Professional Documents
Culture Documents
LSVMTG
LSVMTG
LSVMTG
(2 TÍN CHỈ)
BUỔI 1:
BÀI MỞ ĐẦU
1. Khái niệm về Văn minh
1.1. Từ nguyên (nguồn gốc từ):
Trong các ngôn ngữ phương Tây, như tiếng Anh (civilization), tiếng Pháp… từ “văn minh”
(civilisation) bắt nguồn từ tiếng La tinh: “Civitas” mang nghĩa thành thị, thành bang. Ngoài ra
nó còn có nghĩa là hoạt động khai hóa làm thoát khỏi trạng thái nguyên thủy.
Trong các ngôn ngữ phương Đông, “văn minh” giải thích theo lối chiết tự thì “văn” nghĩa là đẹp,
vẻ đẹp, “minh” nghĩa là sáng. “Văn minh” tức là “vẻ đẹp được tỏa sáng”.
1.2. Khái niệm:
“Văn minh là những giá trị văn hóa (chủ yếu là về phương diện vật chất) phát triển ở trình độ
cao, có sức tỏa sáng trong không gian và thời gian”. Nói cách khác, Văn minh là chỉ trạng thái
tiến bộ cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao
của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man. Như vậy khi định nghĩa văn minh, người ta cần
phải tìm hiểu khái niệm về “văn hóa”.
2. Khái niệm về Văn hóa
2.1. Từ nguyên:
Trong các ngôn ngữ phương Tây như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga… từ “văn
hóa” cũng có nguồn gốc từ tiếng Latinh: cultus-nghĩa là trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm…
Đến giữa thế kỉ XIX, do sự phát triển của các ngành nhân loại học, xã hội học, dân tộc
học…khái niệm văn hóa đã thay đổi. Người đầu tiên đưa ra định nghĩa mới về văn hóa là E.B.
Taylor - nhà nhân loại học người Anh. Ông viết “Văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm tri
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực, thói quen mà
con người đạt được trong xã hội”. Sau đó, các học giả đã đưa ra nhiều khái niệm về văn hóa.
Trên cơ sở ấy, người Nhật Bản đã dùng hai chữ “văn hóa” để dịch chữ “culture” của phương
Tây.
Trong các ngôn ngữ phương Đông, văn hóa là một từ gốc Hán. “Văn” là “vẻ đẹp”, “nét đẹp”,
“hóa” là “giáo hóa”, “biến đổi”. “Văn hóa” tức là “làm cho đẹp”, “trở thành đẹp”. Từ “văn hóa”
được nêu ra lần đầu tiên bởi Lưu Hướng thời Tây Hán. Đó là cách nói rút gọn của câu “dĩ văn trị
nhi giáo hóa”, tức lấy “văn” để giáo hóa con người.
Cho tới nay, có tới 160 loại định nghĩa về văn hóa. Hầu hết các học giả đều cho rằng: “văn
hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch
sử”.
Như vậy, sự xuất hiện của văn hóa gắn liền với xuất hiện của loài người. Con người sáng tạo
ra văn hóa, bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần như nghệ thuật, tôn giáo, pháp
luật, phong tục…Trên cơ sở ấy, nền văn hóa nguyên thủy, đến một giai đoạn nhất định, loài
người mới tiến vào thời kì văn minh.
Văn hóa và văn minh đều là những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra
trong tiến trình lịch sử, nhưng văn hóa và văn minh khác nhau ở chỗ văn hóa là toàn bộ những
giá trị mà loài người sáng tạo ra từ khi loài người ra đời đến nay, còn văn minh chỉ là những giá
trị mà loài người sáng tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã hội. Đó là giai đoạn có nhà
nước. Thông thường vào thời kì thành lập nhà nước thì chữ viết cũng xuất hiện, do đó văn hóa
có một bước phát triển nhảy vọt. Tuy nhiên, do hoàn cảnh cụ thể, có một số nơi, khi nhà nước ra
đời vẫn chưa có chữ viết, nhưng đó là những trường hợp không điển hình.
3. Khái niệm văn hiến
Đây là khái niệm chỉ tồn tại trong các ngôn ngữ phương Đông. Có thể hiểu “văn” = đẹp,
“hiến” = hiền tài hay văn hiến là những truyền thống văn hóa lâu đời. Trong Bình Ngô đại cáo,
Nguyễn Trãi từng viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến từ lâu”. Khổng
Tử viết: “Lễ của đời Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ (nước còn bảo tồn lễ của đời Hạ)
không đủ chứng minh; lễ của đời Ân, ta có thể nói được, nhưng nước Tống (nước còn bảo tồn lễ
của đời Ân) không đủ chứng minh. Đó là vì văn hiến không đủ, nếu đủ thì ta có thể chứng minh”
(Luận ngữ). Như vậy, văn hiến là một thuật ngữ chỉ chung sử sách và các chế độ chính sách. Có
sử sách tức là đã bước vào thời kì văn minh, do đó trước đây, dưới thời phong kiến, khi chưa có
chữ văn minh với nghĩa như ngày nay, chữ văn hiến thực chất là văn minh. Và vì thế, câu “như
nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” có nghĩa là nước Đại Việt cũng là một
nước văn minh.
4. Phƣơng pháp tiếp cận một nền văn minh
- Cần tiếp cận bằng phương pháp sử học: tức là nhìn nền văn minh đó theo tiến trình lịch sử từ
phát sinh, hình thành, phát triển và lụi tàn (nếu có).
- Cần làm rõ năm vấn đề chính:
+ Cơ sở hình thành: bao gồm điều kiện tự nhiên, đặc điểm cư dân
+ Lịch sử hình thành và phát triển.
+ Trình độ tổ chức sản xuất
+ Trình độ quản lý xã hội
+ Các thành tựu đạt được và đặc điểm của nền văn minh đó
5. Các dạng thức văn minh trên thế giới:
Có 4 dạng thức văn minh mà loài người đã và đang trải qua, gồm: văn minh nông nghiệp,
văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp và văn minh công nghệ 4.0 (hay văn minh trí
tuệ nhân tạo).