(123doc) Tam Ly Hoc Gioi Tinh Va Giao Duc Gioi Tinh 1

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 216

TAM LY HOC GIOI TINH VA GIAO DUC GIOI TINH

Phan 1: TAM LI HOC GIOI TINH VA GIAO DUC GIOI TINH


Chuong 1: NHUNG VAN DE CHUNG VE GIOI TINH VA TAM LI HOC GIOI TINH
I. DOI SONG GIOI TINH O CON NGUOI
II. SO LUOC LICH SU NGHIEN CUU VAN DE GIOI TINH
III. TAM LI HOC GIOI TINH VA GIAO DUC HOC GIOI TINH
Chuong 2: GIOI VA GIOI TINH
I. KHAI NIEM GIOI VA GIOI TINH
II. NHUNG VAN DE CUA GIOI TINH
III. SU HINH THANH VA PHAT TRIEN GIOI TINH
IV. MOT SO VAN DE GIOI TINH CAN CHU Y O TUOI THANH NIEN, HOC SINH
Chuong 3: MOT SO VAN DE DIEN HINH CUA DOI SONG GIOI TINH
I. DOI SONG TINH DUC
II. HIEN TUONG KINH NGUYET DUOI GOC DO TAM SINH LI
III. TINH DUC
IV. TINH YEU VA TINH YEU CHAN CHINH
V. HON NHAN
VI. VAN DE XAY DUNG GIA DINH HANH PHUC
VII. VAN DE SUC KHOE SINH SAN
Chuong 4: GIAO DUC GIOI TINH
I. VE KHAI NIEM GIAO DUC GIOI TINH
II. NHIEM VU CUA GIAO DUC GIOI TINH
III. NOI DUNG CUA GIAO DUC GIOI TINH
IV. NGUYEN TAC CUA GIAO DUC GIOI TINH
V. Y NGHIA CUA GIAO DUC GIOI TINH.
Phan 2: NHUNG VAN DE THUC TIEN TRONG GIAO DUC GIOI TINH
Van de 1
Van de 2
Van de 3
Van de 4
Van de 5
Van de 6
Van de 7
MUC LUC
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH


Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh

LỜI NÓI ĐẦU


Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính là những ngành khoa học mới, đang được
tập trung nghiên cứu ở nước ta trong khoảng vài chục năm gần đây. Mắc dù là một lĩnh
vực mới nhưng do tầm quan trọng của nó, Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính đã
thu hút được sự quan tâm của xã hội. Hiện nay, các vấn đề giới tính đã được nghiên cứu
và giảng dạy ở nhiều trường học, nhiều địa phương. Tuy nhiên, quan niệm về vấn đề này
còn nhiều khác biệt giữa các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Đặc biệt, một số khái niệm
như giới, giới tính, tính dục, tình dục, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản…
cũng chưa phải đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu.
Tập sách này bước đầu mạnh dạn xác định cụ thể hơn một số khái niệm, một số
vấn đề trong lĩnh vực giới tính. Những vấn đề lí luận, thực tiễn được trình bày theo
hướng hệ thống hoá lí luận cơ bản của khoa học giới tính, và mối tương quan giữa chúng
với những chuyên ngành khoa học có liên quan.
Do đặc điểm xã hội, các vấn đề giới tính ở Việt Nam chịu sự chi phối bởi phong tục
tập quán, đạo đức truyền thống của dân tộc. Có một số vấn đề (tình yêu, tình dục, hôn
nhân…) được hiểu, đánh giá không thống nhất với quan điểm ở một số nước khác.
Những vấn đề đó được chúng tôi trình bày chủ yếu dựa trên những quan điểm đạo đức
truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên, về cơ bản, các khái niệm và lí luận vẫn đảm bảo
tính khoa học, tuân theo những quy định của Liên Hợp quốc và những hội nghị quốc tế
liên quan đã xác định.
Do tính phức tạp của các vấn đề, chắc chắn rằng, tập sách này còn nhiều hạn chế.
Chúng tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của bạn đọc và các nhà chuyên môn để
sách được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ
Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Created by AM Word2CHM
Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Created by AM Word2CHM
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI
TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI


II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH

Created by AM Word2CHM
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH

1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính


Trong đời sống tâm sinh lí của con người, ngoài những hiện tượng thuộc về nhận
thức, tình cảm, ý chí… còn có nhiều hiện tượng khác như sự hình thành và phát triển sinh
lí cơ thể, hiện tượng thụ thai, kinh nguyệt, sự dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của
chúng, tình yêu, hôn nhân, đời sống gia đình… Những hiện tượng này vừa liên quan mật
thiết với tâm lí, lại vừa mang những sắc thái riêng của người nam và của người nữ. Nhiều
hiện tượng chỉ có ở nam hoặc ở nữ, nhưng lại tạo nên sự liên hệ giữa nữ nam và người
nữ.
– Chúng ta có thể thấy một số hiện tướng điển hình như:
+ Sự sinh trưởng và phát triển về sinh lí cơ thể ở người nam và người nữ.
+ Sự dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của nó ở nam và ở nữ (sự phát triển
khác nhau về hình thể, kinh nguyệt, sự mộng tinh và hiện tượng thủ dâm…).
+ Đời sống tình dục.
+ Những hiện tượng bệnh lí liên quan đến đời sống tình dục, trong đổ có những
bệnh như: bạo dâm, thị dâm, loạn trang, ái nhi…
+ Một số hiện tượng đặc biệt: ái nam ái nữ, pê đê hay đồng tính luyến ái…
+ Các phẩm chất tâm lí giới tính, đạo đức giới tính, thấm mĩ giới tính.
+ Sự giao tiếp, cư xử giữa nam và nữ.
+ Những hiện tượng trong tình bạn khác giới; tình yêu nam nữ.
+ Những hiện tượng trong đời sống hôn nhân và gia đình.
– Những hiện tượng trên được gọi là những hiện tượng của đời sống giới tính của
con người.
2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính
Các hiện tượng của đời sống giới tính có mối quan hệ với đời sống tâm lí con
người ở những mức độ khác nhau:
– Có mối quan hệ mật thiết hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lí con người, hay
ngược lại, chịu sự chi phối, tác động của tâm lí con người.
– Có sự tham gia của tâm lí con người như là một thành phần, một bộ phận.
- Biểu hiện đời sống tâm lí con người.
Như vậy các hiện tượng của đời sống giới tính gắn bó mật thiết với đời sống tâm lí
con người. Nhiều khi chúng là một bộ phận, hoặc chính là các hiện tượng tâm lí con
người. Khi nghiên cứu về các hiện tượng của đời sống giới tính cần phải nghiên cứu dưới
góc độ của tâm lí con người. Việc tách chúng với tâm lí con người sẽ là sự phiến diện,
không đầy đủ, hoặc là đơn giản hoá... sẽ không phản ánh được đúng bản chất của hiện
tượng đổ. Những hiện tượng của đời sống giới tính có bản chất là tâm lí con người hoặc
quan hệ mật thiết với tâm lí con người và đo đó chúng mang tính xã hội, lịch sử như tâm
lí con người.
3. Giới tính và nhân cách con người
Các hiện tượng của.đời sống giới tính có quan hệ mật thiết với nhân cách con
người.
– Các hiện tượng của đời sống giới tính có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến những đặc
điểm nhân cách, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính, đồng thời cũng là những đặc điểm nhân
cách, đặc điểm cá tính, đặc điểm khí chất.
– Nhiều đặc điểm giới tính hoà nhập vào nhân cách con người, làm cho nhân cách
con người mang những sắc thái riêng.
– Khi nghiên cứu về giới tính cần phải xem xét chúng trong mối quan hệ với nhân
cách con người, ngược lại khi tiến hiểu và đánh giá nhân cách, luôn luôn phải chú ý tới
những hiện tượng về đời sống giới tính.
– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành,
phát triển, suy đồi, sa ngã… của nhân cách.
Như vậy giới tính có mối quan hệ mật thiết với nhân cách, là một thành phân của
nhân cách, hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển của nhân cách.

Created by AM Word2CHM
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH

Ngay từ thời Cổ đại, giới tính đã được quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất thô sơ và
mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kì xa xưa của văn minh loài người, giới tính đã
được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại và các khảo luận về tình yêu nhu
kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của người yêu”
của Hazma, “Phaedr” và “Bữa tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả “không những đặt
cơ sở các chuẩn mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn cố gắng cung cấp
những kiến thức về sinh học và tâm lý học tình dục”.
Các thầy thuốc thời cổ đại như Hipocrates cũng hết sức chú ý tới những vấn đề có
liên quan đến chức năng tái tạo giống nòi và những rối loạn của chức năng đó, đặc biệt là
đời sống tình dục của con người.
Khi nhân loại bước vào thời kì “đêm trường trung cổ”, tôn giáo và nhà nước phong
kiến đã lợi dụng sự ngu tối thất học của nhân dân, khẳng định sự không bình đẳng giữa
nam và nữ trong xã hội và trong gia đình, cũng như trong lĩnh vực quan hệ tình dục. Họ
đã gieo rắc những quan niệm cho rằng quan hệ nam nữ có tính chất tội lỗi nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa cấm dục, và khép sự ham muốn tính dục vào loại đê tiện, tượng trưng
cho một diều xấu xa mà quỷ xa-tăng đã áp đặt cho loài người. Nhưng thực ra, việc tìm
hiểu các vấn đề về tính dục vẫn được quan tâm, được tiến hành, chỉ để phục vụ cho sự
ăn chơi sa đoạ của các tầng lớp vua quan phong kiến.
Công tác nghiên cứu khách quan các vấn đề về giới tính, tính dục chỉ thật sự được
tiến hành ở thời kì Phục hưng, khi bộ môn Giải phẫu và Sinh học bắt đầu phát triển.
Trong thời kì này, những khía cạnh của tính dục, nhất là xét về phương diện đạo đức và
giáo dục, được người ta nghiên cứu tới.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, các đề tài nghiên cứu về giới tính được mở
rộng hơn… Cho đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các nhà khoa học J. Bachocen (Thuy
sĩ), J. Mặc Len nan (Anh), E. Westennach (Phần Lan), Ch. Letoumeau và A. Espinas
(Pháp), Lewis Herưy Morgan (M), X.M. Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát
triển quan hệ tính đục với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác
của chế độ xã hội và văn hoá.
Đặc biệt, F. Enggels đã đưa ra một quan điểm mới về phương pháp phân tích các
dạng liên kết những mối quan hệ tính dục với quan hệ kinh tế và quan hệ xã hội. Trong
cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của quyền tư hữu là của Nhà nước”, F. Enggels đã phân
tích một cách có phê phán “các công trình nghiên cứu về giới tính và đời sống gia đình
theo những nguồn thư tịch về thời cổ đại, qua những huyền thoại lịch sử và tôn giáo, qua
những hiểu biết về tập tục và truyền thống của các bộ lạc, dân tộc. Ông đã bổ sung thêm
nhiều dẫn liệu mới và đã ra những kiến thức rất xác thực và khác quát hoá thành một hệ
thống nhất quán”.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà khoa học: R. Kraft Ebing (Ao), M. Hirschfeld và A.. Môn
(Đức), H. Ellis (Anh), A. Forel (Thuy Sĩ… đã bắt đầu tiến hành công tác nghiên cứu
khách quan về tính đục của con người. Họ đã miêu tả hàng loạt dạng bất thường trong
tâm lí tính dục và tán thành việc xúc tiến công tác giáo dục tính dục một cách khoa học.
Đầu thế kỉ XX, xuất hiện một số quan điểm sinh học về vấn đề giới tính, và trong
chừng mực nào đó, lại có sự tham gia thêm của các quan điểm tâm lí học. Giai đoạn này
chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết Sigmund Freud. S. Freud đã tập trung chú ý vào mối
quan hệ giữa các vấn đề tâm lí nhân cách với các dạng tình dục khác nhau. Ông cho
rằng, bất kì dạng tình dục bất thuờng nào cũng đều là sự định hình những giai đoạn phát
triển nhất định của tâm lí tính dục của con người. Tuy nhiên ông quá đề cao yếu tố sinh
học; yếu tố tính dục trong đời sống con người.
Trong những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu tính dục phát triển mạnh
và gắn với phong trào gọi là “Phấn đấu vì những cải cách tính dục”, đòi hỏi bình đẳng
nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ, tự do li hôn và sử dụng các biện
pháp phòng tránh thai, giáo dục tính dục trên cơ sở khoa học… Tuy nhiên, những lí luận
trong thời kì này còn nặng tính tư biện, tách rời khỏi cơ sở xã hội và thực tiễn.
Năm 1926, T.Van de Velde (Hà Lan), đã cho ra đời cuốn “Hôn nhân hiện đại”, cuốn
sách khoa học hiện đại đầu tiên về sinh lí học và kĩ thuật trong hôn nhân, trong đó người
phụ nữ được coi là người bạn đời có vai trò và chức năng tính đục tương đương với
người chồng.
Các công trình nghiên cứu tiến hành tại những nước khác nhau đế chứng minh rằng,
việc định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người phụ thuộc vào những đặc điểm
về văn hoá và vai trò, địa vị xã hội của họ.
Năm 1921, tại Mĩ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu các vấn đề
tình dục. Uỷ ban này đã hỗ trợ cho H. Kingsey cùng các cộng sự của ông nghiên cứu
một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mông về các định hướng tâm lí tính dục và
hành vi của con người. “Bản phúc trình của Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những
liệu phong phú của trên 10 ngàn cuộc điều tra khoa học khoá nhau, đã được nhiều người
biết đến.
Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công tính của W. Masters và V Johnson, vào
năm 1954. Các tác giả này đã tập trung vào việc phát hiện các chuẩn mực trong tính
dục. Công trình này đã được công bố năm 1966 (sau 11 năm nghiên cứu), đã cung cấp
những tham số sinh lí dáng tin cậy về đời sống tính dục của con người.
Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N. Zabanov và
V.I. Iakovenko mang tên “Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến hành trong sự cấm đoán
của Nga Hoàng. Trên 6000 bản điều tra được phát ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu,
chỉ còn 324 bản và công trình nghiên cứu được công bố năm 1922.
Nhiều nhà bác học lớn đã nghiên cứu các khía cạnh của đời sống tính dục, góp
phần xây dựng tính dục học thành một bộ phận khoa học độc lập theo một quan điểm chủ
đạo có hệ thống, trong đó liên kết nhiều phương pháp và thủ pháp sinh lí, lâm sàng và
tâm lí xã hội. Các vấn đề về giới tính đã thu hút sự nghiên cứu của nhiều chuyên gia
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: sinh học, y học, xã hội học, tâm lí học…
Nhiều nhà lãnh đạo hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng của Liên Xô (V.I.
Lê nin, Marxim Gorki, Maiacovxki, Secnưsevxki; đặc biệt là A.X. Makarenko và V.A.
Sukhomlinxki) đưa ra nhiều quan điểm khoa học về đời sống giới tính, tình yêu hôn nhân
gia đình… đã quan tâm đến việc giáo dục giới tính cho con người và coi đó là một nội
dung quan trọng cần phải giáo dục cho học sinh.
Ngay từ những năm 20 của thế là XX, V.I. Lê nin đã nói: “Cùng với việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình cũng được coi là cấp
bách”.
Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học về y học giáo dục học, tâm lí học,
sinh lí học đã cố gắng xây dựng nền móng vững chắc cho nền khoa học giới tính và giáo
dục giới tính theo quan điểm Mác–xít. Họ đã đưa ra nhiều phương hướng quan trọng
trong việc giáo dục giới tính của Liên Xô. A.X. Makarenko viết: “Đạo đức xã hội đặt ra
những vấn đề về giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người
liên quan mật thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ
gia nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người và việc giáo dục
con cái. Khi giáo dục một con người không thể quên giáo dục loại tình cảm đặc biệt đó
về giới tính”. Ông đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội dung phương pháp giáo dục
giới tính. Ông nói: “Các nhà giáo dục học Xô viết coi giáo dục giới tính và giáo dục về đời
sống gia đình là một nội dung của giáo dục đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào
đời sống gia đình”.
I.X. Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống gia đình
đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục giới tính” và “dù xác định
mối tương quan giữa giáo dục giới tính là giáo dưỡng giới tính như thế nào đi chăng nữa,
thì cả hai thứ đều phải tuân theo các mục đích chung của giáo dục”.
A.X. Makarenko cho rằng, thanh niên cần “phải học tập cách yêu đương, phải học
tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc, và như thế có nghĩa là học
tập để biết tự trọng, học tập để biết các vinh hạnh được làm người”. Trong các bài giảng
về giới tính, ông cho rằng: “Chúng ta phải giáo dục con em chúng ta làm sao để các em
có thái độ đối với tình yêu như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em
sẽ được hưởng khoái cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn
khổ gia đình”.
Sukhomlinxki đã khuyên nhủ thanh niên: “Hãy sáng suốt và yêu cầu cao trong tình
yêu. Tình yêu là một loại tình cảm mãnh liệt, nhưng lí trí phải điều khiển trái tim”. “Nữ tính
chân chính là sự kết hợp tính dịu dàng và tính nghiêm khắc, sự âu yếm với tính cứng rắn.
Tình yêu và sự nhẹ dạ không đi cùng nhau. Tình yêu có thể chính đáng về mặt đạo đức,
khi những người yêu nhau được kết hôn trong tình bạn vững bền”.
Ông cũng nhấn mạnh rằng: '“Yêu là thời kì khởi đầu của việc làm cha làm mẹ. Yêu
có nghĩa là cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người khác, với người mình yêu và
với người mình sẽ tạo ra”. “Trong cuộc đời có một hạnh phúc lớn và một công việc lớn,
đó là tình yêu. Tình yêu trai gái, vợ chồng là một lĩnh vực thuộc chủ quyền đặc biệt về
đạo đức”.
Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ chức việc
hướng dẫn và tổ chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về giới tính, nhất là đời
sống tình dục và quan hệ hôn nhân. Việc nghiên cứu và điều trị những bệnh về tính dục
đã được tiến hành. Tầm quan trọng của việc “cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung
phương pháp giáo dục giới tính phù hợp với đạo lý” đã được thừa nhận tại kì họp liên
tịch giữa Viện hàn lâm khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971,
và tại cuộc “Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hoá gia đình,
giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia định tại Varsava” năm 1977.
Gần đây nhiều công trình lớn có tính khoa học về giới tính đã được nghiên cứu
hoặc đưa từ nước ngoài vết góp phần quan trọng vào việc giáo dục giới tính thọ thanh
niên, như các công lênh nghiên cứu của A.V. Petrovxki, I.X. Kim, G.I. Gheraximovic, D.V.
Kolexev, ru.I. Kusnứuk, V.A. Serbakov… với nhiều tác phẩm rất có giá trị: Bách khoa
toàn thư Y học phổ thông; Trò chuyện về giáo dục giới tính của Tiến sĩ y học D.V.
Kolexev; Vệ sinh tinh thần trong sinh hoạt tình dục của Tiến sĩ y học. I. Mielinxki… Ngay
từ những năm 70, việc giáo dục giới tính cho học sinh đã được đề xuất, giảng dạy ở một
số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra chỉ thị cho tất cả các trường học
trong cả nước thực hiện chương trình giáo dục vệ sinh và giáo dục giới tính cho học sinh
các trường phổ thông. Một chương trình giáo dục giới tính được biên soạn rất tỉ mỉ và cụ
thể cho học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 (trung học phổ thông). Đặc biệt, trong chương trình
giáo dục từ năm học 1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp 10
(tương đương lớp 11, 12 của nước ta) gọi tên là “Đạo đức học và tâm lí học đời sống
gia đình” với 34 tiết chính khoá.
Ở Đức hiện nay, có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng với những công trình
nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính như: R. Neubert, Aresin, Smolka, Hopman và
Klemm, Linser, Polte, Dierl, Grassel… Một cuốn bách khoa toàn thư về giới tính được
biên soạn để giảng dạy và giáo dục giới tính cho học sinh.
Ngay từ năm 1959 nhiều tài liệu về giáo dục giới tính đã được biên soạn công phu,
như công trình của R. Neubert: Sách nói về quan hệ vợ chồng, của Z. Snabl: Điều khó nói
trong tình yêu… Vấn đề giáo dục giới tính được tiến hành rộng rãi từ những năm 60, đặc
biệt từ những năm 70 của thế kỉ XX trở đi. Các nhà khoa học Đức quan niệm rằng:
“Những hiểu biết khoa học về vấn đề giáo dục giới tính cần được trang bị ngay cho cả
các cô mẫu giáo, vườn trẻ ở đó cũng cần phải nói dền sự giáo dục về môn quan hệ đúng
đắn gì những người khác giới”. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới tính đã
được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8, với 15 chủ đề khác
nhau và trên 20 sinh tham khảo được quy định.
Nhiều nước như: Tiệp Khắc, Hungary. Ba Lan… đều đã tiến hành giáo dục giới tính
cho học sinh phổ thông bằng những thương trình bắt buộc. Các nước phương Tây như:
Anh. Đan Mạch, Thuỷ Điển, Mi… đã tiến hành giáo dục cho học sinh khá sớm (1966). Ở
Pháp, thương tình giáo dục nội dung này được thực hiện từ năm 1973. Đặc biệt là một
số nước châu Á, châu Phi, Mĩ Latin cũng đưa giáo dục giới tính vào trường phổ thông và
đã đạt kết quả tốt. Trung Quốc đã tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh từ năm 1974
và hiện nay là một trong những nước có nhiều công trình nghiên cứu, có sự phát triển
cao trong nghiên cứu khoa học về giới tính.
Ngay các nước Đông Nam Á như: Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore,
Phihppines… cũng đã thực hiện nội dung giáo dục này. Ở Philippines, giáo dục giới tính
đã được đưa vào chương trình nội khoá của trường phổ thông cơ sở và trường trung
học phổ thông, và là một bộ phận của giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình. Nội
dung giáo dục giới tính đã được lồng ghép một cách hợp lí vào nhiều bộ môn văn hoá
khác, chủ yếu là môn kế hoạch hoá gia đình qua các giờ chính khoá và qua các hoạt
động ngoại khoá, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước này, việc
nghiên cứu các tỉnh thức tổ chức dạy học, những phương pháp và những phương tiện
dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học sinh, làm cho quá trình giáo dục
đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này cũng đã được mở rộng ra ngoài nhà
trường, đến các tầng lớp nhân dân khác nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong
phú, qua các trung tâm tư vấn và đã được xã hội ủng hộ.
Ở Việt Nam ta, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số giáo dục giới tính
đã bắt dầu được quan tâm rộng rãi.
Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn
Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy
nghề phối hợp với các tổ chức có liên giùm xây dựng chương trình chính khoá và ngoại
khoá nhằm bồi dương cho học sinh những kiến thúc về khoa học giới tính, về hôn nhân
gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và
giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả
nước.
Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình
yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Tràn
Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê
Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết
của giới tính và giáo dục giới tính. Nhiều công trình nghiên cứu về giới tính, tình yêu, hôn
nhân gia đình, nhiều cuộc điều tra về tình yêu và đời sống hôn nhân gia đình đã được tiến
hành từ năm 1985 đến nay, bước dầu làm cơ sở cho việc giáo dục giới tính cho thanh
niên và học sinh. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong phú đa dạng về
vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.
Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời sống
gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí hiệu
VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự tài trợ của
UNFPA và UNESCO khu vực.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân
Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều
vấn đề như: quan niêm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân; nhận thức về giới tính và giáo dục
giới tính của giáo viên, học sinh, phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến
hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam dã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề
tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có
liên quan như: Giáo dục sức khoẻ sinh sản; Giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học
sinh; Giáo dục đời sống gia đình; Giáo dục giới tính cho học sinh… Việc nghiên cứu giới
tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh.

Created by AM Word2CHM
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH

1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
Tâm lí học giới tính là một chuyên ngành của Tâm lí học, nghiên cứu về đời sống
giới tính, mối liên hệ giữa giới tính với các hoạt động xã hội của con người và cuộc sống
của con người trong xã hội.
Giáo dục học giới tính là chuyên ngành của Giáo dục học, nghiên cứu về vấn đề
giáo dục giới tính cho con người, chủ yếu là giáo dục cho thế hệ trẻ.
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính là hai ngành khoa học tuy khác nhau
nhưng quan hệ rất mật thiết với nhau.
Trong thực tế nghiên cứu về giới tính hiện nay, người ta thường kết hợp tâm lí học
giới tính với giáo dục học giới tính như một lĩnh vực khoa học thống nhất. Khi tìm hiểu về
tâm lí học giới tính, người ta phải kết hợp với vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh. Việc
nghiên cứu những vấn đế của tâm lí giới tính phải phục vụ cho giáo dục giới tính, phải đi
tới nội dung, phương hướng giáo dục những vấn đề giới tính đó… cho con người. Ngược
lại, khi nghiên cứu về giáo dục học giới tính, các nhà giáo dục phải dựa trên cơ sở tri
thức của Tâm lí học giới tính để xác định chương rình, nội dung, phương pháp, hình
thức, kế hoạch… giáo dục giới tính phù hợp.
Vì vậy trong nhiều công trình nghiên cứu về khoa học giới tính hiện nay ở nước ta,
thường có sự kết hợp chặt chẽ của cả hai ngành khoa học trên.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa nam và nữ dưới ảnh hưởng của đời sống giới tính.
+ Lịch sử nghiên cứu các vấn đề giới tính và sự hình thành phát triển của các khoa
học về giới tính.
+ Những vấn đề tâm lí trong giáo dục giới tính.
+ Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục giới tính.
– Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mô tả và giải thích các hiện tương của đời sống giới tính.
+ Phát hiện các quy luật của các hiện tượng giới tính.
+ Nghiên cứu các hiện tượng tâm lí, các quy luật tâm lí về việc giáo dục giới tính
cho thanh niên, học sinh.
+ Đề xuất những phương hướng giáo dục, vững nội dung, cách thức, biện pháp
thích hợp để giáo dục con người về mặt giới tính, tạo điều kiện để phát triển toàn diện
dân cách cho thanh thiếu niên học sinh và cho mọi người.
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các ngành
khoa học khác
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính có mối quan hệ mật thiết với nhiều
ngành khoa học, phải dựa trên cơ sở của Sinh lí học, Giải phẫu sinh lí, Tâm lí học, Tâm lí
học xã hội, Tâm lí học giao tiếp, Xã hội học…
Khi nghiên cứu Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính, chúng ta còn phải
dựa trên cơ sở của Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học giới tính… Đây là
những ngành khoa học còn non trẻ ở nước ta.
Ngoài ra, việc nghiên cứu tâm lí giới tính còn phải gắn với nhiều ngành khoa học
khác như: Y học, Sinh học, Xã hội học, Giáo dục học, Dân số học và Giáo dục dân số…
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu các vấn đề giới tính đang được sự quan tâm
đặc biệt của Y học, Xã hội học, Giáo dục học và Tâm lí học.
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay
- Việc nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là tâm lí học giới tính và giáo dục học giới
tính ở nước ta hiện nay đang được quan tâm và phát triển mạnh mẽ.
– Có nhiều quan điểm khác nhau về đời sống giới tính, về những thuật ngữ cơ bản
được sử dụng trong các ngành khoa học về giới tính (giới, giới tính, tính dục, tình dục,
tình yêu…).
– Có nhiều biểu hiện phức tạp trong việc nghiên cứu về giới tính:
+ Sự lẫn lộn giữa các khái niệm, các thuật ngữ về giới và giới tính.
Có người cho rằng, giới chỉ là những đặc điểm xã hội, do xã hội tạo ra. Ngược lại,
giới tính lại chỉ được hiểu là những đặc điểm về sinh lí và không biến đổi. Nhiều thuật ngữ
như: tính dục và tình dục, giới và giới tính, tình dục và giới tính… thường bị sứ dụng lẫn
lộn hoặc phiến diện, lệch lạc.
+ Nội hàm của một số khái niệm chưa được thống nhất như giới tính, tính dục, sức
khoẻ sinh sản.
+ Sự pha trộn các quan điểm phương Tây với những quan điểm truyền thống Việt
Nam. Trong xã hội, nhiều người cho rằng không cần thiết phải giáo dục giới tính trong
nhà trường, trong thanh niên, nhiều người có quan niệm tình dục tự do, tình yêu tự do,
tình yêu không cần hôn nhân…
+ Những tồn tại của các quan điểm phong kiến lạc hậu về các hiện tượng của đời
sống giới tính.
+ Sự xuất hiện nhiều tài liệu, sách báo thiếu khoa học về vấn đề giới tính, nhằm mục
đích chạy theo thị hiếu, thay theo kinh doanh; thậm chí có sự nhầm lẫn giữa các sách
báo, tài liệu khoa học về giới tính với các sách báo mê tín dị đoan hoặc mang tính kích
dục, tính khiêu dâm, dồi trụy… Những sách này thiếu tính giáo dục, tính khoa học, nhiều
khi chỉ kích thần tính tò mò, gây tác hại cho thanh thiếu niên.
+ Các văn hoá phẩm đồi trụy hoặc văn hoá phẩm theo những quan điểm nước
ngoài nhiều khi gây tác dụng tiêu cực trong giáo dục thanh thiếu niên, không phù hợp với
phong tục truyền thống Việt Nam. Ngược lại, những tư tưởng, quan điểm phong kiến khắt
khe, lạc hậu vẫn song song tồn tại trong đời sống xã hội, trong nghiên cứu và đánh giá
các vấn đề của đời sống giới tính.
+ Nhận thức của nhiều tầng lớp xã hội như: phụ nữ, thanh thiếu niên, người lớn,
thậm chí, có cả một bộ phận không nhỏ của nhà giáo, giới trí thức về nhiều vấn đề của
đời sống giới tính còn thấp hoặc phiến diện, hoặc sai lầm.
+ Những phương tiện thiết bị nghiên cứu về vấn đế giới tính còn rất hạn thế. Do
điều kiện xã hội phong kiến, những phương pháp nghiên cứu chưa thật sự đa dạng và
toàn diện, kể cả phương pháp điều tra xã hội học cũng khó có thể phát huy hết tác dụng,
không thể hỏi nhiều vấn đề tế nhị.
+ Việc nghiên cứu về giới tính đang được quan tâm nhưng kết quả thưa thật sự
cao, thậm chì còn có lệch lạc trong một số công trình nghiên cứu.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân:
+ Đời sống giới tính rất phức tạp nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu một cách
đầy đủ và hệ thống bởi các nhà khoa học. Nhiều người còn e ngại hoặc thành kiến, có
quan niệm không đúng về vấn đề nghiên cứu và giáo dục giới tính.
+ Những vấn đề của đời sống giới tính thường kích thích tính tò mò của con người,
nhất là đối với thanh niên. Họ thường rất quan tâm đến những vấn đề của giới tính,
thường xuyên trải nghiệm, thể nghiệm những biểu hiện của giới tính trong đời sống hàng
ngày nhưng không tự giải thích được. Chính vì vậy, nhu cầu tìm hiểu về giới tính rất cao.
Họ thường tự tìm hiểu chúng trong mọi điều kiện có thể có trong mọi tài liệu sách báo có
đề cập đến những vấn đề giới tính mà không có khả năng phân biệt những tài liệu khoa
học hay phản khoa học.
+ Những tri thức về đời sống giới tính có thể được tích luỹ qua kinh nghiệm sống
của con người. Nhiều trường hợp có những người không học tập trong nhà trường nhưng
vẫn có những hiểu biết nhất định thông qua sự từng trải trong cuộc sống của họ. Những
kinh nghiệm và sự hiểu biết này có thể không có tính hệ thống khoa học nhưng cũng có
thể giúp cho họ vận dụng ở mức độ nhất định trong cuộc sống. Có khi còn làm cho họ
nghĩ rằng hình đã biết rất nhiều.
+ Có những vấn đề của đời sống giới tính là những vấn đề tế nhị ít khi được trình
bày một cách công khai và chính thức trong xã hội. Nhiều người còn cho rằng đó là
những vấn đế thiếu đứng đắn, thiếu lịch sự, do đó tuy rất quan tâm nhưng họ không dám
nói ra. Việc nghiên cứu và tìm hiểu chúng thường chỉ là vụng trộm, truyền miệng, rỉ tai
nhau hoặc bàn tán trong nhóm bạn bè… Vì vậy những hiểu biết thường chỉ là vụn vặt,
phiến diện và đôi khi không chính xác.
+ Còn nhiều những quan điểm khác nhau về các khái niệm, các thuật ngữ, thậm chí
về cả nội dung và phương pháp nghiên cứu các vấn đề giới tính ở Việt Nam. Các tài liệu
sách báo lưu hành trên thị trường rất phong phú đa dạng, có nhiều tài liệu khoa học
nhưng cũng có những tài liệu chỉ tập trung khai thác những vấn đề giới tính thu hút sự
quan tâm chú ý của người đọc, phục vụ cho việc kinh doanh, vì vậy có nhiều tài liệu rất
phiến diện, lệch lạc, thậm chí có những tài liệu mang tính mê tín dị đoan, hoặc phản khoa
học.
+ Việc dịch thuật các tài liệu nước ngoài sang tiếng Việt cũng chưa được chuẩn
hoá, hiệu đính một cách nhất quán bởi các nhà chuyên môn. Chẳng hạn, từ “sex” trong
tiếng Anh có thể dịch thành nhiều nghĩa như: giới tính”, “tình dục, tính dục, “khoả thân”…
Vì thế nhiều tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài, dù là của các tác giả có uy tín khoa học,
cũng không được chính xác và toàn diện.
Trong khi đó, ở nước ta, thưa có những công trình nghiên cứu cần thiết để thống
nhất các khái niệm, các thuật ngữ, cách sử dụng từ trong nghiên cứu các vấn đề giới
tính, chưa có những hội nghị khoa học cần thiết để thống nhất và phát triển các khoa học
về giới tính.
+ Nhiều tệ nạn xã hội liên quan đến đời sống giới tính có chiều hướng phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt là ăn chơi trác táng, nhậu nhẹt bia ôm, biến tướng của vũ trường,
hoạt động của các “động lắc”, mại dâm…
+ Vấn đề giáo dục giới tính còn nhiều quan niệm phức tạp, mâu thuẫn. Nhiều ý kiến
không thống nhất về nội dung, chương trình, về phương thức giáo dục giới tính trong nhà
trường. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, không nên tiến hành giáo dục giới tính trong
chương trình nội khoá, hoặc ngay cả trong ngoại khoá vì cần phải dành thời gian cho các
môn khoa học cơ bản hoặc các môn học quan trọng hơn. Ngay cả khi đã có quyết định
đưa một số nội dung của đời sống giới tính vào chương trình giáo dục trong nhà trường
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều địa phương, nhiều trường học vẫn không nghiêm tức
thực hiện, hoặc chỉ thực hiện một cách cầm chừng, một cách hình thức để đối phó với
những đợt kiểm tra của Bộ.
+ Lực lượng các nhà nghiên cấm các giáo viên làm công tác giáo dục giới tính,
giảng dạy kiến thức giới tính cho học sinh còn rất thiếu. Trong nhiều trường phổ thông
không có giáo viên được đào tạo chuyên môn để giảng dạy những kiến thức này. Trong
trường sư phạm, việc trang bị những kiến thức giới tính cho sinh viên, giáo sinh cũng
chưa được quan tâm.
+ Việc đào tạo cán bộ chuyên khoa về ngành này chưa được thực hiện một cách
tập trung, hoàn chỉnh, thưa có chương trình đào tạo chuyên ngành, nội dung giảng dạy
còn đơn giản, sơ lược.
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới tính
Hiện nay, việc nghiên cứu các khoa học về giới tính đang được quan tâm ở nhiều
ngành, nhiều cơ quan khoa học. Đây là một lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ ở nước
ta. Còn nhiều vấn đề cần phải tập trung nghiên cứu như:
– Nghiên cứu chuyên sâu để phát triển các ngành khoa học về các lĩnh vực của đời
sống giới tính như: Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học giới tính, những vấn đề
y học về đời sống giới tính, Giáo dục học và Tâm lí học giới tính…
– Nghiên cứu sâu hơn bản chất của các hiện tượng trong đời sống giới tính như: sự
phát triển sinh lí cơ thể ở nam và ở nữ trong các giai đoạn lứa tuổi, đặc biệt là các lứa
tuổi ở người lớn như: giai đoạn từ khoảng 48 – 50 đến 54 - 55; từ 56 đến 65; từ trên 65
đến 70 – 75 ở nữ; từ trên 75 đến 85 ở nam, hiện tượng kinh nguyệt và sinh nở; các hiện
tượng bệnh lí giới tính, đời sống tình dục, sự già lão của cơ thể, vấn đề sức khoẻ sinh
sản, đời sống tình yêu và hôn nhân…
– Vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục tính dục cho học sinh, sinh viên và các lứa tuổi
lớn hơn…
– Các vấn đề tâm lí, diễn biến tâm lí về việc giáo dục giới tính trong nhà trường và
xã hội.
– Tăng cường việc nghiên cứu, giảng dạy các kiến thức giới tính cho học sinh, sinh
viên, đặc biệt là sinh viên các trường sư phạm, để khi ra trường, họ sẽ là các giáo viên
có khả năng, trình độ làm công tác giảng dạy và giáo dục giới tính.
Thống nhất và chính xác hoá các khái niệm quan trọng (như giới, giới tính, tính dục,
tình dục, sức khoẻ sinh sản…) các nội dung trình bày của những ngành khoa học có liên
quan đến đời sống giới tính mới được quan tâm nghiên cứu (như giáo dục dân số và sức
khoẻ sinh sản, giáo dục gia đình, tâm lí và giáo dục giới tính…).
– Xây dựng, bổ sung thêm những khái niệm, thuật ngữ mới trong khoa học giới tính
như “độ trẻ trung”, “sự già lão”, “chỉ số sinh sản” ở nam, ở nữ, “vẻ đẹp cơ thể”, “động cơ
yêu đương”, “hôn nhân hạnh phúc”…

Created by AM Word2CHM
Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH


II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC SINH

Created by AM Word2CHM
I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

1. Khái niệm giới


a) Tìm hiểu khái niệm giới
Giới là một khái niệm rất phức tạp, được nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau,
và theo nhiều quan điểm khác nhau.
– Giới có thể được hiểu theo mặt sinh học, là một tập hợp những đặc điểm sinh lí
cơ thể đặc trưng ở con người (ở động vật, giới ở đây có nghĩa là giống. Trong động vật
có giống đực và giông cái). Những đặc điểm sinh lí cơ thể thường bao gồm những đặc
điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ thể, điển hình và quan trọng nhất là hệ cơ
quan sinh dục. Ở con người có hai loại hệ cơ quan sinh dục chính là hệ cơ quan sinh dục
nam và hệ cơ quan sinh dục nữ, vì vậy loài người có hai giới là giới nam và giới nữ. Giới
theo nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền.
– Giới còn được hiểu theo góc độ xã hội, là những đặc điểm mà xã hội đã tạo nên
ở người nam và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những
đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm nhiều vấn
đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội…
Những vấn đế này thường do xã hội quy định và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử,
từng quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc…
– Tổng quát hơn có thể định nghĩa giới như sau:
Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản
giống nhau.
Định nghĩa này cho thấy:
+ Giới là một tập hợp người mang những đặc điểm sinh học cơ bản giống nhau.
Những đặc điểm sinh học cơ bản này bao gồm nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể, như hình
dáng, cấu tạo các hệ cơ quan sinh lí, nhưng điển hình là hệ cơ quan sinh dục. Ở loài
người chủ yếu có hai loại hệ cơ quan sinh dục: hệ cơ quan sinh đục nam và hệ cơ quan
sinh dục nữ. Do đó, loài người có hai giới (hai tập hợp người) cơ bản: giới nam và giới
nữ… Khi một em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta dựa vào hệ cơ quan sinh dục để xác
định em bé thuộc về giới nam hay nữ. Như vậy, giới được hình thành bởi những đặc điểm
sinh lí cơ thể. Cũng có thể nói một cách khác, những đặc điểm sinh lí cơ thể là căn cứ để
xác định giới, là cơ sở hình thành giới.
Tuy ở loài người chủ yếu có hai giới là giới nam và giới nữ, nhưng trong thực tế vẫn
có một số ít người không thuộc về hai giới trên, người ta thường gọi là giới thứ ba. Giới
này xuất hiện do nguyên nhân chủ yếu là hệ cơ quan sinh dục không được bình thường
về mặt cấu tạo hoặc chức năng, dẫn tới việc phát triển tâm lí sinh lí cơ thể không bình
thường. Nhiều người cho rằng đây là những người có sự lệch lạc trong sự hình thành và
phát triển của hệ cơ quan sinh dục.
Định nghĩa giới như trên dựa trên cơ sở những đặc điểm sinh hệ cơ thể, chủ yếu là
hệ cơ quan sinh dục. Trong trường hợp này, giới được quy định bởi những đặc điểm sinh
lí cơ thể.
Đó là giới sinh thể.
+ Giới là một tập hợp người trong xã hội, vì vậy, giới mang những đặc điểm về
nhóm người, về xã hội loài người. Với ý nghĩa này, khái niệm giới có thể được dùng để
chỉ các tập hợp người như giới trí thức, giới sinh viên, giới bình dân…
Tuy nhiên, theo góc độ của Tâm lí học giới tính, Giới được hiểu như là một tập hợp
người có chung những đặc điểm sinh lí điển hình. Mỗi một tập hợp người đó bị thi phối và
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội một cách khác nhau, tạo nên những giá trị xã hội khác
nhau. Từ đó hình thành những đặc tính riêng của từng giới và dần dần hình thành những
đặc điểm xã hội đặc trưng cho mỗi giới (về chức năng, vai trò xã hội, nghĩa vụ, quyền
hạn…). Trong trường hợp này, giới được quy định bởi những đặc điểm xã hội. Nói một
cách khác giới mang tính xã hội.
Đó là giới xã hội.
Như vậy giới bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lí cơ thể và thuộc tính xã
hội.
Xét về mặt sinh lí cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di truyền. Yếu tố
quan trọng và điển hình của giới ở đây là hệ cơ quan sinh dục. Và dưới ảnh hưởng chủ
yếu của hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, cơ thể con người còn có nhiều những biến
đổi khác tạo nên những đặc trưng của giới về hệ xương và hệ cơ, chiều cao và cân nặng,
tỉ lệ giữa cơ và mỡ, hình dáng đặc trưng của cơ thể nam và cơ thể nữ, sức lực của từng
giới (trương lực của cơ bắp, của gân, khớp…) và về nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể khác.
Do cấu tạo sinh lí cơ thể khác nhau, ở mỗi giới có những chức năng sinh lí khác nhau,
như giới nữ có khả năng thụ thai, sinh nở, có hiện tượng kinh nguyệt… giới nam không có
những chức năng trên, nhưng thường cao lớn khoẻ mạnh hơn, có khả năng sản xuất ra
tinh trùng…
Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những quy định, luật
lệ, đòi hỏi… của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban đầu, dưới ảnh hưởng của
những đặc tính về sinh lí cơ thể như chiều cao, tầm vóc to lớn của cơ thể, sức mạnh…
người nam và người nữ được phân công những công việc, những vai trò khác nhau trong
đời sống xã hội. Dần dần mỗi người, mỗi giới tạo nên những đặc tính về mặt xã hội như
vai trò trong gia đình, địa vị trong xã hội hoặc những yếu tố về mặt tâm lí như nhu cầu về
sự thành dạt, nhu cầu về đời sống tình cảm… Những yếu tố trên chịu sự tác động của xã
hội, của lịch sử, tạo nên những đặc điểm, chức năng, vai trò xã hội khác nhau. Giới được
thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Giới là tập hợp người có những vai trò
chức năng xã hội nhất định.
Như vậy giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.
Khi nói đến giới sinh học, người ta thường chú ý nhiều đến hệ cơ quan sinh dục của
con người. Khi em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta chỉ dựa vào hệ cơ quan sinh dục để
xếp em bé đó thuộc về giới nam hay giới nữ (em tra hay em gái). Khi em bé lớn lên, đặc
biệt là khi bước vào thời kì dậy thì, người ta có thể xếp một người vào giới thứ ba nếu
hoạt động của hệ cơ quan sinh dục của người đó là không bình thường.
Khi nói đến giới xã hội, có nhiều vấn đề được quan tâm như:
– Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội.
– Sự phân công lao động trong xã hội cho người nam và người nữ.
– Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới).
- Những quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người nữ trong xã
hội.
– Sự phát triển, sự tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội.
– Mối quan hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới.
b) Một số vấn đề tâm lí xã hội và giới
Ngày nay, trong xã hội ta, còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về giới xã hội như: vấn
đề bình đẳng giới, vấn đế quan hệ giữa hai giới, vấn đề giới tính ở mỗi giới…
– Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố tâm lí xã hội, do những đặc điểm về mặt sinh lí
cơ thể, giới nữ (còn gọi là nữ giới thường có nhiều khó khăn và thiệt thòi hơn giới nam
(gọi là nam giới) trong đời sống xã hội như:
+ So với nam giới, nữ giới có tầm vóc bé nhỏ hơn, sức lực yếu đuối hơn nhưng lại
mang nhiều thiên chức nặng nề hơn: có hiện tượng kinh nguyệt, có sự thụ thai và sinh
nở… Việc sinh nở là một thiên chức cao cả của người phụ nữ đồng thời cũng là một
gánh nặng đối với họ. Để cho ra đời một con người, người phụ nữ phải mang nặng đẻ
đau, hao tổn rất nhiều về mặt sức lực, về mặt cơ thể và thường phải mất từ 3 đến 5 năm
lo lắng cho việc chăm sóc và nuôi dạy một đứa con, khiến cho họ gặp nhiều khó khăn
hơn nam giới trong việc vươn lên, học tập, rèn luyện để phát triển nhân cách. Đó là chưa
kể việc sinh nở một đứa con có thể làm cho người phụ nữ xấu đi, già đi, ốm yếu đi nhanh
hơn bình thường (trong thực tế sự “xấu đi”, “già đi”, “ốm yếu đi” dễ xảy ra trong những
trường hợp sinh đẻ không đúng khoa học, sinh đẻ quá sớm, quá mau, quá nhiều…).
+ So với nam giới, ở Việt Nam, nữ giới thường chịu nhiều sự đánh giá khắt khe,
nặng nề hơn, chịu nhiều những quy định bất công trong xã hội như: nữ giới bị coi như phải
gánh chịu toàn bộ việc lao động nội trợ trong gia đình, phải “đảm đang”, “chịu khó” lo lắng
mọi công việc nhà, chăm sóc con cái, cơm nước… phải lo việc nhà cho nam giới đi giao
tiếp ngoài xã hội, nữ giới phải thụ động trong tình yêu, bị đánh giá nặng nề, bị kiểm soát
chặt chẽ trong đời sống tình cảm yêu đương, trong sự chung thuỷ và thậm chí ngay cả
trong trách nhiệm đối với con cái.
+ So với nam giới, nữ giới ít được tạo điều kiện để hoạt động xã hội, để học tập
vươn lên. Ngày nay vẫn còn nhiều người có quan niệm lạc hậu, bất công về phụ nữ, như
“trọng nam khinh nữ', “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu”… Thực tế người phụ nữ vẫn chưa thực sự bình đẳng với nam giới trong xã hội.
Những quan niệm này thậm chí còn tồn tại ngay trong bản thân người phụ nữ khiến cho
họ thường thiếu tự tin, thiếu bản lĩnh và thiếu điều kiện thuận lợi để vươn lên ngang tầm
với nam giới trong xã hội.
+ Người phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi khác trong đời sống sinh lí, tâm lí, xã hội,
trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, trong việc tham gia quản lí và hoạt động xã hội…
Thậm chí ở nhiều vùng, người phụ nữ còn bị đánh đập, hành hạ và bị sử dụng như một
công cụ lao động biết nói.
Vì vậy vấn đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giới, vấn đề xây dựng bình đẳng giới
thực sự là một vấn đề rất cần thiết, rất quan trọng, nhưng cũng là một vấn đề rất phức
tạp, khó khăn và còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
– Quan niệm về sự bình đẳng giới:
+ Trong việc đấu tranh cho bình đẳng giới, còn nhiều quan niệm chưa đầy đủ và
đúng đắn như: Có người cho rằng bình đẳng giới chỉ là việc người nữ có thể làm mọi việc
giống như người nam, có quyền ăn mặc và sinh hoạt giống như nam giới. Có người cho
rằng, đấu tranh cho sự bình đẳng giới là chỉ cần thực hiện sự đãi ngộ ngang bằng giữa
hai giới. Có người còn hiểu sai lệch về khái niệm “đảm đang” ở người phụ nữ…
+ Sự bình đẳng giới cần phải được hiểu một cách đúng đắn toàn diện theo nhiều
khía cạnh sau đây:
· Người nữ cần phải được tôn trọng như người nam giới, cần phải tin tưởng ở
người phụ nữ trong việc đảm nhiệm những chức năng, những vai trò xã hội của
họ.
· Người nữ phải được hưởng mọi tiêu chuẩn và quyền lợi giống như nam giới
trong lao động, trong hoạt động xã hội, trong học tập, và hưởng thụ các giá trị xã
hội.
· Người nữ phải được phân công lao động và làm việc phù hợp với đặc điểm sinh
lí cơ thể của mình để bảo vệ sức khoẻ và có điều kiện tiến bộ, phát triển. Sự
bình đẳng giới trong trường hợp này là sự bình đắng xuất phát từ những đặc
điểm sinh lí cơ thể.
· Người nữ phải được chăm sóc và quan tâm về mọi mặt, đặc biệt là được học
tập để nâng cao trình độ, được tham gia quản lí xã hội, được hưởng đầy đủ mọi
cơ hội để vươn lên trong xã hội như nam giới.
· Do chịu nhiều thiên chức nặng nề, người nữ phải được ưu đãi hơn, phải được
tạo điều kiện và được tham lo nhiều hơn, giúp cho họ được học tập, có điều kiện
thuận lợi tham gia các hoạt động của xã hội, có điều kiện để phát triển nhân cách
toàn diện.
+ Cần cụ thể hoá hơn việc đấu tranh cho quyền bình đẳng giới, tạo điều kiện cho
người phụ nữ vươn lên trong cuộc sống xã hội, phát triển tài năng và nhân cách toàn diện
bằng nhiều biện pháp:
· Tăng cường các thiết bị hiện đại trong gia đình (máy giặt, tủ lạnh, máy hút bụi
bếp gas…) để người phụ nữ khỏi vất vả với công việc nội trợ.
· Dành thời gian cho người phụ nữ được giao tiếp xã hội, tham gia các hoạt động
xã hội.
· Dành thời gian cho người phụ nữ được học tập theo nhu cầu vươn lên của mỗi
người.
· Giúp cho người phụ nữ có điều kiện được tham gia các hoạt động văn hoá văn
nghệ, nghỉ ngơi và vui chơi giải trí, làm đẹp và trang điểm, đọc sách báo và tập
luyện thể dục thể thao…
2. Khái niệm giới tính
a) Tìm hiểu khái niệm giới tính
– Giới tính có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và thường bị sử dụng lẫn
lộn với nhiều thuật ngữ khác như: giới, tình dục, tình dục, sinh dục… Nhiều người thường
quan niệm giới tính đồng nghĩa với tình dục hoặc với tính dục. Đó là quan niệm chưa thực
sự đầy đủ chỉ hiểu một cách đơn giản hoặc hiểu về một mặt nào đó của giới tính.
– Giới tính cần được hiểu một cách toàn diện hơn:
+ Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm của giới.
Những đặc điểm này có thể rất phong phú và đa dạng. Vì giới vừa bao gồm những thuộc
tính về sinh học và những thuộc tính về tâm lí xã hội, nên giới tính cũng bao gồm những
đặc điểm về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội.
+ Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên những đặc trưng của
giới, giúp cho chúng ta phân biệt giới này với giới kia.
· Những đặc điểm giới tính cổ thể là những đặc điểm sinh lí cơ thể như: cấu trúc
và chức năng của các bộ phận cơ thể đặc biệt là hệ cơ quan sinh dục con người,
sự phát triển (biến đổi về kích thước, hoàn thiện dần về chức năng…) của
chúng, những chức năng đặc biệt của hệ cơ quan sinh dục như: kinh nguyệt, sinh
nở, sự vỡ giọng, mọc râu… những trạng thái bệnh lí của các bồ phận sinh lí cơ
thể ở nam và ở nữ và do mối quan hệ nam nữ tạo ra…
· Những đặc điểm giới tính cũng có thể là những đặc điểm về tâm lí, tính cách
như sự dịu dàng, hiền hậu, sự kín đáo, tính cương trực thẳng thắn, tính dũng
mãnh…
Những đặc điểm trên thường mang đặc trưng của từng giới và tạo nên sự khác biệt
giữa hai giới. Giới tính là những yếu tố xác định sự khác biệt giữa giới này và giới kia.
Có thể định nghĩa, giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo nên sự
khác biệt giữa nam và nữ.
– Trong đời sống con người, hai giới không thể tồn tại độc lập mà luôn luôn tác
động đến nhau, có mối quan hệ qua lại mật thiết vôi nhau. Sự quan hệ qua lại này bị thi
phối bởi nhiều đặc điểm về sinh lí, về tâm lí ở mỗi người, bởi những đặc điểm về văn
hoá, chính trị, phong tục tập quán của xã hội, trong đó có các đặc điểm đặc trưng của
mỗi giới. Từ đó lại hình thành nên nhiều yếu tố mới, hiện tượng mới trong đời sống giới
tính như: Sự giao tiếp giữa hai giới, quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu, hôn nhân…
Đời sống giới tính của con người rất phong phú và đa dạng. Đó là những hiện
tượng tâm lí và sinh lí nảy sinh trong đời sống của mỗi người, trong mối quan hệ giữa
người này với người kia, trong cuộc sống chung của mỗi người, trong sự tồn tại của xã
hội. Đời sống giới tính là một tổng hợp phức tạp các hiện tượng tâm lí và sinh lí có liên
quan đến mỗi giới, là mọi yếu tố, mọi mặt hoạt động, mọi mối quan hệ… trong đời sống
của con người, trong đời sống xã hội loài người:
Đời sống giới tính là toàn bộ những hiện tưởng về mặt sinh lí cơ thể xuất hiện trong
con người có liên quan đến hệ cơ quan sinh dục (đời sống tính dục), những hiện tượng
tâm lí đặc trưng ở mỗi giới, những hiện tượng tâm lí người trong mối quan hệ với người
khác giới (tình bạn khác giới, tình yêu…), những hiện tượng trong đời sống xã hội như
hôn nhân, gia đình… Gần đây, còn xuất hiện những biểu hiện phức tạp hơn của đời sống
giới tính như: các quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình dục ngoài hôn nhân, tình
bạn và sự giao tiếp giữa những người khác giới…
Như vậy khái niệm về giới tính cần được hiểu một cách đầy đủ toàn diện về nhiều
mặt sinh lí và tâm lí, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình, tình yêu và tình bạn, sự
giao tiếp nam nữ…
b) Ngồn gốc của giới tính
Những đặc điểm giới tính do hai nguồn gốc chủ yếu tạo ra:
- Nguồn gốc sinh học
Theo Giáo sư Nguyễn Quang Vinh, giới tính cua con người do các tế bào sinh sản
quyết định. Tế bào sinh sản nam (tinh trùng) có 2 loại: loại chứa nhiễm sắc thể X quy
định giới tính nữ; loại chứa nhiệm sắc thể Y quy định giới tính nam. Tế bào sinh sản nữ
(trứng) chỉ chứa một loại nhiễm sắc thể X. Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể X thụ tinh
với trứng, em bé sinh ra sẽ là nữ (X+X). Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thụ tinh với
trứng, em bé sinh ra sẽ là nam (X+Y). “Giới tính của động vật (trong đó có con người
được quyết định ngay từ lúc thụ tinh, tuỳ theo trứng X được kết hợp với tinh trùng X hay
tinh trùng Y”. Theo Iu.I. Kusniruk và A.P. Serbakov đó là giới tính di truyền. Có thể nói,
giới tính di truyền là giới tính được xác định bởi sự thụ tinh giữa trứng và tinh trùng. Sự
thụ tinh như vậy (X+Y hay X+X) trong những điều kiện thông thường, sẽ làm cho thai nhi
có cấu tạo đặc trưng của cơ thể nam hoặc nữ trong quá trình phát triển của nó. Do cấu
tạo khác nhau nên hoạt động sinh lí mỗi giới có những đặc điểm khác nhau. Các tuyến
sinh dục và các hoóc môn (nội tiết tố) tiết ra từ các tuyến này sẽ quy định những đặc
điểm sinh lí cơ thể riêng biệt và các thành phần tạo nên những nét tính cách đặc trưng
cho mỗi giới.
Trong quá trình phát triển cơ thể, sự trưởng thành về sinh lí cơ thể cũng góp phần
quan trọng tạo nên những đặc điểm giới tính nhất định. Đến một độ tuổi nhất định, tuyến
sinh dục sẽ hoạt động, và ngày càng hoạt động mạnh hơn, sự hoạt động của tuyến sinh
dục, nhất là khi tuyến này bước vào thời kỳ trưởng thành (thời kỳ chín muồi tình dục), sẽ
tạo nên những chức năng sinh lí đặc biệt của cơ thể người: sự dậy thì, hoạt động tình
dục, sinh sản… Tuyến sinh dục ở người hình thành từ tuần thứ 8 trong đời sống ờ tử
cung, nhưng mãi đến tuổi dậy thì mới hoạt động. Đây là “tuổi thành thục về sinh dục”, hay
“tuổi chín muồi sinh dục”, nó đánh dấu thời kì bắt đầu có khả năng sinh sản, ở nữ từ 13,
14 tuổi; ở nam từ 15 đến 16 tuổi. Vai trò của tuyến sinh dục rất lớn đối với việc tạo nên
giới tính. Các tác giả Iu.I. Kusniruk và A.P. Serbakov cho rằng chính các tuyến sinh dục
(buồng trứng hoặc tinh hoàn) tạo nên “giới tính đích thực” của con người. “Gọi là giới tính
đích thực và nó phản ánh đặc trưng khả năng của tuyến sinh dục sản sinh ra tinh trùng
hay trứng, đồng thời cũng tạo ra những hoóc môn giới tính nam hoặc nữ đặc thù. Các
hoóc môn này ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự phát triển của các cơ quan sinh
dục bên trong và bên ngoài cùng những đặc điểm giới tính phụ khác. Qua đó, nó giúp
cho con người có đầy đủ những chức năng thực sự của người nam hay người nữ. Như
vậy giới tính đích thực là giới tính được xác định do sự hoạt động thực tế của hệ cơ
quan sinh dục. Ở những người có hệ cơ quan sinh dục nam, những hoạt động của hệ cơ
quan này không bình thường, chẳng hạn, không tiết ra được nội tiết tố nam đủ tỉ lệ cần
thiết sẽ không thể trở thành một người nam giới bình thường. Họ sẽ không có giới tính
bình thường.
Giới tính đích thực có thể được tình thành trong quá trình phát triển của con người
theo lứa tuổi, và có thể được thể hiện rõ từ khoảng 13, 14 tuổi trở đi, đặc biệt là từ độ
tuổi 18 – 20, khi đến độ chín muồi giới tính.
- Nguồn gốc xã hội:
Những đặc điểm sinh học chưa đủ để xác định giới tính. Theo Giáo sư Trần Trọng
Thuỷ “Tình cảm và ý thức về giới tính của một người chỉ được hình thành qua sự giao
tiếp với những ngời khác qua sự ảnh hưởng của giáo dục và các điều kiện xã hội. Những
đặc điểm về giải phẫu và sinh lí của cơ thể mới chỉ là tiền đề, là cơ sở vật chất tạo nên
sự khác biệt giới tính mà thôi”. Do đó có thể nói, giới tính của con người còn do các mối
quan hệ xã hội chi phối.
Xã hội ảnh hưởng đến giới tính con người ở nhiều mặt:
+ Xã hội quy định, đánh giá con người theo những phẩm chất, đặc điểm, tư thế, tác
phong riêng, phù hợp giới tính. Điều này thể hiện ở phong tục, tập quán, đạo đức xã hội.
Như phong tục tập quán Việt Nam thường đòi hỏi người con gái phải dịu dàng, hiền hậu ý
tứ, người con trai phải cao thượng, dũng cảm, cương quyết… Xã hội cũng đòi hỏi mối
quan hệ và cư xử nam nữ phải tuân theo những chuẩn mực nhất định: phải có “khoảng
cách” (giới hạn) nhất định, phải có tư thế, tác phong lịch sự, phải tuân theo những quy
định nào đó trong giao tiếp…
+ Xã hội quy định sự phân công lao động giữa nam và nữ khác nhau: người nam
thường được đòi hỏi nhiều hơn ở những công việc khó khăn, nguy hiểm, nặng nhọc… ở
người nữ lại là những công việc cần sự khéo léo, nhẹ nhàng hơn…
+ Xã hội ảnh hưởng đến yếu tố có nguồn gốc sinh học: người nam thường được đòi
hỏi phải cao lớn, khoẻ mạnh, người nữ cơ thể nhỏ bé, “xinh xắn” hơn: Ngay cả bản năng
tình dục cũng được xã hội nhìn nhận, đánh giá theo những tiêu chuẩn, đạo đức văn hoá
nhất định: “Tình dục ở con người chịu sự chi phối của các quy luật tâm lí, quy luật tình
cảm, của ý thức đạo đức, văn hoá, xã hội. Ở Việt Nam ta, vấn đề tình dục thường được
coi là một vấn đề gắn với đạo đức xã hội”.
+ Sự giáo dục của xã hội, của người lớn ảnh hưởng nhiều đến đặc điểm giới tính
của con người. Nếu một em gái được nuôi dưỡng, giáo dục theo những điều kiện và môi
trường của con trai, em đó dễ có hành vi cư xử của con trai, dễ có nhiều nam tính hơn và
ngược lại đối với một em trai cũng vậy.
Giới tính còn được xác định bởi tâm lí, ý thức của chính bản thân mỗi người. Đến
một độ tuổi nhất định, đến một sự phát triển nhất định về mặt ý thức, mỗi một người có
thể ý thức được giới của mình, mình thuộc về giới nào và cần phải có những phẩm chất
nào để thể hiện giới… Sự ý thức về giới này bị chi phối bởi nhiều yếu tố như:
+ Sự nhận thức về những quy định của xã hội về giới của mỗi người. Chẳng hạn,
nếu là con trai, cần phải có những phẩm chất nào cần phải ăn mặc như thế nào, cần phải
hành động, làm việc như thế nào. Nếu là con gái, cần phải rèn luyện những khả năng gì,
cần phải trang điểm, ăn mặc, làm việc, có tác phong tư thế dáng điệu như thế nào…
+ Sự nhận thức những đánh giá của mọi người về giới của bản thân hình làm cho
mỗi người chú ý rèn luyện về những phẩm chất đặc điểm mà mình cần có theo ý thức về
giới của họ.
+ Sự nhận thức bản thân hoặc tự cảm nhận mình thuộc về giới nào và có những
nhu cầu đặc trưng cho giới đó. Có những người tuy cơ thể là nam giới nhưng luôn luôn
nghĩ mình cần phải là nữ và hướng hoạt động, sinh hoạt của mình theo nữ giới (hiện
tượng “xu hướng giới”, “bản sắc giới”).
+ Sự tác động của những người xung quanh, chủ yếu là sự giáo dục của gia đình và
nhà trường.
3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính
Giới và giới tính có mối quan hệ rất chặt chẽ và phức tạp. Giới là cơ sở để tạo nên
giới tính. Những đặc điểm sinh học của giớí xác định giới tính về mặt sinh học đồng thời
cũng là những biểu hiện của giới tính về mặt sinh học. Ở góc độ này, giới là một bộ phận
của giới tính, đồng thời giới chi phối và quyết định giới tính. Những đặc điểm xã hội của
giới cũng góp phần hình thành những đặc điểm xã hội của giới tính. Chúng cũng chi phối
và quyết định sự hình thành giới tính.
Ngược lại, giới tính lại phải phù hợp với giới và bị xã hội đánh giá theo giới, giới tính
cũng góp phần khắc hoạ rõ nét thêm về giới. Ở một mức độ nào đó giới tính cũng chính
là giới hoặc giới tính lại là một thành phần của giới
Khi nói đến giới người ta hiểu giới tính là những đặc điểm của giới, giới tính là một
bộ phận của giới, là những yếu tố tạo nên khái niệm giới, là cơ sở để phân định rõ hơn
vai trò, chức năng, vị trí của giới.
Khi nói đến giới tính, giới lại được hiểu như là những đặc điểm của giới tính. Chẳng
hạn, giới là những đặc điểm giới tính về mặt cấu trúc sinh lí cơ thể.
Trong thực tế đời sống xã hội, khái niệm giới và giới tính thường bị dùng lẫn lộn
nhưng mọi người vẫn có thể chấp nhận.

Created by AM Word2CHM
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

1. Sự phức tạp của đời sống giới tính


Do giới tính có nguồn gốc sinh vật và nguồn gốc xã hội, nên đặc điểm của giới rất
đa dạng.
Theo nhà xã hội học nổi tiếng Eveline Sullezot, chuyên gia của Liên Hợp Quốc, việc
nghiên cứu những đặc điểm giới tính con người phải xem xét trên ba bình diện: cơ thể
(sinh học), cá nhân (tâm lí học) và xã hội (xã hội học).
Khi phân tích sự khác biệt giũa nam và nữ, Giáo sư Trần Trọng Thuỷ đã nhấn mạnh
những đặc trưng sinh lí và những đặc trưng tâm lí xã hội.
Xét riêng về mặt sinh lí, E. Sullezot cũng đưa ra 7 dấu hiệu có sự khác biệt rõ ràng
giữa nam và nữ như sau: Những ngóc môn tính dục, sự hình thành những tế bào sinh
sản, cơ quan sinh sản và chức năng của nó, hình thái cơ thể, sự già lão của cơ thể, bệnh
lí cơ thể tuổi thọ. Về mặt tâm lí và xã hội, E. Sullezot cũng tán thành với quan niệm của
E. Maccoby: “Sự khác biệt giới tính biểu hiện từ khi trẻ em còn rất nhỏ (2, 3 tuổi) và biểu
hiện ở nhiều mặt hoạt động khác nhau: vui chơi, chơi đồ chơi, quan hệ với người lớn,
hoạt động trí tuệ…” và quan niệm của Streven Golđberg: “Mỗi giới có một số đặc trưng
về tính khí, dù môi trường xã hội là như thế nào và những khác biệt ấy quy định vai trò xã
hội của đàn ông và đàn bà một cách khác nhau. Vì đàn ông có tính gây hấn hơn và có xu
hướng thiết lập những quan hệ đẳng cấp thống trị hơn đàn bà, nên họ nhất định vượt qua
mọi các để đi tới vị trí lãnh đạo và quyền lực mà một xã hội có thể xem lại”.
Quan niệm của Rene Zazzo đề cập đến hai xu hướng khác nhau: ở con gái có ưu
thế trong ngôn ngữ (nói năng), ở con trai lại có ưu thế về hoạt động trí tuệ, trong lĩnh vực
logic và nhìn nhận không gian.
Sự khác biệt giới tính còn thể hiện ở nhiều mặt khác. Kể cả quá trình trưởng thành
của cơ thể. “Nhiều khác biệt về các thuộc tính sinh học của đàn ông và đàn bà cũng còn
bí ẩn, đặc biệt là những đặc điểm không có liên quan trực tiếp với con người mới đẻ ra.
Chẳng hạn, đồng hồ sinh học của mỗi giới hoạt động một cách khác nhau. Theo mức độ
trưởng thành (trạng thái của xương trong các giai đoạn phát triển khác nhau của cơ thể)
khi đẻ ra, con gái phát triển trước con trai một tháng. Con gái biết đi, biết nói sớm hơn.
Dần dần, khoảng cách ấy càng tăng lên cho đến lúc bước vào lứa tuổi quá độ (dậy thì)
thì cách nhau tới 2 năm, và đến khi kết thúc sự tăng trưởng thể chất thì cách nhau tới 3
năm”.
Nhiều tác giả khác đều đã khẳng định các đặc điểm giới tính về sinh lí, tâm lí, xã hội
trong các công trình nghiên cứu của mình.
Trong đời sống xã hội, con người luôn có quan hệ mật thiết với nhau, do đó, trong
quan hệ giữa những người khác giới, có nhiều vấn đề phức tạp về giới tính nảy sinh, như:
tình bạn khác giới, khoảng cách giữa người nam và người nữ, những rung cảm xuất hiện
trước người khác giới, tình yêu, hôn nhân…
– Có thể kết luận về những đặc điểm giới tính như sau:
+ Những đặc điểm giới tính ở con người rất phức tạp. Nó bao gồm những đặc điểm
về sinh lí, về tâm lí, về xã hội.
+ Giới tính biểu hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong đời sống.
+ Giới tính biểu hiện trong quá trình trưởng thành của cơ thể, ngay từ lúc thụ tinh,
trong quá trình phát triển cơ thể từ khi mới sinh ra đến lúc trưởng thành và trong suốt
cuộc dời. Sự biểu hiện ấy bị chi phối bởi nhiều yếu tố, sinh lí, tâm lí, điều kiện xã hội,
hoạt động cá nhân, những thuộc tính di truyền, những tác động xã hội.
+ Giới tính biểu hiện trong các hoạt động tâm lí con người, trong toàn bộ các phẩm
chất nhân cách. Nó gắn liền với đời sống tâm lí và toàn bộ nhân cách con người.
+ Giới tính của con người có thể bị biến đổi do những tác nhân về tâm lí, sinh lí, xã
hội. Những ảnh hưởng của sự hoạt động của sự rèn luyện, những can thiệp của con
người về mặt xã hội, về mặt y tế đều có thể làm cho giới tính thay đổi. Những chức năng
của các bộ phận sinh lí cơ thể, đặc biệt là chức năng của hệ cơ quan sinh dục tạo nên
nhiều đặc điểm về giới tính, nhiều vấn đề của giới tính như tình dục, các bệnh lây lan qua
đường tình dục…
+ Sự quan hệ giữa hai giới trong đời sống xã hội lại làm nảy sinh nhiều đặc điểm
giới tính mới và làm phức tạp thêm những đặc điểm giới tính đã có ở con người.
+ Các phong tục tập quán, các quy định của xã hội, cũng chi phối nhiều đặc điểm
giới tính, làm cho đặc điểm giới tính ở từng vùng, từng miền, từng giai đoạn lịch sử có
những đặc trưng riêng làm phong phú và phức tạp thêm đời sống giới tính của con
người.
2. Mối quan hệ giữa hai giới
Những đặc điểm tạo nên sự khác biệt về giới (giới tính) không làm cho hai giới đối
lập nhau, mà ngược lại, làm cho hai giới có quan hệ mật thiết với nhau hơn, tạo nên
những mối quan hệ đặc biệt giữa hai giới.
Những mối quan hệ này rất phức tạp, đa dạng, chủ yếu bao gồm: sự cư xử giao
tiếp trong xã hội, tình bạn khác giới, tình yêu nam nữ, hôn nhân gia đình…
a) Mối quan hệ cư xử, giao tiếp giữa hai giới
Khác với mối quan hệ giữa hai người đồng giới, quan hệ giữa hai người khác giới
thường đặc biệt hơn: Khi giao tiếp cư xử với người khác giới, ở con người thường xuất
hiện những rung cảm, những ý nghĩ “không bình thường”, không tự nhiên. Những cảm xúc
này được tạo bởi những đặc điểm sinh học (nhất là do chức năng của hệ cơ quan sính
dục tạo ra) hoặc những đặc điểm tâm lí xã hội (tính e thẹn, mắc cỡ, mọi người gán ghép,
nhận xét đánh giá…): Đặc biệt từ tuổi dậy thì trở đi, khi con người bước vào thời kì chín
muồi sinh dục.
Ở thời kì này, do sự trưởng thành về sinh dục, do sự quan tâm đánh giá một cách
chặt chẽ của xã hội, do sự phát triển tâm lí… mỗi khi giao tiếp cư xử với người khác giới,
con người thường có những cảm xúc giới tính rõ rệt, mạnh mẽ. Họ có thể thận trọng, ý
tứ tế nhị, e ngại, mắc cỡ hoặc cũng có thể xuất hiện những rung động, ham muốn, đòi hỏi
về tình cảm hoặc tình dục. Những cảm xúc này bị chi phối bởi những quy định của xã hội
bởi những chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán. Nó cũng có quan hệ mật thiết với
đạo đức phong tục, tập quán. Chẳng hạn, xã hội quy định giữa nam và nữ khi giao tiếp
với nhau phải có giới hạn nhất định, không được quá thân mật, suồng sã, người nam,
người nữ phải có những tư thế tác phong phù hợp, lời ăn tiếng nói, và hành vi cử chỉ ý
nhị, lịch sự… Có những dân tộc, địa phương, người nam không được bước vào buồng
riêng của người nữ, không được cầm tay người nữ…
Do những đặc điểm giới tính, con người phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức
nhất định khi cử xử giao tiếp với nhau. Nói cách khác, giới tính tạo nên những mối quan
hệ đặc biệt giữa nam và nữ, chi phối những hành vi giao tiếp, cư xử giữa người nam và
người nữ. Trong mỗi mối quan hệ, có những hành vi cư xử tương ứng: Nếu hai người xa
lạ, hành vi cư xử phải tế nhị, lịch sự, phải giữ khoảng cách… Nếu đó là hai vợ chồng, họ
có thể rất thân mật, có thể có hành vi âu yếm, yêu thương…
Như vậy, vấn đề giới tính gắn liền với đạo đức, phong tục tập quán. Chính vì thế khi
nghiên cứu, tác động vào giới tính con người, ta phải chú ý đến những yếu tố đạo đức,
phong tục, tập quán và những yếu tố xã hội khác.
b) Mối quan hệ bạn khác giới
Do những đặc điểm giới tính, mối quan hệ bạn khác giới có những đặc điểm khác
hẳn mối quan hệ bạn đồng giới và trở thành nhu cầu trong đời sống tình cảm con người.
Nhưng cũng do đó, tình bạn khác giới có nhiều điểm khác với tình bạn đồng giới như:
trong cư xử giữa hai người bạn, không thể có những hành động quá thân mật, không thể
suốt ngày bên nhau, đi đâu cũng có nhau… Tình bạn khác giới có thể rất đẹp, rất tốt, tồn
tay lâu dài, nhưng nó cũng có thể chuyển hoá dần thành tình yêu.
Ở tuổi thanh niên, tình bạn khác giới rất khác với tình bạn đồng giới, và nhiều khi
“tình bạn khác giới chứa đựng một tình yêu đang nảy sinh được chất chứa ở bên trong”.
Tình bạn khác giới ở các em nữ biểu hiện khác biệt so với các em nam. Nhu cầu về
tình cảm này ở các em nữ thường cao hơn, sớm hơn và sâu sắc hơn ở các em nam.
Theo Giáo sư I.X. Kon, các em gái thường chọn bạn trai làm người bạn lí tưởng, trong
nhóm giao lưu của các em có đông bạn trai hơn, mà phần nhiều là bạn trai cao tuổi hơn.
Về nhu cầu tình bạn thân khác giới, ở các em gái thường sớm hơn các em trai từ 1,5
năm đến 2 năm. Tình bạn khác giới của các em gái cũng phức tạp, mang màu sắc cảm
xúc nhiều hơn. “Tình bạn khác giới của các em nữ có tiêu chuẩn tinh tế hơn, mang nhiều
động cơ tâm lí hơn ở các em nam”.
Ở cùng một lứa tuổi, nhu cầu bạn khác giới ở các em nữ thường cao hơn. Trong
công trình nghiên cứu của mình, I.X. Kon đã kết luận, từ lớp 5 đến lớp 10 (tương đương
từ lớp 9 đến lớp 12 ở Việt Nam) trong tất cả các lứa tuổi, số lượng các em gái kết bạn
khác giới bao giờ cũng nhiều hơn các em trai, và tuổi càng lớn thì sự khác biệt càng rõ
hơn. Các công trình nghiên cứu của V.G. Cacpion và B. Zazzo ở Pháp cũng cho kết quả
tương tự. Những kết quá điều tra của nhóm cán bộ nghiên cứu của Khoa Tâm lí Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 cũng hoàn toàn thống nhất với nhận
định trên.
Như thế, mối quan hệ khác giới nảy sinh ở tuổi thanh thiếu niên từ tuổi dậy thì trở đi
có tính tất yếu và tình bạn khác giới ở các em nam cũng khác biệt so với các em nữ.
Theo I.X. Kon, đó là sự khác biệt rất cơ bản, nhưng “không phải đơn thuần chỉ là do khác
biệt giới tính, mà là những khác biệt lứa tuổi giới tính. Vấn đề không chỉ là ở chỗ phụ nữ
nói chung giàu cảm xúc hơn nam giới, mà là ở chỗ các em gái chín muồi sinh dục sớm
hơn, sớm có hình thức tự ý thức hơn các em nam”. Tình bạn khác giới của các em nảy
sinh do sự khác biệt giới tính, và bị chi phối bởi sự phát triển giới tính, trước hết là những
đặc điểm phát triển tính dục và đời sống tình cảm của các em.
c) Mối quan hệ tình yêu và quan hệ tình dục
Những đặc điểm giới tính, kể cả những đặc điểm tính dục, tình dục và đặc điểm
tâm lí thường thúc đẩy hai người bạn khác giới đi đến tình yêu trong những điều kiện phù
hợp. Sự khác biệt giới tính thường có tác dụng hỗ trợ tình yêu thêm hấp dẫn, đằm thắm
và sâu sắc. Trong những trường hợp này, sự khác biệt giới tính có tác dụng làm cho hai
người bổ sung cho nhau, phối hợp với nhau, đan xen nhau, có khi đến mức hoà nhập vào
nhau, “Hai người trở thành một”… Nói cách khác sự khác biệt giới tính có thể dẫn tới
quan hệ tình yêu và quan hệ tình dục.
Quan hệ tình yêu là một dạng quan hệ tình cảm đặc biệt giữa hai người khác giới.
Đó là một tình cảm cao cấp được nảy sinh trên cơ sở sự gắn bó mật thiết, sự cảm thông
sâu sắc, sự yêu thương đằm thắm và sự rung cảm mạnh mẽ giữa hai người. Quan hệ
tình yêu thường nảy sinh khi hai người khác giới có sự nhận thức dầy đủ và tốt đẹp về
nhau, thông cảm với nhau, hoà hợp với nhau cả về đời sống tâm hồn và thể xác. Chính vì
vậy, quan hệ tình yêu là một trong những dạng quan hệ mật thiết nhất giữa hai người
khác giới.
Quan hệ tình dục là quan hệ đặc biệt về mặt sinh lí cơ thể, là sự rung cảm giới tính
mãnh liệt, là những nhu cầu hoà nhập đặc biệt về mặt sinh lí cơ thể (thường được gọi là
nhu cầu về thể xác) giữa hai con người. Quan hệ tình dục thường được nảy sinh ở con
người trong một số điều kiện như: sự phát triển bình thường và trưởng thành của đời
sống tính dục bắt đầu từ giai đoạn dậy thì của cơ thể, sự phát triển những cảm xúc giới
tính, sự ham muốn được thoả mãn những cảm xúc giới tính mãnh hệt, tình yêu nồng
thắm… của con người. Quan hệ tình dục thường được biểu hiện ở những hành vi cử chỉ
vuốt ve, âu yếm, ôm ấp, bởi những nụ hôn… Quan hệ tình dục có thể xuất phát từ những
bản năng đơn thuần nhưng cũng có thể xuất phát từ tình yêu và bị chi phối mạnh mẽ bởi
tình yêu. Ngược lại, tình yêu cũng có thể nảy sinh và phát triển từ sự hoà hợp về quan hệ
tình dục.
Một vài quan niệm sai lầm cho rằng tình yêu chỉ là vấn đề tình dục, hoặc trong tình
yêu chủ yếu là tình dục. Trong thực tế, khi yêu nhau, ngoài tình dục còn nhiều yếu tố tâm
lí có tác dụng rất mạnh mẽ đến tình yêu như sự thương mến, sự gần gũi, sự đồng cảm,
sự giúp đỡ và quan tâm đến nhau thậm chí có thể hi sinh vì nhau. Tuy nhiên, trong tình
yêu, yếu tố tình dục cũng có vai trò rất quan trọng. Tình dục có thể làm nảy sinh tình yêu,
là thành phần và cũng là sự biểu hiện của tình yêu, có thể làm cho tình yêu thêm say
đắm, mãnh liệt hơn, làm cho tình yêu phát triển mạnh thêm, sâu nặng thêm. Ngược lại,
tình dục không phù hợp có thể làm cho tình yêu phai nhạt hoặc tan vỡ.
S. Freud cho rằng: “Hạt nhân của cái mà ta gọi là tình yêu, đó là tình yêu tình dục”,
“là sự đam mê tình dục, “có mục đích là hai giới được gần nhau”.
Như vậy giữa hai người khác giới có thể nảy sinh mối quan hệ tình yêu và mối quan
hệ về tình dục. Những mối quan hệ này có ý nghĩa rất lớn đến cuộc sống, sự phát triển,
sự tồn tại của con người.
d) Mối quan hệ hôn nhân
Hôn nhân trước hết là một hiện tượng xã hội, trong đó, xã hội thừa nhận hai người
khác giới được chung sống với nhau, bị ràng buộc với lulđu bởi luật pháp. Xã hội quy định
hai người phải có trách nhiệm đối với nhau và cùng có trách nhiệm trước xã hội. Bình
thường, xã hội quy định chỉ hai người khác giới mới được kết hôn với nhau.
Chính do giới tính tác động, hai người khác giới mới có nhu cầu kết hôn với nhau.
Chính giới tính có vai trò đặc biệt quan trọng tạo nên hôn nhân. Nhờ những đặc điểm tính
dục và tâm lí tính dục, mới có những quan hệ yêu đương, quan hệ vợ chồng, có sự sinh
con, có quan hệ cha con, mẹ con, có đời sống gia đình…
Hôn nhân và đời sống gia đình còn bị chi phối bởi những quy luật tâm lí, xã hội. Nó
cũng là những hiện tượng tâm lí xã hội phức tạp gắn liền với đời sống sinh lí, tâm lí, đời
sống tính dục của con người. Trong hôn nhân, quan hệ tình dục giữa hai vợ chồng được
coi như là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi. Trong hôn nhân, những vấn đề giới tính khác,
nhất là tâm lí tính dục có vai trò rất quan trọng. Có thể nói, quan hệ hôn nhân là hệ quả,
là sản phẩm của đời sống giới tính.
e) Một vài kết luận về quan hệ giữa hai giới
– Giữa hai giới có mối quan hệ rất mật thiết và phức tạp.
Những mối quan hệ đó được tạo nên bởi giới tính, bởi sự khác biệt giữa nam và
nữ, đồng thời bị chi phối bởi chính sự khác biệt đó. Chúng gắn bó mật thiết với giới tính
và trở thành những vấn đề điển tình, quan trọng của giới tính.
Như thế, nghiên cứu về giới tính, hoặc nói đến giới tính không thể chỉ đơn thuần chú
ý đến những đặc điểm giới tính (đã nêu ở mục c), mà còn phải nghiên cứu đến những
mối quan hệ giữa hai giới. Những mối quan hệ đó, cùng với những đặc điểm giới tính,
đều là những vấn đề của giới tính, đều có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con
người. Giới tính là một lĩnh vực rất phức tạp, đa dạng, phong phú trong đời sống con
người. Cần phải hiểu giới tính một cách toàn diện và sinh động. Cũng cần phải tránh một
số quan điểm sai lầm trong nhiều người hiện nay cho giới tính chỉ là tình yêu, tình dục.
– Những vấn đề cần chú ý của giới tính.
Giới tính và mối quan hệ giữa hai giới có nội dung rất phong phú và đa dạng, bao
gồm các đặc điểm, các vấn đề sinh lí, tâm lí xã hội. Trong đó, có những đặc điểm, những
vấn đề điển hình hoặc có ý nghĩa quan trọng nổi bật trong đời sống con người.
Khi xét đến giới tính hoặc tiến hành giáo dục giới tính cho con người, cần chú ý đến
những vấn đề quan trọng, điển hình sau đây: Những vấn đề sinh lí cơ thể, cấu tạo và
chức năng của nhiều bộ phận, sức khoẻ, vẻ đẹp cơ thể… Đặc biệt là đời sống tính dục
của con người. Trong đó có những chức năng đặc biệt như sự dậy thì, sự sinh sản, hiện
tượng kinh nguyệt, đời sống tình dục…
– Những vấn đề tâm lí xã hội như mối quan hệ và sự cư xử giữa nam và nữ, tình
bạn khác giới, tình yêu nam nữ, đời sống vợ chồng, cuộc sống gia đình. Đây là những
vấn đề liên quan rất mật thiết với giới tính.
– Những vấn đề giới tính liên quan mật thiết với đạo đức, phong tục tập quán như
đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, phong tục tập quán về giới tính, vấn đề đời sống,
sinh hoạt dưới góc độ của giới tính như: ăn mặc, sửa soạn trang điểm, hành vi cử chỉ, tư
thế tác phong…
Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn về những vấn đề quan trọng và điển tính
của giới tính.
3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính
Các đặc điểm giới tính rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các đặc
điểm giới tính, cần chú ý đến các loại đặc điểm giới tính điển hình chủ yếu sau đây:
a) Những đặc điểm giới tính về mặt sinh lí
+ Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục. Đây là sự khác biệt dễ thấy và
quan trọng nhất về mặt sinh học.
+ Hình thái, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan khác trong cơ thể (hệ
xương, cơ, tỷ lệ mỡ, da…).
+ Tốc độ sinh trưởng và phát triển sinh lí cơ thể. Độ lớn của cơ thể (chiều cao, cân
nặng…).
+ Sự già lão và độ trẻ trung.
+ Hiện tượng dậy thì, kinh nguyệt.
+ Sự sinh nở và nuôi con.
+ Thể lực, hình dáng và sự phát triển cơ thể.
+ Tỉ lệ mắc bệnh và các bệnh thường mắc.
+ Tuổi thọ.
+ Hoạt động tình dục, và các bệnh thuộc về lĩnh vực này.
b) Những đặc điểm giới tính về mặt tâm lí, xã hội
Đó là những đặc điểm khác biệt của người nam so với người nữ về mặt tâm lí xã
hội như:
+ Nhu cầu, thái độ, hoạt động của người nam, người nữ trong đời sống xã hội.
+ Hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí, tính cách, năng lực, tính khí, xu hướng…
+ Vai trò, chức năng xã hội.
+ Các mối quan hệ xã hội và hoạt động xã hội.
+ Hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, cách ăn mặc, trang điểm…
+ Các vấn đề thẩm mỹ giới tính và đạo đức giới tính.
Như vậy giữa nam và nữ có nhiều đặc điểm rất khác biệt. Sự khác biệt đó thể hiện
trong toàn bộ đời sống tâm lí, sinh lí, hoạt động cuộc sống của con người. Sự khác biệt
này dần dần được xã hội thừa nhận, và cũng dần dần trở thành những điểm đặc trưng
cho mỗi giới, tạo nên sự khác biệt giữa hai giới. Đó là những đặc điểm giới tính của con
người. Xã hội căn cứ vào những đặc điểm này để sử dụng, đánh giá con người theo giới
của họ. Một người không có những đặc điểm phù hợp với những đặc điểm mà xã hội quy
định giới của họ phải có họ có thể sẽ bị coi là không bình thường, hoặc bị đánh giá thấp
hơn về mặt phẩm chất nhân cách. Nói một cách khác, nếu con người không có những
đặc điểm giới tính phù hợp với giới của họ, sẽ bị coi là người không bình thường”.
c) Những vấn đề giới tính nảy sinh do mối quan hệ giữa hai giới
Sự khác biệt nam nữ không làm cho nam và nữ xa cách mà ngược lại làm cho hai
giới có mối quan hệ mật thiết hơn, gắn bó với nhau hơn, đặc biệt từ tuổi dậy thì trở đi.
Từ độ tuổi này, hai giới thường hướng đến nhau, quan tâm đến nhau, ảnh hưởng tác
động đến nhau, thậm chí họ tìm đến nhau để xây dựng những mối quan hệ đặc biệt trong
xã hội, thủ yếu là các mối quan hệ sau:
- Quan hệ giao tiếp và cư xử giữa hai giới.
– Vấn đề tình bạn khác giới.
– Vấn đề tình yêu nam nữ.
- Quan hệ hôn nhân – gia đình.
Việc nghiên cứu về giới tính phải gắn với việc nghiên cứu về các mối quan hệ trên.
Các mối quan hệ đó vừa là hệ quả của những đặc điểm giới tính, vừa là biểu hiện của đời
sống giới tính. Các mối quan hệ đó chính là những vấn đề, những nội dung sinh động của
đời sống giới tính.

Created by AM Word2CHM
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con người
- Trong nhiều công trình nghiên cứu, người ta đều thấy rằng từ tuần lễ thứ 8 đến
tuần lễ thứ 10, giới tính tuyến sinh dục mới phân li, và khi ấy, thai nhi bắt đầu phát triển
theo giới tính một cách rõ ràng.
- Khi ra đời, đứa trẻ chỉ có một dấu hiệu giới tính bề ngoài, đó là cấu tạo cơ quan
sinh dục bên ngoài. Đây là yếu tố chủ yếu và quan trọng, để xã hội xác nhận giới tính của
em là trai hay gái, và từ đó đánh giá em theo những phẩm chất giới tính tương ứng. Đặc
điểm này cũng là cơ sở cho sự giáo dục và hình thành ý thức về giới tính của đứa trẻ
cho đến khi em bé bước vào tuổi dậy thì.
– Theo nhiều tác giả từ tuổi lên 3 lên 4, trẻ em đã bước đầu ý thức được giới tính
của mình, biết được mình thuộc giới nào và phân biệt được giới tính của những người
xưng quanh mặc dù mới chỉ dựa vào những thuộc tính bên ngoài. Từ khoảng 6, 7 tuổi,
giới tính bắt đầu rõ rệt, biểu hiện ở sự phân hoá các hoạt động và định hướng giá trị.
Các em trai và các em gái chơi trò chơi khác nhau theo góc độ giới tính… Sự khác biệt
giới tính này càng ngày càng rõ rệt hơn. “Đứa trẻ bắt đầu biết xử sự theo những dấu
hiệu mà nó nhận thấy là nó thuộc về giới nào, đồng thời ngược lại nó thấy thẹn thùng
trước các dấu hiệu mà theo nó thuộc về giới kia”. Đứa trẻ sẽ lựa chọn những dạng nào
đó trong số các khuôn mẫu hành vi được chấp nhận ở môi trường xung quanh nó.
Từ tuổi dậy thì trở đi, ở trẻ em có sự biến đổi rất quan trọng và rõ rệt về giới tính,
với những sự thay đổi lớn về cơ thể và bắt đầu có sự định hướng giới tính. Nhiều người
cho rằng từ tuổi này, cơ thể người bước sang giai đoạn thứ hai của quá trình hình thành
giới tính… Thời kì này ở nữ bắt đầu từ 12 đến 14 tuổi, ở nam từ 13 đến 15 tuổi. Trong
thời kì này, các tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động tích cực làm con người phát triển rõ
rệt theo giới: họ đần đần thực sự trở thành nam hay nữ (hoặc giới thứ ba). Đồng thời
các dấu hiệu tương ứng với giới tính theo hoóc môn sinh dục cũng được phát triển và
chức năng sinh dục hình thành… Nhiều tác giả gọi thời kì này là thời kì trưởng thành sinh
dục hay thời kì chín muồi về tính dục, chín muồi giới tính.
Ở thời kì này, cơ thể đạt đến sự trưởng thành về sinh dục, tức là bắt đầu có khả
năng sinh sản. Toàn bộ cơ thể thay đổi một cách sâu sắc nhưng sự thay đổi này ở nam
và nữ, và ở từng cá thể có khác nhau. Dần dần, nó làm cho những đặc điểm về bề ngoài
của con người được xác định, chẳng hạn, người nam có hình thể khác hẳn với người nữ.
Mặt khác, những dấu hiệu lệnh thành chức năng tính dục xuất hiện ở nam có những
đợt mộng tinh đầu tiên, và ở nữ là hiện tượng kinh nguyệt. Cùng với các hiện tượng đó,
sự biến đổi về hình dáng cơ thể biến đổi về tâm sinh lí ngày càng nhiều và rõ nét, tác
động mạnh mẽ đến ý thức của trẻ em về bản thân mình.
Những chức năng tính dục ngày càng xuất hiện rõ rệt và phát triển với nhiều biểu
hiện khác nhau như khả năng tình dục, sinh sản… tuy rằng ở nam và nữ khác nhau.
Ở nam, vào khoảng từ 14 đến 19 tuổi đã xuất hiện sự quan tâm đến giới nữ. Điều
này liên quan đến việc tuyến sinh dục hoạt động mạnh, sản sinh ra các hoóc môn sinh
dục nam (Testosteron). Dần dần, sự quan tâm đến giới nữ được thể hiện một cách cụ
thể, và xuất hiện lòng ham muốn gần gũi về thể xác.
Ở nữ, chức năng tính dục hình thành sớm hơn nam (khoảng từ 12 đến 16 tuổi)
nhưng sự phát triển tính tích cực tính dục do cơ quan phát dục tạo ra chậm hơn, và từ từ
đạt tới đỉnh cao sau nhiều năm. Đồng thời sự phát triển tính tích cực này lại phức tạp
hơn nhiều so với nam, nó gắn liền với nhiều đặc điểm tâm lí, xã hội khác một cách mật
thiết hơn so với nam. Tính tích cực tính dục ở nữ được quy định bởi số lượng hoóc môn
sinh dục nữ (Prosestoron) do các tuyến sinh dục tiết ra. Đó là những biểu hiện cụ thể cho
thấy các em đã bước vào thời kì chín muồi tính dục, chín muồi giới tính. A.V. Petrovxki
cho rằng, ở những trường hợp bình thường, thời kì chín muồi tính dục bắt đầu ở nữ từ
12 đến 14 tuổi và kết thúc khoảng từ 16 đến 18 tuổi: còn ở nam bắt đầu từ khoảng 13
đến 15 tuổi và kết thúc ở tuổi 18 – 20.
Tuy nhiên, thời hạn và cường độ của sự chín muồi tính dục phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: có những đặc điểm sinh lí có tính di truyền lẫn yếu tố điều kiện sinh hoạt, kinh tế, xã
hội, tình trạng sức khoẻ, dinh dưỡng, khí hậu, đời sống tâm lí… Các yếu tố bất lợi (như
điều kiện sinh hoạt thấp kém, ăn uống thiếu chất, bệnh tật…) thường gây ra sự thay đổi
chậm trễ, mất cân bằng… trong sự phát triển cơ thể, tính dục, tâm lí.
Sự chín muồi tính dục bị chi phối bởi nhiều yếu tố phức tạp khác dẫn tới sự biến đổi
to lớn về đời sống vật chất và tinh thần của con người. Đồng thời, được tác động của
nhiều yếu tố, ý thức về giới tính dần dần được hình thành. Đó là khả năng nhận biết mình
mang giới tính nào, khả năng điều chỉnh hành vi cho phù hợp với những đòi hỏi, những
định hướng về tinh thần, đạo đức đã được thừa nhận trong xã hội về giới tính.
Trong thời kì này, các em cũng “thức tỉnh môn quan tâm với người khác giới”. Sự
quan tâm này chưa có ngay sắc thái tình dục dặc thù vốn tiêu biểu cho thời kì tình dục
trưởng thành. Theo I.X. Kon, A.V. Petrovxki, ở các em thiếu niên hình thành mối quan hệ
đặc biệt, có thể xác định đó như là sự yêu thương mang màu sắc tình cảm thanh cao.
Chỉ về sau, cùng với lúc kết thúc thời kỳ chín muồi giới tính, con người mới thức tỉnh
những cảm xúc tình dục đặc thù, bộc lộ tính hoạt động sinh dục và hình thành ý thức giới
tính trưởng thành.
Cùng với sự biến đổi rõ rệt về đời sống tâm lí của các em trong thời kì chín muồi
giới tính, tâm lí của thiếu niên phong phú hơn lên rất nhiều nhờ những ấn tượng mới, cảm
xúc mới, nhưng lại không ổn định. Các em thường nhạy cảm quá mức, dẫn đến sự mất
cân bằng về tâm lí: lúc hiếu động, lúc lầm lì, khi lạnh lùng, khi nhiệt tình quá mức, lúc rụt
rè, lúc quá trớn cố ý kèm theo những hành vi có tính thách thức… Có trường hợp các
em thiếu cân bằng trong hoạt động thần kinh, khả năng làm việc giảm sút, hay bực bội,
cáu có gắt gỏng hay khóc lóc… Tình trạng này dễ xảy ra ở em gái, nhất là những ngày
hành kinh.
Những đặc điểm nêu trên của thời kì chín muồi giới tính đặt ra những yêu cầu đối
với các bậc phụ huynh và các nhà sư phạm trong việc giáo dục các em. Việc tác động
giáo dục các em một cách phù hợp tế nhị là hết sức quan trọng trong thời kì này. Trong
đó, việc trang bị cho các em những kiến thức cần thiết, đúng đắn về giới tính, việc đối xử
có tính sư phạm, sự quan tâm đến các em, tạo cho các em một môi trường hoạt động
tốt đẹp… có ý nghĩa rất to lớn đến sự phát triển nhân cách, đến cuộc đời của các em
sau này.
– Sự hình thành những nét tâm lí giới tính, kể cả tâm lí tính dục còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác: sự phát triển xã hội và điều kiện sống, các mối quan hệ giao tiếp của
cá thể, nền giáo dục mà trẻ em được hấp thụ, phong tục tập quán xã hội, toàn bộ đặc
điểm nhân cách… Đặc biệt, sự hình thành đặc điểm giới tính gắn liền với sự hình thành
phát triển nhân cách. Nhân cách chi phối những đặc điểm và đời sống giới tính. Nhiều đặc
điểm của đời sống giới tính cũng chính là đặc điểm nhân cách. Thậm chí những đặc điểm
đơn thuần về sinh lí, về tính dục được “xã hội hoá”, “tâm lí hoá”, có khi cũng trở thành
những đặc điểm nhân cách.
Sự hình thành phát triển giới tính gắn bó hữu cơ với sự hình thành phát triển nhân
cách. Không thể tách rời hai quá trình này. Tác động vào giới tính cũng chính là tác động
vào nhân cách và ngược lại. Những phẩm chất đạo đức, năng lực, xu hướng, khí chất…
đều có thể mang màu sắc của giới tính, gắn bó với giới tính, phát triển theo giới tính.
Những đặc điểm giới tính lại ảnh hưởng trở lại đến nhân cảm và toàn bộ đời sống tâm lí
con người.
2. Các giai đoạn phát triển của giới tính
Có nhiều cách phân chia các giai đoạn phát triển giới tính dựa trên những cơ sở
khác nhau như: lứa tuổi, quan hệ xã hội, sự giao tiếp xã hội, đời sống hôn nhân, sinh
nở… Sau đây là cách phân chia các giai đoạn phát triển giới tính phổ biến nhất:
a) Dựa trên sự phát triển sinh lí cơ thể theo lứa tuổi
Có thể phân chia sự phát triển giới tính của con người theo các giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1: từ khi lọt lòng mẹ đến 6, 7 tuổi
Giới tính chưa hình thành một cách rõ rệt mặc dù có những biểu hiện khác nhau
giữa các em trai và em gái trong hoạt động vui chơi (chơi trò chơi hay các đồ chơi).
Chưa có sự khác biệt rõ ràng về đặc điểm cơ thể do hoạt động của tuyến sinh dục nam
và nữ chưa phát triển mạnh về chức năng sinh lí giới tính (các chức năng tính dục chưa
rõ rệt). Ở giai đoạn này, các em trai và gái quan hệ với nhau rất tự nhiên, chưa bị chi
phối bởi các cảm xúc giới tính.
Giai đoạn 2: từ 7, 8 tuổi đến 10, 12 tuổi
Giới tính đã bắt đầu hình thành rõ rệt và sự phát triển của các em nam và nữ có sự
khác nhau cả về sinh lí và tâm lí. Tốc độ sinh trưởng của các em nữ nhanh hơn các em
nam nên ở thời kì này các em nữ thường cao hơn các em nam. Đã có sự “xác định
khoảng cách” giữa nam và nữ. Các em nam ít thân mật hoặc là chơi chung với các em
nữ. Sự giao tiếp giữa hai giới đã có sự giữ kẽ hơn do các rung cảm giới tính đã bắt đầu
xuất hiện dù các em chưa ý thức được.
Giai đoạn 3: từ 10, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi ở nữ; từ 11, 12 tuổi đến 16, 17 tuổi
ở nam.
Bắt đầu bước vào thời kì dậy thì. Tốc độ sinh trưởng của nữ tiếp tục tăng nhanh
hơn nam nên cơ thể các em nữ to lớn và khoẻ mạnh hơn nam. Các chức năng tính dục
bắt đầu hoạt động, đặc biệt là từ độ tuổi 13, 14 trở đi (kinh nguyệt, trứng cá, vỡ tiếng,
mộng tinh…). Đã có sự cư xử khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ. Các em có ý thức rõ rệt
về giới của mình và có sự quan tâm đến người khác giới. Các em đã bắt đầu chú ý đến
vẻ đẹp cơ thể và có nhiều băn khoăn về các vấn đề tính dục, tình yêu ở người lớn…
Giai đoạn 4: từ 15, 16 tuổi đến 18, 20 tuổi ở nữ; từ 17, 18 tuổi đến 22, 25 tuổi
ở nam.
Các em bước vào thời kì chín muồi giới tính. Ở giai đoạn cuối của lứa tuổi này, con
người phát triển tương đối hoàn chỉnh về các chức năng tính dục (có khả năng sinh sản),
xuất hiện những rung cảm yêu đương chân thực và chân chính, có ý thức đầy đủ về giới
và giới tính. Có ý thức trách nhiệm trong tình yêu và hôn nhân.
Giai đoạn 5: từ 20, 21 tuổi đến 30, 35 tuổi ở nữ; từ 25, 27 tuổi đến 35, 40 tuổi
ở nam.
Giai đoạn phát triển cao của đời sống giới tính, các chức năng tính dục và sinh sản
phát triển mạnh. Cơ thể phát triển hoàn thỉnh và đẹp nhất trong cuộc đời. Có ý thức cao
về thầm mĩ, đạo đức và xã hội giới tính. Có sự phát triển mạnh trong đời sống tình yêu
và hôn nhân, là lứa tuổi mà con người nên kết hôn và sinh nở.
Giai đoạn 6: từ 35, 37 tuổi đến 48, 50 tuổi ở nữ; từ 40, 45 tuổi đến 55, 60 tuổi
ở nam.
Thời kì phát triển cao của đời sống giới tính cả về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội giới
tính.
Giai đoạn 7: từ 50, 52 tuổi đến 55, 60 tuổi ở nữ; từ 60, 62 tuổi đến khoảng
70, 75 tuổi ở nam.
Đây là giai đoạn có nhiều biến đổi mạnh (khủng hoảng) của đời sống giới tính. Là
thời kì hồi xoan và mãn kinh ở nữ. Ở nam cũng có nhiều biến đổi mạnh theo chiều hướng
các chức năng tính dục yếu dần đi, đặc biệt là đời sống tình dục.
Giai đoạn 8: từ trên 55, 60 tuổi ở nữ và trên 70, 75 ở nam.
Đây là giai đoạn bước sang tuổi già, các chức năng cơ bản của đời sống tính dục
tắt dần.
Sự phân chia theo lứa tuổi như trên có tính tương đối vì đời sống giới tính và các
chức năng tính dục còn tuỳ thuộc rất nhiều vào tình trạng sức khoẻ, tình trạng yêu đương
và hôn nhân… chẳng hạn đối với những người phụ nữ bệnh tật, không có tình yêu, không
kết hôn, không có khả năng sinh nở… việc mãn kinh có thể diễn ca rất sớm, khoảng 40 –
45 tuổi và không có hiện tượng hồi xuân. Ở nam, nếu khoẻ mạnh, các chức năng sinh lí
tính dục có thể kéo dài tới tuổi 75, 80 hoặc hơn nữa. Các giai đoạn lứa tuổi có thể chênh
lệch từ 2 đến 3 tuổi.
b) Sự phân chia giai đoạn phát triển giới tính theo sự hình thành và phát
triển các mối quan hệ giới tính
Giai đoạn 1: thời kì giao tiếp nam nữ không bị chi phối bởi giới tính, thường từ khi
mới sinh ra đến 6, 7 tuổi.
Đây là thời kì các đặc điểm giới tính không bộc lộ rõ rệt, các em nam nữ quan hệ
thân mật, hồn nhiên trong sáng, không bị chi phối bởi các rung cảm tính dục.
Giai đoạn 2: thời kì giao tiếp nam nữ bắt đầu bị chi phối bởi giới tính.
Đây là thời kì mà con người có những giao tiếp cư xử với bạn khác giới, thường
khoảng 7, 8 tuổi trở đi. Quan hệ của các em chịu sự chi phối bởi những rung cảm giới
tính, rung cảm tình đúc nên các em thường giữ kẽ, e ngại khi tiếp xúc với nhau. Những
rung cảm giới tính, rung cảm tình dục tạo nên sự quan tâm đến những người khác giới,
đặc biệt từ 16 đến 18 tuổi trở đi. Những rung cảm này thường là cơ sở giúp cho con
người hướng tới việc xây dựng tình yêu đôi lứa hoặc tìm hiểu về đời sống hôn nhân gia
đình. Nếu thời kì này kẻo quá dài, trên 30 tuổi ở nữ hoặc 40 tuổi ở nam mà chưa đi tới
tình yêu hoặc hôn nhân, con người dễ bị mất cân bằng trong đời sống tâm sinh lí.
Giai đoạn 3: thời kì yêu đương.
Thời kì này bắt đầu từ khi con người xuất hiện những rung cảm yêu đương, đặc
biệt là có tình yêu thực sự (thường khoảng 17, 18 tuổi trở đi ở nữ và khoảng 20, 25 tuổi
trở đi ở nam). Những rung cảm yêu đương và những cảm xúc trong tình yêu, tình dục
làm cho con người có sự phát triển đầy đủ và hoàn chỉnh hơn về mặt nhân cách và cá
tính. Những rung cảm này giúp cho con người hướng tới việc chinh phục và xây dựng tình
yêu đôi lứa. Tình yêu làm cho con người có sự phát triển đặc biệt về mặt tâm hồn, tâm
lí, giúp phát triển cao hơn về mặt tài năng và nhân cách, giúp cho con người có cuộc
sống và hoạt động ổn định hơn, cân bằng hơn. Tình yêu giúp cho con người quan tâm
hơn về đời sống hôn nhân và hướng tới hôn nhân. Tuy nhiên, sự hiểu sai lệch và những
cư xử không đúng trong tình yêu, sự tan vỡ trong tình yêu và những hậu quả của các
cuộc tình không đứng đắn, có thể dẫn tới sự khủng hoảng trong sự phát triển nhân cách
và tài năng.
Giai đoạn 4: thời kì hôn nhân và gia đình.
Thời kì này có thể bắt đầu từ 20, 22 tuổi ở nữ và 25, 27 tuổi ở nam, khi con người
bước vào đời sống hôn nhân. Nhiều chức năng giới tính phát triển mạnh, các đặc trưng
giới tính thể hiện rõ ràng, đậm nét, ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển của nhân
cách. Sự kết hôn giúp cho con người trưởng thành hơn, chín chắn hơn trong cuộc sống,
dễ tạo lập được sự phát triển mạnh mẽ trong sự nghiệp và công danh. Con người trưởng
thành hơn trong hoạt động, trong giao tiếp. Có ý thức trách nhiệm hơn đối với xã hội và
gia đình. Việc kết hoạt chung sống vợ chồng thường dễ giúp cho con người biết lo toan
hơn trong cuộc sống, biết. tu chí làm ăn, có sự cẩn trọng và chu đáo trong hoạt động,
giao tiếp. Con người trưởng thành hơn, hiểu biết đầy đủ và chín chắn hơn, ổn định hun về
tính cách. Nếu hôn nhân bất hạnh, con người sẽ sớm biến động về nhân cách, bất ổn
trong sự phát triển, có thể dẫn tới những cực đoan trong xu hướng, thế giới quan, nhân
sinh quan.
Giai đoạn 5: thời kì gia đình đa thế hệ.
Thường bắt đầu từ độ tuổi 48 đến 50, khi gia đình đã nảy sinh thế hệ thứ ba trở đi.
Các đặc điểm của đời sống giới tính đã ổn định và gắn liền với sự phát triển của nhân
cách, của gia đình. Các đặc điểm này được điều chỉnh và biến đổi dần theo hướng giảm
dần về tính chất, chức năng hoặc cường độ hoạt động.

Created by AM Word2CHM
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC
SINH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH

Tuổi thanh niên, học sinh là lứa tuổi từ khoảng 14, 15 đến 17, 18 tuổi. Đây là lứa
tuổi học sinh ở cuối cấp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông, đó là lứa tuổi bước vào
thời kì chín muồi tính dục, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc thời kì này. Bởi vậy đời
sống giới tính của lứa tuổi này rất phức tạp, bao gồm cả sự khủng hoảng mất cân bằng
của giai đoạn phát dục, và cả những nét đặc trưng của hoạt động giới tính, tính dục của
giai đoạn trưởng thành sinh dục. Bởi vậy ở lứa tuổi này, những đặc trưng cơ bản của đời
sống giới tính đều được biểu hiện khá rõ nét.
Thực ra, sự phát dục bắt đầu diễn ra ở lứa tuổi sớm hơn (12 – 13 tuổi). Chính sự
phát triển này đã đưa các em vào đời sống tính dục và thúc đẩy hoạt động tâm lí tính
dục. Ngay từ tuổi thiếu niên đã xuất hiện những “vấn đề giới tính” trong đời sống tâm lí,
sinh lí của các em. Giáo sư A.V. Petrovxki đã khẳng định sự phát dục kích thích, phát
triển sự quan tâm đến người khác giới, làm xuất hiện những cảm xúc, tình cảm mới. Ông
cũng cho rằng, “Mức độ bận tâm và tập trung vào nội tâm, vào những cảm giác và rung
động mới vào vị trí của chúng trong đời sống của thanh thiếu niên được quyết định bởi
những điều kiện xã hội rộng rãi, cũng như bởi những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt trong đời
sống và sự giáo dục thiếu niên, bởi đặc điểm của sự giao tiếp của thiên niên”. Nhiều công
trình nghiên cứu cho thấy ngay ở tuổi thiếu niên các em đã có thể quan tâm tới những
quan hệ bạn khác giới, tình yêu, đến việc đọc sách báo, tranh ảnh khiêu dâm, thậm chí,
đã có thể quan tâm đến vấn đề sinh dục, tình dục. Ngay từ khi có kinh lần đầu, hoặc có
tinh trùng, tức là từ lúc bắt đầu dậy thì, các em đã có thể quan tâm đến những vấn đề về
giới tính, kể cả chuyện người lớn”. “Ảnh hưởng xấu có thể do việc đọc những sách báo
không phù hợp lứa tuổi, do xem những phim ảnh dành cho người lớn”. Tất cả những điều
đó cũng như những câu chuyện với bạn bè về những vấn đề khác nhau của tình yêu và
giới tính sẽ kích thích sự phát triển rất mạnh hứng thú đối với khía cạnh tâm lí của những
quan hệ con người theo xu hướng khiêu dâm và tình dục quá sớm. Các nhà tâm lí học
Việt Nam: Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê Khanh… cũng khẳng định, “ở tuổi thiếu
niên đã xử hiện sự quan tâm đến bạn khác giới”.
Đến tuổi thanh niên, học sinh, đời sống tính dục và quan hệ yêu đương còn thể hiện
rõ ràng, phong phú và phát triển ở mức cao hơn. Nhiều em đã có những biểu hiện khá
sâu sắc của đời sống tính dục, thậm chí, bước vào hoạt động tình dục. “Đa số nam nữ
thanh niên lứa tuổi này đã ở vào thời kỳ trưởng thành tính dục”. Vì thế những mối quan
hệ yêu đương và quan hệ tính dục rất có thể xảy ra ở các em. Mặt khác, do hiện tượng
“gia tốc” phát triển, ngày nay, hiện tượng yêu đương hoặc quan tâm đến người bạn khác
giới có thể xuất hiện rất sớm ở thanh thiếu niên.
Ở tuổi thanh niên, học sinh, ngoài những biểu hiện vệ sinh lí tính dục như biến đổi
hình dáng cơ thể, xuất hiện những “rung động thầm kín”, mộng tinh, thủ dâm… nhu cầu
về tình bạn khác giới ngày càng tăng. Đặc biệt là quan hệ yêu đương. Bên cạnh sự âu
yếm thơ ngây của trẻ em (những cái nhìn, những lá thư ngắn…) đã xuất hiện những say
mê thực sự dầu tiên, những nhu cầu thực sự về tình yêu và sự kích thích tò mò trước
những rung động thầm kín. Hiện tượng này thậm chí, có thể có ngay cá ở các em học
sinh từ lớp 7 trở đi. A.V. Petrovxki cũng nhận định rằng có khi, “tình yêu say đắm ở các
học sinh thường có tính chất “bệnh dịch” – trong lớp này không có ai yêu, còn trong lớp
kia tất cả, không trừ một ai”.
Tình yêu ở tuổi thanh niên, học sinh cũng đã rất phức tạp và ở mức độ phát triển
mạnh mẽ. Nhiều nhà tâm lí học trên thế giới trong những công trình nghiên cứu của mình
đều thừa nhận rằng trong các em có tình yêu thực sự, mạnh mẽ, sâu sắc. Tình yêu nam
nữ của các em không phải chỉ xuất phát từ những nhu cầu tính dục, nhu cầu sinh lí, mà là
sự thống nhất hài hoà của sự say mê những “cảm giác tính dục” với nhu cầu giao tiếp về
nhân cách, nhu cầu về tình cảm sâu sắc và sự hoà hợp với người yêu. Nhiều trường hợp,
“tình yêu bằng tâm hồn, bằng rung động của tình cảm, tình yêu thanh cao, thuần khiết,
trong sáng đến trước, và là chủ yếu trong quan hệ yêu đương của các em”. Trong khi ấy
tình yêu do sự “đòi hỏi về sinh lí” thường đến sau và có khi rất mờ nhạt. Có nhiều trường
hợp tình yêu của các em còn lẫn lộn với quan hệ bạn bè. Tình trạng “nửa yêu nửa bạn”
ấy có khi kéo dài cho đến hết tuổi học sinh trung học phổ thông.
Nhiều nhà khoa học cũng khẳng định rằng, biểu hiện về tình yêu của nam và nữ ở
lứa tuổi thanh niên, học sinh cũng khác nhau. Ở các em nữ, mặc dù xuất hiện những
chức năng tính dục sớm hơn nhưng do sự phát triển chậm hơn và từ từ, và do đặc điểm
tâm lí tính dục, tâm lí giới tính, nhu cầu về “tình yêu thanh cao” thường lớn hơn và lấn át
sự yêu đương “chung đụng thể xác”. Trong khi đó ở các em nam “những hứng thú và say
mê tình dục lại đến sớm hơn và chỉ sau đó mới xuất hiện khả năng kết hợp chung với sự
giao cảm sâu sắc”.
Tình yêu ở lứa tuổi thanh niên, học sinh về cơ bản là một tình cảm dẹp đẽ, lành
mạnh, trong sáng, là bình thường và tất yếu trong sự phát triển của con người. Tuy
nhiên, nếu các em sống trong một môi trường không được lành mạnh”, bị ảnh hưởng
nhiều bởi văn hoá phẩm đồi trụy, hoặc bởi những nếp sống ăn chơi đua đòi… tình yêu
của các em dễ bị “tầm thường hoá”, “vật chất hoá”, dễ chỉ trở thành sự thoả mãn những
cảm giác thấp hèn và có thể đưa các em đến sự sa ngã, tan vỡ, đau khổ.
Quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu và đời sống tính dục của thanh niên, học
sinh quan hệ mật thiết với đời sống sinh lí, tâm lí của các em. Đó là những quan hệ phức
tạp, đa dạng và mang tính quy luật. Những quan hệ đó “đưa họ đến gần với vấn đề đạo
đức, từ thủ tục săn đón, tỏ tình cho đến các vấn đề tinh thần trách nhiệm là tinh thần kỉ
luật, đạo đức, tự giác”. Các em thường rất dễ bị lúng túng, bối rối, đôi khi là sự bế tắc,
sự sai lầm trong cách giải quyết vấn đề, trong việc xử lí các “tình huống gay cấn”.
Do đó, “các em rất cần sự giúp đỡ của người lớn trước hết là của cha mẹ và thầy
cô giáo”. Người lớn còn biết cầm giúp đỡ, hướng dẫn các em. Người lớn không nên can
thiệp thô bạo, cấm đoán, phá hoại những tình cảm thiêng liêng này của các em. “Bất luận
trong trường hợp nào đều không được phỉ báng, chế nhạo, bất bình với sự xuất hiện của
nó”. V.A. Sukhomlinxki cũng yêu cầu. “Loại trừ khỏi nhà trường câu chuyện ồn ào và
không cần thiết về tình yêu của các em học sinh”. Việc can thiệp vào chuyện tâm tình là
“đôi bàn tay sắt”. Nhưng chúng ta không thể buông rơi nó, để mặc cho các em chập
chững, bỡ ngỡ bước vào tình yêu với những hoang mang, lúng túng, không biết giải
quyết, xử sự như thế nào. Cần phải có thái độ trân trọng và tế nhị, đồng thời cũng không
được thờ ơ, lãnh đạm.
Đời sống giới tính của thanh niên, học sinh rất phức tạp, đa dạng. Ở lứa tuổi này
diễn ra toàn bộ quá trình chín muồi tính dục, từ thời kì phát dục đến khi hoàn thiện những
chức năng sinh dục. Do đặc điểm của đời sống, hoạt động và nhiều nguyên nhân tâm lí
xã hội phức tạp khác, các em đã thể hiện rõ rệt những đặc điểm giới tính, đã thể hiện
đầy đủ những vấn đề giới tính điển hình nhất ở con người.
Có thể nói, đời sống giới tính ở lứa tuổi thanh niên, học sinh chủ yếu là những đặc
điểm về tính dục, đời sống tâm lí giới tính và những quan hệ giới tính đặc trưng, trong đó
có quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu nam nữ. Đây là những vấn đề, những mối quan
hệ phổ biến, điển hình, quan trọng đặc trưng cho đời sống giới tính ở các em. Chúng có
ý nghĩa lớn đến đời sống, sinh hoạt, có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhân cách,
tài năng, đạo đức của các em, nhất là trong điều kiện tình hình kinh tế, xã hội, giáo dục ở
nước ta hiện nay.
Created by AM Word2CHM
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC


II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ
III. TÌNH DỤC
IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH
V. HÔN NHÂN
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN

Created by AM Word2CHM
I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

1. Khái niệm tính dục


a) Một số quan niệm về khái niệm tính dục
Khái niệm tính dục là một khái niệm rất phức tạp và được sử dụng theo nhiều quan
niệm khác nhau.
Một số tác giả thường quan niệm tính dục đồng nghĩa với tình dục. Họ cho rằng,
tính dục tức là tình dục. Dùng từ “tính dục” thay thế cho “tình dục” để trong cách nói
được tế nhị, thanh cao hơn mà thôi.
Một số tác giả khác lại quan niệm tính dục theo nghĩa tương đương với giới tính, để
chỉ mọi hiện tượng của đời sống giới tính.
Sự khác biệt của cách dùng từ “tính dục” như trên là tuỳ thuộc vào quan điểm của
từng tác giả.
Tuy nhiên, hiện nay khái niệm tính dục ngày càng được xác định rõ ràng và cụ thể
hơn.
b) Khái niệm tính dục
– Trong nhiều công trình nghiên cứu về giới tính hiện đại, khái niệm “tính dục”
thường được dùng để chỉ những hiện tượng, những đặc điểm sinh lí cơ thể nảy sinh do
hoạt động của hệ cơ quan sinh dục.
– Tính dục là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều hiện tượng như:
+ Sự phát triển và hình thành các chức năng hoạt động chung của hệ cơ quan sinh
dục nam nữ như: cấu tạo hệ cơ quan sinh dục, sự sản sinh ra các hoóc môn giới tính sự
thụ thai và sinh nở, những biến đổi sinh lí cơ thể ở nam và ở nữ…
+ Những hiện tượng sinh lí đặc biệt của cơ thể như: dậy thì, kinh nguyệt, mộng tinh,
thủ dâm, tình dục…
+ Những thời kì phát triển đặc biệt của sinh lí cơ thể như: thời kì dậy thì, sự hồi
xuân, những giai đoạn biến đổi, khủng hoảng sinh lí cơ thể khác…
- Sự hoạt động của cơ thể thực hiện các chức năng tính dục, tạo ra các hiện tượng
tính dục được gọi là đời sống tính dục của con người.
– Đời sống tính dục luôn gắn bó với các hoạt động tâm lí của con người, gắn bó với
các hiện tượng tâm lí xã hội. Nhiều hiện tượng của đời sống tính dục chịu sự chi phối
mạnh của tâm lí xã hội. Hiện tượng dậy thì ở thanh thiếu niên làm biến đổi mạnh đời sống
tâm lí của các em, đặt ra cho xã hội và người lớn phải có sự quan tâm và cảm đối xử với
các em, cũng như xây dựng những nhiệm vụ, nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp.
Hiện tượng kinh nguyệt, sinh nở, hồi xuân… là những vấn đề lớn đối với cuộc đời của
người phụ nữ, là cơ sở của việc quan tâm và đấu tranh cho sự bình đẳng nam nữ, xây
dựng hạnh phúc gia đình… Vấn đề tình dục luôn luôn là vấn đề của đạo đức, xã hội, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhân cách con người…
Như vậy tính dục của con người là một hiện tượng sinh vật – xã hội phức tạp, là
sản phẩm của quá trình tác động giữa các yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội. Đời sống tính
dục của con người rất phức tạp, do hoạt động của hệ cơ quan sinh dục tạo ra, bao gồm
nhiều biểu hiện như: sự dậy thì, hiện tượng kinh nguyệt, sự sinh nở, rung cảm tình dục…
Trong đó, tình dục chỉ là một hiện tượng của đời sống tính dục nhưng là hiện tượng rất
điển hình, có ý nghĩa lớn đối với nhân cách con người và được nhiều người quan tâm.
Tình dục có ý nghĩa quan trọng đến mối quan hệ giữa những người khác giới, đến sự
phát triển nhân cách, đến tình yêu đôi lứa…
– Có thể định nghĩa tính dục như sau: Tính dục là toàn bộ những đặc điểm sinh lí
cơ thể về giới tính, được hình thành và phát triển bởi hoạt động của hệ cơ quan sinh dục.
Những hoạt động được tạo ra bởi những đặc điểm sinh lí cơ thể này được gọi là
đời sống tính dục của con người.
2. Những vấn đề điển hình của đời sống tính dục được quan tâm hiện nay
Hiện nay, trong đời sống tính dục của con người, có một số hiện tượng được sự
quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học và giáo dục như:
– Sự sản xuất ra trứng, tinh trùng và những hoóc môn giới tính.
– Các hiện tượng dậy thì, kinh nguyệt, mộng tinh, thủ dâm…
– Đời sống tình dục.
– Các vấn đề của sức khoẻ sinh sản, đặc biệt là: sự thụ thai, sự phát triển của thai
nhi và việc sinh nở, cách thức sinh ra một em bé khoẻ mạnh thông minh, cao lớn…
- Việc xác định và chuyển đổi giới tính.

Created by AM Word2CHM
II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

Kinh nguyệt là một hiện tượng đặc biệt của đời sống tính dục ở người nữ. Bản chất
vấn đề kinh nguyệt đã được nghiên cứu sâu dưới góc độ của y học, sinh lí học.
Ở đây chúng ta xem xét vấn đề kinh nguyệt dưới góc độ tâm lí học giới tính.
1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt
Hiện tượng kinh nguyệt có ý nghĩa rất quan trọng đối với người phụ nữ:
– Nó xác định giới tính ở người nữ một cách rõ rệt vì chỉ người phụ nữ mới có kinh
nguyệt. Chỉ những người phụ nữ nào có chu kì kinh nguyệt đều đặn mới là người phụ nữ
thực sự, có đầy đủ các chức năng của người phụ nữ bình thường và khoẻ mạnh.
- Là cơ sở để xác định, chẩn đoán sức khoẻ của người phụ nữ, những chức năng
nữ tính của người phụ nữ (khả năng sinh nở, tình dục, nữ tính…).
– Là cơ sở để xác định một số biện pháp phòng tránh thai (đặc biệt là dựa vào
ngày trứng rụng).
– Là cơ sở để xác định một số biện pháp sinh con theo ý muốn.
- Kinh nguyệt ảnh hưởng đến nhịp sống sinh học của người phụ nữ.
2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt
Khái niệm vệ sinh kinh nguyệt cần phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những nội
dung cơ bản sau đây:
– Xác định những công việc và hoạt động phù hợp với người phụ nữ trong thời kì
hành kinh. Ở thời kì này (khoảng từ 3 đến 4 ngày đầu của chu kì), người phụ nữ có nhiều
biến đổi trực tiếp về mặt sinh lí cơ thể như: mất máu nhiều, cơ thể yếu hơn bình thường,
khả năng đề kháng thấp đi, tâm lí biến động và dễ mất cân bằng… do đó phải có sự nghỉ
ngơi và làm việc hợp lí, Không nên làm việc ở những môi trường biến động mạnh về nhiệt
độ, ô nhiễm. Không nên lao động, hoạt động quá nặng nhọc…
– Tạo cho người phụ nữ một môi trường tâm lí ổn định, một trạng thái tâm lí thoải
mái, dễ chịu, tránh xúc động mạnh, tránh sự căng thẳng tâm lí (stress).
– Đảm bảo chế độ dinh dưỡng hợp lí, đầy đủ hơn những ngày bình thường.
– Đảm bảo việc vệ sinh sạch sẽ.
Như vậy, đảm bảo giữ vệ sinh sạch sẽ mới chỉ là công việc tối thiểu của khái niệm
vệ sinh kinh nguyệt. Việc giữ “vệ sinh kinh nguyệt” đúng đắn và toàn diện sẽ đảm bảo cho
người phụ nữ khoẻ mạnh, duy trì được sắc đẹp và độ trẻ trung bền lâu.
3. Chu kì tâm sinh tí học trong chu kì kinh nguyệt
Nhiều công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy chu kì kinh nguyệt của người phụ nữ
thường diễn ra theo những giai đoạn nhất định. Mỗi giai đoạn của chu kì có những đặc
điểm riêng. Những giai đoạn này hình thành tương đối ổn định, lặp lại ở mỗi chu kì kinh
nguyệt. Người ta thấy ở mỗi chu kì thường diễn ra theo 4 giai đoạn chính sau đây:
– Giai đoạn 1: thời kì “hành kinh”
Giai đoạn này thường bắt đầu từ ngày thứ nhất đến ngày thứ ba hoặc thứ tư của
chu kì. Giai đoạn này là giai đoạn “hành kinh”, máu từ trong tử cung chảy ra ngoài. Người
phụ nữ thường mệt mỏi, khó chịu, kém khả năng để kháng hơn, do đó dễ bị nhiễm bệnh,
dễ bị xúc động, kém khả năng kiềm chế, hay gắt gỏng, bực bội… Nhìn chung, ở người
phụ nữ có sự mất cân bằng về tâm sinh lí rõ rệt, vẻ đẹp sinh lí cơ thể bị ảnh hưởng
(nước da xanh, đường nét cơ thể dễ bị biến đổi…)
– Giai đoạn 2: thời kì “khô khan” thường bắt đầu từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 11/
12 của chu kì.
Ở thời kì này, người phụ nữ chưa thực sự có sự cân bằng về tâm sinh lí, nữ tính
chưa biểu hiện ở mức độ cao, động tác, cử chỉ chưa thật khéo léo và chính xác, khó xuất
hiện những rung cảm tình dục (khô khan) và năng lực tự kiềm thế thấp.
– Giai đoạn 3: thời kì “ướt át”, thường bắt dầu từ ngày thứ 13/ 14 đến ngày 22/24
của chu kì.
Đây là thời kì đẹp nhất của người phụ nữ trong một chu kì kinh nguyệt. Có sự cân
bằng hài hoà về tâm sinh lí, giàu nữ tính, tính tính thường nhu mì, hiền hậu hơn, nước da
mịn màng, hồng hào, dễ xuất hiện những rung cảm yêu thương và rung động tình dục
(ướt át) Trong thời kì này, người phụ nữ có những ngày rất dễ thụ thai, thường trước và
sau ngày rụng trứng từ hai đến ba ngày.
– Giai đoạn 4: thời kì “khô khan biến động”, thường bắt đầu từ ngày thứ 22, 24 đến
hết chu kì (trước ngày hành kinh của chu kì sau).
Thời kì này có đặc điểm gần giống như giai đoạn 2, tuy nhiên phức tạp hơn về mặt
sinh lí cơ thể. Nhiều người phụ nữ thường bị đau bụng, nhức đầu hoặc cơ thể có những
biến động mạnh hơn về mặt sức khoẻ một vài ngày trước khi hành kinh chu kì sau.
Mỗi một chu kì kinh nguyệt của người phụ nữ bình thường đều có thể diễn ra theo 4
giai đoạn trên, tạo thành một chu kì tâm sinh lí học trong chu kì kinh nguyệt của người
phụ nữ. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố về mặt sức khoẻ hoặc về mặt tâm lí, xã hội, đặc biệt
là chu kì kinh nguyệt cũng có thể không đều (biến động từ khoảng 26 ngày đến trên 30
ngày) ở mỗi người phụ nữ khác nhau, sự biểu hiện các đặc điểm tâm sinh lí ở 4 giai đoạn
trên có thể khác nhau, có thể rõ rệt hoặc không rõ rệt. Thậm thí, nhiều người không ý
thức rõ được.

Created by AM Word2CHM
III. TÌNH DỤC

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

1. Khái niệm chung về tình dục


a) Bản chất của tình dục
Tình dục là một biểu hiện điển hình của đời sống tính dục.
Tình dục thường được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau dưới ảnh hưởng tác động
của các yếu tố xã hội, các quan điểm sống, các tôn giáo, các giai đoạn lịch sử…
Ở các nước phương Đông, việc nhìn nhận vấn đề tình dục khác với phương Tây, họ
thường coi tình dục là một vấn đề rất tế nhị, chuyện “phòng the”, chuyện “sâu kín”… và
thường gắn với sự đánh giá một cách khắt khe, thành kiến.
Tình dục thường được hiểu như là những rung cảm đặc biệt nảy sinh ở con người.
Những rung cảm này thường xuất hiện ở con người trước người khác giới. Tuy nhiên,
cũng có những trường hợp xuất hiện trước người đồng giới (hiện tượng đồng tình luyến
ái).
Xét về bản chất, tình dục là một bản năng của con người được nảy sinh từ hoạt
động bình thường của hệ cơ quan sinh dục. Dưới ảnh hưởng hoạt động của hệ cơ quan
sinh dục, những rung cảm tình dục nảy sinh và phát triển, trở thành những rung động,
những cảm xúc ham muốn cần phải được thoả mãn ở một con người.
Những cảm xúc ham muốn (rung cảm tình dục) này thường có thể nảy sinh ở con
người khi họ bắt đầu bước vào tuổi dậy thì, sau đó dần dần trong đời sống ở mỗi người.
Chúng thường được biểu hiện ở những hành vi như: âu yếm, vuốt ve, ôm ấp, hôn…
Xét về mặt sinh lí cơ thể, những rung cảm tình dục có thể xuất hiện rất sớm ở con
người, tạo nên những khoái cảm khi vô tình hoặc hữu ý va chạm vào bộ phận sinh dục
hoặc một số bộ phận đặc biệt ở con người. Tuy nhiên, chúng chủ yếu bắt đầu nảy sinh ở
con người khi hệ cơ quan sinh dục có khả năng sản xuất ra tinh trùng hoặc trứng: Chúng
đặc biệt phát triển nhanh và mạnh khi con người trưởng thành. Như vậy, trước hết, tình
dục (những rung cảm tình dục hay hành vi tình dục) xuất hiện do hoạt động của hệ cơ
quan sinh dục tạo ra, là một chức năng đặc biệt của hệ cơ quan sinh dục, là một bản
năng tất yếu ở con người bình thường và khoẻ mạnh.
b) Vai trò của tình dục
Bản năng tình dục ở con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
– Nó đảm bảo cho sự sinh tồn của giống loài, tạo nên sự sinh sản, tạo nên các thế
hệ kế tiếp của loài người.
- Từ độ tuổi trưởng thành, bản năng tình dục dẫn tới những hoạt động tình dục,
nhờ đó tạo nên sự cân bằng hài hoà cho sự phát triển tâm sinh lí cơ thể. Đến một độ tuổi
nhất định (thường thường, nam từ 35 trên 40 tuổi; nữ từ 30 đến 35 tuổi trở đi), nếu con
người không có những sinh hoạt tình dục thích hợp sẽ có thể dẫn tới tình trạng mất cân
bằng tâm sinh lí, dẫn tới sự phát triển không bình thường về mặt tính cách hoặc sinh lí
cơ thể.
- Từ độ tuổi trưởng thành trở đi, đặc biệt là sau khi kết hôn, tình dục trở thành một
nhu cầu có tính quy luật trong đời sống con người, tạo nên sự hài hoà về đời sống tâm lí,
sự cân bằng và khoẻ mạnh về sinh lí cơ thể…
- Nhu cầu tình dục nhiều khi là nhu cầu rất mạnh, nó có thể ức chế các nhu cầu
khác và chi phối đạo đức, nhân cách con người. Nó có thể là nguyên nhân dẫn tới sự suy
thoái nhân cách, tạo ra các tệ nạn xã hội, đưa con người tới những hành vi tội lỗi.
c) Đặc điểm của đời sống tình dục ở con người
– Tình dục thường nảy sinh trong mối quan hệ giữa hai người khác giới, tuy nhiên
có khá nhiều trường hợp con người bị rối loạn định hướng tình dục, dẫn tới trường hợp
họ rung động về mặt tình dục đối với người đồng giới.
– Tình dục là một hiện tượng tâm sinh lí rất phức tạp và đa dạng.
+ Trước hết, nó là một bản năng, tạo thành một nhu cầu, một yếu tố thúc đẩy từ
bên trong của cơ thể con người dẫn tới những hành vi thoả mãn nhu cầu đó, “nó như
không khí để thở, như cơm ăn, nước uống hàng ngày của con người”. Ở người trưởng
thành, nhu cầu này thường xuất hiện có tính chu kì tuỳ theo sức khoẻ, tâm lí, cá tính của
từng người. Nó trở thành động lực thúc đẩy con người thực hiện những hành vi tình dục.
Sự xuất hiện nhu cầu và những hành vi tình dục thể hiện đời sống tình dục của con người.
+ Biểu hiện của đời sống tình dục thường rất phức tạp, theo nhiều hình thức, nhiều
mức độ. Chủ yếu là những mức độ sau đây:
· Mức độ “rung cảm bên trong”, thường xuất hiện dưới dạng những rung động,
những cảm xúc mà con người có thể ý thức hoặc không ý thức được. Đây là
mức độ “cơ bản” nhất của đời sống tình dục, thường được gọi là “rung cảm tình
dục”.
· Mức độ “hành vi bên ngoài”, xuất hiện khi những rưng cảm bên trong mạnh mẽ
hơn, hoặc trở thành một yếu tố thúc đẩy việc thực hiện những hành vi trong
những điều kiện nhất định (như hai người yêu nhau). Con người có khả năng
kiềm chế những hành vi tình dục của mình.
· Mức độ “hành vi bên trong”, xuất hiện khi những rung cảm trở nên quá mạnh
mẽ, con người khó có thể kiềm chế được những hành vi “yêu đương”.
· Mức độ “hành vi sâu sắc”, những hành vi tình dục bị chi phối bởi những ham
muốn tột đỉnh, con người có nhu cầu muốn “hoà nhập” với đối tượng, dẫn đến
“hành vi giao hợp” của con người.
Sự phân chia các mức độ trên đây chỉ mang tính tương đối, chỉ có ý nghĩa trong
các biểu hiện gắn bó với tình cảm. Trong thực tế, những mức độ trên cũng có thể được
hiểu là những hình thức của đời sống tình dục của con người. Trong đó, mức độ “hành vi
sâu sắc”, được coi là mức độ cao nhất của các hình thức tình dục trong đời sống tình
dục. Trong quan hệ tình dục của con người, những hình thức đó có thể không tuân theo
một thứ tự nhất định như trên. Ngày nay trong xã hội, nhiều người thường sử dụng khái
niệm “tình dục” theo nghĩa ở mức độ “hành vi sâu sắc”.
- Trong đời sống giới tính, biểu hiện về mặt tình dục giữa nam và nữ có nhiều điểm
khác nhau, chủ yếu ở những khía cạnh sau:
+ Rung cảm tình dục ở người nam thường dễ xuất hiện, dễ bộc lộ nhanh chóng đạt
tới đỉnh cao và chóng tắt, nó mang tính trực tiếp và ít chịu chi phối bởi các yếu tố ngoại
cảnh…
+ Rung cảm tình dục của người nữ thường gắn bó mật thiết với yếu tố tình cảm,
tình yêu. Sự xuất hiện rung cảm tình dục của người phụ nữ thường khó và chậm, nhưng
lại kéo dài thời gian hơn, chịu chi phối nhiều bởi các yếu tố ngoại cảnh…
- Đời sống tình dục ở con người thường có quan hệ mật thiết với đời sống tâm lí,
xã hội, chịu sự chi phối của tâm lí, xã hội, đặc biệt là tình yêu và hôn nhân. Đó là tính xã
hội, tính tâm lí của tình dục.
d) Tính xã hội và tính tâm lí của tình dục
Tình dục là hiện tượng sinh lí mang tính xã hội, tính tâm lí rất cao:
+ Tình dục thường gắn với đạo đức, đặc biệt là ở các nước phương Đông. Đời
sống tình dục của con người bị ảnh hưởng nhiều bởi quan niệm về đạo đức, lối sống.
Hành vi tình dục của con người thường bị chi phối bởi những quy định của đạo đức, của
luật pháp xã hội, dễ tạo nên những mặc cảm về đạo đức, ảnh hưởng mạnh đến những
giá trị xã hội, những phẩm chất nhân cách của con người.
+ Những quan điểm về tình dục thường mang tính dân tộc, tính địa phương và bị chi
phối bởi những chuẩn mực đạo đức. Mỗi dân tộc mỗi quốc gia, mỗi nền văn hoá, mỗi địa
phương… đều có những quan điểm, những chuẩn mực đạo đức, những cách đánh giá
riêng về vấn đề tình dục và đời sống tình dục của con người. Tuy nhiên, hầu như mọi
người đều thống nhất rằng, đây là một lĩnh vực tế nhị riêng tư của mỗi người, nhưng gắn
bó mật thiết với đạo đức và văn hoá xã hội.
+ Tình dục thường góp phần tạo nên những quan điểm sống, lối sống trong xã hội
như: quan điểm tình yêu trong sáng, tình yêu hoà nhập, tình dục tự do, tình dục không
hôn nhân, tình dục không tình yêu, lối sống buông thả… Sự hình thành những quan điểm
trên thường thể hiện và phụ thuộc vào tính độ văn hoá, đạo đức, cá tính của mỗi người
+ Tình dục cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới lối sống ăn chơi, trác táng,
đồi trụy, các tệ nạn xã hội hoặc các hành vi tội lỗi (hiếp dâm, quấy rối tình dục…). Trong
những trường hợp này, tình dục chỉ thể hiện ở những hành vi mang tính bản năng thô
thiển, làm thấp hèn nhân phẩm và dễ dẫn đến sự suy thoái nhân cách của con người.
+ Tình dục ở con người thường ảnh hưởng mạnh mẽ và gắn bó mật thiết với tình
yêu và đời sống hôn nhân của họ. Tình dục chỉ thực sự đem lái hạnh phúc cho con người
khi sự thoả mãn các cảm xúc tình dục gắn liền với thái độ trân trọng và quan tâm đối với
nhau, gắn liền với ý thức trách nhiệm về các hành vi yêu đương và tình cảm yêu thương
nồng thắm của hai người.
+ Tình dục còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tâm lí khác như nhận thức, quan
điểm, cá tính, sự tự tin, mức độ yêu đương, trạng thái tâm lí trong lúc “gặp gỡ”… Sự
hiểu biết về tình dục giúp cho con người thoả mãn rung cảm và đạt tới tột đỉnh hạnh
phúc, chủ động trong việc thụ thai, chống được bệnh tật hiểm nghèo. Tình cảm yêu
thương sâu nặng làm cho hành vi tình dục trở nên thiêng liêng, tuyệt diệu, tạo nên sức
hút mãnh hệt và sự hoà hợp sâu sắc giữa hai người…
e) Tình dục trong tình yêu
– Đời sống tình dục và các hành vi tình dục thường gắn bó mật thiết với tâm lí con
người, quan điểm sống, cá tính, sở thích… đặc biệt là tình yêu.
- Tình dục nhiều khi là một nguyên nhân, một yếu tố dẫn tới tình yêu và là một
thành phần không thể thiếu được trong tình yêu đôi lứa, trong cuộc sống vợ chồng. Tình
dục là một yếu tố tạo nên hạnh phúc tuyệt vời của cuộc sống yêu dương và hôn nhân của
con người.
– Tình yêu càng sâu nặng bao nhiêu thì tình dục sẽ càng mãnh liệt bấy nhiêu. Tình
dục trong nhiều trường hợp là biểu hiện của tình yêu. Mức độ của tình dục trong mối
quan hệ giữa hai người thể hiện mức độ yêu đương của họ.
- Tình dục cũng có ảnh hưởng tới đặc điểm của các quan hệ yêu đương nhưng tình
dục không phải là cơ sở duy nhất của quan hệ ấy. Thậm chí ngay chính bản thân tình dục
lại còn phụ thuộc vào các điều kiện xã hội, đời sống tâm lí, đời sống tình cảm trong tình
yêu. Theo A.X. Makarenko, tình yêu của con người không thể hình thành một cách đơn
giản từ sự đam mê tình dục bản năng đơn thuần. Theo ông, nếu một thanh niên đã không
yêu cha mẹ, đồng chí, bạn bè, thì người thanh niên ấy khó có thể thực sự yêu người vợ
chưa cưới và người vợ đã cưới của mình. Tình yêu càng ít mang tính chất tình dục đơn
thuần bao nhiêu sẽ càng tốt đẹp bấy nhiêu.
– Tình dục hoà hợp giữa hai người làm cho tình yêu ngày càng sâu nặng, đằm
thắm. Trong tình yêu chân thực và chân chính, tình dục lại càng mãnh liệt hơn, đẹp hơn,
trở thành một hành vi cao thượng, một sự hiến dâng, tạo nên hạnh phúc tuyệt vời của
con người. Có thể nói rằng, tình yêu làm cho tình dục được thăng hoa và ngược lại, tình
dục làm cho tình yêu thêm phát triển, sâu nặng và đằm thắm.
– Tình yêu là dạng tình cảm đặc biệt, có sự tham gia của những đặc điểm tâm lí
của con người, đồng thời có sự tham gia của tình dục, và nhiều chức năng tính dục khác.
Do đó, khi nói đến tình yêu cần phải nói đến các vấn đề về tình dục, trong đó có “quan hệ
tình dục”. Cần phải nghiên cứu tìm hiểu một cách nghiêm tức về tình dục, các khái niệm
về tình dục như: sự phát dục, rung cảm tình dục, những biểu hiện về tình dục, các mức
độ của đời sống tình dục, “nghệ thuật yêu đương”…
– Những cảm xúc tình dục ở con người thường có thể xuất hiện ngay từ những giây
phút đầu gặp gỡ. Chúng có thể là những dấu hiệu đầu tiên tạo nên sự thiện cảm, yêu
thích hoặc là “sản phẩm” của sự thiện cảm, sự yêu thích đối với người khác giới và từ đó
có thể tạo nên tình yêu đối với đối tượng. Trong thực tế, nhiều “mối tình” thường bắt đầu
từ những rung cảm mạnh mẽ, yêu mến hoặc ưa thích của con người đối với người khác
giới, có khi ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên.
- Tình dục có thể là bắt nguồn của tình yêu và thường là biểu hiện của tình yêu. Khi
có những rung cảm mãnh liệt với người khác giới, có thể tạo nên cảm xúc yêu đương.
– Khi tình yêu phát triển thì rung cảm về tình dục cũng thường mạnh mẽ hơn, xuất
hiện nhiều hơn và là một yếu tố tạo nên sự nhớ nhung trong tình yêu. Khi tình yêu càng
sâu nặng thì người ta càng mong muốn gặp nhau nhiều hơn và càng xuất hiện những
“hành vi yêu thương” nhiều hơn. Ngược lại những hành vi yêu thương càng xuất hiện
nhiều thì tình yêu lại càng mãnh hệt hơn, sâu nặng hơn. Rất nhiều trường hợp cho thấy,
những “hành vi tình dục được phép” (được sự thoả thuận và hưởng ứng của cả hai bên)
thể hiện mức độ tương ứng của tình yêu.
Tình dục và tình yêu thường tác động, phối hợp và ảnh hưởng tương hỗ đối với
nhau. Trong nhiều trường hợp, khi không yêu nhau nữa người ta thường bị ức chế những
rung cảm về tình dục, ức chế những đòi hỏi, những ham muốn về tình dục. Ngược lại, khi
tình dục bị nhàm chán (người ta không còn “thích” nhau nữa), tình yêu giữa hai bên sẽ
ngày càng giám sút. Đặc biệt, những hành vi tình dục không phù hợp, “quá mức”, thường
gây cho người kia những cảm xúc khó chịu, bực bội, cảm giác “bị xúc phạm”, có thể dẫn
tới sự rạn nứt tình yêu.
Như vậy, tình yêu và tình dục luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau. Tình dục có thể là
yếu tố thúc đẩy cho tình yêu phát triển, nhưng cũng có thể làm xấu đi mối quan hệ yêu
đương giữa hai người. Có thể nói, tình dục là “con dao hai lưỡi” trong tình yêu.
– Thường thường, tình dục có thể là yếu tố thúc đẩy cho tình yêu phát triển khi mối
“quan hệ” giữa hai người đảm bảo được những điều kiện sau đây:
+ Mức độ của tình dục phải phù hợp với mức độ tương ứng của tình yêu
Tình yêu của con người thường có những mức độ cơ bản sau đây: mức độ “nhớ
thương”, mức độ “yêu đơn phương”, mức độ “yêu cảm xúc”, mức độ “yêu sâu sắc”. Ở
mỗi mức độ đó có những biểu hiện tương ứng của rung cảm tính đục như: “rung cảm bên
trong”, rung cảm trong “hành vi bên ngoài”, “hành vi bên trong”, “hành vi yêu thương sâu
sắc”. Sự tương ứng giữa mức độ của tình yêu với mức độ của tình dục thường tạo nên
những cảm xúc dễ chịu và hạnh phúc của hai bên và làm cho tình yêu phát triển. Nếu
mức độ của hành vi tình dục đi trước mức độ của tình yêu dễ dẫn tới hiện những “phản
ứng tự bảo vệ” những suy nghĩ thiếu thiện thí về nhau… dẫn tới những xúc cảm âm tính
(khó chịu, bực bội, sợ hãi, xấu hổ…) và làm cho tình yêu giảm sút thậm chí có thể gây
hiểu lầm dẫn tới sự tan vỡ tình yêu.
+ Biểu hiện của tình dục phải phù hợp với quan điểm, cá tính của người yêu
Ở nhiều người, đặc biệt là ở người nữ, thường có những ấn tượng, những nhận
thức không “đẹp đẽ” về tình dục. Họ thường có quan niệm về một tình yêu “trong sáng”,
phải yêu nhau bằng tâm hồn, yêu nhau bằng sự rung động chân thành, bằng sự quan tâm
giúp đỡ lẫn nhau… Những người này cho rằng, khi gặp nhau, nếu có những biểu hiện
hành vi tình dục “quá mức” tức là thiếu đứng đắn, là sự lợi dụng, là không phải yêu
đương thực sự… Một quan điểm ngược lại là trong tình yêu hai người phải hoà nhập với
nhau, phải hết lòng, hết mình với nhau, phải có những rung động thật mãnh liệt, sâu
sắc…
Những quan niệm như vậy thường chi phối các hành vi cư xử, hành vi tình dục, chi
phối sự đánh giá lẫn nhau giữa hai người, và do đó, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển tình yêu của họ. Vì vậy trong tình yêu, mỗi người, nhất là con trai, phải căn cứ vào
quan điểm của người kia để có những cư xử thích hợp với quan điểm yêu đương của
người đó. Nhưng dù trong trường hợp nào, người con trai cũng cần phải có trách nhiệm
giữ gìn, bảo vệ cho bạn gái, đặc biệt là không được để xảy ra những “hậu quả nghiêm
trọng” cho bạn gái phải gánh chịu một mình.
+ Hành vi tình dục phải phù hợp với đạo đức và đạo lí xã hội
Dù trong bất kì trường hợp nào, dù “được phép của đối tượng”, mỗi người phải
biết kiềm chế những “hành vi yêu đương” trong khuôn khổ của đạo đức xã hội, phải biết
giữ gìn những hành vi yêu đương cho phù hợp với phong tục tập quán của từng dân tộc,
từng vùng, từng địa phương. Điều đó có nghĩa là, dù được bạn gái “cho phép” hoặc
“hưởng ứng”, người con trai vẫn phải biết kiềm chế những hành vi của mình, phải biết
“giữ gìn” cho bạn gái, đặc biệt không được để cho bạn gái phải chịu những “hậu quả
nghiêm trọng”.
+ Hành vi tình dục phải được giữ gìn, kiềm chế cho phù hợp lại hoàn cảnh
xung quanh
“Hành vi yêu đương” giữa hai người thường bị chi phối mạnh mẽ bởi phong tục tập
quán, bởi những quy định chung của xã hội. Thường thường, những hành vi đó chỉ được
diễn ra ở những nơi kín đáo vắng vẻ “chỉ có hai người”. Vì vậy, mặc dù cá hai đều có
rung động yêu thương mãnh liệt và chấp nhận “tất cả”, nhưng biểu hiện về hành vi tình
dục của họ ở những nơi đông người, ở những nơi tôn nghiêm mang tính văn hoá xã hội,
những nơi công cộng… vẫn bị xã hội phê phán. Những hành vi đó không phù hợp với văn
hoá và thuần phong mĩ tục Việt Nam. Sự phê phán này có thể dẫn tới những hậu quả bất
lợi cho tình yêu của đôi lứa. Nói một cách khác, muốn tình yêu phát triển thuận lợi và tốt
đẹp, hành vi tình dục phải được giữ gìn và kiềm chế cho phù hợp với hoàn cảnh xung
quanh.
– Từ mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu, có thể phân chia tình dục thành hai loại:
+ Tình dục không tình yêu: đó là tình dục mang tính bản năng đơn thuần. Dạng tình
dục này dễ làm cho con người trở nên thấp hèn, suy thoái đạo đức. Ở những người yếu
kém về nghị lực, ý chí, về văn hoá, đạo đức, tình dục dễ dẫn con người tới nếp sống ăn
chơi đồi trụy, bị tha hoá về nhân cách (hiện tượng mua bán dâm, ăn chơi trụy lạc…).
+ Tình dục trong tình yêu: là dạng tình dục gắn bó với tình cảm yêu thương sâu
nặng, nó là biểu hiện của tình yêu, phát triển cùng với sự phát triển của tình yêu. Tình
dục trong tình yêu chân thực, chân chính trở nên đẹp đẽ, cao thượng, phát triển mạnh
mẽ và mang tính văn hoá cao. Nó là một trong những yếu tố quyết định tạo nên hạnh
phúc của tình yêu và hôn nhân.
2. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu ở lứa tuổi thanh thiếu niên
- Ngày nay, mọi người đều thừa nhận rằng, vấn đề tình dục và tình yêu ở thanh
thiếu niên là những vấn dễ có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của các em. Mối quan
hệ giữa tình dục và tình yêu trong các em thường rất phức tạp. Ở độ tuổi dậy thì, trong
các em đã xuất hiện những nhu cầu tình dục nhất định, đồng thời, cũng xuất hiện những
rung cảm yêu đương.
- Tình yêu và tình dục ở tuổi thanh thiếu niên thường có mối quan hệ đặc biệt.
Những rung cảm tình dục có thể xuất hiện do sự dậy thì, sự phát triển sinh lí cơ thể
nhưng cũng có thể xuất hiện do cảm xúc yêu đương. Tình yêu và tình dục ở các em
thường có mối quan hệ rất mật thiết.
- Tình yêu trong thanh thiếu niên thường là những tình cảm rất mạnh mẽ và cũng
chi phối sự xuất hiện những rung cảm tình dục. Nó là một tổ hợp các yếu tố tâm lí trong
đời sống tình cảm, trong đó các đặc điểm nhân cách giữ một vai trỏ rất quan trọng. I.X.
Kon khẳng định: “Mỗi cá thể có một số tiềm năng tính dục tự nhiên nào đó, những kịch
bản hành vi tính dục của nó, tức là người đó yêu ai, và yêu như thế nào, thể bị quy định
bởi toàn bộ tổ hợp các điều kiện hình thành nên nhân cách người đó”.
- Sự phát dục là một hiện tượng, một giai đoạn đặc biệt của tuổi dậy thì. Đó là quá
trình biến đổi sinh học ở cơ thể, qua đó những chức năng tính dục dần dần xuất hiện,
hình thành, phát triển, trong đó có những rung cảm của tình dục.
– Ngày nay, sự phát triển tình dục, trong đó có rung cảm tình dục ở con người bắt
đầu sớm hơn trước đây. Người ta nhận thấy có hiện tượng “gia tốc” phát triển thể chất
và phát dục. Theo A.V. Petrovxki, ngay khi mới 9, 10 tuổi (hoặc sớm hơn) ở các em gái
tuyển sinh dục có thể bắt đầu hoạt động, tuyến vú bắt đầu hình thành còn ở tuổi 10 – 11,
một số em đã bước vào giai đoạn đầu của sự trưởng thành về tính dục. Các em trai,
hiện tượng trên có thể xuất hiện khi bước vào tuổi 12, 13. Thời kì mạnh mẽ nhất trong
quá trình này diễn ra vào khoảng từ 11 đến 13 tuổi đối với các em gái và từ 13 đến 15
tuổi đối với các em trai.
– Ở nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đều thống nhất rằng, ngày nay,
trong trẻ em có hiện tượng dậy thì sớm. Trong 50 năm vừa qua, cứ 10 năm, tuổi dậy thì
của các em gái lại sớm lên 4 tháng. Ở nhiều nước, còn có hiện tương quan hệ tình dục
sớm. Có các nước như Lyberia số thanh niên có quan hệ tình dục ở tuổi từ 14 đến 17
chiếm đến 46% ở nữ và 62% ở nam (trong 1488 em được nghiên cứu năm 1984). Ở
Nhật Bản, Mĩ, Đức, số các em có quan hệ tình dục sớm cũng rất cao. Ngay tại Việt
Nam, nhiều công trình nghiên cứu cũng cho thấy, lứa tuổi mà thanh thiếu niên có quan hệ
tình dục lần đầu tiên cũng ngày càng sớm hơn. Có những em quan hệ tình dục lần đầu
tiên ở lứa tuổi 14, 15 tuổi. Thậm chí, có em 13 tuổi đã có thai.
Hiện tượng đó do nhiều nguyên nhân về tâm lí xã hội, do quá trình đô thị hoá, do
tính tự lập của thanh niên lớn hơn trước đây, do các nguồn thông tin đại chúng thiếu chọn
lọc về các vấn đề giới tính, ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội, phim ảnh và các văn hoá
phẩm đồi trụy, do ảnh hưởng tiêu cực của các trang web đồi trụy trên Intemet, nếp sống
sinh hoạt ăn chơi trác táng, xì ke, ma tuý, thuốc lắc… Chính những nguyên nhân đó dễ
làm cho cuộc sống tình dục bắt đầu sớm hơn, đạo đức tính dục thoải mái hơn.
– Vì thế, mặc dù ở nhiều thanh thiếu niên vẫn hướng tới một tình yêu trong sáng
đẹp đẽ, nhưng vẫn xuất hiện những biểu hiện không tốt trong lĩnh vực này ở nhiều em.
Đây là một thực trạng đáng ngại có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Do quan hệ
tình dục sớm có thể dẫn tới việc yêu đương sớm, kết hôn sớm, mắc bệnh tình dục, nạo
thai, tự tử vì tình… nhất là hình thành lối sống ăn chơi hưởng thụ trụy lạc của một bộ
phận không nhỏ trong các em lứa tuổi vị thành niên… Ngược lại, tất cả những cái đó lại
ảnh hưởng tới sự tăng nhanh độ chín muồi tình dục ở các em.
- Trong khi ấy, sự trưởng thành về xã hội của các em để có khả năng độc lập về
kinh tế, để có những nhận thức đúng đắn, ý thức trách nhiệm đối với xã hơn đối với bạn
bè, để có thể kết hôn, lại chậm hơn nhiều (từ 20 đến 23 tuổi). Khoảng thời gian dài ấy
(từ 7 đến 10 năm) “đã gây rất nhiều khó khăn cho các em trong quan hệ với các bạn
khác giới và cũng đặt ra cho xã hội, cho các nhà giáo dục một số vấn đề cần quan tâm
giải quyết”. Điều đó cũng “đặt ra một loạt các vấn đề đạo đức và thực tiễn mà nhà
trường không thể bỏ qua được”.
– Hơn nữa, trẻ em rất sớm quan tâm đến các vấn đề giới tính, đặc biệt quan tâm
đến những vấn đề về tính dục, về tình gục. Sự quan tâm này có thể xuất hiện ngay từ
trước khi các em bước vào tuổi chín muồi về tình dục (5, 6 tuổi). Lúc đầu sự quan tâm
này không gắn với các thể nghiệm tình dục, mà biểu hiện tính tò mò thường tình: trẻ băn
khoăn về những đặc điểm riêng của cơ thể, về những đặc điểm của bạn khác giới có mà
mình không có, về việc sinh ra con người hoặc bản thân mình như thế nào… và nhiều
điều khác về con người mà người lớn giấu kín. Nhưng đến tuổi dậy thì, tình hình phức
tạp hơn. Sự quan tâm của các em ở độ tuổi này trở nên nhiều hơn, và mang tính chất
bức xúc hơn: Các em quan tâm do sự thôi thúc bên trong, do chính sự thúc đẩy bởi
những cảm xúc khác lạ nảy sinh do sự phát triển tính dục của cơ thể. Sự quan tâm đó
càng trở nên mạnh mẽ, nếu hàng ngày các em lại “bị” tiếp cận với “những hình ảnh và
sinh hoạt có tính chất giới tính”, vẫn tràn ngập trong đời sống của người lớn, trong phim
ảnh, sách báo, Intemet… Chính vì thế, các em rất cần phải được hướng dẫn và giáo dục
chu đáo.
– Chính sự che giấu, hoặc trả lời kiểu úp mở của người lớn lại càng kích thích các
em quan tâm đến những vấn đề đó và tìm hiểu nó. Nếu không được hướng dẫn, sẽ có
thể có nhiều tác hại to lớn cho các em: các em dễ hiểu lầm về quan hệ nam nữ, tình yêu,
tình dục, và sẽ dẫn tới hậu quả tai hại.
Một số người cố né tránh vấn đề này khi giáo dục các em. Họ cho rằng, nếu dạy
cho các em những vấn đề đó sẽ làm các em “hư người” đi, “vẩn đục” tâm hồn trong sáng
của các em, là “vẽ đương cho hươu chạy”.
Đó là quan niệm sai lầm.
Sự xuất hiện và phát triển đời sống tính dục ở con người là hiện tượng có tính quy
luật. Hiện tượng này ngày càng rõ rệt theo lứa tuổi. Từ tuổi dậy thì trở đi, hiện tượng này
trở thành một vấn đề quan trọng của đời sống con người. “Đến thời kỳ phát dục dù muốn
hay không trẻ đều bắt đầu phải quan tâm đến lĩnh vực đó của các sống”. Nhiều công
trình nghiên cứu đã cho thấy rằng ngay ở các em thiếu niên, đã có nhiều sự quan tâm
đến những vấn đề tình dục. I.X Kon cũng cho rằng, “nhiều thiếu niên rất thích các cuộc
trò chuyện bẩn thỉu, các câu chuyện khôi hài dơ dáy, các bức tranh khoả thân…” và
“những thứ này làm thấp hèn các thử nghiệm tình dục trong các em, làm các em bị xúc
động những rung cảm thầm kín”. Trong khi đó, các em lại chưa được chuẩn bị về mặt
tâm lí và văn hoá khi có những xúc động đó.
– Tính dục ở tuổi thiếu niên và thanh niên có một đặc điểm quan trọng là nó mang
tính chất thử nghiệm. Phát hiện thấy mình có năng lực tính dục, hoặc khi có những rung
cảm anh dục, các em tìm hiểu những vấn đề ấy từ mọi phía. Các em quan tâm tìm hiểu
chúng từ rất sớm, thậm chí, từ tuổi 12 đến tuổi 15, các em còn hay tìm mọi cách quan
sát các hành vi tình dục, đọc sách báo đồi trụy, nhìn trộm, nhất là “những trường hợp
hành vi tình dục sai lệch, gần với bệnh lí”. Ở các em, những biểu hiện của đời sống tính
dục rất đa dạng và phức tạp, như hiện tượng kinh nguyệt, cơ thể nảy nở, vỡ tiếng, mọc
râu, mụn trứng cá, mộng tinh, thủ dâm… Những biểu hiện trên nhiều khi lại là nguyên
nhân dẫn tới những kích thích, những nhu cầu muốn thử nghiệm, muốn được trực tiếp
quan sát, tìm hiểu.
– Hiện tượng thủ dâm là biểu hiện khá phổ biến ở tuổi thiếu niên và thanh niên.
“Thanh thiếu nên dùng thủ dâm làm phương tiện giảm bớt căng thẳng tình dục do các
nguyên nhân sinh lí gây ra. Đồng thời cũng có các yếu tố tâm lí tham gia vào kích thích
thủ dâm”. Hiện tượng thủ dâm ở thanh thiếu niên là một biểu hiện đặc biệt của sự phát
triển tính dục ở các em. Theo giáo sư A.M. Sviados, “thủ dâm vừa phải ở tuổi thanh niên
thường mang tính chất tự điều chỉnh chức năng tình dục”. Nó làm giảm tính hưng phấn
tình dục cao và không nguy hiểm. Tuy nhiên, thủ dâm lại có ảnh hưởng rất mạnh đến đời
sống tình cảm, đến tính tò mò muốn tìm hiểu những “sinh hoạt kín đáo” của người lớn,
thậm chí tự kích thích những rung cảm, những ham muốn “chuyện yêu đương” ở bản
thân các em.
Như vậy rung cảm yêu đương và rung cảm tình dục là những hiện tượng có tính
phổ biến và tính quy luật ở thanh thiếu niên từ tuổi dậy thì trở đi. Bàn về tình yêu ở lứa
tuổi này, các Giáo sư Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê Khanh đều khẳng định rằng,
sự xuất hiện tình yêu của các em là “bắt đầu một giai đoạn bình thường và tất yếu trong
sự phát triển của con người”. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện rung cảm tình yêu và rung
cảm tình dục của các em lứa tuổi này không phải là do “ai nhắc đến”, không phải là do
sự giáo dục của người lớn cho các em (nếu người lớn giáo dục các em những vấn đề
này), mà là đo chính đặc điểm của sự phát triển sinh lí cơ thể, đặc điểm của đời sống
tâm lí và cuộc sống, hoạt động xã hội của các em tạo nên. Nói cách khác, dù không ai
“vẽ đường”, những con hươu vẫn cứ chạy, chỉ có điều chúng “chạy lung tung” trong
trường đời, để rồi có những con bị “sa xuống bùn, xuống hố” mà thôi.
– Tất nhiên, mức độ và sự biểu hiện của các hiện tượng ấy, đặc biệt là tình dục,
khác nhau theo lứa tuổi, theo từng cá nhân, từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Đó là
những mối quan hệ rất đặc trưng của đời sống giới tính, của sự khác biệt giới tính. Đó
cũng là những mối quan hệ đặc biệt, điển hình ở con người do ảnh hưởng của giới tính.
Nó điển hình đến mức, nhiều người lầm tường giới tính chỉ là tình yêu hay dù là quan hệ
tình dục.
– Như vậy, ở thanh thiếu niên, tình dục cũng đã là một biểu hiện tất yếu của đời
sống tính dục, một yếu tố liên quan mật thiết đến tình yêu:
+ Trước hết, tình dục như là một bản năng mang tính tất yếu của con người. Nó
được hình thành rõ nét ở con người thường vào lứa tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, ngay
từ thời kì dậy thì, những dấu hiệu của đời sống tình dục đã xuất hiện ở con người
(thường vào lứa tuổi 13, 14 tuổi). Ban đầu các em chưa xác định rõ được những dấu
hiệu đó, mà chỉ thấy có những rung cảm khác lạ của bản thân trước những người khác
giới, hoặc những hình ảnh liên quan tới đời sống tình dục của người lớn. Dần dần những
rung cảm này được củng cố, phát triển và tạo nên những rung động thực sự trong bản
thân các em.
+ Những rung cảm tình dục thường bị xã hội đánh giá như là những cảm xúc, những
hành vi tội lỗi, xấu xa ở con người. Tuy nhiên, trong thực tế không hoàn toàn như vậy, ở
các em trong thời kì dậy thì những rung cảm này nhiều khi lại tạo nên sự tế nhị, sự kín
đáo, duyên dáng hoặc những cảm xúc đặc biệt làm tho các em trở nên duyên dáng hơn,
dịu dàng hơn, đàng hoàng chững chạc hơn, hoặc có những hành vi “kín đáo”, “giữ gìn”
hơn trước người khác phái.
+ Những rung cảm tình dục thường thúc đẩy các em tự khám phá mình, quan tâm
đến người khác giới… Những rung cảm này làm cho các em trở nên tò mò, thích đọc
những sách báo “người lớn”, có những cảm giác “mới lạ “ trong khi tiếp cận với người
khác giới… Từ đó, ở các em xuất hiện cảm xúc yêu đương, quan tâm đến chuyện yêu
dương và xây dựng tình yêu.
Có thể khẳng định rằng, tình dục và tình yêu ờ lứa tuổi thanh thiếu niên cũng có mối
quan hệ rất gắn bó, rất phức tạp, mang tính tâm lí, xã hội cao.
3. Vấn đề giáo dục tình dục và tình yêu cho thanh thiếu niên
Quan hệ tình dục và quan hệ tình yêu ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nhân cách
của con người, của thanh thiếu niên. Nếu không được hướng dẫn chu đáo, tức là nếu
không được giáo dục những mối quan hệ này, các em sẽ dễ mắc sai lầm trong cuộc
sống và do đó, sự phát triển nhân cách của các em sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Tuy nhiên, cần tránh quan niệm cho rằng, cứ mạnh dạn hướng dẫn và truyền đạt
những tri thức về tình yêu và tình dục cho thanh thiếu niên một cách “tự nhiên và đầy đủ”,
không cần phải e ngại, vì đằng nào rồi các em cũng sẽ biết. Đó là việc giáo dục những
kiến thức này cho các em theo kiểu “bóc trần” sự thật một cách thô thiển. Việc giáo dục
như vậy có thể gây nhiều tác dụng phản diện.
Giáo dục tình yêu và tình dục cho thanh thiếu niên phải hết sức thận trọng và tế nhị.
Cần phải lựa chọn những nội dung, mức độ, những hình thức giáo dục phù hợp với lứa
tuổi, với tôn giáo, với phong tục tập quán từng địa phương…
Việc giáo dục những tri thức này phải tuân theo những yêu cầu cơ bản sau đây:
- Việc giảng dạy những tri thức này phải phối hợp với những nội dung khác của
giáo dục giới tính. Phải giáo dục giới tính một cách toàn diện.
– Cần có thái độ nghiêm túc, tự nhiên, đảm bảo tính khoa học khi lên lớp.
– Không nên chỉ tập trung vào những “yếu tố kĩ thuật” đơn thuần, những tri thức
sống sượng, hoặc mô tả những khái niệm, những sự kiện, những hiện tượng một cách
thiếu tế nhị.
– Phải kết hợp việc truyền thụ tri thức với việc giáo dục những thái độ đúng đắn cần
thiết. Đặc biệt là:
+ Phải giáo dục cho các em thái độ trân trọng đối với tình yêu chân thực và chân
chính, thấy được những giá trị cao cả của ình cảm yêu thương nồng thắm, sâu nặng.
Phải giáo dục các em có lòng chung thuỷ, biết tôn trọng người yêu, tôn trọng tình yêu.
Phải có thái độ nghiêm túc và thận trọng khi nhận lời yêu thương của người khác, biết
“bảo vệ”, “giữ gìn” trong mối liên hệ với người yêu…
+ Khi truyền đạt những tri thức về tình yêu và tình dục, cần nhấn mạnh đến những
hậu quả tai hại của việc yêu đương và “quan hệ” dễ dàng, bừa bãi, hậu quá của việc
quan hệ tình dục sớm, hậu quả của việc nạo phá thai, hậu quả của nếp sống sinh hoạt
đồi trụy hoặc ăn chơi trác táng, những thiệt thòi, khó khăn của các em gái trong các
“quan hệ” này…

Created by AM Word2CHM
IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

1. Khái niệm chung về tình yêu


a) Một số quan niệm về tình yêu
Có rất nhiều quan niệm phức tạp về tình yêu. Có người cho tình yêu là vấn đế lãng
mạn, ủy mỵ, không đứng đắn. Có người cho rằng, tình yêu chỉ là chuyện riêng của tuổi
trẻ, của thanh niên. Khi con người đã có gia đình hoặc khi lớn tuổi, không còn tình yêu
nữa…
Nhiều thanh niên thường lầm lẫn giữa tình yêu và tình dục, hoặc cho rằng tình yêu
tức là tình dục, tình yêu là không thể hiểu được hoặc là tình yêu là duyên số trời định…
Những quan niệm trên đây là những quan niệm chưa đầy đủ, chưa đúng đắn về tình
yêu.
b) Khái niệm chung về tình yêu
– Tình yêu là dạng tình cảm cao cấp và rất phức tạp trong đời sống con người.
Tình yêu chịu sự thi phối của đời sống tâm lí và có sự tham gia của nhiều loại tình cảm
(tình thương, tình bạn, lòng nhân ái, danh dự, lương tâm…), của nhiều hiện tượng tâm lí
khác như: nhu cầu nguyện vọng, lí tưởng, ước mơ, tài năng, đạo đức, cá tính… của các
hiện tượng sinh lí (tình dục, sức khoẻ...). tình yêu liên quan gắn bó mật thiết với đời sống
tâm sinh lí con người, liên quan đến đời sống xã hội, kinh tế, văn hoá… Chính vì thế, tình
yêu có khi rất phức tạp, nhiều khi tưởng chừng như không tuân theo quy luật nào.
Tình yêu phụ thuộc rất nhiều vào phong tục tập quán và trình độ văn hoá xã hội, phụ
thuộc vào cá tính của mỗi người (nhất là đạo đức phong cách sống, lối sống, lẽ sống,
tính khí và trình độ nhận thức…).
– Tình yêu là dạng tình cảm tất yếu nảy sinh ở con người. Hầu như ở con người ai
cũng có những thời kì yêu đương nhất định. Tuỳ từng người, đến một tuổi nào đó, gặp
một điều kiện hoàn cảnh nào đó người ta bắt đầu yêu. Tình yêu xuất phát từ bản chất xã
hội, từ sự phát triển tâm sinh lí của con người. Những người phát triển bình thường đều
có thể có tình yêu của mình (chỉ trừ một số ít người đặc biệt trong xã hội: có lí tưởng
đặc liệt, muốn tu hành, sinh lí đặc biệt, hoặc mắc bệnh… mới không yêu). Tình yêu là,
dạng tình cảm tự nhiên tất yếu và rất cần thiết đối với con người (con người trưởng
thành) như cơm ăn, nước uống, không khí trong lành…
– Tình yêu có vai trò rất quan trọng đối với con người. Nó có sức mạnh to lớn, ảnh
hưởng đến toàn bộ nhân cách của con người.
+ Tình yêu về bản chất, là một tình cảm lành mạnh, trong sáng, tốt đẹp là một nhu
cầu tất yếu của con người trong cuộc sống xã hội, nó tạo nên những rung cảm hạnh
phúc, làm cho cuộc dời của con người có ý nghĩa, hoàn thỉnh và đầy đủ hơn. Nhờ đó,
con người ngày càng phát triển nhân cách theo thiên hướng tốt đẹp hơn.
+ Tình yêu chân thực và chân chính ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người, tạo nên
sức mạnh, làm cho con người tự biến đổi, đi tới hoàn thiện, nâng cao ý thức trách nhiệm
của bản thân đối với mọi người, đối với xã hội, đối với người mình yêu.
+ Tình yêu giúp cho con người thoả mãn những nhu cầu đặc biệt về đời sống tình
cảm, đời sống giới tính. Tình yêu giúp cho con người tạo nên sự cân bằng về đời sống
tình cảm, cũng như về đời sống tính dục. Nó được coi như là một dấu hiệu quan trọng
thể hiện sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội, và trải nghiệm cuộc đời. Ở tuổi trưởng
thành, nếu con người chưa có tình yêu hoặc không có tình yêu, thường dễ có những cảm
xúc “đơn điệu”, “thiếu thốn”, “cô đơn” hoặc “trống vắng” trong đời sống tình cảm.
+ Tình yêu là một trong những loại tình cảm ảnh hưởng mạnh nhất đến sức mạnh
tinh thần và sức mạnh vật chất của con người. Nó có thể làm cho con người trẻ đẹp hơn,
khoẻ ảnh hơn, làm cho cuộc đời của con người trở nên vui tươi, hạnh phúc, tích cực hoạt
động, sáng tạo… Nhưng nó cũng có thể làm cho con người đau khổ, rũ rượi, chán nản và
tuyệt vọng, mất hết sức sống, thậm chí muốn tìm đến cái chết để trốn tránh. Nó có thể
làm cho con người thay đổi hoàn toàn về lối sống, nếp sống, và cách nhìn nhận về cuộc
đời.
+ Tình yêu là một yếu tố đặc biệt thúc đẩy con người tiến tới hôn nhân, là cơ sở, là
yếu tố quyết định hạnh phúc trong hôn nhân.
- Con người chỉ thực sự hạnh phúc trong tình yêu khi tình yêu của họ là tình yêu
chân thực và chân chính. Việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc của con người phải gắn
liền với việc xây dựng và nuôi dưỡng tình yêu chân thực, chân chính đó. Tình yêu là cơ
sở, là nền tảng, là yếu tố quyết định hạnh phúc gia đình. Việc xây dựng và giáo dục cho
thanh niên về tình yêu chân thực và chân chính là việc rất quan trọng và cần thiết, nhất là
trong tình hình hiện nay.
2. Những thành phần cơ bản trong tình yêu
Tình yêu rất phức tạp, bao gồm nhiều thành phần tâm lí, sinh lí và những thành
phần đó quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Tuỳ theo từng loại tình yêu, tuỳ theo đặc điểm đạo đức cá tính mỗi người có thể có
tình yêu khác nhau. Tuy nhiên xét về bản chất, những tình yêu thực sự, đặc biệt là tình
yêu chân thực, chân chính đều có chung những thành phần điển hình. Qua những thành
phần này, chúng ta có thể nhận biết rằng, người đó đã yêu chưa? Có yêu thực sự hay
không? Yêu như thế nào? Chân chính hay không, mức độ sâu sắc mãnh liệt đến đâu…
Những thành phần đó là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất của tình yêu
Chúng ta xét ba thành phần cơ bản sau:
a) Tình thương trong tình yêu
– Tình thương là thành phần cơ bản và quyết định trong tình yêu, khi yêu nhau, bao
giờ hai người cũng “thương nhau”. Sự thương nhau này thường biểu hiện vô cùng phong
phú và đa dạng.
Tình thương trong tình yêu chân thực làm cho người ta luôn lo lắng, chăm sóc cho
nhau. Đó là sự quan tâm chăm sóc đặc biệt, sâu sắc toàn diện, về sức khoẻ, tâm hồn và
toàn bộ cuộc sống của nhau.
– Tình thương trong tình yêu làm cho người ta có ý thức trách nhiệm với nhau,
quan tâm giúp đỡ lẫn nhau một cách tự nguyện. Người ta lo lắng cho nhau, bảo vệ nhau,
thậm chí có thể hi sinh tất cả vì nhau. Tình thương đôi khi làm cho con người thiếu sự
sáng suốt để thiên lệch khi đánh giá về nhau.
Những nhược điểm của người yêu đều được che đậy, đều được bao phủ bằng một
sắc màu rực rỡ, hoặc được bảo vệ bằng một tình cảm nồng nàn. Những khuyết điểm của
người yêu đều được dễ dàng tha thứ.
Vì đặc điểm này nên khi yêu nhau thắm thiết, người ta dễ thiếu tình táo dẫn đến chỗ
mù quáng, sai lầm.
- Tình thương trong tình yêu làm cho người ta có nguyện vọng dâng tặng cho nhau
tất cá mà không hề nuối tiếc. Đặc điểm này cùng với tâm lí cả nể trong những phút giây
mãnh liệt ở nhiều bạn gái dễ bị lợi dụng, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
Cần chú ý rằng trong tình yêu thân thực, chân chính, tình thương mãnh liệt và sâu
nặng thường giúp cho con người biết lo cho nhau, bảo vệ cho nhau và giữ gìn cho nhau
những gì thiêng liêng nhất.
- Tình thương làm cho con người ta hoà hợp, thân thiết với nhau hơn.
– Chính do những đặc điểm trên, tình thương trong tình yêu mang dáng dấp của
tình thương trong tình mẫu tử (nói một cách khách tình thương đó gần giống với tình mẫu
tử). Vì vậy, trong tình yêu thắm thiết đặc biệt trong một gia đình hạnh phúc, hai người
thường có những rung cảm sâu sắc, đằm thắm, có cảm xúc muốn bao bọc cho nhau
hoặc “bé nhỏ lại” trước nhau.
– Mặc dù có những biểu hiện giống tình mẫu tử, nhưng tình thương trong tình yêu
có nhiều điểm khác với tình cảm đó. Đặc biệt tình thương trong tình yêu phải diễn ra hai
chiều, người ta thương nhau, hoặc chăm sóc nhau, chiều chuộng nhau… phải cân bằng
hoặc đi tới cân bằng. Có nghĩa là cả hai bên đều phải có sự dâng tặng và đón nhận. Có
như thế tình yêu mới đẹp, mới phát triển để hai người chung sống hạnh phúc. Nếu không
có đặc điểm này, tình yêu sẽ mất cân bằng, sẽ chỉ còn là sự chạy đuổi, sự giả tạo, hoặc
sự si mê ngu dại, dễ đi đến đổ vỡ.
– Tình thương trong tình yêu không phải là một sự thương hại, một sự ban ơn,
hoặc một sự chịu đựng, hi sinh một chiều. Đó là một tình thương xuất phát từ đáy lòng,
từ trái tim. Người ta thương nhau một cách tự nguyện (ngấm ngầm hoặc công khai). Do
những mãnh lực thiêng liêng thôi thúc. Được hi sinh cho nhau, được chăm sóc nhau… đó
là niềm hạnh phúc. Có khi người ta tự giác lo lắng cho người yêu, dù đối tượng không
muốn thậm chí bực bội vì chính sự chăm sóc đó.
– Tình thương trong tình yêu biểu hiện rất đa dạng và tinh tế, từ mức độ lắng sâu
“trong trái tim”, “đáy lòng” đến những hành vi dáng điệu, nụ cười…
Có thể nói rằng, tình thương không thể thiếu trong tình yêu.
Nếu không có tình thương, sẽ không thể có tình yêu chân chính và chân thực.
Tình thương là yếu tố cơ bản tạo nên tình nghĩa vợ chồng. Tình thương gắn bó hai
tâm hồn của hai người: Tình thương đem lại cho con người ý chí và nghị lực, sức mạnh
và sự chịu đựng, sự hi sinh cao cả và sự chăm sóc quan tâm không hề tính toán…
Tình thương là yếu tố chủ yếu làm cho tình yêu trở nên thiêng liêng, cao đẹp, làm
cho tình yêu có sức mạnh vô tận.
Nếu thiếu tình thương, tình yêu chỉ còn là sự tận dụng những cảm giác, sẽ chỉ còn
lại những hành động vật chất thấp hèn. Nếu thiếu tình thương, tình yêu sẽ nhạt nhẽo, đơn
điệu và tàn lụi, cuộc sống vợ chồng sẽ chỉ là sự tận dụng con người theo kiểu “mất tiền
mua mâm phải đâm cho thủng”. Cuộc sống vợ chồng luôn luôn va chạm, xô xát hoặc chỉ
còn là sự chịu đựng nhau cả đời.
Tình yêu cháy bỏng thường gắn với tình thương vô bờ bến. Tình thương bao la sâu
sắc sẽ làm cho tình yêu mãnh liệt, thuỷ chung. Nếu thiếu tình thương, tình yêu thực sự
không tồn tại. Tình thương là thành phần quan trọng bao trùm nhất trong tình yêu, làm
tình yêu phát triển, bền vững.
Tuy nhiên, tình thương chưa phải là tình yêu. Khi yêu nhất định phải thương nhưng
thương chưa có nghĩa là yêu. Nhiều trường hợp người ta thương nhau nhưng không yêu
nhau, hoặc không thể yêu nhau được. Vì ngoài tình thương, tình yêu còn bao gồm nhiều
thành phần khác.
b) Tình bạn trong tình yêu
Sự hình thành tình yêu thường rất phức tạp. Tuy nhiên, một trong những con đường
cơ bản dẫn đến tình yêu là từ tình bạn khác giới.
– Tình yêu bắt đầu từ tình bạn khác giới thường trong sáng, vững bền. Tình bạn
khác giới là cơ sở, nền móng của tình yêu. Tình bạn khác giới dễ đi đến tình yêu.
– Quan hệ yêu đương là quan hệ giữa hai con người, họ gặp gỡ tiếp xúc với nhau,
họ trao đổi, tủn hiểu nhau. Quá trình yêu đương là quá trình giao tiếp giữa hai con người,
làm hai người ngày càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Bởi vậy, có thể nói quá trình
yêu đương mang tính chất của quá trình bạn bè (quá trình quan hệ thân thiết giữa người
với người). Đó là tính chất bạn trong tình yêu: Nói cách khác, trong tình yêu luôn có tình
bạn. Hai người yêu đồng thời cũng chính là hai người bạn của nhau. Hai vợ chồng chung
sống với nhau, đó là hai người bạn đời. Người ta thường nói, hai vợ chồng là đôi bạn
trăm năm.
– Tính chất bạn trong tình yêu được biểu hiện trước hết ở sự thân thiết gắn bó giữa
hai người. Hai người yêu nhau rất mong được ở bên nhau, được tâm sự, trao đổi với
nhau. Họ có thể nói với nhau những điều sâu kín nhất mà có khi đến cha mẹ, anh em ruột
cũng không được biết.
Sự thân thiết gắn bó tạo ra nhu cầu gặp gỡ, tạo nên sự thương nhớ mỗi khi xa
nhau (có khi tới mức tương tư). Sự thương nhớ là một trong những đặc trưng cơ bản
của tình yêu.
– Một biểu hiện khác của “tính chất bạn” trong tình yêu là sự hoà hợp giữa hai con
người. Đó là sự cảm thông giữa hai tâm hồn, là sự “tri âm, tri kỷ”, sự thống nhất về quan
niệm sống, về cuộc đời trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau.
Sự hoà hợp càng cao, tình yêu càng có điều kiện phát triển. Cần lưu ý rằng, để có
sự hoà hợp, cả hai người đều cần phải có sự biến đổi mình và sự cảm hoá lẫn nhau.
Thực tế mối quan hệ giữa hai người là sự đi tới hoà hợp (vì hầu như không có sự hoà
hợp tuyệt đối giữa hai con người). Bởi vậy, quá trình yêu nhau cũng chính là quá trình
cảm hoá lẫn nhau, chấp nhận lẫn nhau và tự cải tạo mình để tạo nên sự hoà hợp.
- Tính chất bạn trong tình yêu còn có biểu hiện rất quan trọng nữa, đó là sự tôn
trọng lẫn nhau giữa hai người. Mối quan hệ giữa hai người là sự tôn trọng, quý mến lẫn
nhau ở nhiều mặt: danh dự, nhân phẩm, những kỉ niệm, kỉ vật… Nhiều khi những tặng vật
bình thường trong đời sống xã hội lại trở thành vô giá trong tình yêu đôi lứa. Sự tôn trọng
trong tình yêu mang một sắc thái đặc biệt: thân thiết gắn bó trong sự bình đẳng, thân
thiết, gắn bó mà vẫn có cái độc lập cái riêng của từng người, mỗi người đều không dám
và không nên xâm phạm cái riêng của người kia, kể cả hai người đó đã ăn ở với nhau
đến đầu bạc răng long.
Như vậy trong tình yêu cũng như trong cuộc sống vợ chồng, hai người vẫn cần giữ
“lịch sự” với nhau, vẫn cần tuân theo nếp sống văn hoá, văn minh khi đối xử với nhau.
Những biểu hiện của tính chất bạn như trên ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình yêu, góp
phần tạo nên sự chân thật, chân chính của tình yêu, làm cho tình yêu cao đẹp và vững
bền.
Khi nào người ta kiếm cớ lẩn tránh nhau, không thật tình mong muốn gặp nhau, khi
người ta luôn sai hẹn, hoặc đối xử với nhau thô lỗ hoặc muốn cải tạo người yêu theo ý
muốn cá nhân của mình… khi ấy “tính chất bạn” đã suy giảm, tình yêu sẽ không còn đẹp
đẽ và có nguy cơ tan vỡ. Thiếu tình bạn, tình yêu sẽ đơn điệu, tẻ nhạt, chỉ còn lại sự chịu
đựng, dễ trở thành sự si mê thù quáng, dễ trở thành những cơn mê đắm phá hoại nhân
phẩm và sự nghiệp của con người.
Cùng với tình thương, tình bạn làm cho tình yêu trở thành gắn bố, hấp dẫn, thi vị,
trở thành thiêng liêng và thắm thiết, làm cho tình yêu bèn vững và phát triển. Tình bạn
làm cho tình yêu trở thành một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ, sự phát triển nhân cảm của
hai người, chắp cánh cho con người vươn tới những đỉnh cao trong cuộc sống.
Tình bạn là một thành phần không thể thiếu được trong tình yêu Tuy nhiên, tình bạn,
và cả tình thương như đã nêu ở trên, chưa đủ để hình thành tình yêu. Nhiều trường hợp
hai người có thân thiết gắn bó với nhau, thương nhau thật sự, nhưng tình yêu của họ
không hình thành, hoặc nếu đã có cũng không bền vững, không phát triển vì ngoài tình
thương và tình bạn, còn có một thành phần cơ bản khác không thể thiếu được. Đó là
những rung động về tình dục.
c) Tình dục trong tình yêu
– Tình dục là bản năng đặc biệt của con người (có người gọi hiện tượng này là
quan hệ sinh lí trong tình yêu). Tuy nhiên từ “tình dục” được dùng phổ biến hơn. Ở mỗi
người bình thường, đến một độ tuổi nhất định sẽ xuất hiện bản năng tình dục.
Tình dục là hiện tượng sinh lí đặc biệt, nó gắn liền với đạo đức xã hội, với phong tục
tập quán, với tâm lí cá nhân… Ở mỗi địa phương, mỗi thời đại và cá nhân có quan niệm
khác nhau về tình dục.
- Mặc dù tình dục có thể độc lập tương đối với tình yêu (đơn thuần là một nhu cầu
sinh lí của con người nhưng thường thường tình dục gắn liền với tình yêu, quan hệ mật
thiết với tình yêu. Nhu cầu tình dục có thể xuất hiện khi người ta không yêu (nhất là ở
nam giới. Nhưng khi đã yêu, tình dục thường nảy sinh và phát triển mạnh. Tình dục là dấu
hiệu cơ bản để phân biệt tình bạn với tình yêu.
– Ở trạng thái độc lập với tình yêu tình dục tuân theo những quy luật riêng biệt.
Trong tình yêu, tình dục lại bị những quy luật của tình yêu chi phối.
Đặc điểm tình dục ở mỗi người có thể rất khác nhau, có người yếu, có người mạnh,
mỗi người có sở thích, thói quen, cá tính về tình dục khác nhau. Đặc điểm tình dục của
nam có khác biệt nhiều so với người nữ.
– Ở Việt Nam, do tâm lí dân tộc và phong tục tập quán chi phối, biểu hiện về tình
dục trong tình yêu thường có những mức độ khác nhu: từ mức độ chỉ là những cảm xúc
sâu kín bên trong (nên người ngoài, có khi chính người yêu, khó có thể biết được) đến
những hành vi tình dục “bên trong”, hành vi tình dục “bên ngoài”, và cao hơn cả là mức
độ “sâu sắc nhất”. Những mức độ của tình dục thường tương ứng với những mức độ
nhất định của tình yêu và bị đạo đức xã hội chi phối.
– Trong tình yêu, tình dục có vai trò rất đặc biệt: Người ta chỉ có thể yêu nhau thực
sự khi trong mỗi người có thể xuất hiện những rung cảm tình dục trước người kia. Tình
dục có thể làm nảy sinh tình yêu và đặc biệt là tình dục thường hình thành và phát triển
cùng với sự hình thành và phát triển của tình yêu. Càng yêu tha thiết, tình dục càng phát
triển và đòi hỏi mạnh mẽ. Vì thế, tình dục có thể được coi là dấu hiệu và sự biểu hiện của
tình yêu. Thậm chí, người ta có thể căn cứ vào những hành vi tình dục được biểu hiện để
đánh giá xem mình còn được yêu hay không và được yêu nhiều hay ít.
– Tính hai mặt của tình dục trong tình yêu: Tình dục như là con dao hai lưỡi trong
tình yêu, nó có thể làm tình yêu phát triển mãnh liệt và cũng có thể bóp chết tình yêu. Đó
là tác dụng tích cực và tiêu cực của tình dục đối với tình yêu.
Tình dục thường có tác dụng tiêu cực đối với tình yêu khi mức độ của tình dục
không phù hợp với mức độ của tình yêu, không phù hợp với người yêu, với quan niệm,
đạo đức xã hội.
Chẳng hạn: mức độ tình yêu cao (sâu sắc, mãnh liệt) nhưng mức độ của tình dục
quá thấp: hai người yêu nhau đã lâu mà không có hoặc ít có những rung cảm tình dục khi
ở bên nhau. Trường hợp này thường làm cho tình yêu trở nên cứng nhắc, nhạt nhẽo,
đơn diệu và thường đi đến tan vỡ. Tuy nhiên, tác dụng tiêu cực xảy ra phổ biến trong
trường hợp, mức độ yêu đương còn thấp nhưng đòi hỏi tình dục của một bên (thường là
ở người nam giới) lại quá cao, quá nhiều hoặc thô bạo. Việc quan hệ tình dục ở mức
“sâu sắc nhất” trong lứa tuổi vị thành niên, đặc biệt là trước hôn nhân, thường tạo ra
những mặc cảm tội lỗi, dễ nhàm chán nhau, dễ coi thường lẫn nhau, dễ dẫn tại “hậu quả
nghiêm trọng”… dẫn đến sự tan vỡ trong tình yêu.
Tình dục lại có thể tạo nên những ảnh hưởng tích cực đối với tình yêu: làm cho tình
yêu phát triển mạnh hơn, nồng nàn hơn, sâu sắc hơn, đẹp đẽ hơn… Ảnh hưởng tích cực
này thường xuất hiện trong trường hợp những rung cảm tình dục phù hợp với mức độ
yêu thương, với quan niệm, cá tính của người yêu, với đạo đức, phong tục tập quán của
xã hội.
– Những điều kiện để tình dục làm cho tình yêu phát triển: Để tình dục góp phần tạo
ra những ảnh hưởng tích cực đối với tình yêu, sự cư xử và biểu hiện tình dục trong tình
yêu phải tuân theo những điều kiện sau đây:
+ Có sự phù hợp với đạo đức xã hội, với phong tục tập quán.
+ Có sự phù hợp với tâm lí và cá tính.
+ Có sự phù hợp với hoàn cảnh và tình huống.
+ Có sự phù hợp với mức độ của tình yêu..
+ Có sự phù hợp với quan niệm, đặc điểm tình dục của “đối phương”.
+ Có sự phù hợp với quy luật diễn biến của “đời sống tình dục” con người.
Ngoài ra, một điều kiện quan trọng nữa là những biểu hiện của tình dục thường phải
gắn với những thái độ trân trọng, với tình cảm yêu thương, với ý thức “bảo vệ” và “dâng
tặng” cho nhau, với những rung động mãnh liệt tương ứng của cả hai bên…
3. Sự hình thành và phát triển của tình yêu
a) Những mức độ phát triển của tình yêu
Tình yêu là một quá trình diễn tiến lâu dài và phức tạp, nó có thể phát triển qua
những mức độ sau đây:
– Mức độ cảm mến:
Hai người gặp nhau, biết nhau, ở họ nảy sinh những xúc cảm ban đầu: dễ chịu, cảm
tình, thiện cảm, khâm phục, mến mộ, tin tưởng, từng động, thích thú… mức độ phát triển
cao nhất ở giai đoạn này là họ “thích nhau” mong được gặp để trò chuyện, trao đổi.
– Mức độ nhớ thương:
Sau nhiều lần gặp gỡ người ta thường xuyên nghĩ đến “đối tượng”, mong muốn
được gặp đối tượng. Nếu không được gặp nhau thường xuất hiện cảm giác nhớ thương
hoặc thấy “thiếu một các gì đó”. Bản thân họ bắt đầu có biến đổi về tâm lí, nhất là hay
“làm dáng” khi được gặp đối tượng. Những khi gặp thường có cảm xúc dễ chịu, thích
thú.
– Mức độ yêu đơn phương:
Sự nhớ thương dã ở mức cao, thôi thúc người ta phải tìm cách để gặp gỡ hoặc
trao đổi với đối tượng. Dần dần họ cảm thấy rất thân thiết gắn bó với đối tượng, không
thể thiếu đối tượng. Họ nhận thức được là mình đã yêu. Khi gặp nhau thường e ấp, lúng
túng do các cảm xúc xuất hiện mạnh mẽ.
“Tiếng sét ái tình” nổ ra có thể tiến ngay vào mức độ này. Đỉnh cao của mức độ
này là sự ngỏ lời.
– Mức độ yêu thương cảm xúc:
Tình yêu đã được hình thành ở cả hai bên, tuy nhiên vẫn còn chịu sự thi phối mạnh
của các cảm xúc, ít nhất một trong hai người (hoặc cả hai) vẫn còn sự e ngại, giữ kẽ,
“giữ gìn” mỗi khi gặp nhau, hoặc che giấu không cho người ngoài biết tình yêu của mình.
Họ thường lúng túng mỗi khi gặp nhau hoặc nói chuyện với nhau, mặc dù khi xa nhau họ
lại nhớ thương và mong muốn được gặp.
– Mức độ yêu thương nồng thắm:
Hai người đã gắn bó thân thiết, có sự cảm thông sâu sắc, đã có những “rung cảm
yêu thương”, hành vi yêu thương sâu nặng, mãnh liệt và hoà hợp. Các yếu tố cơ bản của
tình yêu đều xuất hiện đầy đủ rõ ràng và hài hoà. Hai người đều cảm thấy rất hạnh phúc,
mong thuốn được chung sống bên nhau lâu dài.
Trong quá trình phát triển của tình yêu, mỗi mức độ nói trên đều có những đặc
điểm, vai trò nhất định, mỗi mức độ đều có những biểu hiện tương ứng của tình thương,
sự thân thiết, gắn bó của tình bạn, sự rung động tình dục. Muốn tình yêu phát triển con
người phải có cách cư xử thích hợp với đối tượng, tuỳ theo những mức độ này. Đặc biệt
những biểu hiện của mức độ tình dục phù hợp với mức độ phát triển của tình yêu có ý
nghĩa hết sức quan trọng, thường có tác dụng thúc đẩy tình yêu phát triển tốt đẹp.
b) Những căn cứ để nhận biết sự phát triển của tình yêu
Muốn nhận biết tình yêu đã phát triển đến mức độ nào, ngoài việc nắm được những
đặc điểm của mỗi mức độ, chúng ta cần dựa vào một số căn cứ (biểu hiện) nhất định. Có
nhiều căn cứ để đánh giá, sau đây là một số căn cứ, một số dấu hiệu quan trọng nhất:
- Sự cảm thông: Hai người hiểu nhau đến mức độ nào, thương nhau nhiều hay ít,
có sự rung cảm hoà hợp đến đâu (sự tương đồng tâm lí? Sự đồng cảm? Lối sống có
hợp nhau?…).
– Sự thân thiết gắn bó: Hai người đã thân nhau đến mức nào (nói chuyện sâu kín
với nhau chưa, hành vi thân thiết đến độ nào trong cư xử hàng ngày…).
– Sự xuất hiện của những cảm xúc yêu thương: Sự quý mến nhau, sự thương nhớ,
ý thức tôn trọng đối với nhau…
– Rung cảm tình dục: mức độ sâu sắc, hấp dẫn như thế nào, sự mạnh dạn trong
hành vi cư xử với nhau, độ mãnh liệt, sự ham muốn, cảm xúc hạnh phúc…
– Sự quan tâm, cảm sóc, giúp đỡ lẫn nhau: Hai người quan tâm lo lắng, chăm sóc,
giúp đỡ nhau nhiều hay ít, mức độ của sự tự giác, sự chân thành trong khi thực hiện
những hành vi trên…
c) Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của tình yêu
Tình yêu chịu ảnh hường của rất nhiều yếu tố về xã hội, tâm lí, sinh lí, hoàn cảnh
sống của con người.
Sau đây là những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến sự hình thành và phát triển của
tình yêu.
– Sự hiểu biết lẫn nhau:
Sự hiểu biết lẫn nhau ảnh hưởng rất quan trọng đến tình yêu. Chính sự hiểu biết lẫn
nhau sâu sắc làm tình yêu hình thành và phát triển hoặc tan vỡ. Nói cách khác, sự hiểu
biết lẫn nhau quyết định tình yêu giữa hai người. Càng hiểu biết nhiều về nhau bao nhiêu,
tình yêu càng có điều kiện bền chặt bấy nhiêu.
Quan trọng nhất là sự hiểu biết lẫn nhau về các mặt:
+ Hoàn cảnh gia đình.
+ Nghề nghiệp, đời sống.
+ Cá tính, quan điểm sống, đạo đức, tài năng…
+ Sức khoẻ
Bởi vậy trong tình yêu, việc tìm hiểu nhau rất quan trọng, cần tìm hiểu trước khi
quyết định yêu và ngay cả khi đang yêu…
– Sự hoà hợp giữa hai người:
Trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, sự hoà hợp sẽ làm tình yêu hình thành và phát triển.
Đó là sự tương đồng về nhân cách, quan điểm sống, lối sống, thẩm mĩ, sở thích, tình
cảm… đồng thời là sự hoà hợp về sinh lí như: sức khoẻ, cảm xúc tình dục (biểu hiện ở
sự thích nhau, gợi lên ở nhau sự đồng cảm…).
Sự hoà hợp tạo nên sự yêu thương, nhớ nhung, rung động, mến mộ, hài lòng… đối
với nhau. Sự hoà hợp thường biểu hiện ở nhiều dấu hiệu: Hai bên rất thích gặp nhau, ở
bên nhau, nói chuyện với nhau, luôn đánh giá tốt dẹp về nhau, dễ dàng chấp nhận, bao
che cho cái xấu của nhau, luôn tán thành, hưởng ứng những ý kiến, quan điểm của
nhau…
Quan trọng nhất là sự hoà hợp về lối sống, đạo đức và cảm xúc tình dục.
Muốn tình yêu phát triển, hai người phải luôn chú ý tạo ra sự hoà hợp. Trong thực
tế, không có hai người hoà hợp tuyệt đối. Quá trình yêu nhau hay quá trình chung sống
vợ chồng phải là quá trình tiến tới sự hoà hợp (cảm hoá lẫn nhau để tạo nên sự hoà hợp,
hoặc tự biến đổi mình để để đến sự hoà hợp…).
– Sự giao tiếp hàng ngày:
Sự giao tiếp hàng ngày có ý nghĩa rất lớn. Nhờ giao tiếp mới có sự hiểu biết, qua
giao tiếp mới có thể nảy sinh sự hoà hợp, mới cảm hoá lẫn nhau… đặc biệt qua giao tiếp
hàng ngày, cảm xúc mới xuất hiện dần dần, làm tình yêu phát triển. Chính vì vậy, người
ta thường nói: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”.
Sự giao tiếp còn tạo nên những điều kiện thuận lợi để chinh phục tình yêu (tác động
cảm hoá dần dần, để hình thành tình yêu). Vì thế nhiều người cho đó là một trong những
yếu tố quan trọng nhất: “Thứ nhất cự ly, thứ nhì tốc độ”. Nhờ giao tiếp, người ta mới dần
đần hiểu rõ về nhau, mới kiểm tra, đánh giá được tình yêu. Nếu không giao tiếp, tình yêu
sẽ nhạt dần… có thể nói, giao tiếp quyết định sự hình thành, sự phát triển của tình yêu.
- Sắc đẹp:
Là yếu tố ban đầu, kích thích cho tình yêu phát triển. Sắc đẹp thường có vị trí quan
trọng trong giai đoạn đầu của tình yêu. Nó có thể là yếu tố ban đầu làm nảy sinh và phát
triển tình yêu hoặc làm cho tình yêu thêm mãnh liệt và sâu sắc hơn. Đặc biệt, sắc đẹp ở
nữ giới có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên rung cảm và tình yêu ở nam giới.
Sắc đẹp thể hiện ở những vẻ đẹp, những nét đẹp của con người.
Tuy nhiên, sắc đẹp chỉ thực sự ảnh hưởng mạnh đến tình yêu trong một số điều
kiện sau:
+ Những đặc điểm của sắc đẹp phải mang màu sắc đạo đức, phải gắn với những
phẩm chất đạo đức, để tạo thành những vẻ đẹp hiền dịu, vẻ đẹp nhân hậu, vẻ đẹp đằm
thắm và chân thành, vẻ đẹp hiên ngang và dũng mãnh, vẻ đẹp của những hành vi có ý
nghĩa văn hoá, xã hội cao… Những vẻ đẹp trên làm cho tình yêu trở nên hấp dẫn, phát
triển và bền vững.
+ Những yếu tố của sắc đẹp phải phu hợp với trình độ nhận thức văn hoá, cá tính
của từng người; phong tục, truyền thống của xã hội.
+ Những yếu tố của sắc đẹp phải mang tính toàn diện, phải là sự kết hợp của vẻ
đẹp tâm hồn và vẻ đẹp hình thức bên ngoài; của vẻ đẹp giới tính, vẻ đẹp trong hành vi,
cử chỉ, lời ăn tiếng nói; của sự hài hoà và phù hợp. Trong đó, vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp
tạo nên từ những phẩm chất đạo đức cao cả thường bền vững hơn, thường mang giá trị
xã hội cao hơn những vẻ đẹp ình thức bề ngoài (đường nét, cách ăn mặc, trang điểm…).
- Tác động của xã hội:
Tác động của xã hội ở đây bao gồm nhiều đối tượng: phong tục tập quán, gia đình,
xã hội, bạn bè, những người xung quanh.
Sự tác động của mọi người, sự “vun vào”, sự giúp đỡ, tạo điều kiện, hoặc sự ngăn
cản, phá hoại, chia rẽ “nội bộ”… ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của
tình yêu. Đặc biệt là sự xuất hiện của “người thứ ba”.
Sự phân công xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh xã hội có thể giúp cho tình yêu hình
thành, phát triển hoặc tan vỡ. Sự xa cách làm tình yêu khó phát triển.
– Đạo đức và đặc điểm cá tính khác:
Những người có đạo đức tốt thường có ý thức xây dựng vun đắp tình yêu, chung
thuỷ bền chặt, có sự chịu đựng, vượt khó…
Những đặc điểm về xu hướng (thế giới quan, lôi sống, nhu cầu, hứng thú…) chi phối
rất mạnh đến tình yêu và hạnh phúc gia đình.
Trình độ văn hoá, xã hội, tri thức khoa học cũng ảnh hưởng đến sự biểu hiện độ
bền chặt của tình yêu.
– Kinh tế:
Tình yêu bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố kinh tế. Nhiều trường hợp tiền tài địa vị thi
phối sự hình thành hoặc sự tan vỡ tình yêu. Tuy nhiên, nếu xét “về lâu về dài”, vai trò của
kinh tế chỉ có hiệu lực trong một chừng mực nhất định. Có những trường hợp cả hai
người đều rất giàu có những tình yêu lại thiếu hạnh phúc. Có trường hợp, khi hai người
còn khó khăn thiếu thốn, tình yêu của họ rất đẹp và hạnh phúc, nhưng đến lúc có nhiều
tiền, kinh tế đầy đủ, tình yêu lại bị “rạn nứt” và cuối cùng là sự tan vỡ. Nói một cách
khác, không phải giàu sang là yếu tố quyết định hạnh phúc trong tình yêu. Tuy nhiên, nếu
không có cơ sở vật chất tối thiểu để đảm bảo cuộc sống, tình yêu của con người khó có
hạnh phúc, vững bền.
Tuỳ theo đối tượng, lứa tuổi, hoàn cảnh, điều kiện… yếu tố kinh tế có vị trí vai trò
khác nhau trong tình yêu của họ. Ở tuổi chưa trưởng thành, tình yêu thường mang tính lí
tưởng, mơ mộng, họ sẵn sàng chấp nhận cảnh “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”.
Nhưng từ tuổi trưởng thành trở đi, hai người yêu nhau có “tính thực tế” hơn và dần dần
yếu tố kinh tế ngày càng có ý nghĩa hơn trong tình yêu.
Vai trò quan trọng và chủ yếu của yếu tố kinh tế đối với tình yêu là ở tính chất ổn
định và chân chính của nó. Nếu tấn đề kinh tế của hai người càng được ổn định, càng
thân chính bao nhiêu, tình yêu của họ càng có điều kiện thuận lợi để phát triển bấy nhiêu.
Nói một cách khác, ở người có nghề nghiệp ổn định và hợp pháp, tình yêu của họ có điều
kiện phát triển thuận lợi hơn tình yêu của những người không có nghề nghiệp, chỉ sống
bằng “mánh mung” hoặc “dựa dẫm vào đồng tiền phi nghĩa”, “ngồi không ăn bám”…
– Vấn đề tuổi tác:
Tuổi tác có thể ảnh hưởng đến tình yêu ở nhiều mặt.
Ở những lứa tuổi khác nhau, con người có quan niệm, có thái độ sự biểu hiện đối
với tình yêu khác nhau, do đó, độ bền vững của tình yêu khác nhau.
Ở người còn son trẻ (nữ dưới 18, 20, nam dưới 24, 25 tuổi) tình yêu có thể thiếu
ổn định, hoặc không bền vững. Những bạn trẻ ở độ tuổi này có thể chưa biết “yêu thực
sự”, có khi thiếu trách nhiệm đối với tình yêu của mình.
Sự chênh lệch tuổi quá nhiều, hoặc không phù hợp (nữ bằng hoặc nhiều tuổi hơn
nam) cũng ảnh hưởng bất lợi tới tình yêu giữa hai người.
- Các yếu tố khác:
Tình yêu còn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác nữa như trình độ học vấn, đặc
điểm dân tộc, hoàn cảnh gia đình… Mỗi yếu tố đó có vai trò nhất định đối với sự hình
thành và phát triển của tình yêu
d) Một số vấn đề cần lưu ý trong việc “chinh phục” và nuôi dưỡng tình yêu
– Sự hình thành và phát triển của tình yêu tuân theo những quy luật chung của đời
sống tình cảm con người.
– Tình yêu dễ hình thành từ tình bạn khác giới.
– Sự hình thành tình yêu có thể có tính chất đột biến (đột ngột, tương phản, đối
cực…).
– Tình yêu có thể hình thành từ những dấu hiệu bất kì, tinh tế (ánh mắt, nụ cười, cử
chỉ, thái độ, các răng khểnh, cặp mắt đẹp…).
– Tình yêu thường chỉ phát triển thuận lợi khi có sự phù hợp với hoàn cảnh, điều
kiện, có sự phù hợp nhân cách giữa hai người.
– Quá trình yêu nhau là quá trình tìm hiểu, cảm hoá nhau, đồng thời cũng là quá
trình “chinh phục đối tượng” dần dần. Sự phát triển của tình yêu phụ thuộc rất nhiều vào
việc “nuôi dưỡng tình yêu” của cả hai người.
– Sự giao tiếp, nhất là sự gặp gỡ, là điều kiện tất yếu và tối thiểu để tình yêu hình
thành và phát triển.
– Tình yêu của những người ở trước tuổi trưởng thành (nữ dưới 18 tuổi, nam dưới
25 tuổi) thường để bị tan vỡ, do ở tuổi này con người thường chưa biết yêu thực sự,
nhất là ở nam. Ở họ, thường chỉ mới xuất hiện những cảm xúc yêu đương, những ham
muốn nông nổi mà chưa có tình yêu chân thực và chân c tính.
– Tình yêu luôn gắn bó với đạo đức, phụ thuộc vào đạo đức của mỗi người. Yếu tố
đạo đức có ý nghĩa to lớn đến hạnh phúc và sự bền vững của tình yêu. Yếu tố đạo đức
ở đây vừa là những phẩm chất tốt đẹp vừa là những lối sống, nếp sống sinh hoạt, những
nhận thức, quan điểm, quan niệm đúng đắn về cuộc sống…
e) Một số vấn đề đặc biệt trong sự hình thành và phát triển tình yêu
Trong quá trình hình thành và phát triển của từ yêu, thường có nhiều vấn đề phức
tạp có thể xuất hiện, như:
– Hiện tượng “mẫu người yêu lí tưởng”.
– Hiện tượng “tiếng sét trong tình yêu”.
– Hiện tượng “chạy được trong tình yêu”.
– Sự thất bại trong tình yêu.
- Hiện tương ngộ nhận trong tình yêu.
– Vấn đề chinh phục tình yêu.
- Sự nhàm chán trong tình yêu.
- Hình thành các dạng tình yêu mới.
- Nghệ thuật cư xử trong tình yêu.
- Những biểu hiện chưa tốt trong tình yêu của thanh niên hiện nay.
4. Động cơ yêu đương và tình yêu chân chính
a) Động cơ yêu đương
+ Trong đời sống tình cảm của mình, con người thường yêu nhau vì những yếu tố
nào đó. Những yếu tố ấy được gọi là động cơ yêu đương. Chẳng hạn người ta yêu nhau
vì tiền tài, địa vị, sắc đẹp hay vì cảm phục, yêu mến, vì tài năng, đạo đức…
+ Tùy theo đặc điểm của động cơ yêu đương mà tình yêu bền vững hay dễ tan vỡ,
đẹp đẽ, thắm thiết hay nhạt nhẽo, cứng nhắc.
+ Động cơ yêu đương thường có những đặc điểm quan trọng sau:
– Tính toàn diện hay tính đơn điệu:
+ Tính toàn diện thể hiện ở chỗ động cơ yêu đương bao gồm nhiều yếu tố, nhiều
mặt, nhiều phẩm chất của con người.
Ví dụ: người ta yêu nhau vì đẹp, vì quý trọng cảm phục, vì dịu dàng, lịch sự, vì cảm
thông sâu sắc, vì tài năng…
Các yếu tố này thường tác động lẫn nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo
nên một tổng hợp hài hoà, nhiều khi chính bản thân con người không phân tích nổi.
Nếu các yếu tố của động cơ yêu đương ít, và cũng ít gắn bó với nhau, tính toàn
diện sẽ thấp. Khi ấy, ta có thể nói động cơ yêu đương có tính đơn điệu (như vậy tính đơn
điệu là mặt trái của tính toàn diện). Nếu động cơ yêu đương có tính đơn điệu (người ta
yêu nhau chỉ vì một vài yếu tố nào đó, sắc đẹp hay tiền tài…). Tình yêu dễ trở thành sự
si mê, và nhanh chóng nhàm chán.
– Tính “đạo đức” hay “tính phí đạo đức”:
Khi các yếu tố của động cơ yêu đương phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, động
cơ yêu đương ấy có “tính đạo đức”. Đó là những động cơ yêu đương mang tính cao
thượng, trong sáng, được xã hội tán thành… Thường thường, đó là những động cơ yêu
đương mang đậm nét văn hoá, nhân bản, chứa dựng những yếu tố đẹp đẽ về mặt tâm lí,
tâm hồn, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội…
Ngược lại, có những động cơ yêu đương mà các yếu tố của nó mang tính vị kỉ,
thấp hèn, lợi dụng, bị xã hội lên án… đó là những động cơ yêu đương có tính phi đạo
đức, không phù hợp với đạo đức xã hội.
Những động cơ yêu đương “mang tính đạo đức” (phù hợp với đạo đức xã hội)
thường tạo nên tình yêu bền vững, cao đẹp.
– Tính “tinh thần” hoặc tính “vật chất”:
Một động cơ yêu đương có thể mang tính “tinh thần” hoặc “vật chất” tuỳ theo tính
chất của các yếu tố đó.
Chẳng hạn người ta yêu nhau vì tiền tài, địa vị, sắc đẹp… những yếu tố này mang
tính “vật chất” (vì nó chủ yếu thoả mãn những nhu cầu vật chất của con người). Đó là
động cơ yêu đương mang tính “vật chất”.
Có những tình yêu mà người ta yêu nhau vì cảm phục, vì hoà hợp, vì đạo đức tâm
hồn, vì sự dịu dàng, lịch sự… những yếu tố này mang tính “tinh thần”.
Khái niệm “vật chất” hay “tinh thần” ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp và mang tính
tương đối. Chẳng hạn “sắc đẹp” được coi là những yếu tố vật chất khi nó chỉ được hiểu
là vẻ đẹp hình thức con người và nhằm thoả mãn dục vọng. “Địa vị” được coi là yếu tố
vật chất khi nó được hiểu như là cơ hội để có nhiều tiền, để có cơ sở vật chất đầy đủ
trong cuộc sống.
Những động cơ yêu đương mang tính toàn diện, tính đạo đức, tính tinh thần (những
động cơ bao gồm nhiều yếu tố) dễ tạo nên những tình yêu trong sáng, thiêng liêng, bền
vững. Ngược lại, những động cơ mang tính đơn điệu, tính vật chất thấp hèn, tính vị kỉ cá
nhân là những động cơ không tốt, khó có thể tạo nên một tình yêu đẹp đẽ, vững bến.
Động cơ yêu đương không cố định mà có thể biến đổi và phát triển dần dần, cả khi
tình yêu giữa hai người đã xuất hiện. Nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát
triển của tình yêu.
Chẳng hạn, ban đầu người ta yêu nhau vì sắc đẹp, tài năng, nhưng sau đó trong
quá trình yêu nhau các yếu tố của động cơ yêu đương có thể tăng dần lên, vì hoà hợp, vì
đạo đức tư cách tốt, vì sự duyên dáng, tế nhị…
Muốn đánh giá một tình yêu có đẹp đẽ hay không, thiêng liêng hay không, muốn dự
đoán một tình yêu có bền vững hay không, người ta phải dựa vào động cơ yêu đương.
Chỉ khi động cơ yêu đương có tính toàn diện, tính “đạo đức”, tính “tinh thần” mới có
thể tạo nên tình yêu chân thực và chân chính.
b) Tình yêu chân thực
Là tình yêu “thực sự” ở con người, thường mang những đặc điểm sau:
– Có tính tự giác, trong đó mỗi người yêu một cách tự nguyện, “tình yêu xuất phát
tự đáy lòng”, tự “con tim”, nhiều khi bản thân “không cưỡng nổi”.
– Có sự say mê, cuốn hút ở mỗi người đối với nhau, thúc đẩy họ tích cực chủ động
xây dựng và bảo vệ tình yêu của mình.
– Mang tính chung thủy, trung thực và bền vững.
– Thể hiện rõ ràng, đầy đủ những thành phần cơ bản của tình yêu: có sự yêu
thương sâu sắc, gắn bó thân thiết, sự hoà hợp, sự tôn trọng lẫn nhau, có rung cảm tình
dục mạnh mẽ.
– Tình yêu chân thực thường xuất phát từ động cơ yêu đương đúng đắn (có tính
toàn diện, đạo đức, tinh thần) và có tính bền vững.
- Tình yêu chân thực có khi không được xã hội thừa nhận, tán thành có thể trở
thành tình yêu si mê, mù quáng có thể đưa đến hậu quả không tốt cho con người. Đó là
trường hợp tình yêu thân thực nhưng không chân chính, tình yêu không phù hợp với đạo
đức xã hội, hoặc quá mê đắm yêu đương mà quên mất vai trò, vị trí, chức năng, trách
nhiệm, nhiệm vụ của mình trong xã hội. Trong thanh niên, học sinh, có những trường hợp,
dù là tình yêu chân thực, nhưng làm cả hai người quên mất nhiệm vụ học tập, sa sút
trong việc rèn luyện tư dưỡng, bị mọi người phê phán.
Cần chú ý, tình yêu thân thực khác với tình yêu si mê. Ở tình yêu si mê, động cơ
yêu đương có thể mang tính đơn điệu, tính vật chất: người ta si mê đến điên cuồng chỉ vì
sắc đẹp hoặc chỉ vì hoà hợp tình dục. Tình yêu si mê thường làm con người mất tỉnh táo,
có khi mù quáng.
Trong tình yêu chân thực, cần phân biệt hiện tượng “yêu chân thực” và “yêu nhau
chân thực”. Có những trường hợp, chỉ một bên “yêu chân thực”. Khi đó, tình yêu không
thể hạnh phúc. Chỉ khi cả hai bên “yêu nhau chân thực”, tình yêu mới vững bền và hạnh
phúc.
c) Tình yêu chân chính
Tình yêu chân chính là tình yêu có những đặc điểm cơ bản sau đây:
– Có đầy đủ những đặc điểm của một tình yêu chân thực.
- Phải có động cơ yêu đương đúng đắn trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau.
– Phải phù hợp với đạo đức xã hội, được dư luận xã hội tán đồng.
– Phải có tính duy nhất: trong một thời điểm nhất định, tình yêu đó là duy nhất của
mỗi người.
– Phải có tính tiến bộ: tình yêu này có tác dụng thúc đẩy cả hai người cùng tiến bộ,
cùng vươn lên, tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện… vượt mọi khó khăn trở ngại vươn
tới những đỉnh cao của cuộc sống.
– Phải có tính bền vững, có mục đích tiến tới hôn nhân.
Tình yêu chân chính là tình yêu đẹp đẽ nhất, bền chặt nhất, là tình yêu cao thượng
và thiêng liêng. Nó có sức mạnh to lớn đối với con người: nó có thể cải tạo, cảm hoá con
người. Chỉ có tình yêu chân chính mới vững bền và đem lại hạnh phúc thực sự cho con
người.
d) Việc giáo dục và xây dựng tình yêu chân chính
– Những điều cần chú ý trong tiếc xây dựng tình yêu chân chính:
+ Nên xây dựng tình yêu trên cơ sở của tình bạn.
+ Luôn luôn tìm hiểu nhau kể cả khi đã yêu. Nếu có dấu hiệu đáng ngờ, tình yêu có
dấu hiệu “bị đe doạ”, hoặc một trong hai bên có nghi ngại điều gì, cần tích cực giải quyết
kịp thời trên cơ sở của sự thiện chí.
+ Cần tăng cường hoạt động giao tiếp với nhau.
+ Luôn luôn chú ý chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, vì nhau.
+ Yêu chân thực và mãnh liệt.
+ Chú ý cảm hoá, giáo dục nhau.
+ Trân trọng người yêu và tình yêu của mình.
+ Luôn luôn có ý thức bảo vệ tình yêu (cảnh giác trước mọi yếu tố có thể làm rạn
nứt tình yêu), “giữ gìn”, bảo vệ danh dự cho người yêu.
+ Minh bạch và tế nhị trong cư xử.
+ Chú ý một số phẩm chất cần thiết: chung thủy, trung thực, đức hi sinh, sự cao
thượng, sự thiện chí, ý thức xây dựng và bảo vệ tình yêu… Một số đặc điểm không tốt
về đạo đức luật: tính vị kỉ cá nhân, tính tự ái, nhỏ nhen… là “kẻ thù”, kẻ “phá hoại” của
tình yêu hạnh phúc.
- Vấn đề giáo dục tình yêu cho thanh niên:
Việc giáo dục tình yêu cho thanh niên là hết sức cần thiết và quan trọng.
+ Cần chống những quan niệm sai lệch về tình yêu như: thành kiến với chuyện yêu
đương của thanh niên, hoặc ngược lại là không quan tâm đến việc yêu đương của họ, để
cho thanh niên bị thi phối bởi những quan niệm không đúng đắn như: yêu đương tự do,
tình dục tự do, tình yêu không hôn nhân…
+ Việc giáo dục tình yêu chân chính cần gắn liền với việc giáo dục đạo đức và rèn
luyện những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách.
+ Giáo dục cho thanh niên có nhận thức đầy đủ về tình yêu (tình yêu là gì, bản chất
của tình yêu chân thực và chân chính, phân biệt được tình yêu và tình bạn).
+ Giáo dục cho họ quan điểm yêu đương đúng đắn (động cơ yêu đương toàn diện,
có thái độ trân trọng và cư xử đúng mực trong tình yêu, ý thức trách nhiệm đối với người
yêu…).
+ Trang bị cho họ tri thức và kĩ năng xây dựng tình yêu chân thực và tình yêu chân
chính.
+ Ngăn ngừa và hạn chế những biểu hiện không tốt trong tình yêu của thanh niên
hiện nay.
5. Mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân
a) Tình yêu chân chính là bước đầu của hôn nhân
– Trước đây ở Việt Nam, vấn đề hôn nhân của thanh niên phần lớn do cha mẹ định
đoạt, khi con cái đến tuổi trưởng thành, cha mẹ thường chủ động tìm vợ (tìm chồng) và
con cái phải tuân theo ý của cha mẹ thì mới gọi là con có hiếu. Việc “tìm kiếm” này
thường dựa trên những tiêu chuẩn như “môn đăng hộ đối”, hợp ý cha mẹ, có danh vọng,
tiền tài… Đặc biệt người con gái ngoan ngoãn, hiền đức phải tuyệt đối tuân theo ý kiến
xếp đặt của cha mẹ: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Khi lấy chồng, người con gái hoàn
toàn chấp nhận theo số phận may rủi “như giọt mưa sa”. Đó là những tư tưởng chịu ảnh
hưởng của quan điểm phong kiến, lạc hậu, dễ đem lại cuộc sống đau khổ cho người con
gái.
– Ngày nay, do sự biến đổi và phát triển của chế độ xã hội, sự phát triển của khoa
học, kĩ thuật, nền kinh tế xã hối… cũng như sự biến đổi của tư tưởng, của tâm lí, đời
sống tình cảm của con người đã biến đổi một cách cơ bản. Quan niệm về hôn nhân, về
việc “kết hôn không tình yêu” kiểu như trước đây khó có thể tạo nên hạnh phúc gia đình.
Nhiều thanh niên nam nữ đã chủ động và giữ vai trò quyết định chủ yếu vấn đề hôn nhân
của mình (cha mẹ thường chỉ làm cố vấn, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giữ vai trò xét
duyệt cuối cùng). Việc hôn nhân này chủ yếu xây dựng trên cơ sở tự nguyện giữa hai
người, trong đó, tình yêu là yếu tố thúc đẩy và giữ vai trò quan trọng quyết định nhất.
– Khi hai người thanh niên yêu nhau thực sự (có tình yêu chân thực và chân chính),
việc kết hôn dần dần trở thành nhu cầu chung của cả hai bên.
Ngày nay, từ lí luận đến thực tế, người ta đều thống nhất rằng, chỉ trên cơ sở tình
yêu chân thực và chân chính mới có thể có hôn nhân hạnh phúc và bến vững. Ngược lại
những cuộc hôn nhân không có tình yêu hoặc không xuất phát từ tình yêu chân thực và
chân chính, thường không thể đem lại hạnh phúc cho con người.
Khi bắt đầu yêu nhau, nhất là khi tình yêu phát triển thuận lợi người ta thường
tưởng tượng và thầm mong đến lúc nào đó, người yêu sẽ thành vợ thành chồng của
mình. Nếu cảm thấy việc kết hôn không thể xảy ta, tình yêu của họ thường trở nên mất
phương hướng, không còn thi vị, dẫn đến bế tắc, tan vỡ.
Khi tình yêu phát triển đến mức cao, việc kết hôn thường trở thành một nhu cầu ở
cả hai người và thúc đẩy họ làm lễ cưới. Như thế sự phát triển của tình yêu sẽ dẫn đến
hôn nhân. Nếu tình yêu càng sâu sắc, mãnh hệt, hôn nhân càng có điều kiện bền vững,
càng hạnh phúc hơn.
b) Tình yêu là cơ sở và là điều kiện cho hạnh phúc vợ chồng
– Một số người quan niệm chưa đầy đủ, thường cho rằng tình yêu chỉ tồn tại trước
khi kết hôn. Còn trong cuộc sống vợ chồng, tình yêu không còn nữa và cũng chẳng cần
thiết nữa, thậm chí, nhiều người phụ nữ khi đã có một vài con, thường nghĩ “mình đã già
rồi, còn yêu đương gì nữa”. Đó là quan niệm sai lầm.
- Xét về bản chất, quan hệ vợ chồng vẫn là quan hệ tình yêu, vẫn có đầy đủ những
yếu tố cơ bản của tình yêu. Nói cách khác, giữa vợ chồng vẫn có tình yêu, nhưng là tình
yêu đặc biệt. Đó là tình yêu vợ chồng. Tình yêu này vẫn mang đầy đủ những thành phần
cơ bản của ình yêu chân thực, nhưng có những sắc thái riêng do bị chi phối bởi những
đặc điểm của cuộc sống vợ chồng.
– Hạnh phúc vợ chồng tồn tại trên cơ sở của tình yêu giữa hai người. Nếu hai
người còn yêu nhau, cuộc sống vợ chồng còn hạnh phúc. Càng yêu nhau thắm thiết, tình
nghĩa vợ chồng càng đậm đà, thi vị. Hạnh phúc sẽ càng giảm đi nếu tình yêu giữa hai
người càng phai nhạt. Nếu tình yêu mất hẳn, hạnh phúc sẽ không còn nữa, cuộc sống vợ
chồng chỉ còn là sự chung đụng khó chịu, lạnh nhạt và vô vị sẽ chỉ còn là những chuỗi
ngày chịu đựng nhau triền miên.
Bởi vậy, xây dựng hạnh phúc vợ chồng cũng đồng nghĩa với việc xây dựng, bảo vệ,
nuôi dưỡng tình yêu giữa hai người, làm cho tình yêu đó ngày càng phát triển.
Nếu hai vợ chồng luôn luôn cư xử với nhau như hai người yêu nhau, hạnh phúc vợ
chồng luôn đằm thắm và phát triển. Ngược lại, những cặp vợ chồng không quan tâm nuôi
dưỡng tình yêu giữa hai người, hạnh phúc thường dễ phai nhạt và cuộc sống chung cũng
dễ trở thành nhàm chán, vô vị, tình yêu giữa hai người tồn tại một trong cuộc sống vợ
chồng và giữ vai trò chủ yếu quyết định hạnh phúc vợ chồng. Chỉ khi cả hai vợ chồng còn
yêu nhau thì cuộc sống vợ chồng mới còn hạnh phúc thực sự. Tình yêu vợ chồng là một
trong những điều kiện cơ bản cho hạnh phúc vợ chồng.
Ở một số trường hợp mà việc kết hôn không bắt nguồn từ tình yêu giữa hai người
(có thể do cưỡng ép hoặc và một lý do nào khác) thì hạnh phúc của cặp vợ chồng ấy
cũng tuỳ thuộc vào tình yêu của họ sau này có nảy sinh hay không. Nếu trong quá trình
chung sống, tình yêu dần dần xuất hiện ở hai người, cặp vợ chồng đó mới có thể hạnh
phúc. Còn nếu không, sự chung sống vợ chồng của họ sẽ có nhiều khó khăn, có khi chỉ là
sự thấp nhận, chịu đựng.
Ngay cả ở những cặp vợ chồng đứng tuổi, hoặc đã về già, hạnh phúc gia đình bị thi
phối bởi nhiều yếu tố phức tạp hơn, nhưng tình yêu giữa họ vẫn còn giữ vai trò quan
trọng. Tuy nhiên, tình yêu lúc này cũng mang những đặc điểm khác với thời tuổi trẻ, và
thường chuyển hoá thành tính nghĩa vợ chồng.
c) Những thời kì yêu đương của con người
Từ mối quan hệ thân thiết giữa tình yêu và hôn nhân, có thể phân chia đời sống yêu
đương của con người thành ba thời kì:
– Thời kì yêu đương tuổi trẻ: đây là thời kì yêu đương của lứa tuổi thanh thiếu niên,
tuổi chưa trưởng thành (thường là trước 18, 20 tuổi ở nữ, trước 22, 25 tuổi ở nam). Thời
kì yêu đương này có một số đặc điểm sau:
+ Tình yêu thường mơ mộng, lí tưởng, đẹp đẽ. Hai người yêu nhau xuất phát từ
tình cảm chân thực, trong sáng, thân thiết, ít mang tính vụ lợi, vật chất, ích kỉ… Họ dễ
chấp nhận cảnh “một túp lều tranh hai trái tim vàng”.
+ Vấn đề hôn nhân chưa phải là mục tiêu chủ yếu, thậm chí chưa được đặt ra. Hai
người cũng có khi nghĩ đến nhưng thường cho đó là “chuyện lâu dài”, chuyện “sau này sẽ
tính”.
+ Tình yêu còn chưa rõ nét, đôi khi còn lẫn lộn với tình bạn, có khi đương sự cũng
không xác định rõ ràng hẳn là tình yêu hay mới chỉ là tình bạn, tình yêu thời kì này
thường mang tính lãng mạn nhiều hơn và thường chưa được ý thức rõ rệt.
+ Những dấu hiệu cơ bản của tình yêu chưa được biểu hiện rõ rệt, đầy đủ. Những
rung cảm tình dục có khi chỉ ở dạng cảm xúc mờ nhạt kín đáo mà chính đương sự cũng
khó xác định.
+ Tình yêu thường dễ tan vỡ và khi tan vỡ gây nên những “cú sốc” mạnh mẽ trong
cả hai người, nhất là ở nữ. Có khi mạnh đến mức có em tự tử vì tình yêu của nính.
Nói chung, thời kì này, tình yêu thường rất phức tạp, có khi đem lại bất lợi cho
thanh niên nhiều hơn là hạnh phúc, có khi còn hạn chế sự vươn lên, ảnh hưởng không tốt
đến việc học tập, công tác ý chí phấn đấu của các em. Do đó, vấn đề giáo dục thanh
niên trong lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan trọng.
Cần đặc biệt chú ý, ngày nay, những thanh niên không được giáo dục đầy đủ; kém
về đạo đức (trong lứa tuổi này), thường yêu theo một “dạng” hoàn toàn khác. Tính đẹp
đẽ, lí tưởng, thơ mộng của tình yêu không có. Thay vào đấy là những kiểu yêu đương
bậy bạ, bừa bãi, vô trách nhiệm… Ở họ, thay vì những cảm xúc tình dục mới lạ mang
tính thiêng liêng, thơ mộng, bí ẩn, lại là những đòi hỏi trắng trợn, để thoả mãn trí tò mò,
để “thử cảm giác mạnh” và sau đó thường là sự ruồng rẫy, tàn nhẫn, sự nhàm chán
nhanh chóng… Nhiều khi ở họ chỉ là những tình yêu đùa giỡn, lợi dụng, tạm bợ, ích kỉ, chỉ
là sự ăn chơi đua đòi, trụy lạc…
– Thời kì yêu đương trưởng thành: Là thời kì yêu đương thực sự của con người,
thường từ tuổi trưởng thành trở đi (nữ từ 18 đến 20, nam từ 24 đến 25 tuổi). Tình yêu
của con người thời kì này thường có một số đặc điểm sau:
+ Những dấu hiệu cơ bản của tình yêu thường biểu hiện rất rõ rệt (tình thương, tình
bạn, nhất là tình dục).
+ Tình yêu được xây dựng trên cơ sở nhận thức, có cân nhắc suy xét có tính đến
chuyện lâu dài. Hôn nhân là mục đích thường được nhắc tới với ý thức rõ rệt.
+ Tình yêu ổn định và bền vững hơn, nhưng cũng khó hình thành hơn. Trước khi
quyết định yêu nhau, hai người thường có sự suy xét phân tích khá kĩ lưỡng và nghiêm
túc. Nhìn chung, tình yêu thời kì này mang tính thực tiễn rõ rệt.
+ Ở mỗi lứa tuổi khác nhau, hoàn cảnh khác nhau… tình yêu ở từng người có
những đặc điểm khác nhau. Có thể có 3 loại chính sau đây:
· Tình yêu ở những người còn ít kinh nghiệm yêu đương. Tình yêu thường đẹp,
sâu sắc, bền vững: nó mang tính trong sáng, lí tưởng của tình yêu trong trắng
trong thời kì đầu và cũng mang tính ổn định, bền vững, thận trọng ở thời kì
trưởng thành. Tình yêu loại này để đi đến hôn nhân.
· Tình yêu ở những người đã có kinh nghiệm yêu đương, nhưng chưa có gia đình
(đã yêu nhiều lần nhưng rồi lạc bị tan vỡ vì sự không may nào đó, hoặc đã có
vợ, có chồng nhưng đã li dị hay goá bụa). Tình yêu thường mang những màu sắc
thực tiễn, có khi trở thành thực dụng, thường nhanh chóng phát triển, những dấu
hiệu cơ bản của tình yêu rất rõ rệt. Tình yêu này cũng có thể dễ dàng và nhanh
chóng tiến tới hôn nhân.
· Tình yêu ở những người đang có gia đình (đã có nợ hoặc có chồng…), người
ta thường gọi là '“tình yêu đối với người thứ ba” hay sự ngoại tình. Tình yêu này
rất phức tạp, đa dạng, mang nhiều mâu thuẫn, đôi khi rất mãnh liệt, trở thành sự
si mê, mù quáng. Nhiều khi con người không lường trước được diễn biến và hậu
quả. Nhiều người còn lẫn lộn giữa tình yêu này với những đam mê, dục vọng tầm
thường khác.
Ở những người kém về đạo đức, nhân cách suy đồi, tồi tệ, tình yêu của họ thường
biến dạng, thay đổi một cách phức tạp, tuỳ theo quan điểm, lối sống, phẩm chất, tính
cách… của họ. Thường thì tình yêu của họ dễ mang tính chất lường gạt, lợi dụng, vị kỉ,
giả dối, độc ác… hay có khi chỉ là những hành động nhằm thoả mãn dục vọng tầm
thường. Thực chất đó không phải là tình yêu, mà chỉ là sự lường gạt tình cảm hoặc sự
ăn chơi sa đoạ, trụy lạc.
– Thời kì tình yêu vợ chồng: Khi hai người đã kết hôn (đã là vợ chồng) tình yêu
giữa họ không phải là chấm dứt mà chuyển sang một thời kì mới: tình yêu vợ chồng.
Đó là tình yêu sau hôn nhân. Tình yêu này thường có những đặc điểm chính sau:
+ Là tình yêu giữa vợ đối với chồng và chồng đối với vợ.
+ Có đầy đủ những dấu hiệu cơ bản của tình yêu, nhưng sự thể hiện của các dấu
hiệu này mang một sắc thái mới do cuộc sống vợ chồng tạo nên. Tình yêu vợ chồng vẫn
là tình yêu thực sự, và bị chi phối bởi các quy luật của tình yêu.
+ Chịu ảnh hưởng nhiều bởi đặc điểm của cuộc sống vợ chồng:
· Có những thuận lợi hơn tình yêu trưởng thành hoặc tình yêu trong trắng (do
được lát pháp bảo trợ, được gặp gỡ nhau thường xuyên, được tự do yêu
thương…), nhưng cũng có nhiều khó khăn hơn trong quá rình phát triển. Loại tình
yêu này thường khó phát triển vì nhiều lí do (như tình thơ mộng trong tình yêu bị
mỉm bớt, các sống chung dễ nảy sinh nhiều va chạm, những đặc điểm xấu của
nhân cách mỗi người dễ bị bộc lộ, đời sống vợ chồng bị chi phối bởi nhiều yếu tố
phức tạp của cuộc sống hơn…).
· Cũng như một tình yêu khác, tình yêu vợ chồng cũng rất phức tạp. Ở một
chừng mực nhất định, nó cũng bị chi phối bởi các quy luật chung của tình yêu, nó
cũng diễn biến phức tạp như tình yêu. Mặt khác, nó còn bị chi phối bởi rất nhiều
yếu tố của xã hội, của đời sống vợ chồng. Trong quá trình chung sống, tình yêu
vợ chồng có thể ngày càng phát triển hoặc ngày càng giảm sút. Cũng có thể tình
yêu biến động thất thường. Ở những cặp vợ chồng lớn tuổi hoặc đã về già, các
thành phần và tính chất của tình yêu dần dần thay đổi, tính trách nhiệm ngày
càng gia tăng, yếu tố tình dục giảm dần…
· Tình yêu vợ chồng có ý nghĩa rất lớn đến cuộc sống vợ chồng. Nó quyết định
hạnh phúc của vợ chồng.

Created by AM Word2CHM
V. HÔN NHÂN

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

1. Khái niệm hôn nhân


– Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, trong đó, hai người khác giới được xã hội
thừa nhận sống chung với nhau, gắn bó với nhau, có trách nhiệm với nhau và cùng có
trình nhiệm trước xã hội.
– Hôn nhân thường là kết quả của tình yêu. Khi tình yêu phát triển cao, nó trở thành
một trong những yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy hai người kết hôn. Tuy nhiên, cũng có nhiều
cuộc hôn nhân được hình thành từ những động cơ tâm lí hoặc động cơ xã hội khác.
- Hôn nhân thường được biểu hiện ở các hình thức:
+ Hình thức về mặt pháp lí: Đăng kí kết hôn.
+ Hình thức về phong tục tập quán: Lễ cưới.
Hình thức đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền là cơ bản. Nhưng do phong tục
tập quán dân tộc, nhiều khi lễ cưới lại có ý nghĩa quan trọng hơn. Có địa phương, lễ cưới
có vai trò chủ yếu quyết định nhất. Lễ cưới phụ thuộc rất nhiều vào phong tục tập quán,
nếp sống xã hội hoặc nghi lễ tôn giáo.
– Hôn nhân tạo nên một gia đình mới trong xã hội, tạo nên cuộc sống vợ chồng.
Cuộc sống gia đình và hạnh phúc vợ chồng phụ thuộc nhiều vào động cơ hôn nhân.
2. Động cơ hôn nhân
– Động cơ hôn nhân là tổng hợp những yếu tố thúc đẩy hai người đi tới hôn nhân.
Những yếu tố này thường rất phức tạp, đa dạng có thể bao gồm như sau:
+ Yếu tố thuộc về tâm lí xã hội: Sự thành đạt, ổn định về danh phận, sự nghiệp, nhu
cầu về cuộc sống gia đình, sự thúc đẩy của họ hàng, bạn bè, sự hoà hợp cá tính…
+ Yếu tố lứa tuổi: Đến một độ tuổi nào đó, đến độ trưởng thành về mặt cơ thể,
người ta có nhu cầu kết hôn.
+ Yếu tố vật chất: Khi điều kiện sống phát triển đến một mức nhất định, hoặc khi
nhu cầu cơ thể phát triển đến một mức nhất định nó trở thành yếu tố thúc đẩy con người
đi tới hôn nhân.
+ Yếu tố tình yêu: Tình yêu phát triển đến một mức nào đó, hai người có nhu cầu
kết hôn.
+ Yếu tố tâm lí cá nhân: Đặc điểm tâm lí cá tính mỗi người.
Động cơ hôn nhân không nhất thiết phải gồm toàn bộ các yếu tố đã kể trên, mà có
thể chỉ bao gồm một số yếu tố nào đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể, từng người cụ thể
(do đặc điểm đao đức, quan điểm sống, cá tính…).
– Động cơ hôn nhân có vai trò quan trọng đến hạnh phúc gia đình. Chỉ những động
cơ đúng đắn, lành mạnh mới có thể có gia đình hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng êm ấm,
thuận hoà, bến vững.
- Động cơ hôn nhân đúng đắn, lành mạnh thường bao gồm các yếu tố sau:
+ Tình yêu thân thực, chân chính phát triển ở mức cao.
+ Hai người tự nguyện và cùng mong được chung sống.
+ Có sự suy nghĩ, cân nhắc thận trọng về nhiều mặt ở cả hai người (sự trưởng
thành về tâm lý xã hội, về điều kiện hoàn cảnh, cơ sở vật chất, tuổi tác, hoà hợp trên cơ
sở hiểu biết lẫn nhau).
+ Sự kết hợp của nhiều yếu tố trên.
Nếu động cơ hôn nhân càng bao gồm nhiều yếu tố như trên, cuộc sống gia đình
càng có nhiều điều kiện để hạnh phúc và phát triển hơn.
– Động cơ hôn nhân không đúng đắn thường có những biểu hiện như:
+ Có mục đích lợi dụng (tiền tài địa vị, xác thịt) hoặc có sự vị kỉ, tính toán cá nhân.
+ Có sự cả nể, thương hại.
+ Có sự bị động (thúc đẩy của gia đình, sự gả bán, cưỡng ép…).
+ Có những dấu hiệu chưa tốt về tình yêu: chưa yêu thật sự (tình yêu ngộ nhận)
hoặc mức độ yêu chưa đến độ phát triển cao (chưa yêu nồng thắm, chưa sâu sắc…).
+ Chưa tìm hiểu đầy đủ về nhau, chưa hiểu rõ nhau (cưới vội vàng).
+ Chưa có sự chuẩn bị cho cuộc sống chung.
3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn nhân
a) Cần chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân theo nhiều hướng
– Xây dựng tình yêu thân thực và chân chính, và làm cho tình yêu ngày càng phát
triển.
– Phải tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau khi đã yêu, khi sắp kết hôn và trong toàn bộ cuộc
sống vợ chồng sau này.
– Phải tìm hiểu về cuộc sống vợ chồng, về nội dung của cuộc sống gia đình, những
phương hướng, biện pháp xây dựng gia đình hạnh phúc, luật hôn nhân gia đình…
- Phải chuẩn bị cho cuộc sống chung: xây dựng cơ sở vật chất cho sự chung sống
vợ chồng, tìm hiểu những tri thức về cuộc sống vợ chồng, về cuộc sống gia đình.
– Chuẩn bị cho lễ cưới.
b) Những điều kiện dẫn tới hôn nhân hạnh phúc
Có nhiều yếu tố điều kiện, ảnh hưởng đến việc kết hôn. Tuy nhiên, để tiến tới hôn
nhân hạnh phúc, người ta chỉ nên kết hôn khi đã đạt được một số điều kiện chính sau
đây:
- Mức độ phát triển của tình yêu giữa hai người đến mức độ cao.
– Hai người có sự hiểu biết tương đối đầy đủ về cá tính, trình độ đạo đức thế giới
quan… (đặc điểm tâm lí), nhất là hoàn cảnh gia đình của nhau.
– Ít nhất một trong hai người phải có nghề nghiệp ổn định.
– Sự hiểu biết nhất định về cuộc sống vợ chồng, cuộc sống gia đình.
– Có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ về cuộc sống chung sau này.
c) Đăng kí kết hôn và lễ cưới
Việc đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền là việc cơ bản của hôn nhân, nhưng ở
nước ta, lễ cưới lại có ý nghĩa quan trọng (do phong tục, tập quán).
Nghi lễ đám cưới ở mỗi địa phương, mỗi tôn giáo, mỗi gia đình có thể khác nhau,
nhưng việc chuẩn bị cho lễ cưới là điều rất quan trọng.
Cần chú ý, vấn đề “lễ cưới” trong thanh niên còn nhiều biểu hiện không tốt như: cầu
kì, xa hoa, lãng phí… Nhiều khi sau đám cưới, hai vợ tượng trẻ phải “kéo cày” nhiều năm
để trả nợ. Điều đó lại là một nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến hạnh phúc sau này.
Vì thế, việc xây dựng một quan điểm đúng đắn và một nghi thức phù hợp về lễ cưới
trang trọng, có ý nghĩa giáo dục, giản dị, tiết tiệm nhưng có tác động mạnh mẽ cho cô
dâu, chú rể và “hai họ”… là điều rất cần thiết hiện nay.
Để có hôn nhân hạnh phúc cần chú ý đến các vấn đề sau:
– Phải có đăng kí kết hôn.
– Tổ chức lễ cưới phù hợp, trang trọng theo tục lệ.
- Phải giáo dục mọi người hiểu biết ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề trên.
d) Vấn đề đêm tân hôn và tuần trăng mật
Đêm tân hôn và tuần trăng mật là những vấn đề phức tạp cần quan tâm, hướng dẫn
cho thanh niên khi kết hôn. Thường hai vợ chồng trẻ còn nhiều bỡ ngỡ, mới lạ, lúng túng
trong những hoàn cảnh này. Thậm thí, tâm lí của họ có nhiều xáo động, bối rối, có thể
dẫn tới những hậu quả bất lợi cho cuộc sống chung. Vì vậy, việc hướng dẫn chu đáo cho
thanh niên về những vấn đề này rất cần thiết sẽ góp phần tạo nên hạnh phúc gia đình
nồng thắm, bền vững sau này.
e) Những vấn đề cụ thể của thời kì đầu trong cuộc sống vợ chồng
Trong thời kì đầu của cuộc sống chung, cả hai vợ chồng cần quan tâm và hiểu biết
về nhiều vấn đề sau đây:
– Đêm tân hôn và tuần trăng mật.
- Làm quen với cuộc sống chung.
– Tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau.
- “Giáo dục”, “cảm hoá” lẫn nhau từ đầu (ngay từ đêm tân hôn).
– Xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình.
– Cách cư xử với nhau giữa hai vợ chồng và với họ hàng hai bên.
– Xây dựng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.
– Xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc sống gia đình…
Những kiến thức và kỹ năng về những vấn đề trên sẽ giúp cho hai vợ chồng trẻ có
điều kiện thuận lợi để xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc.
4. Cuộc sống vợ chồng
Kết quả của hôn nhân là sự hình thành một gia đình mới. Mỗi gia đình là một tế bào
của xã hội. Những mối quan hệ trong gia đình là những quan hệ xã hội phức tạp, trong đó
mối quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất là quan hệ vợ chồng. Quan hệ vợ chồng là một
tổng hợp những mối quan hệ đa dạng, phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố: xã hội,
kinh tế, tâm lí, đạo đức… Do đó, cuộc sống vợ chồng là một quá trình phát triển lâu dài
và nhiều biến động.
a) Đặc điểm của cuộc sống vợ chồng
– Là sự chung sống giữa hai người được xã hội công nhận
+ Từ hai người “xa lạ” gắn bó với nhau, cùng chung số phận, cùng chia ngọt sẻ bùi,
cùng chung những điều kiện và hoàn cảnh sống.
+ Sự chung đụng hàng ngày trong sinh hoạt, cuộc sống của hai người có những cá
tính khác biệt.
+ Hai người lệ thuộc vào nhau, mất đi một phần tự do của mình, phải chịu trách
nhiệm về nhau.
+ Sự giao tiếp hàng ngày có thể làm nảy sinh những tình cảm tốt đẹp hoặc những
va chạm, mâu thuẫn:
+ Quan hệ tình dục tự do có thể dẫn đến sự nhàm chán.
+ Rất nhiều vấn đề mới nảy sinh: xây dựng cuộc sống gia đình, mua sắm đồ đạc,
những biểu hiện của mối quan hệ họ hàng và gia đình hai bên, vấn đề sinh nở và nuôi
con, vấn đề đảm bảo đời sống vật chất hàng ngày, những nhu cầu vật chất và tinh thần
mới luôn luôn nảy sinh, vai trò của yếu tố kinh tế ngày càng quan trọng hơn…
+ Sự ảnh hưởng của xã hội đến cuộc sống vợ chồng rất đa dạng và phức tạp.
- Quan hệ vợ chồng là một tổng hợp của nhiều mối quan hệ tâm lí xã hội:
+ Mối quan hệ giữa hai con người bình đẳng trong xã hội, phản ánh các mối quan
hệ xã hội.
+ Mối quan hệ luật pháp (hai nguồn phải tuân theo luật hôn nhân, gia đình).
+ Mối quan hệ liên nhân cách (tâm lý).
+ Mối quan hệ tình cảm (tình người, tình bạn, tình nghĩa).
+ Mối quan hệ sinh lí, tình dục.
+ Tình yêu vợ chồng là mối quan hệ trung tâm bao trùm nhất. Đó cũng là tình yêu,
nhưng có nhiều đặc điểm khác biệt với tình yêu nam nữ thông thường.
– Do hai đặc điểm trên; đời sống vợ chồng là một quá trình phức tạp, biến động, có
thể phát triển theo những diễn biến rất khác biệt:
+ Theo hướng tốt đẹp: tình nghĩa phát triển ngày càng yêu nhau sâu sắc, hai người
sống ngày càng hạnh phúc bên nhau.
+ Theo hướng xấu: ngày càng mất hạnh phúc, càng nhàm chán, khó chịu.
+ Theo hướng phức tạp: không ổn định, khi tốt, khi xấu
Sự biến động trên tuỳ thuộc thủ yếu vào tình yêu, cách sống, cách cư xử phẩm chất
đạo đức, trình độ của hai người… đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân
khác.
b) Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống vợ chồng
Cuộc sống vợ chồng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Do tác động của các yếu tố
này, cuộc sống vợ chồng có thể hạnh phúc hoặc bị tan vỡ.
Sau đây là một số yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu, rõ rệt nhất.
- Mức độ của tình yêu vợ chồng:
+ Thường khi mới cưới, tình yêu vợ chồng ở mức cao nhất, sau đó trong quá trình
sống, tình yêu vợ chồng có thể bị biến đổi đi. Có những trường hợp tình yêu vợ chồng
ngày càng tăng dần lên, nhưng cũng có những trường hợp tình yêu này ngày càng giảm
sút. Sự giảm sút của tình yêu vợ chồng có thể làm cho hạnh phúc của cuộc sống vợ
chồng bị sút giảm theo. Để tình yêu vợ chồng ngày càng phát triển, làm hậu thuẫn cho
cuộc sống gia đình hạnh phúc, cả hai vợ chồng phải cùng có đạo đức, trách nhiệm, có
hiểu biết về cuộc sống vợ thông và nhiều điều kiện khác.
+ Mức độ tình yêu vợ chồng càng cao, cuộc sống vợ chồng càng hạnh phúc. Vì
thế, việc xây dựng, gìn giữ tình yêu vợ chồng có ý nghĩa, vai trò quan trọng.
– Mức độ và sự hiểu biết lẫn nhau:
+ Nếu hai vợ chồng càng hiểu biết về nhau, càng có nhiều điều kiện chung sống
hạnh phúc hơn. Sự hiểu biết lẫn nhau giúp cho hai người giải quyết những biểu hiện rắc
rối những nhược điểm của nhau, có kế hoạch và cách cư xử thích hợp khi có “tình huống
phức tạp”, nảy sinh, có kế hoạch “giáo dục”, “cảm hoá” lẫn nhau, có điều kiện để biểu
hiện sự yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau…
+ Việc tích cực, chú ý tìm hiểu lẫn nhau có tác dụng lớn đến hạnh phúc vợ chồng.
– Mức độ và sự hoà hợp giữa hai vợ chồng:
+ Sự hoà hợp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thúc đẩy cho tình yêu vợ chồng phát
triển, tạo điều kiện tốt cho vợ chồng hạnh phúc.
+ Sự hoà hợp ở đây chủ yếu là sự tương đồng tâm lí, cá tính, nhất là sự tương
đồng về quan điểm sống, lối sống. Sự hoà hợp còn biểu hiện ở các hành vi yêu thương,
quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thấp nhận nhau, ở cách hành xử đạo đức hàng
ngày.
+ Sự hoà hợp nhiều khi không thể có ngay khi cưới, mà thường là một quá trình,
hình thành, phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố: xã hội, đạo đức, tình yêu, sự thiện
chí… Hạnh phúc vợ chồng phụ thuộc vào việc xây dựng tạo nên sự hoà hợp vợ chồng.
+ Sự hoà hợp có thể được tạo nên bởi sự cảm hoá lẫn nhau, sự hi sinh cá nhân
mình vì người kia. Quá trình chung sống vợ chồng luôn là quá tình cảm hoá, giáo dục lẫn
nhau, là quá trình giáo dục và tự giáo dục để đi tới sự tương đồng, sự hoà hợp…
- Đạo đức giữa hai người:
+ Những phẩm chất đạo đức tốt dẹp có tác động rất mạnh cho hạnh phúc vợ chồng
phát triển, bền vững.
+ Cần lưu ý đặc biệt các phẩm chất như sự trung thực và lòng chung thuỷ, sự tôn
trọng và tin tưởng, sự hi sinh và quan tâm chăm sóc sự cao thượng và linh vị tha, sự hiền
dịu và chăm chỉ, tính thời đựng và kiềm chế, sự tế nhị và lòng nhân ái đối với nhau, tinh
thần trách nhiệm và lo lắng quan tâm cho nhau… Những phẩm chất này có tác dụng rất
lớn tạo nên hạnh phúc vợ chồng.
+ Ngược lại, có những nét tính cách tai hại như: tính tự ái, cố chấp, tính lắm điều,
tàn nhẫn, sự bần tiện, tham lam, sự nghi kị, tính vị kỉ… Những nét tính cách trên là kẻ thù
của hạnh phúc, thường là những nguyên nhân dẫn tới sự rạn nứt trong mối quan hệ vợ
chồng.
Có thể nói, những phẩm chất đạo đức ở mỗi người đều có ảnh hưởng quan trọng
đến hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng.
- Vấn đề tình dục giữa hai người:
Đây là vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng trong cuộc sống vợ chồng. Sự
“trục trặc” trong “quan hệ tình dục” dễ làm quan hệ vợ chồng mất hạnh phúc. Việc tạo ra
tình hấp dẫn và sự hoà hợp tình dục vợ chồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngược lại,
sự thiếu hoà hợp, thiếu hiểu biết sâu sắc về tình dục vợ chồng sẽ làm cuộc sống chung
của hai người bị tẻ nhạt, đơn điệu, dẫn đến mất hạnh phúc dần dần… Việc xây dựng
“nghệ thuật quan hệ tình dục vợ chồng” được coi là một trong những yếu tố quan trọng
của “nghệ thuật xây dựng hạnh phúc vợ chồng”.
- Cách cư xử hàng ngày đối với nhau:
Cách cư xử hàng ngày giữa hai vợ chồng bao gồm toàn bộ hệ thống thái độ, hành
vi, cử chỉ, lời nói, nụ cười… Đó là sự giao tiếp vợ chồng. Cách cư xử vợ chồng thường
bao gồm hai phần:
+ Thái độ đối xử với nhóm chẳng hạn như: tôn trọng, bình đẳng, lo lắng, quan tâm
đến nhau, sự tươi cười, âu yếm, chăm sóc…
+ Những hành vi biểu hiện tương ứng với các thái độ trên: sự hỏi han, sự vuốt ve,
ôm ấp, ánh mắt, nụ cười, những hành động thân mật, sự giúp đỡ các công việc hàng
ngày…
Sự cư xử khéo léo trung thực, đằm thắm, thân mật… sẽ làm hạnh phúc vợ chồng
phát triển. Ngược lại, sự cư xử không tốt, tàn nhẫn, vô trách nhiệm… sẽ ảnh hưởng xấu
đến cuộc sống chung.
– Yếu tố đẹp trong cuộc sống vợ chồng:
Yếu tố đẹp có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạnh phúc vợ chồng.
Đây là cái đẹp trong tâm hồn ở mỗi người, vẻ đẹp cơ thể, vẻ đẹp trong cách ăn
mặc, trong hành vi, cử chỉ, lời nói, trang trí gia đình… Cần chú ý rằng cái đẹp là nhu cầu
tinh thần tất yếu ở mỗi người. Nghệ thuật xây dựng hạnh phúc gia đình bao gồm nhiều
yếu tố trong đó có việc xây dựng cái đẹp của cuộc sống chung.
- Trình độ hiểu biết, năng lực:
Trình độ tri thức và năng lực của mỗi người cũng ảnh hưởng đến việc xây dựng
hạnh phúc vợ chồng. Sự hiểu biết và năng lực bao gồm hai mặt chủ yếu: trình độ, kỹ
năng, kiến thức khoa học (bằng cấp) và trình độ văn hoá đời sống (văn hoá, xã hội, kinh
nghiệm sống) Trình độ hiểu biết cao, những năng lực về tổ chức, nghề nghiệp, hoạt động
của mỗi người có thể giúp cho việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cuộc sống
chung của gia đình.
Sự chênh lệch về trình độ hiểu biết cũng có ý nghĩa rất đặc biệt, nhiều trường hợp,
sự chênh lệch quá mức thường gây khó khăn cho sự phát triển của hạnh phúc vợ chồng
như: vợ hơn chồng, vợ khác chồng quá nhiều…
Ở Việt Nam, “sự chênh lệch thích hợp” về trình độ có tác dụng thuận lợi trong việc
xây dựng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng sự chênh lệch không quá xa.
– Con cái:
Những đứa con là niềm vui của hai vợ chồng, là niềm hạnh phúc tuyệt vời của gia
đình. Việc sinh con cái thuờng là nhu cầu mạnh mẽ của cả hai vợ chồng nhất là khi vợ
chồng đứng tuổi. Tuy nhiên, yếu tố con cái do thực sự là nguồn hạnh phúc của vợ chồng
khi thoả mãn những điều kiện sau đây:
+ Là những đứa con khoẻ mạnh, thông minh, ngoan ngoãn, học giỏi, vâng lời cha
mẹ.
+ Số lượng con vừa phải, thích hợp với điều kiện về vật chất, kinh tế gia đình, thích
hợp về giới tính (trai hay gái, “có nếp có tẻ”).
+ Cha mẹ phải biết sinh nở và nuôi con khoa học, phải thống nhất trong việc nuôi
dạy con.
+ Con cái được phát triển nhân cách toàn điện, phải được “nên người”.
Trong cuộc sống vợ chồng, cả hai người cần phải có những tri thức, hiểu biết về
việc sinh con, có khả năng sinh con, nuôi dạy con, chăm sóc cho con trưởng thành, trở
thành những người có ích cho xã hội. Đó là một trong những tiêu chuẩn quan trọng của
việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
– Các yếu tố xã hội:
Hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội. Các yếu
tố của cuộc sống xã hội luôn luôn tác động đến cuộc sống vợ chồng. Có những yếu tố
quan trọng và điển hình như:
+ Cuộc sống chung của xã hội, đời sống xã hội, các quan hệ xã hội.
+ Sự giao tiếp xã hội của hai vợ chồng, địa vị xã hội của vợ, của chồng.
+ Gia đình họ hàng hai bên, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình bên chồng,
bên vợ, mẹ chồng nàng dâu… Đặc biệt là trường hợp hai vợ chồng ở chung với gia đình
bố mẹ.
+ Sự tác động và mối quan hệ của bạn bè hai bên, bà con lối xóm…
+ Sự tác động “của người thứ ba” theo hai hướng “người thứ ba” tấn công vào một
trong hai vợ chồng, hoặc một trong hai người “chạy theo” người thứ ba…
Để có hạnh phúc vợ chồng, cả hai người cần quan tâm đến các yếu tố xã hội trên.
Cần phải gắn cuộc sống gia đình riêng của hai vợ chồng với cuộc sống chung của xã hội.
Phải góp phần tham gia vào việc xây dựng xã hội phát triển.
– Vấn đề kinh tế và nghề nghiệp của từng người:
+ Yếu tố kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống chung của vợ chồng và
trong từng thời kì của đời sống vợ chồng. Nếu đời sống kinh tế quá khó khăn, thiếu thốn,
hạnh phúc vợ chồng sẽ khó có điều kiện phát triển thuận lợi.
+ Tuy nhiên, vai trò của yếu tố kinh tế thường chỉ có tác dụng ở một chừng mực
nhất định. Không phải giàu có mới có hạnh phúc, hoặc nghèo nàn là hạnh phúc tan vỡ…
Trong thực tế, có những trường hợp khi vợ chồng còn nghèo, thậm chí kinh tế khó khăn
nhưng vợ chồng vẫn sống hạnh phúc. Đến khi giàu sang thì hạnh phúc giữa hai người lại
bị rạn nứt.
+ Yếu tố kinh tế thường chỉ thể hiện rõ vai trò, tác dụng mạnh mẽ trong việc xây
dựng và phát triển hạnh phúc vợ chồng khi nó đám bảo một số điều kiện như: nghề
nghiệp của vợ chồng được ổn định, đồng tiền kiếm được bằng lao động chân chính, biết
sử dụng đúng mức đồng tiến, biết chi tiêu có kế hoạch, hợp lí…
- Khả năng tổ chức cuộc sống gia đình của từng người:
Là sự hiểu biết và kĩ năng về cuộc sống vợ chồng, cách tổ thức gia đình, kế hoạch
hoá kinh tế gia đình, kế hoạch hoá sự phát triển của gia đình và sự phát triển nhân cách
của từng thành viên, sự đảm đang, khéo léo, cách cư xử đúng mức và hợp lí, cách xây
dựng nề nếp cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái…
Cần chú ý đến việc tổ chức những hoạt động điển hình của cuộc sống gia đình, bao
gồm nhiều loại hình hoạt động như: sự giao tiếp, trao đổi giữa các thành viên, cách nói
năng, cư xử, chăm sóc lẫn nhau, việc tổ chức sinh nhật và các ngày lễ Tết, việc tổ chức
các hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, sự hưởng thụ những giá trị văn hoá, tinh thần
(xem nghệ thuật, ti vi, đi du lịch)…
Khả năng tổ chức cuộc sống gia đình của mỗi người sẽ góp Phần tạo nên hạnh
phúc của cuộc sống chung. Nếu cả hai vợ chồng cùng quan tâm đến việc tổ chức cuộc
sống gia đình, hạnh phúc vợ chồng sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cao.
– Một số vấn đề cần chú ý:
+ Mỗi yếu tố trên đều có ý nghĩa nhất định đến cuộc sống vợ chồng. Trong từng
thời kì, từng điều kiện, mỗi yếu tố đều có thể nổi lên thành yếu tố quan trọng nhất và mỗi
yếu tố đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc vợ chồng.
+ Sự tác động của các yếu tố vào cuộc sống vợ chồng rất phức tạp tinh tế. Có khi
nhiều yếu tố kết hợp với nhau, tác động một cách tổng hợp đến hạnh phúc vợ chồng, có
khi chỉ một yếu tố nào đó cũng đủ phá vỡ hạnh phúc.
c) Những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm hoặc làm tan vỡ hạnh phúc vợ
chồng
Sự suy giảm hoặc tan vỡ hạnh phúc vợ chồng có thể do nhiều nguyên nhân phức
tạp. Nó có thể do các khía cạnh không tốt của các yếu tố chi phối cuộc sống vợ chồng và
cũng có thể do những nguyên nhân khác.
Sau đây là những nguyên nhân chủ yếu nhất:
– Động cơ hôn nhân không đúng đắn:
Ví dụ: không yêu nhau thực sự, chưa hiểu biết lẫn nhau, kết hôn vì ép buộc, gả
bán, kết hôn vì những mục đích vị kỉ, cá nhân, vì sự tính toán không lành mạnh…
+ Việc xây dựng gia đình quá sớm, nhất là kết hôn trước tuổi trưởng thành.
+ Sự thoái hoá của nhân cách.
Do không biết kiếm chế và rèn luyện, giáo dục nhau, những thói hư tật xấu có thể
dẫn đần phát triển hoặc xuất hiện ở mỗi người. Những thổi hư tật xấu thường gây nhiều
tác hại nhất là nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè, ngoại tình, tính độc ác, tàn nhẫn, vị kỉ,
tham lam, sự thô lỗ thiếu tế nhị, tính nhỏ nhen, bần tiện…
Một số thói hư tật xấu khác như: tính chấp nhặt, dai dẳng, tai quái sự vụng về, lười
biếng, thích ăn diện, đua đòi, tính thiếu khiêm tốn, bất lịch sự trước nhau, ghen tương,
tranh khôn, mê tín dị đoan, hay ăn hàng… cũng ảnh hường mạnh đến hạnh phúc gia
đình.
Những thói hư tật xấu thường có liên quan với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, từ cái xấu
này nảy sinh cái xấu khác và tất cả những cái xấu đó phá hoại hạnh phúc gia đình.
Nhiều khi chỉ một vài thói xấu đã đủ để làm tan vỡ cuộc sống gia đình.
Những thói hư tật xấu thường xuất hiện do sự thoái hoá của nhân cách và càng
ngày càng làm cho nhân cách con người bị thoái hoá thêm.
– Sự thiếu hoà hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là:
+ Sự thiếu hoà hợp về cá tính (như về đạo đức, lối sống, quan điểm sống), sự
chênh lệch quá nhiều về trình độ, về tri thức và văn hoá.
+ Sự thiếu hoà hợp về tình dục.
– Điều kiện kinh tế:
Điều kiện kinh tế thường ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống vợ chồng trong những
trường hợp sau:
+ Đời sống kinh tế quá thiếu thốn, nghèo khó.
+ Nghề nghiệp không ổn định, không chính đáng (nhất là nghề nghiệp làm ăn bất
chính).
+ Nguồn kinh tế thiếu cơ bản, bền vững.
+ Sử dụng tiến bạc không đúng mức, thiếu kế hoạch.
+ Ăn chơi hoang toàng, xa xỉ, đua đòi, không hợp với xã hội.
- Tác động không tốt của môi trường sống:
+ Do “người thứ ba” hoặc bạn bè không tốt.
+ Do quan hệ hoặc tác động không tốt của gia đình lớn” (cha mẹ chồng, anh em họ
hàng hai bên…).
+ Do các tệ nạn xã hội của môi trường sống: ăn chơi trụy lạc, cờ bạc, nhậu nhẹt,
ma tuý, mại dâm…
+ Do ít giao tiếp xã hội, gia đình cách biệt với xã hội.
+ Do hai vợ chồng sống xa cách nhau quá nhiều, quá lâu mà không chú ý đến việc
giao tiếp liên lạc…
– Do ảnh hưởng xấu của vấn đề con cái:
+ Con cái quá hư hỏng, dốt nát.
+ Không thống nhất trong cách nuôi dạy con.
+ Không có con hoặc quan niệm sai lầm về con trai con gái.
– Do không biết cách khắc phục những biểu hiện bất lợi, khó khăn dễ nảy
sinh trong cuộc sống chung, như:
+ Sự nhàm chán tâm lí xuất hiện. Tính chất đẹp đẽ, hấp dẫn trong tình yêu và trong
quan hệ giữa hai người có thể giảm dần.
+ Sự nhận biết càng ngày càng rõ những nhược điểm của nhau.
+ Sự xung đột, mâu thuẫn có thể xuất hiện.
+ Quan hệ tình dục có thể giảm dần sự hấp dẫn…
5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng
– Quá trình chung sống vợ chồng là một quá trình biến động, có thể diễn biến phức
tạp. Sự biến động ấy có thể diễn ra theo mấy hướng sau đây:
– Biến động tốt: Vợ chồng, gia đình ngày càng hạnh phúc hơn, yêu nhau hơn, gia
đình hạnh phúc đến già.
- Biến động không tốt: Cuộc sống vợ chồng, gia đình ngày càng mất dần hạnh phúc
và có thể đi đến tan vỡ. Ở các cặp vợ chồng này, khi mới cưới là thời kì hạnh phúc nhất,
yêu thương nhau mãnh liệt nhất sau đó hạnh phúc giảm dần…
- Biến động phức tạp: Cuộc sống vợ chồng biến động phức tạp thất thường có tính
chất đột biến, có thời kì hạnh phúc, có thời kì bất hạnh, sau đó lại hạnh phúc… Tuy
nhiên, hạnh phúc của các cặp vợ chồng thuộc dạng này nhìn chung, cũng thường biến
động theo chiều hướng không tốt.
– Trong tình hình hiện nay, sự biến động của gia đình diễn tiến theo hướng hạnh
phúc giảm dần là khá phổ biến (tức là sự bên động không tốt).
Sự biến động đó do nhiều nguyên nhân phức tạp: về tâm lí xã hội, về kinh tế… Sự
biến động do thường dẫn tới việc hạnh phúc vợ chồng có thể bị suy giảm, cuộc sống vợ
chồng có thể dần dần trở nên tẻ nhạt đơn điệu và đi đến tan vỡ.
Sự biến động không tốt có thể làm cho cuộc sống vợ chồng diễn biến theo những
thời kì nhất định sau đây:
a) Thời kì nồng thắm
+ Là thời kì hạnh phúc nhất, đẹp đẽ nhất của cuộc sống vợ chồng.
+ Hai người yêu nhau thắm thiết, mãnh hệt, quan hệ vợ chồng mang tính hấp dẫn,
háo hức, mới lạ. Sự yêu thương thân thiết rất sâu sắc. Hai người luôn luôn muốn âu yếm,
cưng chiều nhau. Họ mang tâm trạng mong chờ, nhớ thương nhau tha thiết…
+ Trong cuộc sống chung vẫn có xung đột giữa hai người. Nhưng đó là sự xung đột
“dễ thương”: thường là sự hờn giận, sự bực dọc trong thốc lát, ít khi kéo dài. Người ta
giận nhau và chờ đối phương năn nỉ để làm lành.
+ Quan hệ tình dục vợ thông thường “vô tổ chức”, đầy hấp dẫn và mãnh liệt.
+ Thời kì này thường bắt đầu từ ngay sau khi cưới, có thể kéo dài tới 5, 7 năm, tuỳ
theo từng cặp vợ chồng. Đỉnh cao của hạnh phúc thường từ đêm tân hôn, qua tuần trăng
mật một thời gian.
+ Nếu thời kì này càng kéo dài, càng ảnh hưởng tốt đến toàn bộ cuộc sống gia đình
sau này.
b) Thời kì tình nghĩa
Là thời kì tình yêu giữa vợ chồng đã trở nên sâu sắc, thắm thiết, tuy nhiên tính háo
hức, hấp dẫn, thú vị giảm dần. Tình cảm yêu thương đã lắng đọng, đi vào chiều sâu của
tâm hồn, tạo nên tình nghĩa vợ chồng sâu nặng. Hai vợ chồng yêu quý, tôn trọng lẫn
nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau, cùng đồng tâm, nhất trí trong việc xây dựng gia đình,
nuôi dạy con cái. Thời kì này thường có một số đặc điểm dáng chú ý:
– Đã có xung đột thực sự giữa hai người: cãi vã, giận nhau vài ba ngày hoặc lâu
hơn. Tuy nhiên, đây là “xung đột nội bộ”, cả hai người cùng không muốn để người ngoài
biết, dù là người trong gia đình. Sự xung đột thường dù ở dạng cãi nhau hoặc “chiến
tranh lạnh”, không ai chịu nói với ai trước.
– Con cái có vai trò quan trọng trong gia đình, đứa con là niềm hạnh phúc, là cầu
nối giữa hai vợ chồng.
– Yếu tố kinh tế ngày càng trở nên có vai trò quan trọng trong gia đình. Tuy nhiên,
tính ổn định, tính chính đáng, tính kế hoạch hoá tinh tế gia đình là yếu tố cơ bản, có vai
trò chú yếu trong kinh tế.
– Vấn đề “sinh hoạt vợ chồng” đã đi vào ổn định, mang tính chu kì, tuỳ theo sức
khoẻ, đặc điểm cá tính, lứa tuổi của mọi người. Trong sinh hoạt vợ chồng yếu tố kĩ thuật
trở nên cần thiết và có ý nghĩa lớn đối với hạnh phúc vợ chồng.
- Đây vẫn là thời kì hạnh phúc và ổn định của cuộc sống vợ chồng là thời kì xây
dựng và vun đắp cho gia đình phát triển.
– Thời kì này có thể kéo dài tới 10, 15 hoặc 20 năm (sau thời kí nồng thắm). Ở
những gia đình hạnh phúc, có thể kéo dài đến lúc hai vợ chồng “đầu bạc răng long”,
“trăm năm hạnh phúc”.
c) Thời kì tình yêu – trách nhiệm
– Là thời kì hạnh phúc gia đình đã suy giảm, mức độ yêu thương giữa hai vợ chồng
đã nhạt dần đi do nhiều nguyên nhân:
+ Thói hư tật xấu đã bộc lộ rõ rệt, hoặc ngày càng trầm trọng, gây nên những khó
chịu, bực dọc cho người bạn đời. Đôi khi còn gây nên những nỗi thất vọng, buồn chán,
nảy sinh hiện tượng “thần tượng bị đổ vỡ”.
+ Sự nhàm chán tâm lí đã xuất hiện.
+ Những khó khăn phức tạp của đời sống kinh tế, xã hội…
– Tình yêu không còn mặn nồng để tạo nên hạnh phúc và duy trì cuộc sống gia
đình, không còn đủ sức để ngăn chặn các thói hư tật xấu
Gia đình muốn còn tồn tại và ổn định phải nhờ vào những ràng buộc khác: trách
nhiệm của mỗi người, luật pháp, con cái, ý thức đạo đức của mỗi người. Lúc này đứa
con là cầu nối của hạnh phúc gia đình. Nhiều trường hợp, chỉ vì lo cho tương lai của con
cái, nghĩ đến danh dự của gia đình, hoặc vì tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái… mà
người ta cố gắng hàn gắn những rạn nứt gia đình.
– Tư tưởng ngoại tình có điều kiện nảy sinh, có thể có ngoại tình thực sự Nhưng
người ta không muốn gia đình đổ vỡ: vì tương lai con cái, vì công danh sự nghiệp, vì đạo
đức, lương tâm… có khi vì tình nghĩa sâu nặng, hay vì mặc cảm tâm lí… người ta hay
cảm hoá lẫn nhau, hi sinh tình cảm riêng để duy trì hạnh phúc vợ chồng.
– Sự xung đột vợ chồng đã khá lớn, không còn tính nội bộ nữa. Có thể xuất hiện
những trận cãi vã, đánh nhau thực sự và bà con lối xóm “chứng kiến”, có thể giận nhau
hàng tuần, hàng tháng. Những mâu thuẫn vợ chồng có thể âm ỉ kéo dài.
– Đây là “thời kì thất thường” của cuộc sống vợ chồng. Nếu hai vợ chồng có ý thức
cảm hoá, giáo dục lẫn nhau kịp thời, có những phẩm chất đạo đức tốt… hạnh phúc vợ
chồng vẫn có thể hàn gắn, duy trì. Nếu hai vợ chồng kém sự chịu đựng, không biết giúp
đỡ hoặc không biết tha thứ, thiếu tính cao thượng, độ lượng… đặc biệt là không biết và
không quan tâm đến việc xây dựng hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng có thể chuyển sang
thời kì đáng ngại hơn. Đó là thời kì trách nhiệm chịu đựng.
d) Thời kì trách nhiệm chịu đựng
– Tình yêu thương giữa hai vợ chồng hầu như không còn nữa. Sự chung sống giữa
hai bên thường chỉ còn là sự chấp nhận. Những biểu hiện “quá quắt” của một bên làm
bên kia rất bực tức, khó chịu. Những thói hư tật xấu đã đến mức độ tệ hại, gay gắt: cờ
bạc, rượu chè suốt ngày, ích kỉ nhỏ nhen, bần tiện, tàn nhẫn, độc ác, tham lam… Cuộc
sống vợ chồng chỉ còn là sự chịu đựng…
– Xung đột vợ chồng luôn ở mức căng thẳng, nặng nề, “trận chiến” luôn đe doạ
“bùng nổ”, con cái ngơ ngác, sợ sệt… những cuộc cãi vã xô xát đã trở nên phổ biến và
mang tính quyết liệt, không khí gia đình căng thẳng, lạnh lùng, xa lạ…
- Ý muốn li dị thường xuất hiện nhưng có khi chưa thành sự thật vì một lí do nào
đó: con cái, gia tài, danh dự cá nhân, vợ chồng chấp nhận hi sinh vì tương lai của con cái
và gia đình… Ngoại tình có khi công khai, trắng trợn.
– Cuộc sống vợ chồng chỉ là những ngày tháng chịu đựng căng thẳng, sự giáo dục,
cảm hoá có thể vẫn còn hiệu quả nhưng rất thấp rất khó xây dựng lại hạnh phúc như xưa.
e) Thời kì đau khổ – tan vỡ
Là thời kì tồi tệ nhất của cuộc sống vợ chồng: quan hệ vợ chồng rất căng thẳng hai
người giận nhau đến mức thù hận. Họ rất khó chịu khi ở bên nhau, thường nhìn nhau
bằng cặp mắt soi mói và ác ý Những kỉ niệm đẹp xưa kia trở thành mỉa mai. Những yếu
tố ràng buộc (danh dự, con cái bây giờ không đủ hiệu lực, sự li dị là điều không thể tránh
khỏi và là sự giải thoát cho hai người. Cũng có thể hai người không li dị, nếu họ tính toán
rằng việc li dị có lợi cho “đối phương”.
- “Xung đột gia đình” lúc này mang tính chất quyết liệt “cạn tình”, “cạn nghĩa”, có
thể rất căng thẳng, không còn một chút xót thương hoặc cũng có thể theo dạng đặc biệt:
lạnh lùng, thù hận, tuy không có trận chiến bùng nổ nhưng “không khí nặng nề”, xa lạ.
f) Một vài lưu ý:
- Trên đây là 5 thời kì có thể diễn ra trong sự biến đổi của cuộc sống vợ chồng. Sự
xác định các thời kì như trên chỉ là tương đối, vì thực chất không có giới hạn phân định rõ
rệt. Đây chỉ là một trình tự có thể có đối với một cặp vợ chồng, nếu cặp vợ chồng này
không quan tâm gì đến nhau, không chú ý tìm hiểu nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia
đình…
- Như vậy không phải mọi gia đình đều phải trải qua cả 5 thời kì. Những gia đình
hạnh phúc, hai vợ chồng yêu thương nhau đến trọn đời gia đình vẫn ở thời kì 2. Trái lại,
có những gia đình dù 5, 7 tháng sau khi cưới đã chuyển sang thời kì “chịu đựng” hoặc
“thời kì đau khổ tan vỡ”.
- Sự li dị cũng không phải chỉ xảy ra ở thời kì 4 hay 5. Có những trường hợp li dị
đáng tiếc xảy ra ở thời kì 2 hoặc 3, do một hoặc hai bên có sự sốc nổi, sự đam mê quá
sức, hay do một thủ đoạn đáng sợ nào đó của người ngoài. Vì thế, sau khi li dị, tình
nghĩa vẫn còn, để đôi lúc trong mỗi người vẫn trào dâng niềm hối hận, tiếc nuối…
– Sự ngoại tình cũng không nhất thiết sẽ xảy ra ở thời kì 3, 4 hay 5. Có khả tuy
không ngoại tình, gia đình vẫn không có hạnh phúc.
– Ở những cặp vợ chồng biến động phức tạp, sự biến đổi từ thời kì này có thể
không tuân theo một tự nhất định. Có thể từ thời kì 3 (có khi từ thời kì 4), quay trở lại
thời kì 2 (hoặc 1), rồi lại biến động chập chờn như cũ. Tuy nhiên, khi đã sang tới thời kì
4, nhất là thời kì 5, khó có thể quay lại thời kì 2.
Nguyên nhân của sự biến động phức tạp này, có thể có nhiều nhưng có một nguyên
nhân đáng chú ý: “sự đột biến” trong tình yêu vợ chồng. Có khi sống chung với nhau lâu,
quan hệ giữa hai vợ chồng đang “bình thường”, nhạt nhẽo bỗng nhiên họ phát hiện được
ở nhau “một cái gì đó” rất hấp dẫn, đặc biệt, hoặc họ hiểu sâu sắc, tìm thấy cái tốt đẹp
của nhau… do đó họ yêu nhau thắm thiết hơn (có khi từ thời kì 3 quay trở lại thời kì 1,
hoặc 2).
Vì thế, nếu hai vợ chồng quan tâm đến nhau, có ý chung sống, có đạo đức tốt, nhất
là biết cảm hoá giáo dục nhau, hi sinh vì nhau… có thể xây dựng lại cuộc sống vợ chồng
hạnh phúc.
Muốn gia đình hạnh phúc lâu dài (chú ở thời kì 2 cho đến già), cả hai vợ chồng đều
phải quan tâm lo lắng đến việc xây dựng hạnh phúc. Cuộc sống vợ chồng cần đạt những
điều kiện nhất định.
6. Điều kiện chủ yếu để tạo nên cuộc sống vợ chồng hạnh phúc lâu dài
a) Phải có động cơ hôn nhân đúng đắn: Hai người kết hôn phải tự nguyện yêu nhau
thắm thiết, có sự hiểu biết nhau cần thiết (cá tính, hoàn cảnh gia định…) có sự cân nhắc,
suy nghĩ chín chắn.
b) Hai người cần có những phẩm chất đạo đức nhất định, có trách nhiệm, có văn
hoá.
c) Nên kết hôn đúng độ tuổi đó là nam từ 25, 26 trở lên, nữ từ 21, 22 trở lên,
Có nghề nghiệp ổn định, chân chính,
Có sự chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân tìm hiểu nhau kỹ chuẩn bị tốt cho lễ cưới, cho
cuộc sống chung lâu dài… Có ý muốn sống chung với nhau.
d) Kết hôn đúng lúc khi thời điểm đã “chín muồi”
e) Có ý thức ngăn chặn những nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, luôn
cảnh giác, cảm hoá, giáo dục nhau kịp thời. Cần chú ý rằng, cuộc sống vợ chồng là quá
trình tìm hiểu liên tục, cảm hoá giáo dục nhau liên tục. Đó cũng là quá trình chấp nhận, hi
sinh vì nhau và tự giáo dục, tự cải tạo mình cho phù hợp.
f) Hai người cùng nắm được những tri thức cần thiết về cuộc sống, hôn nhân gia
đình, nhất là phương hướng, biện pháp cụ thể để xây dựng cuộc sống vợ chồng tươi trẻ,
hạnh phúc.
7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay
Hiện nay, vấn đề giáo dục về cuộc sống gia đình cho thanh niên, cho mọi người
đang trở thành một vấn đề cần thiết. Việc giáo dục cuộc sống gia đình chủ yếu bao gồm
những nội dung sau đây:
a) Làm cho thanh niên hiểu được bản chất của cuộc sống gia đình
Khái niệm về gia đình và cấu trúc của gia đình, khái niệm về gia đình hạt nhân và
gia đình đa thế hệ, quy mô hợp lí trong sự phát triển gia đình, những đặc điểm của đời
sống gia đình, sự biến động của gia đình, các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình,
nguyên nhân làm tan vỡ gia đình… để khi đó họ có ý thức và phương hướng đúng đắn
trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
b) Làm cho thanh niên hiểu được nội dung của cuộc sống gia đình và một loạt
những vấn đề phức tạp, đa dạng như:
– Các mối quan hệ trong gia đình, quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ và con cái…
– Trách nhiệm, vai trò của mỗi thành viên trong gia đình đối với nhau và đối với xã
hội.
– Việc tìm hiểu lẫn nhau, cảm hoá, giáo dục lẫn nhau, tự cải biến mình để tạo nên
sự hoà hợp trong cuộc sống chung.
- Cư xử với nhau, với mọi người, từ đó xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp trong
gia đình và với xã hội.
– Vấn đề sinh hoạt vợ chồng.
– Vấn đề tổ chức gia đình, xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình.
– Đảm bảo đời sống kinh tế gia đình.
– Sinh con, nuôi con, dạy con.
– Vấn đề phát triển nhân cảm của mỗi thành viên (đạo đức, tài năng, sự nghiệp…).
- Chức năng xã hội của gia đình.
– Xây dựng và phát triển gia đình theo hướng nâng cao chất lượng cuộc sống và
gia đình văn hoá mới.
– Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc gia đình.
c) Giáo dục cho thanh niên có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, đối với vợ (hoặc
chồng), đối với con cái, đối với xã hội. Đặc biệt cần hiểu được luật hôn nhân gia đình.
d) Giáo dục những tri thức và kĩ năng xây dựng gia đình hạnh phúc, đặc biệt là
cách thức xây dựng gia đình hạnh phúc.

Created by AM Word2CHM
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

Việc xây dựng gia đình hạnh phúc có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội. Gia đình là một
đơn vị xã hội. Gia đình hạnh phúc và phát triển sẽ làm xã hội giàu mạnh và phát triển.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển còn là ước mơ và nguyện vọng của tất cả
mọi người. Tuy nhiên, xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển lại là một việc rất khó
khăn. Trong thực tế đã có nhiều gia đình chưa hạnh phúc.
Để có thể xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển, cần hiểu rõ về bản chất của
gia đình, quy luật của đời sống gia đình để từ đó xác định được những phương hướng
đúng đắn xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp
a) Gia đình là kết quả và là sự phát triển của hôn nhân:
Mỗi gia đình đều có nhiều mối quan hệ tâm lí, xã hội như: vợ chồng, cha mẹ con
cái, họ hàng, bà con lối xóm, luật pháp, xã hội, đời sống, sinh hoạt… Những mối quan hệ
này chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố: đặc điểm tâm lí của mỗi thành viên, tình yêu, sự
hoà hợp, thời gian chung sống, tuổi tác, kinh tế, xã hội, đạo đức, năng lực, sức khoẻ của
mỗi thành viên.
Trong các mối quan hệ của gia đình, quan hệ vợ chồng là quan hệ cơ bản, có vai
trò quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng có một số đặc điểm chính sau đây:
- Hai người chung sống với nhau: cùng ăn chung, ở chung, sinh hoạt chung, cùng
gặp gỡ nhau hàng ngày, cùng xây dựng cuộc sống chung… Sự chung sống này chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi tình yêu sự hoà hợp, bởi cách cư xử, ý thức trách nhiệm, sự quan
tâm đến nhau của mỗi người…
- Hai người cùng bị ràng buộc với nhau, có trách nhiệm đối với nhau, và cùng có
trách nhiệm trước xã hội và cùng phải tuân theo luật pháp của xã hội. Hai người cùng
mất đi một phần tự do của mình.
- Hai người cùng có nghĩa vụ xây dựng và phát triển gia đình, sinh con, nuôi dạy
con khôn lớn, phát triển gia đình về mọi mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội… nhất là về sự phát
triển nhân cách của mỗi thành viên trong gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng là niềm vui, là hạnh phúc của cả hai người, nhưng cũng từ đó
có thể nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp như:
- Sự chung đụng lâu dài có thể dẫn đến sự va chạm, sự xung đột (do khác biệt cá
tính, do phát hiện những nhược điểm của nhau), có thể làm nảy sinh những mâu thuẫn
mới trong quá trình sống chung…
– Sự gia tăng dần về tuổi tác làm cho sức khoẻ, độ trẻ trung, sắc đẹp bị suy giảm
dần.
– Do đặc điểm của cuộc sống chung, những rung cảm yêu đương, thương nhớ
cũng dễ giảm sút, có khi nảy sinh những va chạm và xung đột, có thể dẫn đến hiện tượng
“nhàm chán tâm lý, “nhàm chán sinh lí”, “thần tượng đổ vỡ”…
– Nhiều vấn đề mới xuất hiện trong sự chung sống vợ chồng: việc sinh nở và những
vất vả trong việc nuôi dạy cơn, việc đảm bảo nhu cầu cuộc sống về mặt vật chất, tinh
thần hàng ngày, những mối quan hệ xã hội, họ hàng, bạn bè… Những vấn đề đó có thể
làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với cuộc sống của hai vợ chồng, có thể dẫn tới những
xung đột, làm nảy sinh những khó khăn, phức tạp cho cuộc sống chung.
Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp khác tác động đến cuộc sống
gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.
b) Nhiều yếu tố của xã hội như: pháp luật, đạo đức, khoa học, kĩ thuật, kinh tế,
chính trị… ảnh hưởng mạnh đến gia đình, đòi hỏi mỗi gia đình phải đáp ứng được những
yêu cầu ngày càng cao để phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Mỗi gia đình phải
gắn bó mật thiết với xã hội, chịu sự chi phối, tác động của xã hội về nhiều mặt và phải
thực hiện các nghĩa vụ đối với xã hội. Vì vậy, mỗi gia đình đều phụ thuộc vào xã hội, phát
triển theo sự phát triển của xã hội. Các mối quan hệ xã hội phức tạp cũng thể hiện ở các
mối quan hệ trong gia đình và làm cho các mối quan hệ trong gia đình cũng phức tạp
theo.
c) Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố của xã hội như: luật
pháp, phong tục tập quán, khoa học kỹ thuật, đạo đức xã hội, nếp sống sinh hoạt, đặc
biệt là yếu tố kinh tế và sự cạnh tranh làm cho các giá trị xã hội có nhiều biến đổi, do đó,
các giá trị trong gia đình cũng biến đổi theo như: vai trò của đồng tiền, các giá trị đạo
đức trong gia đình, tính chất của mối quan hệ cha mẹ và con cái sự cư xử giữa các
thành viên… Khoảng cách giữa cha mẹ và con cái dự bị gia tăng. Vấn đề giáo dục trẻ em
trong gia đình ngày càng phức tạp hơn và khó khăn hơn do ảnh hưởng của yếu tố kinh
tế, của khoa học kĩ thuật và nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp khác.
d) Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ăn chơi sa đoạ, xì ke ma tuý… cũng
ảnh hưởng mạnh đến gia đình, luôn cám dỗ, quyến rũ các thành viên trong gia đình, nhất
là người chồng và người con trai, làm cho họ dễ sa ngã, dễ bị tha hoá nhân cách, có khi
trở thành kẻ phá hoại hạnh phúc gia đình, làm cho gia đình khó có thể phát triển tốt đẹp
và thuận lợi.
e) Trong thực tế, có nhiều gia đình sống chưa hạnh phúc, tỉ lệ ly hôn ngày
càng cao. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình, đặc biệt nạn bạo hành trong gia đình
có chiều hướng gia tăng. Hiện tượng cho hạnh phúc trong gia đình thường có nhiều biểu
hiện, nhiều mức độ khác nhằm tạo nên nhiều loại gia đình chưa có hạnh phúc như:
- Những gia đình đau khổ tan vỡ: Đó là những gia đình mà trong đó quan hệ vợ
chồng căng thẳng, thường xuyên xảy ra xung đột nặng nề, người này đổ trách nhiệm cho
người kia, hành hạ, đánh đập tàn nhẫn người kia…
– Những gia đình hạnh phúc giả tạo: Đó là những gia đình nhìn bề ngoài có vẻ hạnh
phúc: nhà cửa đầy đủ tiện nghi, vợ chồng có địa vị xã hội, con cái được học hành, đời
sống kinh tế đầy đủ… Mọi người tưởng lầm rằng đó là một gia đình hạnh phúc. Nhưng
thực sự bên trong là mối quan hệ căng thẳng giữa hai vợ chồng, họ chịu đựng lẫn nhau,
cố gắng che giấu những bất hạnh, những bực bội không để người khác biết vì nhiều lí do:
bảo vệ danh dự gia đình, danh dự bản thân, hoặc để không bị ảnh hưởng đến công danh
sự nghiệp, công việc làm ăn hay vì nhiều lí do cá nhân khác. Thực tế cuộc sống gia đình
là cuộc sống căng thẳng, bực bội, là sự chịu đựng lẫn nhau.
– Những gia đình thiếu hạnh phúc: Đó là những gia đình mà vợ chồng có thể vẫn
thương yêu nhau nhưng lại thiếu hạnh phúc vì nhiều lí do như con cái hư hỏng, học hành
dốt nát, bỏ nhà đi bụi đời nhiễm xì ke ma tuý, bệnh hoạn, ốm đau, vợ chồng không hoà
hợp, thường xuyên cãi vã, hoặc kinh tế gia đình quá khó khăn thiếu thốn…
Một vấn đề cần chú ý là trong những gia đình chưa hạnh phúc trên, nỗi bất hạnh
chủ yếu thường người phụ nữ phải gánh chịu. Nói cách khác, người gây ra những nỗi bất
hạnh đau khổ cho gia đình đa số là người đàn ông, người chồng, người con trai. Đây là
một thực tế cần quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ hơn.
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
Một gia đình được gọi là hạnh phúc và phát triển thường có những đặc điểm sau:
– Cuộc sống vợ chồng hoà hợp, tràn đầy yêu thương, các thành viên trong gia đình
quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, biết tôn trọng nhau, cư xử lễ độ đối với nhau…
– Kinh tế gia đình đầy đủ, đảm bảo cuộc sống thuận lợi cho mỗi thành viên, đáp
ứng được những nhu cầu phù hợp và chính đáng của mỗi thành viên, làm cho các thành
viên có điều kiện phát triển tốt đẹp về nhân cách, tài năng, công danh, sự nghiệp…
- Mỗi một thành viên đều có điều kiện phát triển hài hoà nhân cách của mình, phát
triển về trình độ văn hoá, đạo đức, tài năng… góp phần xứng đáng xây dựng đất nước,
rạng danh cho gia đình. Đặc biệt, con cái được học hành, được phát triển một cách toàn
diện, trở thành những người công dân tốt của xã hội.
– Gia đình luôn luôn gắn bó với xã hội, hoà nhập với xã hội, thực hiện tốt luật pháp
và nghĩa vụ đối với xã hội, đóng góp tích cực vào việc xây dựng xã hội phát triển.
- Gia đình luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất,
văn hoá, tinh thần và ngày càng phát triển hơn và đóng góp vào sự phát triển chung của
xã hội.
Những gia đình hạnh phúc và phát triển thường là kết quả của hôn nhân tự nguyện,
được xây dựng trên cơ sở của tình yêu sâu nặng, đằm thắm. Ngược lại, những cuộc hôn
nhân vì tiền tài, địa vị hoặc vì những mưu đồ tính toán vị kỉ nào đó đều khó có thể trở
thành một gia đình hạnh phúc.
Nếu vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình là những người có đạo đức
tốt, có văn hoá, có hiểu biết, có thiện chí đối với nhau, thì việc xây dựng gia đình hạnh
phúc và phát triển càng có nhiều thuận lợi và càng đạt tới mức độ phát triển cao.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển là một vấn đề khó khăn, phức tạp,
không phải tự nhiên mà có. Mỗi người phải có kiến thức, có sự hiểu biết, có trình độ và
có ý thức trách nhiệm, có đạo đức tốt, nhất là kiến thức và hiểu biết cuộc sống gia đình,
tập trung và quyết tâm xây dựng cuộc sống gia đình, mới có thể tạo nên một gia đình
hạnh phúc và phát triển.
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển
Ngày nay việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng có nhiều khó khăn,
phức tạp. Cần phải quan tâm tới nhiều vấn đề:
a) Cần phải thay đổi những quan niệm xưa cũ, lạc hậu về gia đình như:
– Quan niệm “chồng chúa vợ tôi” và những quan niệm bất bình đẳng, quan niệm lạc
hậu về cuộc sống gia đình.
– Quan niệm về người phụ nữ như là người lệ thuộc vào chồng, coi công việc nội
trợ gia đình là việc của người đàn bà.
- Quan niệm về cuộc sống gia đình tách biệt với cuộc sống xã hội.
– Quan niệm về cuộc sống gia đình là đơn giản, ai cũng biết, coi số phận của gia
đình hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người đàn ông, chủ gia đình…
b) Để có một gia đình hạnh phúc, cần phải có kiến thức dầy đủ, đúng đắn về bản
chất cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng, từ đó biết cách xây dựng gia đình.
c) Ngăn chặn một cách nghiêm khắc và kịp thời những biểu hiện xấu trong gia
đình như: bạo lực, cư xử tàn nhẫn hoặc vô trách nhiệm đối với người vợ, hành hạ đánh
đập con cái…
d) Nâng cao nhận thức và trang bị cho mọi thành viên của gia đình những tri thức
khoa học về cuộc sống gia đình (khái niệm về gia đình hạt nhân, về quy mô vừa phải và
kế hoạch hoá gia đình, về nghệ thuật xây dựng gia đình hạnh phúc…). Tăng cường
những biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần
(nâng cao dần những tiện nghi phục vụ cho cuộc sống, nâng cao trình độ hưởng thụ các
giá trị văn hoá nghệ thuật, đổi mới về tổ chức cuộc sống gia đình…), phấn đấu xây dựng
“Gia đình văn hoá mới”…
e) Chuẩn bị tốt cho thanh niên nam nữ khi bước vào cuộc sống hôn nhân gia
đình
– Làm cho họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về quan hệ vợ chồng và cuộc sống
gia đình.
- Có sự trân trọng và suy nghĩ chín chắn khi quyết định các vấn đề tình yêu hôn
nhân.
– Phải đảm báo được những điều kiện nhất định và cần thiết khi kết hôn như: đúng
độ tuổi, nghề nghiệp ổn định, sự trưởng thành nhân cách, yêu thương nồng thắm…
- Những tiêu chuẩn cần thiết khi lựa chọn bạn đời.
– Biết chủ động chuẩn bị những yếu tố cần thiết cho cuộc sống hôn nhân…
f) Tăng cường việc giáo dục gia đình cho thanh niên và cho mọi người, với
những nội dung phong phú, đa dạng về đời sống gia đình như:
– Những kiến thức về bản chất cuộc sống gia đình và quan hệ vợ chồng, chức năng
của gia đình, quy mô thích hợp của gia đình hiện nay (số lượng con và phải), vai trò trách
nhiệm người chồng, người vợ, của con cái, nội dung của đời sống vợ chồng, các yếu tố
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, các kiến thức về dân số, giáo dục dân số, kế hoạch
hoá gia đình…
– Những kiến thức về văn hoá gia đình, về chất lượng cuộc sống gia đình, về xây
dựng cơ sở vật chất cho gia đình, trang trí nhà cửa.
- Những kiến thức khoa học về sinh lí cơ thể người, về đời sống tình dục vợ chồng,
về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, về cách giữ gìn vẻ đẹp độ trẻ trung và các kiến thức cơ
bản khác về y tế.
– Những kiến thức khoa học về sinh nở, nuôi dạy con…
– Những kiến thức về nghệ thuật xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình, đặc biệt
là:
+ Nghệ thuật cư xử và chung sống vợ chồng.
+ Nghệ thuật tổ chức cuộc sống gia đình.
+ Nghệ thuật sinh nở, nuôi con.
+ Nghệ thuật quan hệ với xã hội và bà con lối xóm.
+ Nghệ thuật bảo vệ hạnh phúc gia đình.

Created by AM Word2CHM
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH

1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản


a) Quan niệm về sức khoẻ sinh sản
Trên thế giới, vấn đề sức khoẻ sinh sản (SKSS) được quan tâm nhiều từ khoảng
thập niên 90 của thế kỉ XX, do yêu cầu của việc giáo dục dân số, sự phát triển của các
khoa học nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là do tình hình phức tạp của đời sống xã hội về
các tệ nạn xã hội, về sự bùng nổ dân số, về sự phát triển của những lối sống không lành
mạnh trong thanh thiếu niên.
Việc nghiên cứu SKSS thường được tiến hành theo các hướng: Nghiên cứu theo
góc độ Dân số học và Giáo dục dân số: Các công trình nghiên cứu thường đi vào những
phương thức điều chỉnh sự phát triển dân số, hoạt động kế hoạch hoá gia đình, căn cứ
để xây dựng các chính sách dân số và Giáo dục dân số, xây dựng chương trình, nội
dung giáo dục dân số, giáo dục giới tính và đời sống gia đình… Ở nhiều nước, việc
nghiên cứu SKSS được gắn với vấn đề Giáo dục dân số, được coi như là một bộ phận
của Giáo dục giới tính, của chính sách dân số.
+ Nghiên cứu theo góc độ Y học: Nghiên cứu những tri thức khoa học về các vấn
đề của SKSS, những vấn đề kĩ thuật của “kế hoạch hoá gia đình”…
+ Nghiên cứu việc giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên, cho người lớn, đặc biệt cho
trẻ vị thành niên, trẻ ngoài nhà trường.
Việc nghiên cứu trên ngày càng được phát triển hơn sau Hội nghị Quốc tế về Dân
số và Phát triển tại Công, Ai Cập tháng 9/1994 ở Việt Nam, vấn đề giáo dục sức khoẻ
sinh sản được đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện nay, đặc biệt là ở đối tượng thanh
thiếu niên. Nhiều công trình nghiên cứu về SKSS đã được thực hiện và công bố, trong
đó, có những cõng anh đã kết hợp giáo dục dân số, giáo dục giới tính với giáo dục
SKSS, kết hợp Dân số học, Y học, Xã hội học, Tâm lí học, Giáo dục học về các nội dung
trên. Năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đưa các nội dung giáo dục Dân số –
SKSS vào chương đào tạo trong các trường sư phạm.
Trước đây, người ta cho rằng, “sức khoẻ sinh sản” chỉ là những vấn đề về tình
trạng sức khoẻ và khả năng sinh sản của người phụ nữ, về kế hoạch hoá gia định với
việc thực hiện các biện pháp tránh thai và một số vấn đề liên quan tới việc thụ thai và sinh
nở.
Tuy nhiên, ngày nay mọi người đều nhận thấy, nội dung của khái niệm “sức khoẻ
sinh sản” rộng hơn nhiều. Nó còn liên quan đến hoạt động tình dục, những quan niệm về
lối sống, về thái độ và cảm xúc yêu đương trong đời sống tình dục của cả nam lẫn nữ,
những vấn đề bệnh lí về mặt tình dục, hoạt động của các cơ quan sinh dục, về quá trình
thụ thai và mang thai, về tri thức và nghệ thuật sinh nở, nuôi con để các cặp vợ chồng có
những đứa trẻ khoẻ mạnh và thông minh…
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: “Sức khoẻ sinh sản là tình trạng khoẻ
mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những gì liên quan đến hoạt động và
chức năng của bộ máy sinh sản chứ không phải chỉ là không có bệnh tật hoặc là ốm
yếu”.
Như vậy khi nói đến “sức khoẻ sinh sản”, cần phải chú ý đến toàn bộ những vấn đề
về cấu tạo, về chức năng, về tình trạng hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, về nhiều vấn
đề tâm sinh lí nảy sinh trong đời sống sinh lí giới tính và cả một số vấn đề về tâm lí xã
hội giới tính, trong đó có đời sống tình dục và nếp sống sinh hoạt liên quan đến vấn đề
tình dục, thái độ và trách nhiệm của người nam và người nữ trong đời sống giới tính,
trong việc thụ thai, khả năng sinh nở, kế hoạch hoá sinh nở và nuôi con, về mối quan hệ
giới tính giữa hai giới…
b) Những nội dung cơ bản của vấn đề sức khoẻ sinh sản
Từ những quan niệm trên, vấn đề sức khoẻ sinh sản bao gồm nhiều nội dung phong
phú và phức tạp, chủ yếu là:
– Tình trạng sức khoẻ của hệ cơ quan sinh dục nam và nữ, trong đó có cấu trúc,
chức năng hoạt động, khả năng hoạt động của các bộ phận của hệ cơ quan sinh dục nam
nữ, đặc biệt là hoạt động sản sinh các nội tiết tố giới tính (các hoóc môn sinh dục), hoạt
động sản sinh tinh trùng và sự xuất tinh, hoạt động sinh lí dẫn tới hiện tượng kinh nguyệt,
thụ thai, hệ thống sinh sữa…
- Sự dậy thì và sự chín muồi giới tính, sự nảy sinh và xuất hiện những nhu cầu của
đời sống tình dục.
- Những biểu hiện của đời sống tính dục và những chức năng khác trong hoạt động
của các cơ quan sinh dục như: hiện tượng kinh nguyệt, hiện tượng mộng tinh, hiện tượng
thủ dâm, xuất hiện trứng cá, sự biến đổi hình thể ở nam và nữ, mọc râu… và những biểu
hiện bất thường về các hiện tượng trên.
– Đời sống tình dục trong đó có sức khoẻ tình dục, niềm hạnh phúc trong đời sống
yêu đương và cuộc sống vợ chồng, hoạt động tư vấn và chăm sóc SKSS, phòng tránh
các bệnh lây lan quan đường tình dục, xây dựng lối sống lành mạnh, đề phòng và chống
lại lối sống ăn chơi, trụy lạc, trác táng, mại dâm, quan hệ tình dục bừa bãi và không an
toàn.
– Sự thụ thai và vấn đề phòng tránh, chữa trị hiện tướng vô sinh, sự phát triển của
thai nhi, việc thăm sóc người mẹ khi mang thai, sự sinh con, cho con bú, việc nuôi con và
những kiến thức về nghệ thuật sinh nở, nuôi con khoẻ mạnh thông minh, cao lớn…
– Vấn đề kế hoạch hoá gia đình, các biện pháp tránh thai, nạo phá thai và hậu quả
nguy hiểm của việc nạo phá thai, nhất là nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên.
- Những kiến thức về bệnh lí liên quan đến đường tình dục như: sự hiểu biết và
phòng tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục, các bệnh viêm nhiễm đường tình dục,
các bệnh tâm thần tình dục…
– Ý thức trình nhiệm trong quan hệ yêu đương, quan hệ tình dục.
– Ý thức tôn trọng phụ nữ, tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, nhận thức được sự
khó khăn của người phụ nữ trong đời sống sức khoẻ sinh sản, trong đời sống xã hội; biết
cách lo lắng, thăm sóc và bảo vệ cho sức khoẻ sinh sản của người phụ nữ, thăm sóc sức
khoẻ bà mẹ và trẻ em, chống bạo lực tình dục, chống bạo hành trong gia đình.
Như vậy, nội dung của SKSS bao gồm nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực: sức khoẻ
của cơ thể và hệ cơ quan sinh đục, quan hệ tình dục an toàn và hạnh phúc, các biện
pháp tránh thai và kế hoạch hoá gia đình, kiến thức và cảm phòng chống các bệnh lây lan
qua đường tình dục, vấn đề nạo phá thai và hậu quả, vấn đề tình yêu và hôn nhân gia
đình…
Sức khoẻ sinh sản là bộ phận ăn trọng và điển hình của đời sống giới tính, gắn bó ít
thiết với những yếu tố khác của đời sống giới tính.
c) Tầm quan trọng của vấn đề sức khoẻ sinh sản
Sức khoẻ sinh sản là một bộ phận quan trọng của đời sống giới tính, có ý nghĩa lớn
đối với toàn bộ các biểu hiện khác của đời sống giới tính của con người. Nó thể hiện rõ
khả năng hoạt động của hệ cơ quan sinh dục và qua đó khắc hoạ rõ nét, đặc trưng của
đời sống giới tính.
Sức khoẻ sinh sản liên quan đến bản năng tình dục và những chức năng quan trọng
nhất của đời sống sinh lí cơ thể.
Sức khoẻ sinh sản ảnh hường mạnh đến sức khoẻ, đến sự phát triển sinh lí cơ thể,
đến đời sống tâm lí, và qua đó ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển toàn bộ của nhân cách
con người.
d) Giáo dục sức khoẻ sinh sản
Giáo dục sức khoẻ sinh sản là hoạt động giáo dục trang bị cho con người tri thức
và những kĩ năng giữ gìn, bảo đảm cho sức khoẻ sinh sản ở tình trạng tốt, giúp cho con
người có sức khoẻ, có đời sống tình dục an toàn, yêu đương lành mạnh, gia đình hạnh
phúc, có tri thức đầy đủ về sức khoẻ sinh sản, bảo đảm được sự sinh nở bình thường,
nuôi con khoẻ mạnh, thông minh và phát triển.
Giáo dục SKSS phải gắn liền với giáo dục dân số. Đó là hai vấn đề có mối quan hệ
rất đặc biệt, rất mật thiết. Giáo dục SKSS là một bộ phận của giáo dục giới tính, có ý
nghĩa quan trọng trong giáo dục giới tính.
Việc giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được tiến hành toàn diện và rộng rãi trong
toàn xã hội cho mọi đối tượng, đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên.
Giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được tiến hành ở nhiều hình thức giáo dục phong
phú và đa dạng, có thể thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, bằng các phương tiện thông tin đại
chúng (phát thanh, quyền hình, quảng cáo tuyên truyền, các hình thúc hoạt động văn hoá
nghệ thật…), đặc biệt là giáo dục trực tiếp cho thanh niên, học sinh, trẻ vị thành niên
trong nhà trường qua các giờ chính khoá, ngoại khoá và các hoạt động vui chơi, giải trí.
Có thể xác định nội dung chương trình giáo dục SKSS bao gồm những vấn đề cơ
bản sau:
1. Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục nam nữ.
2. Một số hiện tượng đặc biệt điển hình trong đời sống sinh lí tính dục.
3. Bản chất của hoạt động tình dục và biểu hiện của đời sống tình dục ở thanh thiếu
niên.
4. Các bệnh lây lan qua đường tình dục và cách phòng tránh.
5. Sự thụ thai và sự phát triển của thai nhi.
6. Các biện pháp tránh thai.
7. Kế hoạch hoá gia đình.
8. Vấn đề nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và hậu quả.
9. Giới tính và vấn đề SKSS.
10. Tình yêu nam nữ.
11. Hôn nhân và đời sống gia đình.
12. Quan hệ vợ chồng và sự bình đẳng nam nữ.
13. Vấn đề chống bạo hành trong gia đình và sự xâm phạm tình dục trẻ em.
14. Việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em.
15. Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.
Trên đây là những nội dung cơ bản của chương trình nội dung giáo dục SKSS. Tuỳ
theo đặc điểm đối tượng (địa phương, trình độ, lứa tuổi, cấp học, thanh thiếu niên ngoài
nhà trường, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…), sẽ xây dựng chương trình giáo dục thích
hợp riêng.
Để giáo dục sức khoẻ sinh sản có hiệu quả, cần phải có chương trình, nội dung cụ
thể, phù hợp cho từng đối tượng.
2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
a) Ý nghĩa của việc giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Tuổi vị thành niên là một giai đoạn đặc biệt của đời sống con người. Đây là giai
đoạn dậy thì, chín muồi giới tính, những chức năng sinh sản của hệ cơ quan sinh dục bắt
đầu hoạt động và ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển cơ thể và nhân cách. Đây cũng là
lứa tuổi có nhiều biến động mạnh về tâm sinh lí, bắt đầu có những biểu hiện quan trọng
và điển hình của đời sống tính dục, đã xuất hiện những rung cảm yêu đương, bắt đầu
hình thành tình yêu… đồng thời có những biến đổi đặc biệt về mặt tâm lí, nhất là những
biểu hiện tâm lí giới tính, tính xúc động mạnh của thời kì dậy thì, sự biến động mạnh và
thất thường trong đời sống tâm lí, thậm chí cớ sự khủng hoảng tâm lí trong mối quan hệ
với người lớn, với bạn bè khác giới…
Ở lứa tuổi này, các em quan tâm nhiều đến những vấn đề về tình dục, vệ sinh nở,
về kinh nguyệt, về tình yêu… nhưng lại rất ít hiểu biết về những vấn đề này.
Các em dễ bị kích thích bởi những rung cảm về tình dục và những biểu hiện sớm
của đời sống tính dục (bắt đầu có kinh nguyệt, bắt đầu có hiện tượng mộng tinh, có nhu
cầu thủ dâm…), ngoài ra còn có nhiều những biến đổi khác về tâm sinh lí. Những yếu tố
trên ảnh hưởng mạnh đến lối sống, nếp sinh hoạt, quan hệ xã hội và sự phát triển nhân
cách. Đặc biệt, các em dự bị lôi cuốn và bị sa ngã bởi văn hoá phẩm đồi trụy, bởi những
nếp sinh hoạt không lành mạnh, ăn chơi nghiện hút, ma tuý và thuốc lắc, dễ bị xâm hại
tình dục… Do đó, vấn đề giáo dục sức khoẻ sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên có ý
nghĩa quan trọng đặc biệt.
b) Một số vấn đề cần chú ý trong việc giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành
niên
Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên cần chú ý đến những vấn đề sau đây:
– Giáo dục những tri thức về sự dậy thì, về việc giữ gìn vệ sinh cho hệ cơ quan sinh
sản, đặc biệt là tri thức về cấu trúc và chức năng hoạt động của hệ cơ quan sinh dục,
hiện tượng kinh nguyệt, hiện tượng mộng tinh và di tinh, hiện tượng thủ dâm, sự phát
triển bất bình thường của hệ cơ quan sinh dục (nam hoặc nữ), các bệnh lí liên quan đến
cơ quan sinh dục…
– Giáo dục về hoạt động tình dục, tác hại của hoạt động tình dục sớm, những bệnh
lí tình dục, bệnh tâm thần tình dục, hiện tượng đồng tính luyến ái, những dấu hiệu của
hiện tượng lạm dụng tình dục và của các hành vi cưỡng dâm.
- Giáo dục kế hoạch hoá gia đình, trang bị các tri thức khoa học về các biện pháp
tránh thai, giúp cho các em nhận thức được hậu quả nguy hiểm của việc có thai sớm,
việc nạo phá thai…
– Giáo dục về nếp sống lành mạnh, văn hoá, văn minh. Giáo dục cho các em thấy
sự nguy hiểm của việc ăn chơi đua đòi, đọc các sách báo văn hoá phẩm đồi trụy, tác hại
của ma tuý, thuốc lắc, bia rượu… và những lối sống ăn chơi sa đoạ khác.
– Giáo dục về tình bạn khác giới, về tình yêu trong sáng, về sự tôn trọng đối với
người khác giới, đặc biệt là tôn trọng phụ nữ. Giáo dục thái độ tôn trọng và bảo vệ các
bạn nữ, sự trân trọng đối với tình bạn khác giới, tình yêu nam nữ… Giáo dục về đời sống
gia đình, về quan hệ giữa con cái với cha mẹ và ý thức trách nhiệm đối với việc xây dựng
gia đình hạnh phúc và phát triển.

Created by AM Word2CHM
Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH


II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH.

Created by AM Word2CHM
I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

1. Giáo dục giới tính


Giáo dục giới tính là một lĩnh vực phức tạp. Có nhiều quan niệm, nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề này.
Có những ý kiến cho rằng chỉ nên tiến hành giáo dục giới tính khi các em vào thời kì
chín muồi giới tính. Nhưng A.V. Petrovxki đã khẳng định “Quan niệm đó không động bởi
vì một loạt vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính phải được giải quyết ngay từ thời kì
thơ ấu”.
Một số ý kiến nhầm lẫn giáo dục giới tính với giáo dục tính dục, hoặc giáo dục tình
dục, giáo dục tình yêu. Thực ra tính dục chỉ là một bộ phận của giới tính. Sự thu hẹp
phạm vi của giáo dục giới tính như vậy sẽ có thể đưa đến tác dụng phản diện hoặc hạn
chế hiệu quả của giáo dục giới tính.
Có một số người cho rằng, không nên giáo dục giới tính, vì như thế là làm hoen ố
tâm hồn thanh cao của các em, là thiếu tế nhị, không phù hợp với môi trường sư phạm,
là “vẽ đường cho hươu chạy”.
IU. I. Kusniruk và A.P. Serbakov đã nhận xét về quan niệm đó: “Trước đây trong
một thời gian dài có một số ý kiến cực kỳ sai lầm, cho rằng con người có khả năng tự
định hướng một cách tự nhiên và hầu như tự động trước những van đề thuộc quan hệ
thầm kín giữa nam và nữ; rằng việc thảo luận rộng rãi và toàn diện đề tài này, việc tuyên
truyền những kiến thức, dù trên cơ sở khoa học chăng nữa, cũng đều là thiếu đạo đức,
dung tục và có khả năng đưa đến những quan tâm không lành mạnh về vấn đề quan hệ
nam nữ và đưa đến tình trạng suy đồi đạo đức”.
Trong khi đó “chính việc thiếu kiến thức về những vấn đề này, cũng giống như mọi
tình trạng dốt nát khác, lại là điều nguy hiểm và có phương hại đến tâm lí và đạo đức con
người”.
Gần đây, việc nghiên cứu về giáo dục giới tính đã được xã hội quan tâm nhiều, và
được tiến hành một cách hệ thống, khoa học. Dần dần, vấn đề này đã ngày càng được
đánh giá đầy đủ, đứng đắn hơn. Quan niệm về giáo dục giới tính ngày càng hoàn thiện,
cụ thể, rõ ràng.
Theo A.G. Khrivcova, D.V. Kolexev, “Giáo dục giới tính là một quá trình hướng nào
việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng như khuynh hướng phát
triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết của con người đối với người khác”.
Theo A.V. Petrovxki, giáo dục giới tính là hệ thống các biện pháp y khoa và sư
phạm nhằm giáo dục cho thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên có thái độ đúng đắn đối với
các vấn đề giới tính.
Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, Giáo sư Đặng Xuân Hoài cho rằng, giáo dục giới tính có
phạm vi rất rộng lớn, tác động toàn diện đến tâm lí, đạo đức con người, “là hình thành
tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh vực thầm kín của đời sống con
người, hình thành những quan niệm đạo đức lành mạnh giữa em trai và em gái, thanh
nam và thanh nữ, giáo dục những sự “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần khiết và tươi mát
về đạo đức trong tình cảm của các em”.
Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của phức hợp các vấn đề giáo dục nhân
cách, giáo dục con người mới, con người phát triển toàn diện, kết hợp một cách hữu cơ
hài hoà sự phong phú về tinh thần, sự thuần khiết về đạo đức và sự hoàn thiện về thể
xác. Theo A.X. Makarenko, “khi giáo dục cho đứa trẻ tính ngay thẳng, khả năng làm việc,
tính chân thật, tôn trọng người khác, tôn trọng những cảm xúc và hứng thú của họ là
chúng ta đã đồng thời giáo dục nó về quan hệ giới tính”.
Trong đời sống giới tính, tính dục có một vị trí rất quan trọng. Việc giáo dục tính
dục là một bộ phận không thể thiếu của giáo dục giới tính. Nó không những đặt cơ sở
các chuẩn mực về đạo đức cho tình yêu mà còn cung cấp những kiến thức nhất định về
sinh học và tâm lí học tính dục. Trong giáo dục về tính dục, việc giáo dục sức khoẻ sinh
sản là một vấn đề đang được quan tâm đặc biệt hiện nay. Nó là một bộ phận quan trọng
và có ý nghĩa rất lớn trong giáo dục giới tính.
Đời sống giới tính liên quan mật thiết với mối quan hệ giữa hai giới, với hôn nhân và
đời sống gia đình. Giáo dục giới tính cũng là quá trình trang bị cho các em biết bách
quan hệ, xử sự đúng mực với người khác giới, biết cách thể hiện mình cho phù hợp với
giới tính, có những tư thế tác phong đúng đắn.
Giáo dục giới tính còn cung cấp cho thanh thiếu niên những kiến thức về mối quan
hệ với những người khác giới, về tình bạn khác giới và tình yêu nam nữ, đời sống hôn
nhân và gia đình.
Giáo dục giới tính liên hệ mật thiết với giáo dục đời sống gia đình, giúp cho các em
những tri thức của đời sống vợ chồng, mối quan hệ với các thành viên trong gia đình, biết
cách xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Bản thân cuộc sống gia đình, cuộc sống
vợ chồng cũng liên quan mật thiết với đời sống giới tính, tình dục, bởi vậy không nên và
không thể tách rời giáo dục giới tính với giáo dục đời sống gia đình.
Giới tính cũng gắn liền với nhân cách con người. Giáo dục giới tính quan hệ mật
thiết với giáo dục nói chung, với việc phát triển nhân cách toàn diện. Nhiều nhà khoa học
còn cho giáo dục giới tính gắn liền với giáo dục nhân cách, đạo đức, là một bộ phận của
giáo dục đạo đức, chuẩn bị cho con người bước vào đời sống xã hội. Giáo dục giới tính
làm cho con người sống có văn hoá, biết làm chủ những hành vi và khát vọng của mình
trong quan hệ với người khác giới. Làm cho con người biết tôn trọng người khác, tôn
trọng bạn khác giới, tôn trọng phụ nữ và từ đó biết tôn trọng chính bản thân mình. Giáo
dục giới tính làm cho con người biết xử sự đúng mực với mọi người, có hành vi, cử chỉ,
tư thế tác phong phù hợp với giới tính của mình theo các chuẩn mực đạo đức, văn hoá,
xã hội.
Giáo dục giới tính là một bộ phận quan trọng của giáo dục nhân cách, góp phần
giúp cho con người phát triển cân đối và toàn diện. Giáo dục giới tính nhằm hình thành
cho thế hệ trẻ những phẩm chất của giới tính, giúp cho các em biết cách cư xử đúng
đắn, có thái độ có thói quen giao tiếp lịch sự trong quan hệ với người khác giới, chuẩn bị
kiến thức và kĩ năng cho các em bước vào cuộc sống xã hội, cuộc sống vợ chồng và biết
tổ thức cuộc sống gia đình hạnh phúc trong tương lai.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Gia, giáo dục giới tính phải được xem xét như là một
bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật thiết với giáo dục dân
số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân – gia đình và với các mặt giáo dục khác trong nhà
trường phổ thông. Do vậy cần phải tiến hành công tác giáo dục giới tính một cách đồng
thời, đồng bộ trong mối quan hệ có tính chất hệ thống với các mặt giáo dục khác.
Có thể nói rằng, giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức tư tưởng và
phải tiến hành trên cơ sở của giáo dục đạo đức tư tưởng. Giáo dục giới tính cũng phải
gắn bó mật thiết với các mặt giáo dục khác trong nền giáo dục toàn diện.
Từ những quan niệm trán có thể đi tới kết luận: “Giáo dục giới tính là quá trình giáo
dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng
đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp sống văn hoá giới tính, hướng hoạt đồng của
họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho
họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội
phát triển”.
2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người
Một vấn đề quan trọng đặt ra là nên giáo dục giới tính cho con người vào thời điểm
nào? Một số quan niệm cho rằng, chỉ nên giáo dục giới tính khi các em đã trưởng thành.
Một số khác lại đòi hỏi phải giáo dục giới tính cho con người khi bước vào lứa tuổi dậy
thì. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nhà khoa học đều thống nhất rằng, nên giáo dục giới tính
cho con người càng sớm càng tốt.
– Giới tính xuất hiện từ rất sớm ở con người, bởi vậy để con người phát triển toàn
diện và tốt đẹp, cũng cần giáo dục giới tính từ rất sớm. “Giáo dục giới tính thì có thể và
cần phải bắt đầu càng sớm càng tốt từ khi trẻ mới rời nhà hộ sinh”. Giáo sư Trần Trọng
Thuỷ cũng có quan điểm tương tự: Cũng như mọi vực giáo dục khác, giáo dục giới tính
phải được tiến hành ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời con người (tất nhiên, ở
mỗi lứa tuổi phải có nội dung và hình thức thích hợp).
– Tuy nhiên, đối với tuổi dậy thì, giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đây là lứa tuổi có nhiều biến động to lớn trong đời sống tâm lí cơ thể, lứa tuổi diễn ra
quá trình chín muồi tính dục. Giáo dục giới tính trong thời kì này có tác dụng rất to lớn
trong cuộc sống. Nó tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em.
Giáo dục giới tính cho tuổi thiếu niên và tuổi thanh niên là rất quan trọng vì các em đã
bước sang thời kì phát dục và ở thời kì này, gia đình và nhà trường giúp đỡ các em
được nhiều nhất.
Do hiện tượng “gia tốc” phát triển về lứa tuổi, do đời sống kinh tế ngày càng được
nâng cao và ổn định, sự phát triển về giới tính ở con người ngày càng nhanh và càng
sớm hơn. Ngày nay, thậm chí ngay từ 10, 12 tuổi, có khi còn sớm hơn, nhiều em đã bắt
đầu quan tâm đến một số vấn đề của đời sống tinh dục, của quan hệ yêu đương thầm kín
như người lớn. Đôi khi các em còn bắt chước hoặc thể nghiệm những cảm xúc của chính
mình. Vì thế, việc giáo dục giới tính đối với các em là rất cần thiết.
Như vậy giáo dục giới tính phải được tiến hành càng sớm càng tốt ở mỗi lứa tuổi
nhất định, cần có những nội dung, chương rình, phương pháp giáo dục thích hợp. Tuy
nhiên, tuỳ theo diễu kiện của từng quốc gia, từng vùng, từng thời kì… việc giáo dục giới
tính có thể bắt đầu ở những lứa tuổi khác nhau.
Trong tình hình và điều kiện hiện nay ở nước ta, giáo dục giới tính đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng từ độ tuổi 13, 14 đến 18, 20 tuổi.

Created by AM Word2CHM
II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Giáo sư I.X. Kon cho rằng “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống
gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục giới tính”. Nhưng
giáo dục giới tính không phải là cấm đoán thanh niên bước vào chuyện yêu đương,
chuyện tình dục. Theo I X Kon, “Nhiệm vụ không phải là giữ cho thanh niên nam nữ tránh
chuyện tình dục – không thể và không nên làm như vậy”, mà là làm thế nào để dạy cho
các em biết được một cách đúng đắn vấn đề quan trọng ấy trong cuộc sống của xã hội
và cá nhân. Điều đó có nghĩa là học sinh trung học phổ thông không những phải biết sinh
lí học giới tính, mà còn phải có hiểu biết rõ ràng về các mặt xã hội và tâm lí của vấn đề.
Giáo dục giới tính phải dẫn các em tới tính cảm trách nhiệm về đạo đức và về xã hội của
người lớn, kêu gọi các em cân nhắc thận trọng, nghiêm túc trong tình cảm của mình
(“yêu” hay “thích”), giúp các em trưởng thành về mặt xã hội của bản thân, thấy được
những khó khăn do có con sớm, các phức tạp vật chất và các phức tạp khác do kết hôn
sớm gây ra”…
Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, giáo dục giới tính phải giúp cho thế hệ trẻ
em làm chủ được văn hoá đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ qua lại giữa hai giới, và
làm cho họ có được nhu cầu và nguyện vọng tuân theo những tiêu chuẩn đạo đức trong
các mối quan hệ ấy. Việc tuân theo những tiêu chuẩn đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ
giữa hai giới sẽ góp phần quan trọng đối với xã hội, thể hiện ở:
- Mức độ cao của sức khoẻ thể chất và tinh thần của mỗi công dân.
– Nếp sống văn hoá, văn minh lành mạnh, bình đẳng nam nữ, cư xử lịch sự với
người khác giới, và với mọi người trong xã hội.
– Con người có tình yêu hạnh phúc, gia đình bền vững và phát triển, làm tròn nhiệm
vụ sinh con và giáo dục chúng trở nên những thành viên xứng đáng của xã hội.
- Bầu không khí xã hội thuận lợi nhờ mọi công dân đều biết các đặc điểm giới tính
đặc thù của những người khác giới (đặc điểm về thể lực, tinh thần, xúc cảm, cá tính…)
và tôn trọng những đặc điểm đó trong quá trình hoạt động chung.
Như vậy việc giáo dục giới tính vừa có lợi cho từng người, vừa có lợi chung cho mọi
người, cho xã hội.
Theo đó, giáo dục giới tính góp phần giáo dục sứ khoẻ, chống lại các bệnh tật, nhất
là dường tình dục, giáo dục về tính dục, giáo dục về tình yêu, hôn nhân và gia đình, về
sự sinh sản, giáo dục thái độ tôn trọng đối với những người khác giới. “Các em thiếu nhi
và thiếu niên, các chàng trai và các cô gái ở mức độ phù hợp với những đặc điểm lứa
tuổi của mình, cần phải biết và tôn trọng những đặc điểm giới tính đặc thù của các bạn
cùng tuổi khác giới coi những đặc điểm ấy là hoàn toàn tự nhiên và thực tế có lợi cho xã
hội đồng thời phải hiểu đúng đắn bản có của nguyên tắc nam nữ bình quyền”.
Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, nhiệm vụ của giáo dục giới tính là:
+ Giáo dục niềm tin trong lĩnh vực các quan hệ thân thiết với người khác giới, con
người không phải độc lập với xã hội, không thể hoàn toàn tách biệt các quan hệ giữa hai
giới thành các quan hệ xã hội. Đồng thời còn phải giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội của
con người (thiếu nhi, thiếu niên, thanh niên) đối với từng hành động của mình.
+ Giáo dục niềm mong muốn có một gia đình bền vững, khoẻ mạnh thân ái, nhu cầu
có con hợp lí, có ý thức và khả năng giáo dục con cái.
+ Giáo dục ý thức tôn trọng đối với những người khác, với những người nam giới
và nữ giới, giáo dục khả năng chú ý và tôn trọng những đặc thù và những mối quan tâm
của cả hai giới.
+ Giáo dục khả năng và ý muốn đánh giá các hành động của mình đối với những
người khác, không phải chỉ với mọi người nói chung, mà còn đối với những người thuộc
giới nhất định. Có được khái niệm đâu là hành động tốt, đâu là hành động xấu trong lĩnh
vực các quan hệ ấy.
+ Giáo dục thái độ trách nhiệm đối với sức khỏe của mình và đối với người khác,
hình thành quan niệm về tác hại của các mối quan hệ tình dục quá sớm và quan niệm
không chấp nhận thái độ vô trách nhiệm và nhẹ dạ trong lĩnh vực các quan hệ với những
người khác giới.
+ Tạo thái độ phê phán đối với những nếp ăn chơi đàng điếm, những sinh hoạt thiếu
lành mạnh trong các quan hệ qua lại giữa nam và nữ, đối với những định hướng sai lầm
trong quan hệ với người khác giới, thói hưởng thụ, thói tư hữu, tính ích kỉ…
+ Giáo dục quan niệm đúng đắn về sự trưởng thành cùng với nội dung và các dấu
hiệu đích thực của nó (nhất là quan niệm về sự cư xử ra đời sống tính dục).
Theo tác giả Nguyễn Thị Đoan, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:
a) Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội trong quan hệ giới tính con người.
b) Giáo dục khả năng hiểu biết những đặc điểm giới tính trong quá trình cùng hoạt
động chung với các bạn khác giới. Biết tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
c) Bồi dưỡng những hiểu biết về hành vi tốt xấu, cái cho phép và cái không thể vượt
qua trong quan hệ với người khác giới. Biết tự đánh giá hành vi của ninh trong quan hệ
với người khác giới.
d) Bồi dưỡng những hiểu biết đúng đắn về sự trưởng thành sinh lí của con người
(bao gồm nội dung, những dấu hiệu thực sự thể hiện của nó).
e) Bồi dưỡng ý thức trách nhiệm đối với sức toẻ của bản thân và của người khác, ý
thức được tác hại của việc kết hôn sớm.
f) Bồi dưỡng tinh thần phê phán và thái độ không khoan nhượng đối với những tàn
tích và quan điểm đạo đức phong kiến tư sản trong phạm trù quan hệ giới tính.
Như vậy nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm cả việc truyền thụ tri thức về giới
tính, về mối quan hệ nam nữ và các mối quan hệ khác (với người lớn, với gia đình, xã hội
bản thân…) và cả việc giáo dục những phẩm chất đạo đức, những hành vi cư xử với mọi
người, nhất là làm cho các em biết được những hành vi tốt và xấu, đúng và sai trong
quan hệ với người khác giới, những tri thức và quan niệm đúng đắn về đời sống giới tính
con người. Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Bích Ngọc đã đi sâu vào hai nhiệm vụ cơ bản.
Thứ nhất, giáo dục giới tính cần phải giúp con người biết phê phán, bác bỏ những
quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính như:
– Phê phán, bác bỏ, những nhận thức đúng đắn về bản năng sinh dục, về quan hệ
tình dục, về khuynh hướng “giải phóng tình dục”, “cách mạng tình dục” hoặc xu hướng
tiêu cực, phó mặc mọi chuyện “cho nó đến đâu thì đến”, dẫn đến sự tan vỡ của nhiều
cuộc hôn nhân.
- Phân tích, phê phán những tư tưởng và những hành vi không lành mạnh: quan hệ
tình gục bừa bãi, yêu nhau, lấy nhau, bỏ nhau quá dễ dàng, thiếu ý thức trách nhiệm đối
với việc xây dựng gia đình, xã hội giống nòi, chỉ chạy theo khoái cảm…
– Giải quyết được những băn khoăn e ngại, cho rằng giáo dục giới tính sẽ chỉ làm
cho thanh thiếu niên bị kích thích không lành mạnh, chỉ làm cho các em hư hỏng. Cần
phải làm cho mọi người thấy rằng, bản năng tính dục có sức thúc đấy mãnh liệt đến độ,
nếu ta không giáo dục cho con người, thì bản thân họ, đến một lúc nào đó, sẽ tự tôn
hiểu, tự đi tới những vấn đề đó qua nhiều nguồn thông tin không chính thức, và như vậy,
sẽ có thể dẫn tới những hậu quả không tốt.
Thứ hai, giáo dục giới tính phải giúp cho con người hình thành được những tri thức,
những quan niệm đúng đắn, khoa học, phù hợp, có tác dụng tốt cho họ và xã hội. Bao
gồm:
– Tri thức đúng đắn khoa học về sinh lí cơ thể, đời sống tính dục, cả về cấu tạo
chức năng, cả về các giai đoạn phát triển của nó… để họ có thể vận dụng những tri thức
này vào cuộc sống, vào việc bảo vệ sức khoẻ sắc đẹp và đời sống hạnh phúc.
– Những tri thức đúng đắn khoa học về đời sống tâm lí, tâm lí tình dục, tâm lí giới
tính…
- Những tri thức đúng đắn khoa học về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia đình, về
đạo lí, tâm lí xã hội, về cách cư xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, với
người khác giới, với người yêu, người vợ người chồng, cha mẹ, con cái, việc sinh đẻ và
nuôi dạy con cái.
– Chính sách dân số của Nhà nước.
Có thể đi đến kết luận, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:
– Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ và quan
niệm đúng đắn về những hiện tượng của đời sống giới tính sinh lí tính dục, về cấu trúc và
chức năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ cơ quan sinh dục; về sự cư xử
đúng đắn phù hợp trong các mối quan hệ với mọi người, với người khác giới, về những
vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, tinh yêu, hôn nhân và đời sống gia đình…
– Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, biết bảo vệ,
giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng chống chọi lại những
cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi trụy, biết phê phán, bác bỏ những quan niệm
không đúng về tình yêu, tình dục, quan hệ tình dục quá sớm hoặc buông xuôi cả nể, dẫn
tới quan hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, bỏ nhau quá dễ dàng.
– Giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và thiêng liêng
của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung thủy, biết được cái hay
cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.
– Chuẩn bị về tinh thần và khá năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp cho họ phát triển
nhân cách toàn diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, nâng
cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và thúc đẩy xã hội phát triển, giàu mạnh.

Created by AM Word2CHM
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính


Nội dung của giáo dục giới tính trước hết là phải giúp cho việc thực hiện những
nhiệm vụ của giáo dục giới tính. Nó “được quy định bởi các mục đích và nhiệm vụ của
giáo dục giới tính”. Nó cũng bị chi phối bởi những nguyên tắc chung của hoạt động giáo
dục của các hoạt động sư phạm. Theo Giáo sư A.V. Petrovxki, Những nguyên tắc chung
của công tác giáo dục đều được áp dụng trong giáo dục giới tính. Ciáo dục giới tính phải
là bộ phận hợp thành ủa toàn bộ các biện pháp giáo dục được thực hiện ở gia đình, ở
nhà trường…”.
Nội dung của giáo dục giới tính và ngay cả việc xác định những nội dung trong hệ
thống giáo dục chung đều rất phức tạp. Nhiều tác giả đều đã đưa ra những yêu cầu,
những nguyên tắc nhất định khi lựa chọn những nội dung giáo dục giới tính. Trong đó,
đặc biệt phải chú ý đến mối quan hệ của giáo dục giới tính với các mặt giáo dục khác
nhất là giáo dục đạo đức, phải chú ý đến mục đích giáo dục, đến đặc điểm của đối
tượng, của phong tục tập quán địa phương và nhiều yếu tố tâm lí xã hội, sinh lí khác.
Đặc biệt giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, phải phù hợp với đối
tượng. “Các vấn đề thực về giáo dục giới tính phải gắn chặt với hệ thống chung của công
tác giáo dục đạo đức”. “Cần phải phân loại một cách chặt chẽ việc giáo dục giới tính tuỳ
theo giới lứa tuổi, mức hiểu biệt của trẻ, cũng như cần phải đảm bảo tính kế tục của giáo
dục giới tính”.
Việc lựa chọn nội dung giáo dục giới tính phải phục vụ cho mục đích giáo dục
chung, phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhân cách. Giáo sư I.X.
Kon khẳng định rằng: “dù xác định mối tương quan giữa giáo dục giới tính và giáo dưỡng
giới tính như thế nào đó chăng nữa thì cả hai thứ đều phải tuân theo mục đích chung của
giáo dục”.
Do giới tính gắn bó mật thiết với đạo đức xã hội, với phong tục tập quán địa
phương, nội dung giáo dục giới tính còn phải phù hợp với những điều kiện xã hội, đời
sống đạo đức và phong tục tập quán xã hội. “Mỗi một thời đại lich sử của sự phát triển
loài người đều đề ra một kiểu quan hệ giới tính giữa nam và nữ, bởi và những quan hệ
này mang tính chất xã hội, được gắn liền với hệ tư tưởng, đạo đức thẩm mĩ, tôn giáo…”.
Có những nội dung có thể cần tiến hành giáo dục ở nước này, vùng này, nhưng lại không
nên hoặc không thể áp dụng ở nước khác, vùng khác. Đây là một sự khác biệt quan
trọng giữa giáo dục giới tính với giáo dục các lĩnh vực khoa học khác. Do đó, việc xác
định những nội dung giáo dục giới tính phù hợp với từng thời kì, từng địa phương, phong
tục tập quán, hoặc làm cho những nội dung đó được chấp nhận ở địa phương là rất quan
trọng. Có nhiều vùng, nhiều nước trên thế giới (trong đó có nước ta), việc giáo dục giới
tính rộng rãi công khai là một việc khó khăn, do thành kiến của xã hội, của nhiều người
đối với vấn đề này. Nguyên nhân chính là do họ có quan niệm sai lầm về giới tính và giáo
dục giới tính trong xã hội. Họ cho rằng, “việc bàn luận rộng rãi và toàn diện về vấn đề đó,
cũng như việc tuyên truyền các trí thức – ngay cả các trí thức khoa học về nó cũng đều
là vô đạo đức, là tục tĩu, và chỉ làm nảy sinh sự quan tâm không lành mạnh đến vấn đề
quan hệ qua lại giữa nam và nữ, làm cho đạo đức suy đồi mà thôi”. Như vậy, đối với họ,
việc giáo dục giới tính chỉ làm kích thích dục tính ở trẻ em, sẽ làm “hoen ố tâm hồn trong
trắng”, làm “các em trở thành hư hỏng”. Tác giả Nguyên Bích Ngọc cũng khẳng định: “Ở
những nước còn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của tôn giáo hoặc hệ tư tưởng phong
kiến, trong một thời gian dài vẫn còn một số quan niệm cực kì sai lầm cho rằng, việc giáo
dục giới tính là thiếu đạo đức, dung tục, có khả năng đưa đến những quan niệm không
lành mạnh trong quan hệ nam nữ và đưa đến tình trạng suy đồi về đạo đức. Thậm chí,
tất cả những gì dính líu tới quan hệ tình dục giữa nam và nữ đều bị cấm kị, khinh miệt,
tránh né, và che đậy”.
Tác giả Nguyễn Thị Đoan đã đưa ra một số nguyên tắc quan trọng của giáo dục
giới tính: phải được tiến hành trên nền tảng giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phải
dựa trên “quy luật” của hoạt động tính dục, nhằm chủ động hướng dẫn sự phát triển giới
tính của thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo con người mới, phải phù hợp với đặc điểm đối
tượng, với lứa tuổi nghề nghiệp, địa phương, phong tục tập quán…
Vì thế việc lựa chọn nội dung giáo dục giới tính phải rất thận trọng, phù hợp. Nó
phải tuân theo những yêu cầu, những nguyên tắc chung được quy định bởi mục đích,
nhiệm vụ của giáo dục giới tính và giáo dục toàn diện, lại phải phù hợp với đặc điểm riêng
của đối tượng, phong tục tập quán, điều kiện sống, kinh tế, xã hội…
Ở đây chúng tôi tập tung trình bày nội dung chung của giáo dục giới tính và một số
vấn đề về nội dung giáo dục giới tính theo lứa tuổi.
2. Nội dung chung của giáo dục giới tính
Theo Giáo sư G.I. Gheraximovic, nội dung giáo dục giới tính có thể bao gồm các
vấn đề:
- Các vấn đề liên quan đến thuộc tính về giới của trẻ, đến ý nghĩa của thuộc tính
này đối với cá nhân và đối với xã hội.
– Các vấn đề của gia đình và của các quan hệ trong gia đình, ý nghĩa của các vấn
đề đối với trẻ, cũng như đối với toàn xã hội.
- Các vấn đề của việc trẻ ra đời và tính kế tục của các thế hệ.
– Các vấn đề thuộc đạo đức giới tính.
– Các vấn đề vệ sinh giới tính.
– Quan điểm trên của G.I. Gheraximovic cho thấy giáo dục giới tính gắn liền với
giáo dục đời sống gia đình. Thực tế cho thấy khó có thể và không nên tỉnh binh hai quá
trình giáo dục này, vì đời sống giới tính và đời sống gia đình gắn bó mật thiết, hữu cơ với
nhau. Nhiều vấn đề của đời sống gia đình là những vấn đề của đời sống giới tính và
ngược lại. Các nhà khoa học thường kết hợp hai quá trình này với nhau, và ngày nay (cả
ở nước ta) chúng thường gọi thành một cái tên thống nhất: Giáo dục giới tính và Đời
sống gia đình.
Giáo sư Trần Trọng Thuỷ cũng xác định nội dung của giáo dục giới tính bao gồm
những vấn đề về tính dục, trong đó bao gồm cả sự biến đổi về đặc điểm tính dục trong
các giai đoạn phát triển cơ thể kể cá những hiện tượng kinh nguyệt, mộng tinh, chế độ vệ
sinh kinh nguyệt, những rối loạn của đời sống tính dục, vấn đề tình dục… những vấn đề
về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia đình, những mối quan hệ giữa nam và nữ, sự cư xử
đối với nhau trong đời sống và trong gia đình, những tri thức khoa học cũng như thái độ
chung của con người về các vấn đề đó, nhất là cách thức xây dựng gia đình hạnh phúc,
quan hệ của đời sống tính dục nói chung, quan hệ vợ chồng nói riêng, với đời sống tâm lí,
xã hội, với tình cảm và nhân cách… “Chiều sâu vẻ đẹp tâm hồn của tình cảm không chỉ
phụ thuộc vào các đặc điểm giới tính của người mình yêu mà còn phụ thuộc cả vào
những đặc điểm nhân cách của họ, vào những phẩm chất con người, và mức độ phát
triển thế giới tinh thần của họ. Một người mà không phát triển về tâm hồn, thì sự phát
triển về tính dục không tốt đẹp. Họ không thể có hạnh phúc trong cuộc sống riêng”.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Gia và tác giả Minh Đức, nội dung giáo dục giới tính
cho con người phải “tùy theo các đặc điểm lứa tuổi trình độ cấp học… cũng như sự
trưởng thành về cuộc sống gia đình”, nhưng cũng phải bảo đảm những vấn đề chủ yếu
như: vấn đề tình bạn khác giới và tình yêu, quan hệ cư xử, tình dục trong tình yêu, những
biểu hiện về tâm sinh lí giới tính, những đặc điểm về tình dục, về vệ sinh giới tính, bệnh lí
giới tính, những vấn đề tính dục, hôn nhân, sinh đẻ, hạnh phúc gia đình, kế hoạch hoá gia
đình, giáo dục con cái, dân số học…
Theo Lê Năng An “Nội dung giáo dục giới tính khá rộng, đề cập tới các vấn đề:
Những đặc điểm của tuổi thơ, tuổi thanh niên, giới nam và giới nữ, để chuẩn bị cho cuộc
sống gia đình, mối quan hệ giữa trẻ em và người lớn, giữa trẻ em với nhau, đặc điểm
tâm lý của giới nam và giới nữ”.
Tóm lại, nội dung của giáo dục giới tính có thể bao gồm những vấn đề sau:
1. Đặc điểm tâm sinh tí con người có những đặc điểm về sinh lí tính dục, với những
hiện tượng điển hình như: sự phát triển sinh lí cơ thể chiều cao, cân nặng, cấu trúc và
chức năng của hệ cơ quan sinh dục, đời sống tình dục, kinh nguyệt, sinh nở, cho con bú,
những kiến thức về sức khoẻ, sinh đẻ có kế hoạch, các bệnh thông thường và bệnh liên
quan đến đường tình dục (sức khoẻ sinh sản)…
2. Đặc điểm giới tính về đạo đức, xã hội, thẩm mỹ như: cách cư xử với mọi người,
với bạn khác giới, tác phong tư thế, phẩm chất đạo đức theo giới tính, quan niệm về cái
đẹp, sự rèn luyện để tạo nên cái đẹp chân tình và vững bền, vấn đề chọn nghề, những
vấn đề quan hệ xã hội, pháp luật liên quan đến cuộc sống gia đình như luật hôn nhân gia
đình, trách nhiệm của con người trong gia đình và xã hội, phương hướng rèn luyện của
con người về mặt giới tính, những đặc điểm về đời sống tâm lí con người, tâm lí giới tính
theo lứa tuổi…
3. Những vấn đề về quan hệ bạn khác giới và tình yêu nam nữ như: Bản chất của
tình yêu, sự cư xử trong tình yêu, quy luật của tình yêu, xây dựng tình bạn, tình yêu chân
chính…
4. Những vấn đề về hôn nhân và đời sống gia đình như bản chất của hôn nhân, điều
kiện để có hôn nhân hạnh phúc, cuộc sống gia đình, sự chuẩn bị cho cuộc sống gia đình,
cách xây dựng một gia đình hạnh phúc…
Hiện nay, nhiều nhà giáo dục thường quan tâm nhấn mạnh đến việc giáo dục sức
khoẻ sinh sản, giáo dục tình dục, giáo dục tình yêu và hôn nhân… Đó là những biểu hiện
cơ bản của đời sống giới tính được kết hợp hoặc tích hợp theo một định hướng, một
trọng tâm cơ bản, một mục tiêu giáo dục nào đó. Và đó cũng là những nội dung nhất
định, điển hình của đời sống giới tính.
Những nội dung trên cần được thực hiện theo hình thức tổ chức giáo dục
thích hợp, cho những đối tượng thích hợp và theo từng điều kiện hoàn cảnh thích
hợp.
3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng
Theo A.V. Petrovxki, I.X. Kon, G.I. Gheraximovic, Trần Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng
Gia… khi tiến hành giáo dục giới tính, cần phải dựa vào đối tượng giáo dục để lựa chọn
nội dung thích hợp. Giáo sư Phạm Hoàng Gia và tác giả Minh Đức cho rằng có thể “tạm
xác định 3 loại đối tượng chính mà sự khác nhau về nội dung giáo dục giới tính khá rõ rệt
là: Học sinh phổ thông (từ 13 đến 18 tuổi); thanh niên ở độ tuổi đang yêu (sinh viên, học
sinh các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật…) và những
người đã xây dựng gia đình (từ 22, 23 đến 30, 35 tuổi)”. Tác giả Bùi Ngọc Oánh nêu lên
4 loại đối tượng chính của giáo dục giới tính trong tình hình hiện nay ở nước ta như sau:
Loại thứ nhất: lứa tuổi mới lớn, bao gồm thanh niên, học sinh từ trung học cơ sở
trở lên, nhất là học sinh trưng học phổ thông, sinh viên năm đầu của đại học (từ khoảng
13, 14 tuổi đến 20, 22 tuổi); Loại thứ hai: tuổi trưởng thành chuẩn bị lập gia đình, từ
khoảng 18, 20 tuổi trở lên (đối với người chuẩn bị lập gia đình) hoặc 20 – 22 trở lên (nếu
là sinh viên, học sinh các trường cao đẳng, trung học thuyên nghiệp); Loại thứ ba: thanh
niên đã có gia đình bao gồm tất cả những thanh niên đã kết hôn; Loạt thứ tư: giáo viên
và những người làm công tác giáo dục giới tính.
Đối với mỗi đối tượng như vậy, có những nội dung thích hợp riêng.
Riêng đối với đối tượng học sinh, sinh viên đang đi học, nội dung giáo dục giới tính
có khác so với thanh niên đã vào đời. Giáo sư Phạm Hoàng Gia và tác giá Minh Đức đã
xác định khá cụ thể những nội dung thích hợp cho các đối tượng này.
Tác giả Bùi Ngọc Oánh cũng đã xây dựng một chương trình giáo dục giới tính cụ
thể cho học sinh phổ thông, bao gồm các vấn đề sau đây:
· Đặc điểm sinh lí giới tính.
· Đời sống tâm lí giới tính con người.
· Thanh niên và đời sống đạo đức xã hội theo giới tính.
· Vẻ đẹp và cách làm đẹp ở thanh niên.
· Giao tiếp trong tình bạn và tình bạn khác giới.
· Tình yêu và việc xây dựng tình yêu chân chính.
· Hôn nhân và đời sống gia đình.
· Sự bùng nổ dân số và kế hoạch hoá dân số.
· Những tri thức quan trọng trong việc thực hiện “kế hoạch hoá gia đình” (kiến
thức về cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, sự thụ thai, các biện pháp tránh thai,
hậu quả của việc có thai sớm…).
· Những bệnh lây qua đường tình dục và cách phòng tránh.
Tuy nhiên, những vấn đề trên không phải được giảng dạy một cách giống nhau cho
tất cả mọi lứa tuổi, mọi cấp học. Đối với mỗi khối lớp khác nhau, cũng cần có những nội
dung khác nhau, căn cứ vào rình độ học sinh (khối lớp nào), nội dung học tập, tình hình
nhà trường, phong tục tập quán, đời sống văn hoá địa phương… Trong việc giáo dục cho
học sinh phổ thông, việc lựa chọn nội dung cho từng khối lớp luôn luôn phải đáp ứng từng
câu hỏi: Dạy cho khối nào (lứa tuổi nào), dạy những nội dung nào? Dạy như thế nào?
(thành môn riêng hay lồng ghép vào các môn khác, dạy ngoại khoá hay chính khóa…).
Trong đó, cần phải đặc biệt thận trọng khi xác định chương trình và nội dung giảng dạy
những chủ đề có tính “nhạy cảm” như tình dục, tình yêu… Ngoài ra còn phải tính đến dư
luận phụ huynh, xã hội ở từng vùng, từng địa phương, nông thôn, thành thị.
Các tác giả: Giáo sư G.I. Gheraximovic và Tiến sĩ D.V. Kolexev còn xây dựng một
thương tình rất cụ thể cho các đối tượng đang đi học ở và trường phổ thông bao gồm:
trẻ chưa đến tuổi đi học, học sinh tiểu học, học sinh trung học cơ sở, học sinh trung học
phổ thông… Ở nhiều nước, việc xây dựng chương trình giới tính cho từng loại độ tượng,
khối lớp cũng được tiến hành rất tỉ mỉ, cụ thể luật ở Đức, ở Phillppines và nhiều nước
khác.
Ngày nay việc giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông càng trở nên cần thiết và
quan trọng. Các bậc phụ huynh khó có điều kiện giáo dục tốt vấn đề này cho con em của
họ “Không thể hi vọng vào chỗ gia đình đảm nhiệm tốt chức năng giáo dục giới tính…
Nhiều bậc cha mẹ than phiền không biết kể cho con nghe chuyện bí mật của giới tính như
thế nào. Và thường người lớn cũng không biết kể cái gì và khi nào. Kinh nghiệm bản thân
thì không đủ, sách vở khoa học về vấn đề này thì ít – Thậm chí dù có đủ tài liệu, các bậc
cha mẹ cũng phải khước từ đàm đạo (với con cái) về chuyện này”. Theo ông, phải có
người được đào tạo chuyên biệt, thầy cô giáo hay bác sĩ làm việc giáo dục giới tính này
mới có hiệu quả cao.
Có thể kết luận rằng, việc xác định thương trình nội dung giáo dục giới tính phù hợp
với phong tục tập quán, dư luận xã hội và nhất là phù hợp với đối tượng học sinh phổ
thông có ý nghĩa to lớn. Nó góp phần thực hiện tốt hoạt động giáo dục này, cũng như
thực hiện tốt mục đích giáo dục, đào tạo con người phát triển toàn diện. Việc giáo dục
giới tính cần phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lí, có phương pháp và hình
thức giảng dạy trình hợp. Hoạt động giáo dục này cũng phải được tiến hành bởi những
người có chuyên môn, có trình độ, được đào tạo một cách chu đáo và hệ thống, giống
như việc giáo dục, giảng dạy những bộ môn khoa học khác trong nhà trường.
4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông
Việc xây dựng nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông đã
được sự quan tâm nhiều của các nhà khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu đều thống
nhất rằng, cần có chương trình giáo dục giới tính theo từng lứa tuổi, từng cấp học. Cụ
thể, có thể theo các lứa tuổi sau:
– Nội dung Giáo dục giới tính cho trẻ em trước tuổi đi học.
– Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh tiểu học.
- Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
– Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi học sinh trung học phổ thông.
- Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi thanh niên trưởng thành.
- Nội dung Giáo dục giới tính cho lứa tuổi người lớn.
Việc xây dựng những nội dung cụ thể chương trình giáo dục giới tính cho từng lứa
tuổi như trên đang được quan tâm và triển khai.
Năm 1990, Chương trình Quốc gia nghiên cứu về Giáo dục giới tính và Đời sống
gia đình đã xây dựng chương trình giáo dục giới tính cho học sinh trung học cơ sở và
trung học phổ thông, trước hết, tập trung vào lứa tuổi từ lớp 9 đến lớp 12, theo nội dung
cụ thể sau đây:
- Chương trình lớp 9 bao gồm các chủ điểm:
· Giới tính và sự khác biệt nam nữ.
· Những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.
· Những biến đổi tâm lí ở tuổi dậy thì.
· Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam.
· Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nữ.
· Hiện tượng kinh nguyệt.
· Sự thụ thai và phát triển thai.
· Gia đình.
· Các mối quan hệ gia đình.
- Chương trình lớp 10 bao gồm các chủ điểm sau:
Gia đình (khái niệm và chức năng).
· Các giai đoạn phát triển của gia đình.
· Các mối quan hệ gia đình.
· Cách cư xử trong các mối quan hệ gia đình.
· Bổn phận làm con.
· Tình người.
· Tình bạn.
- Chương trình lớp 11 gồm các chủ điểm:
· Tình yêu.
· Hôn nhân.
· Một số vấn đề trong luật Hôn nhân và Gia đình.
· Quản lí gia đình.
· Quản lí sử dụng của cải trong gia đình.
· Trách nhiệm làm cha mẹ.
- Chương trình lớp 12 gồm các chủ điểm:
· Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam, nữ.
· Sự thụ thai và phát triển của thai.
· Dấu hiệu thai nghén và sự sinh con.
· Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai.
· Các bệnh lây lan qua đường tình dục.
· Có thai ở tuổi vị thành niên và các hậu quả.
· Vấn đề của vợ chồng trẻ.
· Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh
Việc xây dựng những chương trình trên đã được triển khai, giảng dạy thí điểm tại
các trường ở 17 tỉnh, thành phố trong cả nước. Sau đó đã biên soạn thành sách giáo
khoa cho học sinh từ các lớp 9 đến lớp 12 và sách hướng dẫn giảng dạy các chủ điểm
trên cho giáo viên.
Việc thực hiện giảng dạy các nội dung trên trong trường phổ thông được tiến hành
theo các hướng:
– Tích hợp (hoặc kết hợp, lồng ghép) với các bộ môn khoa học có liên quan (Sinh
học, Giáo dục công dân…).
- Giảng dạy theo những tiết học riêng.
– Đưa vào nội dung giáo dục ngoài giờ lên lập.
– Kết hợp với các hình thức sinh hoạt ngoại khoá, đặc biệt kết hợp với việc giáo
dục bằng phim ảnh, dẫn kịch, và các loại hình hoạt động nghệ thuật.
– Tổ chức các hoạt động tư vấn học đường.
Vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông dã bắt đầu được sự quan tâm của
các nhà khoa học giáo dục. Tuy nhiên, còn một số tồn tại như:
+ Vẫn còn có những băn khoăn e ngại của một số giáo viên, học sinh và phụ huynh
khi tiếp cận với những bài thuộc về lĩnh vực nhạy cảm (tình dục, tình yêu, cấu trúc hệ cơ
quan sinh dục, kinh nguyệt…), đặc biệt là việc dạy những gì, dạy như thế nào.
+ Hiện nay, vẫn còn nhiều người, nhiều sách báo, tài liệu để cập đến những vấn đề
này một cách lệch lạc, phiến diện, theo chiều hướng đi sâu vào những khía cạnh, kiến
thức có tính hấp dẫn, kích thích trí tò mò của học sinh nhiều hơn là giáo dục ý thức và
thái độ đúng đắn ở các em. Vì vậy, nếu không thận trọng, việc giáo dục những tri thức
này lại có thể gây ra tác dụng phản diện nhiều hơn.
+ Các nội dung khác tuy không khó khăn, phức tạp như những kiến thức trên nhưng
vẫn chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trong một số trường phổ thông. Thậm
chí, một số trường, một số nhà quản lí giáo dục còn bỏ qua hoặc không thực hiện đầy đủ
các nội dung và thời lượng giảng dạy các vấn đề giới tính theo quy định chung (nhất là
những tri thức có tính nhạy cảm) vì nhiều lí do như: dồn thời gian vào dạy những môn mà
họ cho là trọng tâm, quan trọng, nằm trong nội dung thi tốt nghiệp, coi nhẹ những nội
dung tri thức này, hoặc có quan niệm cho rằng những kiến thức này không cần thiết
không nên dạy trong trường phổ thông…
+ Chưa có sách giáo khoa chính thức về giáo dục giới tính, việc tích hợp các kiến
thức giới tính trong các môn có liên quan như Sinh học, Giáo dục công dân… chưa được
thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, chưa được thể hiện rõ ràng trong các sách giáo
khoa. Vì vậy giáo viên không có đủ tài liệu giảng dạy cần thiết.
5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường và người lớn
Vấn đề giáo dục giới tính không những cần thiết phải tiến hành cho học sinh, sinh
viên trong nhà trường mà còn phải thực hiện cho những đối tượng ở ngoài nhà trường
như: thanh niên, cán bộ, công nhân, người đã trưởng thành, các bậc phụ huynh… Trong
thực tế, rất nhiều thanh niên, người lớn có nhu cầu được tìm hiểu, được trang bị những
tri thức về lĩnh vực này. Thậm thí, nhiều bậc phụ huynh cũng rất muốn được tìm hiểu các
tri thức này để giáo dục con cái của mình.
Vì vậy việc xây dựng và xác định những nội dung giáo dục giới tính trình hợp cho
những loại đối tượng trên là rất cần thiết.
Có thể có nhiều hướng biên soạn và thực hiện những chương trình giảng dạy cho
các đối tượng khác ngoài nhà trường phổ thông như:
– Nội dung chương trình giáo dục giới tính cho thanh niên mới lớn và thanh niên
trưởng thành đã có gia đình.
– Nội dung chương trình giáo dục giới tính giảng dạy trong các câu lạc bộ, nhà văn
hoá, các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị của Hội Liên hiệp Phụ nữ các tổ chức Công
đoàn. Chương trình này được biên soạn và giảng dạy theo 2 hình thức:
+ Các chuyên đề đặc biệt thích hợp với các chủ đề giáo dục ở từng thời kì, ở từng
loại đối tượng.
+ Chương trình giáo dục giới tính theo một hệ thống phù hợp với từng loại đối
tượng.

Created by AM Word2CHM
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Việc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng, cần thiết, tuy
nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy ngoài việc phải đảm bảo những
nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn… như các môn học
khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau đây:
– Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách, hình
thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với việc giáo dục và tính
thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá văn minh. Cần phải xác định rằng,
đó là một trong những mục tiêu cơ bản của giáo dục giới tính.
– Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh lí giới tính,
tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính Không nên chỉ tập trung vào những vấn
đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã hội giới tính.
- Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái độ đúng
đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chi tập trung mô tả các sự kiện,
hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà cần chú ý kết hợp với việc tính thành ý
thức đạo đức phê phán những biểu hiện sai trái.
- Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức thực tiễn
nhất là những vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh niên, học sinh.
- Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí
của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng thích hợp với đối tượng, phải
phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương.

Created by AM Word2CHM
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH.

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện nhân cách
Mục đích giáo dục của chúng ta hiện nay là đào tạo con người mới phát triển toàn
diện. Đó chính là con người có nhân cách phát triển về mọi mặt: đạo đức, tài năng, trí
tuệ, có khả năng góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp, phát triển. Nhưng chính những phẩm
chất tốt đẹp của nhân cách, và sự đóng góp hiệu quả của con người đối với xã hội lại phụ
thuộc vào đời sống giới tính của họ. Nhiều phẩm chất nhân cách quan hệ mật thiết với
giới tính, hoặc cũng chính là những đặc điểm của giới tính và ngược lại.
Chính việc thiếu hiểu biết kiến thức về giới tính, về đời sống tính dục, về hôn nhân,
gia đình, làm cho con người dễ mắc vào vòng tội lỗi, làm cuộc sống gia đình của họ
không hạnh phúc, và do đó hạn chế khả năng đóng góp của họ vào việc xây dựng và
phát triển xã hội.
Theo IU.I.Kusniruk và A.P.Serbakov “Chính việc thiếu kiến thức về những vấn đề
này (giới tính và đời sống gia đình) cũng giống như mọi tình trạng dốt nát khác, lại là điều
nguy hiểm và có phương hại đến tâm lí đạo đức con người”. Nhiều nguyên nhân và hoàn
cảnh trở thành tội lỗi của con người chỉ vì họ không hiểu biết gì về tính dục, về đời sống
giới tính và đời sống vợ chồng. Có khi sự không hiểu biết ấy “làm tăng thêm các dạng rối
loạn tính dục khác nhau, là hệ quả tiếp theo dẫn đến sự phá hoại về tâm lí, gây bệnh
hoạn cho hệ thần kinh. Đồng thời không phải chỉ có sức khoẻ con người bị tổn thương,
mà tư cách con người trong gia đình và xã hội cũng bị tổn thương”.
A.V.Petrovxki cũng cho rằng: “Bầu không khí thiếu lành mạnh trong gia đình tạo nên
tính bê tha và thói vô liêm sỉ”. Nhiều vấn đề của giới tính ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển nhân cách. “Tình yêu thực sự là điều kiện quan trọng nhất của sự nảy nở và phát
triển nhân cách con người”. “Khi không có những nguyên tắc đạo đức vững chắc về quan
hệ nam nữ, thì trong khối óc và con tim của thiếu niên sẽ xuất hiện những thái độ tiêu cực
đối với tình yêu, những hứng thú không lành mạnh, thái độ coi thường phụ nữ…”.
Giáo dục giới tính góp phần quan trọng làm nhân cách phát triển toàn diện, làm con
người có điều kiện xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Vì thế, giáo dục giới tính có ý
nghĩa to lớn đến việc thực hiện mục đích giáo dục.
2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể
của thanh thiếu niên
Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể, đặc
biệt là sự phát triển về đời sống tính dục và sự trưởng thành nhân cách của thanh thiếu
niên trong xã hội.
Một số người cho rằng giáo dục giới tính cho học sinh làm cho các em bị “kích
thích dục vọng”, “làm hoen ố tâm hồn trong trắng”, hoặc “vẽ đường cho hươu chạy”.
Đó là những quan niệm rất sai lầm.
Trong quy luật phát triển cơ thể con người, từ khoảng 12, 13 tuổi trở đi sự dậy thì
sẽ làm các em quan tâm đến các vấn đề giới tính và tính dục, nhất là khi các em bước
vào giai đoạn chín muồi giới tính (từ độ tuổi 14, 15 tuổi đối với nữ và 16, 17 tuổi ở nam).
Thực ra “trẻ em đã sớm quan tâm đến các vấn đề giới tính, trước khi tính dục chín muồi.
Lúc đầu sự quan tâm này không gắn với các thể nghiệm tính dục, mà biểu hiện tính tò
mò thường tình… Đến tuổi quá độ (tuổi dậy thì) thì tình hình phức tạp hơn, mối quan tâm
của thiếu niên đến các vấn đề giới tính trở nên căng thẳng và riêng tư”.
Do đặc điểm phát triển sinh lí cơ thể, tự các em sẽ tìm đến những vấn đề về giới
tính. A.V.Petrovxki khẳng định rằng, “sự phát dục kích thích phát triển sự quan tâm đến
giới khác, làm xét hiện những cảm giác, tình cảm và rung cảm mới”. Các nhà sinh lí học,
y học, tâm lí học đều thừa nhận rằng “hoạt động sinh lý tính dục là một hoạt động bình
thường của một cơ thể khoẻ mạnh. Nó phát triển theo quy luật tự nhiên”, đó là một nhu
cầu cơ bản của con người.
Mặt khác, chính bản thân những tác động của đời sống xã hội cũng ảnh hưởng đến
việc quan tâm đến các vấn đề tính dục, tình yêu hôn nhân của các em. Trong cuộc sống
xã hội, con người luôn phải giao tiếp xã hội, luôn tiếp xúc với mọi người và tiếp xúc với
các vấn đề xã hội. Chính sự tiếp xúc này tạo nên những nhận thức nhất định, đầu tiên của
con người về các vấn đề của đời sống giới tính: giao tiếp với bạn khác giới, nhận thức về
tình yêu và những cử chỉ yêu đương…
Đến một độ tuổi nhất định, không phải do bản thân trẻ em, mà chính là mọi người
trong xã hội: bạn bè, người lớn, đặc biệt là những người thân trong gia đình, cũng luôn
nhắc nhở, gợi ý, thậm chí yêu cầu các em hướng đến những vấn đề trong quan hệ giới
tính như: xây dựng tình yêu, kết hôn…
Những hiểu biết, những ảnh hưởng mạnh mẽ của các sinh hoạt yêu đương, của đời
sống giới tính trong xã hội, lại kết hợp với những rung cảm giới tính, những biến đổi giới
tính trong cơ thể, trong tình cảm, dần dần hình thành ở trẻ em một dạng kiến thức mới
dù chưa được học tập trong nhà trường hoặc gia đình. Đồng thời cũng dần dần hình
thành ở các em một nhu cầu mới: những quan hệ về giới tính, rung cảm giới tính…
“Không phải bản thân việc yêu đương chăm sóc, thư từ, gặp gỡ, cái hôn đầu tiên là quan
trọng, mà quan trọng vì đó là sự đáp ứng nhu cầu nội tại của bản thân học sinh lớn, vì đó
là những tượng trưng xã hội nhất định, những dấu hiệu trở thành người lớn”.
Như vậy sự quan tâm đến các vấn đề giới tính, thậm chí việc nảy sinh những hành
vi giới tính, yêu đương là tất yếu, có tính quy luật. Nó nảy sinh do chính đời sống sinh lí
cơ thể và đời sống xã hội của các em.
Nếu không được hướng dẫn về những vấn đề này, các em sẽ gặp phải những khó
khăn, và chính xã hội và người lớn cũng thật ảnh hưởng bởi những khó khăn đó. A.V.
Petrovxki đã nêu rõ: “Các em thiếu niên không hiểu biết gì về các lần đề giới tính thường
tỏ ra sợ hãi trước những biến đổi sinh lí diễn ra trong cơ thể mình và lấy làm xấu hổ về
những biến đổi đó. Không được các bậc cha mẹ ra các nhà sư phạm giải đáp đến nơi
đến chốn những vấn đề các em muốn biết, các em thường tìm đến các nguồn tình cờ,
đôi khi nhảm nhí và nhận được một khái niệm sai lệch về những vấn đề các em quan
tâm”. Ông cũng cho rằng, “Việc các em thiếu niên, thiếu hiểu biết về các vấn đề giới tính
thường dẫn đến những bi kịch đau lòng trong đời sống”. Ngược lại, sự hiểu biết các kiến
thức về giới tính sẽ giúp cho các em tự tin và vững vàng hơn khi bước vào đời đặc biệt
là khi gặp những tình huống “gay cấn”, điều rất dễ xảy ra khi các em tiếp cận với cuộc
sống xã hội.
Theo các tác giả, chính do những đặc điểm về sự phát triển sinh lí và tâm lí, ở các
em cũng nảy sinh những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính như: nhu cầu tìm hiểu về
tính dục, tình dục, tình yêu, đời sống gia đình… Nhu cầu này xuất hiện ngay từ khi còn
nhỏ, càng lớn lên nó càng trở nên mạnh mẽ, thúc đẩy các em tìm hiểu những vấn đề đó.
Con người bình thường nào cũng có những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính, khi
tới một độ tuổi nào đó. Tuy nhiên, khác với con vật, ở con người những nhu cầu này thể
hiện ra qua các thái độ, hành vi vừa mang tính sinh học, vừa mang tính tâm lí xã hội to
lớn.
Ngay từ lúc còn rất nhỏ, trẻ đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề giới tính, đó là kết
quả của quá trình tự nhiên nhằm nhận thức thế giới xung quanh. Sự quan tâm ấy thể hiện
trong vô số các câu hỏi mà trẻ dặt ra cho bố mẹ và thường làm cho bố mẹ phải bối rối
khó xử đại loại như: “Con sinh ra như thế nào?”, “Tại sao con lại ở trong bụng mẹ?”…
Khi trẻ chưa đến tuổi đi học, chúng đã muốn biết bí mật của sự ra đời các em bé. Đến
tuổi dậy thì, các em gái chú ý nhiều đến bề ngoài của mình, tăng cường quan tâm đến
những “bí mật tình yêu”, “còn các chàng trai bắt đầu để ý đến các cô gái…
Trong giai đoạn dậy thì, “thời kì mà người đàn ông hoặc đàn bà thức dậy trong con
người” việc quan tâm đến những vấn đề giới tính ấy lại càng trở nên bức xúc và không
thể tránh khỏi. Sự quan tâm đó ngày càng cao. “Giai đoạn phát triển phức tạp tế nhị này
nếu thiếu sự hướng dẫn, giúp đỡ của những người có trách nhiệm và kinh nghiệm thì thật
là một sai lầm đáng tiếc”. Engebeta Ixakovic đã viết: “Bí mật của quan hệ sinh lí liên quan
đến những cảm xúc mạnh nhất của con người. Bản thân cảm xúc thầm kín ấy không tốt
cũng không xấu. Đơn giản là nó tồn tại. Con người lại hay mắc sai lầm trong chuyện này.
Đôi khi phải trả giá sai lầm ấy bằng cả cuộc đời”.
Chính sự dậy thì cùng với sự giao tiếp, gặp gỡ trong đời sống xã hội, sự phát triển
về tình cảm và trong đời sống tâm lí đã hình thành nên ở các em những nhu cầu về các
vấn đề giới tính. Những nhu cầu ấy ngày càng tăng và ngày càng cấp thiết đối với con
người. Giáo dục giới tính đáp ứng được những nhu cầu này của các em, giúp cho các
em có định hướng đúng đắn và phù hợp đối với đời sống giới tính và đời sống xã hội.
Việc trang bị cho các em những tri thức này một cách phù hợp, khoa học sẽ giúp
các em phát triển nhân cách, thích ứng hơn với đời sống, chuẩn bị cho các em vào đời
một cách vững chắc và tự tin. Các em sẽ có bản lĩnh vững vàng chống lại mọi cám dỗ,
sa ngã và những trở ngại khác của cuộc đời, mà nhiều khi những cám dỗ, sa ngã đó lại
do chính sự phát dục ở bản thân các em và do những phức tạp của xã hội gây nên.
V. G. Belinxki nhận xét rằng: “Sự trong sạch về đạo đức hoàn toàn không phải là ở
chỗ chẳng biết gì mà là ở chỗ giữ gìn được đức hạnh khi có sự am hiểu đầy đủ”. Chính
việc trang bị cho các em những tri thức về đời sống giới tính sẽ góp phần giúp các em
giải quyết tốt đẹp những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống, mà đối với các em “nhiều khi
là bí ẩn, khó có thể tránh khỏi”.
Trong khi ấy việc che giấu, né tránh của người lớn đối với những vấn đề giới tính
trước các em, nhiều khi chỉ gây nên tính tò mò, sự kích trình tìm hiểu, và có thể gây nên
những hậu quả bất lợi. Đặc biệt là các em lại dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu
cực xã hội, của người lớn, nhất là những người thiếu suy nghĩ và thiếu tri thức văn hoá về
những vấn đề của đời sống giới tính.
Hơn nữa, đời sống giới tính, yêu đương, quan hệ vợ chồng, gia đình cũng là vấn đề
tất yếu của con người. “Cuộc sống và tình yêu – đó là hai mặt thống nhất trong một con
người bình thường”, “tình yêu đòi hỏi phải xây dựng gia đình, và chỉ có trong gia đình thì
đôi lứa mới có cuộc sống hạnh phúc”. Đời sống yêu đương và cuộc sống vợ chồng lại là
những vấn đề rất phức tạp, không phải ai cũng biết. Sự thiếu kiến thức gia đình và đời
sống vợ chồng đã làm cho rất nhiều gia đình đau khổ, tan vỡ, và nhiều hậu quả tai hại
không thể lường trước Việc giáo dục giới tính cho các em sẽ giúp các em biết cách xử
thế, biết cách giải quyết tốt đẹp khi “đối mặt” với những “vấn đề muôn thuở” và tất yếu ấy
của con người. Nó sẽ giúp các em có cuộc sống gia đình hạnh phúc, nó sẽ góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân các em và cho toàn xã hội.
3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã
hội
Ngày nay tình trạng gia tăng dân số quá mức đang là mối quan tâm ẹ ngại của
nhiều nước. Nạn bùng nổ dân số này nhiều khi lại là do sự thiếu hiểu biết nhiều vấn đề
của giới tính (sự sinh sản, việc kết hôn sớm…) hoặc do những quan niệm sai lầm về đời
sống giới tính, đời sống gia đình (đẻ nhiều con vì muốn có cả con trai con gái vì cho rằng
đẻ càng nhiều càng tốt, lây vớ sớm để có cháu cho bà bế
Việc trang bị những tri thức về giới tính sẽ giúp cho con người làm chủ được “vấn
đề sinh đẻ” biết cách hạn chế sinh đẻ, nhất là những nhận thức và quan niệm chung về
vấn đề dân số. Nhờ đó họ sẽ tự giác tham gia vào công cuộc “chiến đấu, chống lại nạn
bùng nổ dân số, họ sẽ tự giác góp phần vào việc giảm bớt “sự phát triển đáng sợ” của
dân số. Nhờ giáo dục giới tính, công tác giáo dục dân số mới có thể đạt hiệu quả cao. Vì
thế, giáo dục giới tính gắn liền với giáo dục dân số, trở thành một bộ phận hữu cơ của
giáo dục dân số.
Giáo dục giới tính còn góp phần nâng cao chất lượng đời sống gia đình, làm cho
các gia đình hạnh phúc hơn, êm ấm hơn. Do đó, giáo dục giới tính làm nâng cao đời
sống văn hoá xã hội. Nó còn có tác động đến nhiều mặt khác: đời sống kinh tế, trật tự an
ninh, đạo đức xã hội, thuần phong mĩ tục… Những lĩnh vực xã hội đó chịu ảnh hưởng
nhiều của cuộc sống con người về mặt giới tính. Chỉ khi có đời sống hạnh phúc, mỗi
người và mỗi gia đình mới có thể đóng góp tốt nhất cho xã hội.
Có thể nói, giáo dục giới tính góp phần quan trọng đối với việc xây dựng một xã hội
lành mạnh tốt đẹp.
4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong tình
hình hiện nay
Ngày nay, do nhiều nguyên nhân tâm lí và xã hội phức tạp, như sự đô thị hoá, gia
tốc sự phát triển của trẻ em, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, phức tạp hoá của quá
trình giáo dục, tự do nhiều hơn so với trước đây của thanh thiếu niên đối với cha mẹ,
quyền bình đẳng của phụ nữ, và sự xuất hiện của những phương tiện tránh thai hiệu
quả… càng ngày càng có nhiều biểu hiện phức tạp trong xã hội về giới tính:
– Theo các nhà khoa học, trong 50 năm vừa qua, cứ 10 năm, tuổi dậy thì của các
em gái lại sớm hơn 4 tháng. Hiện tượng này diễn ra ở hầu hết các nước, trong đó có
nước ta, theo số liệu Hằng số sinh lí Việt Nam: tuổi dậy thì của các em gái năm 1967, ở
thành phố là 15,8 +/- 1,4, ở nông thôn là 16,22 +/- 1,7; năm 1972 ở thành phố là 14,3
+/- 1,2, ở nông thôn là 15 +/- 3,4, và theo số liệu của Phòng sinh lí lứa tuổi (Viện Tâm
sinh học lứa tuổi tuổi dậy thì của các em gái năm 1980 ở thành phố là 13,10 +/- 1,2, ở
nông thôn là 14,5 +/- 1,3. Hiện nay, tuổi dậy thì của các em lại sớm hơn. Sự dậy thì sớm
đã tạo ra một khoảng cách khá lớn giữa sự chín muồi sinh dục và sự trưởng thành về xã
hội, từ lúc dậy thì (13, 14 tuổi) đến độ tuổi có khả năng độc lập về kinh tế để có thể kết
hôn (22, 23 tuổi) là từ 8 đến 10 năm. Khoảng thời gian dài ấy đã gây ra rất nhiều khó
khăn cho các em trong quan hệ với người khác giới và cũng đặt ra cho xã hội, cho các
nhà giáo dục nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết.
– Sự dậy thì sớm có thể dẫn tới quan hệ tình dục sớm, quan hệ yêu đương sớm.
Các công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy, lứa tuổi các em có quan hệ tình dục là khá
sớm: nhiều em 16, 15, thậm chỉ 14, 13 tuổi đã có quan hệ tình dục.
Đặc biệt, trẻ em có “quan hệ tình dục” lần đầu tiên ở lứa tuổi càng ngày càng sớm
hơn, với tỉ lệ cao hơn.
– Quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn, và những hậu quả
tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá thai, có thai tuổi vị thành
niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14, 15… tuổi, việc kết hôn sớm… xảy ta
rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã
hội như: tình trạng bệnh tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu
kém nghiêm trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh
giang mai, nhiễm HIV… và gây nên những tác hại lớn về kinh tế xã hộp tâm lí…
– Tình trạng tình yêu tan vỡ, nhiều gia đình thiếu hạnh phúc, đi đến li hôn và nhiều
hậu quả tai hại khác: con cái hư hỏng, trật tự an ninh xã hội bị rối loạn bởi sự gây gổ,
đánh lộn thậm chí có thể chém giết lẫn nhau, đạo đức, phong tục lành mạnh bị huỷ hoại…
– Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về văn hoá xã
hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi đàng điếm, nếp sống sinh hoạt thiếu lành
mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ
trường, nhậu nhẹt… là tình trạng khá phổ biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong
đời sống của thanh thiếu niên và xã hội.
Trước tình hình đó, giáo dục giới tính trở thành vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó
trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục cần phải giải quyết. Đó là
nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại.
5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia tăng của
các tệ nạn xã hội hiện nay
Ngày nay, các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức tạp. Các tệ
nạn mại dâm, ma tuý, sự biến tướng trong hoạt động của các vũ trường, việc sử dụng
thuốc lắc, nếp sống ăn chơi, trác táng, đồi trụy… của một bộ phận thanh thiếu niên và cả
ở người lớn đang là nỗi lo chung cho nhiều người, cho xã hội. Các tệ nạn đó gây ảnh
hưởng xấu về nhiều mặt cho con người, đặc biệt cho thanh thiếu niên, làm cho các em dễ
bị suy thoái về đạo đức, bệnh hoạn trong lối sống, suy sụp vẻ sức khoẻ, sa sút về học
tập… có em bị nhiễm HIV, nghiện xì ke ma tuý, có em bị dụ dỗ vào con đường ăn chơi
trụy lạc, mại dâm…
Việc giáo dục giới tính sẽ trang bị cho các em những kiến thức, tạo ra cho các em
một bản lĩnh để chống lại các tệ nạn trên. Những hiểu biết cần thiết về đời sống giới tính
sẽ giúp cho các em tĩnh táo hơn, mạnh mẽ hơn, tự mình biết cách tránh xa những tệ nạn
xã hội. Mặt khác, những kiến thức đó sẽ giúp các em tự tin hơn khi bước vào đời

Created by AM Word2CHM
Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Vấn đề 1
Vấn đề 2
Vấn đề 3
Vấn đề 4
Vấn đề 5
Vấn đề 6
Vấn đề 7

Created by AM Word2CHM
Vấn đề 1

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

TÌNH TRẠNG TRẺ EM HƯ VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH


Kỉ yếu Hội nghị Khoa học Đề án VIE/ 88/ P09 TPHCM
Vấn đề trẻ em hư không phải là một vấn đề mới lạ, riêng biệt ở một nước nào đó,
mà là một vấn đề đã được nhiều nước quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Có thể nói,
hiện tượng trẻ em hư và trẻ em phạm pháp là một hiện tượng khá phổ biến ở các nước
trên thế giới.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em hư đã làm cho nhiều nhà
nghiên cứu xã hội, nhiều thầy cô giáo và những người có trách nhiệm phải lo ngại.
Trong công trình nghiên cứu về trẻ em hư và trẻ em phạm pháp do Viện Khoa học
Giáo dục (các tỉnh phá Nam) và Uỷ ban Khoa học kĩ thuật Thành phố Hồ Chí Minh hợp
tác nghiên cứu, chúng ta thấy chỉ riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh từ 1977 đến 1978, con
số trẻ em phạm pháp khá lớn. Năm 1977 là 1.511 em, năm 1987 là 2.326 em, năm 1979
là 3.442 em, năm 1980 là 2.807 em, năm 1981 là 2.265 em. Tính trung bình hàng năm
có 2.550 em phạm pháp bị phát hiện, bị bắt giữ và xử lí. Trong số các em phạm pháp,
số học sinh phổ thông chiếm 9.54% (1.217 em), riêng 6 tháng đầu năm 1982, Thành phố
có 2.673 trẻ em phạm pháp trong đó số học sinh phổ thông lên tới 301 em, chiếm
11,2%.
Tình hình trẻ em phạm pháp trong mấy năm trở lại đây, còn có chiều hướng gia
tăng. Chỉ tính những em mà Công an Thành phố thống kê được, trong 6 tháng đầu năm
1987: có 8127 em hư và 2.978 em phạm pháp. Trong đó có 270 em trai và 285 em gái
dưới 14 tuổi, học sinh cấp I có 1583 em, học sinh cấp II có 854 em, học sinh cấp III có
64 em. Trong số những học sinh phạm pháp có 960 em còn đang đi học.
Tính riêng những trường hợp phạm pháp nghiêm trọng, chỉ trong 2 năm 1986 và
1987, số lượng các em phạm tội tăng 12%: Năm 1986 có 992 em phạm pháp, chiếm tới
14,5% số tội phạm. Năm 1987 có 1.183 em phạm pháp chiếm 62,5% số tội phạm. Điển
hình là một số tội phạm:
- Giết người:
+ Năm 1986 có 55 vụ, bắt 61 tên trong đó có 7 em (tỉ lệ 11,5%).
+ Năm 1987 có tới 63 vụ, bắt 84 tên trong đó có 12 em (tỉ lệ 14,3%).
- Đánh người thành thương tật, năm 1986 có 58 em phạm tội và năm 1987 là 164
em.
– Trộm cắp tài sản riêng của công dân:
+ Năm 1986 có 616 em
+ Năm 1987 có tới 747 em.
Nếu chỉ trong những vụ án được toà án xét xử, năm 1988 có 61 em dưới 18 tuổi
phạm tội đánh người, giết người (trong tổng số 573 tội phạm, chiến tỷ lệ 10,7%/ có 277
em phạm tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, 12 em phạm tội hiếp dâm, 287 em
phạm tội gây rối trị an…). Chúng ta cần chú ý, đối vôi trẻ em chỉ khi phạm tội nghiêm
trọng mới phải đưa ra toà xét xử.
Trên đây chỉ là trẻ em phạm pháp, tức là những trẻ em hư nghiêm trọng. Còn các
loại trẻ em hư khác đã được công an hoặc những cơ quan khác có trách nhiệm theo dõi
(những em này là thiếu niên hư hỏng nhưng chỉ có hành vi tội phạm nghiêm trọng) thì số
lượng lớn hơn rất nhiều. Theo cách tính của nhóm cán bộ khoa học nghiên cứu trong dự
án ngăn chặn trẻ em hư, trung bình hàng năm Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 12.500
em thuộc diện hư hỏng có hồ sơ theo dõi. Đây chỉ là con số tối thiểu, tổng hợp ở 148
phường của các quận nội thành và ven đô gồm: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, và 4 quận ven đô
là Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp và Bình Thạnh.
Các nhà nghiên cứu cho biết, con số thực tế là có thể lớn hơn nhiều. Riêng thống
kê của ngành Công an cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 1987 có 8.127 trẻ em hư. Ngoài
ra, còn nhiều loại trẻ em hư khác không thể thống kê được như: các em gây rối trật tự trị
an ở địa phương, các em ăn cắp vặt, bỏ nhà đi tụ tập chơi bời lêu lổng, thành lập băng
đảng đánh nhau, nhậu nhẹt, đánh bạc, tham gia những tệ nạn xã hội, hoặc các em hư
hỗn với người lớn, ngang tàng, thiếu tế nhị ý tứ vô tổ chức, vô kỉ luật, lười học…
Xét về những biểu hiện hư hỏng, phạm pháp, các nhà nghiên cứu và ngành Công
an, Tư pháp đều có nhận xét rằng, ngày nay trẻ em của chúng ta đã phạm phải hầu hết
những tội mà người lớn có thể phạm phải như: cướp của, giết người, đâm, chém, đánh
người thành thương tật, ăn cắp, cướp giật, bắt cóc trẻ em… đặc biệt có tội mãi dâm và
hiếp dâm. Một nhận xét khác: trong tất cả các tội mà các em phạm phải, tội nào cũng có
học sinh phổ thông tham gia. Có trường hợp các em bỏ học rồi mới tham gia hành vi tội
phạm, hoặc khi tham gia rồi các em bỏ học luôn. Cũng có những trường hợp các em
phạm tội khi vẫn còn đang đi học.
Có một loại hiện tượng nữa cũng rất đáng ngại ở trẻ em đó chính là tình trạng các
em tự tử. Hiện nay các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn thống nhất kết luận, có nên gọi
đó là hiện tượng trẻ em hư hay không. Vì rất nhiều nguyên nhân phức tạp gây ra hiện
tượng này. Ở đây chúng tôi chỉ nêu về mặt số lượng để cùng tham khảo. Theo một công
rình nghiền cứu đã thống kê được, số lượng người tự tử trong những năm gần đây như
sau:
1983: 4.295 người;
1984: 4.291 người;
1985: 3.761 người;
1986: 3.070 người;
1987: 3.205 người.
Trong số đó, số lượng trẻ em tự tử rất cao, số trẻ em tự tử dưới 15 tuổi chiếm
44,9% (nữ 22%, tổng số người tự tử. Số các em từ 16 đến 25 tuổi chiếm 22,47%, trong
đó nữ chiếm 1215% tổng số người tự tử. Như thế, số trẻ em tự tử chiếm tới hơn một
nữ số ngời tụ tử; trong đói có những em đang học trong các trường phổ thông).
Có thể kết luận chung rằng, những biểu hiện hư hỏng của trẻ em có thể có rất
nhiều, rất đa dạng. Các em có thể phạm hầu hết những thứ tội lỗi của người lớn có thể
phạm phải. Ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh đến một số hành động tội phạm và một số
hiện tượng xấu có liên quan đến đời sống giới tính của các em.
– Trong những công trình nghiên cứu, hoặc báo cáo của các nhà khoa học xã hội,
hay ngành Công an, chúng ta đấu thấy có đề cập đến hiện tượng trẻ em phạm tội mãi
dâm và hiếp dâm. Có năm, toà án đã xử 10 trẻ em dưới 18 tuổi đã phạm tội hiếp dâm,
trong đó có 5 vụ mà thủ phạm là những em dưới 16 tuổi; thậm chí có em 15 tuổi đã hiếp
dâm 11 lần (theo chính em khai). Theo báo cáo của một cơ quan Công an tỉnh, có 4,7%
tội phạm trẻ em dưới 17 tuổi phạm tội hiếp dâm, 18,2% phạm tội mãi dâm. Trong một
đêm Noel có 3 vụ loạn dâm có nhiều em dưới 18 tuổi tham gia, trong đó có một vụ do
một em dưới 16 tuổi cầm đầu.
– Trong số những trẻ em tự tử có nhiều trường hợp các em tự tự vì tình yêu tan
vỡ. Có em gái 14 tuổi, đã có thai 5 tháng uống thuốc độc tự tử. Đặc biệt có những em
học sinh lớp 10, 11 đang đi học cũng tự tư do bị người yêu phản bội. Có em nữ sinh lớp
10 tự tử chỉ vì cha mẹ la mắng, xấu hổ với bạn bè.
Trong những vụ án giết người năm 1989 có 2 vụ các em giết nhau vì ghen tương.
Thậm chí, có trường hợp, một em cưỡng hiếp chị dâu không được đã dùng dao giết chết
chị dâu mình.
– Tình hình nạo phá thai và yêu đương ở các em tuổi vị thành niên đang là một vấn
đề đáng ngại. Theo số liệu của Trung tâm Dân số và Kế hoạch hoá gia đình Thành phố
Hồ Chí Minh, năm 1986 có 6.191 ca nạo phá thai cho các em dưới 20 tuổi, năm 1987 có
9.874 ca, năm 1988 có 11.801 ca. Trong số đó có những em 16, 15, 14 tuổi, thậm chí
có em dưới 14 tuổi. Trong số những em nạo thai, có những em đang là học sinh trung
học phổ thông, hoặc trung học cơ sở. Tại Trường Trung học cơ sở Lý Nhân tỉnh Hà Nam,
trong một năm có tới 4 em học sinh có thai phải nghỉ học. Tại một trường trung học phổ
thông khác cũng có 4 em có thai (1 em tự tử còn 3 em bỏ học). Trong báo cáo của
phòng giáo dục của một huyện có nêu: trong hai năm học (1988 – 1989) và (1989 –
1990) có 8 trường hợp học sinh lớp 8, 9 nghỉ học đi lấy chồng và một trường hợp hai em
học sinh lớp 9 lấy nhau, một trường hợp nữ sinh lớp 9 lấy thông học lớp 12, một trường
hợp nữ sinh lớp 10 lấy chồng là giáo viên dạy mình ở trường trưng học cơ sở trước đây,
một nữ sinh tự tử do người yêu đi lấy vợ… trong năm 1989 ở huyện có 10 ca nạo thai
cho các em dưới 18 tuổi, trong đó có 2 nữ sinh. Những hiện tượngg phức tạp trên không
phải là hiếm.
Nhiều giáo viên đều có chung nhận xét rằng, tình trạng học sinh yêu nhau ở trường
trung học phổ thông (thậm chí có ở học sinh trung học cơ sở) là tình trạng khá phổ biến.
Trong một công trình nghiên cứu ở hai lớp 11 và bốn lớp 12 ờ trường trung học phổ
thông, có 9% học sinh nam và 8% học sinh nữ ở lớp 11, 15% học sinh nam và 13% học
sinh nữ ở lớp 12 đã có người yêu. Nhưng trong một công tính khác nghiên cứu ở cả ba
khối 10, 11 và 12, tỉ lệ học sinh có biểu hiện yêu đương còn cao hơn thế. Báo cáo của
cơ quan của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng có nhận định: ở các em gái có hiện
tượng yêu đương sớm, ngay cả khi các em còn đang học trường phổ thông. Hiện tượng
khá phổ biến, nhất là đối tượng học sinh trung học phổ thông. Khi tiến hành điều tra ở
một trường trung học phổ thông, có tới 43/97 em có quan điểm “nên yêu sớm” chiếm tỉ lệ
49,4%. Hiện tượng yêu đương sớm trong học sinh cũng đã dẫn tới những hậu quả khá
nghiêm trọng: ghen tuông, đánh nhau, bỏ học đi lấy chồng, nạo phá thai, tự tử vì tình…
Qua nhiều công trình nghiên cứu và thực nghiệm, chúng tôi cũng thấy rằng, ở trẻ
em, và ngay ở học sinh trung học phổ thông đã có những biểu hiện yêu đương sớm và
cũng đã gặp phải những hậu quả tai hại do yêu đương sớm gây ra. Hơn nữa, những
hành vi yêu đương sớm và những nếp sinh hoạt không lành mạnh đó không phải chỉ đơn
giản do các em bị lường gạt, dụ dỗ, không phải chỉ là những hành vi thụ động, mà còn là
những hành động xuất phát từ một nhận thức, một quan điểm sai lầm hoặc bệnh hoạn về
lối sống, lẽ sống, quan niệm sống.
Một biểu hiện hư hỏng rất cần phải chú ý nữa đó là tình hình đọc sách báo và văn
hoá phẩm có nội dung bạo lực, yêu đương lãng mạn, đồi trụy… của trẻ em. Trong bài
viết một đối tượng của văn học cần được báo động: trẻ em” đăng trong Tạp chí Văn
nghệ số 36, năm 1989, tác giả đã viết: “Trong nhà trường thì đạo đức học sinh đang làm
toàn xã hội phải e ngại. Kiểm tra đột xuất một trường phổ thông cơ sở ở Thành phố Hồ
Chí Minh thấy trong cấp các em có dao găm lớn nhỏ đủ loại, cả súng lục, tiểu thuyết
không lành mạnh in và chép tay rất nhiều, tranh ảnh khoả thân thì không thiếu”.
Trong một công trình nghiên cứu của chúng tôi ở các trường trung học phổ thông,
có tới 84,6% em học sinh lưu giữ sách báo về tình yêu lãng mạn, sách đồi trụy khiêu
dâm. Trong đó, 28,3% cho rằng số học sinh trung học phổ thông đọc ở mức “khá nhiều”
và “nhiều”; 97,5% số học sinh thừa nhận rằng có xem “video đen”, 25,9% cho rằng học
sinh xem “video đen” ở mức độ khá nhiều. Bằng nhiều thực nghiệm và các phương pháp
điều tra, chúng tôi có thể kết luận rằng, các em xem đủ loại văn hoá phẩm, sách báo đồi
trụy chép tay (như những cuốn “Cô giáo Thảo”, “Chú Kim”…), sách về tình yêu, sách,
truyện tranh ma quái, khiêu dâm… chuyện yêu đương lãng mạn cũ (các tiểu thuyết của
Quỳnh Dao và tiểu thuyết in trước 1975), các tiểu thuyết lãng mạn mới, các sinh vụ án
viết lại với những tình tiết khiêu dâm hoặc mô tả cảnh làm tình sống sượng…), các phim
ảnh đồi trụy, các bài hát nhạc vàng ướt át, rên rỉ về tình yêu tự do và thơ mộng. Đặc biệt
trong học sinh trung học phổ thông còn lưu hành những bản chép tay dạy cách bói toán,
nhất là nói về tình yêu. Chúng tôi đã sưu tầm được nhiều kiểu bói toán trong các em: bói
theo nhảy mũi, bói theo ngày kinh, bói theo sao… chủ yếu là tìm kiếm, mong đợi một tình
yêu lí tưởng, hoặc mong tìm cách phát hiện, tránh né những đau khổ, trục trặc trong tình
yêu.
Một biểu hiện hư khác có trong trẻ em, trong học sinh mới lớn là hiện tượng gán
ghép nhau thành từng cặp, hiện tượng quan hệ với bạn khác giới thiếu lành mạnh, xô bồ,
lợi dụng nhau, cặp kè với nhau từng đôi quá mức thân thiết của tình bạn nhưng lại chưa
phải là tình yêu. Đặc biệt là hiện tượng nói năng thô tục, cử chỉ thiếu tế nhị hoặc không
phù hợp với giới tính. Có một số em còn học đòi ăn nhậu uống cà phê, hút thuốc lá theo
kiểu chơi bời điệu nghệ, hay đến nhà hàng, vũ trường, khiêu vũ, ăn chơi…
Như vậy đứng trên góc độ về đời sống giới tính và đời sống gia đình, trẻ em của
chúng ta cũng đã có thể có đủ những biểu hiện yêu đương và ăn chơi” như người lớn.
Nguyên nhân của tình trạng trên rất phức tạp. Các nhà nghiên cứa đến thống nhất rằng,
cần phải xét đến những nguyên nhân về cả 3 mặt: xã hội, gia đình và nhà trường. Trong
một dịp khác, chúng tôi sẽ mãi bày đầy đủ 3 loại nguyên nhân này. Ở đây, chúng tôi xin
thì nêu một nguyên nhân quan trọng trong nhà trường. Đó là việc thiếu quan tâm giáo dục
những tri thức về giới tính và đời sống gia đình cho học sinh.
Từ nhiều năm nay, chúng ta không quan tâm đến những tri thức này, nhất là kiến
thức về tình bạn khác giới, tình yêu, quan hệ cư xử với người khác giới, tác phong, tư
thế của người con trai, con gái, vẻ đẹp và việc làm đẹp… mà đó lại là những vấn đề
được các em quan tâm, trở thành nhu cầu trong giao tiếp, trong cuộc sống đời thường
của các em. Đó là những vấn đề nảy sinh trong các em có tính quy luật bởi đặc điểm tâm
sinh lí lứa tuổi, bởi sự phát triển tâm lí, bởi những điều kiện phức tạp của đời sống xã hội
hiện đại. Thế nhưng các em lại không ý thức được những điều đó, không hiểu biết về
thông và không có đủ khả năng làm chủ được bản thân. Vì thế, các em dễ bị sa ngã, bị
lôi kéo vào tội lỗi và rất dễ sai lầm trong hành vi.
Để khắc phục tình trạng trẻ em hư hiện nay, ngoài việc khắc phục, giải quyết những
nguyên nhân phức tạp về mặt xã hội, gia đình và nhà trường, có một việc không thể
thiếu: đó là trang bị cho các em những tri thức khoa học về giới tính, và đời sống gia
đình. Chỉ như thế, chúng ta mới giúp cho các em có một bản lĩnh vững vàng bước vào
đời sống xã hội, vừa chống lại những cám dỗ xấu xa có thể có do cuộc sống xã hội phức
tạp tạo ra, vừa chống lại những đòi hỏi, những dục vọng có tính bản năng có thể xuất
hiện trong các em do đặc điểm tâm sinh lí của chính lứa tuổi các em tạo nên.

Created by AM Word2CHM
Vấn đề 2

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG, TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Giáo dục dân số Gia đình và giới tính - 1991
Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là một vấn đề mới ở
nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng như trong quá trình nghiên cứu và
xây dựng chương trình giáo dục này, có nhiều vấn đề đang được các nhà nghiên cứu
quan tâm: Nên dạy những gì cho học sinh và sẽ dạy chương trình này cho học sinh như
thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề được đặt ra:
– Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời sống gia đình và giới
tính mà các nước đang áp dụng, chúng tạ lựa chọn những vấn đề nào để dạy cho học
sinh phổ thông Việt Nam? Nên dạy cho học sinh từ lớp nào?
- Nên dạy lồng vào trong các môn học có liên quan hay dạy thành môn riêng.
- Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh
đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh về những vấn đề
trên, để thực hiện có hiệu quả hơn những nhiệm vụ của đề án do Ban Chủ nhiệm đề án
Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo đề án Cụm các tỉnh phía Nam.
Cuộc điều tra này tiến hành trong cán bộ ngành giáo dục và giáo viên ở các tỉnh
phía Nam theo 3 đợt: Đợt 1 (192 giáo viên) và đợt 2 (169 giáo viên) điều tra trong giáo
viên chưa được huấn luyện, đợt 3 điều tra trong 137 cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên
đã được dự các lớp huấn luyện về chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính
do Ban Chỉ đạo cụm và Ban Chỉ đạo các tỉnh tổ chức. Đây là các giáo viên sẽ trực tiếp
tham gia chỉ đạo và dạy chương trình này ở trường phổ thông.
Các tài liệu thu được chúng tôi xử lí bằng toán thống kê, chủ yếu là dùng Test T–
Student đối với các nhóm độc lập để so sánh sự khác biệt.
Sau đây là một số kết quả điều tra.
I. NÊN DẠY CHO HỌC SINH NHỮNG NỘI DUNG NÀO TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐỜI
SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH
Đây là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Để giải quyết vấn đề
này, chúng tôi đưa ra một hệ thống bài dự kiến sẽ dạy trong chương rình Giáo dục đời
sống gia đình để mọi người lựa chọn bài nào nên dạy cho học sinh trong trường phổ
thông.
1. Từ các phiếu của giáo viên, chúng tôi thu được kết quả như sau:
– Có những bài được đa số ý kiến của giáo viên và cán bộ giáo dục tán thành (lựa
chọn) trong cả 2 đợt điều tra 1989 và 1990 (trên 65%) đó là:
+ Gia đình và đời sống gia đình.
+ Trách nhiệm làm cha mẹ.
+ Trình nhiệm làm con.
+ Quản lí gia đình.
+ Luật hôn nhân và gia đình.
+ Giới tính và sự khác biệt nam nữ.
+ Tình người.
+ Tình bạn.
+ Hôn nhân.
+ Biến đổi tâm lí và sinh lí ở tuổi dậy thì.
+ Hiện tượng kinh nguyệt.
+ Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.
- Có những bài số ý kiến lựa chọn còn ít. Chúng tôi chỉ xin phân tích về những bài
này. Số liệu cụ thể được tính trong Bảng 1:
Bảng 1
Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa
Số Số của sự
Nội dung vấn đề
người % người % khác
đồng ý đồng ý biệt

Những vấn đề của vợ chồng


28 14,58 17 10,06 -
trẻ.
Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ
27 14,06 11 6,5 +
sinh.
Tình yêu. 48 25 28 16,57 -
Cơ quan sinh dục nam nữ. 45 23,44 38 22,49 -

Sự thụ thai và phát triển của


58 30,21 43 24,44 -
thai.
Những biện pháp phòng tránh
62 32,29 56 33,14 -
thai.
Các bệnh lây lan qua đường
38 19,79 27 15,98 -
tình dục.
Nhận xét:
– Kết quả nghiên cứu ở 2 đợt không có sự khác biệt có ý nghĩa ở hầu hết các bài,
tức là quan điểm của mọi người ở cả 2 đợt nghiên cứu giống nhau. Chỉ riêng bài “Chăm
sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh” ở đợt 2 thấp hơn đợt 1. Điều này cho thấy dư luận của các
giáo viên ở đây cho rằng bài này chưa cần lắm đối với học sinh.
– Những bài “Các bệnh lây lan qua đường tình dục”, “Những vấn đề của vợ chồng
trẻ”, có tỉ lệ tán thành thấp hơn cả (từ 10,06 đến 19,79%). Còn tất cả các bài khác có tỉ
lệ cao hơn, nhưng tối đa chỉ từ 32,29% đến 33,14%, điều này cho thấy:
+ Giáo viên còn e ngại khi dạy những bài này cho học sinh
+ Khi dạy các bài này, chúng ta phải thận trọng hơn.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có thể do giáo viên chưa nắm hết nội dung cụ thể của
vấn đề nên có nhiều e ngại.
2. Để tìm hiểu kĩ hơn chúng tôi tiến hành điều tra trong học sinh:
a) Chúng tôi cũng để ta một loạt bài cho học sinh lựa chọn (chỉ đưa những bài có
nhiều ý kiến không thống nhất). Sau đây là kết quả thu được:
Bảng 2: Sự lựa chọn của học sinh về các bài
Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa
Số Số của sự
TT Tên bài
người % người % khác
đồng ý đồng ý biệt

Cấu tạo cơ quan sinh dục


1 32 15,38 71 19,20 -
nam nữ
2 Giới tính 78 37,5 132 35,77 -
3 Tình dục 11 5,2 18 4,8 -

4 Tâm sinh lí tuổi dậy thì 57 27,4 98 26,6 -


5 Hiện tượng kinh nguyệt 38 18,26 51 13,8 -
6 Sự thụ thai 16 7,6 35 9,4 -
7 Các biện pháp tránh thai 18 8,65 38 10,29 -
8 Tình bạn khác giới 99 47,59 213 57,72 +
9 Tình yêu 71 34,13 183 49,6 +
Hôn nhân và đời sống gia
10 90 43,26 132 35,77 -
đình
11 Vần đề vợ chồng trẻ 22 10,57 42 11,38 -
Các bệnh lây lan qua đường
12 34 16,3 64 17,34 -
tình dục
13 Vẻ đẹp và cách làm đẹp 98 47,11 151 51,8 -
Sự cư xử trong mối quan hệ
14 118 56,73 194 52,57 -
nam nữ
15 Tình yêu trong tuổi học trò 91 43,75 173 46,88 -
Nhận xét:
– Nhìn chung kết quả trong hai đợt điều tra, đa số cho thấy sự lựa chọn không có
sự khác biệt cố ý nghĩa, tức là kết quá tương đương. Chỉ có 2 bài: “Tình bạn khác giới”
và “Tình yêu” ở đợt điều tra 1990 có sự khác biệt rõ rệt so với đợt I, nhưng đó là tỉ lệ
lựa chọn cao hơn.
– Một số bài có tỉ lệ lựa chọn khá cao (từ 26,6% trở lên) như bài: “Giới tính”, “Tâm
sinh lí tuổi dậy thì, “Tình bạn khác giới”, “Tình yêu”, “Hôn nhân và đời sống gia đình”, “Vẻ
đẹp và cách làm đẹp”, “Cách cư xử trong mối quan hệ nam nữ, “Tình yêu trong tuổi học
trò”. Đó là những bài được các em quan tâm và chấp nhận.
Tuy nhiên, có một số bài, tỉ lệ lựa chọn thấp như: “Cấu tạo cơ quan sinh dục nam
nữ” (15,38 – 19,2%), “Hiện tượng kinh nguyệt” (13,8 – 18,26%), “Vấn đề vợ chồng trẻ”
(10,57 – 11,38%), “Các bệnh đường tình dục” (16,3 – 17,3%), “Sự thụ thai” (7,6 –
9,4%), “Các biện pháp tránh thai” (8,7 – 10,3%). Đặc biệt bài “Tình dục” chỉ có 4,8 –
5,2%.
Từ tỉ lệ thấp như vậy có thể kết luận rằng đó là những bài các em có nhiều e ngại
nhất khi học chúng.
b) Nếu kết hợp chung những bài có tỉ lệ lựa chọn thấp ở giáo viên và học sinh,
chúng tôi có bảng 3 như sau:
Bảng 3
Tỉ lệ lựa Tỉ lệ lựa
Ý nghĩa
Tên bài chọn ở giáo chọn ở học
khác biệt
viên (%) sinh (%)
Cấu tạo cơ quan sinh dục nam
22,49 – 23,44 15,38 – 19,2 -
nữ.
Hiện tượng kinh nguyệt. 67,8 – 71,3 13,8 – 18,26 +

Các bệnh lây lan qua đường 15,98 – 19,79


16,3 – 17,3 -
tình dục.

Sự thụ thai và phát triển của


24,44 – 30,21 7,6 – 9,4 +
thai.
Tình dục. Không hỏi 4,8 – 5,2
Biện pháp tránh thai. 32,29 – 33,14 8,7 – 10,3 +
Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ
6,5 – 14,06 Không hỏi
sinh.
vấn đề vợ chồng trẻ. 10,06 – 14,58 10,57 – 11,38 -
Nhận xét:
Có những bài, tỉ lệ lựa chọn giữa giáo viên và học sinh không có sự khác biệt có ý
nghĩa, đó là các bài:
1. Cấu tạo cơ quan sinh dục.
2. Các bệnh lây lan qua đường tình dục.
3. Vấn đề vợ chồng trẻ.
Ở những bài này, tỉ lệ lựa chọn là thấp (vì chỉ từ khoảng 10,57% – 23,44%). Đây là
những bài mà cả người dạy lẫn người học còn nhiều e ngại.
– Có những bài, tỉ lệ lựa chọn giữa giáo viên và học sinh có sự khác biệt ý nghĩa,
thậm chí khác biệt rất lớn:
1. Bài hiện tượng kinh nguyện, tỉ lệ giáo viên chọn từ 67,8% – 71,3%, còn ở học
sinh chỉ 13,8% - 18,2%.
2. Bài sự thụ thai”, ở giáo viên là 24,44% – 30,22%, ở học sinh chỉ có từ 7,6 –
9,4%.
3. Bài “Biện pháp tránh thai”, ở giáo viên: 32,29% – 33,14% còn ở học sinh chỉ từ
8,7 – 10,3%.
Chúng tôi cho rằng có hiện tượng trên vì các thầy cô giáo đã nhận thấy rõ hơn tầm
quan trọng của những bài này, còn các em thì chưa nhận thấy. Mặt khác, có thể các em
nghe nói đến những hiện tượng đó thường xấu hổ (mắc cỡ), e ngại.
– Bài “Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh”, chúng tôi chỉ hỏi trong giáo viên và tỉ lệ lựa
chọn cũng thấp: 6,5% – 14,06%.
- Riêng bài về “Tình dục”, tỉ lệ lựa chọn của các em học sinh rất thấp: 4,8 – 5,2%,
chứng tỏ các em rất e ngại bài này. Đây cũng là vấn đề rất phức tạp, còn rất nhiều e
ngại khi nói đến nó.
c) Để rõ hơn chúng tôi tìm hiểu về sự e ngại của học sinh đối với những nội
dung của việc Giáo dục đời sống gia đình và giới tính.
Sau khi giới thiệu cho học sinh các bài của chương trình Giáo dục đời sống gia
đình, chúng tôi đặt câu hỏi: nếu được học những kiến thức trên, bạn có e ngại gì không?
Chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 4: Sự e ngại của học sinh đối với chương trinh Giáo dục đời sống gia đình và
giới tính.
Đợt 1 (208 học sinh) Đợt 2 (369 học sinh)
Sự e ngại Số học sinh Số học sinh
% %
trả lời trả lời
Có e ngại 163 78,36 265 71,81
Không 45 21,64 104 28,19
Như vậy, ở cả 2 đợt điều tra, tỷ lệ học sinh e ngại là khá cao từ 71,81 đến 78,36%.
Tìm hiểu về sự e ngại của các em đối với từng bài, chúng tôi thấy như sau:
Bảng 5. Sự e ngại của học sinh đối với từng bài:
Đợt 1 (208) Đợt 2 (369)

TT Tên bài Số học


Số học
% sinh trả %
sinh trả lời
lời
Cấu tạo cơ quan sinh dục nam
1 165 79,32 265 71,8
nữ.
Giới tính và sự khác biệt nam
2 83 39,9 118 31,97
nữ.
3 Tình dục. 188 90,38 308 83,46
4 Tâm sinh lí tuổi dậy thì. 28 13,5 55 14,9
5 Hiện tượng kinh nguyệt. 158 75,96 265 71,8
6 Sự thụ thai. 148 71,15 228 61,79
7 Biện pháp tránh thai. 171 82,2 281 76,15
8 Tình bạn khác giới. 31 14,9 72 19,5
9 Tình yêu. 85 40,86 119 32,24
10 Hôn nhân. 74 35,57 112 30,35
11 Vấn đề vợ chồng trẻ. 105 50,48 198 53,65
12 Các bệnh đường tình dục. 162 77,88 258 69,9
13 Vẻ đẹp và cách làm đẹp. 28 13,5 52 14,09
Sự cư xử trong mối quan hệ
14 30 14,42 45 12,19
nam nữ
15 Tình yêu trong tuổi học trò. 76 36,5 121 32,79
Từ bảng trên, căn cứ vào kết quá của 2 đợt điều tra chúng tôi có thể rút ra những
bài học học sinh có nhiều e ngại nhất như sau:
1. Tình dục: từ 93,46 – 90,38% (số lượng học sinh e ngại).
2. Biện pháp tránh thai: 76,15 – 82,2%.
3. Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ: 71,8 – 79,32%.
4. Hiện tượng kinh nguyệt: 71,8 – 75,96%.
5. Các bệnh lây lan đường tình dục: 69,9 – 77,88%.
6. Sự thụ thai: 61,79 – 71,15%.
7. Vấn đề vợ chồng trẻ: 50,48 – 53,65%.
8. Tình yêu: 32,24 – 40,86%.
Trong những bài trên, chúng tôi thấy có thể gồm 2 loại:
– Loại bài đề cập đến những vấn đề “có nhiều vấn đề phức tạp” do quan niệm,
phong tục tập quán của xã hội ta, nhiều người e ngại khi nói đến nó:
– Loại bài có nhiều tri thức phức tạp mà học sinh chưa hiểu hết, hoặc sự đánh giá
của xã hội, của mọi người về chúng còn chưa được thống nhất (Bài “Vấn đề vợ chồng
trẻ”, “Sự thụ thai”).
3. Từ những kết quả trên có thể rút ra một sẽ kết luận về những nội dung
dạy học trong chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính như sau:
a) Có nhiều bài, chúng ta có thể dạy cho học sinh phổ thông một cách bình
thường. Đó là các bài:
– Gia đình, quản lí gia đình, hôn nhân…
– Trách nhiệm làm con.
– Các bài về tâm lí xã hội như giới tính, tình người tình bạn, tâm sinh lí tuổi dậy
thì…
- Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.
b) Có những bài khi dạy phải thận trọng, sao cho phù hợp với học sinh (về
phương pháp trình bày, thái độ của giáo viên, tổ chức lớp học…).
Đó là các bài:
1. Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ.
2. Các bệnh lây lan đường tình dục.
3. Vấn đề vợ chồng trẻ
4. Hiện tượng kinh nguyệt.
5. Sự thụ thai.
6. Biện pháp tránh thai.
7. Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh.
8. Tình yêu.
c) Riêng bài “Tình dục”, tỉ lệ chọn quá ít. Đây hình là vấn đề còn rất nhiều phức
tạp do nhận thức, quan niệm, phong tục… Theo chúng tôi hiện nay cần chú ý lựa chọn kĩ
những nội dung tri thức và phương pháp giảng dạy phù hợp.
d) Trên đây là kết quả nghiên cứu khi các giáo viên chưa được huấn luyện,
tức là họ chưa nắm vững được nội dung tri thức các bài. Để có thể kết luận chắc chắn,
chúng tôi thấy cần phải điều tra ý bến của giáo viên sau khi họ được huấn luyện về
chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính.
4. So sánh kết quả điều tra ở giáo viên (về sự lựa chọn nội dung giảng dạy
chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính) trước và sau khi được huấn
luyện:
Sau khi các thầy cô giáo được huấn luyện về thương trình Giáo dục đời sống gia
đình, chúng tôi đã dùng ngay các phiếu đã điều tra trước đây để thăm dò ý kiến của họ.
Kết quả về sự lựa chọn các bài dạy trong chương trình như sau (chúng tôi chỉ
nghiên cứu những bài “có nhiều vấn đề phức tạp” hoặc chỉ có sự thống nhất cao):
Bảng 6: So sánh sự lựa chọn của giáo viên.
Tỉ lệ lựa chọn Tỉ lệ lựa
Ý nghĩa
trước huấn chọn sau
Tên bài của sự
luyện (đợt 2 – huấn luyện
khác biệt
169) (137)
Những vấn đề vợ chồng trẻ. 10,06 44,54 +

Chăm sóc bà mẹ và trẻ sợ


6,5 27,74 +
sinh.
Tình yêu. 16,57 71,53 +

Cơ quan sinh dục nam nữ. 22,49 44,53 +


Sự thụ thai 25,44 46,72
Những biện pháp phòng
33,14 42,34 -
tránh thai (cơ sở khoa học).
Các bệnh lây lan đường tình
15,98 27,01 -
dục.
Nhận xét:
– Tỉ lệ lựa chọn các bài dạy trong chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới
tính của giáo viên sau khi được huấn luyện đều cao hơn trước. Ở hầu hết các bài đều có
sự khác biệt có ý nghĩa, chứng tỏ quan điểm của giáo viên đã có biến đổi rõ rệt sau khi
huấn luyện. Kể cả hai bài “Những biện pháp tránh thai” và “Các bệnh lây lan đường tình
dục” dù sự khác biệt không nhiều, nhưng tỷ lệ lựa chọn vẫn cao hơn trước.
- Có thể giải thích hiện tượng này là: các giáo viên đã hiểu rõ hơn về các bài và
thấy tầm quan trọng của nó. Điều đó cho thấy nội dung giáo dục đời sống gia đình và giới
tính rất bổ ích và cần thiết nên được các giáo viên và các nhà giáo dục tán thành dạy
trong các trường phổ thông.
– Cũng có thể khẳng định rằng việc giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học
sinh trong thời kì đầu có thể gặp nhiều khó khăn do nhiều người thưa hiểu hết tầm quan
trọng của nó. Nhưng nếu họ được học tập hoặc có điều kiện tìm hiểu kĩ, họ sẽ thấy việc
giáo dục những tri thức này cho học sinh là cần thiết. Từ kết quả nghiên cứu trên chúng
ta có thể kết luận rằng: nếu mọi người càng hiểu rõ và nắm vững được về Giáo dục đời
sống gia đình và Giới tính họ sẽ càng tán thành và giúp đỡ việc thực hiện nội dung giáo
dục này cho học sinh. Điều đó cho ta một phương hướng quan trọng: cần tuyên truyền
sâu rộng và đầy đủ trong quần chúng nhân dân, giáo viên, học sinh về ý nghĩa và nội
dung của nội dung giáo dục mới này.
II. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VỀ MẶT TỔ CHỨC GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
VÀ GIỚI TÍNH
Qua việc gặp gỡ trao đổi với nhiều cán bộ, giáo viên ngành giáo dục về giáo dục
đời sống gia đình và giới tính, chúng tôi thấy về mặt tổ chức thực hiện giáo dục chương
trình này có nhiều vấn đề làm mọi người băn khoăn:
- Nên dạy lồng vào các môn học khác có liên quan hay dạy tính ra thành từng
môn?
- Dạy từ lớp nào.
1. Sau đây là kết quả thu được từ các phiếu thăm đò qua 2 đợt điều tra giáo viên
Bảng 7: Số ý kiến lựa chọn qua 2 đợt
Đợt 1 (192) Đợt 2 (169) Ý nghĩa
Cách tổ chức thực hiện giáo
Số Số của sự
dục đời sống gia đình và giới
tính người % người % khác
đồng ý đồng ý biệt
Dạy lồng vào các môn có liên
143 74,48 118 69,82 -
quan.
Dạy thành môn học riêng (gọi là
38 19,79 27 15,98 -
Giáo dục đời sống gia đình).
Dạy từ lớp 9. 93 48,4 80 58,4 +
Nên dạy ở cấp 3. 105 54,68 91 66,42 +
Theo bảng trên chúng tôi thấy:
– Đa số ý kiến của giáo viên cho rằng nội dung của giáo dục đời sống gia đình và
giáo dục giới tính nên dạy lồng vào các môn học có liên quan như: Sinh lí học, Giáo dục
công dân… (từ 69,82 đến 74,48%). Trong khi số ý kiến tán thành dạy theo một môn
riêng chì chiếm tỷ lệ thấp (15,98 – 19,79%).
Những ý kiến trên ở đợt 2 không cố gì khác biệt ở đợt 1 vì sự khác biệt ý nghĩa
giữa 2 đợt không có ý nghĩa.
- Số ý kiến cho rằng nên dạy ở cấp 3 chiếm tỉ lệ từ 54,68 đến 66,42%, trong đó ở
đợt 2 cao hơn (khác biệt có ý nghĩa) so với đợt 1. Điều này có thể cho thấy đa số giáo
viên tán thành dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính ở học sinh trung
học phổ thông.
- Số ý kiến cho rằng nên dạy ở lớp 9 chiếm từ 48,4 đến 58,4%. Trong đó, ý kiến ở
đợt 2 cũng khác biệt có ý nghĩa với số lượng ý kiến ở đợt 1 và chiếm tỉ lệ 58,4%. Điều
này cho thấy việc dạy chương tình Giáo dục đời sống gia đình ở lớp 9 chưa được đa số
tuyệt đối giáo viên tán thành, nhưng vẫn có thể thực hiện. Tuy nhiên, về nội dung và mức
độ kiến thức cần phải nghiên cứu kĩ hơn cho phù hợp.
2. Tham khảo ý kiến học sinh, chúng tôi thấy
- Khi được hỏi nên dạy kiến thức về đời sống gia đình và giới tính cho học sinh từ
lớp nào, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Trong số 369 phiếu của học sinh cấp 3 có 273 ý kiến (chiếm 73,98%) cho rằng nên
dạy cho học sinh cấp 3, có 241 ý kiến chiếm 65,3% số ý kiến cho rằng nên dạy từ lớp 9
trở lên.
Như thế đa số học sinh trung học phổ thông cũng chấp nhận việc học tập chương
trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính.
Số ý kiến cho rằng nên dạy trong nội khoá chiếm 76,15% (281 em). Ngoài ra, số ý
kiến cho rằng nên dạy nam riêng, nữ riêng chiếm 73,17% (270 em).
3. So sánh ý kiến của giáo viên trước khi huấn luyện và sau khi được huấn luyện
trong các lớp tập huấn chúng ta thấy như sau:
Bảng 8: So sánh ý kiến của giáo viên trước và sau khi huấn luyện.
Trước khi huấn Sau khi huấn
Ý nghĩa
Cách tổ chức thực hiện luyện (169) luyện (137)
của sự
Giáo dục đời sống gia đình Số Số khác
và Giới tính người % người %
biệt
đồng ý đồng ý
Dạy lồng vào các môn có liên
118 69,82 92 69,15 -
quan.
Dạy thành môn học riêng. 27 15,98 63 45,99 +
Dạy từ lớp 9. 80 58,4 85 62,04 -
Nên dạy ở cấp 3. 91 66,42 108 78,83 +
Nhận xét bảng trên ta thấy:
– Số ý kiến của giáo viên cho rằng “nên dạy lồng vào các môn học có liên quan” tuy
không có gì khác biệt lớn với trước khi huấn luyện (sự khác biệt không có ý nghĩa) nhưng
có chiều hướng giảm đi. Trong khi đó số ý kiến cho rằng nên dạy tách thành môn riêng
tăng lên rõ rệt (khác biệt có ý nghĩa so với trước khi huấn luyện) từ 15,98 lên đến
45,99%. Điều này cho thấy một lượng khá lớn giáo viên đã nhận thức rằng việc dạy
thành một môn riêng là cần thiết.
– Số ý kiến “nên dạy từ cấp 3” tăng lên có ý nghĩa: 66,42 lên đến 78 – 83%. Điều
này cho thấy da số giáo viên đều tán thành việc dạy chương tinh Giáo dục đời sống gia
đình và Giới tính cho học sinh. Ở đây, sự tán thành này được khẳng định thêm.
- Số ý kiến “nên dạy cho học sinh lớp 9” cũng tăng lên. Tuy chưa rõ rệt. Nhưng,
điều này cũng chứng tỏ chương trình Giáo dục đời sống gia đình cũng có thể dạy cho
học sinh lớp 9.
– Qua phỏng vấn, nhiều cán bộ và giáo viên còn cho rằng, nên giáo dục, giảng dạy
những kiến thức này sớm hơn nữa, từ lớp 7, lớp 8 trở lên, vì nhiều em ở các lớp này đã
yêu, thậm chí yêu nhiều rồi.
4. Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi thấy có thể rút ra được kết luận
như sau
– Việc giảng dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính là cần thiết
và có thể tiến hành sớm trong tình hình hiện nay.
– Trước mắt, đối với một số bài, có thể dạy lồng vào các môn có liên quan như.:
Sinh lí học, Giáo dục công dân… Tuy nhiên, có thể nghiên cứu để dạy thành một môn
riêng biệt. Thực tế, một số bài, rất khó ghép vào một môn nào như các bài: Tình yêu,
Hôn nhân, Vấn đề vợ chồng trẻ…
– Có thể dạy nội dung chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính trong
chính khoá và trong hoạt động ngoại khoá. Đây là những kiến thức quan trọng, cần thiết
cho học sinh.
– Có thể dạy cho học sinh phổ thông từ trung học cơ sở trở lên. Việc giảng dạy này
vừa xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của các em, vừa xuất phát từ thực tế giáo dục và
thực tế đời sống học sinh mà các thầy cô giáo đã phát hiện được.
Trên đây chỉ là những kết luận ban đầu xuất phát từ kết quả điều tra của chúng tôi
trong các thầy cô giáo và học sinh ở các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chúng tôi nghĩ rằng, kết quả nghiên cứu trên mới chỉ sơ lược và còn những hạn chế
nhất định. Chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm trong quá trình mở rộng việc giảng
dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính trong nhà trường.

Created by AM Word2CHM
Vấn đề 3

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÍ – XÃ HỘI CẦN CHÚ Ý KHI TIẾN HÀNH GIÁO DỤC ĐỜI
SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về
Giáo dục Giới tính cho học sinh Phổ thông – 1991
Việc triển khai chương trình dạy thực nghiệm và chương trình thí điểm về giáo dục
đời sống gia đình và giới tính cho học sinh các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh
đã được tiến hành từ năm 1989 liên tục cho đến nay (1991). Hiện nay, đa số các tỉnh
trong cụm phía Nam của đề án VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09, gồm 7 tỉnh) đã thực
hiện xong giai đoạn dạy thí điểm của năm học 1990 – 1991. Nhìn chung, việc triển khai
đã đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chúng tôi đã phát hiện được một
số vấn đề tâm lí xã hội có thể ảnh hướng trực tiếp đến hiệu quả của đề án nói riêng, đến
việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính cho học sinh nói chung. Chúng tôi đã tiến
hành nghiên cứu bước đầu những vấn đề tâm lí xã hội đó.
Việc nghiên cứu này nằm trong chương trình Nghiên cứu điều tra dư luận xã hội do
Ban Chỉ đạo đề án P09 của Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện,
nhằm mục đích nâng cao hiệu quả và chất lượng việc thực hiện những nhiệm vụ mà Ban
Chủ nhiệm đề án P09 Trung ương giao cho Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí
Minh.
Chúng tôi đã thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu: trao đổi, mạn đàm, hội thảo,
phỏng vấn và điều tra dư luận bằng phiếu thăm dò. Chúng tôi đã gửi phiếu điều tra đến
các trường học ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam và đã thu được 169
phiếu trả lời của các thầy cô giáo. Những kết quả nghiên cứu này được so sánh với kết
quả nghiên cứu năm 1989 để có cơ sở kết luận chính xác hơn.
Các phiếu điều tra thu được xử lí bằng toán thống kê chủ yếu gồm:
– Tính giá trị trung bình X để tìm hiểu mức độ của các ý kiến.
- Tính độ lệch S để tìm hiểu độ dao động của các ý kiến.
– Việc so sánh ý kiến khác biệt của các nhóm độc lập được tiến hành theo Test T–
student so sánh tỉ lệ của các nhóm.
Kết quả nghiên cứu bao gồm nhiều vấn đề: hiện trạng về đời sống giới tính của học
sinh trung học phổ thông, những dư luận xã hội và dư luận học sinh đối với việc Giáo dục
đời sống gia đình và Giới tính trong nhà trường…
Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung nêu lên một số vấn đề tâm lí xã hội cần chú
ý khi tiến hành Giáo dục đời sống gia đình cho học sinh.
1. Một số quan niệm của giáo viên đối với việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới
tính
- Trước hết, chúng tôi tìm hiểu ý kiến của giáo viên về sự cần thiết của Giáo dục
đời sống gia đình và Giới tính đối với học sinh trong tình hình hiện nay.
a) Kết quả nghiên cứu đợt năm 1990 (đợt 2) cho thấy ở Bảng 1 như sau:
Bảng 1
Ý kiến đánh giá của giáo viên Số lượng (169) Tỉ lệ %
Rất cần thiết 38 22,49
Tương đối cần thiết 41 24,26
Có cũng được, không cũng được 62 36,69
Không cần thiết 28 16,57
Theo Bảng 1 ta thấy:
– Có 79 ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là cần
thiết, chiếm tỉ lệ 46,75%, trong đó có 38 ý kiến (22,49%) cho là “rất cần thiết”. Tỉ lệ này
nhiều hơn hẳn ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình và giới tính là không cần thiết:
chỉ có 28 ý kiến chiếm tỉ lệ 16,57%.
- Số lượng ý kiến trả lời “có cũng được, không cũng được” chiếm tỉ lệ khá lớn
36,69% (62 ý kiến). Đây là những ý kiến của các giáo viên còn phân vân đối với việc giáo
dục đời sống gia đình cho học sinh.
b) Nếu cho đếm xếp hạng theo thứ bậc:
- Rất cần thiết: 3 điểm.
- Tương đối cần thiết: 2 điểm.
- Có cũng được, không cũng được: 1 điểm.
– Không cần thiết: 0 điểm.
Chúng tôi có kết quả về trị số trung bình X = 1,527 và độ lệch chuẩn S = 1,018.
– Giá trị X = 1,527 cho thấy dư luận chung giáo viên đối với việc giáo dục đời sống
gia đình cho học sinh nằm trong khoảng giữa hai mức độ “tương đối cần thiết” và “có
cũng được, không cũng được”. Điều đó cho thấy các giáo viên chấp nhận việc đưa giáo
dục đời sống gia đình vào nhà trường nhưng mức độ chưa cao.
- Độ lệch chuẩn S = 1,018 cho thấy sự phân tán của các ý kiến ở mức độ khá
nhiều. Nói một cách khác, trong giáo viên, quan niệm về việc giáo dục đời sống gia đình
cho học sinh có nhiều khác biệt.
c) So sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989 (đợt 1) chúng tôi có 2 như sau:
Bảng 2: So sánh kết quả nghiệm thu năm 1990 với 1989
Đợt 1989 (192 Đợt 1990 (169) Ý nghĩa
Số Số của sự
Ý kiến đánh giá
người % người % khác
đồng ý đồng ý biệt

Rất cần thiết 53 27.6 38 22.49 -


Tương đối cần thiết 72 37,5 41 24,26 +
Có cũng được, không cũng
31 16,15 62 36,69 +
được
Không cần thiết 36 18,57 28 16,57 -
Nhận xét Bảng 2 ta thấy:
– Số ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình rất “cần thiết” ở đợt điều tra 1989
là 27,6% không có sự khác biệt có ý nghĩa với kết quả nghiên cứu năm 1990.
- Số ý kiến cho rằng “không cần thiết” ở 2 đợt cũng không có sự khác biệt ý nghĩa
(18,75% so với 16,57%).
– Số ý kiến cho rằng “tương đối cần thiết” ở đợt nghiên cứu 1989 có sự khác biệt
có ý nghĩa so với kết quả nghiên cứu năm 1990 (37,5% so với 24,26%), nhưng tổng số ý
kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình là cần thiết ở đợt nghiên cứu 1989 cũng hơn
hẳn số ý kiến cho là “không cần thiết” (65,1% so với 18,75%).
d) Để có cơ sở chắc chắn hơn khi rút ra kết luận, chúng tôi đưa ra một số nhận
định về việc đưa giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào giảng dạy cho học sinh phổ
thông, để thăm dò ý kiến trong giáo viên. Kết quả thu được như sau:
Bảng 3
Đợt 1989 Đợt 1990 Ý nghĩa
Số ý Số ý của sự
STT Nội dung nhận định
kiến % kiến % khác
đồng ý đồng ý biệt

Chỉ làm cho học sinh dễ bị


1 21 10,94 16 9,47 -
kích thích không lành mạnh.
Không phù hợp với đạo đức
2 62 32,29 43 25,44 -
phong tục Việt Nam.
Không có điều kiện thực hiện
3 81 42,19 72 42,60 -
trong tình hình hiện nay.
Chỉ cần giới thiệu sách cho
4 34 17,71 31 18,34 -
học sinh đọc.
Nên thực hiện một cách đúng
5 mức, phù hợp trong trường 192 53,13 93 55,03 -
phổ thông.
Từ bảng trên, ta thấy:
- Sự khác biệt ý kiến ở tất cả các nhận định đều không có ý nghĩa, tức là những
quan niệm của giáo viên ở 2 đợt điều tra không có gì khác nhau đáng kể.
- Nhận định 1, 2, 4: có tỉ lệ tán thành thấp (từ 9,47% đến 52,29%). Đây là những
nhận định có tính chất phê phán hoặc không đồng ý với việc đưa giáo dục đời sống gia
đình vào nhà trường.
– Nhận định 3: “Không có điều kiện thực hiện trong tình hình hơn nay” có “tính phản
đối” ít hơn, có tỉ lệ tán thành cao hơn (42,19% – 42,60%) nhưng cũng chỉ có dưới một
nửa số ý kiến tán thành.
– Nhận định 5: “Nên thực hiện một cách đúng mức, phù hợp trong nhà trường phổ
thông” chiếm tỉ lệ cao nhất (tù 53,13 đến 55,03%) số ý kiến tán thành.
Từ những kết quả trên, chúng tôi có kết luận ban đầu như sau:
- Số lượng giáo viên quan niệm giáo dục đời sống gia đình cho học sinh là cần thiết
(từ 46,75% đến 65,1%) chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với số giáo viên cho là không cần
thiết (16,57 % đến 18,75%). Tỉ lệ tán thành việc giáo dục đời sống gia đình và giới tính
cho học sinh chiếm trên 53,13% (53,13% – 55,03%). Như vậy có thể nói rằng xét về
phía dư luận giáo viên, việc tiến hành giáo dục đời sống gia đình cho học sinh có thể
được chấp nhận trong tình hình hiện nay. Việc giáo dục đó là cần thiết và cần thực hiện
một cách đúng mức, phù hợp với nhà trường, với trình độ học sinh.
– Tuy nhiên số ý kiến giáo viên cho rằng việc giáo dục đời sống gia đình cho học
sinh hiện nay là “không cần thiết” cũng chiếm một tỉ lệ không nhỏ (từ 16,57% đen
18,75%). Mặt khác, nếu tính đến số ý kiến phân vân “có cũng được, không cũng được”
chiếm từ 16,15% đến 36,69%; giá trị X = 1,527, S = 1,018 và những kết quả thu được
qua Bảng 3, chúng tôi thấy rằng:
+ Mức độ và số lượng giáo viên tán thành việc giáo dục đời sống gia đình và giới
tính cho học sinh chưa cao.
+ Còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất.
+ Độ phân tán ý kiến khá lớn.
Như vậy việc tiến hành giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh phổ
thông là một việc phức tạp. Chúng ta cần thận trọng chú ý đến nhiều vấn đề. Nói cách
khác, việc giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh có thể có nhiều khó khăn.
Chúng tôi thử tìm hiểu một số khổ khăn điển hình nhất.
2. Một số khó khăn điển hình có thể gặp phải khi tiến hành giáo dục đời sống gia
đình và giới tính cho học sinh phổ thông.
Tập hợp kết quả trả lời ở những câu hỏi mở trong phiếu điều tra, cùng với việc tổ
chức những buổi hội thảo và phông vấn trực tiếp từng người, chúng tôi thấy các thầy cô
giáo đã nêu lên nhiều khó khăn khi thực hiện nội dung giáo dục này trong nhà trường.
Điển hình là những khó khăn sau đây:
a) Phong tục tập quán Việt Nam.
b) Nhiều người chưa thống nhất về vấn đề này.
c) Nhiều người chưa hiểu biết về vấn đề này.
d) Các thầy cô giáo chưa được huấn luyện.
e) Tài liệu về vấn đề này quá ít.
g) Tình hình xã hội phức tạp.
h) Không có thời gian trong năm học vì thương trình học tập của học sinh đã nặng
nề.
i) Học sinh e ngại hoặc dám học.
Để xác định cụ thể hơn những khó khăn có thể có, chúng tôi đưa ra câu hỏi lựa
chọn, tìm hiểu kỹ hơn về sự khẳng định của các thầy cô đối với khó khăn này, kết quả
điều tra thu được ở Bảng số 4 sau đây:
Bảng 4: Sự khẳng định của giáo viên về các khó khăn
Đợt 1989 Đợt 1990 Ý nghĩa
S T Ý kiến Ý kiến của sự
Khó khăn có thể có
T khẳng % khẳng % khác
định định biệt

a Phong tục tập quán Việt Nam. 172 89,58 151 89,35 -
Nhiều người chưa thống nhất
b 158 82,29 134 72,29 -
về vấn đề này.
Nhiều người chưa hiểu biết về
c 163 84,90 147 86,98 -
vấn đề này.
Các thầy cô giáo chưa được
d 181 94,27 145 85,80 +
huấn luyện.
e Tài liệu về vấn đề này quá ít. 148 77,08 124 73,37 -
g Tình hình xã hội phức tạp. 121 63,02 134 72,29 +
Không có thời gian trong năm
h học vì thương trình học tập 143 74,48 147 86,98 +
của học sinh đã nặng nề.
Học sinh e ngại hoặc dám
i 87 45,31 61 36,09 -
học.
Qua Bảng 4 ta thấy:
Nếu nhận xét riêng kết quả điều tra năm 1990
- Khó khăn được khẳng định nhiều nhất là khó khăn do phong tục tập quán nước ta
gây nên: 89,35%, số ý kiến khẳng định. Do đặc điểm tâm lí dân tộc, nếp sống xã hội,
người dân Việt Nam thường rất e ngại khi nói đến những vấn đề như tình yêu, sinh lí nam
nữ, chuyện vợ chồng… Vì thế, việc dạy nội dung này cho học sinh dễ bị dư luận xã hội
hiểu lầm, thành kiến… Do đó, khi thực hiện những nội dung này còn có những biện pháp
cần thiết để hướng dẫn và chuẩn bị dư luận xã hội.
– Tiếp theo, khó khăn do “Nhiều người chưa hiểu biết về vấn đề này” và “Không có
thời gian để dạy nội dung này trong năm học…” đều được 86,98% ý kiến khẳng định.
– Những nội dung kiến thức về Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính từ trước
đến nay chưa được dưa vào giảng dạy tính thức, hệ thống ở nước ta. Những người quan
tâm đến vấn đề này chỉ có thể tự nghiên cứu, tìm tòi, đọc sách, trao đổi riêng với nhau.
Nhưng sách báo, tài liệu có tính giáo dục, hệ thống, khoa học về vấn đề này lại không có
nhiều, chính xác là khá phổ biến với nhiều người. Sự “chưa hiểu biết” thường biểu hiện ở
nhiều mức độ, nhiều khía cạnh.
+ Chỉ nắm được một số kiến thức có tính kinh nghiệm cá nhân, thiếu tính lí luận, hệ
thống, khái quát; chẳng hạn như kiến thức về quản lí gia đình, về sự cư xử giới tính…
+ Nắm kiến thức chưa đầy đủ: sự hạn hẹp về khái niệm; ví dụ như các khái niệm
giới tính, đời sống gia đình, quan hệ vợ chồng…
+ Nhiều quan niệm khác nhau về một khái niệm như quan niệm về chữ trinh, về tình
yêu, về tình dục…
+ Thậm thí, có nhiều người hiểu sai, hoặc không biết gì về nhiều vấn đề của đời
sống gia đình và giới tính như kiến thức về cơ thể nam nữ, về đời sống tình dục, tình yêu
và bệnh tình dục…
Sự thiếu hiểu biết như trên, sẽ dẫn đến những thành kiến, những mặc cảm khó chịu,
những ý kiến chống đối lại việc đưa giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào nhà
trường.
Trong những cuộc trao đổi trực tiếp với chúng tôi, nhiều thầy cô giáo đã nói thẳng
rằng, chính họ cũng không biết thắc chắn các khái niệm như: giới tính, hôn nhân, tình
yêu… để giải thích cho các em. Vì từ trước đến nay họ cũng chưa bao giờ được học về
tri thức đó. Thậm chí, một cán bộ quản lí cấp thành phố phụ trách tuyên huấn đã phát
biểu: “Giới tính là chuyện thiếu tế nhi, hiện nay cho nên nghiên cứu về vấn đề này”.
Ngay trong hội nghị định hướng của đề án P09 ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một
số phụ huynh, giáo viên vẫn lên tiếng phản đối giáo dục giới tính cho học sinh, vì “đó là
chuyện bậy bạ”, “chuyện không nên nói đến trong nhà trường”, “chuyện sẽ kích thích cho
học sinh thêm hư hỏng”… Cả đến một đồng chí hiệu trưởng trường trung học phổ thông
lớn của Thành phố cũng đã phát biểu: “Chưa nên giáo dục đời sống gia đình và giới tính
cho học sinh vì đây là chuyện thiếu tế nhị, thiếu tính mô phạm, không phù hợp với không
khí thanh cao ở nhà trường”.
Như vậy việc nhận thức chưa đầy đủ (hoặc sự chưa hiểu biết) về giáo dục đời sống
gia đình và giới tính chính là một khó khăn lớn. Đây là một yếu tố quan trọng chung ta
phải tính đến khi triển khai đại trà nội dung giáo dục này trong nhà trường.
Khó khăn về thời gian giảng dạy trong năm học cũng là một vấn đế. Hiện nay hoạt
động học tập đã quá căng thẳng về thời gian. Số lượng môn học có chiều hướng tăng
lên, nhưng số buổi học và số giáo viên dạy lại giảm đi.
Như thế việc xếp thời gian để học thêm một môn học nữa là rất khó. Khi phỏng vấn
cá nhân các giáo viên về vấn đề này, nhiều thầy cô giáo đã nói: các em học sinh đã học
quá nhiều, nội dung chương trình đã quá nặng nề, chỉ nên bớt giờ đi, sao lại tăng thêm
giờ? Đây là một khó khăn cần phải tính đến, phải giải quyết bằng được mới có thể thực
hiện tốt việc đưa chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào nhà trường.
– Một khó khăn nữa là “giáo viên cho được huấn luyện”, số ý kiến khẳng định là 145
chiếm 85,80%, đây là một thực tế ở nước ta trong mấy chục năm trở lại đây. Trong
chương trình đào tạo ở các trường sư phạm từ trung cấp, cao đắng đến đại học sư
phạm, trong các lớp huấn luyện bồi dưỡng đều không có nội dung này. Bởi thế, khi tổ
chức dạy thực nghiệm, dạy thí điểm chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới
tính, chúng ta phải lo giải quyết tình trạng: các giáo viên được mời tham gia giảng dạy
chưa được học chương trình này, làm sao có thể dạy cho học sinh?
– Mặt khác, hiện tượng “nhiều người chưa thống nhất ý kiến về nội dung giáo dục
này” cũng là một khó khăn lớn: có tới 134 ý kiến khẳng định, chiếm 79,29%.
Sự chưa thống nhất ý kiến có thể ờ nhiều khoá cạnh
+ Chưa thống nhất trong việc nhận thức tầm quan trọng hay sự cần thiết của việc
đưa giáo dục đời sống gia đình vào nhà trường (xem mục 1 đã trình bày ở trên).
+ Chưa thống nhất về nội dung giảng dạy cho học sinh: dạy cho các em những kiến
thức gì, mức độ đến đâu?
+ Chưa thống nhất quan niệm về một số kiến thức của đời sống gia đình và giới
tính.
+ Chưa thống nhất về thái độ đối với một số vấn đề của nội dung giáo dục đời sống
gia đình.
– Chính những khó khăn này thể hiện rõ nét khi xây dựng chương trình, biên soạn
tài liệu. Nó đặt ra nhiều vấn đề lớn như:
+ Nên dạy cho học sinh những kiến thức gì?
+ Cần lựa chọn những phương pháp dạy nào? Những hình thức giáo dục nào? Dạy
thành môn riêng hay ghép với môn khác?
- “Tình hình xã hội phức tạp hiện nay” cũng là một khó khăn cản trở việc dưa Giáo
dục đời sống gia đình và Giới tính vào nhà trường: có 134 ý kiến khẳng định, chiếm
79,29%.
Hiện trạng trật tự trị an xã hội phức tạp, văn hoá phẩm đồi trụy tràn lan, nhiều tệ
nạn xã hội như xì ke ma tuý, nhậu nhẹt, mãi dâm, trộm cắp… ảnh hưởng không tốt tới
hiệu quả giáo dục. Hiện trạng đó có thể làm tăng thêm nỗi e ngại của mọi người nếu dạy
cho học sinh những vấn đề như tình yêu, tình dục, sinh lí cơ thể người…
- Một khó khăn nữa đó là tài liệu, sách báo đúng đắn, khoa học về lĩnh vực này quá
ít. Trước đây, mọi người thường băn khoăn vì chưa có sách giáo khoa về môn học này.
Hiện nay tuy dã có sách về giáo dục giới tính, nhưng sách tham khảo có tính khoa học
chỉ có rất ít. Ngược lại, có rất nhiều các loại tài liệu phiến diện hoặc thiếu tính khoa học
hoặc theo những quan điểm, những cách hiểu khác nhau về giới tính khiến cho người đọc
và các em học sinh hoang mang không biết nên theo tài liệu nào. Thậm chí, có những
sách biên soạn lệch lạc, chạy theo thị hiếu, thị trường nhằm mục đích kinh doanh, nên
nhiều khi lại có tác dụng phản diện.
- Hiện tượng “học sinh e ngại không dám học một số bài” cũng là một khó khăn cần
chú ý (có 61 ý kiến, chiếm 36,09%). Theo ý bến của một số thầy cô giáo, có nhiều bài
học sinh có thể e ngại khi nghe giảng như Kinh nguyệt, Cấu tạo cơ quan sinh dục nam
nữ, Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai…
Hiện tượng “học sinh e ngại học một số bài” sẽ được trình bày kĩ trong một bài viết
khác. Ở đây, qua điều tra ý kiến của các thầy cô giáo, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng
đó là một trong những khó khăn mà chúng ta phải tính đến khi triển khai chương trình
giáo dục này.
3. So sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989
– Theo Bảng 4, ta thấy những khó khăn như “Phong tục tập quán Việt Nam”, “Nhiều
người chưa thống nhất về vấn đề này”, “Nhiều người chưa biết về vấn này”, Tài liệu ít:
“Học sinh e ngại khi học”, được khẳng định như nhau ở 2 đợt nghiên cứu, vì sự khác biệt
ở 2 đợt nghiên cứu là không có ý nghĩa.
- Khó khăn do “Các thầy cô giáo chưa được huấn luyện” trong đợt 2 ít người
khẳng định hơn so với đợt 1, có thể do thời gian này, việc triển khai đề án P09 đã rộng
rãi hơn, vấn đề này đã được nhiều giáo viên quan tâm nghiên cứu hơn. Điều này cho thấy
nếu các thầy cô giáo quan tâm nghiên cứu lĩnh vực này, khó khăn trên có thể được giải
quyết.
Tuy nhiên, hiện tại, số ý kiến khẳng định khó khăn này còn chiếm tỉ lệ rất lớn
(85,80%). Cho thấy đây vẫn là một khó khăn cần quan tâm giải quyết trước mắt.
Các khó khăn “Tình hình xã hội phức tạp”, và “Không có thời gian” ở đợt nghiên cứu
1990 tăng hơn khá nhiều so với đợt 1989 cho thấy, đây chính là những vấn đề quan
trọng phải rất chú ý giải quyết thích hợp.
4. Kết luận chung
Qua cả 2 đợt nghiên cứu, có thể thấy những khó khăn được nêu trên là những vấn
đề chủ yếu cần tập trung giải quyết, để có thể tiến hành tốt việc giáo dục đời sống gia
đình và giới tính cho học sinh. Từ những khó khăn đó, chúng tôi thấy cần chú ý một số
vấn đề sau:
a) Cần làm tốt công tác tuyên truyền trong nhà trường, xã hội và học sinh về
ý nghĩa và nội dung của giáo dục đời sống gia đình và giới tính, nhất là giới thiệu chương
trình giáo dục. Khi giới thiệu ý nghĩa và chương trình chung của giáo dục đời sống gia
đình và giới tính, chúng ta sẽ có thể tránh được sự phản đối do nhận thức sai lầm hoặc
do sự hiểu biết không đầy đủ về nội dung của những vấn đề khoa học mới này. Thực tế
cho thấy nhiều người phản đối việc giáo dục này chính là vì họ hiểu sai về những nội dung
Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, khi
được giới thiệu, và nhất là khi được nghiên cứu kỹ họ sẽ có thể thay đổi quan niệm, họ
sẽ thấy rõ hơn sự cần thiết của nội dung giáo dục này.
b) Do phong tục tập quán nước ta, khi giảng dạy một số bài như “Tình dục”,
“Tình yêu”, “Đặc điểm cơ quan sinh dục nam nữ”… cần phải chú ý tiến hành bài giảng
thật “tế nhị” và thận trọng.
Ví dụ:
– Xếp thứ tự sau các bài khác, để “từ từ dưa những bài đó vào cho học sinh quen
dần.
– Thái độ giảng bài của giáo viên thật tự nhiên, nghiêm túc.
– Ở một số vùng, cần xét đến việc tổ chức dạy nam riêng, nữ riêng ở một số bài
“đặc biệt”.
– Không nên giảng kiến thức một cách sống sượng, thô thiển, dùng từ ngữ dung
tục, hoặc mô tả hiện tượng một cách trần trụi, đơn thuần.
- Cần kết hợp việc dạy tri thức với việc giáo dục, hình thành thái độ đúng đắn, văn
hoá đối với các vấn đề trên. Kết hợp việc giảng dạy với việc phê phán những biểu hiện
không tốt trong nếp sống, sinh hoạt có liên quan tới tri thức của những bài trên.
c) Việc lựa chọn và xây dựng chương trình, nội dung giảng dạy cần rất khoa
học, hợp lí. Có thể mạnh dạn bỏ hoặc thu hẹp thời gian dạy ở một số bài trong các môn
học khác để có thời gian dạy chương trình này.
d) Cần phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu lĩnh vực này, đặt họ viết
sách, viết bài để có nhiều tài liệu xây dựng tủ sách tham khảo cho việc Giáo dục đời
sống gia đình và Giới tính. Cần giúp cho học sinh phân biệt những sách báo, tài liệu
không khoa học, không phù hợp với việc giáo dục giới tính.

Created by AM Word2CHM
Vấn đề 4

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

VẺ ĐẸP VÀ VẤN ĐỀ LÀM ĐẸP Ở THANH NIÊM


Bài giảng về giới tính cho Thanh niên
Lớp Giáo dục giới tính Nhà Văn hoá
Thành phố Hồ Chí Minh.
I. Ý NGHĨA CỦA VẺ ĐẸP CON NGƯỜI TRONG ĐỜI SỐNG
Vẻ đẹp là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của mỗi con người.
Ở đâu, làm việc gì, hầu như con người đều chú ý đến cái đẹp và cách làm đẹp. Chọn
một cái áo, cái nón, một thứ đồ dùng nào đó, chúng ta đều để ý xem nó có đẹp không,
nó có làm cho mình đẹp lên không. Đi ra ngoài nhiều người thường quan tâm đến vẻ đẹp
bản thân hay nhận xét vẻ đẹp của người khác.
Hầu như ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tâm tư tình cảm, nguyện vọng, mơ ước
đến lao động, học tập… con người đều hướng tới cái đẹp. Hầu như ở mọi người, mọi lứa
tuổi, nam cũng như nữ ai cũng có nhu cầu về cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, vươn tới cái
đẹp… Có thể nói, cái đẹp, là một trong những yếu tố cơ bản của cuộc sống con người,
của đời sống tinh thần của “tính người” của con người.
Đánh giá con người, chúng ta chú ý đến nhiều cái đẹp của họ: cái đẹp trong tâm
hồn, trong cư xử, hành vi, cái đẹp trong ăn mặc, trang điểm, cái đẹp bởi sự khoẻ mạnh,
trẻ trung, cái đẹp trong nếp sống, trong lao động làm việc… nhất là đối với bạn gái,
người con gái phải biết làm đẹp.
Vẻ đẹp con người, vẻ đẹp cơ thể là yếu tố quan trọng làm nảy sinh nền văn hoá xã
hội, nảy sinh những sáng tạo, những cảm hứng âm nhạc, nghệ thuật… làm nảy sinh
những tình cảm cao đẹp, tình cảm đạo đức xã hội.
Vẻ đẹp con người có khi trở thành yếu tố đầu tiên làm nảy sinh tình yêu nam nữ
hoặc ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc vợ chồng. Nhiều trường hợp, chỉ vì sắc đẹp, thậm
chí chỉ một cặp mắt huyền, một mái tóc mây óng ả, một má lúm đồng tiền… tình yêu đã
nảy sinh, say đắm.
Trong lao động, vẻ đẹp làm con người bớt mệt mỏi, làm tăng hứng thú, tăng năng
suất, tăng hiệu quả của lao động.
Đối với thanh niên, vẻ đẹp con người lại càng có ý nghĩa lớn lao, ở tuổi trẻ, nhu cầu
về cái đẹp, sự vươn tới cái đẹp được biểu hiện rõ rệt trực tiếp và mãnh liệt. Vẻ dẹp con
người thường được nhiều bạn trẻ coi là yếu tố đầu tiên và quan trọng để xem xét người
khác và chính bản thân mình. Họ thường dành nhiều thời gian để tìm hiểu vẻ đẹp của
mình; họ rất chú ý làm đẹp, sáng tạo cái đẹp, nhận thức cái đẹp, cảm thụ cái đẹp… cái
đẹp như là một yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của thanh niên.
Có thể nói, tuổi trẻ là tuổi khát khao cái đẹp, gắn liền với cái đẹp không thể thiếu
được cái đẹp. Giáo dục thanh niên phải gắn liền với giáo dục về cái đẹp.
Điều quan trọng là hiểu cho đúng về vẻ đẹp con người và cách làm đẹp ở con
người.
II. THẾ NÀO LÀ VẺ ĐẸP CON NGƯỜI
1. Nói đến vẻ đẹp con người, ta cần chú ý đến hai loại yếu tố chính
a) Vẻ đẹp bên trong
Vẻ đẹp bên trong là vẻ đẹp về đạo đức, tâm hồn con người. Đó là những phẩm
chất đạo đức cao thượng, đúng đắn, phù hợp với đạo đức xã hội như: sự trung thực,
thẳng thắn, đức tính cần cù trong lao động, chăm chỉ trong công việc, sự lễ độ, lòng nhân
ái, lòng chung thuỷ, lòng yêu nước, lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm, hăng say trong
lao động, lao động sáng tạo… Những phẩm chất này thể hiện ra ở mọi hành vi, cử chỉ.
Chúng là động cơ cao cả của những cử chỉ, hành vi.
Vẻ đẹp bên trong là những phẩm chất đẹp đẽ của trí tuệ, của nhận thức như: sự
thông minh, linh hoạt, sự nhạy bén, sự hiểu biết rộng, tài năng, tính văn hoá khoa học…
Nó còn là những phẩm chất tốt đẹp khác như: tình cảm sâu sắc, cảm xúc tinh tế, nhạy
bén… Sự kết hợp hài hoà của những phẩm chất trên, thường tạo ra những vẻ đẹp đặc
biệt mà ta thường nói “một tâm hồn phong phú”, “một con người thông minh, nhạy cảm”.
Vẻ đẹp bên trong còn thể hiện qua tình bạn cao cả, tình yêu thắm thiết, chung thuỷ,
sự đối xử cao thượng… Nó còn là sự biểu hiện một cách phù hợp, rõ nét, sâu sắc những
đặc điểm giới tính con người: “Một cô gái dịu dàng đôn hậu”, “Một chàng trai dũng cảm,
hiên ngang”…
b) Vẻ đẹp bên ngoài:
Là vẻ đẹp biểu hiện ở nhiều khía cạnh, đặc điềm ở con người mà người khác có
thể thấy trực tiếp, bao gồm:
– Những vẻ đẹp của hành vi, cử chỉ, nếp sống, dáng điệu, điệu bộ.
Đó là vẻ đẹp của tư thế tác phong, từ cách nghiêng đầu, nghẹo cổ cúi mình, vuốt
tóc… đến cách đi lại, đứng ngồi, các động tác cầm tay… đó là nét mặt, ánh mắt, nụ
cười… Những biểu hiện trên thường được gọi là dáng điệu con người.
Đó là lời nói với những nội dung, từ ngữ, âm điệu kèm theo: Những lời nói dịu êm,
dứt khoát, ngọt ngào, tế nhị lịch sự… (trái lại, những lời nói sỗ sàng, trắng trợn, tục tĩu…
là sự xấu xa, kém văn hoá). Đánh giá vẻ đẹp người con gái, dân tộc ta có câu: “Nhất
thanh, nhì sắc”. Như thế ngay từ ngày xưa, người Việt Nam ta đã coi lời nói là một yếu tố
quan trọng của vẻ đẹp con người.
Đó là vẻ đẹp trong lao động hăng say, lao động sáng tạo.
Đó là nếp sống sinh hoạt lành mạnh, văn minh, là sự tổ chức cuộc sống gọn gàng,
ngăn nắp, khoa học dù trong bất kì điều kiện nào. Đó là những hoạt động vui chơi, thể
thao, ca hát sau giờ làm việc là sự sạch sẽ nơi ăn, ở, là những bông hòa tươi mát trang
điểm nơi sinh hoạt, học hành, là cách ăn mặc lịch sự, phù hợp với điều kiện, vóc dáng
con người…
Vẻ đẹp hành vi còn là những hành động, việc làm của con người trong những điều
kiện, tình huống nhất định: sự giúp đỡ người khác, cách xử thế văn hoá, văn minh, những
cử chỉ âu yếm, chăm sóc…
– Vẻ đẹp hình thể: Đó là sự khoẻ mạnh, cường tráng đầy sức sống của con người,
là chiều cao và kích thước hợp lí của các bộ phận cơ thể, là sự cân đối giữa cái mũi và
cái miệng, cặp mắt với hàng mi, khuôn mặt và mái tóc… Người ta thường nói: “Đôi mắt
bồ câu cái mũi dọc dừa”… để chỉ vẻ đẹp con người. Tuy nhiên, mọi người thường chú ý
trước hết vào các yếu tố sau:
+ Thân hình nảy nở, cân đối.
+ Dáng điệu khoẻ mạnh, đầy sức sống và duyên dáng.
+ Nét mặt xinh xắn hài hoà.
+ Làn da hồng hào, mịn màng…
c) Mối quan hệ giữa các yếu tố
Vẻ đẹp bên trong và bên ngoài có quan hệ mật thiết với nhau, vẻ đẹp bên trong thể
hiện ra và chi phối vẻ đẹp bên ngoài. Nó có thể làm tăng lên, giảm đi hoặc thay đổi ý
nghĩa của vẻ đẹp bên ngoài. Một bộ quần áo, kiểu tóc, một hành vi cử chỉ có thể làm
đẹp, duyên dáng, nhưng lại có thể trở thành lố bịch, kệch cỡm. Nguyên nhân chủ yếu do
vẻ đẹp bên trong quyết định. Qua vẻ đẹp bên ngoài, ta lại biết được vẻ đẹp bên trong.
Sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp bên trong và bên ngoài sẽ tạo nên vẻ đẹp toàn
diện bền vững và hấp dẫn ở con người, tạo nên cái duyên của con người.
Nhiều trường hợp, vẻ đẹp bên trong và bên ngoài có mối quan hệ mật thiết đến nỗi,
khó có thể tách bạch được, đâu là yếu tố của vẻ đẹp bên trong, đâu là của bên ngoài.
Thực chất, sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối. Đứng trên một góc độ nhất định,
một phẩm chất, một yếu tố nào đó được coi là vẻ đẹp bên ngoài (mái tóc đẹp, đôi mắt
đẹp…) nhưng đứng trên một góc độ khác nó có thể là vẻ đẹp bên trong. Bởi thế, hiểu
được cái đẹp, đánh giá đúng đắn về cái đẹp là vấn đế rất khó khăn, phức tạp. Muốn hiểu
đầy đủ hơn về về đẹp con người, chúng ta cần chú ý đến tính tâm lí xã hội của nó.
2. Tính tâm lí xã hội của vẻ đẹp con người
Do trình độ khác nhau, con người có nhận thức về cái đẹp khác nhau. Cùng một
kiểu ăn mặc, người này cho là đẹp, là mốt, người khác đánh giá là vô duyên, trơ trẽn,
bất lịch sự. Cùng một hành vi cư xử có bạn trẻ tưởng là ngang tàng, độc đáo, anh hùng
mà không biết rằng mọi người đánh giá là thiếu văn hoá và vô đạo đức, việc đánh giá về
cái đẹp của con người phụ thuộc vào trình do nhận thức của họ. Muốn làm đẹp phải biết
cách làm đẹp, phải có văn hoá và kiến thức.
Do tình cảm hoặc cảm xúc chi phối, con người cũng đánh giá cái đẹp không thống
nhất: Nếu bạn thích ai, bạn sẽ thấy người đó cái gì cũng đẹp, hoặc bạn chỉ nhìn thấy
những cái đẹp ở người đó. Khi đang yêu say đắm, bạn sẽ thấy “người ta” thật là đẹp:
mái tóc đẹp, cặp mắt đẹp, nụ cười tươi trẻ… thậm chí tiếng… ho của người yêu cũng dễ
thương. Có trường hợp, những đặc điểm xấu được “đẹp hoá” chiếc răng khểnh trở thành
có duyên, người gầy ốm là mảnh mai, người mập là bụ bẫm, nảy nở…
Nhưng nếu bạn ghét người đó, cách đánh giá sẽ hoàn toàn ngược lại.
Bởi vậy, người ta thường nói: “Người đẹp nhất là người mình yêu”.
Những yếu tố đẹp của thái độ, hành vi, những vẻ đẹp của các bộ phận cơ thể: cặp
mắt, đôi môi… chỉ là do thói quen của xã hội, chỉ là do quy ước của con người.
Mỗi hành vi cử chỉ phù hợp với đạo đức xã hội, những cách ăn mặc, trang điểm,
kiểu đầu tóc, quần áo nếu phù hợp với mọi người, với hoàn cảnh đều trở thành đẹp đẽ và
ngược lại. Nói một cách khác cái đẹp phụ thuộc chủ yếu vào con người và xã hội. Người
Việt Nam chúng ta cho rằng: đôi môi hồng hào hình trái tim, cặp mắt bồ câu là đẹp,
nhưng một số vùng châu Phi lại cho rằng cặp môi dày, hoặc đôi mắt lác mới là đẹp. Vì
thế, nhiều cô gái châu Phi phải kẹp vào môi những vật nặng, kéo dài môi ra, hoặc từ bé
phải tập nhìn vào một điểm giữa mũi để mắt lác cho đẹp.
Nếu bạn mặc bộ trang phục thật đẹp, thật mốt, sang trọng đắt tiễn để đi dự hội hay
đám cưới, bạn có thể được đánh giá là đẹp. Nhưng nếu bạn ăn mặc trang điểm như thế
để đến thăm một bạn khác nhà nghèo, phải mặc áo vá, bạn sẽ trở thành kệch cỡm, thiếu
văn hoá, thậm chí là tàn nhẫn. Trong trường hợp đó, chẳng ai khen bạn là đẹp cả.
Có những kiểu quần áo ngoại quốc mà nếu cô gái Việt Nam mặc đi ngoài đường sẽ
có thể bị mọi người đánh giá là trơ trẽn, thiếu đứng đắn.
Nhiều cách làm đẹp, trang điểm vào một thời kì nhất định nào đó, được nhiều người
cho là đẹp và bắt chước, nhưng ở một thời kì khác lại là lạc hậu, không phù hợp. Có
những kiểu giầy dép, đầu tóc đồ dùng từ thế kỉ thứ XIV, XV bây giờ lại đang là hiện
tượng “mốt”.
Một chàng trai ăn mặc trang điểm giống hệt một bạn gái, có khi trở thành một trò
cười cho mọi người: người ta sẽ gọi anh chàng là “pêđê” hay ái nam ái nữ. Trong trường
hợp này, vẻ đẹp phụ thuộc vào giới tính: con người chỉ đẹp thực sự khi ăn mặc, trang
điểm phù hợp với giới của mình. Nói một cách khác, việc làm đẹp phải phù hợp với giới
tính.
Còn nhiều yếu tố tâm lí xã hội khác chi phối cái đẹp và việc làm đẹp ở con người.
Do tác động của những yếu tố này, cái đẹp mang tính tương đối. Khi làm dẹp, chúng ta
phải chú ý đến mọi người, đến tính dân tộc, đến hoàn cảnh, điều kiện, đến giới tính và
lứa tuổi… cùng với nhiều yếu tố khác.
Tuy nhiên, vẫn có những tiêu chuẩn nhất định do xã hội đặt ra để đánh giá vẻ đẹp
con người.
Ở nhiều nơi khi chấm thi và lựa chọn hoa hậu người ta thường dựa vào những tiểu
chuẩn như:
– Chiều cao và kích thước của một số bộ phận cơ thể.
– Sự hài hoà cân đối cua một số đường nét trên mặt và cơ thể.
– Dáng điệu, cách cư xử, cách đi lại, đứng ngồi.
– Cách ăn mặc, trang điểm.
– Cách ứng xử, nói năng.
– Sự hiểu biết về đời sống xã hội…
Muốn tìm hiểu về cái đẹp hình thể và làm đẹp một cách có hiệu quả, bạn trẻ cần
biết được đầy đủ và có hệ thống những tiêu chuẩn đó để rèn luyện.
III. VẤN ĐỀ LÀM ĐẸP Ở THANH NIÊN
1. Những nguyên tắc làm đẹp
Do bản chất của vẻ đẹp con người, đặc biệt do những yếu tố tâm lí, xã hội của cái
đẹp, việc làm đẹp phải tuân theo nhưng nguyên tắc cơ bản sau:
– Phải có ý thức làm đẹp đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi trong đời sống hằng ngày.
– Làm đẹp phải mang tính đạo đức, tức là phải phù hợp với đạo đức xã hội, phải
gắn liền với những phẩm chất đạo đức, đạo lí Việt Nam như: tính trung thực, lòng nhân
ái… Những hành vi đẹp, những vẻ đẹp thực sự ở con người bao giờ cũng phải xuất phát
từ nền tảng đạo đức, động cơ đạo đức tốt đẹp. Những vẻ đẹp kiêu kì, tàn nhẫn thường
làm mọi người xa lánh. Sự cư xử giả tạo, “màu mè” thường làm người ta khó chịu; thái
độ âu yếm, chiều chuộng của kẻ phản bội, giảo hoạt cũng làm cho người ta ghê sợ…
– Làm đẹp phải đảm bảo giới tính và cá tính. Vẻ đẹp của người nam và người nữ
có đặc điểm khác nhau. Việc làm đẹp phải tuân theo những đặc điểm đó, nhất là những
đặc điểm riêng của mỗi người. Việc làm đẹp theo kiểu a dua, bắt chước, chạy theo mốt
mù quáng, nhiều khi không làm cho bạn đẹp hơn, mà ngược lại, làm bạn mất đi cái đẹp
tự nhiên, vốn có của bạn. Nghệ thuật làm đẹp chính là ở chỗ, bạn biết tạo ra cái đẹp, phù
hợp với đặc điểm riêng của mình.
– Làm đẹp phải chú ý đến tính hiện đại và tính truyền thống. Là người Việt Nam,
bạn hãy làm đẹp theo kiểu Việt Nam, theo tâm lí Việt Nam. Việc giữ gìn bản sắc dân tộc
nhiều khi giúp cho ta tạo nên những nét đẹp độc đáo: mái tóc dài Việt Nam, tà áo dài
Việt Nam. Tuy nhiên, tính thời đại và mốt cũng rất cần thiết.
- Làm đẹp phải bảo đảm tính cân đối, hài hoà. Đó là sự hài hoà cân đối giữa các
bộ phận cơ thể, giữa các đường nét, màu sắc, hình khối… muốn để kiểu tóc nào, bạn
phải chú ý giữa sự cân đối giữa kiểu tóc ấy với khuôn mặt, chiều cao… của bạn. Mặc
kiểu quần áo nào, phải chú ý đến tầm vóc cơ thể (mập, ốm…) màu sắc quần áo phải hài
hoà với màu da. Đặc biệt phải đảm bảo sự cân đối giữa vẻ đẹp bên trong với vẻ đẹp bên
ngoài.
- Làm đẹp phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, phải tuỳ từng lúc, từng nơi. Bộ
quần áo mặc ở nhà đẹp nhưng ra ngoài đường lại không hợp. Nếu đi lao động mà trang
điểm chải chuốt, có khi bị chê là ăn diện. Đi dự vũ hội, dám cưới mà ăn mặc giản dài quá
có thể bị gọi là… mắc bệnh tâm thần.
Tóm lại, việc làm đẹp trong ăn mặc luôn phải gắn liền với nguyên tắc phù hợp và hài
hoà.
– Làm đẹp, phải biết cách giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên, kết hợp với sự sửa soạn trang
điểm. Nếu bạn sử dụng quá nhiều mĩ phẩm, vẻ đẹp tự nhiên của bạn sẽ bị ảnh hưởng tai
hại. Con người vẫn thích vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Đó là vẻ đẹp quý giá nhất.
2. Một số vấn đề làm đẹp cụ thể
a) Muốn làm đẹp, việc đầu tiên là bạn phải biết thế nào là đẹp và cách làm
đẹp
Đó là một khoa học, một nghệ thuật với nhiều tri thức phức tạp và phong phú. Trên
cơ sở nắm vững tri thức ấy bạn hãy làm đẹp toàn diện, cả vẻ đẹp bên trong lẫn bên
ngoài.
b) Làm đẹp những vẻ đẹp bên trong gắn liền với việc rèn luyện đạo đức và
trau dồi kiến thức văn hoá
Bạn hãy rèn luyện để sống đẹp theo tiêu chuẩn của đạo đức xã hội. Bạn hãy quan
tâm đến mọi người, sống nhân hậu, có trách nhiệm, trung thực và tôn trọng mọi người…
đó là những yếu tố cốt lõi của vẻ đẹp bên trong. Bạn hãy cố gắng học tập nâng cao kiến
thức hãy tăng cường giao tiếp, để học hỏi bạn bè, mở rộng hiểu biết. Có những kiến
thức kĩ năng, tưởng chừng bình thường nhưng lại rất có ý nghĩa đối với vẻ đẹp tâm hồn
con người. Bạn đừng coi thường những tài lẻ, như cách sửa chữa đồ điện, nghệ thuật
nấu ăn, cách làm bánh, cắm bông…
c) Làm đẹp những vẻ đẹp bên ngoài cũng rất phức tạp, đa dạng
- Trước hết là làm đẹp trong hành vi cử chỉ, tư thế tác phong. Mỗi người đều phải
giữ gìn ý tứ, tế nhị trong cư xử, lời nói, nụ cười… Để có được nghệ thuật giao tiếp, các
bạn cần luôn luôn chú ý “học ăn, học nó học gói, học mở”. Một số bạn trẻ do hiểu lầm về
cách cư xử, nói năng, dễ bị đánh giá là điệu bộ, kiểu cách, hống hách bêu kì, lập dị… Đó
là những cái xấu trong hành vi, cử chỉ mà mỗi bạn cần tránh.
- Việc làm đẹp cơ thể cũng rất quan trọng, để có một thân hình khoẻ mạnh, cân
đối, nảy nở, một làn da đẹp mịn màng, điều trước tiên là phải tập luyện cơ thể, đặc biệt
là tập thể dục thẩm mỹ dưỡng sinh, bơi lội, xoa bóp… Tập thể dục nhịp điệu cũng rất tốt
nhưng cần hỏi ý kiến các thầy thuốc để tập những bài phù hợp với cơ thể của mỗi người.
Chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng quan trọng đến vẻ đẹp hình thể mà mỗi người chúng ta
cần lưu ý. Cơ thể của bạn đẹp hay không chủ yếu phụ thuộc vào sự tập luyện của mình.
Bên cạnh đó, con người còn biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ và vẻ đẹp của cơ thể.
Lao động, làm việc trong trời nắng cần mặc áo vải dày, che mặt để bảo vệ da. Tắm
rửa vệ sinh sạch sẽ để không bị nhiễm bệnh…
- Việc làm đẹp trong cách ăn mặc, sửa soạn trang điểm không phải là điều đơn
giản, dễ dàng. Nghệ thuật ăn mặc, nghệ thuật trang điểm đòi hỏi bạn phải có nhiều tri
thức khoa học và giao tiếp xã hội rộng rãi. Trong lĩnh vực này, “mốt” có ý nghĩa rất quan
trọng, mỗi bạn trẻ cần biết và vận dụng nó.
– “Mốt” là một hiện tượng tâm lí xã hội đặc biệt, có tác dụng lôi cuốn rất nhiều
người, nhiều khi, nó như một trào lưu xã hội, ít người thoát khỏi ảnh hưởng của nó.
Trước đây có một số người hiểu lầm về “mốt”, thành kiến với “mốt” cho rằng cứ ai
theo “mốt” là ăn chơi, ăn diện, không đứng đắn… Quan niệm như thế là chưa đầy đủ,
chưa đúng. Thực tế, có những “mốt” hầu như ai cũng bị ảnh hưởng bởi nó. Trong một
mức độ nhất định một là văn hoá xã hội, là kiến thức mới. Xã hội càng phát triển, càng
xuất hiện nhiều “mốt” theo từng địa phương, từng thời kì lịch sử.
Bởi vậy, không nên chống “mốt”, lên án “mốt” một cách máy móc. Và cũng không
thể chống mốt. He ghen, một nhà triết học nổi tiếng đã nói: “Người nào chống mốt, đó là
thằng khùng”. Điều quan trọng là phải hiểu được mốt và biết vận dụng mốt một cách
thích hợp với điều kiện và bản thân.
Sai lầm chính của nhiều bạn trẻ là chạy theo mốt một cách mù quáng. Thấy mọi
người mặc áo thụng, mình cũng phải cố tìm mua áo thụng để mặc, thấy một người để
tóc “xù lông nhím”, mình cũng lập tức “xù lông nhím”. Chạy theo mốt như thế, bạn khó có
thể trở thành đẹp. Nhiều khi nó trở nên kì quái, khó coi, vì mốt đó không phù hợp với
bạn.
Việc chạy theo “mốt” mù quáng có những tác hại cơ bản sau đây:
+ Nếu mốt không hợp sẽ làm bạn xấu đi nhiều.
+ Có những mốt nảy sinh không lành mạnh, không phù hợp với đạo đức truyền
thống văn hoá Việt Nam lan tràn, bị xã hội lên án. Bạn chạy theo mốt đó sẽ bị giảm giá trị
nhân phẩm, hoặc sẽ bị mọi người chê cười. Chẳng hạn những mốt đầu tóc dị dạng, kiểu
“mô đen quằn quại”… Nhiều khi, do không hiểu biết có những bạn mặc những chiếc áo
Pull (áo phông) có in dòng chữ có hại cho người mặc như “Tôi là một con chó “ (I am a
dog), “Hãy hôn em đi” (Kiss me)…
+ Trong điều kiện hiện nay, việc đua đòi theo mốt của một số bạn trẻ sẽ là gánh
nặng cho gia đình, làm ảnh hưởng cuộc sống của cha mẹ… Bạn ấy là người vị kỉ, dễ bị
mọi người chê cười.
Bởi thế, việc theo mốt, cần chú ý mấy điểm sau đây:
* Bạn phải hiểu về mốt và ý nghĩa của nó.
* Xem mốt có phù hợp với đặc điểm riêng của mình không? Mốt có phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp của bản thân không?
* Tốt nhất, bạn hãy tìm hiểu dư luận xã hội đối với mốt ấy như thế nào, trước khi
vận dụng nó.
3. Việc làm đẹp của thanh niên hiện nay thường có một số nhược điểm sau
– Nhiều bạn chỉ chú ý làm đẹp hình thức bên ngoài mà ít quan tâm đến vẻ đẹp bên
trong.
- Khi làm đẹp hình thức bên ngoài, nhiều bạn chỉ chú ý làm đẹp trong việc sửa
soạn, trang điểm, ăn mặc, mốt… mà không chú ý tới làm đẹp trong hành vi, lời nói, nụ
cười, cử chỉ…
– Có nhiều bạn chạy theo mốt một cách mù quáng mà không biết vận dụng mốt cho
phù hợp với bản thân. Nhiều bạn nghĩ rằng, việc làm đẹp đồng nghĩa với việc ăn chơi thời
thượng, tiêu xài hoang phí, đồ đạc quần áo phải là hàng hiệu, phải là vật dụng thật đắt
tiền, độc đáo, ít người có được.
– Nhiều bạn không nắm được kĩ thuật làm đẹp trong cách sửa soạn, trang điểm, ăn
mặc… Tình trạng lạm dựng mỹ phẩm, trang điểm thiếu thẩm mĩ, ăn mặc lố lăng, không
phù hợp… còn khá phổ biến.
– Việc cảm thụ cái đẹp trong âm nhạc, nghệ thuật, thể dục thể thao còn nhiều hạn
chế, lệch lạc, phiến diện. Nhiều khi việc tập thể dục nhịp điệu, thấm mĩ, bơi lội… chỉ có
tính phô trương, hình thức, hoặc nhằm mục đích thiếu lành mạnh.
4. Các bạn trẻ, hãy biết làm đẹp
Vẻ đẹp và làm đẹp là một trong những mục tiêu cơ bản của cuộc sống con người.
Nó là biểu hiện tập trung nhất của lí tưởng thẩm mỹ trong nhận thức, trong thế giới quan
của mỗi người. Cái đẹp lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, vì
bản thân lứa tuổi thanh thiếu niên là lứa tuổi đẹp nhất của đời người.
Vẻ đẹp và làm đẹp chính là tri thức, là nếp sống văn hoá, là ước vọng nhu cầu của
mỗi người, của xã hội.
Bởi vậy các bạn trẻ hãy vươn lên tới cái đẹp, hãy tăng cường làm đẹp và sống
đẹp.
Tuy nhiên, bạn hãy chú ý rằng vẻ đẹp không phải ở những kiểu tóc kì quái, những
đồ dùng hàng hiệu đắt tiền… Bạn đừng biến mình thành con công sặc sỡ với cách trang
điểm loè loẹt. Bạn đừng trở thành nạn nhân tội nghiệp của thời trang nước ngoài của lối
sống kiểu cách, trưng diện…
Làm đẹp trước hết là nhận thức đúng về cái đẹp và có những cử chỉ, hành vi đẹp.
Làm đẹp là tạo nên nếp sống, lối sống phù hợp với đạo đức xã hội, là học tập để có tri
thức phong phú và đúng đắn, là lao động chân chính sáng tạo, là sự cống hiến cho con
người và xã hội.
Làm đẹp là tạo nên sự hài hoà trong ăn mặc, trang điểm, trong việc sử dụng đồ
dùng theo mốt và thời trang một cách phù hợp.
Làm đẹp là vươn tới mọi yếu tố thẩm mĩ của tự nhiên, xã hội, của con người.
Có những yếu tố làm đẹp luôn luôn là chân lí, trường tồn với thời gian và không
gian. Đó là cái đẹp trong một tâm hồn cao cả, trong những hành vi dũng cảm, hi sinh cho
tổ quốc, cho dân tộc. Đó là cái đẹp trong lòng nhân ái yêu thương đối với con người,
trong lao động hăng say và sáng tạo, trong những hành động giúp đỡ người yếu đuối
đang gặp khô khăn. Bạn sẽ luôn luôn nhận thấy sự tôn vinh của xã hội về những hành
động đẹp như việc giúp đỡ một người nghèo bệnh tật, một em bé mồ côi, một cụ già ốm
yếu… Bạn sẽ thấy chân giá trị của con người, những rung cảm, hạnh phúc trong những
hành động đẹp đó.
Có những cái đẹp luôn tạo ra những cảm xúc nhẹ nhàng, thoải mái, thu hút lòng
người. Đó là một vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của cô gái dịu dàng, thuỳ mị đằm thắm, là vẻ
đẹp của tháng trai dũng cảm, mạnh mẽ, tài năng. Mọi người sẽ phải chú ý, ngạc nhiên
trước vẻ thông minh, dáng điệu đàng hoàng, chững chạc, trước một nụ cười tươi trẻ
duyên dáng, một cử chỉ lịch sự văn minh.
Nhiều yếu tố đẹp luôn luôn làm mọi người thán phục và chiêm ngưỡng. Đó là sự hài
hoà giữa mái tóc với khuôn mặt, giữa màu sắc son với làn da, giữa vóc dáng cơ thể với
kiểu quần áo… Đó là sự phù hợp của mốt và thời trang, giữa tính hiện đại với tình truyền
thống, giữa cách làm đẹp ở một người trong mối quan hệ với những người khác…
Làm đẹp là tri thức và đạo đức, là khoa học và nghệ thuật.
Các bạn trẻ, hãy biết làm đẹp và sống đẹp.
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 5

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH
Vấn đề ra đình có ý nghĩa rất lớn đối với người phụ nữ và người phụ nữ lại có vai
trò đặc biệt quan trọng trong gia đình. Trong đời sống tinh cảm, trong ước vọng cũng
như trong nếp sống hằng ngày, người phụ nữ luôn gắn bó với gia đình, dành trọn vẹn cho
gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng cuộc sống gia đình đối với người phụ nữ lại thường
gặp nhiều khó khăn, trắc trở hơn nam giới.
I. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VIỆC XÂY DỰNG HẠNH PHÚC
GIA ĐÌNH
So với nam giới, việc xây dựng cuộc sống gia đình của người Phụ nữ thường gặp
nhiều khó khăn hơn và thiệt thòi hơn. Sự khó khăn, thiệt thòi đó do những nguyên nhân
như:
1. Do đặc điểm tâm sinh lí ở người phụ nữ
Người phụ nữ có tầm vóc nhỏ hơn nam giới, sức mạnh thể lực thường chỉ bằng 4/5
so với nam giới. Tuy nhiên, ở người phụ nữ lại có những thiên chức nặng nề hơn nam
giới. Việc thực hiện những thiên chức này nếu không đám bảo tính khoa học, hợp lí sẽ là
những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khoẻ, sắc đẹp và độ trẻ trung của người phụ
nữ.
Trong đời sống sinh lí cơ thể, người phụ nữ trường thành sớm hơn nam giới nhưng
cũng già đi nhanh hơn nam giới. Ở độ tuổi 45 – 55, sau thời kì hồi xuân, người phụ nữ
thường bước sang tuổi già. Trong khi đó đối với nam giới, thường vẫn còn rất khoẻ mạnh
và nhiều “xuân sắc”.
Hiện tượng kinh nguyệt hằng tháng có ý nghĩa đặc biệt, thể hiện tình trạng sức
khoẻ và khả năng sinh nở của người phụ nữ. Nếu không đảm bảo đúng những điều kiện
vệ sinh kinh nguyệt cần thiết người phụ nữ dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ,
vẻ đẹp và độ trẻ trung.
Vấn đề sinh nở đảm bảo tính khoa học, vừa là một thiên chức cao cả vừa có tác
dụng nâng cao nữ tính, vẻ đẹp của người phụ nữ. Tuy nhiên, nếu sinh nở không đúng
khoa học (quá nhiều, quá mau hoặc không biết cách cho con bú, nuôi con khi còn nhỏ…),
người phụ nữ sẽ già nhanh, xấu nhanh, ốm yếu đi nhanh chóng. Dù là một thiên chức cao
cả, thiêng liêng, việc sinh nở vẫn là một gánh nặng đối với người phụ nữ trong cuộc sống
gia đình
Những vấn đề sinh lí trên ảnh hưởng rất nhiều đến người phụ nữ trong việc xây
dựng hạnh phúc gia đình. Khi xấu đi, già đi, hoặc ốm yếu đi, người phụ nữ sẽ mất đi một
thứ “vũ khí mạnh mẽ” để bảo vệ hạnh phúc gia đình của mình.
2. Do những quan niệm sai trái lạc hậu về vai trò của người phụ nữ trong cuộc
sống gia đình
Những quan niệm xưa cũ và lạc hậu cho rằng người phụ nữ không có quyền chủ
động xây dựng cuộc sống gia đình. Họ phải tuân theo sự sắp đặt và yêu cầu của cha mẹ
(cha mẹ đặt đâu con ngồi đây). Thậm chí, hôn nhân đối với người phụ nữ có khi giống
như là một cuộc mua bán, trong đó họ trở thành một món hàng phục vụ cho những mưa
đồ riêng tư của người khác. Ngày nay, vẫn còn có người quan niệm rằng người phụ nữ
đàng hoàng, đứng đắn không nên chủ động “tấn công” hoặc chủ động biểu lộ tình yêu đối
với nam giới.
Trong gia đình, nhiều người chồng vẫn còn muốn theo quan niệm “tam tòng”, hoặc
mang nặng tư tưởng “chồng chúa vợ tôi”, coi thường vai trò của người vợ. Họ muốn
người phụ nữ phải hầu hạ chồng, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của chồng. Một số người
chồng kém đạo đức, kém hiểu biết còn thiếu tôn trọng vợ, thậm chí đánh đập tàn nhẫn
dã man vợ mình. Họ cho rằng họ có quyền dạy vợ đánh đập vợ nếu làm trái ý của họ.
Nạn bạo hành trong gia đình chủ yếu do người chồng gây ra.
Những công việc nội trợ gia đình, nuôi dạy và chăm sóc con cái thường được coi là
trách nhiệm của người vợ. Nhiều ông chồng cho rằng đó chỉ là những việc vặt không đáng
kể, không phải là việc của đàn ông.
Trong thực tế, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã xác nhận rằng các công
việc nội trợ gia đình: thu dọn, vệ sinh nhà cửa, cơm nước, chăm sóc con cái… đã tiêu
hao năng lượng, sức lực rất lớn của người phụ nữ. Toàn bộ năng lượng tiêu hao để phục
vụ cho công việc nội trợ gia đình trong một ngày có thể tương đương với một ngày công
lao động.
Nếu người phụ nữ ngoài việc đảm trách công việc do xã hội giao phó “là công nhân
viên chức hoặc phải làm ăn sinh sống…), lại phải chịu toàn bộ gánh nặng của công việc
nội trợ gia đình, sẽ bị ảnh hưởng nặng nề về mặt sức khoẻ, và không còn thời gian để có
điều kiện rèn luyện và phát triển nhân cách, tài năng: Chính những công việc nội trợ gia
đình quá vất vả nặng nề ở người phụ nữ trong khi họ còn phải làm việc ở cơ quan Nhà
nước hoặc lo bươn chải kiếm sống là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho họ
già đi, xấu đi và ốm yếu nhanh hơn.
Trong xã hội, vẫn còn có nhiều người đánh giá quá khắt khe, quá nặng nề về người
phụ nữ trong tình yêu và xây dựng cuộc sống gia đình. Họ đòi hỏi rất cao ở người phụ nữ
về tính “đứng đắn”, tính “nghiêm túc”, tính “chung thuỷ”, tính “nề nếp” trong sinh hoạt…
Nếu mắc một chút thiếu sót nào, người phụ nữ sẽ bị lên án nghiêm khắc hơn rất nhiều so
với nam giới.
Do quan niệm không được chủ động trong tình yêu và hôn nhân, người phụ nữ phải
“giữ giá”, phải chờ đợi người đàn ông nào đó đến với mình, nhiều chị thường gặp khó
khăn trong việc xây dựng gia đình, có chị đến tuổi già vẫn chưa tìm được một người
chồng, một người yêu mong đợi.
3. Do sự phức tạp trong đời sống xã hội hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền ngày một gia tăng, nhiều người
phụ nữ phải hi sinh bản thân mình để giải quyết vấn đề sinh kế cho gia đình. Họ phải làm
việc ngày đêm để kiếm sống, phải chăm lo công việc gia đình mà không có điều kiện
hưởng thụ hay rèn luyện học tập để phát triển nhân cách. Đời sống kinh tế xã hội hiện
nay đang nâng cao và phát triển mạnh, nhưng những tiêu cực những tệ nạn xã hội cũng
có chiều hướng gia tăng và ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống của mỗi gia đình.
Do đặc điểm tâm sinh lí, người đàn ông thường dễ mắc những thiếu sót trong đời
sống hôn nhân. Họ dễ bị sa ngã cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất, sắc đẹp. Những tệ nạn xã
hội: cờ bạc, rượu chè, xì ke, ma tuý, chơi bời trác táng thường lôi kéo quyến rũ người
chồng, người con, gây ảnh hưởng nặng nề căng thẳng cho gia đình, là một trong những
nguyên nhân chủ yếu phá hoại hạnh phúc, làm cho gia đình đổ vỡ. Trong những trường
hợp ấy người phụ nữ chính là người phải gánh chịu những bất hạnh.
4. Do tính phức tạp của cuộc sống gia đình
Bản thân gia đình có nhiều mối quan hệ phức tạp và đa dạng. Trong cuộc sống
chung của vợ chồng có rất nhiều vấn đề khó khăn nảy sinh: sự xung đột vợ chồng, quy
luật biến động của đời sống gia đình, sự nhàm chán tâm lí, sinh lí, sự vất vả trong việc
sinh nở và nuôi dạy con cái, những tác động phức tạp của xã hội, bạn bè… có thể dẫn
đến sự suy giảm hạnh phúc. Nếu không biết cách giải quyết phù hợp, không biết cách
xây dựng hạnh phúc gia đình, người phụ nữ dễ bị trở thành người gánh chịu những đau
khổ, những bất hạnh.
5. Do một số nhược điểm, hạn chế của chính bản thân người phụ nữ
Trong đời sống xã hội, nhiều người phụ nữ còn bị hạn chế về trình độ văn hoá xã
hội. Với tính khiêm tốn nhiều khi đến mức tự ti, tính nhút nhát tính an phận, một số chị
không mạnh dạn, không dám đấu tranh với những sai trái của chồng con.
Một số chị thiếu tự tin, chưa quan tâm nhiều đến việc học tập, nghiên cứu… do đó,
trình độ hiểu biết những kiến thức về văn hoá, xã hội, đặc biệt là những kiến thức về đời
sống gia đình, về thời sự chính trị còn thấp. Việc tham gia những hoạt động xã hội, kể cả
hoạt động của Hội Phụ nữ, một tổ chức thực sự bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, còn
ít. Chính sự hạn chế này làm cho người phụ nữ khó hiểu biết và hoà hợp với người
chồng, khó có điều kiện chủ động giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Ngoài ra còn khá nhiều những lí do khám quan và chủ quan khác làm cho người phụ
nữ gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng cuộc sống gia đình.
II. NGƯỜI PHỤ NỮ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
Hạnh phúc gia đình là ước mơ là nguyện vọng của mọi người. Nhưng hạnh phúc gia
đình không tự nhiên mà có, và xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình không phải là việc
dễ dàng. Mỗi người chúng ta cần phải chủ động và biết cách xây dựng, giữ gìn, bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Trong tình hình xã hội hiện nay, người phụ nữ cần đặc biệt quan tâm
đến những vấn đề sau đây:
- Cần phải có những quan niệm mới hơn và đúng hơn về cuộc sống gia đình. Người
phụ nữ cần phải xem cuộc sống gia đình là một bộ phận của đời sống xã hội, phải chủ
động hoà nhập cuộc sống gia đình của mình với đời sống xã hội. Phải tăng cường việc
tham gia hoạt động xã hội thông qua việc tham gia những hoạt động của Hội Phụ nữ, của
tổ chức Công đoàn (hoạt động nữ công), hoặc của Đoàn Thanh niên Cộng sản… Đó là
những tổ chức chăm lo trực tiếp và thực sự cho quyền lợi của người phụ nữ.
Người phụ nữ phải quan tâm tiếp cận với những thông tin mới qua việc đọc báo chí,
xem truyền hình hay nghe đài phát thanh, nhất là những chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, những vấn đề về tình hình thời sự, chính trị nổi bật ở trong
nước và trên thế giới.
+ Cần phải mạnh dạn và tự tin, tăng cường việc học tập nâng cao trình độ tri thức
và trí tuệ. Phải tăng cường việc giao tiếp xã hội, tạo sự hoà hợp với chồng con trong đời
sống văn hoá xã hội.
+ Cần chủ động trong việc giải quyết các công việc của gia đình, mạnh dạn dấu
tranh một cách hợp lí với những sai trái của chồng con, hay của các thành viên khác
trong gia đình.
- Cần thay đổi cách tiết kiệm trong chi tiêu mua sắm, mạnh dạn tăng cường trang
bị những thiết bị tiện nghi cần thiết và tối thiểu trong gia đình (ti vi, tủ lạnh, bếp gas, máy
giặt…) để giảm bớt gánh nặng vất vả của công việc nội trợ, phục vụ cho cuộc sống
chung.
– Chú ý nhiều hơn đến việc giữ gìn bảo vệ sức khoẻ, độ trẻ trung sắc đẹp như: tập
luyện thể dục thể thao, trang điểm, sử dụng mỹ phẩm và ăn mặc hợp lí… Việc làm đẹp ở
đây là vẻ đẹp toàn diện, từ vẻ đẹp tâm hồn đến vẻ đẹp hình thức. Đối với chồng con, cần
quan tâm tạo vẻ đẹp từ nét mặt tươi tắn đến dáng vẻ dịu dàng, từ cách ăn mặc trang
điểm đến cách nói năng cư xử…
- Cần chú ý nhiều đến việc cải tiến tổ chức cuộc sống gia đình, sắp xếp thời gian
hợp lí cho các công việc, có lúc nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, có lúc xem phim ảnh, truyền
hình, có những hoạt động tổ chức kĩ niệm giỗ, tết, du lịch, có những giờ phút tâm tình với
chồng con có sự phân công hợp lí công việc và trách nhiệm cho mỗi thành viên trong gia
đình…
- Cần có những hiểu biết đầy đủ và khoa học về cuộc sống gia đình đặc biệt là
nghệ thuật cư xử trong quan hệ vợ chồng, nghệ thuật tổ thức cuộc sống gia đình, nghệ
thuật sinh nở và nuôi con, nghệ thuật quan hệ giữa gia đình với xã hội, nghệ thuật bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Cần lưu ý rằng người đàn ông dù to lớn khoẻ mạnh đến đâu vẫn
muốn trở thành bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của vợ mình. Không một người chồng nào
lại muốn có một người vợ lúc nào cũng “sẵn sàng tranh luận”, “nói năng gay gắt” và
“chiến đấu dũng cảm” với mình.
Nghệ thuật cư xử trong gia đình bao gồm rất nhiều yếu tố, từ cách nói năng đến nét
mặt nụ cười, từ cách khen, chê đến những hành vi đối xử, từ sự quan tâm chăm sóc đến
những cử chỉ đằm thắm yêu thương…

Created by AM Word2CHM
Vấn đề 6

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tạp chí Nghiên cứu Con người số 3, 2003
Ngày nay, ở nước ta, cùng với các yếu tố kinh tế, văn hoá, yếu tố con người được
coi là những yếu tố hàng đầu để phát triển xã hội, phát triển đất nước. Nhiều nhà nghiên
cứu đều thống nhất rằng, muốn phát triển xã hội, phát triển đất nước, cần phải phát triển
kinh tế, phát triển văn hoá. Điếu đó có nghĩa là phải phát triển con người, vì các vấn đế
kinh tế, văn hoá luôn gắn bó mật thiết với các vấn đề con người. Văn hoá là sản phẩm
của con người.
Giáo sư Viện sĩ Nguyên Duy Quý khẳng định: “Trong sự phát triển xã hội, với bất
cứ giải pháp nào, chúng ta cũng phải lấy con người, các quan hệ của con người trình độ
phát triển con người làm nền tảng”. “Muốn đất nước và xã hội phát triển được, con người
phải có sức khoẻ, có học vấn, có cấu trúc thể chất và tinh thần hài hoà”. “Con người phải
được sống hạnh phúc trong gia đình và tổ quốc của mình”. Con người phải được chăm
sóc tốt, phải được giáo dục tốt, nhờ đó tiềm năng của con người mới được phát triển để
“thực sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội”.
Như vậy muốn đất nước phát triển, con người phải được phát triển. Để giúp cho
con người được phát triển mạnh mẽ, có khả năng đóng góp tích cực cho sự phát triển xã
hội, chúng ta cần phải hiểu sâu sắc và đúng đắn về con người.
Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc, “Khái niệm người, con người hết sức phức
tạp… có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mang cả đặc điểm của vũ
trụ, giới sinh học, xã hội tâm lý chứa đựng tất cả các hình thức phản ánh: cơ, sinh, xã
hội, tâm lý còn cấu trúc người nói chung, cấu trúc nhân cách, cấu trúc tâm lý nói riêng
bao gồm nhiều yếu tố đan xen: tinh thần và vật chất, tâm linh và thể xác, nhân cách và
sinh thể, lí tưởng và hiện thực, động cơ và hành vi…”. Vì vậy hiểu đầy đủ toàn diện về
con người là một vấn đề rất khó khăn, cần có những quá trình nghiên cứu công phu và
đúng hướng.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề quan trọng là phải tập trung “Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực để vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Phải làm cho con người có đủ khả
năng đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, tham gia tích cực và hiệu quả vào việc xây dựng đất nước. Để làm được điều đó,
phải tăng cường giáo dục và phát triển con người về mọi mặt: đạo đức, tư tưởng, trình
độ văn hoá và khoa học kĩ thuật, năng lực chuyên môn, đặc điểm thể chất… trong đó, có
một mặt trước đây chưa được quan tâm nhiều, đó là đời sống giới tính.
Trong sự tồn tại và phát triển của con người, đời sống giới tính có vai trò đặc biệt
quan trọng.
- Trước hết, mọi người đều thấy rằng, một người có giới tính rõ rệt và bình thường
sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi. Những đặc điểm sinh lí, tâm lí giới tính đó giúp con
người có sự phát triển cơ thể hài hoà, khoẻ mạnh, có sự cân đối giữa thể chất và tinh
thần, có sự tự tin trong cuộc sống… Nhờ đó, con người mới có điều kiện phát triển toàn
diện, có khả năng lao động sáng tạo, có cuộc sống gia đình hạnh phúc, sinh con khoẻ
mạnh, góp phần xây dựng và phát triển xã hội. Ngược lại, những người có giới tính không
bình thường dễ gặp khó khăn trong sinh hoạt, trong cuộc sống. Xã hội ta chưa chấp nhận
những người con trai mà đi lại uốn éo, phấn son loè loẹt cũng như người con gái hưng
tợn ngổ ngáo, nói cười oang oang… Những người bệnh hoạn về giới tính khó có thể phát
triển toàn diện hay có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
– Nhiều đặc điểm giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển nhân cách, có khi cũng chính là đặc điểm nhân cách.
Theo cách đánh giá chung của nhiều người, một con người toàn diện, có văn hoá,
có đạo đức, phải là người có những đặc điểm mang bản sắc riêng của giới: người con
trai phải đàng hoàng, mạnh mẽ, lịch sự, cường tráng… Những người con gái phải dịu
dàng, thuỳ mị, uyển chuyển, khéo léo… Các bậc cha mẹ luôn luôn đòi hỏi người con gái
phải đi lại nhẹ nhàng, đứng ngồi kín đáo… người con trai cần nói năng rõ ràng, tính cách
cao thượng, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Đó là những phẩm chất giới tính
tốt đẹp của con người, của truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước phát triển, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại
hoá chúng ta không đòi hỏi người nam, người nữ quá khắt khe như xưa, nhưng nhiều
phẩm chất tốt đẹp của giới tính theo truyền thống Việt Nam, vẫn là những đòi hỏi của xã
hội đối với con người, trở thành những phẩm chất, những yếu tố đẹp đẽ trong văn hoá
dân tộc. Đó là những yếu tố của đạo đức giới tính. Những phẩm chất giới tính tốt đẹp
trên, đồng thời cũng là những phẩm chất của nhân cách, góp phần tạo nên nền tảng đạo
đức của nhân cách con người Việt Nam.
Như vậy, sự hình thành, phát triển những phẩm chất giới tính tốt đẹp góp phần cho
nhân cách phát triển, cho con người phát triển. Ngược lại, những đặc điểm tiêu cực của
giới tính lại có thể làm suy thoái đạo đức làm tha hoá nhân cách.
Khi con người không được giáo dục đầy đủ, kém hiểu biết về giới tính, những đặc
điểm đó, nhất là một số bản năng, dễ đưa họ vào các tệ nạn xã hội, ăn chơi sa đoạ, cờ
bạc, mại dâm… từ đó sa vào vòng tội lỗi, trở thành những phần tử phá hoại xã hội.
Sự kém hiểu biết trong quan hệ giới tính cũng dễ dẫn tới những hành vi cử chỉ thiếu
văn hoá, vi phạm đạo đức xã hội. Một số thanh niên do nhận thức về giao tiếp nam nữ
yếu kém hoặc sai lầm, dễ có hành vi cư xử với bạn khác giới một cách suồng sã, sàm
sỡ, thô bạo. Họ thường nói năng thô tục, ăn mặc lố lăng, bất lịch sự nơi công cộng, phá
rối trật tự kỉ cương xã hội.
Có trường hợp, do nhận thức về giới tính yếu kém, một số ít cán bộ, mặc dù có
động cơ tốt nhưng lại mắc sai lầm trong giáo dục con người: tổ chức những sinh hoạt,
những trò chơi xô bồ, lộn xộn, cho từng cặp nam nữ cõng nhau chạy thi, ngồi lên vai nhau
để đập vỡ chiếc niêu đất treo trên cao; cô mẫu giáo trang điểm phấn son cho các em trai
giống như các em gái; trong lớp học các em nữ sinh trung học phổ thông lớp 10 – 12
(khoảng 16 – 18 tuổi) trong tà áo dài trắng mỏng manh, ngồi ngay trước mặt hoặc sát
bên cạnh các bạn trai đồng lứa tuổi… Đó là những sai lầm vô tình, nhưng cũng có thể
dẫn đến những hậu quả tai hại khó lường, ảnh hưởng đến sự phát triển con người, phát
triển xã hội.
Ngày nay, nhiều nhà giáo dục, nhiều bậc phụ huynh đang rất lo ngại tình trạng một
bộ phận thanh niên có những biểu hiện xấu trong sinh hoạt, trong tình yêu như: yêu
đương quá sớm, yêu đương mù quáng, nếp sống sinh hoạt nam nữ trụy lạc… Một số em
yêu theo kiểu tình yêu tự do, tình yêu không cần hôn nhân, sống gấp, sống thử… Những
biểu hiện trên đây là kết quả của sự nhận thức sai lầm về tình yêu, một lĩnh vực tình cảm
rất phức tạp, nhưng cũng hết sức quan trọng của đời sống giới tính con người, trong tuổi
trẻ. Có em bó cả học hành, ăn chơi trác táng, ôm nhau trong những điệu nhảy điên
cuồng, thâu đêm suốt sáng do tác dụng của các loại thuốc kích thích. Những kiểu ăn chơi
này làm cho các em dần dần đi đến bại hoại thanh danh, tha hoá nhân cách và bước vào
vòng tội lỗi…
Một số khá đông các em hiện nay theo quan niệm tình dục tự do, tình dục không
cần hôn nhân, yêu đương quá sớm… dẫn tới tình trạng quan hệ lang chạ, có thai ngoài ý
muốn, mắc nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình dục, nạo phá thai bị biến chứng…
Tình trạng nạo phá thai ngày nay càng gia tăng trong lớp trẻ và gây nhiều hậu quả tai
hại.
Còn nhiều những biểu hiện phức tạp khác trong đời sống gia đình như: cuộc sống
vợ chồng thiếu hạnh phúc, tỉ lệ li hôn ngày một gia tăng, bạo hành trong gia đình… Đó
cũng là những vấn đề của đời sống giới tính, nếu con người không được hướng dẫn, tìm
hiểu, họ sẽ mắc những sai lầm đáng tiếc, khó có thể cứu vãn trong đời sống hôn nhân.
Những biểu hiện phức tạp trên gây nhiều khó khăn cho cuộc sống con người, làm
cho họ khó có thể có cuộc sống hạnh phúc và phát triển toàn diện, mà nguyên nhân chủ
yếu chính là sự thiếu hiểu biết về đời sống giới tính.
Vì vậy, để có sự phát triển con người mạnh mẽ, bên cạnh các nội dung giáo dục
đạo đức, tư tưởng, năng lực… cần chú ý tăng cường giáo dục giới tính. Cần thực hiện
nội dung giáo dục giới tính một cách toàn diện đầy đủ và hợp lí.
Trong điều tra nghiên cứu của chúng tôi và của nhiều tác giả khác giáo dục giới tính
vẫn chưa được quan tâm đầy đủ và thực hiện nghiêm tức ở trường học. Nhiều nơi nội
dung này vẫn bị cắt xén một cách tuỳ tiện. Những kiến thức về giới tính trong thanh niên
học sinh, sinh viên chủ yếu được họ nhận thức bằng con đường tự đọc sách, rút kinh
nghiệm, thông qua bạn bè và nếp sống sinh hoạt hằng ngày. Điều đó có phần đáng ngại
vì những kinh nghiệm thường khó có thể đúng đắn, khoa học. Mặt khác, trong thị trường
sách báo hiện nay, những sách báo về giới tính rất phức tạp. Những sách khoa học và
phản khoa học đang “thực giả lẫn lộn”. Có những cuốn sách núp dưới chiêu bài giáo dục
giới tính, nhưng thực chất là kích thích thị hiếu sai lệch, tính tò mò của thanh niên, chạy
theo mục đích kinh doanh.
Một thực tế trong hoạt động giáo dục và tuyên truyền hiện nay về lĩnh vực giới tính
là, đang có hiện tượng quá tập trung, quá nặng về sinh lí giới tính (giáo dục sức khoẻ
sinh sản, bệnh lí giới tính, giáo dục tình dục…), mà ít chú ý đến giáo dục toàn diện về
giới tính, giáo dục những thái độ, phẩm chất đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, quan hệ
giới tính, sự cư xử giữa nam và nữ… Hiện tượng đó có thể gây ra những hậu quả như:
- Dẫn đến sự nhận thức phiến diện trong mọi người về đời sống giới tính. Có thể
mọi người cho rằng giới tính thì là những đặc điểm sinh lí cơ thể, quan hệ tình dục, sự
sinh nở…
– Dẫn đến những tác dụng phản diện trong giáo dục giới tính, thậm chí có thể có
những người lạm dụng giáo dục giới tính để chạy theo mục đích kinh doanh không lành
mạnh (xuất bản những sách báo kích thích những thị hiếu thấp hèn của con người).
– Việc nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính bị hạn thế, nhất là trong tình
hình xã hội ta hiện nay, những quan niệm về giới tính và giáo dục giới tính rất phức tạp
chưa có sự thống nhất, có những quan niệm còn trái ngược nhau.
Để khắc phục những hậu quả trên, cần tập trung nghiên cứu đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn về giới tính, đặc biệt là các ngành Giới tính học, Tâm lí học giới tính, Xã hội học giới
tính. Cần tổ chức những hội nghị khoa học để tạo nên sự thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu về các khái niệm cơ bản của đời sống giới tính, giáo dục giới tính cần thực hiện
nghiêm túc chương trình, nội dung giáo dục giới tính trong nhà trường, trong xã hội.
Tổng quát hơn, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giới tính và giáo dục giới tính
trong đời sống con người. Phải coi việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính là một
nội dung quan trọng trong nghiên cứu con người, trong việc phát triển con người.
Có thể nói rằng, vấn đề phát triển con người gắn bó mật thiết với vấn đề giới tính
và giáo dục giới tính cho con người. Nói cách khác nghiên cứu về giới tính và thực hiện
giáo dục giới tính là điều kiện quan trọng để phát triển con người toàn diện, tạo nên
nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Created by AM Word2CHM
Vấn đề 7

TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

MỘT SỐ BIỂU HIỆN SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU


CỦA THANH NIÊN, HỌC SINH HIỆN NAY
Tình yêu là một vấn đề quan trọng của cuộc đời con người. Thường thường, một
tình cảm đẹp đẽ, tất yếu xuất hiện ở con người, ảnh hường mạnh mẽ đến cuộc sống của
họ. Đã từ ngàn xưa, tình yêu được coi là một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp mang lại ý
nghĩa lớn lao cho cuộc sống của con người.
Tuy nhiên, trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường,
vấn đề tình yêu trở nên phức tạp trong xã hội. Đã xuất hiện nhiều biểu hiện lệch lạc trong
yêu đương không những làm mất đi sự trong sáng, thiêng liêng, cao đẹp, vốn có của tình
yêu mà còn gây nhiều hậu quá tai hại cho con người, cho xã hội, và nhất là cho những
bạn trẻ đang yêu.
Nhiều biểu hiện lệch lạc ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập sinh hoạt và cuộc
sống của thanh thiếu niên mới lớn, nhất là trong thanh niên, học sinh. Sau đây là một số
kết quả nghiên cứu của chúng tôi về những biểu hiện sai lệch trong tình yêu của thanh
niên hiện nay.
I. MỘT SỐ BIỂU HIỆN SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU CỦA THANH NIÊN, HỌC SINH
HIỆN NAY
1. Quan hệ nam nữ quá thân mật, suồng sã
Những bạn trẻ này luôn cặp kè bên nhau, lợi dụng những buổi sinh hoạt đi chơi có
những hành vi cư xử thiếu nghiêm túc, mang tính lợi dụng, vui đùa quá trớn, sinh hoạt
quá tự nhiệm bạn không ra bạn, yêu chẳng ra yêu. Họ lợi dụng lẫn nhau, cặp với nhau
một thời gian rồi chán. Quan hệ của họ thường nhanh chóng chấm dứt.
2. Yêu đương quá sớm
Những công trình nghiên cứu của chúng tôi đều rút ra kết luận là các bạn trẻ quan
tâm đến tình yêu và bước vào yêu đương quá sớm, từ 15, 16 tuổi thậm chí ngay từ khi
mới 13, 14 tuổi. Tuy còn ít tuổi nhưng ở họ đã có đầy đủ những biểu hiện, những hành vi
yêu đương “như của người lớn”, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có những
em gái 13, 14 tuổi đã phải đi nạo phá thai.
3. Yêu theo phong trào
Các bạn trẻ yêu nhau nhưng không xuất phát từ những rung cảm yêu thương thực
sự, không xuất phát từ sự rung động chân thành của con tim. Họ thấy bạn có người yêu
thì cũng phải nhanh chóng tìm kiếm một người yêu cho khỏi thua kém bạn bè, để có cặp
có đôi cùng đi chơi với các cặp khác cho vui. Kết quả là có lớp học, hầu hết học sinh đều
có người yêu.
4. Yêu vô trách nhiệm
Những bạn trẻ này chỉ háo hức ban đầu trong những ngày mới yêu nhau. Chỉ một
thời gian ngắn, khi đã nếm đủ “mùi”, thậm chí khi “con ong đã tỏ đường đi lối về” họ bắt
đầu chán nhau, bỏ rơi nhau. Dẫn đến tình trạng một bên còn say đắm, nặng tình, bên kia
đã thờ ơ, vô trách nhiệm, bỏ mặc người yêu đang chờ đợi, đau khổ để chạy theo những
thú vui mới khác. Đặc biệt, người con trai thường “cao chạy xa bay” khi biết người yêu
có bầu.
5. Yêu chung chung, chỉ biết hiện tại mà không nghĩ đến tương lai
Nhiều cặp yêu dương chỉ nghĩ đến quan hệ hiện tại: đi chơi, âu yếm và vui sống bên
nhau theo những thời điểm. Họ yêu để mà “yêu” không hề nghĩ đến tương lai sẽ như thế
náo, hậu quả ra sao và càng không hề nghĩ đến hôn nhân.
6. Yêu ngộ nhận, yêu chỉ để thoả mãn tình dục
Những cặp này yêu đương rất nhanh, mới gặp đã rủ đi chơi, và có những biểu hiện
yêu đương. Họ lầm tưởng rằng họ đã yêu nhau. Nhưng chỉ mới đi chơi với nhau một số
lần là đã chán.
Sự ngộ nhận này có nhiều biểu hiện:
- Họ tưởng rằng mình đã yêu đối tượng, nhưng thực tế chỉ là cảm giác “thích” ban
đầu, chỉ là cảm xúc chợt đến, nhất thời.
– Họ tưởng người yêu có những đặc điểm đáng yêu, nhưng khi đi chơi tiếp xúc
nhau vài lần, họ phát hiện đối tượng không có những đặc điểm ấy và hết yêu.
– Họ tưởng đối tượng đã yêu mình qua một vài lần gặp gỡ, dấu hiệu quan tâm của
đối phương.
– Họ lầm tưởng yêu chỉ là quan hệ tình dục và những hành vi âu yếm. Họ đòi hỏi lẫn
nhau, nếu không được, hoặc nếu “được” quá dễ dãi, họ chán nhau nhanh chóng.
7. Quan hệ yêu đương trong sáng dần dần được thay thế bằng tình yêu “hoà
nhập”, tình yêu lợi dụng, tình yêu vật chất
Trong quan niệm truyền thống, tình yêu trong sáng là một tình cảm đẹp đẽ, trong
đó hai người yêu nhau chân thành, giúp đỡ lẫn nhau, quan tâm đến nhau, tôn trọng nhau.
Tình cảm mãnh hệt nhưng luôn luôn giữ đúng khoảng cách, không có những hành vi quá
mức cho phép. Đặc biệt họ cố gắng giữ gìn sự trong trắng, sự thiêng liêng cho đến ngày
cưới.
Nhưng ngày nay, quan niệm yêu đương đó dễ bị coi là lạc hậu là lẩm cẩm, là tâm
thần. Thay thế vào quan niệm đó là tình yêu vật chất, là sự lợi dụng nhau: người bỏ tiền
của, người phục vụ, hoặc yêu là liên hệ trực tiếp tới tình dục, yêu cho biết những cảm
xúc mới lạ… Hiện tượng “sống thử” đang là một lối sống, một “mốt” mới đáng ngại trong
sinh viên và thanh niên.
Ngày nay, quan niệm quan hệ tình dục trước hôn nhân trở thành khá phổ biến trong
nhiều bạn trẻ.
8. Yêu nhanh và tan vỡ nhanh
Đây là đặc điểm khá phổ biến trong thanh niên mới lớn. Họ yêu nhau khá dễ dàng,
có khi chỉ cần gặp nhau trong một buổi tiệc sinh nhật, một lần đi chơi, một buổi sinh hoạt
hay một buổi tối tại vũ trường là họ có thể hò hẹn đi chơi và “yêu” nhau, hoặc có những
cử chỉ hành vi yêu đương. Những hành vi chớp nhoáng như thế cũng tan vỡ rất nhanh. Có
khi chỉ một vài tháng hoặc vài tuần là “tình yêu” tan vỡ. Trong nhiều công trình nghiên
cứu, các nhà khoa học đều thấy tình yêu trong thanh niên học sinh rất kém bền vững.
Hầu hết các cuộc tình đều tan vỡ khi tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc thậm chí hết
năm học. Vì vậy, có nhiều bạn trẻ mới 16, 17 tuổi nhưng đã trải qua hàng chục cuộc tình.
9. Xuất hiện nhiều kiểu yêu đương không lành mạnh
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong thanh niên học sinh hiện nay có
nhiều kiểu tình yêu không đích thực như:
Yêu vụ lợi, yêu lừa dối, yêu chơi bời, yêu tạm bợ, yêu ngộ nhận, yêu si mê, yêu
tuyệt vọng, yêu theo mốt, yêu buông thả, yêu mơ mộng, yêu cho đỡ buồn, yêu thử cho
biết… Rất ít thấy tình yêu chân thực và tình yêu thân chính.
10. Yêu nhưng thiếu hiểu biết về tình yêu
Đa số các bạn trẻ thiếu hiểu biết về tình yêu, về đời sống tâm sinh lí người… Họ
không hiểu được biểu hiện, quy luật, tính chất của một tình yêu chân thực, chân chính.
Tuy nhiên, họ vẫn mạo hiểm yêu với vốn liếng ít ỏi về kinh nghiệm yêu đương do bạn bè
cung cấp, với những quan niệm yêu đương sai lầm mà họ được biết qua sinh hoạt
thường ngày, qua sách báo, phim ảnh, đặc biệt có khi từ các tệ nạn xã hội.
Cư xử không đúng trong quan hệ yêu đương: Một số người cho người yêu là sở
hữu của riêng mình, dẫn tới cấm đoán, cư xử thô bạo, ghen tương vô lí…
II. NHỮNG HẬU QUẢ, TÁC HẠI DO SỰ SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU
Có thể rút ra những tác hại chủ yếu do việc yêu đương sai lệch sau đây:
– Tạo nên nếp sống thiếu lành mạnh, thiếu văn hoá trong thanh niên với nhiều biểu
hiện như: những cử chỉ suồng sã, đôi khi là sàm sỡ trong quan hệ cư xử, những cuộc
gặp gỡ trong các quán cà phê đèn mờ, những cuộc đi chơi hay sinh hoạt thiếu lành
mạnh, ăn chơi sa đoạ, dẫn tới các tệ nạn xã hội: xì ke, ma tuý…
– Khi tình yêu tan vỡ, họ phải chịu đựng những đau khổ mất mát lớn lao trong cuộc
đời: tình cảm bị tổn thương, danh dự bị xúc phạm, tinh thần bị khủng hoảng… và nhiều
hậu quả tai hại khác.
– Trong tình yêu của tuổi trẻ trong tình yêu tuổi học trò (nhất là ở học sinh trung học
phổ thông), tình yêu thường phức tạp, hạnh phúc chen lẫn đau khổ. Đa số trường hợp,
những phút giây hạnh phúc thì ít mà những lúc đau khổ thì nhiều, thậm chí có những mất
mát lớn lao không thể bù đắp hay hàn gắn. Đa số tình yêu trong tuổi này tan vỡ trước khi
kết thúc việc học tập.
– Ảnh hưởng nhiều đến việc rèn luyện phát triển nhân cách, đến việc tu dưỡng vươn
lên của tuổi trẻ, ảnh hưởng xấu đến học tập, rèn luyện, công tác. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, khi vướng vào vòng yêu đương, đa số học sinh học hành kém đi rõ rệt, rất ít
trường hợp khi yêu nhau thì chất lượng học tập nâng cao. Có khá nhiều em phải bỏ học.
– Hậu quả nghiêm trọng nhất là:
+ Nhiều em phải nạo phá thai sớm, có khi gây tử vong hoặc thương tật suốt đời.
+ Tình yêu tan vỡ gây những cú sốc về tâm lí, khiến nhiều em đau khổ vì tình, đi
đến chán đời, bỏ học… Có em xấu hổ bỏ nhà đi bụi đời, mại dâm, đi trả thù đời để rồi
bước vào con đường sa ngã, hư hỏng, đồi trụy… Có em quá đau khổ và xấu hổ, phải tự
tử.
+ Nhiễm bệnh hiểm nghèo, nhất là HIV.
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Chủ yếu là các nguyên
nhân sau:
1. Sự thiếu hiểu biết về tình yêu và hôn nhân. Các bạn trẻ không được trang bị
những kiến thức về đời sống yêu đương, về quy luật phát triển tâm sinh lí của con người,
bản chất của tình yêu, hôn nhân và cách xử lí trong tình yêu. Do đó, các em thiếu bản
lĩnh khi bước vào đời sống yêu đương.
2. Các sách báo về tình yêu lan tràn, nhưng nhiều sách lại chạy theo thị hiếu tằm
thường, chạy theo kinh doanh nên trong thực tế, vẫn thiếu những tài liệu, thông tin khoa
học, hệ thống. Nhiều sách tuy có tựa đề là “giáo dục giới tính”, “giáo dục tình yêu”,
nhưng nội dung lại không phù hợp, nhiều trường hợp nội dung lệch lạc, không có tính
khoa học, thậm chí gây phản tác dụng.
3. Các tệ nạn xã hội phức tạp ngày càng gia tăng, các quán cà phê đèn mờ, bia
ôm, mại dâm trá hình, vũ trường biến tướng, tệ nạn sử dụng ma tuý, thuốc lắc xuất hiện
ở khắp mọi nơi, kích thích, thu hút giới trẻ.
4. Ảnh hưởng của nhiều quan điểm sống mới du nhập từ nước ngoài: tình yêu tự
do, tình dục tự do, tình dục trước hôn nhân, sống chung, sống thử (hôn nhân thử nghiệm)
… Những quan điểm trên ảnh hưởng mạnh đến giới trẻ, làm cho các em thêm tò mò, bị
kích thích, muốn áp dụng thử nghiệm. Trong khi đó, các em lại không được hướng dẫn
đầy đủ, không được trang bị tri thức để có đủ bản lĩnh đấu tranh chống lại những quan
điểm sai lầm trên.
5. Xã hội và các bậc cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục thanh niên học
sinh về lĩnh vực này. Thậm chí, còn nhiều người né tránh hoặc có quan niệm sai lầm cho
rằng không nên giáo dục vấn dế này cho học sinh, vì thế là “vẽ đường cho hươu chạy”,
hoặc làm “ô uế” học đường. Nhiều bậc cha mẹ chạy theo công việc làm ăn, không lo đến
việc giáo dục con cái.
6. Nhận thức sai trong nhiều người về giáo dục giới tính, giáo dục tình yêu. Có
người còn cho rằng giáo dục giới tính, giáo dục tình yêu là giáo dục tình dục. Chưa có
một chương trình hoặc chưa thực hiện nghiêm tức nội dung giáo dục này một cách khoa
học, hệ thống với một lượng thời gian thích hợp. Khi có hướng dẫn của Bộ Giáo dục và
đào tạo về giáo dục giới tính trong nhà trường, nhiều nơi, nhiều trường học vẫn cho đó là
phần không quan trọng, không cần thiết lắm, họ tuỳ ý dạy hay không, hoặc thiếu tổ chức
chặt chẽ, nghiêm tức thực hiện nội dung này.
7. Chúng ta chưa quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ
tri thức khoa học về lĩnh vực này để làm công tác giáo dục cho thanh niên, học sinh. Đa
số cán bộ, giáo viên giảng dạy hoặc làm công tác này chỉ dựa vào kinh nghiệm, vốn liếng
trí thức ít ỏi do tự nghiên cứu. Mặt khác, nhiều người lại chủ quan, cho rằng mình đã biết
hết về vấn đế này.
8. Chưa có những tư liệu khoa học, giáo trinh, sách, tài liệu một cách hệ thống,
khoa học, sâu sắc về lĩnh vực này. Đặc biệt, những công trình nghiên cứu khoa học một
cách toàn diện, sâu rộng về tình yêu hôn nhân còn rất ít, hoặc chưa được phổ biến rộng
rãi. Do quan niệm xã hội hạn chế, nhiều người còn thành kiến hoặc e ngại khi nghiên cứu,
giảng dạy, hoặc nói đến chuyện tình yêu, hôn nhân.
Từ tình hình và nguyên nhân trên, chúng tôi xin đề nghị một số giải pháp
sau:
a) Những giải pháp chung
– Cần phải có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ của xã hội, của nhiều ngành,
nhiều lực lượng: giáo dục, văn hoá xã hội, an ninh… tạo nên một môi trường xã hội lành
mạnh mang tính giáo dục cao. Bài trừ văn hoá phẩm đồi trụy, tệ nạn xã hội (mại dâm, bia
ôm, cà phê đèn mờ, vũ trường biến tướng…).
- Phải tăng cường công tác giáo dục giới tính, giáo dục tình yêu hôn nhân gia đình.
Phải cổ sự kết hợp đồng bộ của nhà trường, gia đình và xã hội.
- Phát triển những hoạt động của các cơ quan chức năng của xã hội, cũng như các
trung tâm văn hoá, các câu lạc bộ, đặc biệt là các trung tâm tư vấn Tình yêu, hôn nhân
và gia đình.
b) Những biện pháp giáo dục cụ thể
– Tăng cường việc Giáo dục giới tính trong nhà trường, gia đình và xã hội.
- Xây dựng những tài liệu hướng dẫn cần thiết, những tri thức khoa học hệ thống về
vấn đế này, để giáo viên, phụ huynh có thể hướng dẫn cho các em, hoặc các em tự học
để biết.
– Xây dựng chương trình và nội dung giáo dục giới tính cụ thể để giảng dạy trong
nhà trường (trước mắt, có thể từ lớp 9 trở lên), dành một lượng thời gian thích đáng để
giảng dạy cho học sinh.
– Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng, và đào tạo cán bộ chuyên môn về giới tính và
giáo dục giới tính. Trang bị kiến thức khoa học tình yêu hôn nhân, gia đình cho giáo viên,
cán bộ các trung tâm tư vấn, cán bộ phụ nữ, đoàn thanh niên làm công tác quần chúng.

Created by AM Word2CHM
MỤC LỤC

PHẦN MỘT
TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI
1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính
2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính
3. Giới tính và nhân cách con người
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các ngành khoa
học khác
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới tính
Chương 2
GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
1. Khái niệm giới
2. Khái niệm giới tính
3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH
1. Sự phức tạp của đời sống giới tính
2. Mối quan hệ giữa hai giới
3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH
1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con người
2. Các giai đoạn phát triển của giới tính
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC SINH
Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC
1. Khái niệm Tính dục
2. Những vấn đề điển hình của đời sống tính dục được quan tâm hiện nay
II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ
1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt
2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt
3. Chu kì tâm sinh lí học trong chu kì kinh nguyệt
III. TÌNH DỤC
1. Khái niệm chung về tình dục
2. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu ở lứa tuổi thanh thiếu niên
3. Vấn đề giáo dục tình dục và tình yêu cho thanh thiếu niên
IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH
1. Khái niệm chung về tình yêu
2. Những thành phần cơ bản trong tình yêu
3. Sự hình thành và phát triển của tình yêu
4. Động cơ yêu đương và tình yêu chân chính
5. Mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân
V. HÔN NHÂN
1. Khái niệm hôn nhân
2. Động cơ hôn nhân
3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn nhân
4. Cuộc sống vợ chồng
5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng
6. Điều kiện chủ yếu để tạo nến cuộc sống vợ chồng hạnh phúc lâu dài
7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay.
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản
2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Chương 4
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính
2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người
II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính
2. Nội dung chung của giáo dục giới tính
3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng
4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông
5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường và người lớn
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện nhân cách
2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể của
thanh thiếu niên
3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã hội
4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong tình hình
hiện nay
5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia tăng của
các tệ nạn xã hội hiện nay
PHẦN HAI
NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Vấn đề 1: Tình trạng trẻ em hư và vấn đề giáo dục giới tính
Vấn đề 2: Một số vấn đề về nội dung, tổ chức thực hiện chương trình giáo dục đời sống
gia đình cho học sinh phổ thông
Vấn đề 3: Một số vấn đề tâm lí – xã hội cần chú ý khi tiến hành giáo dục đời sống gia
đình và giới tính cho học sinh phổ thông
Vấn đề 4: Vẻ đẹp và vấn đề làm đẹp ở thanh niên
Vấn đề 5: Người phụ nữ với việc xây dựng cuộc sống gia đình
Vấn đề 6: Sự phát triển con người với vấn đề giáo dục giới tính
Vấn đề 7: Một số biểu hiện sai lệch trong tình yêu của thanh niên, học sinh hiện nay
---//---
TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tác giả:
PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh
Nhà xuất bản Giáo Dục
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QÚY THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm hội dung:
Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP. Hồ Chí Minh
VŨ BÁ HÒA
Biên tập nội dung và tái bản:
NGUYÊN VĂN HÂN
Biên tập kĩ – mĩ thuật:
BÙI XUÂN DƯƠNG
Trình bày bìa:
TÔN THẤT HIỀN
Sửa bản in:
PHÒNG SỬA BẢN IN (NXBGD TẠI TP.HCM)
Chế bản:
PHÒNG SCĐT – NXB GIÁO DỤC TẠI TP. HCM
Mã số: 8G804m8 – TTS
In 3.000 bản, (04TK) khổ 16 x 24 cm; tại Công ty cổ phần In và Vật tư Hải Dương. Số in:
01; Số xuất bản: 11–2008/CXB/212 – 2097/GD. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm
2008.

Created by AM Word2CHM

You might also like