Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 37

CHƯƠNG 1

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
- Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại (giữa tinh
thần với tự nhiên, giữa ý thức với vật chất).
Vấn đề này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (còn gọi là mặt bản thể luận): tư duy có trước tồn tại hay tồn tại
có trước tư duy (ý thức có trước vật chất hay vật chất có trước ý thức)
- Mặt thứ hai (còn gọi là mặt nhận thức luận): tư duy có nhận thức được tồn tại?
(con người có nhận thức được thế giới không?)
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
- Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba
hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời Cổ đại.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ
nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và
điển hình là ở thế kỷ thứ XVII, XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được V.I.Lênin phát triển.
- Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng
coi đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.
c. Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết
Bất khả tri)
- Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi
là thuyết Khả tri (Gnosticism, Thuyết có thể biết).
- Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi
là thuyết không thể biết (thuyết bất khả tri).
CHƯƠNG 2
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác
về phạm trù vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan. Cho
rằng thế giới vật chất là tạo vật của Thượng đế, hoặc là “sự kết hợp” những cảm
giác của con người.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của
vật chất:
+ Talét (Thales): nước
+ Anaximen (Anaximenus): Không khí
+ Hêraclít (Heraclitus): Lửa
+ Anaximanđrơ cho rằng, thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định
được về mặt chất và vô tận về mặt lượng.
+ Lơxíp và Đêmôcrít: Nguyên tử. Các ông coi đây phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, truyệt
đối không thâm nhập được, không quan sát được và nói chung không cảm giác
được, chỉ có thể nhận biết nhờ tư duy. Đêmôcrít hình dung nguyên tử có nhiều
loại, sự kết hợp hoặc tách rời giữa chúng theo các trật tự khác nhau của không
gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới.
+ Triết học Ấn Độ: Đất, nước, lửa, gió
+ Thuyết Âm dương - Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối
lượng.
Tóm lại, các nhà triết học trước Mác đều không trả lời được câu hỏi, bản chất của
thế giới là gì? Mà họ lại đi vào nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất. Do vậy,
họ đã khẳng định, vật chất là cái bất biến, cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã
tồn tại suốt nhiều thế kỷ trong lịch sử triết học nói riêng, trong nhận thức của con
người nói chung.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện một loạt phát minh khoa học lớn như:
+ Năm 1895 W.Conrad Roentgen (1845 – 1923) phát hiện ra tia X, một loại
sóng điện từ có bước sóng từ 0,01 đến 100.10-8 cm.
+ Năm 1896 Antoine Henri Becquerel (1852-1908) phát hiện ra hiện tượng
phóng xạ trong chất uranium và sau đó Marie Curie (1867-1934) tiếp tục phát
triển (1901). Với phát hiện này, người ta hiểu ra rằng quan niệm về sự bất biến
của nguyên tử là không chính xác.
+ Năm 1897 Sir Joseph Thomson (1856 – 1940) phát hiện ra điện tử và chứng
minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại của nguyên tử được
chứng minh.
+ Năm 1901 Kaufman, nhà bác học người Đức đã chứng minh được khối lượng
của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà nó sẽ thay đổi theo tốc độ vận động
của điện tử.
+ Năm 1905 Albert Eisntein (1879-1955) đã phát minh ra thuyết tương đối hẹp
(E=mc2) là nền tảng cho sự phát triển năng lượng nguyên tử và là một trong
những cơ sở khoa học của các lý thuyết hiện đại về vũ trụ.
Các phát minh khoa học này mang lại nhiều ý nghĩa trong sự phát triển của tư duy
nhân nhân loại, nhưng đồng thời nó cũng gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới
quan cho nhiều nhà triết học và vật lý học thời bấy giờ. Một số các nhà vật lý học
giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý: vật chất tiêu tan mất. Các
nhà triết học duy tâm chủ quan đã lợi dụng quan điểm này để tấn công, phủ nhận
vật chất và chủ nghĩa duy vật. Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải đấu tranh bảo vệ
và phát triển chủ nghĩa duy vật.
c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với
ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở
đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
Định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất; nội dung và ý nghĩa.
Định nghĩa
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX về mặt triết
học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, V.I.
Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác”.
Những nội dung cơ bản
- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan....
Phạm trù vật chất là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
Do đó:
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ triết học chứ không phải dưới
góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi
đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường
dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
+ Chúng ta không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông
thường. Về mặt nhận thức luận, theo V.I. Lênin, chỉ có thể định nghĩa phạm trù
vật chất trong mối quan hệ đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức.
- “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Điều này khẳng định với chúng ta rằng, vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức)
là cái có sau, vật chất là cái đóng vai trò quyết định đến nguồn gốc và nội dung
khách quan của ý thức. Bởi vì, thực tại khác quan (vật chất là thực tại khách quan)
đưa lại cảm giác cho con người chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại
khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết được mặt
thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
- “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Điều này đã khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện
thực khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I. Lênin tiếp tục giải quyết
được mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Điều này chứng minh rằng:
+ Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực,
được biểu hiện dưới các dạng sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của chúng
ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, về nguyên tắc không
có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng vật
chất chưa thể nhận thức được mà thôi.
+ Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới bên ngoài, khi sự vật tác động vào giác
quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương pháp
nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh) con người có thể nhận thức
được thế giới vật chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng
thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên
ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận
thức được.
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
- Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời đã
khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật trước Mác, chống lại chủ nghĩa duy tâm và thuyết không
thể biết.
- Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất, định
hướng và cổ vũ họ ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu vào khám
phá những thuộc tính mới của thế giới vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình
thức mới của vật thể trong thế giới.
- Định nghĩa còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện
chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
d. Các hình thức tồn tại của vật chất
Vận động
- Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên
hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vận động là phương thức
tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể
có dạng vật chất nào tồn tại mà không vận động.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có
vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất.
+ Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh ra
và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất.
Các hình thức vận động của vật chất.
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các
hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên
tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh học: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng
hóa, dị hóa, sự tăng trưởng, sinh sản, tiến hóa.
- Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao.
Vận động và đứng im:
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
- Đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối
quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự
vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
- Đứng im chỉ xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới).
- Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
Không gian và thời gian
- Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật chất.
Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không tồn tại
trong không gian và thời gian.
- Quan điểm duy vật biện chứng:
+ Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, gắn liền với sự
vận động của vật chất.
+ Không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không thể có sự
vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
+ Không gian vô tận. Thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
+ Không gian có 3 chiều. Thời gian có một chiều.
+ Không gian và thời gian có tính tương đối.
e. Tính thống nhất vật chất của thế giới
- Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới:
Thế giới quanh ta tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của thế giới là hết sức đa dạng.
Vì thế, tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới.
- Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều này cho thấy:
+ Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, vật chất là cái có trước, tồn tại
khách quan độc lập với ý thức con người.
+ Mọi tồn tại của thế giới đều có mối liên hệ khách quan, biểu hiện ở chỗ chúng
đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc
vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của quy luật khách quan,
phổ biến của thế giới vật chất.
+ Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và cũng
không bị mất đi.
Như vậy, trong thế giới không có gì khác hơn là vật chất đang vận động. Tinh
thần, ý thức chỉ có trong đầu óc con người và là thuộc tính của một dạng vật chất
có tổ chức cao (bộ óc). Không có bằng chứng về thế giới tinh thần tồn tại bên
ngoài thế giới vật chất.
Các hình thức, các dạng tồn tại của vật chất và vận động có thể chuyển hóa lẫn
nhau trong những điều kiện nhất định.
Vật chất vận động tuân theo những quy luật nhất định. Có những quy luật riêng
chi phối một lĩnh vực cụ thể. Có những quy luật phổ biến chi phối tất cả sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Có rất nhiều khoa học chuyên sâu và khoa học liên ngành nghiên cứu về ý thức
và những vấn đề liên quan đến ý thức của con người. Cho đến nay thì vấn đề
nguồn gốc, bản chất của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của khoa học nói
chung và của triết học nói riêng. Đây là vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học. Trên cơ sở của
những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội triết học
Mác-Lênin đã cho chúng ta nhận thức rõ được về nguồn gốc và bản chất của ý
thức.
* Quan điển triết học ngoài mácxít về ý thức
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
+ Duy tâm khách quan: tìm nguồn gốc của ý thức từ một lực lượng siêu tự nhiên
(Ý niệm, ý niệm tuyệt đối).
- Duy tâm chủ quan: ý thức là cái vốn có của con người, không do thần thánh ban
cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
- Quan điểm của chủ nghãi duy vật siêu hình: Các nhà duy vật siêu hình đã đồng
nhất ý thức với vật chất. Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do
vật chất sản sinh ra.
- Quan điểm duy vật biện chứng về ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, sự hình thành và phát triển của ý thức
chính là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: ý thức là thuộc tính (thuộc tính
phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức. Nhưng tại sao bộ óc con người lại có thể
sinh ra ý thức, là mối liên hệ vật chất với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ
vật chất này đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con
người.
+ Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là năng lực
giữ lại, tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác
động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và
vật nhận tác động, và vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác
động.
+ Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là phản
ánh vật lý, hoá học. Các hình thức này có tính chất thụ động, chưa có sự định
hướng, chưa có sự lựa chọn.
Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho cho giới tự nhiên sống, là sự phát triển
mới về chất trong hình thức phản ánh của vật chất.
Hình thức phản ánh của cá thể sống đơn giản nhất là tính kích thích, là sự trả lời
của cơ thể đối với những tác động của môi trường.
Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh, là tính cảm
ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường.
Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh là các phản xạ
Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện
là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là sự phản ánh có tính
chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi
phối.
Ý thức chỉ nảy sinh ở trong giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với
sự xuất hiện con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người,
không thể tách rời con người.
Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài ý thức là sự phản ánh thế
giới bên ngoài vào đầu óc con người.
Bộ óc của con người là cơ quan phản ánh, nhưng chỉ với riêng bộ óc thì chưa thể
có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên giác quan và qua đó
lên bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được,
nhưng chưa đủ, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã
hội, đó chính là lao động và ngôn ngữ.
Vai trò của lao động đối với việc hình thành và phát triển ý thức:
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, là hoạt động mang
tính đặc thù của con người, làm cho con người khác với các loài động vật khác.
+ Trong lao động con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng
các công cụ đó để cải tạo của cải vật chất.
+ Lao động là hoạt động có tính mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà thế giới khách
quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức, mà trái lại con người
có ý thức chính là con người chủ động tác động vào thế giới khách quan thông
qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Hay nói cách khác, lao động giúp con
người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua quá trình lao động, bộ
óc của con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy
trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
+ Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hôi lại với nhau, làm
nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát
triển cùng với lao động.
Vai trò của ngôn ngữ đối với việc hình thành ý thức.
+ Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không
thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C. Mác, nó chính là cái vỏ vật chất
của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ con người
không thể có ý thức.
+ Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa
là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn
ngữ mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại
những tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có
tính chất xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ.
b. Bản chất của ý thức
- Thứ nhất, để hiểu được bản chất của ý thức chúng ta phải thừa nhận cả vật chất
và ý thức đều tồn tại, nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập:
Vật chất là cái được phản ánh, tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái phản
ánh tức là ý thức.
Cái phản ánh là ý thức, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, bị sự vật
khách quan quy định. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản
ánh (vật chất) với cái phản ánh (ý thức).
- Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì đó
không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý thức là
của con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho
nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu
thực tiễn xã hội.
- Thứ ba, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú và đó là sự
thống nhất của ba mặt:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết;
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần;
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện
thực hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức “đẻ ra” vật chất. Tính sáng tạo
của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh theo quy luật và trong khuôn khổ của sự
phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần.
- Thứ tư, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện
tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo
thế giới của con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt
động mang tính xã hội, do đó, ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã
hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại.
c. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng xã hội – tâm lý có kết cấu hết sức phức tạp. Tuỳ theo
cách tiếp cận mà có nhiều cách phân chia khác nhau. Theo cách tiếp cận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức có kết cấu như sau:
* Các lớp cấu trúc của ý thức: ý thức bao gồm các yếu tố: tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí. Trong đó tri thức là yếu tố cốt lõi. Tri thức đóng vai trò là phương
thức tồn tại của ý thức. Điều này có nghĩa là không có tri thức thì sẽ không có ý
thức.
- Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh
thế giới khách quan. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên,
về xã hội, về con người,… và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính và
tri thức lý tính, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức tiền khoa học và
tri thức khoa học v.v…
- Tình cảm là những rung động tâm lý khá bền vững ổn định của cá nhân con
người phản ánh thái độ của mình trước hiện thực cuộc sống. Theo các nhà nghiên
cứu, sự thành công hay thất bại trong hoạt động của con người phụ thuộc không
ít vào tình cảm – tức thái độ của con người trước hoạt động đó, tình cảm vừa là
thế mạnh vừa là điểm yếu nhất trong mỗi con người.
- Niềm tin là năng lực tinh thần của tâm hồn con người hiện diện một cách phi
cảm tính, xuất hiện để nhận thức và nắm bắt đối tượng bằng trực giác. Niềm tin
là thừa nhận sự phù hợp của các hình ảnh cảm tính của con người với sự vật và
hiện tượng, đó là tri thức gián tiếp coi như là chân lý không có luận chứng lôgíc
và luận chứng thực tế đầy đủ. Từ danh từ niềm tin sẽ xuất hiện các danh từ khác
như tin cậy, có thể, trung thành, tin tưởng, tín ngưỡng,…
- Lý trí là khả năng con người có thể nắm bắt được hiện thực khách quan (các
mối liên hệ, quy luật, mâu thuẫn) bằng hoạt động tinh thần và phản ánh nó vào
tư duy.
* Các cấp độ của ý thức, thì ý thức chính là lát cắt nội tâm của con người, nó
bao gồm các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
- Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời
cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng
là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, song đây là ý thức về bản thân
mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
- Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát
của chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến hoạt động tâm lý đang diễn ra
dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ
thể đã có được từ trước, nhưng nó đã gần như trở thành bản năng, kỹ năng nằm
trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
- Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nghĩa là nó
nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào
đó. Nói cách khác, vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự
suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội
tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
d. Vấn đề "trí tuệ nhân tạo".
- Ý thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người máy
thông minh" thực ra chỉ là một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được
con người lập trình phỏng theo một số thao tác của tư duy con người. Máy móc
chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra.
- Còn con người là một thực thể xã hội năng động được hình thành trong tiến trình
lịch sử tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội.
- Máy không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu
tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên
thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra
tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là
tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một
chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn
của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Bộ não người được xem là
một dạng vật chất có tổ chức bao. Bởi vậy, có thể khẳng định vật chất là nguồn
gốc sinh ra ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Ý thức phản ánh thế giới hiện thực
khách quan, các quy luật khách quan, hoạt động thực tiễn chính là cơ sở cho sự
hình thành các quan điểm, quan niệm, ý chí, tình cảm xã hội.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Trong tồn tại xã hội, ý thức chỉ
là sự phản ánh tồn tại xã hội, tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội sớm muộn
cũng phải thay đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Ý thức xã hội
không tồn tại tự nó, nó chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt động
thực tiễn của con người.
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi
đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính
độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ
cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được
hiện thực.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Như vậy, tri thức khoa học giúp con người hiểu biết được những mối liên hệ và
quy luật khách quan nhờ đó mà cải tạo được tự nhiên và xã hội. Trình độ nhận
thức quy luật càng cao thì khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội càng lớn.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý
thức là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan. Trong nhận thức và hành
động con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động
theo hiện thực khách quan, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ quan duy ý chí.
- Khẳng định ý thức có vai trò tích cực trong sự tác động trở lại đối với vật chất,
phép biện chứng duy vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn
con người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ
động, sáng tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động.
- Sức mạnh của ý thức con người không phải là ở chỗ tách rời những điều kiện vật
chất mà phải biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế
giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý trí và nhiệt tình cao. Ý thức
của con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng
cải tạo thế giới khách quan có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động,
sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế
giới khách quan. Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì truệ, thái độ tiêu cực,
thụ động.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu
thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và
chuyển hoá lẫn nhau.
- Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau.
Ví dụ:
Giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình:
cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển
hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả
cung và cầu. Đó chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ
biện chứng giữa cung và cầu.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến: là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của
các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới mà ở đó các sự vật, hiện
tượng hoặc các mặt bên trong sự vật có mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn
nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.
Ví vụ:
Mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ chung,
nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tuỳ
theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm thực hiện... Khi nghiên cứu
cụ thể từng loại thị trường hàng hoá, không thể không nghiên cứu những tính
chất riêng có (đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao nhiêu thì chúng vẫn tuân
theo những nguyên tắc chung của mối quan hệ cung cầu.
Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, tính chất của mối liên hệ phổ biến bao
gồm: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng.
- Tính khách quan
Mối liên hệ mang tính khách quan. Bởi, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới
đa dạng, phong phú, khác nhau. Song chúng đều là những dạng vật thể của thế
giới vật chất. Chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ.
Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng, không thể tồn tại biệt lập, tách
rời nhau, mà trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua
sự vận động, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện
tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng
khác.
Ví dụ:
Mối liên hệ ràng buộc và tương tác (theo lực hút - đẩy) giữa các vật thể; mối liên
hệ giữa trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hoá - dị hoá); mối liên
hệ ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cung và cầu hàng hoá trên thị trường;
mối liên hệ tất yếu giữa các khái niệm trong quá trình tư duy của con người,...
đều là những mối liên hệ khách quan, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của con người.
- Tính phổ biến
+ Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng
khác. Không có sự vật hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở
mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy.
+ Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, tuỳ theo điều
kiện nhất định. Nhưng dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối
liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Ví dụ:
Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng tự trao đổi chất với
môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển; đồng thời bản thân môi trường sống
cũng là một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trực tiếp và
gián tiếp…
- Tính đa dạng, phong phú
Có rất nhiều loại liên hệ khác nhau:
+ Mối liên hệ về mặt không gian và mối liên hệ về mặt thời gian;
+ Mối liên hệ chung, mối liên hệ cụ thể
+ Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp;
+ Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu,….
Chính tính đa dạng trong quá trình vận động, tồn tại và phát triển của bản thân
sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong sự vật có
nhiều mối liên hệ, chứ không phải có một cặp mối liên hệ.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát
thành nguyên tắc toàn diện với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận
thức và thực tiễn:
- Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể
thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối
liên hệ của chỉnh thể đó.
- Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng
đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy,
nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc
tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
- Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
- Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ
thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem
xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ
biện và chủ nghĩa chiết trung.
* Nguyên lý về sự phát triển
* Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Như vậy, phát triển không phải là bản thân sự vận động, phát triển chỉ là khuynh
hướng tất yếu của vận động, phát triển nó chỉ khái quát những sự vận động đi
lên, đó là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết cấu phức tạo của sự
vật và do đó làm nảy sinh tính quy định cao hơn về chất. Nói cách khách phát
triển là quá trình làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Nội dung của nguyên lý phát triển
- Phép biện chứng duy vật khẳng định, phát triển là quá trình diễn ra không ngừng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
+ Trong giới hữu sinh sự phát triển biểu hiện ở khả năng tăng cường thích nghi
của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện
chính mình, ở khả năng hoàn thiện về quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống với
môi trường.
+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên
và xã hội theo quy luật thông qua hoạt động thực tiễn của con người....
+ Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc,
đầy đủ hơn về tự nhiên, xã hội và nhận thức chính bản thân con người.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung của các
sự vật hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tiếp mà nó quanh co, phức
tạp theo hình “xoáy ốc”, trong đó có thể có những bước thụt lùi tương đối.
- Quan điểm siêu hình, nói chung, phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn
định của sự vật, hiện tượng. Phát triển ở đây chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt
lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về chất, không
có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm
ngoài chúng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân sự vật, từ cấu trúc của sự vật, do mâu thuẫn bên trong của
sự vật quy định. Do đó, phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu
thuẫn bên trong của sự vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ,
đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và
cái mới, tạo ra khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là, trong quá
trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên mộ cơ sở
cao hơn.
Tính chất cơ bản của sự phát triển
- Phát triển có tính khách quan, thể hiện ở chỗ, nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Đó
là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Sự phát
triển như vậy không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con
người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn luôn phát triển theo
khuynh hướng chung của thế giới vật chất.
Ví dụ:
Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan
theo quy luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài
mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó.
- Phát triển có tính phổ biến. Tính phổ biến ở đây được hiểu là nó diễn ra trong
mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy. Ở bất cứ sự vật và hiện tượng nào của
thế giới khách quan.
Ví dụ:
Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ
vật chât chưa có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá
dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống phức tạp hơn - sự tiến hoá của các giống
loài làm phát sinh các giống loài thực vật và động vật mới đến mức có thể làm
phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội từ đơn giản đến trình độ tổ
chức cao hơn; cùng với quá trình đó cũng là quá trình không ngừng phát triển
nhận thức của con người từ thấp đến cao...
- Phát triển có tính kế thừa: sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ
định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật,
hiện tượng cũ.
Phát triển có tính đa dạng, phong phú: khuynh hướng phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá
trình phát triển khác nhau, tồn tại ở không gian và thời gian khác nhau, sự phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động
của các sự vật, hiện tượng khác, của các điều kiện có thể thúc đẩy hoặc kìm hảm
sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của
sự vật, thậm chí có thể làm sự vật thụt lùi.
Ví dụ:
Không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới tự nhiên với sự
phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân
theo tính tự phát, còn sự phát triển của xã hội loài người lại có thể diễn ra một
cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta rút ra được nguyên tắc phát
triển. Nguyên tắc này yêu cầu:
- Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu
hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn
dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
- Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai
đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình
thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát
triển đó.
- Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện
cho nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế
thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều
kiện mới.
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
b1. Cái riêng và cái chung
- Cái riêng
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiệng tượng nhất định.
- Cái đơn nhất
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có
ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện
tượng nào khác.
- Cái chung
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa.
Ví dụ:
Mỗi con người là một cái riêng; những thuộc tính tự nhiên và xã hội khiến cho con
người khác với động vật giữ vai trò là cái chung của tất cả mọi người với tư cách
người; nhưng mặt khác, ở mỗi con người lại có những thuộc tính không lặp lại ở
nhau như: cấu tạo gen, nhân cách, năng lực,... cụ thể khác nhau.
Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn
nhất
Vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là một trong những vấn đề quan
trọng nhất, khó khăn nhất của triết học nói riêng của sự nhận thức nhân loại nói
chung. Trong quá trình tìm lời giải cho vấn đề này, trong lịch sử triết học đã hình
thành hai phái rõ rệt đó là: phái duy thực và duy danh.
- Phái duy thực cho rằng, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái
riêng.
- Phái duy danh cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
đều tồn tại và khẳng định:
+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn
tại của mình. Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần tuý tồn
tại độc lập ở bên ngoài cái riêng.
Ví dụ:
Trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp có thể
rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung. Điều này có nghĩa
là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng
hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất cứ một cái riêng nào bao giờ cũng
tham gia vào các mối quan hệ, liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật hiện
tượng khác xung quanh mình. Không có cái riêng nào là tồn tại vĩnh viễn.
Ví dụ:
Không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệp mà lại không tuân
theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh tranh...). Nếu doanh
nghiệp nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó không thể tồn tại trong
nền kinh tế thị trường.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ
phận nhưng là cái sâu sắc hơn cái riêng (ta nói cái chung là bộ phận của cái riêng
nhưng đây là bộ phận có tính chất bản chất chứ không phải là bộ phận hợp thành
của cái riêng, nó được xác định trong mối quan hệ cụ thể).
Ví dụ:
Khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết mỗi vấn
đề riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử, cụ thể tạo nên cái đơn nhất
(đặc thù) của nó. Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết mỗi
vấn đề riêng.
+ Trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng, trong
những điều kiện nhất định cái đơn nhất, cái chung (phổ biến) có thể chuyển hoá
cho nhau. Có điều này là bởi vì, trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện
đầy đủ ngay một lúc mà lúc đầu nó xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt.
Nhưng theo quy luật của sự phát triển, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên,
ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới hoàn thoàn thắng cái cũ. Ngược lại, cái cũ
ngày càng mất đi từ chỗ là cái chung nó biến thành cái đơn nhất.
Ví dụ:
Một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng
kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các
tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến
- khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...
Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một thuộc
tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất
và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương
pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều không thể
như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì
bản thân cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống
nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các
phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải
thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường
hợp.
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn
nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác, không nên sử
dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường
hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định
“cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến
thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và “cái
chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
b2. Nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một biến đổi nhất
định nào đó.
- Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Ví dụ:
Sự tác động của dòng điện lên dây dẫn (nguyên nhân) khiến cho dây dẫn nóng
lên (kết quả); hoặc sự tác động qua lại của cung và cầu đến quá trình thực hiện
giá cả (nguyên nhân) của hàng hoá khiến cho giá cả xoay quanh giá trị của hàng
hoá (kết quả).
Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
* Tính chất:
- Tính khách quan: Sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài ý muốn của con người,
không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
- Tính phổ biến: Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân nhất định,
không có hiện tượng nào là không có nguyên nhân, chỉ có điều nguyên nhân đó
được phát hiện hay chưa mà thôi.
- Tính tất yếu: Kết quả là do nguyên nhân gây ra và phụ thuộc vào những điều
kiện nhất định. Một nguyên nhân nhất định trong một hoàn cảnh nhất định chỉ có
thể gây ra một kết quả nhất định
- Nguyên nhân khác nguyên cớ.
Nguyên cớ mang tính chủ quan dùng để che đậy những nguyên nhân. Nguyên cớ
là điều kiện là cái rất cần thiết để chuyển hoá nguyên nhân thành kết quả.
* Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân quyết định kết quả.
- Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy. Một nguyên nhân có thể gây
nên nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân
gây ra.
+ Quan hệ “nhân - quả” là quan hệ có tính tất yếu khách quan: không có nguyên
nhân phi kết quả và ngược lại không có kết quả nào (sự biến đổi nào) không có
nguyên nhân của nó. Đây là quan hệ có tính quy luật, trong đó nguyên nhân bao
giờ cũng có trước kết quả; kết quả luôn phụ thuộc tất yếu vào nguyên nhân. Do
vậy, khi nắm bắt được nguyên nhân có thể dự báo được kết quả xảy ra và ngược
lại, trước mỗi sự biến đổi cần đặt vấn đề nghiên cứu xác định nguyên nhân của
nó bởi vì không có kết quả nảo không do những nguyên nhân nhất định.
Ví dụ:
Khi khảo sát (đo đạc, tính toán,...) được thực trạng của các nhân tố tác động đến
sự biến đổi của khí hậu, người ta có thể dự báo trước được những diễn biến của
thời tiết sẽ diễn ra trong thời gian gần hoặc xa.
+ Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ hết sức phức tạp, đa
chiều: một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả (chính, phụ,...)
ngược lại, một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân (chính, phụ,...).
Kết quả là cái xảy ra sau nguyên nhân, nhưng khi kết quả đã xuất hiện thì kết quả
này lại có thể tác động trở lại các nhân tố vốn là tác nhân sản sinh ra nó; đồng
thời, nó cũng có thể lại trở thành nguyên nhân tạo ra những biến đổi mới. Đó cũng
chính là mối quan hệ chuyển hoá biện chứng của quan hệ “nhân - quả”. Vì vậy,
không thể đơn giản hoá việc phân tích và giải quyết các mối quan hệ “nhân - quả”
trong thực tế; mặt khác cũng có thể sử dụng tính phức tạp này để lựa chọn phương
án tối ưu trong thực tiễn.
Ví dụ:
Hoạt động của con người là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự
biến đổi của môi trường sự sống trên trái đất; ngược lại, chính những biến đổi
theo chiều hướng không tốt hiện nay lại trở thành nguyên nhân tác động trở lại
theo chiều hướng bất thuận lợi cho hoạt động của con người...
Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó và do nguyên
nhân quyết định, để nhận thức được sự vật, hiện tượng ấy nhất thiết phải tìm ra
nguyên nhân xuất hiện của nó; muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó không
cần thiết, thì phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó.
Thứ hai, xét về mặt thời gian, nguyên nhân có trước kết quả nên khi tìm nguyên
nhân của một sự vật, hiện tượng cần tìm ở các sự vật, sự kiện, mối liên hệ đã xảy
ra trước khi sự vật, hiện tượng xuất hiện.
Thứ ba, một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết
định, nên khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó không vội kết luận về nguyên nhân
nào đã sinh ra nó; khi muốn gây ra một sự vật, hiện tượng có ích trong thực tiễn
cần phải lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
chứ không nên rập khuôn theo phương pháp cũ.
b4. Nội dung và hình thức
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên
sự vật.
- Hình thức là cách tổ chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định giữa các
mặt, các yếu tố, bộ phận tạo thành nội dung.
Hình thức có hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong
quan trọng hơn hình thức bên ngoài.
Ví dụ:
Khi phân tích mỗi phân tử nước (H20) đã cho thấy: các yếu tố vật chất làm cơ sở
cấu thành nên nó là 2 nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy (nội dung); cách thức
liên kết hoá học của chúng là: H - 0 - H (hình thức).
Cần phân biệt cặp phạm trù nội dung-hình thức với cặp phạm trù bản chất-hiện
tượng.
Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
+ Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội dung
nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại
không chứa đựng một nội dung nhất định. Vì vậy, khi nghiên cứu nội dung của
mỗi sự vật bao giờ cũng cần xem xét nó theo phương thức kết hợp nhất định và
ngược lại. Việc nghiên cứu thuần tuý nội dung hay hình thức thuần tuý chỉ mang
ý nghĩa là sự trừu tượng hoá trong một quá trình nhận thức xác định.
Ví dụ:
Khi nghiên cứu một đối tượng, trước hết người ta có thể tiến hành phân tích xem
nó được cấu thành từ những yếu tố, bộ phận,... nào. Sau đó tiến hành nghiên cứu
xem chúng được liên kết với nhau theo cách thức nào để tạo nên sự tồn tại của
đối tượng đó, nhờ đó hiểu được toàn diện đối tượng ấy, giải thích được tính chất
chung được tạo ra từ sự liên kết các yếu tố, bộ phận đó.
+ Cùng một nội dung nhưng có thể có những phương thức kêt hợp khác nhau;
ngược lại, các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng dạng về phương thức
kết hợp giữa chúng. Tuy nhiên, điều đó không phải là tuyệt đối, phi nguyên tắc.
Ví dụ:
Một số doanh nghiệp có thể tương đồng nhau về số lượng vốn nhưng lại có phương
thức kinh doanh ít hay nhiều khác nhau, từ đó tạo nên tính hiệu quả kinh doanh
khác nhau; ngược lại, cùng một phương thức kinh doanh nhưng lại có thể thích
hợp với một số doanh nghiệp có số lượng vốn ít nhiều khác nhau.
+ Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó
nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Giữa nội
dung và hình thức không phải luôn luôn có sự thống nhất. Thông thường, quá
trình biến đổi, phát triển của một sự vật được bắt đầu từ sự biến đổi nội dung của
nó (dưới một hình thức phù hợp), tới một giới hạn nhất định sẽ xuất hiện sự không
còn phù hợp giữa nội dung và hình thức. Khi đó sẽ xuất hiện nhu cầu thay đổi
hình thức tạo nên sự phù hợp mới.
Vì vậy, vấn đề mấu chốt trong nhận thức và thực tiễn là nghiên cứu sự vật từ quá
trình biến đổi nội dung của nó và xác lập sự thống nhất giữa nội dung và hình
thức.
Ví dụ:
Dưới một hình thức kinh doanh phù hợp, số lượng vốn của doanh nghiệp không
ngừng tăng lên. Đến một giai đoạn nhất định, nó đòi hỏi phải thay đổi cách thức
tổ chức kinh doanh cũ, xác lập cách thức kinh doanh mới để bảo toàn lượng vốn
cũ và không ngừng thực hiện sự tăng trưởng của doanh nghiệp.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình thức.
- Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng, trước
hết cần căn cứ vào nội dung của nó.
- Trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng nhiều hình thức để phục vụ
cho một nội dung nhất định.
- Cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình
hình mới.
c. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại.
Khái niệm chất, lượng
- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó chứ
không phải là cái khác.
Chất là khái niệm triết học, là khái niệm rộng nhất, không đồng nhất với khái niệm
chất của các ngành khoa học cụ thể.
Chất xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các
thuộc tính của sự vật.
- Lượng phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, biểu thị số lượng, quy mô, cường độ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật phức tạp thì thông số về
lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thức được lượng của nó, phải sử dụng
nhiều con số thống kê và phải thông qua sự phán đoán, đánh giá của tư duy.
Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng
nào có chất đó. Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn
tòn tại trong khuôn khổ của “độ”.
- Độ là gì? Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất, là giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất
của sự vật.
Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể thay
đổi khi điều kiện thay đổi.
Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiện tiến, tăng dần hoặc giảm dần,
khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi là
“điểm nút”.
- Điểm nút là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất
của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
- Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự
chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới gọi là “bước nhảy”.
- Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Ví dụ:
“Nước” (H20) nguyên chất, trong điều kiện
atmotphe ở trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng)
từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn
0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của
nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng với tư cách là phương thức
vận động, phát triển của sự vật
- Chất và lượng của sự vật là hai mặt của cùng một sự vật, chúng tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một
loại chất tương ứng và ngược lại.
Ví dụ:
Tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử
ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản,
khách quan, vốn có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan
muối, axít,...
- Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau như vậy, nên những sự biến
đổi về lượng sẽ tất yếu có khả năng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại.
Ví dụ:
Quy định nên trạng thái thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt độ của nó (chứ
không phải là số lượng nguyên tử hyđrô và ôxy); do vậy, khi lượng nhiệt độ này
biến thiên thì tất yếu có khả năng dẫn tới sự biến đổi về trạng thái của nước sang
thể rắn hay lỏng.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chất và lượng của sự vật có những sự tồn tại độc lập
tương ứng. Vì vậy, không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập tức
có thể dẫn đến sự thay đổi về chất của nó. Sự thay đổi này chỉ có thể diễn ra
trong thực tế với những điều kiện xác định. Thông thường, điều kiện đó là: sự
thay đổi của lượng phải đạt tới giới hạn điểm nút.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi muốn thay đổi về chất thì phải không
ngừng tích luỹ về lượng
- Khi tích luỹ đủ về lượng phải thực hiện bước nhảy để chuyển sang chất mới.
- Để chuyển sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất chúng ta phải
linh hoạt trong việc thực hiện những bước nhảy.
- Quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải
biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên
cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập
Khái niệm mâu thuẫn và mặt đối lập
- Khái niệm mâu thuẫn:
Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, thống nhất, đấu tranh và chuyển
hoá giữa các mặt của sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau.
Ví dụ:
Mối quan hệ giữa điện tích âm và điện tích dương của một dòng điện; giữa đồng
hoá và dị hoá của cơ thể sống; giữa chân lý và sai lầm trong quá trình nhận thức;
giữa cung và cầu trên thị trường hàng hoá,...
Quan điểm siêu hình thì ngược lại với quan điểm nêu trên: mâu thuẫn là cái đối
lập phản lôgích, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa
các mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập.
- Khái niệm mặt đối lập:
Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có khuynh
hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau nhưng tồn
tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành mâu thuẫn.
Tính chất chung của mâu thuẫn
- Tính khách quan, phổ biến.
- Tính đa dạng và phong phú.
Phép biện chứng duy vật khẳng định, mâu thuẫn tồn tại khách quan phổ biến và
đa dang, phong phú trong tự nhiên, xã hội và tư duy và không chịu sự chi phối
của ý thức con người.
Ví dụ:
Trong tự nhiên, đó là mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm; giữa sức
hút và sức đẩy; đồng hóa và dị hóa; di truyền và biến dị; giống đực và giống cái;
sống và chết.
Trong xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột; giữa thiện
và ác; giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa hòa bình và chiến tranh.
Trong tư duy, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm;
giữa biện chứng và siêu hình; vô thần và hữu thần; chân lý chân lý và sai lầm.
Quá trình vận động của mâu thuẫn
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
- Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập:
Thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền đề
tồn tại cho nhau, quy định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định, chống đối nhau của
các mặt đối lập.
+ Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối. Đấu tranh của các mặt đối lập là
tuyệt đối.
+ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quá trình phát triển từ thấp
đến cao.
+ Việc giải quyết mâu thuẫn không chỉ phụ thuộc vào bản chất và trình độ chín
muồi của mâu thuẫn, mà còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể nhất định của
sự tồn tại của nó.
- Khái niệm chuyển hoá giữa các mặt đối lập:
Chuyển hoá giữa các mặt đối lập không phải là sự thay đổi vị trí của các mặt đối
lập một cách giản đơn. Chuyển hoá giữa các mặt đối lập ở đây là sự chuyển hoá
về chất.
Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn đến mâu thuẫn được giải quyết, khi mâu
thuẫn được giải quyết sẽ làm cho sự vật không ngừng được đổi mới. Mâu thuẫn
cơ bản của sự vật được giải quyết sẽ tạo ra bước nhảy của sự vật: sự vật cũ mất
đi, sự vật mới ra đời.
- Thông qua đấu tranh của các mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời sẽ bị loại bỏ,
cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Như vậy, mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc và động lực
của sự vận động và phát triển.
Các loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Nội dung của quy luật mâu thuẫn
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự
mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định tính khách quan của mâu thuẫn, PBCDV yêu cầu chúng ta muốn tìm
hiểu mâu thuẫn thì phải tìm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng đó và muốn
tìm bản chất của sự vật, hiện tượng thì phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức
từng bộ phận của nó. Muốn tìm bản chất của sự vật thì chúng ta phải xem xét các
mặt đối lập bên trong bản thân mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó.
- Sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình sẽ có các mâu thuẫn
khác nhau, do vậy, cần phải có những phương pháp cụ thể, phù hợp để giải quyết
từng loại mâu thuẫn.
- Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn đó là phương pháp đấu
tranh.
- Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn xã hội là phải đứng trên
lập trường của giai cấp tiên tiến, phương pháp nhận thức là phương pháp duy vật
biện chứng, chú ý đến mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
Chương 3
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất xã hội là gì? Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất ra tinh
thần và sản xuất ra con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản
xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng nó
quyết định toàn bộ tồn tại xã hội.
- Sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn
tại và phát triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
- Tạo ra các tư liệu sinh hoạt thoả mãn các nhu cầu của con người.
- Tạo ra các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước, pháp
quyền, đạo đức, nghệ thuật.
- Làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
- Sự phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã hội,
quyết định xã hội từ thấp đến cao.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
- Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự
nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Nói cách khác, Lực lượng
sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất.
Lực lượng SX
Người LĐ
Tư liệu SX
Kỷ năng, kỷ xảo, thói quen
Tri thức, kinh nghiệm
Đối tượng LĐ
Tư liệu LĐ
Nhân tạo
Tự nhiên
Công cụ LĐ
Tư liệu LĐ khác
- Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ SX
Quan hệ về chiếm hữu TLSX
Quan hệ về tổ chức, quản lý và phân công lao động
Quan hệ về phân phối sản phẩm
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của nó. Do đó, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định.
- Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách
mạng nhất. Bởi vì, trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc, và đạt
được năng xuất, hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách không ngừng nâng
cao trình độ của mình, cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những
công cụ lao động mới ngày càng tinh xảo hơn, vì thế, làm cho lực lượng sản xuất
không ngừng biến đổi và phát triển.
- Cùng với sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới
hình thành, biến đổi và phát triển theo:
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát
triển.
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi nhưng nó không theo kịp, không phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành “xiềng xích”
của lực lượng sản xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển. Khi mâu thuẫn này
đạt đến độ chín muồi thì quan hệ sản xuất cũ sẽ bị xoá bỏ và thay thế vào đó là
một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế vào đó là một quan
hệ sản xuất tiến bộ hơn, cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức
sản xuất cũ, lỗi thời và thay thế vào đó là một phương thức sản xuất mới tiến bộ
hơn.
Như vậy, lực lượng sản xuất là nguyên nhân, là nội dung sinh động đòi hỏi quan
hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển cho phù hợp với trình độ phát triển
của lượng sản xuất.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Mặc dù quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quy định, nhưng nó cũng có vai
trò nhất định trong sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát
triển; do đó, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Tác
động đó diễn ra theo hai hướng:
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ lực lượng sản xuất.
- Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù
hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Tác dụng kìm hãm của lực lượng sản xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu so với trình độ lực lượng sản xuất, mà cả trong trường hợp có
những yếu tố của quan hệ sản xuất vượt trước trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
- Sở dĩ quan hệ sản xuất đóng vai trò tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản
xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân thối sản phẩm. Từ đó nó hình
thành nên một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hảm sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển chẳng những do yếu tố nội tại của nó, mà
còn do sự tác động của quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất là quy luật phổ
biến tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa xã
hội loài người trải qua các phương thức sản xuất khác nhau từ thấp đến cao.
* Ý nghĩa trong đời sống xã hội
- Sự biến đổi, thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội có nguồn gốc trực
tiếp từ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Vì vậy, đây chính là cơ sở duy vật lịch sử để chúng ta nghiên
cứu về sự vận động và biến đổi của các phương thức sản xuất.
- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng
sản xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng
vốn có của lực lượng sản xuất ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với
các thành phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng
Quan hệ sản xuất thống trị
Quan hệ sản xuất tàn dư
Quan hệ sản xuất mầm mống
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng
Những tư tưởng xã hội về chính trị, pháp quyền, triết học, khoa học, đạo đức,
nghệ thuật, tôn giáo.
Những thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó (nhà nước, các tổ chức chính
trị, văn hóa, các tổ chức tôn giáo, v.v..)
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy
luật cơ bản của sự vận động phát triển lịch sử xã hội.
* Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể
hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì nảy sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm vị trí thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về đời sống chính trị.
- Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng nó sẽ quyết định mâu thuẫn
trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
- Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng thay đổi thì
sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi đó
không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang
hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái
kinh tế - xã hội.
- Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp quyền.... nhưng
cũng có những yếu tố thay đổi chậm hơn rất nhiều so với sự biến đổi của cơ sở
hạ tầng như tôn giáo, nghệ thuật, hoặc có những yếu tố tiếp tục tồn tại dai dẳng
ngay cả khi cơ sở kinh tế nảy sinh ra nó không còn tồn tại và có những yếu tố của
kiến trúc thượng tầng được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự
thay đổi đó thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
* Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính
độc lập tương đối trong quá trình vận động và phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự
tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện chức
năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ
sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ
kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể đứng vững được trong quan hệ thống trị về
kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động
khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ
nhất đối với cơ sở hạ tầng, vì đó là bộ máy bạo lực, tập trung quyền lực của giai
cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,
đạo đức, nghệ thuật .... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng những cách
khác nhau. Thường những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp quyền thì
mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
hướng:
+ Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Còn ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kimg hãm sự phát
triển của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách
này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc
thượng tầng mới phù hợp với yêu cầu của cơ sở hạ tầng.
- Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển
có tính chất tương đối. Qúa trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác
động của nó đối với cơ sơ hạ tầng càng có hiệu quả.
* Ý nghĩa trong đời sống xã hội
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị.
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào
giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm
đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó
đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng
vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
IV. Ý THỨC XÃ HỘI
Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trọng là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh
thần, đó cũng chính là hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vì vậy, cùng với
việc phân tích các quy luật của sự phát triển xã hội, các quan hệ kinh tế và các
quan hệ chính trị - xã hội thì không thể không chú trọng đến mặt quan trọng khác
của đời sống xã hội là ý thức xã hội. Trong triết học Mác - Lênin khái niệm ý thức
xã hội gắn liền với khái niệm tồn tại xã hội.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội
- Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội.
Phạm trù tồn tại xã hội bao quát không chỉ hoạt động vật chất, mà ̣còn cả những
quan hệ vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tất cả những
cái này tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức cá nhân cũng
như ý thức xã hội.
b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính:
- Phương thức sản xuất vật chất;
- Điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý;
- Dân số và mật độ dân số
Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết
định nhất đối với toàn bộ tồn tại xã hội và sự phát triển của ý thức xã hội.
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
a. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng xã hội, nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
nhất định.
b. Kết cấu của ý thức xã hội
Với tính cách là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, ý thức xã hội được thể hiện
ở những bộ phận, những hình thái ý thức khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng
những phương thức không giống nhau. Tùy thuộc vào đối tượng, phạm vi và trình
độ phản ánh mà ta có thể chia ý thức xã hội thành các cấp độ: ý thức xã hội thông
thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
+ Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa. Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh
động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi
phối cuộc sống đó. Ý thức thông thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận,
nhưng những tri thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan
trọng cho sự hình thành các lý thuyết xã hội.
+ Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm
trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực
khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản
chất của các sự vật và hiện tượng.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
+ Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của
con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống
hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại
những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ
ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.
+ Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, hình thành khi con người nhận
thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư tưởng có
khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội. Hệ tư tưởng là nhận thức
lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết
học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của sự khái quát hóa những kinh
nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi
các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hội.
Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng
quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá trình khái
quát những tài liệu khoa học.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh
khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau,
chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm
lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng
của giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học
tiến bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động và phong phú sẽ giúp
cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng
khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh
có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những
yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
Như vậy, hệ tư tưởng xã hội liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của
tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
c. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, do đó ý
thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc
đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng
xã hội. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen
riêng có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác.
Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn
nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư
tưởng hoặc những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai
cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị
của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính
trị ở thời đại đó.
d. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội có mối quan hệ biện chứng với ý thức xã hội. Tồn tại xã hội nào thì
có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu
hướng vận động, sự biến đổi và sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Nếu
xã hội còn tồn tại sự phân chia giai cấp thì ý thức xã hội nhất định cũng mang tính
giai cấp. Khi mà tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất, thay đổi thì những
tư tưởng, quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học và cả quan điểm thẩm mỹ
lẫn đạo đức dù sớm hay muộn cũng sẽ có những sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên,
ý thức xã hội không phải là yếu tố hoàn toàn thụ động hoặc tiêu cực. Mặc dù chịu
sự quy định và sự chí phối của tồn tại xã hội nhưng ý thức xã hội không những có
tính độc lập tương đối; có thể tác động trở lại mạnh mẽ đối với tồn tại xã hội mà
đặc biệt là còn có thể vượt trước tồn tại xã hội, thậm chí có thể vượt trước rất xa
tồn tại xã hội.
e. Các hình thái ý thức xã hội
* Ý thức chính trị
Hình thái ý thức chính trị phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn
ngữ chính trị cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia
và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Hình thái ý thức chính trị
xuất hiện trong những xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó thể hiện trực
tiếp và rõ nhất lợi ích giai cấp.
Ý thức chính trị, nhất là hệ tư tưởng chính trị, có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển của xã hội. Bởi vì, hệ tư tưởng chính trị thể hiện trong cương lĩnh chính
trị, trong đường lối và các chính sách của đảng chính trị, pháp luật của nhà nước,
đồng thời cũng là công cụ thống trị xã hội của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính
trị tiến bộ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các mặt của đời sống xã hội; ngược
lại, hệ tư tưởng chính trị lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát
triển đó.
Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội và
xâm nhập vào tất cả các hình thái ý thức xã hội khác.
Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiến
bộ, cách mạng và khoa học đang dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới xây dựng xã hội
mới tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
* Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức chính trị. Hình thái ý thức
pháp quyền cũng phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ
pháp luật. Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng,
quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền, trách
nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính
hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.
* Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm,
trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá,
những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với với
nhau và giữa các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống những tri thức về giá trị và định hướng giá trị
đạo đức; những tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu
tố quan trọng nhất. Bởi vì, nếu không có tình cảm đạo đức thì tất cả những khái
niệm, những phạm trù và tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính
không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
* Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ.
Ý thức nghệ thuật, hay ý thức thẩm mỹ, hình thành rất sớm từ trước khi xã hội có
sự phân chia giai cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái nghệ thuật.
* Ý thức tôn giáo
Tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã hội gồm có tâm lý tôn giáo và hệ
tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm
trạng của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo lý được các nhà thần học và các chức sắc giáo sỹ tôn giáo tạo dựng và truyền
bá trong xã hội. Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tâm lý tôn giáo tạo cơ sở cho hệ tư tưởng tôn giáo dễ dàng xâm nhập vào
quần chúng.
Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền bù - hư ảo. Chức năng
này làm cho tôn giáo có sức sống lâu dài trong xã hội. Nó gây ra ảo tưởng về sự
đền bù ở thế giới bên kia những gì mà con người không thể đạt được trong cuộc
sống hiện thực mà con người đang sống. Vì vậy, hình thái ý thức xã hội này mang
tính chất tiêu cực, cản trở sự nhận thức đúng đắn của con người về thế giới, về
xã hội, về bản thân mình để rồi luôn luôn bị các giai cấp thống trị lợi dụng. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác, muốn xóa bỏ tôn giáo thì phải xóa bỏ nguồn gốc
xã hội của nó, đồng thời phải nâng cao năng lực nhận thức, trình độ học vấn của
con người.
* Ý thức khoa học
Khoa học hình thành và phát triển ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã
hội, của nhu cầu sản xuất xã hội và sự phát triển năng lực tư duy của con người.
Khoa học là sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả
các hiện tượng của hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các
hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội.
* Ý thức triết học
Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức xã hội là triết học.
Nếu như các ngành khoa học riêng lẻ nghiên cứu thế giới từ các khía cạnh, từ
những mặt nhất định của thế giới đó thì triết học, nhất là triết học Mác - Lênin,
cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng
kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và của chính bản thân triết học.
g. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng với thời gian khá
lâu, nhất là những truyền thống, tập quán, thói quen của con người. Và, khi xã
hội mới đã ra đời nhưng ý thức xã hội về xã hội đó chưa nảy sinh ngay lập tức,
mà phải một thời gian sau đó mới xuất hiện. Nguyên nhân của tình trạng này
thường xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
+ Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ
nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Ngay cả
cấp độ lý luận của ý thức xã hội, trong một số trường hợp có thể trở nên lạc hậu,
nhất là trong những thời điểm mà lịch sử có tính chất bước ngoặt, nếu như lý luận
đó không kịp chuyển biến kịp với sự biến đổi của hiện thực cuộc sống. Hơn nữa,
ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có
sự biến đổi của tồn tại xã hội.
+ Hai là, do sức mạnh bảo thủ, trì trệ của thói quen, truyền thống, tập quán có
hàng ngàn năm đã ăn sâu bám rễ vào con người và cộng đồng xã hội. Mặt khác,
còn do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
+ Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường
được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng,
đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng
thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra
sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
- Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Sự phản ánh vượt trước sẽ là sáng tạo khi ý thức xã hội phản ánh đúng được
những mối liên hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Nói cách khác, ý thức xã
hội phản ánh được cái logic khách quan của tồn tại xã hội. Đặc biệt những tư
tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo
được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,
hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín
muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Nhưng sự phản ánh vượt trước sẽ
là ảo tưởng, duy ý chí khi nó chỉ là sự mong muốn chủ quan của con người, không
dựa trên sự nắm bắt cái logic khách quan của hiện thực.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là thế giới quan và phương
pháp luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, là cơ sở
lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nghiệp cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Kế thừa là một trong những tính quy luật phát triển nội tại của bản thân ý thức xã
hội, không kế thừa thì tư tưởng, lý luận, khoa học không thể tiến lên được một
bước nào cả. Tuy nhiên, kế thừa phải có “lọc bỏ”, kế thừa và “lọc bỏ” là hai mặt
của quá trình phát triển của ý thức xã hội.
Ví dụ: chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài
người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh
và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Quán triệt sâu sắc tính quy luật kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Tính chất kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng là
một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương
đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao hơn.
Ví dụ: nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư
tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh; so với Anh, Pháp thì nước Đức ở nửa đầu thế
kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai
cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau
của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến
bộ của xã hội cũ để lại.
Nắm vững quan điểm trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính kế thừa của ý
thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm, giữ gìn và nâng cao
bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt
đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của chúng
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội còn được biểu hiện thông qua sự tác
động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức trong quá trình phát triển
của ý thức xã hội. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo một
cách thức và phương pháp riêng - điều đó làm cho ý thức xã hội trở nên sinh động,
phong phú và đa dạng. Trong khi phản ánh tồn tại xã hội, các hình thái ý thức xã
hội không hình thành một cách biệt lập mà chúng luôn tương tác và ảnh hưởng
lẫn nhau, xâm nhập vào nhau và đều tác động trở lại tồn tại xã hội.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối
hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường, hay
chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời
sống xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những
điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư
tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ
phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển của xã hội; vào
mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó, ở đây cần phân
biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự
phát triển xã hội.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai khuynh
hướng trái ngược nhau. Nếu là ý thức xã hội tiến bộ, phản ánh đúng quy luật phát
triển khách quan của đời sống xã hội và phù hợp với lợi ích của quần chúng lao
động thì nó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Trái lại, nếu là ý thức lạc hậu, phản
động thì nó tác động làm kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội chỉ ra bức tranh phong phú và phức tạp của lịch sử phát triển ý thức
xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan điểm siêu
hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Đồng thời nó cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp khoa học để các khoa học
chuyên ngành đi sâu khám phá những “bí ẩn” của đời sống xã hội.

You might also like