Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

BÀI TÌM HIỂU: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG NỢ TRONG DOANH NGHIỆP:

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG


NỘI DUNG

I. Khái niệm
II. Phân loại
III. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
IV. Quy trình tín dụng
V. Thực trạng tín dụng ngân hàng tại Việt Nam

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

1. Nguyễn Thanh Chương

2. Nguyễn Thị Dung

3. Nguyễn Thị Hảo

4. Thạch Thị Mai

5. Nguyễn Mi My

6. Nguyễn Thị Mai Phương

7. Nguyễn Minh Trí

8. Nguyễn Thị Phương Thảo

9. Nguyễn Hà Thủy

1
I. KHÁI NIỆM
Tín dụng( hay cho vay) là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (Ngân
hàng thương mại) sang người sử dụng (người vay), sau một thời gian nhất định lại quay về với
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
- Chủ thể tham gia: 1 bên là ngân hàng, 1 bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế như doanh
nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Đối tượng: Chủ yếu là tiền tệ, có khi là tài sản.
- Thời hạn: Rất linh hoạt, bao gồm cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Công cụ: Rất linh hoạt (kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các hợp đồng tín dụng…
- Tính chất: Là hình thức tín dụng mang tính gián tiếp, trong đó ngân hàng là trung gian giữa
những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng.

II. PHÂN LOẠI


Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tín dụng của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều
loại hình tín dụng khác nhau. Việc áp dụng hình thức tín dụng nào là tùy thuộc vào đặc điểm
kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản lý vốn tín dụng có hiệu quả và
phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng.
Trên thực tế việc phân loại cho vay theo các tiêu thức sau:
a. Phân theo mục đích sử dụng vốn
- Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp
- Tín dụng tiêu dùng cá nhân
- Tín dụng mua bán bất động sản
- Tín dụng sản xuất nông nghiệp
- Tín dụng kinh doanh xuất nhập khẩu
b. Phân loại theo thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của loại cho vay này
thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
- Tín dụng trung dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 năm. Mục đích của loại cho vay này
là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư vào các dự án đầu tư.

 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng vào
nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh
nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân.

2
 Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu
cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công
trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.

 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp vốn
cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

 Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần
vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
c. Phân loại theo mức độ tín nhiệm của khách hàng
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh
của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
- Tín dụng có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp,
cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
d. Phân loại theo phương thức cho vay
- Cho vay từng lần
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
e. Phân loại theo phương thức hoàn trả nợ vay
- Tín dụng trả nợ một lần khi đáo hạn
- Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ, cho vay trả góp
- Tín dụng trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy theo khả năng của khách
hàng để trả nợ bất cứ lúc nào

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

1. Nguyên tắc vay vốn


- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng:
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên, ngân hàng và khách hàng thỏa thuận
và ghi vào trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm
đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ sau này. Do vậy, về phía ngân hàng
trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách hàng, đồng thời phải kiểm tra
xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã cam kết hay không. Điều này rất
quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
thu hồi nợ vay sau này. Việc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến thất
thoát và lãng phí khiến vốn vay không tạo ra được ngân lưu để trả nợ cho ngân hàng.

3
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn vay, đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. Từ
đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ vay vốn giữa khách
hàng và ngân hàng sau này.
- Phải hoàn trả gốc và lãi đúng hạn:
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho
vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để
cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng
gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời gian nhất định, khách hàng vay tiền phải hoàn trả
lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền.
Hơn nữa, bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử
dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả , cả gốc và lãi.

2. Điều kiện vay vốn


- Địa vị pháp lý của khách hàng vay vốn: Khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo Luật dân sự.
- Có khả năng tài chính và trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có tài liệu chứng minh khả năng sử dụng vốn vay phù hợp với qui định của pháp luật (ví dụ
như có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt) và khả năng hoàn trả vốn vay.

3. Đối tượng cho vay


Đối tượng cho vay của ngân hàng thương mại là các tổ chức cá nhân có nhu cầu vốn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng… Theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng: Tổ
chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn để thực hiện các việc sau:
- Mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán
chuyển nhượng, chuyển đổi.
- Thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm.
- Đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm.
 Đối tượng không được vay
- Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc của ngân
hàng
-Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc,
phó tổng giám đốc của ngân hàng

4
4. Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoản thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận khoảng tiền
vay đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ vay bao gồm gốc và lãi vay đã được thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa NHTM và khách hàng (bên đi vay). Thường rất linh hoạt, bao gồm cả
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Căn cứ để xác định thời hạn cho vay:
a- Dựa vào đặc điểm và chu kỳ hoạt động tương ứng với các nghiệp vụ kinh doanh của người đi
vay:
Chu kỳ hoạt động là khoảng thời gian từ khi mua nguyên vật liệu, đưa nguyên vật liệu
vào sản xuất ra sản phẩm cho tới khi tiêu thụ sản phẩm thu được tiền bán hàng để bù đắp chi phí
và tiếp tục chu kỳ hoạt động kế tiếp. Chu kỳ hoạt động tương ứng với các nghiệp vụ kinh doanh
của khách hàng bao gồm: Mua nguyên vật liệu, dự trữ, sản xuất, dự trữ,tiêu thụ sản phẩm.
Độ dài thời gian của chu kỳ hoạt động tùy theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Đặc
điểm này có tính chất quyết định đến luồng tiền ra và vào của khách hàng về số lượng và thời
gian và do đó nó ảnh hưởng đến khả năng cân đối nguồn để trả nợ vay ngân hàng. Nói cách khác
đặc điểm và chu kỳ hoạt động kinh doanh của khách hàng ảnh hưởng đến chu kỳ ngân quỹ, từ đó
ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ cho ngân hàng.
b- Đặc điểm đối tượng vay vốn và mục đích vay vốn của khách hàng:
Mục đích vay vốn của khách hàng nhằm bù đắp những thiếu hụt trong quá trình hoạt
động, tuỳ theo nhu cầu đầu vào của quá trình hoạt động, khách hàng vay vốn có thể đầu tư mua
sắm TSCĐ hoặc mua sắm vật tư, hàng hóa (TSLĐ) gọi tắt là “đối tượng vay vốn”. Do đó khi có
nhu cầu vay khách hàng phải có giấy đề nghị vay vốn trong đó xác định rõ mục đích vay vốn và
nhu cầu vay vốn ngân hàng.
Đối tượng vay vốn tham gia vào chu kỳ hoạt động của khách hàng, giá trị của nó được
chuyển dịch toàn phần (TSLĐ) hay chuyển dịch một phần (TSCĐ) vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ và là một bộ phận tạo nên giá thành sản phẩm. Khi chu kỳ ngân quỹ kết thúc đó
là lúc khách hàng có nguồn thu để bù đắp chi phí. Do vậy, nghiên cứu đặc điểm đối tượng vay
vốn của khách hàng để có biện pháp quản lý, tính toán xác định thời hạn cho vay phù hợp với
đặc điểm luân chuyển vốn của đối tượng vay. Về nguyên tắc khách hàng phải sử dụng tiền vay
đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, đây là căn cứ để ngân hàng kiểm tra tình hình sử dụng
vốn vay của khách hàng.
c- Thời hạn cho vay dựa vào thời gian hoàn vốn đầu tư của dự án, phương án đầu tư:
Thời gian hoàn vốn đầu tư là thời gian cần thiết để dự án, phương án hoạt động thu hồi
đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là thời gian để hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các
khoản lợi nhuận và khấu hao thu hồi hàng năm. Do đối tượng vay vốn tham gia vào quá trình
luân chuyển vốn của dự án, phương án đầu tư nên thời hạn hoàn vốn của dự án là cơ sở để ngân
hàng xác định thời hạn cho vay phù hợp để thu hồi được nợ vay khi đến hạn.
d- Khả năng cân đối nguồn vốn cho vay của ngân hàng:

5
Khả năng cân đối nguồn vốn cho vay phụ thuộc vào khả năng cung ứng nguồn vốn của
ngân hàng và khả năng cân đối nguồn vốn để đảm bảo khả năng thanh toán. Khi cân đối nguồn
vốn, các ngân hàng phải chú trọng đến sự cân đối giữa nguồn vốn huy động để cho vay của ngân
hàng và nhu cầu vay vốn của khách hàng về cơ cấu nguồn vốn và loại tiền sử dụng.
Sự tác động của các nhân tố như công tác quản trị ngân hàng, đạo đức nghề nghiệp, trình
độ chuyên môn của cán bộ tín dụng, khách hàng. Nếu công tác quản trị ngân hàng chưa tốt, cán
bộ tín dụng chưa đáp ứng nhu cầu chuyên môn và đạo đức kém, khách hàng che dấu thông tin….
thì việc xác định thời hạn cho vay không chính xác, không phù hợp với thời gian hoàn vốn của
dự án, phương án đầu tư và kết quả là các khoản vốn vay khó trả nợ đúng hạn.

5. Vai trò của tín dụng ngân hàng


 Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là người trung gian điều
hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã thông dòng cho
vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.

Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nền
sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy hàng hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức
tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế xã hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá
ra đời và được mở rộng xã kéo theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức kinh
doanh tiền tệ đầu tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng.

Vì vậy, chúng ta thấy rằng còn tồn tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt động tín dụng không thể
mất đi mà trái lại ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi trong nền kinh tế, tại một thời
điểm tất yếu sẽ phát sinh hai loại nhu cầu là người thừa vốn cho vay để hưởng lãi và người thiếu
vốn đi vay để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau nhưng cũng
chung một đối tượng đó là tiền, chung nhau về tính tạm thời và cả hai bên đều thoả mãn nhu cầu
và đều có lợi. Ngân hàng ra đời với vai trò là nơi hiểu biết rõ nhất về tình hình cân đối giữa cung
và cầu vốn trên thị trường như thế nào.Và với hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giải quyết được
hiện tượng thừa vốn, thiếu vốn này bằng cách huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại
vốn trên nguyên tắc có hoàn trả phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh...

 Tín dụng ngân hàng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất được thực hiện bình
thường liên tục và phát triển nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình tái ẩn xuất mở rộng,
đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng phạm vi quy mô sản xuất

Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã
hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, động viên nhanh chóng nguồn
vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn có khác đưa vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu
thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách
kịp thời của tín dụng ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh tình trạng ứ tắc, đồng thời
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm thúc
đẩy nhanh quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triênr nhanh
chóng.

6
 Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng cố chế độ hoạch toán
kinh tế.

Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức Ngân hàng huy động vốn của
doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần vốn để bổ xung cho sản xuất kinh
doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong
hợp đồng tín dụng, trả nợ vay đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm
mọi biện pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... để tạo điều kiện
nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông qua
các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khá quan trọng là hạch toán kinh tế.

Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lí đồng vốn sao cho có hiệu quả. Để quản lí đồng
vốn có hiệu quả thì hạch toán tinh tế phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn để nó được sử
dụng đúng mục đích, tạo ra doanh lợi cho doanh nghiệp. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp
ngày càng hoàn thiện hơn quá trình hạch toán của đơn vị mình.

 Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại.

Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ kinh tế với thị trường thế
giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay đã nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát
triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.

Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh tế chính trị ổn định, có vị
thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong đó vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng.
Tín dụng ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau
bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ
chức cá nhân với chính phủ, giữa các cá nhân với cá nhân...Sự phát triển ngày càng tăng trong
hoạt động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động ngaỳ càng lớn làm cho nhu cầu về
hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết. Vì vậy việc tạo điều kiện thuận lợi về tài chính là một
công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác như giá cả, chất lượng sản
phẩm, dịch vụ, thương mại... đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước ra phạm vi của thế giới có
tác dụng thúc đẩy nền sản xuất mang tính quốc tế hoá, hình thành thị trường khu vực và thị
trường thế giới, tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với
nhau. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng
trong thương mại, tạo điều kiện cho quá trình lưu thông hàng hoá, thắng trong cạnh tranh về
thanh toán sẽ dẫn tới thắng lợi của mọi cạnh tranh khác trọng hoạt động ngoại thương.

6. Ưu, nhược điểm của tín dụng ngân hàng


Ưu điểm:

 Về chủ thể - rất linh hoạt, rộng lớn, bao gồm doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân,
các tổ chức xã hội. Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là
người cho vay. Với tư cách người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà
doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động
vốn trong xã hội. Với tư cách người cho vay, ngân hàng cung cấp tín dụng cho
các nhà doanh nghiệp, cá nhân,

7
 Là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau, nó có
thể thỏa mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục
đích sử dụng. Ko chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa,
trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp
vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng
cá nhân.
 Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì những doanh nghiệp này chưa có điều kiện
tham gia vào thị trường vốn trực tiếp.
 Góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp.
 Được sử dụng như là công cụ quan trọng để phát triển các ngành kinh tế chiến
lược theo yêu cầu của chính phủ.
 Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng, việc thắt
chặt hay nới lỏng cung tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ
thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình nền kinh tế.
Nhược điểm:

 Thủ tục cấp vốn còn chậm, rườm rà, mất nhiều thời gian và công sức của người đi vay.
 Thông tin về tài chính của cá nhân, doanh nghiệp, của ngân hàng không được thông suốt
và cập nhật, khối lượng thông tin chưa được đầy đủ, cho nên chưa đáp ứng được tốt nhu
cầu thông tin của các bên để đánh giá, thẩm định khoản vay và kiểm soát chất lượng tín
dụng còn hạn chế.
 Việc quản lý không tốt năng lực trả nợ của người đi vay có thể dẫn tới tình trạng nợ xấu,
nợ khó đòi.

IV. QUY TRÌNH TÍN DỤNG


Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn:

Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Một bộ hồ sơ vay vốn
cần có những thông tin như:

- Năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng

- Mục đích sử dụng vốn vay

- Khả năng hoàn trả nợ vay( vốn + lãi)

Bước 2 : Phân tích trước khi cấp tín dụng.

Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ
yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay
và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều
kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.

8
Bằng các phương pháp như : phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung
gian(qua các cơ quan quản lý, qua cac bạn hàng chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm
thông tin hoặc tư vấn), thông qua các báo cáo của người vay trính cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ
có được những thông tin về khách hàng của mình, một điều quan trọng đối với Ngân hàng là
phải xử lý được các thông tin đó, làm sao phải xác định được tín trung thực của những thông tin
mà Ngân hàng có được.

Nội dung phân tích chủ yếu của bước này là phải tập trung vào:

 Đánh giá tài sản của khách hàng, việc đánh giá tài sản của khách hàng là điều quan trọng
đối với Ngân hàng bởi vì tài sản(một phần hoặc tất cả) của khách hàng luôn được coi là vật đảm
bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời. Khi đánh giá
tài sản của khách hàng thì Ngân hàng tập trung vào: Ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng tồn
kho, tài sản cố định.
 Đánh giá các khoản nợ của khách hàng là một công việc quan trọng mà Ngân hàng cần
phải làm bởi vì thông qua việc đánh giá các khoản nợ mà Ngân hàng biết được tình khả năng tài
chính của khách hàng, đồng thời Ngân hàng cũng biết được vị trí của mình trong các chủ nợ.
Nếu Ngân hàng giành được vị trí quan trọng nhất thì nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí
khác.
 Phân tích luồng tiền: Thông qua việc xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ(gồm:
dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, dòng tiền
nhập quỹ từ hoạt động bất thường) và dòng tiền thực xuất quỹ( gồm: dòng tiền xuất quỹ thực
hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt
động bất thường) Ngân hàng có thể biết được tình trạng ngân quỹ của khách hàng trong tháng,
quý, hay năm. Từ đó Ngân hàng có thể thiết lập kế hoạch thu nợ, giải ngân hợp lý, nâng cao chất
lượng khoản vay.
 Sử dụng các tỷ lệ như: Nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời để đánh giá khả năng
của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn và khả năng tạo lợi nhuận của
người vay.
 Các điều kiện kinh tế: Có thể thấy nghĩa vụ của khách hàng đối với Ngân hàng đều xảy ra
trong tương lai vì thế khả năng hoạt động kinh doanh của khách hàng trong tương lai được Ngân
hàng đặc biệt quan tâm phân tích. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác
động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng
hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi các tính toán ban đầu,
dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng.

Bươc 3: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.

Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ(khách hàng) và ngân
hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng(hoặc
hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản
mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời
phải tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. So vậy, cả Ngân hàng và khách hàng
phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng.

9
Nội dung của hợp đồng tín dụng gồm những khoản mục chính là: Họ tên, địa chỉ của khách
hàng; mục đích sử dụng vốn; số lượng tín dụng; lãi suất; phí; thời hạn tín dụng; các loại bảo
đảm; kế hoạch giải ngân; điều kiện thanh toán và các điều kiện khác.

Bước 4: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.

Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách
hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng sử dụng tiền
vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất
lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không?... Quá trình này cho phép ngân hàng
thu thập thêm thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất
lượng tín dụng đang được bảo đảm. Ngược lại khi các khoản vay bị đe doạ Ngân hàng có các
biện pháp sử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên
vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thế chấp,
giảm số tiền vay... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đây cũng là quá trình ngân
hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra quyết định cụ thể
nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.

Bước 5: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.

Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Ngoài những khoản tín dụng
được đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn còn có những khoản nợ quá hạn đòi hỏi Ngân hàng phải
tìm ra nguyên nhân để kịp thời đưa ra những quyết định mới liên quan đến tín an toàn của tín
dụng.

 Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn
yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng
các biện pháp có thể được để thu hồi được khoản nợ, bao gồm phong toả, bán các tài sản thế
chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...
 Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc
phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi
hoặc cho vay thêm.

V. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

1. Thực trạng về hoạt động tín dụng

a) Đánh giá về hoạt động tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tín dụng cũng được mở rộng và
phát triển đa dạng, hình thức phong phú. Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể là chủ thể tham
gia tín dụng. Các quan hệ tín dụng cũng được mở rộng. Các hệ thống ngân hàng và các tổ chức

10
tín dụng có mặt ở hầu hết mọi nơi. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có vai trò quan trọng trong
việc huy động và cho vay vốn tới các thành phần kinh tế
 Thành tựu
- Tăng mạnh về quy mô-đa dạng về dịch vụ
Từ năm 2001 trở đi, hệ thống các ngân hàng thương mại đã tăng nhanh về cả số lượng va loại
hìn h; nhất là từ 2007, mạng lưới chi nhánh, sở giao dịch NHTM phát triển nhanh. Tính đến năm
2009, hệ thống các TCTD đã có 5 NHTM Nhà nước với 1203 chi nhánh cấp 1 và sở giao dịch,
39 NHTMCP với 898 chi nhánh cấp 1 và sở giao dịch, 40 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5
ngân hàng lien doanh; 17 công ty tài chính; 13 công ty cho thuê tài chính; 53 văn phòng đại diện
ngân hàng nước ngoài tại VIệt Nam, 1 Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và gần 1000 quỹ tín
dụng Nhân đân cơ sở. Mạng lưới NHTM không ngừng mở rộng thị trường trong nước mà còn có
những bước tiến lớn trong việc phát triển mạng lưới sang một số thị trường quốc tế
Ngoài ra, các loại dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng đa dạng, ngay trong lĩnh vực tín dụng và
huy động vốn. Ngoài các hoat động tín dụng truyền thống để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh, xuất nhập khẩu, các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp nông
thông... thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng đã phát triển nhanh hơn những năm trước.
Trong hoạt động huy động vốn, các NHTM cũng rất chú trọng đến nguồn vốn từ dân cư, đến
năm 2009, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư của các NHTM chiếm 48 % tổng nguồn tiền
gửi
Bên cạnh đó, các TCTD cũng đang phát triển rất mạnh các dịch vụ trên cơ sở công nghệ
hiện đại, ví dụ như dịch vụ thẻ. Tính đến cuối tháng 6/2009 đã có 17 triệu thẻ được phát hành.
Hai hệ thống xử lý chuyển mạch thẻ lớn nhất là Banknetvn và Smartlink đã được kết nối liên
thông với năng lực xử lý cho hầu hết lượng thẻ phát hành trên thị trường thẻ.

- Tăng cường năng lực quản trị

11
 Hạn chế

Tăng trưởng tín dụng từ năm 2008 đến 2012. Nguồn: NHNN.
- Một là, gia tăng rủi ro hệ thống 
Kể từ cuối năm 2008 đến nay, nền kinh tế phải đối mặt với một số bất cập. Đó là chất lượng tăng
trưởng không cao, năng suất và hiệu quả đầu tư thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu, kết cấu
hạ tầng trở thành điểm ngẽn của nền kinh tế. Lạm phát lên xuống thất thườngiv, sau năm 2007,
tăng trưởng kinh tế giảm xuống dưới mức tiềm năng, năm 2012 là 5,03%. Trong bối cảnh kinh tế
suy giảm, các chính sách kinh tế - tài chính – ngân hàng được điều chỉnh theo hướng kiểm soát
được lạm phát, nhưng lại ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tài chính. Tính chủ động và
tiên liệu trong đầu tư, kinh doanh thấp. Điều này đã tác động lớn đến sự ổn định của hệ thống,
làm cho rủi ro và mức độ tổn thương của hệ thống ngân hàng ở một số khía cạnh.

12
Thời gian qua, mặc dù tín dụng giảm mạnh, năm 2012, con số này là 8,91%; 6 tháng đầu năm
2013 tín dụng mới chỉ tăng 3,31%v  so với chỉ tiêu cả năm là 12%. Kinh tế suy giảm, chính sách
tài chính, tiền tệ thực hiện theo hướng thắt chặt, nhưng chất lượng tín dụng bị giảm sút, biểu hiện
rõ nhất là nợ xấu, nợ quá hạn tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, ngoài nguyên
nhân bất ổn kinh tế tác động, thì phải kể đến một số nguyên nhân từ chính các NHTM, như cho
vay chưa thực sự gắn với năng lực quản lý và sử dụng vốn vay… Một số khách hàng có dư nợ
tín dụng lớn, nhưng sử dụng vốn kém hiệu quả, trong khi nhiều DNVVN kinh doanh hiệu quả
hơn, lại thiếu vốn sản xuất kinh doanh, phải thu hẹp sản xuất,...Dẫn đến nhiều khách hàng không
trả được nợ ngân hàng. Mặt khác, nợ xấu tăng trong thời gian qua cũng gắn với cho vay bất động
sản (BĐS), trong khi vốn huy động chủ yếu ngắn hạn và không kỳ hạn, nhưng cho vay trung và
dài hạn thường chiếm tỷ lệ cao (40 -50%), trong đó có ngân hàng tỷ lệ này lên tới 60%-70%.
Như vậy rủi ro tín dụng, rủi ro kỳ hạn là điều khó tránh khỏi.
                                   
- Hai là, rủi ro do suy giảm niềm tin
Lạm phát tăng đã kéo theo lãi suất huy động và cho vay tăng (lãi suất cho vay khoảng  20%-
25%/năm ở một số thời điểm), lãi suất trên thị trường 1 và 2 tăng cao trong giai đoạn 2008–2011.
Điều này cho thấy một số NHTM thực sự khó khăn về thanh khoản ở giai đoàn này. Tình trạng
NHTM yếu kém lại dẫn dắt thị trường, buộc các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh phải
theo, nếu không muốn mất khách hàng và giảm thị phần.

Do kinh tế suy thoái, sản xuất kinh doanh giảm sút, hàng tồn kho tăng cao, cầu có khả năng
thanh toán yếu, nên phải sử dụng các biện pháp hành chính để can thiệp trực tiếp vào hoạt động
ngân hàng, nhưng can thiệp bao lâu, ở mức nào... sau đó nhanh chóng chuyển sang các biện pháp
kinh tế là vấn đề cần được rút kinh nghiệm. Việc lạm dụng tác động tức thì của biện pháp hành
chính đã tạo ra việc lách quy định từ phía các NHTM ở một số lĩnh vực: tiền gửi, tiền vay, phái
sinh lãi suất, tỷ giá... Điều này không chỉ tạo ra sự lơi lỏng trong kỷ luật tài chính, mà còn khó
khăn cho NHNN trong việc giảm lãi suất cho vay. Năm 2012 đến nay, NHNN đã 8 lần điều
chỉnh giảm trần lãi suất huy động, nhưng lúc này, công cụ lãi suất hầu như tác động chưa nhiều
đến đầu tư. DN thiếu vốn cũng chưa muốn vay ngân hàng, ngân hàng “nhìn” DN đôi khi cũng
thiếu thiện cảm. Hậu quả là DN vay vốn không trả được nợ đúng hạn lại “bất hợp tác” trong việc
thực hiện nghĩa vụ nợ. Ngân hàng cũng không dám tin vào DN, nên cho vay buộc phải có bảo
đảm bằng tài sản. Đây là những lỗ hổng lớn do suy giảm niềm tin gây ra.

Vài năm gần đây, các cơn “sốt” nóng, lạnh về BĐS, chứng khoán, xăng dầu,... là những “minh
chứng rõ nét về sự méo mó của thị trường trong việc phân bổ nguồn vốn đầu tư”vi.Thị trường
chứng khoán biến động thất thường không hẳn do kết quả sản xuất kinh doanh của các DN niêm
yết kém, mà chủ yếu chịu tác động bởi yếu tố tài chính hành vi. Thị trường BĐS phụ thuộc
không nhỏ vào yếu tố cung cầu tín dụng. Khi thị trường BĐS hưng thịnh thì vai trò của NHTM
rất lớn, khi thị trường BĐS đóng băng, thì một trong những nguyên nhân sâu xa cũng từ  NHTM.
Thị trường tài chính bất ổn, nền kinh tế không ổn định, thì hệ thống ngân hàng cũng bất ổn. Khắc
phục tình trạng này, không có cách nào khác là phải đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu NHTM.

- Các loại cho vay của các ngân hàng mới chỉ đáp ứng phần nào nhu câu của khách hàng, số
lượng sản phẩm quá ít ỏi so với các ngân hàng thương mại thế giới.

13
- Tín dụng ngân hàng phục vụ những đối tượng chính sách đạt được những kết quả đáng khích
lệ nhưng còn tồn tại một số vướng mắc như khả năng thu hồi vốn rất thấp, nợ quá hạn ngày
càng gia tăng. Điều này làm suy yếu năng lực tài chính của NHTM mà nguy hại hơn là hình
thành tư tưởng ỷ lại cho một bộ phận dân cư.
- Ngoài ra còn một số khó khăn về cán bộ tín dụng, tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng hiện
nay hay trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa.
- Tình trạng thông tin bất cân xứng là phổ biến

a) Kết quả tại một số ngân hàng thương mại


Thứ nhất :một số NHTM đã thực hiện tách các chức năng quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro,
quyết định tín dụng, quản lý nợ.Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng
thương mại đã được tách bạch
Thứ hai: Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng (TCTD) và Quyết định
số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được chia thành 5 nhóm: với nợ từ loại 3 đến 5 là
nợ xấu; còn nợ nhóm 1 - nợ thông thường - trích dự phòng 0%; nợ nhóm 2 - nợ cần chú ý - trích
dự phòng 5%.
Thứ ba.Các ngân hàng đã cải tiến thủ tục, nhanh chóng thẩm định dự án một cách chính xác góp
phần đẩy lùi tình trạng “cò” tín dụng.Các ngân hàng đã đầu tư hệ thống công nghệ,tập trung dữ
liệu khách hàng của các chi nhánh, giúp cấp quản lý có thể kiểm soát được quá trình thẩm định
tìm ra những khách hàng tiềm năng.Với những khách hàng vay vốn có uy tín các ngân hàng áp
dụng chế độ ưu đãi hơn.
Thứ tư: các NHTM,nhất là các NHTMCP đã mở rộng phạm vi địa bàn hoạt động, thị phần hoạt
động tín dụng của các ngân hàng đẫ thay đổi đáng kể: tính đến tháng 11 năm 2007, các NHTM
nhà nước đạt 435,6 ngàn tỷ đồng, chiếm 70%; các NHTMCP đạt 180,4 ngàn tỷ đồng, chiếm
27,7%,như vậy cơ cấu cho vay của các NHTMCP đã tăng đáng kể so với trước. Trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, thị phần tín dụng tăng khá mạnh từ 60-120% năm.Tuy ngân hàng đã cải
tiến và có nhiều thành tựu nổi bật nhưng vẫn không tránh khỏi khuyết điểm.

b) Những thách thức của các ngân hàng thương mại


Thứ nhất, khi thẩm định các phương án, dự án vay vốn, một số ngân hàng thường “áp đặt” ý kiến
chủ quan của mình đối với khách hàng. Ví dụ, một khách hàng vay vốn đề nghị vay một khoản
tiền 5 tỷ đồng với thời hạn 12 tháng; nhưng sau khi thẩm định (vì mục tiêu hạn chế rủi ro cho
mình), ngân hàng chỉ đồng ý cho vay 3 tỷ đồng, thời hạn 8 tháng.
Thứ hai, từ tư tưởng “áp đặt” mà ngân hàng đã đưa ra nhiều điều khoản ràng buộc đối với khách
hàng trong các cam kết giữa hai bên, trong khi ngay chính bản thân ngân hàng cũng biết chắc
chắn là những cam kết đó không thể khả thi theo luật định. Phần lớn các quy định trong hợp
đồng tín dụng đều mang chế tài bảo vệ người cho vay như: ngân hàng có quyền thay đổi lãi suất
cho vay, kiểm tra tình hình tài chính, tài sản đảm bảo tiền vay
Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền
thống, nền tảng, chiếm tỷ trọng lớn nhất từ 60%-70% trong danh mục tài sản có. Hoạt động tín
dụng của mỗi NHTM đều căn cứ, tuân thủ và xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng. lý
ở Trụ sở chính và thực thi thông suốt ở các đơn vị trực thuộc và ở mỗi cán bộ tín dụng.
Thực trạng cho thấy hiện nay các NHTM đều chưa xây dựng được một chiến lược canh tranh

14
dài hạn rõ ràng, đảm bảo tính khả thi cao dựa trên lợi thế riêng có, mà chủ yếu vẫn kinh doanh
theo chiến lược ngắn hạn, thậm chí là ‘chụp giật, bóc ngắn-cắn dài
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 12/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu
tư vào nền kinh tế của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam tăng gần 37,8% so với cuối năm 2006
Các ngân hàng trong việc xác định ngành hàng chiến lược, khách hàng chiến lược vẫn còn lúng
túng; tăng trưởng tín dụng chưa đi kèm với quản lý rủi ro tín dụng; chính sách lãi suất cho vay
còn cứng nhắc, mức lãi suất cho vay hầu như giống nhau đối với với tất cả các khoản vay.
Việc tổ chức hạch toán, phân loại nợ, thống kê thông tin tín dụng chưa đảm bảo tính chính xác,
minh bạch để làm cơ sở cho việc quản lý tín dụng có hiệu quả; việc tổ chức hệ thốngthông tin
phục vụ hoạt động tín dụng còn thiếu và yếu, chưa đồng bộ và độ tin cậy không cao, chất lượng
cán bộ tín dụng còn hạn chế, kỹ năng giao tiếp, chăm sóc khách hàng làm chưa bài bản, chuyên
nghiệp

c) Một số giải pháp


Thứ nhất: điều chỉnh chính sách tín dụng nhằm đạt được mục tiêu cân băng tối đa hoá lợi nhuận
và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, từng bước phù hợp với
thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai: nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng.Cần dành thời gian hướng dẫn tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng marketing, kỹ năng bán hàng, thương
thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh.
Thứ ba: nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng.Tổ chức lưu trữ, thu thập các thông
tin về khách hàng, thông tin thị trường, thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp chấm
điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng…dựa trên việc sử dụng các phần mềm tin học.
Thứ tư: cải cách bộ máy tín dụng hoạt động theo thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro tín
dụng.Tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập, quyết định tín
dụng và quản lý nợ cùng với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đảm bảo tính độc lập,
khách quan.Thực hiện sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên của cán bộ các cấp liên
quan tới cấp tín dụng và bộ phận kiểm tra và giám sát tín dụng độc lập

2. Hạn chế trong hoạt động phân tích tín dụng tại Việt Nam

1.Tín dụng vẫn là hoạt động tạo thu nhập chính của các ngân hàng Việt Nam, nhưng tình trạng
""độc canh" tín dụng lại quá phổ biến. Sự ngại thayh đổi, chia lẻ thị trường và "ngại hy sinh" của
các nhà băng đang làm tăng khả năng tổn thương với thị trường tài chính.

2.Chưa có sự phân tích rõ ràng chức năng giữa bộ phận giao dịch với khách hàng với bộ phận
thẩm định lại theo dõi khách hàng.Đôi khi cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ tiếp xúc với khách hàng
cũng làm cả việc theo dõi sau cho vay và phân tích tình hình tài chính của khách hàng sau cho
vay,đièu này mất tính khách quan, có thể dẫn tới móc ngoặc gây rủi ro tín dụng.
Hệ thống hạn mức tín dụng chưa được thiết lập đầy đủ,đôi khi chưa được thiết lập trên cơ sở
đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.

3.Việc xử lí chỉ đạo công việc đôi khi còn bỏ qua yêu cầu mọi vấn đề phải được thể hiện bằng
văn bản,cấp trên có thể ra lệnh cho cấp dưới bằng miệng hay bằng những kí hiệu riêng mà không

15
được phép
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình tín dụng chưa đầy đủ,chưa hiệu quả và chưa tuân thủ
một cách nghiêm túc ở mọi chi nhánh của các tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng có thể giảm rủi ro tín dụng bằng nhận cầm cố,thế chấp khi cho vay.Tuy nhiên
việc xác định giá trị của các tài sản thế chấp,cầm cố không phải là vấn đề đơn giản.Việc cho vay
đôi khi còn chịu mệnh lệnh hành chính.

4.Nhân viên tổ chức tín dụng còn gặp nhiều khó khăn trong đánh giá tình hình tài chính của
khách hàng vay,do một số tổ chức tín dụng chưa có quy trình dánh giá tình hình tài chính của
khách hàng vay một cách có hệ thống để xếp hạng khách hàng, do chưa có sự minh bạch trong
tình hình tài chính của khách hàng vay
Hệ thống IT tại các tổ chức tín dụng nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu, gây khó khăn trong việc xử
lí cũng như cho việc thông tin, báo cáo

3. Kinh nghiệm và kiến nghị


Một là: Để bảo đảm việc xử lý các tội phạm nói chung cũng như tội phạm trong lĩnh vực tín
dụng đen, lĩnh vực tín dụng ngân hàng được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật; trước hết
người tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng, đầy đủ các qui định của pháp luật hình sự, pháp
luật Tố tụng hình sự có liên quan; nhất là trong việc nhận thức các dấu hiệu định tội, định khung
và các dấu hiệu có ly lai giữa các tội. Cần nhận thức đúng, đầy đủ các (hoặc một) dấu hiệu đặc
trưng nhất của cấu thành tội phạm cụ thể để làm cơ sở phân biệt, định tội.
Hai là: Trên cơ sở đặc điểm của các tội phạm xảy ra trong lĩnh vực tín dụng đen là xuất phát từ
quan hệ tín dụng trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện giữa hai bên (hoặc các bên), không dựa trên
các qui định, qui chế chặt chẽ; do vậy để có đủ căn cứ xử lý các hành vi vay nợ rồi chiếm đoạt tài
sản, cần có đủ tài liệu, chứng cứ xác định rõ các vụ việc cụ thể như xác định rõ các quan hệ vay
nợ cụ thể của từng bên, các chứng từ, thỏa thuận bằng văn bản (nếu có), thỏa thuận bằng miệng
như thế nào, thời điểm vay nợ, việc bảo đảm vay nợ? quá trình trả lãi theo thỏa thuận? quá trình
bên vay sử dụng tiền hoặc tài sản vay như thế nào? tài sản hiện có của con nợ có khả năng thanh
toán nợ đến mức độ nào? việc bỏ trốn (diễn biến bỏ trốn, động cơ, mục đích bỏ trốn, việc bắt lại
hoặc ra đầu thú như thế nào…)..
Ba là: Khi phát hiện có tội phạm xảy ra, khi kiểm sát việc khởi tố vụ án cũng như xem xét việc
đề nghị phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra về các tội phạm xảy ra
trong lĩnh vực ngân hàng, kiểm sát viên cần nghiên cứu, nắm vững các qui định của pháp luật có
liên quan đến hành vi vi phạm; Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
đối với các vụ án có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, kiểm sát viên cần thực hiện nghiêm túc
các quy định nghiệp vụ trong các Quy chế công tác, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, thỉnh thị.
Cần tập hợp các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực ngân
hàng để có kiến nghị với các ngân hàng cũng như tập hợp vi phạm để báo cáo Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước có biện pháp khắc phục.
Bốn là:  Kiến nghị với Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần tăng cường tập huấn cho các kiểm sát
viên làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử về nghiệp vụ
cũng như về kiến thức pháp lý trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng. Đề nghị Viện kiểm sát nhân

16
dân tối cao xem xét, xây dựng và ký Quy chế về quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Ngân hàng Nhà nước trong lĩnh vực phòng ngừa các vi phạm và tội phạm trong lĩnh
vực tín dụng, ngân hàng; trong đó cần nhấn mạnh vấn đề trao đổi thông tin về tổ chức và hoạt
động của các ngân hàng thương mại, các dự báo vi phạm và biện pháp phòng ngừa.

17

You might also like