Professional Documents
Culture Documents
So2 2015 TrinhDuyLuan
So2 2015 TrinhDuyLuan
GS.TS, Viện Xã hội học.
Những quan điểm của y tế công cộng thiên về ủng hộ các giải pháp góp phần giảm
thiểu tác hại của mại dâm đối với các cá nhân, cộng đồng và xã hội trước đại dịch
HIV/AIDS và nguy cơ các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STDs).
Tiếp cận giới, đặc biệt những nhà nữ quyền đã thể hiện sự phản đối mạnh mẽ nhất
đối với mại dâm và việc khách mua dâm (thường là đàn ông), luôn được “nhẹ tay” hơn
người bán dâm trong xử phạt và sự kỳ thị.
Tiếp cận pháp luật đã chia tách rõ ràng trong mại dâm các yếu tố “tệ nạn” (người
mua và người bán dâm) và yếu tố “tội phạm” (môi giới, bảo kê, tổ chức, kinh doanh) để
xử lý, quản lý theo pháp luật (Trịnh Duy Luân, 2014).
2. Các giải pháp quản lý mại dâm hiện nay
Phần lớn các quốc gia trên thế giới (160/180 nước) không chấp nhận mại dâm.
Song cũng tồn tại các quan điểm và cách giải quyết khác nhau đối với mại dâm. Cho
đến nay, trên thế giới có thể phân ra ba nhóm quan điểm chính đối với mại dâm:
1. Coi mại dâm là một nghề, nhưng có sự kiểm soát chặt chẽ thông qua cấp
phép/môn bài, nộp thuế; bắt buộc khám chữa bệnh, quy định các địa điểm được phép
hành nghề.
2. Coi mại dâm là bất hợp pháp, là tệ nạn xã hội, sai lệch về chuẩn mực đạo đức
trong xã hội và là nguyên nhân huỷ hoại kỷ cương, trật tự xã hội.
3. Không coi mại dâm là một nghề, nhưng đó là một hiện tượng xã hội tồn tại ngoài
ý muốn của Nhà nước và xã hội, do đó không thể triệt tiêu được.
Tương ứng với ba quan điểm như vậy là ba loại giải pháp quản lý đối với mại dâm:
1. Hợp pháp hóa mại dâm, công nhận đó là một nghề; tổ chức ra các “Khu đèn đỏ”,
tập trung mại dâm ở đó để quản lý.
2. Coi mại dâm là bất hợp pháp, thậm chí “hình sự hóa” mại dâm, sử dụng các chiến
lược, chương trình, biện pháp để “truy quét”, “triệt phá”, thủ tiêu các hoạt động, tụ điểm liên
quan đến mại dâm (những người mua/bán dâm, môi giới, kinh doanh, bảo kê cho mại dâm).
3. Không công nhận mại dâm là một nghề, nhưng thừa nhận đó là hiện tượng xã hội
không thể xóa bỏ triệt để, hoàn toàn. Áp dụng các biện pháp hạn chế, phòng ngừa, giảm
hại (truyền thông thay đổi hành vi), hỗ trợ cộng đồng. Phân biệt tệ nạn và tội phạm trong
hoạt động mại dâm.
Giải pháp thứ nhất: Hợp pháp hóa mại dâm thông qua đăng ký và quản lý bao gồm
cả kiểm tra y tế định kỳ bắt buộc. Đây là giải pháp đã được áp dụng ở một số (không
nhiều) quốc gia trên thế giới (như Đức, Hà Lan, Thụy Điển trước đây, Úc, Mexico…).
Trong giải pháp này, cả cơ sở mại dâm và người hành nghề mại dâm đều là đối tượng của
hệ thống đăng ký bắt buộc và kiểm tra y tế định kỳ và thường được giới hạn ở một khu
vực nhất định gọi là “Khu đèn đỏ”.
Giải pháp này có những lợi ích nhất định, nhất là đối với việc quản lý. Nó đưa ra một
khung pháp lý cho việc quản lý đối với một ngành kinh doanh có lợi nhuận cao nhưng lại
kèm theo nhiều hệ lụy xã hội và cho việc đảm bảo quyền của người lao động. Việc quản lý
mại dâm cũng có thể bao hàm việc đưa nó vào hệ thống nộp thuế của nền kinh tế.
Những phản bác đối với giải pháp này ngay ở các quốc gia chấp nhận hợp pháp hóa
mại dâm là:
Về các giá trị đạo đức (nhất là từ phía các nhà nữ quyền): Nhiều chính trị gia ở các
nước công nhận mại dâm như Hà Lan, Đức cũng nêu ý kiến phản đối: họ không cần
những đồng tiền thu được từ hoạt động mại dâm, và sẽ là “ô nhục nếu chúng được dùng
để chi tiêu cho giáo dục hay lĩnh vực xã hội”.
Về kinh tế: Giải pháp này cũng không hề đem lại lợi ích kinh tế nào, thậm chí còn
bị thâm hụt. Ví dụ, Năm 2011, Đức chỉ thu được 326.000 USD (đã là "thành công" so với
các năm trước), quá ít so với hàng triệu USD phải bỏ ra để quản lý mại dâm mỗi năm.
Hoặc tại Bonn, năm 2011 thành phố thu được 18.200 USD thuế từ mại dâm, nhưng đã
phải chi tới 116.000 USD để đảm bảo an ninh cho các khu đèn đỏ, chưa kể chi phí quản
lý giấy tờ, khám chữa bệnh và chống các dạng tội phạm khác phát sinh từ mại dâm1.
Và kết quả cuối cùng là vẫn không hạn chế và kiểm soát được mại dâm cũng như
các hệ lụy xã hội đi kèm.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều tiếng nói (từ giới nghiên cứu,
thậm chí một số đại biểu từ giới hoạch định chính sách) đề xuất áp dụng giải pháp này, và
đã được thảo luận khá sôi nổi, thậm chí gay gắt trên các phương tiện truyền thông. Nhiều
ý kiến ủng hộ, song cũng không ít ý kiến phản đối việc áp dụng giải pháp thứ 2 này.
Ủng hộ:
1
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mại _dâm
Phản đối:
Về kinh tế, nếu hợp pháp hóa mại dâm, chỉ riêng việc quy định cho tất cả người bán
dâm đi xét nghiệm mỗi tháng 1 lần (với chi phí khoảng 400 USD/lần), ngân sách sẽ phải
chi ít nhất 150 triệu USD mỗi năm (với số liệu chính thức, Việt Nam hiện có 33.000 gái
mại dâm). Số tiền này lớn gấp 6 lần ngân sách hàng năm cho thể thao, gấp 3 lần ngân
sách cho phát thanh - truyền hình và gấp 40 lần ngân sách cho xúc tiến đầu tư, du lịch. Hệ
thống y tế cũng sẽ quá tải thêm bởi gần 400.000 lượt xét nghiệm tăng thêm mỗi năm cho
số lượng người bán dâm như hiện nay (V.M.L, chuyên gia Xã hội học)
Về pháp luật, trong bối cảnh sự phân tầng xã hội gia tăng, hợp pháp hóa là cái cớ để
mại dâm tiếp tục bùng phát. Ngoài các khu đèn đỏ phục vụ khách hàng “cao cấp”, tất yếu
sẽ mọc thêm vô số các tụ điểm dịch vụ mại dâm đủ loại để phục vụ cho khách hàng các
“cấp” khác nhau: từ các dịch vụ trá hình tại các nhà nghỉ, khách sạn, các sex-tour, hoặc
cái gọi là dịch vụ gái gọi “cao cấp”, chân dài, người mẫu, cho đến các dịch vụ “đứng
đường” nơi công cộng - mà không thể xử phạt.
Giải pháp thứ hai: Coi mại dâm là bất hợp pháp, thậm chí “hình sự hóa” mại dâm,
sử dụng các biện pháp “truy quét”, “triệt phá”, xóa bỏ các hoạt động và tụ điểm liên quan
đến mại dâm.
Đây là giải pháp không thực tế và không khả thi. Đã có nhiều bằng chứng cho thấy
khi bị “truy quét”, mại dâm sẽ chuyển sang hoạt động bí mật và không thể kiểm soát
được. Bên cạnh đó, khi mại dâm là bất hợp pháp thì người hành nghề mại dâm sẽ bị bóc
lột thậm tệ bởi bọn chủ chứa và ma cô. Họ có thể bị bạo lực tình dục bởi khách hàng, mà
không dám tố cáo, không được bảo vệ, thậm chí còn gặp rắc rối với cảnh sát hoặc bị bắt.
Trong bối cảnh lan truyền đại dịch HIV/AIDS, việc không quản lý được mại dâm
đồng nghĩa với việc không thể cung cấp các dịch vụ y tế một cách có hiệu quả, không thể
tổ chức các chương trình giáo dục kỹ năng phòng tránh HIV cho người hành nghề mại
dâm. Nguy cơ HIV lây lan ra cộng đồng là rất lớn.
Việt Nam đã có thời kỳ coi mại dâm như là một dạng tội phạm, bị hình sự hóa, sử
dụng các biện pháp mạnh, với các chiến dịch truy quét, “ra quân” làm sạch địa bàn, với
rất nhiều trung tâm “phục hồi nhân phẩm”, cải tạo lao động hay Trung tâm Lao động - Xã
hội - Chữa trị.
Tuy nhiên, như số liệu thống kê đã đưa, số lượng gái mại dâm được đăng ký vẫn
tăng hàng năm, mà thực ra, đây mới chỉ là “phần nổi của tảng băng”. Một nghiên cứu của
ngành y tế công cộng cũng phát hiện ra rằng, sau mỗi đợt “truy quét”, mại dâm lại “dạt”
về các khu vực giáp ranh giữa các đơn vị hành chính, để rồi sau đó, lại trở lại hoạt động
“như cũ”. Hiệu quả của các hoạt động truy quét như vậy chỉ có thể mô tả bằng qua cách
nói dân gian “bắt nhái bỏ đĩa” hay “ném đá ao bèo”. Hơn nữa, đây còn là dịp để mại dâm
lan rộng ra các vùng đất mới.
Cách tiếp cận “loại trừ” mại dâm đã được đề ra trong các văn bản pháp lý như Pháp
lệnh Phòng chống mại dâm số 10/2003/PL-UBTVQH11 và Nghị quyết 05/CP, ban hành
ngày 29/1/1993:
Mại dâm có xu hướng di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác mỗi khi có các chiến
dịch “phòng chống tệ nạn xã hội”. Khi những chiến dịch này được thực hiện, mại dâm
có xu hướng sẽ di chuyển tới một địa phương lân cận nơi họ tạm thời được an toàn hơn
(thông tin thu được qua các cuộc nói chuyện không chính thức). Hóa ra những chiến
dịch này lại làm mại dâm lan rộng hơn (Vũ Ngọc Bảo, 2005).
Giải pháp thứ ba: Không công nhận mại dâm là một nghề, nhưng thừa nhận đó là
hiện tượng xã hội không thể xóa bỏ triệt để, hoàn toàn. Tập trung áp dụng các biện pháp
hạn chế, phòng ngừa, giảm hại (truyền thông thay đổi hành vi, hỗ trợ cộng đồng). Đây là
những biện pháp nên làm khi không thể phủ nhận hay xóa bỏ thực tại. Đồng thời, phân
biệt rõ giữa các yếu tố “tệ nạn” (chỉ bị xử phạt hành chính) và yếu tố “tội phạm” (phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự) trong hoạt động mại dâm.
Hiện nay, giải pháp này đang được một số nước áp dụng dưới các biến thể khác
nhau, hoặc công khai, hoặc ngầm định, như là “con đường thứ ba”, trung hòa giữa 2 giải
pháp vừa “cực đoan”, vừa không khả thi / hiệu quả như đã nêu trên.
3. Dư luận xã hội về mại dâm và quản lý mại dâm
Tìm hiểu dư luận xã hội về mại dâm và quản lý mại dâm ở mỗi quốc gia là một
kênh thông tin tư vấn hữu ích trong việc quản lý hiện tượng xã hội này, cả ở trong nước
và trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu này còn khá ít.
Thái độ đối với mại dâm, việc hợp pháp hóa mại dâm ở Mỹ những năm 1970
- 19902.
Để tham khảo, dưới đây là những số liệu phản ánh dư luận xã hội ở Mỹ về mại dâm
qua các cuộc Tổng điều tra xã hội (General Social Survey - GSS) trong 3 thập niên 1970,
1980 và 1990. Nhìn chung, đa số công chúng ở Mỹ phản đối mại dâm và việc hợp pháp
hóa mại dâm. Tuy nhiên, chênh lệch giữa tỷ lệ phản đối và tỷ lệ ủng hộ là không lớn. Số
liệu từ Bảng 1 và Bảng 2 dưới đây cho thấy thái độ của người dân Mỹ đối với việc hợp
pháp hóa mại dâm và cách ứng xử với mại dâm ở Mỹ trong thời kỳ này.
Bảng 1. Thái độ của người dân Mỹ đối với việc Hợp pháp hóa mại dâm
Đơn vị: %
Thời gian 7/77 5-6/78 2/82 10/83 9/85 8-9/91 2-5/96 5/96*
GSS
Ủng hộ 49 47 29 53 23 40 45 26
Phản đối 45 30 63 43 72 55 52 70
Không biết 6 23 8 4 6 5 2 3
N 1.044 1.993 - 1.200 1.014 1.216 1.399 1.019
Chú thích: Cuộc điều tra này được thực hiện bởi Viện Gallup.
Nhìn chung, kết quả điều tra qua các năm cho thấy tỷ lệ ủng hộ hay phản đối việc hợp
pháp hóa mại dâm ở Mỹ dao động trong khoảng 40 - 55%, thiên một chút về phía phản đối.
Còn thái độ đối với khách mua dâm, với việc có nên công khai danh tính của họ hay
không, số ý kiến ủng hộ và ý kiến không ủng hộ là khá cân bằng theo tỷ lệ gần như 50/50.
Tháng 11/1978, khi hỏi 1.509 người: “Công khai danh tính khách mua dâm có
phải là sự xâm phạm sự riêng tư của cá nhân?”, 48,7% NĐH đồng ý với ý kiến này,
song cũng có 47,3% không cho là như vậy.
18 năm sau, vào tháng 01/1995, với câu 753 hỏi: “Công khai tên và ảnh khách
mua dâm có phải là là ý hay?”, 50% NĐH cho là nên làm như vậy, trong khi 45% lại
không đồng ý với việc này.
Rõ ràng, công chúng Mỹ đã có sự “phân đôi” ý kiến trong thái độ đối với mại dâm.
Đáng lưu ý là xu hướng “phân đôi” ý các kiến này cũng được gặp lại ở kết quả của nhiều
cuộc điều tra/trưng cầu ý kiến khác ở Mỹ và cả ở Việt Nam gần đây.
Dư luận xã hội về quản lý mại dâm ở Việt Nam
Về quan niệm của công chúng Việt Nam đối với hành vi mua/bán dâm, số liệu từ
2
Các số liệu và phân tích ở phần này được lấy từ Tom W. Smith (1998).
cuộc điều tra trong năm 2014 của đề tài KX02.08/11-153 cho thấy xu hướng phân đôi
“tương đối cân bằng” như vừa nhắc đến ở trên. Trong hai nhóm ý kiến đánh giá trái
ngược nhau thì 52,84% người được hỏi (NĐH) coi bán dâm là tội phạm, phần còn lại coi
họ là nạn nhân hoặc các loại khác. Đối với khách mua dâm, 50,5% NĐH coi họ là họ là
tội phạm, phần còn lại coi họ là khách hàng (Nguyễn Hữu Dũng, 2014).
Đối với nhóm thanh thiếu niên, số liệu từ Điều tra Quốc gia về Thanh niên và Vị
thành niên Việt Nam (SAVY 1 và 2) cho thấy chỉ hơn một nửa số thanh thiếu niên được
hỏi đồng ý với nhận định“Bán dâm là vô đạo đức” (56% trong SAVY 1 và 58% trong
SAVY 2) (UNFPA, 2010).
Về tính chất của tệ nạn mại dâm hiện nay, cũng có hơn một nửa (56,63%) số NĐH
hỏi đánh giá mại dâm là nghiêm trọng/rất/đặc biệt nghiêm trọng. Phần còn lại, 43,37%
đánh giá mại dâm là không hoặc ít nghiêm trọng. Tỷ lệ chênh lệch dạng này được thấy
phổ biến trong hầu hết các nhóm nhân khẩu - xã hội khác nhau thuộc mẫu nghiên cứu
(xem các dòng ở Bảng 3).
Bảng 3: Nhận định về tính chất của tệ nạn mại dâm
Đơn vị: %
Tính chất của tệ nạn mại dâm
Người trả lời Không Rất Đặc biệt
Ít nghiêm Nghiêm
nghiêm nghiêm nghiêm
trọng trọng
trọng trọng trọng
Theo giới tính
Nam 9,31 34,38 32,63 14,93 8,76
Nữ 10,29 32,74 26,33 19,14 11,50
Theo khu vực
Thành thị 11,15 36,19 26,86 16,76 9,05
Nông thôn 6,29 26,26 37,41 17,27 12,77
Theo đối tượng phỏng vấn
Người dân 9,56 31,19 29,56 18,18 11,51
Cán bộ 10,50 43,25 30,50 11,50 4,25
Theo độ tuổi
Từ 18 đến dưới 30 tuổi 13,87 35,04 29,93 13,87 7,30
Từ 30 đến dưới 45 tuổi 9,71 33,70 29,13 16,78 10,68
Trên 45 tuổi 8,60 33,20 30,16 17,61 10,43
Chung 9,75 33,62 29,75 16,83 10,05
Nguồn: Báo cáo tổng kết đề tài KX.02.08/11-1, Nguyễn Hữu Dũng, 2014.
3
Nguồn: Báo cáo Tổng kết Đề tài KX.02.08/11-15: “Tư duy mới về quản lý tệ nạn xã hội ở nước ta trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” (Chủ nhiệm: PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, 2014). Mẫu
điều tra: 2.000 người ở 4 tỉnh/thành (Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh) với
1.600 người dân và 400 cán bộ làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến quản lý tệ nạn xã hội.
Đáng chú ý là ở Bảng 3 trên, dù là ý kiến chung hay ý kiến của các nhóm nhân khẩu
- xã hội (thể hiện ở mỗi dòng trong bảng), đều được phân bổ theo xu hướng “dãn đều ra
cả 2 phía” và điều này gợi ra dạng “phân bố chuẩn N” trong lý thuyết thống kê toán.
Về các giải pháp quản lý mại dâm, cũng cuộc điều tra trên cho biết 31% NĐH cho
rằng “nên cấm hoàn toàn” hoạt động mại dâm, tức là thiên về “giải pháp thứ hai” theo
phân loại ở trên. Trái lại, khoảng 1/3 người được hỏi (33,63%) lại cho rằng “nên coi đó là
một nghề” hoặc “thừa nhận để quản lý”. Ngoài ra, hơn 1/4 số người được hỏi thiên về
chọn “giải pháp thứ nhất” - công nhận mại dâm và tập trung vào một khu vực để quản lý.
Đáng chú ý là, 8,28% cho rằng nên coi mại dâm là một "nghề" và có yêu cầu bắt buộc về
khám bệnh định kỳ, tiêu chuẩn an toàn và thu thuế. Những quan niệm này được sự ủng hộ
nhiều hơn bởi các nhóm NĐH trẻ, dân đô thị và nam giới. Đặc biệt, nhóm cán bộ (trong
các lĩnh vực có liên quan đến quản lý tệ nạn xã hội) có tới hơn một nửa số ý kiến ủng hộ
việc coi mại dâm là một nghề, thừa nhận và tập trung để quản lý.
Như vậy, ý kiến người dân (và cán bộ) về vấn đề quản lý mại dâm là khá phân hóa
(hay phân cực theo 2 giải pháp 1 & 2). Theo đó, sẽ khó có được sự đồng thuận xã hội
trong việc thừa nhận mại dâm về mặt pháp lý và coi mại dâm như một nghề. Mặt khác,
thực tế cũng cho thấy là mại dâm rất khó xóa bỏ triệt để. Đó là một hiện tượng xã hội mà
chúng ta phải tìm ra phương thức, hình thức và biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả và
lâu dài.
3. Thêm một luận chứng cho “Giải pháp thứ ba” trong quản lý mại dâm ở nước ta
hiện nay
Từ các phân tích “thiệt - hơn”, theo nhiều tiếp cận, đối với từng giải pháp quản lý
mại dâm, “giải pháp thứ ba” dường như đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
Ngay ở Việt Nam, những năm gần đây, nhiều chính sách, biện pháp quản lý mại dâm
dường như cũng đã có những yếu tố thiên về giải pháp này.
Các kết quả nghiên cứu dư luận xã hội về mại dâm và quản lý mại dâm
Các phân tích về thái độ hay dư luận xã hội nêu trên đã cho thấy hai xu hướng ý
kiến của công chúng đối với mại dâm và quản lý mại dâm như sau:
1. Có sự phân đôi “tương đối cân bằng” giữa 2 loại ý kiến đối lập nhau - chấp nhận
hay không chấp nhận mại dâm - với tương quan “4x% - 5x%”, nghiêng nhẹ về phía
không chấp nhận. Điều này dường như phản ánh một sự “giằng co” giữa 2 luồng ý kiến
trái chiều trong đánh giá thực trạng và chính sách quản lý mại dâm.
2. Khi sử dụng thang đánh giá đối xứng, phân bố các ý kiến gợi ra hình ảnh gần với
phân phối chuẩn N - một quy luật phân phối phổ biến trong thế giới tự nhiên và xã hội,
với sự phân tán các ý kiến về cả 2 phía của giá trị trung bình mà không lệch hẳn về một
phía/cực nào.
Ở đây, thái độ chủ quan của số đông công chúng đã phản ánh một cách khách
quan tính chất phổ biến và đa chiều của hiện tượng cũng như cách xử l ý đối với mại
dâm. Từ đây, các chính sách quản lý mại dâm cũng không thể và không nên cực đoan
hóa, thiên về một cực nào của hiện tượng, như hợp pháp hóa (giải pháp 1) hay hình sự
hóa (giải pháp 2) vấn đề. Điều này cũng được hỗ trợ bởi những phân tích từ các tiếp
cận khác nhau đối với mại dâm như xã hội học, kinh tế, đạo đức, pháp luật trong bối
cảnh xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, quan điểm về “Giải pháp thứ ba” này và các chính sách, biện pháp tương
ứng vẫn cần được luận chứng một cách đầy đủ và chặt chẽ hơn, để có thể khẳng định và
vận dụng vào thực tiễn một cách công khai hoặc ngầm định.
4. Một số khuyến nghị
Với tất cả luận chứng về 3 giải pháp quản lý mại dâm đã nêu ở trên, phát hiện mới
từ kết quả khảo sát về dư luận xã hội đối với mại dâm và quản lý mại dâm sẽ góp thêm
một luận chứng rằng “Giải pháp thứ ba” (với các biến thể cần thiết của nó) sẽ là giải pháp
thích hợp nhất để quản lý mại dâm ở nước ta hiện nay.
Giải pháp này khẳng định những quan điểm nguyên tắc khác với hai giải pháp “cực
đoan” 1 và 2 như sau:
1. Không công nhận, không hợp pháp hóa mại dâm, không coi mại dâm là một nghề,
không thành lập các “Khu đèn đỏ” và cũng không “hình sự hóa” mại dâm nói chung.
2. Chấp nhận/thừa nhận một thực tế: mại dâm là một hiện tượng tự nhiên - xã hội
nhiều chiều cạnh, phức tạp, tồn tại khách quan, và vì thế rất khó (thậm chí không thể) xóa
bỏ hoàn toàn bằng các quyết định quản lý duy ý chí cứng nhắc.
Giải pháp này có thể gọi tên là Giải pháp “Phòng ngừa và giảm hại”, với phương
châm: phòng ngừa, hạn chế và giảm tác hại đối với các cá nhân, cộng đồng và xã hội. Nó
đòi hỏi phải tăng cường:
• Các chương tình, dự án, hoạt động, các mô hình can thiệp giảm tác hại của mại
dâm đối với các cá nhân, cộng đồng và xã hội, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS và các
bệnh lây truyền qua đường tình dục- như các tổ chức phi chính phủ và ngành y tế, y tế
công cộng đã và đang làm hiện nay.
• Các hoạt động truyền thông và tư vấn thích hợp để những người “trong cuộc”
nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, từ bỏ mại dâm; còn những người “ngoài cuộc” thì
không bị dẫn dắt vào con đường này.
• Các hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện để những người đã từ bỏ/ muốn từ bỏ mại dâm
hòa nhập cộng đồng.
• Đi kèm theo đó, tiếp tục phân định rõ ràng hơn những yếu tố “tệ nạn xã hội”
và những yếu tố cấu thành “tội phạm” hay các “tội danh” liên quan tới mại dâm như:
tổ chức, chứa chấp, môi giới, dụ giỗ, cưỡng ép làm mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ
em vào hoạt động mại dâm và kiên quyết xử lý những hành vi này theo quy định của
pháp luật.