Chương 2

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

Chương 2

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ ĐẤU


TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ
DÂN TỘC TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

I. Một số vấn đề cơ bản về dân tộc


1. Một số vấn đề chung về dân tộc
a. Khái niệm:
Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một quốc
gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền
thống, văn hóa, đặc điểm tâm lý, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc 1. Khái niệm
được hiểu:
- Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ) để
giao tiếp nội bộ dân tộc. Các thành viên cùng chung những đặc điểm sinh hoạt văn hóa
vật chất, văn hóa tinh thần, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
- Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng đồng
chính trị - xã hội, được quản lý, điều hành bởi một Nhà nước, thiết lập trên một lãnh
thổ chung như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa…
b. Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới:
Hiện nay trước sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu
hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức tạp,
khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: Trên thế giới hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là
xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc, toàn cầu hóa và các vấn đề toàn cầu làm cho
sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu
thế khu vực hóa. Đồng thời các dân tộc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường,
chống can thiệp, áp đặt và cường quyền.
Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra hết sức
phức tạp, nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế mâu thuẫn xung đột
dân tộc, sắc tộc, xu hướng li khai, chia rẽ dân tộc, đang diễn ra ở khắp các quốc gia,
các khu vực, các châu lục trên thế giới…, đúng như Đảng ta nhận định:
Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, li khai, hoạt động khủng bố, những
tranh chấp biên giới lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đó gây
nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường cho các
quốc gia đe dọa hòa bình an ninh khu vực và thế giới.
c. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc.
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.
+ Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.
11
Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2005), Từ điển Bách khoa quân sự Việt nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội tr.300.
Thực chất của vấn đề dân tộc là sự va chạm, mâu thuẫn lợi ích giữa các dân tộc
trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Bởi do dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều
nhau, do sự khác biệt về lợi ích, do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý, do tàn
dư tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc, do thiếu sút, hạn chế trong
hoạch định, thực thi chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống
trị, kích động chia rẽ của các thế lực phản động đối với các dân tộc.
Vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
dân tộc gắn kết chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I.Lênin.
Đó là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên
hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ, trình
độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi lĩnh vực
trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc
với nhau trong quan hệ quốc tế; xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột dân tộc. Quyền
bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hóa và thực hiện trên thực tế. Đây là quyền
thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan hệ hữu nghị
hợp tác giữa các dân tộc.
Các dân tộc được quyền tự quyết là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân tộc:
quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình, bao gồm
cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân
tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi ích chính đáng của các dân
tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá
hoại khối đoàn kết dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các dân tộc
trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các lực
lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết tốt vấn đề dân
tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng để giành thắng lợi.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.
Trung thành với quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn cách
mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm dân
tộc đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc, xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc Việt Nam. Tư
tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh về nội dung toàn diện,
phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng đó là những luận điểm cơ bản chỉ đạo,
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân
xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan tâm
chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kỳ thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, lên án, vạch trần
mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau,
no đói giúp nhau. Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt
Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng các dân tộc
Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi
giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ
để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa1.
2. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm, chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn
sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thủa ban đầu, có những dân tộc
từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết sức thuận lợi nên
nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ
Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những
đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thậm
chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta sau năm 1945. Ðây là những đợt di cư
lẻ tẻ, bao gồm một số hộ gia đình đồng tộc.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều
nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân
tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc Kinh là dân
tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là
lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài
dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển
cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh
em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân
tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển
mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống
tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
11
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
Theo ngôn ngữ văn hoá, các dân tộc Việt Nam được xếp vào 8 nhóm ngôn ngữ
tộc người khác nhau. Đó là1:
- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày,
Thái.
- Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba na, Brâu, Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co,
Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu,
Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.
- Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo.
- Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song
do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc
có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng
các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình.
Các dân tộc ở nước ta được chia thành 2 nhóm: “Dân tộc thiểu số” và “Dân tộc
đa số”. Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên
phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dân tộc đa số là dân tộc
có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia 1.
Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2019, tổng số dân của nước ta
là 96.208.984 người. Trong 54 dân tộc sống trên đất Việt Nam, thì dân tộc đông nhất
là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số.
a. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam
- Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất2.
Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện
thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một nguồn gốc
sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là người trong một
nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai
sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nước ta ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng rất
khắc nghiệt. Do nắng lắm mưa nhiều nên hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt. Do yêu
cầu tồn tại và phát triển ở một nước nông nghiệp, trồng lúa nước là chính, cư dân ở
Việt Nam phải liên kết nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây
dựng các hệ thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm bảo phát triển sản xuất.
Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó, giúp đỡ nhau trong lao động
sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn đạo đức.
Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn cầu,
càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh, giảm nhẹ

1
Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
11
Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về Công tác dân tộc.
22
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc đấu tranh chinh
phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và
thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt Nam càng thêm gắn bó chặt
chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc
ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao
thông Bắc - Nam, Ðông - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị
trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược
luôn nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam
là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc đấu tranh
chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và hung bạo nhất thế giới. Chính
vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên
chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất của các
dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách
mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát
huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước
ta.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào cho
thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là động
lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách mạng nước
ta ngày càng được tăng cường.
Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xảy ra những va
chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc.
Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động chia rẽ dân
tộc. Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu
và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người
dân Việt Nam.
- Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau1.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung
các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước
trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung
du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số
dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các dân tộc thiểu
số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt
mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường.
Cách đây chưa lâu (khoảng bốn, năm chục năm), Tây Nguyên nói chung, Ðắc Lắc nói
riêng, hầu hết cư dân vẫn là người tại chỗ, mỗi dân tộc đều có khu vực cư trú riêng,
ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng còn rõ ràng thì nay tình hình đã khác
xa và xu hướng này còn tiếp tục gia tăng. Hiện nay dân tộc Kinh cư trú ở Ðắc Lắc
chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc ít người miền Bắc gần đây cũng
di chuyển vào khu vực này ( kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với số
lượng khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân
tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà

11
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng... Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú,
nhiều xã, bản có tới 3-4 dân tộc cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều
kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề
phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất
hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa
những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư trú
xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc
cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên
nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn
kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em.
- Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, có vị
trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái 1.
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm 3/4 diện tích
cả nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là tiềm lực
về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, miền núi còn có vai trò đặc biệt
quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hoà khí hậu, điều tiết
nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định.
Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm
lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật,
Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc của Tổ
quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hoà
bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước
láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà
nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả nước, không
chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã hội, mà cả về chính trị,
quốc phòng, an ninh quốc gia.
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều
2
nhau .
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở
Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở
vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng cao.
Có những dân tộc ít người có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Nhiều dân
tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Ðiều kiện
canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường bấp bênh. Cuộc
sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật.

11
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
22
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
3
Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc.
Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân chủ yếu là
do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước phải liên tục
đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là những nguồn gốc của sự không
bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn
đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ chung.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân
tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng3.
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có
một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm
tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần,
bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm phong phú nền văn
hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng là nét riêng, độc
đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá
Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng cố và tăng cường sự thống nhất,
nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc. Ðồng thời phải khai thác và phát
triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần
ngày càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc.
b. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
- Quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc
Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán: “Thực
hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để
các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”1.
Công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tập trung:
Khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc;
nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, lợi
dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội, chống phá cách mạng; thực
hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát
triển, ấm no, hạnh phúc.
Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác dân tộc xác định: “Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn
vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc
văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng
dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng,
xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi
với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
3
11
ĐCS Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung ương và
sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Công tác dân tộc và thực hiện chính
sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành,
của toàn bộ hệ thống chính trị”.
Văn kiện Đại hội X chỉ rõ quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước
ta hiện nay là: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trị chiến lược lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách
mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch,
phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng,
củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân
tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu
phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống
các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
- Chính sách dân tộc của nhà nước
Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về Công tác dân tộc quy định các
hoạt động về công tác dân tộc nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân
tộc cùng chung sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị
định 05/2011/NĐ-CP quy định chính sách dân tộc như sau:
+ Chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực:
1) Kinh phí thực hiện các chính sách dân tộc được bố trí từ nguồn ngân sách
nhà nước theo quy định về phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành và các nguồn kinh
phí hợp pháp khác để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, xóa
đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa vùng dân tộc với các vùng khác.
2) Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý nguồn lao động là người
dân tộc thiểu số tại chỗ, có chế độ đãi ngộ hợp lý.
3) Khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vùng dân tộc thiểu số
và đầu tư trở lại phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
4) Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản
xuất nhằm nâng cao đời sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
+ Chính sách đầu tư phát triển bền vững:
1) Đảm bảo việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng thiết yếu
vùng dân tộc thiểu số; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, bảo
vệ môi trường sinh thái, phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc.
2) Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài đầu tư phát triển ở vùng dân tộc thiểu số; ưu tiên đặc biệt đối với
dân tộc thiểu số rất ít người và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt
khó khăn; chú trọng đào tạo nghề, sử dụng lao động là người tại chỗ, đảm bảo thu
nhập ổn định, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng khác.
3) Khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của đồng bào
các dân tộc thiểu số, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường.
4) Chủ đầu tư các dự án quy hoạch, xây dựng có ảnh hưởng tới đất đai, môi
trường, sinh thái và cuộc sống của đồng bào các dân tộc, phải công bố công khai và
lấy ý kiến của nhân dân nơi có công trình, dự án được quy hoạch, xây dựng quy định
của pháp luật; tổ chức tái định cư, tạo điều kiện để người dân đến nơi định cư mới có
cuộc sống ổn định tốt hơn nơi ở cũ.
Chính quyền ở nơi có người đến định cư có trách nhiệm phối hợp với chủ đầu
tư đảm bảo định canh, định cư lâu dài, tạo điều kiện để đồng bào ổn định cuộc sống.
5) Thực hiện quy hoạch, sắp xếp các điểm dân cư tập trung một cách hợp lý đối
với những địa bàn khó khăn, đảm bảo cho đồng bào phát triển sản xuất phù hợp với
đặc điểm dân tộc, vùng miền.
6) Thực hiện các chương trình, đề án xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm,
giải quyết cơ bản vấn đề vốn, đất ở, đất sản xuất, công cụ sản xuất cho nông dân thiếu
đất, nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phát triển kinh tế, giao đất, giao rừng cho hộ gia đình
ở vùng dân tộc thiểu số, chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề, theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững.
7) Tổ chức phòng, chống thiên tai và ứng cứu người dân ở vùng bị thiên tai, lũ
lụt.
8) Có chính sách hỗ trợ kịp thời những dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt để
ổn định và phát triển
+ Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo:
1) Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số theo chương trình chung quốc gia;
xây dựng chính sách giáo dục ở tất cả các cấp học phù hợp với đặc thù dân tộc.
2) Phát triển trường mầm non, trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội
trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập
cộng đồng, trường dạy nghề, trường dự bị đại học; nghiên cứu hình thức đào tạo đa
ngành bậc đại học cho con em các dân tộc thiểu số để đẩy nhanh việc đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
3) Quy định các điều kiện và biện pháp cụ thể, phù hợp để hỗ trợ cho học sinh,
sinh viên là người dân tộc thiểu số; giải quyết chỗ ở, học bổng và cho vay vốn trong
thời gian học tập phù hợp với ngành nghề đào tạo và địa bàn cư trú của sinh viên dân
tộc thiểu số.
Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người, ở vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được miễn học phí ở tất cả các cấp học,
ngành học.
4) Đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số
phù hợp với đặc điểm từng vùng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập Quốc tế.
5) Quy định việc hỗ trợ giáo viên giảng dạy tại các vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; đào tạo giáo viên là người dân tộc thiểu số và
giáo viên dạy tiếng dân tộc.
6) Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa
vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội
trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập
cộng đồng, trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp
với địa bàn vùng dân tộc.
7) Chính quyền địa phương, nơi có con em dân tộc thiểu số thi đỗ vào đại học,
cao đẳng và sinh viên được cử đi học hệ cử tuyển, có trách nhiệm tiếp nhận và phân
công công tác phù hợp với ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.
+ Chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số:
1) Cán bộ người dân tộc thiểu số có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp quy
định của pháp luật, được bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý
các cấp.
Ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt
người dân tộc thiểu số.
2) Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số, ưu tiên cán bộ nữ, cán
bộ trẻ tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.
3) Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
+ Chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số:
Người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số được bồi dưỡng, tập huấn, được hưởng
chế độ đãi ngộ và các ưu đãi khác để phát huy vai trò trong việc thực hiện chính sách
dân tộc ở địa bàn dân cư, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
+ Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa:
1) Hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.
2) Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các
dân tộc thiểu số có trách nhiệm gìn giữ văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật.
3) Xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các di tích lịch sử,
văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng.
4) Đồng bào dân tộc thiểu số được ưu đãi, hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây dựng,
khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
5) Bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc,
định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc theo từng khu vực hoặc từng dân
tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Chính sách phát triển thể dục, thể thao vùng dân tộc thiểu số:
1) Bảo tồn và phát triển các môn thể dục, thể thao truyền thống của các dân tộc.
2) Đầu tư xây dựng và hỗ trợ các hoạt động thể dục, thể thao, xây dựng sân vận
động, nhà thi đấu, trung tâm tập luyện thể dục thể thao ở vùng dân tộc thiểu số.
+ Chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số:
Tập trung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch gắn với bảo vệ môi
trường, sinh thái; hỗ trợ quảng bá, đa dạng hóa các loại hình, các sản phẩm du lịch,
khai thác hợp lý các tiềm năng, danh lam thắng cảnh, phát triển du lịch.
+ Chính sách y tế, dân số:
1) Đảm bảo đồng bào các dân tộc thiểu số được sử dụng các dịch vụ y tế; thực
hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ, bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số
theo quy định của pháp luật.
2) Tập trung xây dựng, củng cố, mở rộng cơ sở y tế, khám chữa bệnh; bảo đảm
thuốc phòng và chữa bệnh cho đồng bào các dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
3) Hỗ trợ việc bảo tồn, khai thác, sử dụng những bài thuốc dân gian và phương
pháp chữa bệnh cổ truyền có giá trị của đồng bào các dân tộc đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền công nhận.
4) Bảo đảm nâng cao chất lượng dân số, phát triển dân số hợp lý của từng dân
tộc theo quy định của pháp luật.
5) Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hóa y tế, thực hiện chính sách ưu tiên đối với các
tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động đầu tư, phát triển y tế ở vùng dân tộc
thiểu số.
+ Chính sách thông tin - truyền thông:
1) Đầu tư phát triển thông tin - truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp
một số phương tiện thiết yếu nhằm đảm bảo quyền tiếp cận và hưởng thụ thông tin.
2) Xây dựng, củng cố hệ thống thông tin tình hình dân tộc và tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về dân tộc; thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng,
thiên tai, lũ lụt ở vùng dân tộc thiểu số.
3) Áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng và tổ chức thực hiện trong hệ thống
cơ quan công tác dân tộc.
4) Tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
+ Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý:
1) Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn được hưởng các dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật.
2) Chính quyền các cấp có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chương trình,
đề án phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý phù hợp với từng đối tượng và địa
bàn vùng dân tộc thiểu số.
3) Sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, đa dạng hóa các
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với phong tục, tập quán của đồng bào
dân tộc thiểu số.
+ Chính sách bảo vệ môi trường, sinh thái:
1) Sử dụng, khai thác và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường,
sinh thái vùng dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật.
2) Bảo vệ, cải tạo và đảm bảo cho vùng có tài nguyên được đầu tư trở lại phù
hợp.
3) Tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào ở vùng có tài nguyên để nâng
cao nhận thức bảo vệ môi trường, sinh thái, đa dạng sinh học.
+ Chính sách quốc phòng, an ninh:
1) Xây dựng, củng cố, quốc phòng, an ninh ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
chính trị và giữ vững trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
2) Cơ quan nhà nước, đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới và hải đảo có trách
nhiệm cùng các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và chính quyền
địa phương bảo vệ đường biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội và
tăng cường quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước láng giềng ở vùng biên giới và
hải đảo theo quy định của pháp luật.
II. Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo
1. Một số vấn đề chung về tôn giáo
a. Khái niệm tôn giáo:
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, tôn giáo được hiểu là niềm tin của
con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ,
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội với các yếu tố: Hệ
thống giáo lí, giáo luật tôn giáo; lễ nghi tôn giáo; tổ chức tôn giáo; cơ sở vật chất phục
vụ cho hoạt động tôn giáo.
- Giáo lý: Là biểu thị chân lý cơ bản, bất di bất dịch, trong một tôn giáo hay
một trường phái triết học1.
- Giáo luật: Giáo luật là những qui định về nghĩa vụ và quyền lợi của các phần
tử trong Giáo hội mà mọi người phải tôn trọng theo lẽ công bằng để duy trì trật tự
trong đời sống cộng đoàn2.
- Lễ nghi (nghi lễ) tôn giáo: Là hình thức, phương tiện để chuyển tải niềm tin
tôn giáo. Bao gồm những biểu tượng mang tính thần thánh và những điều răn dạy,
kiêng kỵ. Trong hệ thống lễ nghi thì hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ bản, là sự hiện
thực hóa ý thức tôn giáo3
- Tổ chức tôn giáo: Là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một
tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công nhận nhằm thực
hiện các hoạt động tôn giáo4.
b. Phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo với mê tín dị đoan
- Tín ngưỡng: Là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi
gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho
cá nhân và cộng đồng5. 
- Mê tín dị đoan: Là những hiện tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con
người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hóa cộng đồng, gây
11
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
22
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
33
Trần Đăng Sinh- Đào Đức Doãn, Giáo trình Tôn giáo học, Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm, Tháng 9- 2007
44
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
55
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã
hội6. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh
hóa đời sống tinh thần xã hội.
2. Tình hình Tôn giáo trên thế giới và quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về
giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Tình hình Tôn giáo trên thế giới
Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn ra theo
nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu; các
tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hóa, bình dân hóa, mềm hóa các giới luật lễ nghi để
thích nghi và tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc; các tôn giáo cũng tăng các
hoạt động giao lưu, thực hiện thêm chức năng phi tôn giáo theo hướng thế tục hóa, tích
cực tham gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo
đa dạng, sôi động và không kém phần phực tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu
hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hóa, thần bí hóa giáo chủ đang nổi lên; đồng thời,
nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có không ít tổ chức tôn giáo là một
trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới
hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để
chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc độc lập.
Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh hưởng
không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao lưu giữa
các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đó giúp cho việc tăng
cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tin thần hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ những luận
điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp phần đào
tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự mở
rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài nước
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
b. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo
dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc
sau:
Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên,
nguồn gốc xã hội của tôn giáo . Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo phải sử dụng
tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế giới hiện
thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được sử dụng
mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tuyên chiến, xóa bỏ tôn giáo.
66
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan.
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng là : bất kì ai cũng được tự do theo
tôn giáo mà mình lựa chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng
tôn giáo đều được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động
theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công
dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi
mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng
pháp luật.
Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét,
đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan điểm
lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn cứng nhắc. Những hoạt động tôn
giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được khuyến khích,
hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lý theo pháp luật.
Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn giáo
chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của tôn
giáo. Mâu thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc
giữa người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn giáo.
Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt
khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế lực lợi dụng
tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn
giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng nhân dân,
không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; phát huy tinh thần yêu nước của những chức sắc
tiến bộ trong các tôn giáo; kiên quyết vạch trần và xử lý kịp thời theo pháp luật những
phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng.
3. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay
a. Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người tin theo các tôn giáo.
Đến thời điểm tháng 12/2020, có 16 tôn giáo được phép hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam, bao gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo,
Hồi giáo, Tôn giáo Baha ’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo
Tứ ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo,
Mặc môn, Phật giáo Hiếu nghĩa tà lơn, Bữu Sơn Kỳ hương 1.
Trong những năm gần đây, các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ
chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng
cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ
chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp
đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi.
Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực
đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc; vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen lẫn
với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng
Việt Nam. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với cái gọi là “tự do tôn giáo”
để chia rẽ tôn giáo, dân tộc; tài trợ, xúi giục các phần tử xấu trong các tôn giáo truyền
đạo trái phép, lôi kéo các tôn giáo vào những hoạt động trái pháp luật, gây mất ổn định
chính trị.
b. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo chỉ rõ: “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng
cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật.
           Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng
thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân
tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
        Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp,
các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
11
Bộ Nội vụ, Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tính đến
tháng 12/2020 (Kèm theo Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28/12/2020 của Bộ Nội vụ)
chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công
tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý
nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối
chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp
theo quy định của pháp luật.
           Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật
và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà
tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của
mình theo đúng quy định của pháp luật.
           Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các
quy định của hiến pháp và pháp luật.     
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp
luật”.
III. Đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam.
1. Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch.
Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các thế
lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa
bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm
hàng đầu, kinh tế làm mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi
nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.
Như vậy, vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những lĩnh vực trọng yếu mà các
thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội, thực hiện âm mưu “không đánh mà
thắng”.
Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân
tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính
sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn
giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam; vô hiệu hóa sự quản lí của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời
sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi tôn
giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước ta, nên chúng thường xuyên hậu
thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn giáo
chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.
Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo
như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước
Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục chống
phá cách mạng Việt Nam.
2. Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của
các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và
làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”; những
vấn đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hóa, tâm lí của đồng bào các dân tộc, các tôn
giáo; những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc, các tôn giáo ;
những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau:
Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm, chính
sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu sót, sai lầm
trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam.
Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương - giáo và
giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế - xã hội; mua chuộc, lôi kéo,
ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép,
gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam, đàn
áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy yếu cách
mạng Việt Nam.
Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động
người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các
dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam như:
truyền đạo trái phép để “tôn giáo hóa” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào
dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Điển hình là các vụ bạo loạn ở Tây
Nguyên năm 2001, 2004, việc truyền đạo Tin Lành trái phép về các vùng dân tộc thiểu
số Tây Bắc, Tây Nguyên, vụ 178 Nguyễn Lương Bằng; 42 Nhà Chung Hà Nội...
Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu thủ đoạn đó của
chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc hoàn toàn vào chúng, mà chủ
yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến công của
chúng ta.
3. Giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Để vô hiệu hóa sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực
thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế -
xã hội mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay cần tập trung vào những giải pháp cơ bản,
cụ thể sau:
Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Đây là giải pháp đầu tiên, rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận thức, tư tưởng
của cả hệ thống chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng bào các dân tộc, tôn
giáo về các nội dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt chính sách dân tộc tôn giáo,
vô hiệu hóa được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch.
Nội dung tuyên truyền giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp. Hiện nay
cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc, các
tôn giáo. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của Nhà nước,
khơi dậy lòng tự tôn tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên tuyên truyền và giáo dục
để đồng bào hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù
địch, để đồng bào đề cao cảnh giác không bị chúng lừa gạt lôi kéo lợi dụng. Vận động
đồng bào các dân tộc, tôn giáo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, thực hiện đúng
chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo.
Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao
nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Cần
tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên
nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện
đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân
dân, nâng cao vai trò của mặt trận và các đoàn thẻ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh loại
trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Riêng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo, trước tiên cần phải thực hiện tốt chính
sách dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các
dân tộc, các tôn giáo. Chống kì thị chia rẽ dân tộc, tôn giáo, chống tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Chủ động giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo, bảo vệ chủ
quyền an ninh quốc gia. Đây là tiền đề quan trọng để vô hiệu hóa sự chống phá của kẻ
thù.
Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý
nghĩa nền tảng để vô hiệu hóa sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời sống vật chất, tinh thần
được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt
quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.
Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án ưu tiên
phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng dân tộc, vùng tôn giáo, tạo mọi điều kiện giúp
đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo nhanh chóng xóa đói giảm nghèo nâng cao dân
trí, sức khỏe, bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc. Khắc phục sự chênh lệch về phát
triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các tôn giáo; sự kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo.
Thực hiện bình đẳng đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo phải bằng những hành động
thiết thực cụ thể như: ưu tiên đầu tư sức lực tiền của giúp đồng bào phát triển sản xuất.
Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người có uy tín
trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Tích cực xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách ưu tiên
trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí và cán bộ
chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, và người tôn giáo. Bởi đây là
đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo.
Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương châm: chân thành, tích
cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc thù
từng dân tộc, từng tôn giáo.
Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu thủ
đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch; kịp thời giải
quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của kẻ thù để
nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào các dân
tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn xảo trá của bọn
chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh
này.
Kịp thời chủ động giải quyết tốt các điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc,
tôn giáo. Chủ động, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo kích động lôi kéo đồng bào gây bạo loạn. Khi xuất hiện điểm
nóng, cần tìm rõ nguyên nhân, biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng, không
để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lí nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu, ngoan
cố chống phá cách mạng. Đồng thời, kiên trì thuyết phục vận động những người nhẹ
dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình
đẳng với những người lầm lỗi đó ăn năn hối cải, phục thiện.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề dân tộc?
2. Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch.
3. Những giải pháp cơ bản đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

You might also like