Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

1)Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20

-  Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp:
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình nhà
Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam.
+ về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi
sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống
trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa
chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước
trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực.
+ về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là
trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê, chè...)
và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và nhanh.
Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ sở
công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc
quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi
chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ
nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
+ về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo
dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam
nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè,
hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên
ngoài.
-  Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam:
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam từ
xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét, vừa có tinh
thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp là đối tượng
của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột, cuộc
sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên...
phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên hăng hái
đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay sai của chúng.
Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài chèn ép nên có tinh
thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn, đến năm
1929 tăng lên 22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời muộn so với
công nhân nhiều nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc
tế là có tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị độc lập. Công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần cùng hoá nên
có quan hệ gần gũi với nông dân, rất thuận lợi cho liên minh công nông. Trong các giai
cấp ở Việt Nam lúc đó "Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người
lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”'.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ nhất đồng
thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với địa chủ
phong kiến.
Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân
tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân
tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc
Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong trào cần
Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 - 1896);
cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng tổ chức (1885 - 1886);
cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 - 1892). Kéo dài và
quyết liệt nhất là phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 —
1913) v.v...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất
chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề, không ổn định
thống trị hàng chục năm trời.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến do thiếu đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ sức lãnh đạo
phong trào yêu nước Việt Nam đi đến thành công.
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào
Đông Du (1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du học diễn ra
gần hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt
Nam. Phong trào Đông Du thất bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về Trung
Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở trong
nước, khôi phục độc lập dân tộc.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức. Những năm
1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh thần, cải thiện
đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn hưng
văn hóa, công nghệ, chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908); phong trào
đấu tranh của Đảng Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong
trào của Việt Nam quốc dân Đảng (1929- 1930).
2) Bối cảnh cỉa Bác Hồ

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 05 năm 1890 (năm Canh Dần) tại quê ngoại
làng Hoàng Trù, xã Chung Cự (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Thuở nhỏ (từ 1 đến 10 tuổi) Hồ Chí Minh có tên gọi là Nguyễn Sinh Cung, sau đó đổi tên
là Nguyễn Tất Thành.
Quê hương của Người là một vùng đất nghèo của huyện Nam Đàn - Nghệ An.
Người dân ở đây luôn phải sống trong cảnh nghèo khổ, thường xuyên phải chèo chống
với thiên tai khắc nghiệt, quanh năm ruộng đất khô cằn, mới nắng đã hạn, mới mưa đã lũ,
mất mùa thường xuyên, cuộc sống vất vả, lam lũ đã in đậm trong tiềm thức của người
dân Nam Đàn nói riêng, xứ Nghệ nói chung. Những khó khăn vất vả ấy đọng lại trong
câu ca dao:
                                   Làng Sen đóng khố thay quần
                              Ít cơm, nhiều cháo tảo tần quanh năm.
Mặc dù, điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt nhưng người dân xứ Nghệ rất giàu
truyền thống văn hoá và đánh giặc, giữ nước. Nơi đây hội tụ nhiều di tích lịch sử - văn
hoá gắn với tên tuổi chiến công của các bậc anh hùng dân tộc, nêu cao chí khí chống
ngoại xâm từ bao đời nay.
Hai làng Kim Liên và Hoàng Trù là một miền quê giàu cảnh sắc, với một nền văn
hoá dân gian đa dạng và phong phú. Biết bao làn điệu dân ca nơi đây đã đi vào lòng
người , đậm đà bản sắc dân tộc như: hát ví dặm, đò đưa, hát phường vải... Trải qua biết
bao biến động, thăng trầm của lịch sử, truyền thống văn hoá đặc sắc của miền quê Kim
Liên vẫn không ngừng toả sáng, tự hào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ của
Người là ông Nguyễn Sinh Sắc, còn gọi là Huy (1862-1929), con của một gia đình nông
dân nghèo, chất phác. Cha, mẹ mất sớm, tuổi thơ chịu cảnh mồ côi, phải vất vả lao động
kiếm sống và có ý chí học hành. Là một cậu bé hiền lành, thông minh, ham học. Nguyễn
Sinh Huy được nhà nho Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận làm con nuôi và cho học
hành tử tế. Chẳng bao lâu chàng thanh niên Nguyễn Sinh Sắc đã tham dự kỳ thi Hương
và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An (1894) và được người cha nuôi cũng là thầy giáo gả
con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ. Được gia đình và người vợ trẻ động viên,
cùng với ý chí của mình, ông cử Sắc đã tiếp tục tham dự các kỳ thi Hội của Triều đình
nhưng không đỗ, đến kỳ thi Hội lần thứ 3 ông mới đỗ Phó Bảng (1901). Với phẩm chất
liêm khiết của một nhà nho, trong cuộc sống cụ Sắc luôn dạy dỗ con cái luôn có ý thức
lao động, học tập để hiểu “đạo lý làm người”. Sau khi đỗ Phó Bảng (1901), bị Triều đình
phong kiến thúc ép nhiều lần, buộc cụ phải ra làm quan, nhưng bất hợp tác với bọn tay sai
đế quốc. Với quan điểm của mình cụ Sắc thường nói “Quan trường thị nô lệ trung chi nô
lệ, hựu nô lệ” (nghĩa là: Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ
hơn). Vốn có lòng yêu nước, khẳng khái, cụ thường chống đối bọn quan trường và thực
dân Pháp xâm lược. Vì vậy, sau một thời gian làm quan rất ngắn, cụ bị chúng cách chức.
Cụ vào Nam Bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc
qua đời (1929), được nhân dân mến mộ và thương tiếc. Thi hài và lăng mộ yên nghỉ của
cụ hiện nằm tại tỉnh Đồng Tháp
Thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901), một
người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, yêu chồng thương con hết mực, chịu khó lao động, bà
làm ruộng và dệt vải để nuôi dạy con cái. Bằng lao động, bằng cả tấm lòng yêu chồng,
thương con, bà Hoàng Thị Loan đã hy sinh tất cả vì chồng con và chính bà đã vun đắp
nên cuộc đời sự nghiệp đẹp đẽ cho cả gia đình. Nhưng cũng vì cuộc sống cơ cực, lao
động vất vả, quá sức, ngặt nghèo, thiếu thốn... Bà đã trút hơi thở cuối cùng vào một ngày
ảm đạm trên Kinh thành Huế ở cái tuổi 33 (10/02/1901) để lại niềm tiếc thương vô hạn
cho gia đình, người thân, bà con lối xóm. Khi Bà qua đời, không có người thân bên cạnh,
chỉ có cậu Cung (Bác Hồ) tuổi mới lên 10 và em bé Xin đang khát sữa. Được bà con, bạn
bè đùm bọc, giúp đỡ, thi hài Bà Loan được đưa lên an táng tại núi Tam Tầng, xứ Huế.
Đến năm 1922, hài cốt của bà được bà Thanh (con gái của Bà ) đưa về an táng tại
quê nhà (làng Kim Liên - Nam Đàn) và năm 1942, hài cốt Bà được đưa lên núi Đại Huệ.
Năm 1984, lăng mộ Bà Loan được xây dựng khang trang, đẹp đẽ tương xứng với công
lao của người mẹ có công sinh thành, nuôi dưỡng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chị cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954) còn gọi
là Bạch Liên và anh cả của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888 -
1950). Cả hai người đều có chí hướng tiến bộ, yêu nước, thương người và tích cực tham
gia các phong trào chống Pháp, đã nhiều lần bị thực dân Pháp kết án tù đày.
Nhưng nhờ sự giáo dục của gia đình, cả bà Thanh và ông Cả Khiêm đều không
màng danh lợi, hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước, trở
thành tấm gương đáng kính cho bà con nhân dân về sự cao cả, nghĩa khí và lòng vị tha.

3) Tư tưởng
a) Tư tưởng nho giáo
- Nguồn gốc

Như đã nói ở bên trên thì Nho giáo xuất phát từ Không Tử, ông vốn là một người Trung
Quốc vì vậy chúng ta có thể kết luận Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa hay còn gọi là
Trung Quốc. Tuy nhiên sau đó Nho giáo đã phát triển và vượt ra khỏi lãnh thổ Trung
Quốc và ảnh hưởng mạnh mẽ lên văn hóa của các nước trong khu vực Đông Á như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và cả Việt Nam chúng ta.

Trong các ghi chép cổ của người Trung Quốc cho rằng Nho giáo thực ra đã bắt đầu xuất
phát từ trước cả khi Khổng Tử ra đời. Nguồn gốc của nó được xem là bắt đầu từ Phục Hy
(một vị thần tích truyền thuyết của Trung Quốc), ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm
về âm dương, chế ra bát quát và những chuẩn mực xã hội để dạy cho loài người.

Tuy nhiên đã phần các nghiên cứu chỉ ra rằng “Nho giáo” chỉ thực sự được khai sinh bởi
đức Khổng Tử. Ông đã tổng hợp lại các quan điểm về tư tưởng, lẽ sống rời rạc trong lịch
sử để đưa ra một quy chuẩn hoàn chỉnh nhất cho Nho giáo. Khổng Tử được xem là giáo
chủ Nho giáo. Tuy nhiên sau khi ông mất Nho giáo lại bị sử dụng một cách lệch lạc bởi
những người cầm quyền nhằm điều khiển người dân.

Những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam

Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo

Điểm ảnh hưởng tích cực đầu tiên của Nho giáo đến đất nước chúng ta không thể không
nói đến đó chính là kho tàng văn học đồ sộ như ngày nay. Rất nhiều những nha văn, nhà
thơ trong lịch sử đất nước chúng ta đều là các Nho sĩ sống và suy nghĩ theo những quan
điểm của Nho giao cùng với sự chiêm nghiệm của bản thân mà đã cho ra đời không biết
bao nhiêu tác phẩm mang tính thời đại.

Thứ Hai, Nho giáo đã giúp xây dựng xã hội, thiết lập các mối quan hệ trong các triều đại
phong kiến khiến cho nó có thể phát triển rộng rãi. Nho giáo đã dạy cho con người thời
đại đó tinh thần yêu nước cũng như những lê nghi, chuẩn mực đạo đức xã hội là nền
móng cho việc phát triển những triều đại phong kiến vĩ đại trong lịch sử dất nước ta.

Thứ Ba, Nho giáo đã tạo ra ở Việt Nam hệ thống giáo đục rõ ràng với nhiều cấp bậc giúp
đất nước tuyển được nhiều nhân tài góp phần xây dựng và phát triển.

Tác hại của Nho giáo

Tuy có những tác động tích cức tuy nhiên Nho giáo cũng để lại không ít tác hại cho Việt
Nam chúng ta.

Đầu tiên, việc quá trọng dụng Nho giáo đã làm cho chúng ta mất đi một vài nét truyền
thống đáng tự hào là bản sắc của dân tộc Việt Nam ta.

Tiếp theo tuy tạo ra không ít những người tài giỏi cho đất nước những với lối giáo dục
lấy văn chương làm chủ yếu mà coi nhẹ các lĩnh vực khác trong đời sống cũng khiến cho
không ít những nhân tài trong nhiều lĩnh vực bị bỏ phí không được phát triển.

Nho giáo cũng tạo nên sự trung thành mù quang của những đại thần, nho sĩ của một triều
đại dã suy tàn đứng lên chống lại triều đại mới khiến cho cảnh nội chiến là dân chúng lâm
vào cảnh chết chóc, đói khổ.

Tư tưởng của Nho giáo đã quá đề cao danh vọng. Điều tốt có chỗ tốt là giúp cho con
người biết phấn đấu, tranh giành địa vị nhưng lại khiến cho con người mù quáng chay
theo danh vọng mà quên mất luân thường đạo lý.

Trong xã hội Nho giáo cũng không đề cao giá trị của người phụ nữ khiến cho họ bị chà
đạp khá nhiều.

Và quan trọng hơn cả là việc ảnh hưởng chính của Nho giáo làm cho chúng ta đóng cửa
với các nước phương Tây mà chỉ giao thương với Trung Quốc.

b) Tư tưởng phật giáo

- Nguồn gốc

Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa dạng. Đất
nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắt, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng
mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng chảy về phía Đông. Vì thế
Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng
lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều
kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn
giáo triết học.

Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hửu nô lệ Ấn Độ đã


phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và Sumerian đã có nền văn
minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn
Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống bằng nghề nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh
tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh
tế – xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất
thuộc quyền sở hữu nhà nước, gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong
công xã, và quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội
được phân chia thành các đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp
lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm
cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các
đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học
đã ra đời, trong đó có Phật giáo.

Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba giai đoạn.
Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ XV – VII TCN gọi là
nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành các trường phái triết
học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống.
Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa
và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được
những thành tựu về khoa học tự nhiên. Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y
học…

Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là cơ sở cho sự
nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ, trung đại với các hình
thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo
Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con
người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị
của đạo Bàlamôn đặc biệt là quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng
triết học không chính thống

Anhr hưởng của phật giáo

3.1.Phật giáo là một tôn giáo gần gũi và dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian người Việt.
Ở miền bắc đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ
tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì Phật hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên
(trong tâm thức dân gian Việt cổ, Phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc,
người khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên)
mà con người cũng cần để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì Phật hay quan âm cũng trở thành
một vị thần, phật điện cũng trở thành thần điện, tính tâm linh Ấn Độ nhường bước cho
tính tình Việt Nam. Hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý.
                Chính vì gần gũi và dễ hòa hợp nên tín ngưỡng đạo phật và tín ngưỡng thờ thần
của người Việt có nhiều nét giống nhau song không phải là một.
                Bụt giống Phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp bức bóc
lột. Nhưng Bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công
mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt. Còn Phật gần gũi, công bằng với tất
cả chúng sinh vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân bình
thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Với phật, không ai tiểu nhân,cũng chẳng có ai
quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai
cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét, thù hận. Đó
cũng là điều phù hợp với nếp nghĩ của người Việt.
                 Phật kêu gọi sự tự giác không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn
phải cứu nhân độ thế .
                Chăc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu
thế nào là bản ngã, người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao. Phải chăng,
đây là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng.
                 Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm
nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai.
                Cô Tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh
phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ
dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực
của bản thân mình. Tâm lý người Việt Nam ta phần nhiều cũng quan niệm nhận thức như
vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.
                Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng, và có một sự gắn bó
sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào. Dân gian xưa không có điều
kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những
giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã “lộ” cái ý
đồng hay không đồng. Có thể nói rằng, văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là phật hoá. Phật
giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đại
thừa thì vẫn phải nhập với tín ngưỡng bản địa. để biến Man Nương thành Phật Mẫu, Ỷ
Lan thành Quan Âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí
thần kỳ cho lắm.
                 Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết
hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè.
                Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở
Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín
ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành
một trung tâm văn hoá làng. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền
văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật
giáo có phần làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là
tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm,
hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết
tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Chả thế mà bao nhiêu
câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề
nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên
của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào
thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ
về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo
vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có thể mất đi như mọi
hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và
dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
                 Trong mấy chục năm lại đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện
các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng thành kính
trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc
ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo Phật. Mặt
khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả
những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành động của họ,
tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
3.2.Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến đời
sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các trường phổ thông, tổ chức đoàn, đội luôn phát
động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “ quỹ giúp bạn nghèo vượt
khó”, “quỹ viên gạch hồng”… Ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng
nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà
Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào
Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người
khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến
thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số phận
bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp những học sinh, sinh viên
còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham
gia vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương
trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo... Hình
ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc
góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào.
Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng
tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của
ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp
đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ
nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy.Chúng ta càng phải nhắc đến
giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực.
Trong khi có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến
cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền
bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán bar, sàn nhảy những cô
chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh
viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà
mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ
ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sa
đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế
hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền
bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần
thiết cần làm ngay.
3.3. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết với sự xâm nhập của nhiều trào lưu tư tưởng,
học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý
luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào
cách mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ
trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất
là đối tượng thanh thiếu niên, những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy,
thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những
kiến thức để làm việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận
thức được về cơ bản giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản
là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục
là căn nguyên của mọi tội lỗi, một bên thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con người bằng lao động với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi đó là
tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô
hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị
ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi
người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động
không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và
hoàn thiện cả xã hội.
3.4. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong đời sống con
người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó
đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống.
Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân,
bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết
bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người
ra khỏi điều kiện thực tiễn của xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không
phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ
không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của
Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo
đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục... Đạo đức nhà Phật mất dần
giá trị cũng chính thái độ yếu thế này, với nhà Phật những nhu cầu về thể xác thì bị coi là
trần tục, kém đạo đức, nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được
một trình độ nhất định, quan niệm trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh
hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
3.5. Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay trong số những người đi chùa, nhiều người
không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác,
tích cực trong xã hội và gia đình. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ
vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn
giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người.
Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì
cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện
học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là
hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn
mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số
lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu
mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến
chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm
người, về thiện - ác. Như vậy, mục đích đến chùa của nột số người dân đã sai
lầm so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
3.6.Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm
chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống
còn nghèo nàn, lạc hậu rất đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng
trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà
nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người năng động, lạc
quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là
phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam
như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân,
làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.

c) Tư tưởng tôn trung sơn


a) Hoàn cảnh ra đời

You might also like