nghị lập pháp về
bất cứ vấn đề gì và sẽ được thông qua nếu hợp lý.
Ngoài ra trong hệ thống lập pháp còn có Hội đồng Tổng thống về bảo vệ quyền lợi
cho dân tộc thiểu số, bao gồm 14 thành viên với nhiệm vụ là xem xét và xử lý bất kỳ đạo
luật nào mà thấy biểu hiện không công bằng hoặc chia rẻ, kích động dân tộc, tôn giáo.
2.3.2. Hành pháp
Bộ máy nhà nước Singapore trước đây tổ chức theo chế độ Cộng hòa Đại nghị, tức
là Tổng thống do Quốc hội bầu. Nhưng từ năm 1993, theo Hiến pháp sửa đổi (năm 1991),
Tổng thống do nhân dân bầu ra và trực tiếp nắm quyền Hành pháp. Đứng đầu Chính phủ
là Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm, trong đó Thủ tướng là thành viên của Nghị viện và
cũng là người đứng đầu Nội các. Dưới Thủ tướng là các Bộ trưởng do Tổng thống bổ
nhiệm, các Bộ trưởng đều là thành viên của Nghị viện. Tổng thống, theo sự giới thiệu của
Thủ tướng, bổ nhiệm những thư ký Nghị viện để giúp Bộ trưởng, những Thư ký thường
trực chịu sự quản lý và điều hành của Bộ trưởng và thực hiện việc giám sát các công việc
được chỉ định.
Nội các chịu trách nhiệm về việc điều hành chính sách và tham mưu cho Tổng thống
về việc thực thi quyền lực của mình, bổ nhiệm các công chức cao cấp và công chức ngành
tư pháp. Nội các chịu sự trách nhiệm tập thể trước Tổng thống và Nghị viện.
Chính phủ Singapore có 14 bộ và 55 ban, các ban này được thành lập theo pháp luật
của Nhà nước với nhiệm vụ thực hiện các công việc cụ thể như: phát triển kinh tế - xã hội,
cơ sở hạ tầng, …
2.3.3. Tư pháp
Trong ngành Tư pháp của Singapore, Hiến pháp Singapore quy định có hai cấp tòa
án, đó là: Tòa án tối cao và Tòa án cấp dưới. Những Tòa án cấp dưới gồm có: Tòa án sơ
thẩm, Tòa án theo khu vực bầu cử, Tòa án xét xử bị can vị thành niên, Tòa án đại hình và
Tòa án xử những vụ kiện nhỏ.
Tòa án tối cao gồm Chánh án và 7 Thẩm phán, chia thành Tòa án cao cấp và 2 Tòa
án Phúc thẩm. Tòa án cao cấp có quyền lực pháp lý lớn trong tất cả các vụ án dân sự và
hình sự, có quyền áp dụng hình phạt cao nhất. Hiến pháp đảm bảo cho hoạt động của các
cơ quan tư pháp độc lập với hoạt động của cơ quan hành pháp. Ngoài ra Tòa án tối cao
được quyền xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án hình sự và dân sự, còn với mức án cao nhất
của hình phạt là tử hình là bắt buộc do Tòa án tối cao xét xử. Các Thẩm phán Tòa án tối
cao do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Thủ tướng.
2.3.4. Hệ thống Đảng ở Singapore
Singapore có đa đảng, trong đó từ lúc lấy được địa vị tự trị vào năm 1959 tới nay,
đều do Đảng Hành động Nhân dân nắm giữ chính quyền và lấy đa số mang tính áp chế để
thao túng Nghị viện. Đảng Hành động Nhân dân (viết tắt theo tiếng Anh: PAP) là chính
đảng cầm quyền tại Singapore từ năm 1959. Đây là một trong hai chính đảng chủ yếu tại
Singapore cùng với Đảng Công nhân.
Đảng Hành động Nhân dân giành chiến thắng trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ khi
Singapore tự trị. Kể từ tổng tuyển cử năm 1959, Đảng Hành động Nhân dân chi phối chế
độ dân chủ nghị viện của Singapore và ở vị trí trung tâm trong sự phát triển nhanh chóng
về chính trị, xã hội, và kinh tế của quốc gia. Trong thống trị, chính phủ của Đảng ban
hành các luật nghiêm ngặt mà theo đó át chế tự do ngôn luận và các quyền tự do dân sự
khác, trong khi chịu trách nhiệm về giáo dục công phải chăng thông qua các kênh như
Quỹ Cộng đồng PAP.
Trong tổng tuyển cử năm 2011, Đảng Hành động Nhân dân giành được 81 trong số
87 ghế được bầu trong Quốc hội Singapore, nhận được 60,14% tổng số phiếu phổ thông,
đây là tỷ lệ thấp nhất kể từ khi đảo quốc độc lập.
2.3.4.1. Đảng Hành động Nhân dân (PAP)
Được thành lập vào năm 1954, Đảng Hành động Nhân dân Singapore (People
Action Party – viết tắt là PAP) là liên minh giữa các lãnh đạo Công đoàn cánh tả được
đào tạo từ nền giáo dục Anh quốc. Liên minh này hoạt động dưới ngọn cờ chung với
nhiệm vụ là chống thực dân xâm lược, đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều đó phù hợp với
nguyện vọng sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, do vậy đã được đông đảo quần chúng
nhân dân hết sức ủng hộ. Tuy nhiên, để thu hút sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân
dân, nhóm chuyên gia phải hình thành một liên minh với các nghiệp đoàn và tổ chức
chính trị xã hội cánh tả khác, sự ủng hộ và quan tâm từ giai cấp công nhân cũng như tầng
lớp dân chúng chịu ảnh hưởng từ nền giáo dục Trung Hoa là rất quan trọng.
Năm 1959, cuộc Tổng tuyển cử đã được tổ chức để bầu ra một chính quyền bản xứ
có quyền tự trị, Đảng Hành động Nhân dân đã ra tranh cử tất cả các ghế và sau đó Đảng
PAP đã dành được 43 ghế trong tổng số 51 ghế, chiếm tỷ lệ cao nhất. Sau chiến thắng
này, người đứng đầu nhóm chuyên gia là Lý Quang Diệu được bầu làm Thủ tướng.
Năm 1962, trong cuộc trưng cầu ý dân trong việc sáp nhập Singapore vào Liên bang
Malaysia, Đảng PAP đã tăng cường vị trí lãnh đạo độc tôn của mình bằng cách đàn áp các
Đảng đối lập. Sau sự kiện trên, PAP đã tổ chức một cuộc bầu cử đột xuất và đã giành
được 46,9% phiếu bầu và được 37 ghế. Khi Quốc hội tuyên bố, đại biểu các đảng đối lập
từ chức và bị bắt đã cho phép PAP nắm các ghế còn lại trong Quốc hội. Kể từ đây PAP
lên nắm quyền.
Quyền lực chính trị trong đảng tập trung tại Ban Chấp hành Trung ương (CEC), do
Tổng Bí thư lãnh đạo, nhân vật này là thủ lĩnh của đảng. Do Đảng Hành động Nhân dân
thắng cử trong mội kỳ tổng tuyển cử kể từ năm 1959, Thủ tướng Singapore luôn là Tổng
bí thư của Đảng Hành động Nhân dân kể từ đó. Hầu hết thành viên của Ban chấp hành
Trung ương cũng là các thành viên Nội các. Từ năm 1957 trở đi, quy tắc được đưa ra là
Ban chấp hành Trung ương sắp mãn nhiệm sẽ tiến cử một danh sách các ứng cử viên, từ
đó các thành viên nòng cốt có thể bỏ phiếu bầu Ban chấp hành Trung ương khóa tới. Điều
này bị cải biến gần đây khi Ban Chấp hành Trung ương đề cử tám thành viên và hội nghị
đảng đoàn chọn mười thành viên còn lại.
Đảng Hành động Nhân dân được tổ chức khá chặt chẽ với lực lượng các bộ, đảng
viên có năng lực chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng lập trường chính trị
vững vàng, hoạt động nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Cho tới nay, đây là chính đảng
liên tục nắm quyền để lãnh đạo quốc gia trong thời gian lâu nhất (53 năm) nhưng chưa
xảy ra suy đồi, tham nhũng hay biến chất. Do vậy đường lối, chủ trương, chính sách mà
Đảng này đưa ra luôn được Quốc hội thông qua và triển khai thi hành.
2.3.4.2. Đảng Công nhân Singapore (WP)
Đảng Công nhân Singapore (Workers' Party of Singapore – viết tắt là WP), là một
trong những đảng đối lập lớn nhất của Singapore, được thành lập năm 1957, nắm giữ một
trong 84 ghế thông qua bầu cử và 1 ghế không thông qua bầu cử của Nghị viện Singapore.
Tổng thư ký của đảng là Lưu Trình Cường (Low Thia Kiang), ông cũng là đảng viên đang
giữ ghế đại biểu nghị viện (thông qua bầu cử) đại diện cho khu vực Hậu Cảng. Đương
kim chủ tịch Đảng là bà Sylvia Lâm Thụy Liên và cũng là đại biểu nghị viện Singapore
không thông qua bầu cử (Non-Constituency Member of Parliament - NCMP). Đảng cũng
từng nắm giữ 2 ghế đại biểu như vậy từ năm 1997 tới 2001, với ghế NCMP thuộc
về Joshua Benjamin Jeyaretnam. Về khuynh hướng chính trị, đảng Công nhân Singapore
là một đảng chính trị trung tả.
Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 2011, Lưu Trình Cường, lãnh đạo của Đảng Công
nhân Singapore giành được thắng lợi lớn khi giành được 8 ghế trong Quốc hội, trong đó
nhóm do ông lãnh đạo giành được thắng lợi ở khu vực bầu cử nhóm đại biểu (GRC)
Aljunied, điều này mang tổng cộng thêm 5 ghế trong Đảng Công nhân Singapore.
Chương 3: Kinh tế
3.1. Tổng quan nền kinh tế Singapore
Đơn vị tiền tệ: SGD (Dollar Singapore)
Tỷ lệ thất nghiệp: 5,19% (2020)
Tỷ lệ người có việc: 66,03% (2020)
Tổng Sản phẩm Quốc nội: 372,06 tỷ USD (2019)
GDP bình quân đầu người: 65233,28 USD (2019)
Tốc độ tăng trưởng GDP: 0,733% (năm 2019)
Nguồn: Worldbank
Hình 3-3: Khu du lịch nghỉ dưỡng Marina Bay Sands ở Singapore
Nguồn: Wikipedia
Singapore được chia thành 5 vùng chính sau:
Vùng phía Bắc (North Region)
Vùng phía Tây (West Region)
Vùng phía Đông (East Region)
Vùng phía Đông Bắc (North-East Region)
Vùng Trung tâm (Central Region)
Mặc dù chia thành 5 vùng nhưng nền kinh tế ở các vùng này không có sự khác biệt
rõ rệt do diện tích của Singapore chỉ khoảng 710 km2. Singapore là một đảo quốc phát
triển với 100% dân cư sống ở vùng đô thị.
3.3.1. Vùng phía Bắc (North Region)
Vùng Bắc là một trong năm vùng của thành quốc Singapore. Tính riêng về diện tích,
đây là vùng có diện tích đất lớn thứ hai Singapore. Đô thị Woodlands là trung tâm của
vùng và cũng là nơi có dân số đông nhất vùng với 250.290 cư dân.
Tương đối cách biệt so với khu Downtown Core, nên đô thị hóa ở Vùng Bắc diễn ra
khá muộn, khiến cho nơi này còn lưu giữ khá nhiều mảng xanh thiên nhiên. Mặc dù vậy,
khu đô thị Woodlands, một trong những đô thị mới lớn nhất Singapore, tọa lạc trong vùng
này. Không kể phần không gian xanh, Vùng Bắc có 3 km2 dành cho các hoạt động giải
trí.
Vùng Bắc phát triển về du lịch, có nhiều điểm đến thú vị, bao gồm Sở thú
Singapore, Vườn thú đêm Safari và River Safari. Cùng với các vườn thú hiện tại, khu vực
này sẽ chú trọng tăng cao dịch vụ lưu trú thân thiện với môi trường như lều trại, phòng ở
gia đình.
3.3.2. Vùng phía Tây (West Region)
Đây là vùng có diện tích lớn nhất và có dân số đông thứ nhì Singapore, sau Vùng
Trung tâm. Đông Jurong là trung tâm của vùng, với các kế hoạch phát triển quận Hồ
Jurong thành một vùng CBD thứ hai. Vùng Tây là khu vực hỗn hợp khi nơi đây vừa tồn
tại các khu dân cư lẫn khu công nghiệp. Nằm ở phần cực nam của vùng, cách xa khu dân
cư và trung tâm thương mại chính, đảo Jurong và Tuas là nơi hoạt động của các
ngành công nghiệp nặng.
Vùng Tây là cái nôi của các ngành công nghiệp nặng then chốt của Singapore mà
chủ yếu ngành công nghiệp hóa dầu, với sự tham gia của các công ty thuộc lĩnh vực dầu
khí và hóa chất quốc tế như LANXESS, Afton Chemical, BASF, BP, Celanese, Evonik,
ExxonMobil, DuPont, Mitsui Chemicals, Chevron Oronite, Shell, Singapore Petroleum
Company và Sumitomo Chemical đã đầu tư thiết bị tại đảo Jurong và Pulau Bukom.
Lĩnh vực này đóng góp khoảng 5% vào GDP của Singapore, và nơi này nằm trong
top 3 các trung tâm lọc dầu xuất khẩu của thế giới, với sự hiện diện của nhà máy lọc dầu
lớn thứ bảy của thế giới tại đây.
Một Quận Kinh doanh Trung tâm thứ hai cũng đã được lên kế hoạch xây dựng
tại Quận Hồ Jurong, với một trạm cuối của tuyến Đường sắt cao tốc Kuala Lumpur–
Singapore sắp sửa hoàn thành đặt tại quận này.
3.3.3. Vùng phía Đông (East Region)
Vùng Đông là một trong năm vùng của quốc gia-thành phố Singapore. Mặc dù có
diện tích nhỏ nhất, vùng này lại có mật độ dân số cao thứ nhì trong năm vùng. Bedok là
đô thị đông dân nhất của vùng trong khi Tampines là trung tâm vùng. Với diện tích
11.000 hectare, Vùng Đông bao gồm sáu khu quy hoạch và là nơi đặt Sân bay Chương
Nghi và Căn cứ không quân Paya Lebar
Sản xuất là hoạt động kinh tế chủ lực của vùng với các cơ sở công nghiệp đặt khắp
các khu quy hoạch Bedok, Chương Nghi, Pasir Ris, Tampines và Paya Lebar. Công viên
sản xuất đĩa bán dẫn Pasir Ris và Tampines là bản doanh của nhiều đại công ty chế tạo
bán dẫn như GlobalFoundries, UMC, SSMC và Siltronic. IBM cũng đã chi ra S$90 triệu
để xây dựng một công viên công nghệ dọc Đại lộ Công nghiệp Tampines (Tampines
Industrial Avenue), cho mục đích sản xuất dòng máy mainframe System Z và hệ thống vi
xử lý POWER công nghệ cao cho khách hàng ở các nước châu Á.
3.3.4. Vùng phía Đông Bắc (North-East Region)
Vùng Đông Bắc là một trong năm vùng của thành quốc Singapore. Đây là vùng có
mật độ dân số cao nhất và đứng thứ ba cả nước về dân số, trong đó Hậu Cảng là đô thị
đông dân nhất và Seletar là trung tâm vùng. Với tổng diện tích 13.810 hecta, Vùng Đông
Bắc bao gồm bảy khu quy hoạch và cũng là vùng dân sinh lớn nhất trong năm vùng khi có
tổng cộng 217.120 hộ dân cư trú tại đây. Như tên gọi, vùng này nằm ở khu vực phía đông
bắc của Singapore.
3.3.5. Vùng Trung tâm (Central Region)
Vùng Trung tâm là một trong năm vùng của thành phố - quốc gia Singapore và
là vùng đô thị chính bao bọc khu Trung Hoàn. Mặc dù Trung Hoàn chủ yếu là
khu thương mại, đặc biệt là khu vực Downtown Core, nó chứa 335.400 đơn vị nhà ở dân
sinh. Ở đây cũng có 1.000 hecta không gian xanh, bao gồm công viên, vườn và các khu
giải trí được liên kết bởi 19 điểm kết nối công viên, được xây dựng với mục đích tăng tính
thẩm mỹ và mang lại cảm giác dễ chịu cho cư dân nơi đây.
Trung tâm có việc phát huy thế mạnh sẵn có của vùng. Bên cạnh việc hiển nhiên là
vùng lõi của hoạt động thương mại và giải trí cho cả thành phố, nhiều quận của vùng còn
mang đậm giá trị lịch sử, với nhiều dạng thức nhà ở, cơ sở giáo dục và hoạt động cộng
đồng. Có nhà cửa san sát nhưng Vùng Trung tâm vẫn có nhiều và đa dạng công viên,
không gian mở, và các khu vực vui chơi, giải trí. Nơi đây còn có hệ thống giao thông
thông suốt với hệ thống đường bộ và đường sắt mở rộng nối Vùng Trung tâm với những
vùng khác của Singapore, thêm vào đó, các hải cảng khu vực này cũng góp phần cho hoạt
động giao thương giữa Singapore và thế giới.
Về hoạt động vui chơi giải trí, nhiều điểm kết nối công viên đã được tạo ra để nối
kết công viên mới với các công viên đang hiện hữu trong vùng. Cơ sở vật chất phục vụ
cho hoạt động thể thao cũng được xây mới hoặc nâng cấp mà ví dụ điển hình là Trung
tâm thể thao Kallang.
Chương 4: Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu địa lý kinh tế, chính trị, xã hội của Singapore, chúng ta đã nắm
được khái quát về các điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị và kinh tế của đất nước này.
Xuất phát từ một quốc đảo nhỏ, qua hơn 50 năm, đến nay Singapore đã trở thành một đất
nước phát triển vượt bậc với những thành tựu đáng ngưỡng mộ ở tất cả các lĩnh vực, là
đất nước có GDP bình quân đầu người thuộc top cao nhất thế giới, có chỉ số phát triển con
người HDI rất cao và được bình chọn là một trong số các quốc gia đáng sống nhất trên thế
giới.
Với việc phát triển thần tốc của mình, đương nhiên là nhiều người sẽ tò mò tại sao
và như thế nào mà họ có thể làm được như vậy. Do đó, việc nghiên cứu địa lý kinh tế của
Singapore thứ nhất không chỉ giúp giải đáp thắc mắc cho sự phát triển đó, mà điều quan
trọng hơn hết là giúp các nước trên thế giới có thể học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm về
việc quản lý, điều tiết và việc đưa ra các chính sách phù hợp để phát triển đất nước trong
từng giai đoạn.
Singapore không phải là một đất nước có nguồn tài nguyên dồi dào, diện tích đất
cũng rất nhỏ hẹp, phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu lương thực, thực phẩm để đáp ứng
nhu cầu trong nước. Với điều kiện như vậy, chính phủ Singapore đã đề ra nhiều giải pháp
nhằm tận dụng những lợi thế khác của mình đồng thời giải quyết được những nhu cầu của
người dân, đặc biệt là việc đẩy mạnh đầu tư phát triển khoa học công nghệ và việc phát
triển giáo dục con người.
Chính phủ Singapore theo đuổi các chính sách lạm phát thấp, tỷ giá hối đoái thực
cạnh tranh, lãi suất thực ở mức dương, chính sách tài khóa ổn định và cán cân thanh toán
luôn ở mức an toàn nhằm duy trì được cả trạng thái tăng trưởng cao và khuyến khích đầu
tư trong dài hạn. Chính phủ tập trung đầu tư vào các lĩnh vực:
Điều tiết thị trường lao động: Chính phủ Singapore đã xây dựng khu vực việc
làm cho lao động phổ thông thông qua việc thu hút đầu tư và mở rộng các hoạt
động sản xuất nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp. Đồng thời áp đặt mức lương
tối thiểu cao nhằm duy trì mức cạnh tranh.
Khuyến khích giáo dục: chính phủ tập trung xây dựng và phát triển hệ thống giáo
dục và đào tạo kỹ năng cho người lao động. Giáo dục và đào tạo ban đầu được trợ
cấp bởi chính phủ và sau đó khuyến khích đầu tư nhằm hiện đại hoá và nâng cao
chất lượng của các hoạt động này nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ở
quốc gia này. Hiện nay Singapore có hệ thống giáo dục và đào tạo tiên tiến bậc
nhất thế giới.
Tăng cường tiết kiệm: bao gồm tiết kiệm về mặt không gian, tiết kiệm nước, tiết
kiệm chất xám con người. Các nguyên tắc này được thể hiện cụ thể qua các hành
động sau:
Do tình trạng mặt bằng hẹp nên Chính phủ đã quy hoạch hệ thống giao thông khoa
học nhằm tiết kiệm không gian một cách hợp lý nhất nhưng đảm bảo giao thông
luôn thông suốt, không có tình trạng tắc nghẽn giao thông hàng ngày, đồng thời
ban hành và chế tài nghiêm khắc đối với việc tuân thủ luật giao thông. Hệ thống
giao thông thuận tiện đã giúp cho quốc gia này tiết kiệm được rất nhiều thời gian
và chi phí đi lại của toàn dân cũng như tiết kiệm được chi phí sửa chữa, làm mới
các công trình giao thông hàng năm.
Chính phủ thành lập Ban Phát triển nhà ở để thực hiện xây dựng nhiều nhà cao
tầng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho người dân và cho người lao động nước
ngoài với mức giá bán và cho thuê thấp. Chỉ trong một thời gian ngắn, những khu
đầm lầy đã biến thành các tòa nhà chung cư, giúp những người gốc Singapore, hay
gốc Trung Quốc, Malaysia, Ấn rời khỏi các khu sống riêng của họ để hòa nhập vào
các cộng đồng chung được quy hoạch ngăn nắp.
Chính phủ thực hiện nâng cấp nhiều lần, thay mới những tòa nhà cũ để đem lại cho
người dân cuộc sống tốt hơn. Ngày nay, 82% dân cư Singapore sống trong các căn
hộ do Ban Phát triển nhà ở của Chính phủ cung cấp. Chính phủ yêu cầu toàn dân
tham gia trồng cây tại tất cả những nơi trống xung quanh các tòa nhà cao tầng,
chính vì vậy giờ đây Singapore được đánh giá có môi trường xanh và sạch.
Nhà nước Singapore xem xét việc tiết kiệm nước là quốc sách hàng đầu, các cuộc
vận động tiết kiệm nước luôn được tiến hành và nhận được sự ủng hộ của dân
chúng. Bên cạnh đó, tái sử dụng nguồn nước thải đã giúp Singapore có thêm nguồn
nước mới dồi dào và giá rẻ, đồng thời giải quyết triệt để nạn ngập nước vào mùa
mưa.
Tiết kiệm chất xám và sức lao động được thực hiện thông qua việc khai thác chất
xám, khai thác sức lao động một cách hiệu quả. Từ một nơi chuyên sản xuất hàng
giá rẻ vào những năm 60, Singapore hiện giờ là trung tâm ngoại hối lớn, đứng thứ
4 trên toàn thế giới với ngành kinh doanh tài chính và quản lý tài sản có giá trị trên
1000 tỷ USD.
Khuyến khích đầu tư dựa trên chính sách thuế hiệu quả
Chính phủ Singapore đã ban hành chính sách ưu đãi thuế cạnh tranh cho các nhà đầu
tư nước ngoài khiến Singapore trở thành một trong những “thiên đường” thuế cho các nhà
đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới. Chính sách thuế hiệu quả giúp nguồn lực được tái
đầu tư trong nền kinh tế Singapore. Chính sách thuế hấp dẫn đi kèm với chi phí hoạt động
thấp và môi trường nhân công biết sử dụng tiếng Anh đã giúp Singapore thu hút hàng loạt
tập đoàn, công ty lớn của nước ngoài ồ ạt đổ đến Singapore làm ăn, điển hình là hai đại
gia dầu lửa của thế giới là Shell và Essco đã xây dựng nhà máy lọc dầu ở đây khiến cho
đến giữa năm 1970, Singapore trở thành trung tâm lọc dầu lớn thứ ba thế giới.
Chính phủ Singapore nhận định rằng những chính sách mở để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài là rất quan trọng do họ nhận ra rằng các tập đoàn đa quốc gia khi đến
Singapore sẽ mang theo cả hệ thống phân phối và thị trường của họ. Vậy nên khi các tập
đoàn sản xuất tại Singapore và xuất khẩu ra nước ngoài sẽ giúp Singapore mở ra cánh cửa
tới phần còn lại của thế giới.
Phát triển vốn con người có mục tiêu
Để đạt được mục tiêu có nguồn lực lao động với chất lượng cao, chính phủ
Singapore đã tập trung ngân sách rất lớn tài trợ cho hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục
sau đại học. Chính phủ ban hành chương trình giáo dục bắt buộc và miễn phí trong vòng
10 năm (từ 6 đến 16 tuổi). Tất cả học sinh học xong trung học có thể vào học ở các trường
dạy nghề hoặc đại học, học sinh được học bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Trường đại học
Quốc gia Singapore thành lập năm 1988 có nhiều chuyên ngành khác nhau.
Đối với việc học sau đại học, chính sách phát triển vốn con người dựa trên đầu tư
lớn của nhà nước vào hệ thống giáo dục dựa trên hai chính sách quan trọng là:
Lựa chọn người đi học, đặc biệt là học đại học dựa trên năng lực và mang tính cạnh
tranh cao, và nhà nước sẽ chi trả toàn bộ chi phí đào tạo cho những nhân tài.
Chính phủ lồng ghép việc phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo vào trong các
chính sách công nghiệp hoá, bao gồm việc đưa nguồn nhân lực vào các khu vực sản
xuất công nghệ cao, các tập đoàn đa quốc gia nước ngoài. Đây được xem là một chiến
lược quan trọng nhằm học hỏi và chuyển giao công nghệ từ các nước phương Tây cho
nguồn nhân lực của đất nước Singapore.
Đầu tư xây dựng công trình công cộng hiệu quả
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại và hiệu quả được xem là một nền tảng quan
trọng cho sự thành công của nền kinh tế Singapore. Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm có cảng
biển, sân bay, bưu chính viễn thông, đường xá, và các tiện ích khác. Một ví dụ điển hình
về thành quả của chính sách này là sân bay Changi của Singapore trở thành trạm trung
chuyển quan trọng và hiện đại bậc nhất ở châu Á Thái Bình Dương.
Chính vì những lý do trên, Singapore đã trở thành một trong số quốc gia phát triển
bậc nhất ở khu vực châu Á với mức thu nhập bình quân đầu người cao, phúc lợi từ các
tiện ích, dịch vụ cuộc sống, và an sinh xã hội được xếp loại cao trên thế giới. Với những
cải thiện về nền kinh tế kể từ giai đoạn đầu thành lập đất nước đến nay mới 50 năm, mô
hình phát triển nền kinh tế Singapore xứng đáng trở thành mô hình cho các quốc gia khác,
đặc biệt là ở châu Á, trong đó có Việt Nam, học tập.
KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu về địa lý kinh tế, chính trị, xã hội của Singapore, ta có
cái nhìn tổng quát về Singapore đồng thời hiểu rõ hơn về sự phát triển cũng như con
người ở đảo quốc sư tử này. Với một nền kinh tế phát triển, Singapore đã và đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong nhiều vấn đề trên thế giới, đặc biệt là về kinh tế và vấn
đề môi trường. Thông qua sự phát triển của mình, Singapore cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc đóng góp những giải pháp trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giúp các nước học
hỏi và tiếp thu nhiều đường lối chính sách để phát triển đất nước.
Singapore là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất của thế giới với vị thế
là trung tâm tài chính lớn thứ 4 và là một trong 5 cảng biển bận rộn nhất trên toàn cầu.
Nền kinh tế mang tính toàn cầu hóa và đa dạng của Singapore phụ thuộc nhiều vào mậu
dịch, đặc biệt là xuất khẩu, thương mại và công nghiệp chế tạo, chiếm 26% GDP vào năm
2005. Theo sức mua tương đương thống kê năm 2020, Singapore có mức thu nhập bình
quân đầu người cao thứ 2 trên thế giới. Quốc gia này được xếp hạng cao trong hầu hết các
bảng xếp hạng quốc tế liên quan đến chất lượng kinh tế, giáo dục công, chăm sóc sức
khỏe, sự minh bạch của chính phủ và tính cạnh tranh kinh tế.
Trong nhiều năm, Singapore là một trong số ít các quốc gia có xếp hạng tín dụng
AAA từ "ba nước lớn" và là nước duy nhất ở Châu Á đạt được mức đánh giá này.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Singapore đang từng bước đạt được kế hoạch trở thành một thành phố hàng đầu thế giới,
một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế
đa dạng nhạy cảm kinh doanh.
Do đó, để phát triển hơn nữa, Singapore cũng cần triển khai và thực hiện những
chính sách của Nhà nước một cách có hiệu quả, đặc biệt là chú trọng hơn nữa vào việc
phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vietnamexport.com, (2013). Tổng quan đất nước Singapore. [online] Available at:
http://vietnamexport.com/nuoc-lanh-tho/172/tong-quan.html [Accessed 6 Jun, 2021]
2. Mfa.gov.sg, (2016). About Singapore. [online] Available at: https://www.mfa.gov.sg/Overseas-
Mission/Hanoi/About-Singapore [Accessed 6 Jun, 2021]
3. Toptour.com.vn, (2019). Tổng quan tìm hiểu về Singapore đất nước và du lịch. [online]
Available at: https://toptour.com.vn/tong-quan-tim-hieu-ve-singapore-dat-nuoc-va-du-
lich/#Thong_tin_ve_dat_nuoc_Singapore [Accessed 7 Jun, 2021]
4. Vi.history-hub.com, (2018). Tài nguyên thiên nhiên chính của Singapore là gì? [online]
Available at: https://vi.history-hub.com/tai-nguyen-thien-nhien-chinh-cua-singapore-la-gi
[Accessed 7 Jun, 2021]
5. Amec.com, (2016). Tìm hiểu về đảo quốc và con người Singapore. [online] Available at:
https://www.amec.com.vn/tim-hieu-ve-dat-nuoc-va-con-nguoi-dao-quoc-singapore.html
[Accessed 7 Jun, 2021]
6. Duhocvietglobal, (2016). Đất nước và con người Singapore. [online] Available at:
https://duhocvietglobal.com/dat-nuoc-va-con-nguoi-singapore/ [Accessed 7 Jun, 2021]
7. Danso.org, (2021). [online] Available at: https://danso.org/singapore/ [Accessed 6 Jun, 2021]
8. Dkn.tv, (2015). Sự phát triển ngoạn mục của nền kinh tế Singapore. [online] Available at:
https://www.dkn.tv/khac/su-phat-trien-ngoan-muc-cua-nen-kinh-te-singapore.html [Accessed 6
Jun, 2021]
9. Data.worldbank.org, (2021). [online] Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD?locations=SG [Accessed 6 Jun, 2021]
10. Data.worldbank.org, (2021). [online] Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/SL.UEM.TOTL.ZS?locations=SG [Accessed 8 Jun, 2021]
11. Wikipedia.org, (2021). Singapore. [online] Available at:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Singapore [Accessed 6 Jun, 2021]
12. Wikipedia.org, (2021). Vùng của Singapore. [online] Available at:
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B9ng_c%E1%BB%A7a_Singapore [Accessed 9 Jun, 2021]