Professional Documents
Culture Documents
(123doc) Tam Ly Hoc Gioi Tinh Va Giao Duc Gioi Tinh 1
(123doc) Tam Ly Hoc Gioi Tinh Va Giao Duc Gioi Tinh 1
(123doc) Tam Ly Hoc Gioi Tinh Va Giao Duc Gioi Tinh 1
Created by AM Word2CHM
Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI
TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
Ngay từ thời Cổ đại, giới tính đã được quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất thô sơ và
mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kì xa xưa của văn minh loài người, giới tính đã
được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại và các khảo luận về tình yêu nhu
kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của người yêu”
của Hazma, “Phaedr” và “Bữa tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả “không những đặt
cơ sở các chuẩn mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn cố gắng cung cấp
những kiến thức về sinh học và tâm lý học tình dục”.
Các thầy thuốc thời cổ đại như Hipocrates cũng hết sức chú ý tới những vấn đề có
liên quan đến chức năng tái tạo giống nòi và những rối loạn của chức năng đó, đặc biệt là
đời sống tình dục của con người.
Khi nhân loại bước vào thời kì “đêm trường trung cổ”, tôn giáo và nhà nước phong
kiến đã lợi dụng sự ngu tối thất học của nhân dân, khẳng định sự không bình đẳng giữa
nam và nữ trong xã hội và trong gia đình, cũng như trong lĩnh vực quan hệ tình dục. Họ
đã gieo rắc những quan niệm cho rằng quan hệ nam nữ có tính chất tội lỗi nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa cấm dục, và khép sự ham muốn tính dục vào loại đê tiện, tượng trưng
cho một diều xấu xa mà quỷ xa-tăng đã áp đặt cho loài người. Nhưng thực ra, việc tìm
hiểu các vấn đề về tính dục vẫn được quan tâm, được tiến hành, chỉ để phục vụ cho sự
ăn chơi sa đoạ của các tầng lớp vua quan phong kiến.
Công tác nghiên cứu khách quan các vấn đề về giới tính, tính dục chỉ thật sự được
tiến hành ở thời kì Phục hưng, khi bộ môn Giải phẫu và Sinh học bắt đầu phát triển.
Trong thời kì này, những khía cạnh của tính dục, nhất là xét về phương diện đạo đức và
giáo dục, được người ta nghiên cứu tới.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, các đề tài nghiên cứu về giới tính được mở
rộng hơn… Cho đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các nhà khoa học J. Bachocen (Thuy
sĩ), J. Mặc Len nan (Anh), E. Westennach (Phần Lan), Ch. Letoumeau và A. Espinas
(Pháp), Lewis Herưy Morgan (M), X.M. Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát
triển quan hệ tính đục với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác
của chế độ xã hội và văn hoá.
Đặc biệt, F. Enggels đã đưa ra một quan điểm mới về phương pháp phân tích các
dạng liên kết những mối quan hệ tính dục với quan hệ kinh tế và quan hệ xã hội. Trong
cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của quyền tư hữu là của Nhà nước”, F. Enggels đã phân
tích một cách có phê phán “các công trình nghiên cứu về giới tính và đời sống gia đình
theo những nguồn thư tịch về thời cổ đại, qua những huyền thoại lịch sử và tôn giáo, qua
những hiểu biết về tập tục và truyền thống của các bộ lạc, dân tộc. Ông đã bổ sung thêm
nhiều dẫn liệu mới và đã ra những kiến thức rất xác thực và khác quát hoá thành một hệ
thống nhất quán”.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà khoa học: R. Kraft Ebing (Ao), M. Hirschfeld và A.. Môn
(Đức), H. Ellis (Anh), A. Forel (Thuy Sĩ… đã bắt đầu tiến hành công tác nghiên cứu
khách quan về tính đục của con người. Họ đã miêu tả hàng loạt dạng bất thường trong
tâm lí tính dục và tán thành việc xúc tiến công tác giáo dục tính dục một cách khoa học.
Đầu thế kỉ XX, xuất hiện một số quan điểm sinh học về vấn đề giới tính, và trong
chừng mực nào đó, lại có sự tham gia thêm của các quan điểm tâm lí học. Giai đoạn này
chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết Sigmund Freud. S. Freud đã tập trung chú ý vào mối
quan hệ giữa các vấn đề tâm lí nhân cách với các dạng tình dục khác nhau. Ông cho
rằng, bất kì dạng tình dục bất thuờng nào cũng đều là sự định hình những giai đoạn phát
triển nhất định của tâm lí tính dục của con người. Tuy nhiên ông quá đề cao yếu tố sinh
học; yếu tố tính dục trong đời sống con người.
Trong những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu tính dục phát triển mạnh
và gắn với phong trào gọi là “Phấn đấu vì những cải cách tính dục”, đòi hỏi bình đẳng
nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ, tự do li hôn và sử dụng các biện
pháp phòng tránh thai, giáo dục tính dục trên cơ sở khoa học… Tuy nhiên, những lí luận
trong thời kì này còn nặng tính tư biện, tách rời khỏi cơ sở xã hội và thực tiễn.
Năm 1926, T.Van de Velde (Hà Lan), đã cho ra đời cuốn “Hôn nhân hiện đại”, cuốn
sách khoa học hiện đại đầu tiên về sinh lí học và kĩ thuật trong hôn nhân, trong đó người
phụ nữ được coi là người bạn đời có vai trò và chức năng tính đục tương đương với
người chồng.
Các công trình nghiên cứu tiến hành tại những nước khác nhau đế chứng minh rằng,
việc định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người phụ thuộc vào những đặc điểm
về văn hoá và vai trò, địa vị xã hội của họ.
Năm 1921, tại Mĩ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu các vấn đề
tình dục. Uỷ ban này đã hỗ trợ cho H. Kingsey cùng các cộng sự của ông nghiên cứu
một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mông về các định hướng tâm lí tính dục và
hành vi của con người. “Bản phúc trình của Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những
liệu phong phú của trên 10 ngàn cuộc điều tra khoa học khoá nhau, đã được nhiều người
biết đến.
Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công tính của W. Masters và V Johnson, vào
năm 1954. Các tác giả này đã tập trung vào việc phát hiện các chuẩn mực trong tính
dục. Công trình này đã được công bố năm 1966 (sau 11 năm nghiên cứu), đã cung cấp
những tham số sinh lí dáng tin cậy về đời sống tính dục của con người.
Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N. Zabanov và
V.I. Iakovenko mang tên “Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến hành trong sự cấm đoán
của Nga Hoàng. Trên 6000 bản điều tra được phát ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu,
chỉ còn 324 bản và công trình nghiên cứu được công bố năm 1922.
Nhiều nhà bác học lớn đã nghiên cứu các khía cạnh của đời sống tính dục, góp
phần xây dựng tính dục học thành một bộ phận khoa học độc lập theo một quan điểm chủ
đạo có hệ thống, trong đó liên kết nhiều phương pháp và thủ pháp sinh lí, lâm sàng và
tâm lí xã hội. Các vấn đề về giới tính đã thu hút sự nghiên cứu của nhiều chuyên gia
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: sinh học, y học, xã hội học, tâm lí học…
Nhiều nhà lãnh đạo hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng của Liên Xô (V.I.
Lê nin, Marxim Gorki, Maiacovxki, Secnưsevxki; đặc biệt là A.X. Makarenko và V.A.
Sukhomlinxki) đưa ra nhiều quan điểm khoa học về đời sống giới tính, tình yêu hôn nhân
gia đình… đã quan tâm đến việc giáo dục giới tính cho con người và coi đó là một nội
dung quan trọng cần phải giáo dục cho học sinh.
Ngay từ những năm 20 của thế là XX, V.I. Lê nin đã nói: “Cùng với việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình cũng được coi là cấp
bách”.
Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học về y học giáo dục học, tâm lí học,
sinh lí học đã cố gắng xây dựng nền móng vững chắc cho nền khoa học giới tính và giáo
dục giới tính theo quan điểm Mác–xít. Họ đã đưa ra nhiều phương hướng quan trọng
trong việc giáo dục giới tính của Liên Xô. A.X. Makarenko viết: “Đạo đức xã hội đặt ra
những vấn đề về giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người
liên quan mật thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ
gia nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người và việc giáo dục
con cái. Khi giáo dục một con người không thể quên giáo dục loại tình cảm đặc biệt đó
về giới tính”. Ông đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội dung phương pháp giáo dục
giới tính. Ông nói: “Các nhà giáo dục học Xô viết coi giáo dục giới tính và giáo dục về đời
sống gia đình là một nội dung của giáo dục đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào
đời sống gia đình”.
I.X. Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống gia đình
đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục giới tính” và “dù xác định
mối tương quan giữa giáo dục giới tính là giáo dưỡng giới tính như thế nào đi chăng nữa,
thì cả hai thứ đều phải tuân theo các mục đích chung của giáo dục”.
A.X. Makarenko cho rằng, thanh niên cần “phải học tập cách yêu đương, phải học
tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc, và như thế có nghĩa là học
tập để biết tự trọng, học tập để biết các vinh hạnh được làm người”. Trong các bài giảng
về giới tính, ông cho rằng: “Chúng ta phải giáo dục con em chúng ta làm sao để các em
có thái độ đối với tình yêu như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em
sẽ được hưởng khoái cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn
khổ gia đình”.
Sukhomlinxki đã khuyên nhủ thanh niên: “Hãy sáng suốt và yêu cầu cao trong tình
yêu. Tình yêu là một loại tình cảm mãnh liệt, nhưng lí trí phải điều khiển trái tim”. “Nữ tính
chân chính là sự kết hợp tính dịu dàng và tính nghiêm khắc, sự âu yếm với tính cứng rắn.
Tình yêu và sự nhẹ dạ không đi cùng nhau. Tình yêu có thể chính đáng về mặt đạo đức,
khi những người yêu nhau được kết hôn trong tình bạn vững bền”.
Ông cũng nhấn mạnh rằng: '“Yêu là thời kì khởi đầu của việc làm cha làm mẹ. Yêu
có nghĩa là cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người khác, với người mình yêu và
với người mình sẽ tạo ra”. “Trong cuộc đời có một hạnh phúc lớn và một công việc lớn,
đó là tình yêu. Tình yêu trai gái, vợ chồng là một lĩnh vực thuộc chủ quyền đặc biệt về
đạo đức”.
Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ chức việc
hướng dẫn và tổ chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về giới tính, nhất là đời
sống tình dục và quan hệ hôn nhân. Việc nghiên cứu và điều trị những bệnh về tính dục
đã được tiến hành. Tầm quan trọng của việc “cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung
phương pháp giáo dục giới tính phù hợp với đạo lý” đã được thừa nhận tại kì họp liên
tịch giữa Viện hàn lâm khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971,
và tại cuộc “Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hoá gia đình,
giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia định tại Varsava” năm 1977.
Gần đây nhiều công trình lớn có tính khoa học về giới tính đã được nghiên cứu
hoặc đưa từ nước ngoài vết góp phần quan trọng vào việc giáo dục giới tính thọ thanh
niên, như các công lênh nghiên cứu của A.V. Petrovxki, I.X. Kim, G.I. Gheraximovic, D.V.
Kolexev, ru.I. Kusnứuk, V.A. Serbakov… với nhiều tác phẩm rất có giá trị: Bách khoa
toàn thư Y học phổ thông; Trò chuyện về giáo dục giới tính của Tiến sĩ y học D.V.
Kolexev; Vệ sinh tinh thần trong sinh hoạt tình dục của Tiến sĩ y học. I. Mielinxki… Ngay
từ những năm 70, việc giáo dục giới tính cho học sinh đã được đề xuất, giảng dạy ở một
số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra chỉ thị cho tất cả các trường học
trong cả nước thực hiện chương trình giáo dục vệ sinh và giáo dục giới tính cho học sinh
các trường phổ thông. Một chương trình giáo dục giới tính được biên soạn rất tỉ mỉ và cụ
thể cho học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 (trung học phổ thông). Đặc biệt, trong chương trình
giáo dục từ năm học 1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp 10
(tương đương lớp 11, 12 của nước ta) gọi tên là “Đạo đức học và tâm lí học đời sống
gia đình” với 34 tiết chính khoá.
Ở Đức hiện nay, có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng với những công trình
nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính như: R. Neubert, Aresin, Smolka, Hopman và
Klemm, Linser, Polte, Dierl, Grassel… Một cuốn bách khoa toàn thư về giới tính được
biên soạn để giảng dạy và giáo dục giới tính cho học sinh.
Ngay từ năm 1959 nhiều tài liệu về giáo dục giới tính đã được biên soạn công phu,
như công trình của R. Neubert: Sách nói về quan hệ vợ chồng, của Z. Snabl: Điều khó nói
trong tình yêu… Vấn đề giáo dục giới tính được tiến hành rộng rãi từ những năm 60, đặc
biệt từ những năm 70 của thế kỉ XX trở đi. Các nhà khoa học Đức quan niệm rằng:
“Những hiểu biết khoa học về vấn đề giáo dục giới tính cần được trang bị ngay cho cả
các cô mẫu giáo, vườn trẻ ở đó cũng cần phải nói dền sự giáo dục về môn quan hệ đúng
đắn gì những người khác giới”. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới tính đã
được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8, với 15 chủ đề khác
nhau và trên 20 sinh tham khảo được quy định.
Nhiều nước như: Tiệp Khắc, Hungary. Ba Lan… đều đã tiến hành giáo dục giới tính
cho học sinh phổ thông bằng những thương trình bắt buộc. Các nước phương Tây như:
Anh. Đan Mạch, Thuỷ Điển, Mi… đã tiến hành giáo dục cho học sinh khá sớm (1966). Ở
Pháp, thương tình giáo dục nội dung này được thực hiện từ năm 1973. Đặc biệt là một
số nước châu Á, châu Phi, Mĩ Latin cũng đưa giáo dục giới tính vào trường phổ thông và
đã đạt kết quả tốt. Trung Quốc đã tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh từ năm 1974
và hiện nay là một trong những nước có nhiều công trình nghiên cứu, có sự phát triển
cao trong nghiên cứu khoa học về giới tính.
Ngay các nước Đông Nam Á như: Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore,
Phihppines… cũng đã thực hiện nội dung giáo dục này. Ở Philippines, giáo dục giới tính
đã được đưa vào chương trình nội khoá của trường phổ thông cơ sở và trường trung
học phổ thông, và là một bộ phận của giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình. Nội
dung giáo dục giới tính đã được lồng ghép một cách hợp lí vào nhiều bộ môn văn hoá
khác, chủ yếu là môn kế hoạch hoá gia đình qua các giờ chính khoá và qua các hoạt
động ngoại khoá, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước này, việc
nghiên cứu các tỉnh thức tổ chức dạy học, những phương pháp và những phương tiện
dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học sinh, làm cho quá trình giáo dục
đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này cũng đã được mở rộng ra ngoài nhà
trường, đến các tầng lớp nhân dân khác nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong
phú, qua các trung tâm tư vấn và đã được xã hội ủng hộ.
Ở Việt Nam ta, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số giáo dục giới tính
đã bắt dầu được quan tâm rộng rãi.
Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn
Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy
nghề phối hợp với các tổ chức có liên giùm xây dựng chương trình chính khoá và ngoại
khoá nhằm bồi dương cho học sinh những kiến thúc về khoa học giới tính, về hôn nhân
gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và
giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả
nước.
Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình
yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Tràn
Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê
Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết
của giới tính và giáo dục giới tính. Nhiều công trình nghiên cứu về giới tính, tình yêu, hôn
nhân gia đình, nhiều cuộc điều tra về tình yêu và đời sống hôn nhân gia đình đã được tiến
hành từ năm 1985 đến nay, bước dầu làm cơ sở cho việc giáo dục giới tính cho thanh
niên và học sinh. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong phú đa dạng về
vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.
Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời sống
gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí hiệu
VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự tài trợ của
UNFPA và UNESCO khu vực.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân
Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều
vấn đề như: quan niêm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân; nhận thức về giới tính và giáo dục
giới tính của giáo viên, học sinh, phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến
hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam dã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề
tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có
liên quan như: Giáo dục sức khoẻ sinh sản; Giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học
sinh; Giáo dục đời sống gia đình; Giáo dục giới tính cho học sinh… Việc nghiên cứu giới
tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh.
Created by AM Word2CHM
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
Tâm lí học giới tính là một chuyên ngành của Tâm lí học, nghiên cứu về đời sống
giới tính, mối liên hệ giữa giới tính với các hoạt động xã hội của con người và cuộc sống
của con người trong xã hội.
Giáo dục học giới tính là chuyên ngành của Giáo dục học, nghiên cứu về vấn đề
giáo dục giới tính cho con người, chủ yếu là giáo dục cho thế hệ trẻ.
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính là hai ngành khoa học tuy khác nhau
nhưng quan hệ rất mật thiết với nhau.
Trong thực tế nghiên cứu về giới tính hiện nay, người ta thường kết hợp tâm lí học
giới tính với giáo dục học giới tính như một lĩnh vực khoa học thống nhất. Khi tìm hiểu về
tâm lí học giới tính, người ta phải kết hợp với vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh. Việc
nghiên cứu những vấn đế của tâm lí giới tính phải phục vụ cho giáo dục giới tính, phải đi
tới nội dung, phương hướng giáo dục những vấn đề giới tính đó… cho con người. Ngược
lại, khi nghiên cứu về giáo dục học giới tính, các nhà giáo dục phải dựa trên cơ sở tri
thức của Tâm lí học giới tính để xác định chương rình, nội dung, phương pháp, hình
thức, kế hoạch… giáo dục giới tính phù hợp.
Vì vậy trong nhiều công trình nghiên cứu về khoa học giới tính hiện nay ở nước ta,
thường có sự kết hợp chặt chẽ của cả hai ngành khoa học trên.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa nam và nữ dưới ảnh hưởng của đời sống giới tính.
+ Lịch sử nghiên cứu các vấn đề giới tính và sự hình thành phát triển của các khoa
học về giới tính.
+ Những vấn đề tâm lí trong giáo dục giới tính.
+ Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục giới tính.
– Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mô tả và giải thích các hiện tương của đời sống giới tính.
+ Phát hiện các quy luật của các hiện tượng giới tính.
+ Nghiên cứu các hiện tượng tâm lí, các quy luật tâm lí về việc giáo dục giới tính
cho thanh niên, học sinh.
+ Đề xuất những phương hướng giáo dục, vững nội dung, cách thức, biện pháp
thích hợp để giáo dục con người về mặt giới tính, tạo điều kiện để phát triển toàn diện
dân cách cho thanh thiếu niên học sinh và cho mọi người.
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các ngành
khoa học khác
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính có mối quan hệ mật thiết với nhiều
ngành khoa học, phải dựa trên cơ sở của Sinh lí học, Giải phẫu sinh lí, Tâm lí học, Tâm lí
học xã hội, Tâm lí học giao tiếp, Xã hội học…
Khi nghiên cứu Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính, chúng ta còn phải
dựa trên cơ sở của Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học giới tính… Đây là
những ngành khoa học còn non trẻ ở nước ta.
Ngoài ra, việc nghiên cứu tâm lí giới tính còn phải gắn với nhiều ngành khoa học
khác như: Y học, Sinh học, Xã hội học, Giáo dục học, Dân số học và Giáo dục dân số…
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu các vấn đề giới tính đang được sự quan tâm
đặc biệt của Y học, Xã hội học, Giáo dục học và Tâm lí học.
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay
- Việc nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là tâm lí học giới tính và giáo dục học giới
tính ở nước ta hiện nay đang được quan tâm và phát triển mạnh mẽ.
– Có nhiều quan điểm khác nhau về đời sống giới tính, về những thuật ngữ cơ bản
được sử dụng trong các ngành khoa học về giới tính (giới, giới tính, tính dục, tình dục,
tình yêu…).
– Có nhiều biểu hiện phức tạp trong việc nghiên cứu về giới tính:
+ Sự lẫn lộn giữa các khái niệm, các thuật ngữ về giới và giới tính.
Có người cho rằng, giới chỉ là những đặc điểm xã hội, do xã hội tạo ra. Ngược lại,
giới tính lại chỉ được hiểu là những đặc điểm về sinh lí và không biến đổi. Nhiều thuật ngữ
như: tính dục và tình dục, giới và giới tính, tình dục và giới tính… thường bị sứ dụng lẫn
lộn hoặc phiến diện, lệch lạc.
+ Nội hàm của một số khái niệm chưa được thống nhất như giới tính, tính dục, sức
khoẻ sinh sản.
+ Sự pha trộn các quan điểm phương Tây với những quan điểm truyền thống Việt
Nam. Trong xã hội, nhiều người cho rằng không cần thiết phải giáo dục giới tính trong
nhà trường, trong thanh niên, nhiều người có quan niệm tình dục tự do, tình yêu tự do,
tình yêu không cần hôn nhân…
+ Những tồn tại của các quan điểm phong kiến lạc hậu về các hiện tượng của đời
sống giới tính.
+ Sự xuất hiện nhiều tài liệu, sách báo thiếu khoa học về vấn đề giới tính, nhằm mục
đích chạy theo thị hiếu, thay theo kinh doanh; thậm chí có sự nhầm lẫn giữa các sách
báo, tài liệu khoa học về giới tính với các sách báo mê tín dị đoan hoặc mang tính kích
dục, tính khiêu dâm, dồi trụy… Những sách này thiếu tính giáo dục, tính khoa học, nhiều
khi chỉ kích thần tính tò mò, gây tác hại cho thanh thiếu niên.
+ Các văn hoá phẩm đồi trụy hoặc văn hoá phẩm theo những quan điểm nước
ngoài nhiều khi gây tác dụng tiêu cực trong giáo dục thanh thiếu niên, không phù hợp với
phong tục truyền thống Việt Nam. Ngược lại, những tư tưởng, quan điểm phong kiến khắt
khe, lạc hậu vẫn song song tồn tại trong đời sống xã hội, trong nghiên cứu và đánh giá
các vấn đề của đời sống giới tính.
+ Nhận thức của nhiều tầng lớp xã hội như: phụ nữ, thanh thiếu niên, người lớn,
thậm chí, có cả một bộ phận không nhỏ của nhà giáo, giới trí thức về nhiều vấn đề của
đời sống giới tính còn thấp hoặc phiến diện, hoặc sai lầm.
+ Những phương tiện thiết bị nghiên cứu về vấn đế giới tính còn rất hạn thế. Do
điều kiện xã hội phong kiến, những phương pháp nghiên cứu chưa thật sự đa dạng và
toàn diện, kể cả phương pháp điều tra xã hội học cũng khó có thể phát huy hết tác dụng,
không thể hỏi nhiều vấn đề tế nhị.
+ Việc nghiên cứu về giới tính đang được quan tâm nhưng kết quả thưa thật sự
cao, thậm chì còn có lệch lạc trong một số công trình nghiên cứu.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân:
+ Đời sống giới tính rất phức tạp nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu một cách
đầy đủ và hệ thống bởi các nhà khoa học. Nhiều người còn e ngại hoặc thành kiến, có
quan niệm không đúng về vấn đề nghiên cứu và giáo dục giới tính.
+ Những vấn đề của đời sống giới tính thường kích thích tính tò mò của con người,
nhất là đối với thanh niên. Họ thường rất quan tâm đến những vấn đề của giới tính,
thường xuyên trải nghiệm, thể nghiệm những biểu hiện của giới tính trong đời sống hàng
ngày nhưng không tự giải thích được. Chính vì vậy, nhu cầu tìm hiểu về giới tính rất cao.
Họ thường tự tìm hiểu chúng trong mọi điều kiện có thể có trong mọi tài liệu sách báo có
đề cập đến những vấn đề giới tính mà không có khả năng phân biệt những tài liệu khoa
học hay phản khoa học.
+ Những tri thức về đời sống giới tính có thể được tích luỹ qua kinh nghiệm sống
của con người. Nhiều trường hợp có những người không học tập trong nhà trường nhưng
vẫn có những hiểu biết nhất định thông qua sự từng trải trong cuộc sống của họ. Những
kinh nghiệm và sự hiểu biết này có thể không có tính hệ thống khoa học nhưng cũng có
thể giúp cho họ vận dụng ở mức độ nhất định trong cuộc sống. Có khi còn làm cho họ
nghĩ rằng hình đã biết rất nhiều.
+ Có những vấn đề của đời sống giới tính là những vấn đề tế nhị ít khi được trình
bày một cách công khai và chính thức trong xã hội. Nhiều người còn cho rằng đó là
những vấn đế thiếu đứng đắn, thiếu lịch sự, do đó tuy rất quan tâm nhưng họ không dám
nói ra. Việc nghiên cứu và tìm hiểu chúng thường chỉ là vụng trộm, truyền miệng, rỉ tai
nhau hoặc bàn tán trong nhóm bạn bè… Vì vậy những hiểu biết thường chỉ là vụn vặt,
phiến diện và đôi khi không chính xác.
+ Còn nhiều những quan điểm khác nhau về các khái niệm, các thuật ngữ, thậm chí
về cả nội dung và phương pháp nghiên cứu các vấn đề giới tính ở Việt Nam. Các tài liệu
sách báo lưu hành trên thị trường rất phong phú đa dạng, có nhiều tài liệu khoa học
nhưng cũng có những tài liệu chỉ tập trung khai thác những vấn đề giới tính thu hút sự
quan tâm chú ý của người đọc, phục vụ cho việc kinh doanh, vì vậy có nhiều tài liệu rất
phiến diện, lệch lạc, thậm chí có những tài liệu mang tính mê tín dị đoan, hoặc phản khoa
học.
+ Việc dịch thuật các tài liệu nước ngoài sang tiếng Việt cũng chưa được chuẩn
hoá, hiệu đính một cách nhất quán bởi các nhà chuyên môn. Chẳng hạn, từ “sex” trong
tiếng Anh có thể dịch thành nhiều nghĩa như: giới tính”, “tình dục, tính dục, “khoả thân”…
Vì thế nhiều tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài, dù là của các tác giả có uy tín khoa học,
cũng không được chính xác và toàn diện.
Trong khi đó, ở nước ta, thưa có những công trình nghiên cứu cần thiết để thống
nhất các khái niệm, các thuật ngữ, cách sử dụng từ trong nghiên cứu các vấn đề giới
tính, chưa có những hội nghị khoa học cần thiết để thống nhất và phát triển các khoa học
về giới tính.
+ Nhiều tệ nạn xã hội liên quan đến đời sống giới tính có chiều hướng phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt là ăn chơi trác táng, nhậu nhẹt bia ôm, biến tướng của vũ trường,
hoạt động của các “động lắc”, mại dâm…
+ Vấn đề giáo dục giới tính còn nhiều quan niệm phức tạp, mâu thuẫn. Nhiều ý kiến
không thống nhất về nội dung, chương trình, về phương thức giáo dục giới tính trong nhà
trường. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, không nên tiến hành giáo dục giới tính trong
chương trình nội khoá, hoặc ngay cả trong ngoại khoá vì cần phải dành thời gian cho các
môn khoa học cơ bản hoặc các môn học quan trọng hơn. Ngay cả khi đã có quyết định
đưa một số nội dung của đời sống giới tính vào chương trình giáo dục trong nhà trường
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều địa phương, nhiều trường học vẫn không nghiêm tức
thực hiện, hoặc chỉ thực hiện một cách cầm chừng, một cách hình thức để đối phó với
những đợt kiểm tra của Bộ.
+ Lực lượng các nhà nghiên cấm các giáo viên làm công tác giáo dục giới tính,
giảng dạy kiến thức giới tính cho học sinh còn rất thiếu. Trong nhiều trường phổ thông
không có giáo viên được đào tạo chuyên môn để giảng dạy những kiến thức này. Trong
trường sư phạm, việc trang bị những kiến thức giới tính cho sinh viên, giáo sinh cũng
chưa được quan tâm.
+ Việc đào tạo cán bộ chuyên khoa về ngành này chưa được thực hiện một cách
tập trung, hoàn chỉnh, thưa có chương trình đào tạo chuyên ngành, nội dung giảng dạy
còn đơn giản, sơ lược.
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới tính
Hiện nay, việc nghiên cứu các khoa học về giới tính đang được quan tâm ở nhiều
ngành, nhiều cơ quan khoa học. Đây là một lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ ở nước
ta. Còn nhiều vấn đề cần phải tập trung nghiên cứu như:
– Nghiên cứu chuyên sâu để phát triển các ngành khoa học về các lĩnh vực của đời
sống giới tính như: Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học giới tính, những vấn đề
y học về đời sống giới tính, Giáo dục học và Tâm lí học giới tính…
– Nghiên cứu sâu hơn bản chất của các hiện tượng trong đời sống giới tính như: sự
phát triển sinh lí cơ thể ở nam và ở nữ trong các giai đoạn lứa tuổi, đặc biệt là các lứa
tuổi ở người lớn như: giai đoạn từ khoảng 48 – 50 đến 54 - 55; từ 56 đến 65; từ trên 65
đến 70 – 75 ở nữ; từ trên 75 đến 85 ở nam, hiện tượng kinh nguyệt và sinh nở; các hiện
tượng bệnh lí giới tính, đời sống tình dục, sự già lão của cơ thể, vấn đề sức khoẻ sinh
sản, đời sống tình yêu và hôn nhân…
– Vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục tính dục cho học sinh, sinh viên và các lứa tuổi
lớn hơn…
– Các vấn đề tâm lí, diễn biến tâm lí về việc giáo dục giới tính trong nhà trường và
xã hội.
– Tăng cường việc nghiên cứu, giảng dạy các kiến thức giới tính cho học sinh, sinh
viên, đặc biệt là sinh viên các trường sư phạm, để khi ra trường, họ sẽ là các giáo viên
có khả năng, trình độ làm công tác giảng dạy và giáo dục giới tính.
Thống nhất và chính xác hoá các khái niệm quan trọng (như giới, giới tính, tính dục,
tình dục, sức khoẻ sinh sản…) các nội dung trình bày của những ngành khoa học có liên
quan đến đời sống giới tính mới được quan tâm nghiên cứu (như giáo dục dân số và sức
khoẻ sinh sản, giáo dục gia đình, tâm lí và giáo dục giới tính…).
– Xây dựng, bổ sung thêm những khái niệm, thuật ngữ mới trong khoa học giới tính
như “độ trẻ trung”, “sự già lão”, “chỉ số sinh sản” ở nam, ở nữ, “vẻ đẹp cơ thể”, “động cơ
yêu đương”, “hôn nhân hạnh phúc”…
Created by AM Word2CHM
Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con người
- Trong nhiều công trình nghiên cứu, người ta đều thấy rằng từ tuần lễ thứ 8 đến
tuần lễ thứ 10, giới tính tuyến sinh dục mới phân li, và khi ấy, thai nhi bắt đầu phát triển
theo giới tính một cách rõ ràng.
- Khi ra đời, đứa trẻ chỉ có một dấu hiệu giới tính bề ngoài, đó là cấu tạo cơ quan
sinh dục bên ngoài. Đây là yếu tố chủ yếu và quan trọng, để xã hội xác nhận giới tính của
em là trai hay gái, và từ đó đánh giá em theo những phẩm chất giới tính tương ứng. Đặc
điểm này cũng là cơ sở cho sự giáo dục và hình thành ý thức về giới tính của đứa trẻ
cho đến khi em bé bước vào tuổi dậy thì.
– Theo nhiều tác giả từ tuổi lên 3 lên 4, trẻ em đã bước đầu ý thức được giới tính
của mình, biết được mình thuộc giới nào và phân biệt được giới tính của những người
xưng quanh mặc dù mới chỉ dựa vào những thuộc tính bên ngoài. Từ khoảng 6, 7 tuổi,
giới tính bắt đầu rõ rệt, biểu hiện ở sự phân hoá các hoạt động và định hướng giá trị.
Các em trai và các em gái chơi trò chơi khác nhau theo góc độ giới tính… Sự khác biệt
giới tính này càng ngày càng rõ rệt hơn. “Đứa trẻ bắt đầu biết xử sự theo những dấu
hiệu mà nó nhận thấy là nó thuộc về giới nào, đồng thời ngược lại nó thấy thẹn thùng
trước các dấu hiệu mà theo nó thuộc về giới kia”. Đứa trẻ sẽ lựa chọn những dạng nào
đó trong số các khuôn mẫu hành vi được chấp nhận ở môi trường xung quanh nó.
Từ tuổi dậy thì trở đi, ở trẻ em có sự biến đổi rất quan trọng và rõ rệt về giới tính,
với những sự thay đổi lớn về cơ thể và bắt đầu có sự định hướng giới tính. Nhiều người
cho rằng từ tuổi này, cơ thể người bước sang giai đoạn thứ hai của quá trình hình thành
giới tính… Thời kì này ở nữ bắt đầu từ 12 đến 14 tuổi, ở nam từ 13 đến 15 tuổi. Trong
thời kì này, các tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động tích cực làm con người phát triển rõ
rệt theo giới: họ đần đần thực sự trở thành nam hay nữ (hoặc giới thứ ba). Đồng thời
các dấu hiệu tương ứng với giới tính theo hoóc môn sinh dục cũng được phát triển và
chức năng sinh dục hình thành… Nhiều tác giả gọi thời kì này là thời kì trưởng thành sinh
dục hay thời kì chín muồi về tính dục, chín muồi giới tính.
Ở thời kì này, cơ thể đạt đến sự trưởng thành về sinh dục, tức là bắt đầu có khả
năng sinh sản. Toàn bộ cơ thể thay đổi một cách sâu sắc nhưng sự thay đổi này ở nam
và nữ, và ở từng cá thể có khác nhau. Dần dần, nó làm cho những đặc điểm về bề ngoài
của con người được xác định, chẳng hạn, người nam có hình thể khác hẳn với người nữ.
Mặt khác, những dấu hiệu lệnh thành chức năng tính dục xuất hiện ở nam có những
đợt mộng tinh đầu tiên, và ở nữ là hiện tượng kinh nguyệt. Cùng với các hiện tượng đó,
sự biến đổi về hình dáng cơ thể biến đổi về tâm sinh lí ngày càng nhiều và rõ nét, tác
động mạnh mẽ đến ý thức của trẻ em về bản thân mình.
Những chức năng tính dục ngày càng xuất hiện rõ rệt và phát triển với nhiều biểu
hiện khác nhau như khả năng tình dục, sinh sản… tuy rằng ở nam và nữ khác nhau.
Ở nam, vào khoảng từ 14 đến 19 tuổi đã xuất hiện sự quan tâm đến giới nữ. Điều
này liên quan đến việc tuyến sinh dục hoạt động mạnh, sản sinh ra các hoóc môn sinh
dục nam (Testosteron). Dần dần, sự quan tâm đến giới nữ được thể hiện một cách cụ
thể, và xuất hiện lòng ham muốn gần gũi về thể xác.
Ở nữ, chức năng tính dục hình thành sớm hơn nam (khoảng từ 12 đến 16 tuổi)
nhưng sự phát triển tính tích cực tính dục do cơ quan phát dục tạo ra chậm hơn, và từ từ
đạt tới đỉnh cao sau nhiều năm. Đồng thời sự phát triển tính tích cực này lại phức tạp
hơn nhiều so với nam, nó gắn liền với nhiều đặc điểm tâm lí, xã hội khác một cách mật
thiết hơn so với nam. Tính tích cực tính dục ở nữ được quy định bởi số lượng hoóc môn
sinh dục nữ (Prosestoron) do các tuyến sinh dục tiết ra. Đó là những biểu hiện cụ thể cho
thấy các em đã bước vào thời kì chín muồi tính dục, chín muồi giới tính. A.V. Petrovxki
cho rằng, ở những trường hợp bình thường, thời kì chín muồi tính dục bắt đầu ở nữ từ
12 đến 14 tuổi và kết thúc khoảng từ 16 đến 18 tuổi: còn ở nam bắt đầu từ khoảng 13
đến 15 tuổi và kết thúc ở tuổi 18 – 20.
Tuy nhiên, thời hạn và cường độ của sự chín muồi tính dục phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: có những đặc điểm sinh lí có tính di truyền lẫn yếu tố điều kiện sinh hoạt, kinh tế, xã
hội, tình trạng sức khoẻ, dinh dưỡng, khí hậu, đời sống tâm lí… Các yếu tố bất lợi (như
điều kiện sinh hoạt thấp kém, ăn uống thiếu chất, bệnh tật…) thường gây ra sự thay đổi
chậm trễ, mất cân bằng… trong sự phát triển cơ thể, tính dục, tâm lí.
Sự chín muồi tính dục bị chi phối bởi nhiều yếu tố phức tạp khác dẫn tới sự biến đổi
to lớn về đời sống vật chất và tinh thần của con người. Đồng thời, được tác động của
nhiều yếu tố, ý thức về giới tính dần dần được hình thành. Đó là khả năng nhận biết mình
mang giới tính nào, khả năng điều chỉnh hành vi cho phù hợp với những đòi hỏi, những
định hướng về tinh thần, đạo đức đã được thừa nhận trong xã hội về giới tính.
Trong thời kì này, các em cũng “thức tỉnh môn quan tâm với người khác giới”. Sự
quan tâm này chưa có ngay sắc thái tình dục dặc thù vốn tiêu biểu cho thời kì tình dục
trưởng thành. Theo I.X. Kon, A.V. Petrovxki, ở các em thiếu niên hình thành mối quan hệ
đặc biệt, có thể xác định đó như là sự yêu thương mang màu sắc tình cảm thanh cao.
Chỉ về sau, cùng với lúc kết thúc thời kỳ chín muồi giới tính, con người mới thức tỉnh
những cảm xúc tình dục đặc thù, bộc lộ tính hoạt động sinh dục và hình thành ý thức giới
tính trưởng thành.
Cùng với sự biến đổi rõ rệt về đời sống tâm lí của các em trong thời kì chín muồi
giới tính, tâm lí của thiếu niên phong phú hơn lên rất nhiều nhờ những ấn tượng mới, cảm
xúc mới, nhưng lại không ổn định. Các em thường nhạy cảm quá mức, dẫn đến sự mất
cân bằng về tâm lí: lúc hiếu động, lúc lầm lì, khi lạnh lùng, khi nhiệt tình quá mức, lúc rụt
rè, lúc quá trớn cố ý kèm theo những hành vi có tính thách thức… Có trường hợp các
em thiếu cân bằng trong hoạt động thần kinh, khả năng làm việc giảm sút, hay bực bội,
cáu có gắt gỏng hay khóc lóc… Tình trạng này dễ xảy ra ở em gái, nhất là những ngày
hành kinh.
Những đặc điểm nêu trên của thời kì chín muồi giới tính đặt ra những yêu cầu đối
với các bậc phụ huynh và các nhà sư phạm trong việc giáo dục các em. Việc tác động
giáo dục các em một cách phù hợp tế nhị là hết sức quan trọng trong thời kì này. Trong
đó, việc trang bị cho các em những kiến thức cần thiết, đúng đắn về giới tính, việc đối xử
có tính sư phạm, sự quan tâm đến các em, tạo cho các em một môi trường hoạt động
tốt đẹp… có ý nghĩa rất to lớn đến sự phát triển nhân cách, đến cuộc đời của các em
sau này.
– Sự hình thành những nét tâm lí giới tính, kể cả tâm lí tính dục còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác: sự phát triển xã hội và điều kiện sống, các mối quan hệ giao tiếp của
cá thể, nền giáo dục mà trẻ em được hấp thụ, phong tục tập quán xã hội, toàn bộ đặc
điểm nhân cách… Đặc biệt, sự hình thành đặc điểm giới tính gắn liền với sự hình thành
phát triển nhân cách. Nhân cách chi phối những đặc điểm và đời sống giới tính. Nhiều đặc
điểm của đời sống giới tính cũng chính là đặc điểm nhân cách. Thậm chí những đặc điểm
đơn thuần về sinh lí, về tính dục được “xã hội hoá”, “tâm lí hoá”, có khi cũng trở thành
những đặc điểm nhân cách.
Sự hình thành phát triển giới tính gắn bó hữu cơ với sự hình thành phát triển nhân
cách. Không thể tách rời hai quá trình này. Tác động vào giới tính cũng chính là tác động
vào nhân cách và ngược lại. Những phẩm chất đạo đức, năng lực, xu hướng, khí chất…
đều có thể mang màu sắc của giới tính, gắn bó với giới tính, phát triển theo giới tính.
Những đặc điểm giới tính lại ảnh hưởng trở lại đến nhân cảm và toàn bộ đời sống tâm lí
con người.
2. Các giai đoạn phát triển của giới tính
Có nhiều cách phân chia các giai đoạn phát triển giới tính dựa trên những cơ sở
khác nhau như: lứa tuổi, quan hệ xã hội, sự giao tiếp xã hội, đời sống hôn nhân, sinh
nở… Sau đây là cách phân chia các giai đoạn phát triển giới tính phổ biến nhất:
a) Dựa trên sự phát triển sinh lí cơ thể theo lứa tuổi
Có thể phân chia sự phát triển giới tính của con người theo các giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1: từ khi lọt lòng mẹ đến 6, 7 tuổi
Giới tính chưa hình thành một cách rõ rệt mặc dù có những biểu hiện khác nhau
giữa các em trai và em gái trong hoạt động vui chơi (chơi trò chơi hay các đồ chơi).
Chưa có sự khác biệt rõ ràng về đặc điểm cơ thể do hoạt động của tuyến sinh dục nam
và nữ chưa phát triển mạnh về chức năng sinh lí giới tính (các chức năng tính dục chưa
rõ rệt). Ở giai đoạn này, các em trai và gái quan hệ với nhau rất tự nhiên, chưa bị chi
phối bởi các cảm xúc giới tính.
Giai đoạn 2: từ 7, 8 tuổi đến 10, 12 tuổi
Giới tính đã bắt đầu hình thành rõ rệt và sự phát triển của các em nam và nữ có sự
khác nhau cả về sinh lí và tâm lí. Tốc độ sinh trưởng của các em nữ nhanh hơn các em
nam nên ở thời kì này các em nữ thường cao hơn các em nam. Đã có sự “xác định
khoảng cách” giữa nam và nữ. Các em nam ít thân mật hoặc là chơi chung với các em
nữ. Sự giao tiếp giữa hai giới đã có sự giữ kẽ hơn do các rung cảm giới tính đã bắt đầu
xuất hiện dù các em chưa ý thức được.
Giai đoạn 3: từ 10, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi ở nữ; từ 11, 12 tuổi đến 16, 17 tuổi
ở nam.
Bắt đầu bước vào thời kì dậy thì. Tốc độ sinh trưởng của nữ tiếp tục tăng nhanh
hơn nam nên cơ thể các em nữ to lớn và khoẻ mạnh hơn nam. Các chức năng tính dục
bắt đầu hoạt động, đặc biệt là từ độ tuổi 13, 14 trở đi (kinh nguyệt, trứng cá, vỡ tiếng,
mộng tinh…). Đã có sự cư xử khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ. Các em có ý thức rõ rệt
về giới của mình và có sự quan tâm đến người khác giới. Các em đã bắt đầu chú ý đến
vẻ đẹp cơ thể và có nhiều băn khoăn về các vấn đề tính dục, tình yêu ở người lớn…
Giai đoạn 4: từ 15, 16 tuổi đến 18, 20 tuổi ở nữ; từ 17, 18 tuổi đến 22, 25 tuổi
ở nam.
Các em bước vào thời kì chín muồi giới tính. Ở giai đoạn cuối của lứa tuổi này, con
người phát triển tương đối hoàn chỉnh về các chức năng tính dục (có khả năng sinh sản),
xuất hiện những rung cảm yêu đương chân thực và chân chính, có ý thức đầy đủ về giới
và giới tính. Có ý thức trách nhiệm trong tình yêu và hôn nhân.
Giai đoạn 5: từ 20, 21 tuổi đến 30, 35 tuổi ở nữ; từ 25, 27 tuổi đến 35, 40 tuổi
ở nam.
Giai đoạn phát triển cao của đời sống giới tính, các chức năng tính dục và sinh sản
phát triển mạnh. Cơ thể phát triển hoàn thỉnh và đẹp nhất trong cuộc đời. Có ý thức cao
về thầm mĩ, đạo đức và xã hội giới tính. Có sự phát triển mạnh trong đời sống tình yêu
và hôn nhân, là lứa tuổi mà con người nên kết hôn và sinh nở.
Giai đoạn 6: từ 35, 37 tuổi đến 48, 50 tuổi ở nữ; từ 40, 45 tuổi đến 55, 60 tuổi
ở nam.
Thời kì phát triển cao của đời sống giới tính cả về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội giới
tính.
Giai đoạn 7: từ 50, 52 tuổi đến 55, 60 tuổi ở nữ; từ 60, 62 tuổi đến khoảng
70, 75 tuổi ở nam.
Đây là giai đoạn có nhiều biến đổi mạnh (khủng hoảng) của đời sống giới tính. Là
thời kì hồi xoan và mãn kinh ở nữ. Ở nam cũng có nhiều biến đổi mạnh theo chiều hướng
các chức năng tính dục yếu dần đi, đặc biệt là đời sống tình dục.
Giai đoạn 8: từ trên 55, 60 tuổi ở nữ và trên 70, 75 ở nam.
Đây là giai đoạn bước sang tuổi già, các chức năng cơ bản của đời sống tính dục
tắt dần.
Sự phân chia theo lứa tuổi như trên có tính tương đối vì đời sống giới tính và các
chức năng tính dục còn tuỳ thuộc rất nhiều vào tình trạng sức khoẻ, tình trạng yêu đương
và hôn nhân… chẳng hạn đối với những người phụ nữ bệnh tật, không có tình yêu, không
kết hôn, không có khả năng sinh nở… việc mãn kinh có thể diễn ca rất sớm, khoảng 40 –
45 tuổi và không có hiện tượng hồi xuân. Ở nam, nếu khoẻ mạnh, các chức năng sinh lí
tính dục có thể kéo dài tới tuổi 75, 80 hoặc hơn nữa. Các giai đoạn lứa tuổi có thể chênh
lệch từ 2 đến 3 tuổi.
b) Sự phân chia giai đoạn phát triển giới tính theo sự hình thành và phát
triển các mối quan hệ giới tính
Giai đoạn 1: thời kì giao tiếp nam nữ không bị chi phối bởi giới tính, thường từ khi
mới sinh ra đến 6, 7 tuổi.
Đây là thời kì các đặc điểm giới tính không bộc lộ rõ rệt, các em nam nữ quan hệ
thân mật, hồn nhiên trong sáng, không bị chi phối bởi các rung cảm tính dục.
Giai đoạn 2: thời kì giao tiếp nam nữ bắt đầu bị chi phối bởi giới tính.
Đây là thời kì mà con người có những giao tiếp cư xử với bạn khác giới, thường
khoảng 7, 8 tuổi trở đi. Quan hệ của các em chịu sự chi phối bởi những rung cảm giới
tính, rung cảm tình đúc nên các em thường giữ kẽ, e ngại khi tiếp xúc với nhau. Những
rung cảm giới tính, rung cảm tình dục tạo nên sự quan tâm đến những người khác giới,
đặc biệt từ 16 đến 18 tuổi trở đi. Những rung cảm này thường là cơ sở giúp cho con
người hướng tới việc xây dựng tình yêu đôi lứa hoặc tìm hiểu về đời sống hôn nhân gia
đình. Nếu thời kì này kẻo quá dài, trên 30 tuổi ở nữ hoặc 40 tuổi ở nam mà chưa đi tới
tình yêu hoặc hôn nhân, con người dễ bị mất cân bằng trong đời sống tâm sinh lí.
Giai đoạn 3: thời kì yêu đương.
Thời kì này bắt đầu từ khi con người xuất hiện những rung cảm yêu đương, đặc
biệt là có tình yêu thực sự (thường khoảng 17, 18 tuổi trở đi ở nữ và khoảng 20, 25 tuổi
trở đi ở nam). Những rung cảm yêu đương và những cảm xúc trong tình yêu, tình dục
làm cho con người có sự phát triển đầy đủ và hoàn chỉnh hơn về mặt nhân cách và cá
tính. Những rung cảm này giúp cho con người hướng tới việc chinh phục và xây dựng tình
yêu đôi lứa. Tình yêu làm cho con người có sự phát triển đặc biệt về mặt tâm hồn, tâm
lí, giúp phát triển cao hơn về mặt tài năng và nhân cách, giúp cho con người có cuộc
sống và hoạt động ổn định hơn, cân bằng hơn. Tình yêu giúp cho con người quan tâm
hơn về đời sống hôn nhân và hướng tới hôn nhân. Tuy nhiên, sự hiểu sai lệch và những
cư xử không đúng trong tình yêu, sự tan vỡ trong tình yêu và những hậu quả của các
cuộc tình không đứng đắn, có thể dẫn tới sự khủng hoảng trong sự phát triển nhân cách
và tài năng.
Giai đoạn 4: thời kì hôn nhân và gia đình.
Thời kì này có thể bắt đầu từ 20, 22 tuổi ở nữ và 25, 27 tuổi ở nam, khi con người
bước vào đời sống hôn nhân. Nhiều chức năng giới tính phát triển mạnh, các đặc trưng
giới tính thể hiện rõ ràng, đậm nét, ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển của nhân
cách. Sự kết hôn giúp cho con người trưởng thành hơn, chín chắn hơn trong cuộc sống,
dễ tạo lập được sự phát triển mạnh mẽ trong sự nghiệp và công danh. Con người trưởng
thành hơn trong hoạt động, trong giao tiếp. Có ý thức trách nhiệm hơn đối với xã hội và
gia đình. Việc kết hoạt chung sống vợ chồng thường dễ giúp cho con người biết lo toan
hơn trong cuộc sống, biết. tu chí làm ăn, có sự cẩn trọng và chu đáo trong hoạt động,
giao tiếp. Con người trưởng thành hơn, hiểu biết đầy đủ và chín chắn hơn, ổn định hun về
tính cách. Nếu hôn nhân bất hạnh, con người sẽ sớm biến động về nhân cách, bất ổn
trong sự phát triển, có thể dẫn tới những cực đoan trong xu hướng, thế giới quan, nhân
sinh quan.
Giai đoạn 5: thời kì gia đình đa thế hệ.
Thường bắt đầu từ độ tuổi 48 đến 50, khi gia đình đã nảy sinh thế hệ thứ ba trở đi.
Các đặc điểm của đời sống giới tính đã ổn định và gắn liền với sự phát triển của nhân
cách, của gia đình. Các đặc điểm này được điều chỉnh và biến đổi dần theo hướng giảm
dần về tính chất, chức năng hoặc cường độ hoạt động.
Created by AM Word2CHM
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC
SINH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
Tuổi thanh niên, học sinh là lứa tuổi từ khoảng 14, 15 đến 17, 18 tuổi. Đây là lứa
tuổi học sinh ở cuối cấp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông, đó là lứa tuổi bước vào
thời kì chín muồi tính dục, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc thời kì này. Bởi vậy đời
sống giới tính của lứa tuổi này rất phức tạp, bao gồm cả sự khủng hoảng mất cân bằng
của giai đoạn phát dục, và cả những nét đặc trưng của hoạt động giới tính, tính dục của
giai đoạn trưởng thành sinh dục. Bởi vậy ở lứa tuổi này, những đặc trưng cơ bản của đời
sống giới tính đều được biểu hiện khá rõ nét.
Thực ra, sự phát dục bắt đầu diễn ra ở lứa tuổi sớm hơn (12 – 13 tuổi). Chính sự
phát triển này đã đưa các em vào đời sống tính dục và thúc đẩy hoạt động tâm lí tính
dục. Ngay từ tuổi thiếu niên đã xuất hiện những “vấn đề giới tính” trong đời sống tâm lí,
sinh lí của các em. Giáo sư A.V. Petrovxki đã khẳng định sự phát dục kích thích, phát
triển sự quan tâm đến người khác giới, làm xuất hiện những cảm xúc, tình cảm mới. Ông
cũng cho rằng, “Mức độ bận tâm và tập trung vào nội tâm, vào những cảm giác và rung
động mới vào vị trí của chúng trong đời sống của thanh thiếu niên được quyết định bởi
những điều kiện xã hội rộng rãi, cũng như bởi những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt trong đời
sống và sự giáo dục thiếu niên, bởi đặc điểm của sự giao tiếp của thiên niên”. Nhiều công
trình nghiên cứu cho thấy ngay ở tuổi thiếu niên các em đã có thể quan tâm tới những
quan hệ bạn khác giới, tình yêu, đến việc đọc sách báo, tranh ảnh khiêu dâm, thậm chí,
đã có thể quan tâm đến vấn đề sinh dục, tình dục. Ngay từ khi có kinh lần đầu, hoặc có
tinh trùng, tức là từ lúc bắt đầu dậy thì, các em đã có thể quan tâm đến những vấn đề về
giới tính, kể cả chuyện người lớn”. “Ảnh hưởng xấu có thể do việc đọc những sách báo
không phù hợp lứa tuổi, do xem những phim ảnh dành cho người lớn”. Tất cả những điều
đó cũng như những câu chuyện với bạn bè về những vấn đề khác nhau của tình yêu và
giới tính sẽ kích thích sự phát triển rất mạnh hứng thú đối với khía cạnh tâm lí của những
quan hệ con người theo xu hướng khiêu dâm và tình dục quá sớm. Các nhà tâm lí học
Việt Nam: Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê Khanh… cũng khẳng định, “ở tuổi thiếu
niên đã xử hiện sự quan tâm đến bạn khác giới”.
Đến tuổi thanh niên, học sinh, đời sống tính dục và quan hệ yêu đương còn thể hiện
rõ ràng, phong phú và phát triển ở mức cao hơn. Nhiều em đã có những biểu hiện khá
sâu sắc của đời sống tính dục, thậm chí, bước vào hoạt động tình dục. “Đa số nam nữ
thanh niên lứa tuổi này đã ở vào thời kỳ trưởng thành tính dục”. Vì thế những mối quan
hệ yêu đương và quan hệ tính dục rất có thể xảy ra ở các em. Mặt khác, do hiện tượng
“gia tốc” phát triển, ngày nay, hiện tượng yêu đương hoặc quan tâm đến người bạn khác
giới có thể xuất hiện rất sớm ở thanh thiếu niên.
Ở tuổi thanh niên, học sinh, ngoài những biểu hiện vệ sinh lí tính dục như biến đổi
hình dáng cơ thể, xuất hiện những “rung động thầm kín”, mộng tinh, thủ dâm… nhu cầu
về tình bạn khác giới ngày càng tăng. Đặc biệt là quan hệ yêu đương. Bên cạnh sự âu
yếm thơ ngây của trẻ em (những cái nhìn, những lá thư ngắn…) đã xuất hiện những say
mê thực sự dầu tiên, những nhu cầu thực sự về tình yêu và sự kích thích tò mò trước
những rung động thầm kín. Hiện tượng này thậm chí, có thể có ngay cá ở các em học
sinh từ lớp 7 trở đi. A.V. Petrovxki cũng nhận định rằng có khi, “tình yêu say đắm ở các
học sinh thường có tính chất “bệnh dịch” – trong lớp này không có ai yêu, còn trong lớp
kia tất cả, không trừ một ai”.
Tình yêu ở tuổi thanh niên, học sinh cũng đã rất phức tạp và ở mức độ phát triển
mạnh mẽ. Nhiều nhà tâm lí học trên thế giới trong những công trình nghiên cứu của mình
đều thừa nhận rằng trong các em có tình yêu thực sự, mạnh mẽ, sâu sắc. Tình yêu nam
nữ của các em không phải chỉ xuất phát từ những nhu cầu tính dục, nhu cầu sinh lí, mà là
sự thống nhất hài hoà của sự say mê những “cảm giác tính dục” với nhu cầu giao tiếp về
nhân cách, nhu cầu về tình cảm sâu sắc và sự hoà hợp với người yêu. Nhiều trường hợp,
“tình yêu bằng tâm hồn, bằng rung động của tình cảm, tình yêu thanh cao, thuần khiết,
trong sáng đến trước, và là chủ yếu trong quan hệ yêu đương của các em”. Trong khi ấy
tình yêu do sự “đòi hỏi về sinh lí” thường đến sau và có khi rất mờ nhạt. Có nhiều trường
hợp tình yêu của các em còn lẫn lộn với quan hệ bạn bè. Tình trạng “nửa yêu nửa bạn”
ấy có khi kéo dài cho đến hết tuổi học sinh trung học phổ thông.
Nhiều nhà khoa học cũng khẳng định rằng, biểu hiện về tình yêu của nam và nữ ở
lứa tuổi thanh niên, học sinh cũng khác nhau. Ở các em nữ, mặc dù xuất hiện những
chức năng tính dục sớm hơn nhưng do sự phát triển chậm hơn và từ từ, và do đặc điểm
tâm lí tính dục, tâm lí giới tính, nhu cầu về “tình yêu thanh cao” thường lớn hơn và lấn át
sự yêu đương “chung đụng thể xác”. Trong khi đó ở các em nam “những hứng thú và say
mê tình dục lại đến sớm hơn và chỉ sau đó mới xuất hiện khả năng kết hợp chung với sự
giao cảm sâu sắc”.
Tình yêu ở lứa tuổi thanh niên, học sinh về cơ bản là một tình cảm dẹp đẽ, lành
mạnh, trong sáng, là bình thường và tất yếu trong sự phát triển của con người. Tuy
nhiên, nếu các em sống trong một môi trường không được lành mạnh”, bị ảnh hưởng
nhiều bởi văn hoá phẩm đồi trụy, hoặc bởi những nếp sống ăn chơi đua đòi… tình yêu
của các em dễ bị “tầm thường hoá”, “vật chất hoá”, dễ chỉ trở thành sự thoả mãn những
cảm giác thấp hèn và có thể đưa các em đến sự sa ngã, tan vỡ, đau khổ.
Quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu và đời sống tính dục của thanh niên, học
sinh quan hệ mật thiết với đời sống sinh lí, tâm lí của các em. Đó là những quan hệ phức
tạp, đa dạng và mang tính quy luật. Những quan hệ đó “đưa họ đến gần với vấn đề đạo
đức, từ thủ tục săn đón, tỏ tình cho đến các vấn đề tinh thần trách nhiệm là tinh thần kỉ
luật, đạo đức, tự giác”. Các em thường rất dễ bị lúng túng, bối rối, đôi khi là sự bế tắc,
sự sai lầm trong cách giải quyết vấn đề, trong việc xử lí các “tình huống gay cấn”.
Do đó, “các em rất cần sự giúp đỡ của người lớn trước hết là của cha mẹ và thầy
cô giáo”. Người lớn còn biết cầm giúp đỡ, hướng dẫn các em. Người lớn không nên can
thiệp thô bạo, cấm đoán, phá hoại những tình cảm thiêng liêng này của các em. “Bất luận
trong trường hợp nào đều không được phỉ báng, chế nhạo, bất bình với sự xuất hiện của
nó”. V.A. Sukhomlinxki cũng yêu cầu. “Loại trừ khỏi nhà trường câu chuyện ồn ào và
không cần thiết về tình yêu của các em học sinh”. Việc can thiệp vào chuyện tâm tình là
“đôi bàn tay sắt”. Nhưng chúng ta không thể buông rơi nó, để mặc cho các em chập
chững, bỡ ngỡ bước vào tình yêu với những hoang mang, lúng túng, không biết giải
quyết, xử sự như thế nào. Cần phải có thái độ trân trọng và tế nhị, đồng thời cũng không
được thờ ơ, lãnh đạm.
Đời sống giới tính của thanh niên, học sinh rất phức tạp, đa dạng. Ở lứa tuổi này
diễn ra toàn bộ quá trình chín muồi tính dục, từ thời kì phát dục đến khi hoàn thiện những
chức năng sinh dục. Do đặc điểm của đời sống, hoạt động và nhiều nguyên nhân tâm lí
xã hội phức tạp khác, các em đã thể hiện rõ rệt những đặc điểm giới tính, đã thể hiện
đầy đủ những vấn đề giới tính điển hình nhất ở con người.
Có thể nói, đời sống giới tính ở lứa tuổi thanh niên, học sinh chủ yếu là những đặc
điểm về tính dục, đời sống tâm lí giới tính và những quan hệ giới tính đặc trưng, trong đó
có quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu nam nữ. Đây là những vấn đề, những mối quan
hệ phổ biến, điển hình, quan trọng đặc trưng cho đời sống giới tính ở các em. Chúng có
ý nghĩa lớn đến đời sống, sinh hoạt, có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhân cách,
tài năng, đạo đức của các em, nhất là trong điều kiện tình hình kinh tế, xã hội, giáo dục ở
nước ta hiện nay.
Created by AM Word2CHM
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Kinh nguyệt là một hiện tượng đặc biệt của đời sống tính dục ở người nữ. Bản chất
vấn đề kinh nguyệt đã được nghiên cứu sâu dưới góc độ của y học, sinh lí học.
Ở đây chúng ta xem xét vấn đề kinh nguyệt dưới góc độ tâm lí học giới tính.
1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt
Hiện tượng kinh nguyệt có ý nghĩa rất quan trọng đối với người phụ nữ:
– Nó xác định giới tính ở người nữ một cách rõ rệt vì chỉ người phụ nữ mới có kinh
nguyệt. Chỉ những người phụ nữ nào có chu kì kinh nguyệt đều đặn mới là người phụ nữ
thực sự, có đầy đủ các chức năng của người phụ nữ bình thường và khoẻ mạnh.
- Là cơ sở để xác định, chẩn đoán sức khoẻ của người phụ nữ, những chức năng
nữ tính của người phụ nữ (khả năng sinh nở, tình dục, nữ tính…).
– Là cơ sở để xác định một số biện pháp phòng tránh thai (đặc biệt là dựa vào
ngày trứng rụng).
– Là cơ sở để xác định một số biện pháp sinh con theo ý muốn.
- Kinh nguyệt ảnh hưởng đến nhịp sống sinh học của người phụ nữ.
2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt
Khái niệm vệ sinh kinh nguyệt cần phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những nội
dung cơ bản sau đây:
– Xác định những công việc và hoạt động phù hợp với người phụ nữ trong thời kì
hành kinh. Ở thời kì này (khoảng từ 3 đến 4 ngày đầu của chu kì), người phụ nữ có nhiều
biến đổi trực tiếp về mặt sinh lí cơ thể như: mất máu nhiều, cơ thể yếu hơn bình thường,
khả năng đề kháng thấp đi, tâm lí biến động và dễ mất cân bằng… do đó phải có sự nghỉ
ngơi và làm việc hợp lí, Không nên làm việc ở những môi trường biến động mạnh về nhiệt
độ, ô nhiễm. Không nên lao động, hoạt động quá nặng nhọc…
– Tạo cho người phụ nữ một môi trường tâm lí ổn định, một trạng thái tâm lí thoải
mái, dễ chịu, tránh xúc động mạnh, tránh sự căng thẳng tâm lí (stress).
– Đảm bảo chế độ dinh dưỡng hợp lí, đầy đủ hơn những ngày bình thường.
– Đảm bảo việc vệ sinh sạch sẽ.
Như vậy, đảm bảo giữ vệ sinh sạch sẽ mới chỉ là công việc tối thiểu của khái niệm
vệ sinh kinh nguyệt. Việc giữ “vệ sinh kinh nguyệt” đúng đắn và toàn diện sẽ đảm bảo cho
người phụ nữ khoẻ mạnh, duy trì được sắc đẹp và độ trẻ trung bền lâu.
3. Chu kì tâm sinh tí học trong chu kì kinh nguyệt
Nhiều công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy chu kì kinh nguyệt của người phụ nữ
thường diễn ra theo những giai đoạn nhất định. Mỗi giai đoạn của chu kì có những đặc
điểm riêng. Những giai đoạn này hình thành tương đối ổn định, lặp lại ở mỗi chu kì kinh
nguyệt. Người ta thấy ở mỗi chu kì thường diễn ra theo 4 giai đoạn chính sau đây:
– Giai đoạn 1: thời kì “hành kinh”
Giai đoạn này thường bắt đầu từ ngày thứ nhất đến ngày thứ ba hoặc thứ tư của
chu kì. Giai đoạn này là giai đoạn “hành kinh”, máu từ trong tử cung chảy ra ngoài. Người
phụ nữ thường mệt mỏi, khó chịu, kém khả năng để kháng hơn, do đó dễ bị nhiễm bệnh,
dễ bị xúc động, kém khả năng kiềm chế, hay gắt gỏng, bực bội… Nhìn chung, ở người
phụ nữ có sự mất cân bằng về tâm sinh lí rõ rệt, vẻ đẹp sinh lí cơ thể bị ảnh hưởng
(nước da xanh, đường nét cơ thể dễ bị biến đổi…)
– Giai đoạn 2: thời kì “khô khan” thường bắt đầu từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 11/
12 của chu kì.
Ở thời kì này, người phụ nữ chưa thực sự có sự cân bằng về tâm sinh lí, nữ tính
chưa biểu hiện ở mức độ cao, động tác, cử chỉ chưa thật khéo léo và chính xác, khó xuất
hiện những rung cảm tình dục (khô khan) và năng lực tự kiềm thế thấp.
– Giai đoạn 3: thời kì “ướt át”, thường bắt dầu từ ngày thứ 13/ 14 đến ngày 22/24
của chu kì.
Đây là thời kì đẹp nhất của người phụ nữ trong một chu kì kinh nguyệt. Có sự cân
bằng hài hoà về tâm sinh lí, giàu nữ tính, tính tính thường nhu mì, hiền hậu hơn, nước da
mịn màng, hồng hào, dễ xuất hiện những rung cảm yêu thương và rung động tình dục
(ướt át) Trong thời kì này, người phụ nữ có những ngày rất dễ thụ thai, thường trước và
sau ngày rụng trứng từ hai đến ba ngày.
– Giai đoạn 4: thời kì “khô khan biến động”, thường bắt đầu từ ngày thứ 22, 24 đến
hết chu kì (trước ngày hành kinh của chu kì sau).
Thời kì này có đặc điểm gần giống như giai đoạn 2, tuy nhiên phức tạp hơn về mặt
sinh lí cơ thể. Nhiều người phụ nữ thường bị đau bụng, nhức đầu hoặc cơ thể có những
biến động mạnh hơn về mặt sức khoẻ một vài ngày trước khi hành kinh chu kì sau.
Mỗi một chu kì kinh nguyệt của người phụ nữ bình thường đều có thể diễn ra theo 4
giai đoạn trên, tạo thành một chu kì tâm sinh lí học trong chu kì kinh nguyệt của người
phụ nữ. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố về mặt sức khoẻ hoặc về mặt tâm lí, xã hội, đặc biệt
là chu kì kinh nguyệt cũng có thể không đều (biến động từ khoảng 26 ngày đến trên 30
ngày) ở mỗi người phụ nữ khác nhau, sự biểu hiện các đặc điểm tâm sinh lí ở 4 giai đoạn
trên có thể khác nhau, có thể rõ rệt hoặc không rõ rệt. Thậm thí, nhiều người không ý
thức rõ được.
Created by AM Word2CHM
III. TÌNH DỤC
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
V. HÔN NHÂN
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội. Gia đình là một
đơn vị xã hội. Gia đình hạnh phúc và phát triển sẽ làm xã hội giàu mạnh và phát triển.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển còn là ước mơ và nguyện vọng của tất cả
mọi người. Tuy nhiên, xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển lại là một việc rất khó
khăn. Trong thực tế đã có nhiều gia đình chưa hạnh phúc.
Để có thể xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển, cần hiểu rõ về bản chất của
gia đình, quy luật của đời sống gia đình để từ đó xác định được những phương hướng
đúng đắn xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp
a) Gia đình là kết quả và là sự phát triển của hôn nhân:
Mỗi gia đình đều có nhiều mối quan hệ tâm lí, xã hội như: vợ chồng, cha mẹ con
cái, họ hàng, bà con lối xóm, luật pháp, xã hội, đời sống, sinh hoạt… Những mối quan hệ
này chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố: đặc điểm tâm lí của mỗi thành viên, tình yêu, sự
hoà hợp, thời gian chung sống, tuổi tác, kinh tế, xã hội, đạo đức, năng lực, sức khoẻ của
mỗi thành viên.
Trong các mối quan hệ của gia đình, quan hệ vợ chồng là quan hệ cơ bản, có vai
trò quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng có một số đặc điểm chính sau đây:
- Hai người chung sống với nhau: cùng ăn chung, ở chung, sinh hoạt chung, cùng
gặp gỡ nhau hàng ngày, cùng xây dựng cuộc sống chung… Sự chung sống này chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi tình yêu sự hoà hợp, bởi cách cư xử, ý thức trách nhiệm, sự quan
tâm đến nhau của mỗi người…
- Hai người cùng bị ràng buộc với nhau, có trách nhiệm đối với nhau, và cùng có
trách nhiệm trước xã hội và cùng phải tuân theo luật pháp của xã hội. Hai người cùng
mất đi một phần tự do của mình.
- Hai người cùng có nghĩa vụ xây dựng và phát triển gia đình, sinh con, nuôi dạy
con khôn lớn, phát triển gia đình về mọi mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội… nhất là về sự phát
triển nhân cách của mỗi thành viên trong gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng là niềm vui, là hạnh phúc của cả hai người, nhưng cũng từ đó
có thể nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp như:
- Sự chung đụng lâu dài có thể dẫn đến sự va chạm, sự xung đột (do khác biệt cá
tính, do phát hiện những nhược điểm của nhau), có thể làm nảy sinh những mâu thuẫn
mới trong quá trình sống chung…
– Sự gia tăng dần về tuổi tác làm cho sức khoẻ, độ trẻ trung, sắc đẹp bị suy giảm
dần.
– Do đặc điểm của cuộc sống chung, những rung cảm yêu đương, thương nhớ
cũng dễ giảm sút, có khi nảy sinh những va chạm và xung đột, có thể dẫn đến hiện tượng
“nhàm chán tâm lý, “nhàm chán sinh lí”, “thần tượng đổ vỡ”…
– Nhiều vấn đề mới xuất hiện trong sự chung sống vợ chồng: việc sinh nở và những
vất vả trong việc nuôi dạy cơn, việc đảm bảo nhu cầu cuộc sống về mặt vật chất, tinh
thần hàng ngày, những mối quan hệ xã hội, họ hàng, bạn bè… Những vấn đề đó có thể
làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với cuộc sống của hai vợ chồng, có thể dẫn tới những
xung đột, làm nảy sinh những khó khăn, phức tạp cho cuộc sống chung.
Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp khác tác động đến cuộc sống
gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.
b) Nhiều yếu tố của xã hội như: pháp luật, đạo đức, khoa học, kĩ thuật, kinh tế,
chính trị… ảnh hưởng mạnh đến gia đình, đòi hỏi mỗi gia đình phải đáp ứng được những
yêu cầu ngày càng cao để phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Mỗi gia đình phải
gắn bó mật thiết với xã hội, chịu sự chi phối, tác động của xã hội về nhiều mặt và phải
thực hiện các nghĩa vụ đối với xã hội. Vì vậy, mỗi gia đình đều phụ thuộc vào xã hội, phát
triển theo sự phát triển của xã hội. Các mối quan hệ xã hội phức tạp cũng thể hiện ở các
mối quan hệ trong gia đình và làm cho các mối quan hệ trong gia đình cũng phức tạp
theo.
c) Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố của xã hội như: luật
pháp, phong tục tập quán, khoa học kỹ thuật, đạo đức xã hội, nếp sống sinh hoạt, đặc
biệt là yếu tố kinh tế và sự cạnh tranh làm cho các giá trị xã hội có nhiều biến đổi, do đó,
các giá trị trong gia đình cũng biến đổi theo như: vai trò của đồng tiền, các giá trị đạo
đức trong gia đình, tính chất của mối quan hệ cha mẹ và con cái sự cư xử giữa các
thành viên… Khoảng cách giữa cha mẹ và con cái dự bị gia tăng. Vấn đề giáo dục trẻ em
trong gia đình ngày càng phức tạp hơn và khó khăn hơn do ảnh hưởng của yếu tố kinh
tế, của khoa học kĩ thuật và nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp khác.
d) Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ăn chơi sa đoạ, xì ke ma tuý… cũng
ảnh hưởng mạnh đến gia đình, luôn cám dỗ, quyến rũ các thành viên trong gia đình, nhất
là người chồng và người con trai, làm cho họ dễ sa ngã, dễ bị tha hoá nhân cách, có khi
trở thành kẻ phá hoại hạnh phúc gia đình, làm cho gia đình khó có thể phát triển tốt đẹp
và thuận lợi.
e) Trong thực tế, có nhiều gia đình sống chưa hạnh phúc, tỉ lệ ly hôn ngày
càng cao. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình, đặc biệt nạn bạo hành trong gia đình
có chiều hướng gia tăng. Hiện tượng cho hạnh phúc trong gia đình thường có nhiều biểu
hiện, nhiều mức độ khác nhằm tạo nên nhiều loại gia đình chưa có hạnh phúc như:
- Những gia đình đau khổ tan vỡ: Đó là những gia đình mà trong đó quan hệ vợ
chồng căng thẳng, thường xuyên xảy ra xung đột nặng nề, người này đổ trách nhiệm cho
người kia, hành hạ, đánh đập tàn nhẫn người kia…
– Những gia đình hạnh phúc giả tạo: Đó là những gia đình nhìn bề ngoài có vẻ hạnh
phúc: nhà cửa đầy đủ tiện nghi, vợ chồng có địa vị xã hội, con cái được học hành, đời
sống kinh tế đầy đủ… Mọi người tưởng lầm rằng đó là một gia đình hạnh phúc. Nhưng
thực sự bên trong là mối quan hệ căng thẳng giữa hai vợ chồng, họ chịu đựng lẫn nhau,
cố gắng che giấu những bất hạnh, những bực bội không để người khác biết vì nhiều lí do:
bảo vệ danh dự gia đình, danh dự bản thân, hoặc để không bị ảnh hưởng đến công danh
sự nghiệp, công việc làm ăn hay vì nhiều lí do cá nhân khác. Thực tế cuộc sống gia đình
là cuộc sống căng thẳng, bực bội, là sự chịu đựng lẫn nhau.
– Những gia đình thiếu hạnh phúc: Đó là những gia đình mà vợ chồng có thể vẫn
thương yêu nhau nhưng lại thiếu hạnh phúc vì nhiều lí do như con cái hư hỏng, học hành
dốt nát, bỏ nhà đi bụi đời nhiễm xì ke ma tuý, bệnh hoạn, ốm đau, vợ chồng không hoà
hợp, thường xuyên cãi vã, hoặc kinh tế gia đình quá khó khăn thiếu thốn…
Một vấn đề cần chú ý là trong những gia đình chưa hạnh phúc trên, nỗi bất hạnh
chủ yếu thường người phụ nữ phải gánh chịu. Nói cách khác, người gây ra những nỗi bất
hạnh đau khổ cho gia đình đa số là người đàn ông, người chồng, người con trai. Đây là
một thực tế cần quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ hơn.
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
Một gia đình được gọi là hạnh phúc và phát triển thường có những đặc điểm sau:
– Cuộc sống vợ chồng hoà hợp, tràn đầy yêu thương, các thành viên trong gia đình
quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, biết tôn trọng nhau, cư xử lễ độ đối với nhau…
– Kinh tế gia đình đầy đủ, đảm bảo cuộc sống thuận lợi cho mỗi thành viên, đáp
ứng được những nhu cầu phù hợp và chính đáng của mỗi thành viên, làm cho các thành
viên có điều kiện phát triển tốt đẹp về nhân cách, tài năng, công danh, sự nghiệp…
- Mỗi một thành viên đều có điều kiện phát triển hài hoà nhân cách của mình, phát
triển về trình độ văn hoá, đạo đức, tài năng… góp phần xứng đáng xây dựng đất nước,
rạng danh cho gia đình. Đặc biệt, con cái được học hành, được phát triển một cách toàn
diện, trở thành những người công dân tốt của xã hội.
– Gia đình luôn luôn gắn bó với xã hội, hoà nhập với xã hội, thực hiện tốt luật pháp
và nghĩa vụ đối với xã hội, đóng góp tích cực vào việc xây dựng xã hội phát triển.
- Gia đình luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất,
văn hoá, tinh thần và ngày càng phát triển hơn và đóng góp vào sự phát triển chung của
xã hội.
Những gia đình hạnh phúc và phát triển thường là kết quả của hôn nhân tự nguyện,
được xây dựng trên cơ sở của tình yêu sâu nặng, đằm thắm. Ngược lại, những cuộc hôn
nhân vì tiền tài, địa vị hoặc vì những mưu đồ tính toán vị kỉ nào đó đều khó có thể trở
thành một gia đình hạnh phúc.
Nếu vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình là những người có đạo đức
tốt, có văn hoá, có hiểu biết, có thiện chí đối với nhau, thì việc xây dựng gia đình hạnh
phúc và phát triển càng có nhiều thuận lợi và càng đạt tới mức độ phát triển cao.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển là một vấn đề khó khăn, phức tạp,
không phải tự nhiên mà có. Mỗi người phải có kiến thức, có sự hiểu biết, có trình độ và
có ý thức trách nhiệm, có đạo đức tốt, nhất là kiến thức và hiểu biết cuộc sống gia đình,
tập trung và quyết tâm xây dựng cuộc sống gia đình, mới có thể tạo nên một gia đình
hạnh phúc và phát triển.
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển
Ngày nay việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng có nhiều khó khăn,
phức tạp. Cần phải quan tâm tới nhiều vấn đề:
a) Cần phải thay đổi những quan niệm xưa cũ, lạc hậu về gia đình như:
– Quan niệm “chồng chúa vợ tôi” và những quan niệm bất bình đẳng, quan niệm lạc
hậu về cuộc sống gia đình.
– Quan niệm về người phụ nữ như là người lệ thuộc vào chồng, coi công việc nội
trợ gia đình là việc của người đàn bà.
- Quan niệm về cuộc sống gia đình tách biệt với cuộc sống xã hội.
– Quan niệm về cuộc sống gia đình là đơn giản, ai cũng biết, coi số phận của gia
đình hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người đàn ông, chủ gia đình…
b) Để có một gia đình hạnh phúc, cần phải có kiến thức dầy đủ, đúng đắn về bản
chất cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng, từ đó biết cách xây dựng gia đình.
c) Ngăn chặn một cách nghiêm khắc và kịp thời những biểu hiện xấu trong gia
đình như: bạo lực, cư xử tàn nhẫn hoặc vô trách nhiệm đối với người vợ, hành hạ đánh
đập con cái…
d) Nâng cao nhận thức và trang bị cho mọi thành viên của gia đình những tri thức
khoa học về cuộc sống gia đình (khái niệm về gia đình hạt nhân, về quy mô vừa phải và
kế hoạch hoá gia đình, về nghệ thuật xây dựng gia đình hạnh phúc…). Tăng cường
những biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần
(nâng cao dần những tiện nghi phục vụ cho cuộc sống, nâng cao trình độ hưởng thụ các
giá trị văn hoá nghệ thuật, đổi mới về tổ chức cuộc sống gia đình…), phấn đấu xây dựng
“Gia đình văn hoá mới”…
e) Chuẩn bị tốt cho thanh niên nam nữ khi bước vào cuộc sống hôn nhân gia
đình
– Làm cho họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về quan hệ vợ chồng và cuộc sống
gia đình.
- Có sự trân trọng và suy nghĩ chín chắn khi quyết định các vấn đề tình yêu hôn
nhân.
– Phải đảm báo được những điều kiện nhất định và cần thiết khi kết hôn như: đúng
độ tuổi, nghề nghiệp ổn định, sự trưởng thành nhân cách, yêu thương nồng thắm…
- Những tiêu chuẩn cần thiết khi lựa chọn bạn đời.
– Biết chủ động chuẩn bị những yếu tố cần thiết cho cuộc sống hôn nhân…
f) Tăng cường việc giáo dục gia đình cho thanh niên và cho mọi người, với
những nội dung phong phú, đa dạng về đời sống gia đình như:
– Những kiến thức về bản chất cuộc sống gia đình và quan hệ vợ chồng, chức năng
của gia đình, quy mô thích hợp của gia đình hiện nay (số lượng con và phải), vai trò trách
nhiệm người chồng, người vợ, của con cái, nội dung của đời sống vợ chồng, các yếu tố
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, các kiến thức về dân số, giáo dục dân số, kế hoạch
hoá gia đình…
– Những kiến thức về văn hoá gia đình, về chất lượng cuộc sống gia đình, về xây
dựng cơ sở vật chất cho gia đình, trang trí nhà cửa.
- Những kiến thức khoa học về sinh lí cơ thể người, về đời sống tình dục vợ chồng,
về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, về cách giữ gìn vẻ đẹp độ trẻ trung và các kiến thức cơ
bản khác về y tế.
– Những kiến thức khoa học về sinh nở, nuôi dạy con…
– Những kiến thức về nghệ thuật xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình, đặc biệt
là:
+ Nghệ thuật cư xử và chung sống vợ chồng.
+ Nghệ thuật tổ chức cuộc sống gia đình.
+ Nghệ thuật sinh nở, nuôi con.
+ Nghệ thuật quan hệ với xã hội và bà con lối xóm.
+ Nghệ thuật bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Created by AM Word2CHM
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN
HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Giáo sư I.X. Kon cho rằng “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống
gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục giới tính”. Nhưng
giáo dục giới tính không phải là cấm đoán thanh niên bước vào chuyện yêu đương,
chuyện tình dục. Theo I X Kon, “Nhiệm vụ không phải là giữ cho thanh niên nam nữ tránh
chuyện tình dục – không thể và không nên làm như vậy”, mà là làm thế nào để dạy cho
các em biết được một cách đúng đắn vấn đề quan trọng ấy trong cuộc sống của xã hội
và cá nhân. Điều đó có nghĩa là học sinh trung học phổ thông không những phải biết sinh
lí học giới tính, mà còn phải có hiểu biết rõ ràng về các mặt xã hội và tâm lí của vấn đề.
Giáo dục giới tính phải dẫn các em tới tính cảm trách nhiệm về đạo đức và về xã hội của
người lớn, kêu gọi các em cân nhắc thận trọng, nghiêm túc trong tình cảm của mình
(“yêu” hay “thích”), giúp các em trưởng thành về mặt xã hội của bản thân, thấy được
những khó khăn do có con sớm, các phức tạp vật chất và các phức tạp khác do kết hôn
sớm gây ra”…
Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, giáo dục giới tính phải giúp cho thế hệ trẻ
em làm chủ được văn hoá đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ qua lại giữa hai giới, và
làm cho họ có được nhu cầu và nguyện vọng tuân theo những tiêu chuẩn đạo đức trong
các mối quan hệ ấy. Việc tuân theo những tiêu chuẩn đạo đức trong lĩnh vực các quan hệ
giữa hai giới sẽ góp phần quan trọng đối với xã hội, thể hiện ở:
- Mức độ cao của sức khoẻ thể chất và tinh thần của mỗi công dân.
– Nếp sống văn hoá, văn minh lành mạnh, bình đẳng nam nữ, cư xử lịch sự với
người khác giới, và với mọi người trong xã hội.
– Con người có tình yêu hạnh phúc, gia đình bền vững và phát triển, làm tròn nhiệm
vụ sinh con và giáo dục chúng trở nên những thành viên xứng đáng của xã hội.
- Bầu không khí xã hội thuận lợi nhờ mọi công dân đều biết các đặc điểm giới tính
đặc thù của những người khác giới (đặc điểm về thể lực, tinh thần, xúc cảm, cá tính…)
và tôn trọng những đặc điểm đó trong quá trình hoạt động chung.
Như vậy việc giáo dục giới tính vừa có lợi cho từng người, vừa có lợi chung cho mọi
người, cho xã hội.
Theo đó, giáo dục giới tính góp phần giáo dục sứ khoẻ, chống lại các bệnh tật, nhất
là dường tình dục, giáo dục về tính dục, giáo dục về tình yêu, hôn nhân và gia đình, về
sự sinh sản, giáo dục thái độ tôn trọng đối với những người khác giới. “Các em thiếu nhi
và thiếu niên, các chàng trai và các cô gái ở mức độ phù hợp với những đặc điểm lứa
tuổi của mình, cần phải biết và tôn trọng những đặc điểm giới tính đặc thù của các bạn
cùng tuổi khác giới coi những đặc điểm ấy là hoàn toàn tự nhiên và thực tế có lợi cho xã
hội đồng thời phải hiểu đúng đắn bản có của nguyên tắc nam nữ bình quyền”.
Theo G.I. Gheraximovic và D.V. Kolexev, nhiệm vụ của giáo dục giới tính là:
+ Giáo dục niềm tin trong lĩnh vực các quan hệ thân thiết với người khác giới, con
người không phải độc lập với xã hội, không thể hoàn toàn tách biệt các quan hệ giữa hai
giới thành các quan hệ xã hội. Đồng thời còn phải giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội của
con người (thiếu nhi, thiếu niên, thanh niên) đối với từng hành động của mình.
+ Giáo dục niềm mong muốn có một gia đình bền vững, khoẻ mạnh thân ái, nhu cầu
có con hợp lí, có ý thức và khả năng giáo dục con cái.
+ Giáo dục ý thức tôn trọng đối với những người khác, với những người nam giới
và nữ giới, giáo dục khả năng chú ý và tôn trọng những đặc thù và những mối quan tâm
của cả hai giới.
+ Giáo dục khả năng và ý muốn đánh giá các hành động của mình đối với những
người khác, không phải chỉ với mọi người nói chung, mà còn đối với những người thuộc
giới nhất định. Có được khái niệm đâu là hành động tốt, đâu là hành động xấu trong lĩnh
vực các quan hệ ấy.
+ Giáo dục thái độ trách nhiệm đối với sức khỏe của mình và đối với người khác,
hình thành quan niệm về tác hại của các mối quan hệ tình dục quá sớm và quan niệm
không chấp nhận thái độ vô trách nhiệm và nhẹ dạ trong lĩnh vực các quan hệ với những
người khác giới.
+ Tạo thái độ phê phán đối với những nếp ăn chơi đàng điếm, những sinh hoạt thiếu
lành mạnh trong các quan hệ qua lại giữa nam và nữ, đối với những định hướng sai lầm
trong quan hệ với người khác giới, thói hưởng thụ, thói tư hữu, tính ích kỉ…
+ Giáo dục quan niệm đúng đắn về sự trưởng thành cùng với nội dung và các dấu
hiệu đích thực của nó (nhất là quan niệm về sự cư xử ra đời sống tính dục).
Theo tác giả Nguyễn Thị Đoan, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:
a) Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội trong quan hệ giới tính con người.
b) Giáo dục khả năng hiểu biết những đặc điểm giới tính trong quá trình cùng hoạt
động chung với các bạn khác giới. Biết tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
c) Bồi dưỡng những hiểu biết về hành vi tốt xấu, cái cho phép và cái không thể vượt
qua trong quan hệ với người khác giới. Biết tự đánh giá hành vi của ninh trong quan hệ
với người khác giới.
d) Bồi dưỡng những hiểu biết đúng đắn về sự trưởng thành sinh lí của con người
(bao gồm nội dung, những dấu hiệu thực sự thể hiện của nó).
e) Bồi dưỡng ý thức trách nhiệm đối với sức toẻ của bản thân và của người khác, ý
thức được tác hại của việc kết hôn sớm.
f) Bồi dưỡng tinh thần phê phán và thái độ không khoan nhượng đối với những tàn
tích và quan điểm đạo đức phong kiến tư sản trong phạm trù quan hệ giới tính.
Như vậy nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm cả việc truyền thụ tri thức về giới
tính, về mối quan hệ nam nữ và các mối quan hệ khác (với người lớn, với gia đình, xã hội
bản thân…) và cả việc giáo dục những phẩm chất đạo đức, những hành vi cư xử với mọi
người, nhất là làm cho các em biết được những hành vi tốt và xấu, đúng và sai trong
quan hệ với người khác giới, những tri thức và quan niệm đúng đắn về đời sống giới tính
con người. Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Bích Ngọc đã đi sâu vào hai nhiệm vụ cơ bản.
Thứ nhất, giáo dục giới tính cần phải giúp con người biết phê phán, bác bỏ những
quan niệm, nhận thức sai về giới tính và giáo dục giới tính như:
– Phê phán, bác bỏ, những nhận thức đúng đắn về bản năng sinh dục, về quan hệ
tình dục, về khuynh hướng “giải phóng tình dục”, “cách mạng tình dục” hoặc xu hướng
tiêu cực, phó mặc mọi chuyện “cho nó đến đâu thì đến”, dẫn đến sự tan vỡ của nhiều
cuộc hôn nhân.
- Phân tích, phê phán những tư tưởng và những hành vi không lành mạnh: quan hệ
tình gục bừa bãi, yêu nhau, lấy nhau, bỏ nhau quá dễ dàng, thiếu ý thức trách nhiệm đối
với việc xây dựng gia đình, xã hội giống nòi, chỉ chạy theo khoái cảm…
– Giải quyết được những băn khoăn e ngại, cho rằng giáo dục giới tính sẽ chỉ làm
cho thanh thiếu niên bị kích thích không lành mạnh, chỉ làm cho các em hư hỏng. Cần
phải làm cho mọi người thấy rằng, bản năng tính dục có sức thúc đấy mãnh liệt đến độ,
nếu ta không giáo dục cho con người, thì bản thân họ, đến một lúc nào đó, sẽ tự tôn
hiểu, tự đi tới những vấn đề đó qua nhiều nguồn thông tin không chính thức, và như vậy,
sẽ có thể dẫn tới những hậu quả không tốt.
Thứ hai, giáo dục giới tính phải giúp cho con người hình thành được những tri thức,
những quan niệm đúng đắn, khoa học, phù hợp, có tác dụng tốt cho họ và xã hội. Bao
gồm:
– Tri thức đúng đắn khoa học về sinh lí cơ thể, đời sống tính dục, cả về cấu tạo
chức năng, cả về các giai đoạn phát triển của nó… để họ có thể vận dụng những tri thức
này vào cuộc sống, vào việc bảo vệ sức khoẻ sắc đẹp và đời sống hạnh phúc.
– Những tri thức đúng đắn khoa học về đời sống tâm lí, tâm lí tình dục, tâm lí giới
tính…
- Những tri thức đúng đắn khoa học về tình yêu, hôn nhân, đời sống gia đình, về
đạo lí, tâm lí xã hội, về cách cư xử và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, với
người khác giới, với người yêu, người vợ người chồng, cha mẹ, con cái, việc sinh đẻ và
nuôi dạy con cái.
– Chính sách dân số của Nhà nước.
Có thể đi đến kết luận, nhiệm vụ của giáo dục giới tính bao gồm:
– Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ và quan
niệm đúng đắn về những hiện tượng của đời sống giới tính sinh lí tính dục, về cấu trúc và
chức năng của các hệ cơ quan của cơ thể, nhất là hệ cơ quan sinh dục; về sự cư xử
đúng đắn phù hợp trong các mối quan hệ với mọi người, với người khác giới, về những
vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, tinh yêu, hôn nhân và đời sống gia đình…
– Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, biết bảo vệ,
giữ gìn sức khoẻ cho người bạn và cho chính mình, có khả năng chống chọi lại những
cạm bẫy, quyến rũ của lối sống ăn chơi đồi trụy, biết phê phán, bác bỏ những quan niệm
không đúng về tình yêu, tình dục, quan hệ tình dục quá sớm hoặc buông xuôi cả nể, dẫn
tới quan hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, bỏ nhau quá dễ dàng.
– Giúp cho các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và thiêng liêng
của tình bạn thân thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung thủy, biết được cái hay
cái đẹp của nếp sống văn hoá văn minh.
– Chuẩn bị về tinh thần và khá năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp cho họ phát triển
nhân cách toàn diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, nâng
cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và thúc đẩy xã hội phát triển, giàu mạnh.
Created by AM Word2CHM
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Việc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng, cần thiết, tuy
nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy ngoài việc phải đảm bảo những
nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn… như các môn học
khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau đây:
– Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách, hình
thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với việc giáo dục và tính
thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá văn minh. Cần phải xác định rằng,
đó là một trong những mục tiêu cơ bản của giáo dục giới tính.
– Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh lí giới tính,
tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính Không nên chỉ tập trung vào những vấn
đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã hội giới tính.
- Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái độ đúng
đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chi tập trung mô tả các sự kiện,
hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà cần chú ý kết hợp với việc tính thành ý
thức đạo đức phê phán những biểu hiện sai trái.
- Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức thực tiễn
nhất là những vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh niên, học sinh.
- Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí
của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng thích hợp với đối tượng, phải
phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương.
Created by AM Word2CHM
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH.
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện nhân cách
Mục đích giáo dục của chúng ta hiện nay là đào tạo con người mới phát triển toàn
diện. Đó chính là con người có nhân cách phát triển về mọi mặt: đạo đức, tài năng, trí
tuệ, có khả năng góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp, phát triển. Nhưng chính những phẩm
chất tốt đẹp của nhân cách, và sự đóng góp hiệu quả của con người đối với xã hội lại phụ
thuộc vào đời sống giới tính của họ. Nhiều phẩm chất nhân cách quan hệ mật thiết với
giới tính, hoặc cũng chính là những đặc điểm của giới tính và ngược lại.
Chính việc thiếu hiểu biết kiến thức về giới tính, về đời sống tính dục, về hôn nhân,
gia đình, làm cho con người dễ mắc vào vòng tội lỗi, làm cuộc sống gia đình của họ
không hạnh phúc, và do đó hạn chế khả năng đóng góp của họ vào việc xây dựng và
phát triển xã hội.
Theo IU.I.Kusniruk và A.P.Serbakov “Chính việc thiếu kiến thức về những vấn đề
này (giới tính và đời sống gia đình) cũng giống như mọi tình trạng dốt nát khác, lại là điều
nguy hiểm và có phương hại đến tâm lí đạo đức con người”. Nhiều nguyên nhân và hoàn
cảnh trở thành tội lỗi của con người chỉ vì họ không hiểu biết gì về tính dục, về đời sống
giới tính và đời sống vợ chồng. Có khi sự không hiểu biết ấy “làm tăng thêm các dạng rối
loạn tính dục khác nhau, là hệ quả tiếp theo dẫn đến sự phá hoại về tâm lí, gây bệnh
hoạn cho hệ thần kinh. Đồng thời không phải chỉ có sức khoẻ con người bị tổn thương,
mà tư cách con người trong gia đình và xã hội cũng bị tổn thương”.
A.V.Petrovxki cũng cho rằng: “Bầu không khí thiếu lành mạnh trong gia đình tạo nên
tính bê tha và thói vô liêm sỉ”. Nhiều vấn đề của giới tính ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển nhân cách. “Tình yêu thực sự là điều kiện quan trọng nhất của sự nảy nở và phát
triển nhân cách con người”. “Khi không có những nguyên tắc đạo đức vững chắc về quan
hệ nam nữ, thì trong khối óc và con tim của thiếu niên sẽ xuất hiện những thái độ tiêu cực
đối với tình yêu, những hứng thú không lành mạnh, thái độ coi thường phụ nữ…”.
Giáo dục giới tính góp phần quan trọng làm nhân cách phát triển toàn diện, làm con
người có điều kiện xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Vì thế, giáo dục giới tính có ý
nghĩa to lớn đến việc thực hiện mục đích giáo dục.
2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể
của thanh thiếu niên
Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể, đặc
biệt là sự phát triển về đời sống tính dục và sự trưởng thành nhân cách của thanh thiếu
niên trong xã hội.
Một số người cho rằng giáo dục giới tính cho học sinh làm cho các em bị “kích
thích dục vọng”, “làm hoen ố tâm hồn trong trắng”, hoặc “vẽ đường cho hươu chạy”.
Đó là những quan niệm rất sai lầm.
Trong quy luật phát triển cơ thể con người, từ khoảng 12, 13 tuổi trở đi sự dậy thì
sẽ làm các em quan tâm đến các vấn đề giới tính và tính dục, nhất là khi các em bước
vào giai đoạn chín muồi giới tính (từ độ tuổi 14, 15 tuổi đối với nữ và 16, 17 tuổi ở nam).
Thực ra “trẻ em đã sớm quan tâm đến các vấn đề giới tính, trước khi tính dục chín muồi.
Lúc đầu sự quan tâm này không gắn với các thể nghiệm tính dục, mà biểu hiện tính tò
mò thường tình… Đến tuổi quá độ (tuổi dậy thì) thì tình hình phức tạp hơn, mối quan tâm
của thiếu niên đến các vấn đề giới tính trở nên căng thẳng và riêng tư”.
Do đặc điểm phát triển sinh lí cơ thể, tự các em sẽ tìm đến những vấn đề về giới
tính. A.V.Petrovxki khẳng định rằng, “sự phát dục kích thích phát triển sự quan tâm đến
giới khác, làm xét hiện những cảm giác, tình cảm và rung cảm mới”. Các nhà sinh lí học,
y học, tâm lí học đều thừa nhận rằng “hoạt động sinh lý tính dục là một hoạt động bình
thường của một cơ thể khoẻ mạnh. Nó phát triển theo quy luật tự nhiên”, đó là một nhu
cầu cơ bản của con người.
Mặt khác, chính bản thân những tác động của đời sống xã hội cũng ảnh hưởng đến
việc quan tâm đến các vấn đề tính dục, tình yêu hôn nhân của các em. Trong cuộc sống
xã hội, con người luôn phải giao tiếp xã hội, luôn tiếp xúc với mọi người và tiếp xúc với
các vấn đề xã hội. Chính sự tiếp xúc này tạo nên những nhận thức nhất định, đầu tiên của
con người về các vấn đề của đời sống giới tính: giao tiếp với bạn khác giới, nhận thức về
tình yêu và những cử chỉ yêu đương…
Đến một độ tuổi nhất định, không phải do bản thân trẻ em, mà chính là mọi người
trong xã hội: bạn bè, người lớn, đặc biệt là những người thân trong gia đình, cũng luôn
nhắc nhở, gợi ý, thậm chí yêu cầu các em hướng đến những vấn đề trong quan hệ giới
tính như: xây dựng tình yêu, kết hôn…
Những hiểu biết, những ảnh hưởng mạnh mẽ của các sinh hoạt yêu đương, của đời
sống giới tính trong xã hội, lại kết hợp với những rung cảm giới tính, những biến đổi giới
tính trong cơ thể, trong tình cảm, dần dần hình thành ở trẻ em một dạng kiến thức mới
dù chưa được học tập trong nhà trường hoặc gia đình. Đồng thời cũng dần dần hình
thành ở các em một nhu cầu mới: những quan hệ về giới tính, rung cảm giới tính…
“Không phải bản thân việc yêu đương chăm sóc, thư từ, gặp gỡ, cái hôn đầu tiên là quan
trọng, mà quan trọng vì đó là sự đáp ứng nhu cầu nội tại của bản thân học sinh lớn, vì đó
là những tượng trưng xã hội nhất định, những dấu hiệu trở thành người lớn”.
Như vậy sự quan tâm đến các vấn đề giới tính, thậm chí việc nảy sinh những hành
vi giới tính, yêu đương là tất yếu, có tính quy luật. Nó nảy sinh do chính đời sống sinh lí
cơ thể và đời sống xã hội của các em.
Nếu không được hướng dẫn về những vấn đề này, các em sẽ gặp phải những khó
khăn, và chính xã hội và người lớn cũng thật ảnh hưởng bởi những khó khăn đó. A.V.
Petrovxki đã nêu rõ: “Các em thiếu niên không hiểu biết gì về các lần đề giới tính thường
tỏ ra sợ hãi trước những biến đổi sinh lí diễn ra trong cơ thể mình và lấy làm xấu hổ về
những biến đổi đó. Không được các bậc cha mẹ ra các nhà sư phạm giải đáp đến nơi
đến chốn những vấn đề các em muốn biết, các em thường tìm đến các nguồn tình cờ,
đôi khi nhảm nhí và nhận được một khái niệm sai lệch về những vấn đề các em quan
tâm”. Ông cũng cho rằng, “Việc các em thiếu niên, thiếu hiểu biết về các vấn đề giới tính
thường dẫn đến những bi kịch đau lòng trong đời sống”. Ngược lại, sự hiểu biết các kiến
thức về giới tính sẽ giúp cho các em tự tin và vững vàng hơn khi bước vào đời đặc biệt
là khi gặp những tình huống “gay cấn”, điều rất dễ xảy ra khi các em tiếp cận với cuộc
sống xã hội.
Theo các tác giả, chính do những đặc điểm về sự phát triển sinh lí và tâm lí, ở các
em cũng nảy sinh những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính như: nhu cầu tìm hiểu về
tính dục, tình dục, tình yêu, đời sống gia đình… Nhu cầu này xuất hiện ngay từ khi còn
nhỏ, càng lớn lên nó càng trở nên mạnh mẽ, thúc đẩy các em tìm hiểu những vấn đề đó.
Con người bình thường nào cũng có những nhu cầu nhất định về đời sống giới tính, khi
tới một độ tuổi nào đó. Tuy nhiên, khác với con vật, ở con người những nhu cầu này thể
hiện ra qua các thái độ, hành vi vừa mang tính sinh học, vừa mang tính tâm lí xã hội to
lớn.
Ngay từ lúc còn rất nhỏ, trẻ đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề giới tính, đó là kết
quả của quá trình tự nhiên nhằm nhận thức thế giới xung quanh. Sự quan tâm ấy thể hiện
trong vô số các câu hỏi mà trẻ dặt ra cho bố mẹ và thường làm cho bố mẹ phải bối rối
khó xử đại loại như: “Con sinh ra như thế nào?”, “Tại sao con lại ở trong bụng mẹ?”…
Khi trẻ chưa đến tuổi đi học, chúng đã muốn biết bí mật của sự ra đời các em bé. Đến
tuổi dậy thì, các em gái chú ý nhiều đến bề ngoài của mình, tăng cường quan tâm đến
những “bí mật tình yêu”, “còn các chàng trai bắt đầu để ý đến các cô gái…
Trong giai đoạn dậy thì, “thời kì mà người đàn ông hoặc đàn bà thức dậy trong con
người” việc quan tâm đến những vấn đề giới tính ấy lại càng trở nên bức xúc và không
thể tránh khỏi. Sự quan tâm đó ngày càng cao. “Giai đoạn phát triển phức tạp tế nhị này
nếu thiếu sự hướng dẫn, giúp đỡ của những người có trách nhiệm và kinh nghiệm thì thật
là một sai lầm đáng tiếc”. Engebeta Ixakovic đã viết: “Bí mật của quan hệ sinh lí liên quan
đến những cảm xúc mạnh nhất của con người. Bản thân cảm xúc thầm kín ấy không tốt
cũng không xấu. Đơn giản là nó tồn tại. Con người lại hay mắc sai lầm trong chuyện này.
Đôi khi phải trả giá sai lầm ấy bằng cả cuộc đời”.
Chính sự dậy thì cùng với sự giao tiếp, gặp gỡ trong đời sống xã hội, sự phát triển
về tình cảm và trong đời sống tâm lí đã hình thành nên ở các em những nhu cầu về các
vấn đề giới tính. Những nhu cầu ấy ngày càng tăng và ngày càng cấp thiết đối với con
người. Giáo dục giới tính đáp ứng được những nhu cầu này của các em, giúp cho các
em có định hướng đúng đắn và phù hợp đối với đời sống giới tính và đời sống xã hội.
Việc trang bị cho các em những tri thức này một cách phù hợp, khoa học sẽ giúp
các em phát triển nhân cách, thích ứng hơn với đời sống, chuẩn bị cho các em vào đời
một cách vững chắc và tự tin. Các em sẽ có bản lĩnh vững vàng chống lại mọi cám dỗ,
sa ngã và những trở ngại khác của cuộc đời, mà nhiều khi những cám dỗ, sa ngã đó lại
do chính sự phát dục ở bản thân các em và do những phức tạp của xã hội gây nên.
V. G. Belinxki nhận xét rằng: “Sự trong sạch về đạo đức hoàn toàn không phải là ở
chỗ chẳng biết gì mà là ở chỗ giữ gìn được đức hạnh khi có sự am hiểu đầy đủ”. Chính
việc trang bị cho các em những tri thức về đời sống giới tính sẽ góp phần giúp các em
giải quyết tốt đẹp những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống, mà đối với các em “nhiều khi
là bí ẩn, khó có thể tránh khỏi”.
Trong khi ấy việc che giấu, né tránh của người lớn đối với những vấn đề giới tính
trước các em, nhiều khi chỉ gây nên tính tò mò, sự kích trình tìm hiểu, và có thể gây nên
những hậu quả bất lợi. Đặc biệt là các em lại dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu
cực xã hội, của người lớn, nhất là những người thiếu suy nghĩ và thiếu tri thức văn hoá về
những vấn đề của đời sống giới tính.
Hơn nữa, đời sống giới tính, yêu đương, quan hệ vợ chồng, gia đình cũng là vấn đề
tất yếu của con người. “Cuộc sống và tình yêu – đó là hai mặt thống nhất trong một con
người bình thường”, “tình yêu đòi hỏi phải xây dựng gia đình, và chỉ có trong gia đình thì
đôi lứa mới có cuộc sống hạnh phúc”. Đời sống yêu đương và cuộc sống vợ chồng lại là
những vấn đề rất phức tạp, không phải ai cũng biết. Sự thiếu kiến thức gia đình và đời
sống vợ chồng đã làm cho rất nhiều gia đình đau khổ, tan vỡ, và nhiều hậu quả tai hại
không thể lường trước Việc giáo dục giới tính cho các em sẽ giúp các em biết cách xử
thế, biết cách giải quyết tốt đẹp khi “đối mặt” với những “vấn đề muôn thuở” và tất yếu ấy
của con người. Nó sẽ giúp các em có cuộc sống gia đình hạnh phúc, nó sẽ góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân các em và cho toàn xã hội.
3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã
hội
Ngày nay tình trạng gia tăng dân số quá mức đang là mối quan tâm ẹ ngại của
nhiều nước. Nạn bùng nổ dân số này nhiều khi lại là do sự thiếu hiểu biết nhiều vấn đề
của giới tính (sự sinh sản, việc kết hôn sớm…) hoặc do những quan niệm sai lầm về đời
sống giới tính, đời sống gia đình (đẻ nhiều con vì muốn có cả con trai con gái vì cho rằng
đẻ càng nhiều càng tốt, lây vớ sớm để có cháu cho bà bế
Việc trang bị những tri thức về giới tính sẽ giúp cho con người làm chủ được “vấn
đề sinh đẻ” biết cách hạn chế sinh đẻ, nhất là những nhận thức và quan niệm chung về
vấn đề dân số. Nhờ đó họ sẽ tự giác tham gia vào công cuộc “chiến đấu, chống lại nạn
bùng nổ dân số, họ sẽ tự giác góp phần vào việc giảm bớt “sự phát triển đáng sợ” của
dân số. Nhờ giáo dục giới tính, công tác giáo dục dân số mới có thể đạt hiệu quả cao. Vì
thế, giáo dục giới tính gắn liền với giáo dục dân số, trở thành một bộ phận hữu cơ của
giáo dục dân số.
Giáo dục giới tính còn góp phần nâng cao chất lượng đời sống gia đình, làm cho
các gia đình hạnh phúc hơn, êm ấm hơn. Do đó, giáo dục giới tính làm nâng cao đời
sống văn hoá xã hội. Nó còn có tác động đến nhiều mặt khác: đời sống kinh tế, trật tự an
ninh, đạo đức xã hội, thuần phong mĩ tục… Những lĩnh vực xã hội đó chịu ảnh hưởng
nhiều của cuộc sống con người về mặt giới tính. Chỉ khi có đời sống hạnh phúc, mỗi
người và mỗi gia đình mới có thể đóng góp tốt nhất cho xã hội.
Có thể nói, giáo dục giới tính góp phần quan trọng đối với việc xây dựng một xã hội
lành mạnh tốt đẹp.
4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong tình
hình hiện nay
Ngày nay, do nhiều nguyên nhân tâm lí và xã hội phức tạp, như sự đô thị hoá, gia
tốc sự phát triển của trẻ em, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, phức tạp hoá của quá
trình giáo dục, tự do nhiều hơn so với trước đây của thanh thiếu niên đối với cha mẹ,
quyền bình đẳng của phụ nữ, và sự xuất hiện của những phương tiện tránh thai hiệu
quả… càng ngày càng có nhiều biểu hiện phức tạp trong xã hội về giới tính:
– Theo các nhà khoa học, trong 50 năm vừa qua, cứ 10 năm, tuổi dậy thì của các
em gái lại sớm hơn 4 tháng. Hiện tượng này diễn ra ở hầu hết các nước, trong đó có
nước ta, theo số liệu Hằng số sinh lí Việt Nam: tuổi dậy thì của các em gái năm 1967, ở
thành phố là 15,8 +/- 1,4, ở nông thôn là 16,22 +/- 1,7; năm 1972 ở thành phố là 14,3
+/- 1,2, ở nông thôn là 15 +/- 3,4, và theo số liệu của Phòng sinh lí lứa tuổi (Viện Tâm
sinh học lứa tuổi tuổi dậy thì của các em gái năm 1980 ở thành phố là 13,10 +/- 1,2, ở
nông thôn là 14,5 +/- 1,3. Hiện nay, tuổi dậy thì của các em lại sớm hơn. Sự dậy thì sớm
đã tạo ra một khoảng cách khá lớn giữa sự chín muồi sinh dục và sự trưởng thành về xã
hội, từ lúc dậy thì (13, 14 tuổi) đến độ tuổi có khả năng độc lập về kinh tế để có thể kết
hôn (22, 23 tuổi) là từ 8 đến 10 năm. Khoảng thời gian dài ấy đã gây ra rất nhiều khó
khăn cho các em trong quan hệ với người khác giới và cũng đặt ra cho xã hội, cho các
nhà giáo dục nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết.
– Sự dậy thì sớm có thể dẫn tới quan hệ tình dục sớm, quan hệ yêu đương sớm.
Các công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy, lứa tuổi các em có quan hệ tình dục là khá
sớm: nhiều em 16, 15, thậm chỉ 14, 13 tuổi đã có quan hệ tình dục.
Đặc biệt, trẻ em có “quan hệ tình dục” lần đầu tiên ở lứa tuổi càng ngày càng sớm
hơn, với tỉ lệ cao hơn.
– Quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn, và những hậu quả
tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá thai, có thai tuổi vị thành
niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14, 15… tuổi, việc kết hôn sớm… xảy ta
rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã
hội như: tình trạng bệnh tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu
kém nghiêm trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh
giang mai, nhiễm HIV… và gây nên những tác hại lớn về kinh tế xã hộp tâm lí…
– Tình trạng tình yêu tan vỡ, nhiều gia đình thiếu hạnh phúc, đi đến li hôn và nhiều
hậu quả tai hại khác: con cái hư hỏng, trật tự an ninh xã hội bị rối loạn bởi sự gây gổ,
đánh lộn thậm chí có thể chém giết lẫn nhau, đạo đức, phong tục lành mạnh bị huỷ hoại…
– Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về văn hoá xã
hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi đàng điếm, nếp sống sinh hoạt thiếu lành
mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ
trường, nhậu nhẹt… là tình trạng khá phổ biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong
đời sống của thanh thiếu niên và xã hội.
Trước tình hình đó, giáo dục giới tính trở thành vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó
trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục cần phải giải quyết. Đó là
nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại.
5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia tăng của
các tệ nạn xã hội hiện nay
Ngày nay, các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức tạp. Các tệ
nạn mại dâm, ma tuý, sự biến tướng trong hoạt động của các vũ trường, việc sử dụng
thuốc lắc, nếp sống ăn chơi, trác táng, đồi trụy… của một bộ phận thanh thiếu niên và cả
ở người lớn đang là nỗi lo chung cho nhiều người, cho xã hội. Các tệ nạn đó gây ảnh
hưởng xấu về nhiều mặt cho con người, đặc biệt cho thanh thiếu niên, làm cho các em dễ
bị suy thoái về đạo đức, bệnh hoạn trong lối sống, suy sụp vẻ sức khoẻ, sa sút về học
tập… có em bị nhiễm HIV, nghiện xì ke ma tuý, có em bị dụ dỗ vào con đường ăn chơi
trụy lạc, mại dâm…
Việc giáo dục giới tính sẽ trang bị cho các em những kiến thức, tạo ra cho các em
một bản lĩnh để chống lại các tệ nạn trên. Những hiểu biết cần thiết về đời sống giới tính
sẽ giúp cho các em tĩnh táo hơn, mạnh mẽ hơn, tự mình biết cách tránh xa những tệ nạn
xã hội. Mặt khác, những kiến thức đó sẽ giúp các em tự tin hơn khi bước vào đời
Created by AM Word2CHM
Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Vấn đề 1
Vấn đề 2
Vấn đề 3
Vấn đề 4
Vấn đề 5
Vấn đề 6
Vấn đề 7
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 1
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 2
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG, TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Giáo dục dân số Gia đình và giới tính - 1991
Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là một vấn đề mới ở
nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng như trong quá trình nghiên cứu và
xây dựng chương trình giáo dục này, có nhiều vấn đề đang được các nhà nghiên cứu
quan tâm: Nên dạy những gì cho học sinh và sẽ dạy chương trình này cho học sinh như
thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề được đặt ra:
– Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời sống gia đình và giới
tính mà các nước đang áp dụng, chúng tạ lựa chọn những vấn đề nào để dạy cho học
sinh phổ thông Việt Nam? Nên dạy cho học sinh từ lớp nào?
- Nên dạy lồng vào trong các môn học có liên quan hay dạy thành môn riêng.
- Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh
đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh về những vấn đề
trên, để thực hiện có hiệu quả hơn những nhiệm vụ của đề án do Ban Chủ nhiệm đề án
Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo đề án Cụm các tỉnh phía Nam.
Cuộc điều tra này tiến hành trong cán bộ ngành giáo dục và giáo viên ở các tỉnh
phía Nam theo 3 đợt: Đợt 1 (192 giáo viên) và đợt 2 (169 giáo viên) điều tra trong giáo
viên chưa được huấn luyện, đợt 3 điều tra trong 137 cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên
đã được dự các lớp huấn luyện về chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính
do Ban Chỉ đạo cụm và Ban Chỉ đạo các tỉnh tổ chức. Đây là các giáo viên sẽ trực tiếp
tham gia chỉ đạo và dạy chương trình này ở trường phổ thông.
Các tài liệu thu được chúng tôi xử lí bằng toán thống kê, chủ yếu là dùng Test T–
Student đối với các nhóm độc lập để so sánh sự khác biệt.
Sau đây là một số kết quả điều tra.
I. NÊN DẠY CHO HỌC SINH NHỮNG NỘI DUNG NÀO TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐỜI
SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH
Đây là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Để giải quyết vấn đề
này, chúng tôi đưa ra một hệ thống bài dự kiến sẽ dạy trong chương rình Giáo dục đời
sống gia đình để mọi người lựa chọn bài nào nên dạy cho học sinh trong trường phổ
thông.
1. Từ các phiếu của giáo viên, chúng tôi thu được kết quả như sau:
– Có những bài được đa số ý kiến của giáo viên và cán bộ giáo dục tán thành (lựa
chọn) trong cả 2 đợt điều tra 1989 và 1990 (trên 65%) đó là:
+ Gia đình và đời sống gia đình.
+ Trách nhiệm làm cha mẹ.
+ Trình nhiệm làm con.
+ Quản lí gia đình.
+ Luật hôn nhân và gia đình.
+ Giới tính và sự khác biệt nam nữ.
+ Tình người.
+ Tình bạn.
+ Hôn nhân.
+ Biến đổi tâm lí và sinh lí ở tuổi dậy thì.
+ Hiện tượng kinh nguyệt.
+ Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.
- Có những bài số ý kiến lựa chọn còn ít. Chúng tôi chỉ xin phân tích về những bài
này. Số liệu cụ thể được tính trong Bảng 1:
Bảng 1
Đợt 1 Đợt 2 Ý nghĩa
Số Số của sự
Nội dung vấn đề
người % người % khác
đồng ý đồng ý biệt
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 3
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÍ – XÃ HỘI CẦN CHÚ Ý KHI TIẾN HÀNH GIÁO DỤC ĐỜI
SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về
Giáo dục Giới tính cho học sinh Phổ thông – 1991
Việc triển khai chương trình dạy thực nghiệm và chương trình thí điểm về giáo dục
đời sống gia đình và giới tính cho học sinh các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh
đã được tiến hành từ năm 1989 liên tục cho đến nay (1991). Hiện nay, đa số các tỉnh
trong cụm phía Nam của đề án VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09, gồm 7 tỉnh) đã thực
hiện xong giai đoạn dạy thí điểm của năm học 1990 – 1991. Nhìn chung, việc triển khai
đã đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chúng tôi đã phát hiện được một
số vấn đề tâm lí xã hội có thể ảnh hướng trực tiếp đến hiệu quả của đề án nói riêng, đến
việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính cho học sinh nói chung. Chúng tôi đã tiến
hành nghiên cứu bước đầu những vấn đề tâm lí xã hội đó.
Việc nghiên cứu này nằm trong chương trình Nghiên cứu điều tra dư luận xã hội do
Ban Chỉ đạo đề án P09 của Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện,
nhằm mục đích nâng cao hiệu quả và chất lượng việc thực hiện những nhiệm vụ mà Ban
Chủ nhiệm đề án P09 Trung ương giao cho Cụm các tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí
Minh.
Chúng tôi đã thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu: trao đổi, mạn đàm, hội thảo,
phỏng vấn và điều tra dư luận bằng phiếu thăm dò. Chúng tôi đã gửi phiếu điều tra đến
các trường học ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam và đã thu được 169
phiếu trả lời của các thầy cô giáo. Những kết quả nghiên cứu này được so sánh với kết
quả nghiên cứu năm 1989 để có cơ sở kết luận chính xác hơn.
Các phiếu điều tra thu được xử lí bằng toán thống kê chủ yếu gồm:
– Tính giá trị trung bình X để tìm hiểu mức độ của các ý kiến.
- Tính độ lệch S để tìm hiểu độ dao động của các ý kiến.
– Việc so sánh ý kiến khác biệt của các nhóm độc lập được tiến hành theo Test T–
student so sánh tỉ lệ của các nhóm.
Kết quả nghiên cứu bao gồm nhiều vấn đề: hiện trạng về đời sống giới tính của học
sinh trung học phổ thông, những dư luận xã hội và dư luận học sinh đối với việc Giáo dục
đời sống gia đình và Giới tính trong nhà trường…
Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung nêu lên một số vấn đề tâm lí xã hội cần chú
ý khi tiến hành Giáo dục đời sống gia đình cho học sinh.
1. Một số quan niệm của giáo viên đối với việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới
tính
- Trước hết, chúng tôi tìm hiểu ý kiến của giáo viên về sự cần thiết của Giáo dục
đời sống gia đình và Giới tính đối với học sinh trong tình hình hiện nay.
a) Kết quả nghiên cứu đợt năm 1990 (đợt 2) cho thấy ở Bảng 1 như sau:
Bảng 1
Ý kiến đánh giá của giáo viên Số lượng (169) Tỉ lệ %
Rất cần thiết 38 22,49
Tương đối cần thiết 41 24,26
Có cũng được, không cũng được 62 36,69
Không cần thiết 28 16,57
Theo Bảng 1 ta thấy:
– Có 79 ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là cần
thiết, chiếm tỉ lệ 46,75%, trong đó có 38 ý kiến (22,49%) cho là “rất cần thiết”. Tỉ lệ này
nhiều hơn hẳn ý kiến cho rằng giáo dục đời sống gia đình và giới tính là không cần thiết:
chỉ có 28 ý kiến chiếm tỉ lệ 16,57%.
- Số lượng ý kiến trả lời “có cũng được, không cũng được” chiếm tỉ lệ khá lớn
36,69% (62 ý kiến). Đây là những ý kiến của các giáo viên còn phân vân đối với việc giáo
dục đời sống gia đình cho học sinh.
b) Nếu cho đếm xếp hạng theo thứ bậc:
- Rất cần thiết: 3 điểm.
- Tương đối cần thiết: 2 điểm.
- Có cũng được, không cũng được: 1 điểm.
– Không cần thiết: 0 điểm.
Chúng tôi có kết quả về trị số trung bình X = 1,527 và độ lệch chuẩn S = 1,018.
– Giá trị X = 1,527 cho thấy dư luận chung giáo viên đối với việc giáo dục đời sống
gia đình cho học sinh nằm trong khoảng giữa hai mức độ “tương đối cần thiết” và “có
cũng được, không cũng được”. Điều đó cho thấy các giáo viên chấp nhận việc đưa giáo
dục đời sống gia đình vào nhà trường nhưng mức độ chưa cao.
- Độ lệch chuẩn S = 1,018 cho thấy sự phân tán của các ý kiến ở mức độ khá
nhiều. Nói một cách khác, trong giáo viên, quan niệm về việc giáo dục đời sống gia đình
cho học sinh có nhiều khác biệt.
c) So sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989 (đợt 1) chúng tôi có 2 như sau:
Bảng 2: So sánh kết quả nghiệm thu năm 1990 với 1989
Đợt 1989 (192 Đợt 1990 (169) Ý nghĩa
Số Số của sự
Ý kiến đánh giá
người % người % khác
đồng ý đồng ý biệt
a Phong tục tập quán Việt Nam. 172 89,58 151 89,35 -
Nhiều người chưa thống nhất
b 158 82,29 134 72,29 -
về vấn đề này.
Nhiều người chưa hiểu biết về
c 163 84,90 147 86,98 -
vấn đề này.
Các thầy cô giáo chưa được
d 181 94,27 145 85,80 +
huấn luyện.
e Tài liệu về vấn đề này quá ít. 148 77,08 124 73,37 -
g Tình hình xã hội phức tạp. 121 63,02 134 72,29 +
Không có thời gian trong năm
h học vì thương trình học tập 143 74,48 147 86,98 +
của học sinh đã nặng nề.
Học sinh e ngại hoặc dám
i 87 45,31 61 36,09 -
học.
Qua Bảng 4 ta thấy:
Nếu nhận xét riêng kết quả điều tra năm 1990
- Khó khăn được khẳng định nhiều nhất là khó khăn do phong tục tập quán nước ta
gây nên: 89,35%, số ý kiến khẳng định. Do đặc điểm tâm lí dân tộc, nếp sống xã hội,
người dân Việt Nam thường rất e ngại khi nói đến những vấn đề như tình yêu, sinh lí nam
nữ, chuyện vợ chồng… Vì thế, việc dạy nội dung này cho học sinh dễ bị dư luận xã hội
hiểu lầm, thành kiến… Do đó, khi thực hiện những nội dung này còn có những biện pháp
cần thiết để hướng dẫn và chuẩn bị dư luận xã hội.
– Tiếp theo, khó khăn do “Nhiều người chưa hiểu biết về vấn đề này” và “Không có
thời gian để dạy nội dung này trong năm học…” đều được 86,98% ý kiến khẳng định.
– Những nội dung kiến thức về Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính từ trước
đến nay chưa được dưa vào giảng dạy tính thức, hệ thống ở nước ta. Những người quan
tâm đến vấn đề này chỉ có thể tự nghiên cứu, tìm tòi, đọc sách, trao đổi riêng với nhau.
Nhưng sách báo, tài liệu có tính giáo dục, hệ thống, khoa học về vấn đề này lại không có
nhiều, chính xác là khá phổ biến với nhiều người. Sự “chưa hiểu biết” thường biểu hiện ở
nhiều mức độ, nhiều khía cạnh.
+ Chỉ nắm được một số kiến thức có tính kinh nghiệm cá nhân, thiếu tính lí luận, hệ
thống, khái quát; chẳng hạn như kiến thức về quản lí gia đình, về sự cư xử giới tính…
+ Nắm kiến thức chưa đầy đủ: sự hạn hẹp về khái niệm; ví dụ như các khái niệm
giới tính, đời sống gia đình, quan hệ vợ chồng…
+ Nhiều quan niệm khác nhau về một khái niệm như quan niệm về chữ trinh, về tình
yêu, về tình dục…
+ Thậm thí, có nhiều người hiểu sai, hoặc không biết gì về nhiều vấn đề của đời
sống gia đình và giới tính như kiến thức về cơ thể nam nữ, về đời sống tình dục, tình yêu
và bệnh tình dục…
Sự thiếu hiểu biết như trên, sẽ dẫn đến những thành kiến, những mặc cảm khó chịu,
những ý kiến chống đối lại việc đưa giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào nhà
trường.
Trong những cuộc trao đổi trực tiếp với chúng tôi, nhiều thầy cô giáo đã nói thẳng
rằng, chính họ cũng không biết thắc chắn các khái niệm như: giới tính, hôn nhân, tình
yêu… để giải thích cho các em. Vì từ trước đến nay họ cũng chưa bao giờ được học về
tri thức đó. Thậm chí, một cán bộ quản lí cấp thành phố phụ trách tuyên huấn đã phát
biểu: “Giới tính là chuyện thiếu tế nhi, hiện nay cho nên nghiên cứu về vấn đề này”.
Ngay trong hội nghị định hướng của đề án P09 ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một
số phụ huynh, giáo viên vẫn lên tiếng phản đối giáo dục giới tính cho học sinh, vì “đó là
chuyện bậy bạ”, “chuyện không nên nói đến trong nhà trường”, “chuyện sẽ kích thích cho
học sinh thêm hư hỏng”… Cả đến một đồng chí hiệu trưởng trường trung học phổ thông
lớn của Thành phố cũng đã phát biểu: “Chưa nên giáo dục đời sống gia đình và giới tính
cho học sinh vì đây là chuyện thiếu tế nhị, thiếu tính mô phạm, không phù hợp với không
khí thanh cao ở nhà trường”.
Như vậy việc nhận thức chưa đầy đủ (hoặc sự chưa hiểu biết) về giáo dục đời sống
gia đình và giới tính chính là một khó khăn lớn. Đây là một yếu tố quan trọng chung ta
phải tính đến khi triển khai đại trà nội dung giáo dục này trong nhà trường.
Khó khăn về thời gian giảng dạy trong năm học cũng là một vấn đế. Hiện nay hoạt
động học tập đã quá căng thẳng về thời gian. Số lượng môn học có chiều hướng tăng
lên, nhưng số buổi học và số giáo viên dạy lại giảm đi.
Như thế việc xếp thời gian để học thêm một môn học nữa là rất khó. Khi phỏng vấn
cá nhân các giáo viên về vấn đề này, nhiều thầy cô giáo đã nói: các em học sinh đã học
quá nhiều, nội dung chương trình đã quá nặng nề, chỉ nên bớt giờ đi, sao lại tăng thêm
giờ? Đây là một khó khăn cần phải tính đến, phải giải quyết bằng được mới có thể thực
hiện tốt việc đưa chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính vào nhà trường.
– Một khó khăn nữa là “giáo viên cho được huấn luyện”, số ý kiến khẳng định là 145
chiếm 85,80%, đây là một thực tế ở nước ta trong mấy chục năm trở lại đây. Trong
chương trình đào tạo ở các trường sư phạm từ trung cấp, cao đắng đến đại học sư
phạm, trong các lớp huấn luyện bồi dưỡng đều không có nội dung này. Bởi thế, khi tổ
chức dạy thực nghiệm, dạy thí điểm chương trình Giáo dục đời sống gia đình và Giới
tính, chúng ta phải lo giải quyết tình trạng: các giáo viên được mời tham gia giảng dạy
chưa được học chương trình này, làm sao có thể dạy cho học sinh?
– Mặt khác, hiện tượng “nhiều người chưa thống nhất ý kiến về nội dung giáo dục
này” cũng là một khó khăn lớn: có tới 134 ý kiến khẳng định, chiếm 79,29%.
Sự chưa thống nhất ý kiến có thể ờ nhiều khoá cạnh
+ Chưa thống nhất trong việc nhận thức tầm quan trọng hay sự cần thiết của việc
đưa giáo dục đời sống gia đình vào nhà trường (xem mục 1 đã trình bày ở trên).
+ Chưa thống nhất về nội dung giảng dạy cho học sinh: dạy cho các em những kiến
thức gì, mức độ đến đâu?
+ Chưa thống nhất quan niệm về một số kiến thức của đời sống gia đình và giới
tính.
+ Chưa thống nhất về thái độ đối với một số vấn đề của nội dung giáo dục đời sống
gia đình.
– Chính những khó khăn này thể hiện rõ nét khi xây dựng chương trình, biên soạn
tài liệu. Nó đặt ra nhiều vấn đề lớn như:
+ Nên dạy cho học sinh những kiến thức gì?
+ Cần lựa chọn những phương pháp dạy nào? Những hình thức giáo dục nào? Dạy
thành môn riêng hay ghép với môn khác?
- “Tình hình xã hội phức tạp hiện nay” cũng là một khó khăn cản trở việc dưa Giáo
dục đời sống gia đình và Giới tính vào nhà trường: có 134 ý kiến khẳng định, chiếm
79,29%.
Hiện trạng trật tự trị an xã hội phức tạp, văn hoá phẩm đồi trụy tràn lan, nhiều tệ
nạn xã hội như xì ke ma tuý, nhậu nhẹt, mãi dâm, trộm cắp… ảnh hưởng không tốt tới
hiệu quả giáo dục. Hiện trạng đó có thể làm tăng thêm nỗi e ngại của mọi người nếu dạy
cho học sinh những vấn đề như tình yêu, tình dục, sinh lí cơ thể người…
- Một khó khăn nữa đó là tài liệu, sách báo đúng đắn, khoa học về lĩnh vực này quá
ít. Trước đây, mọi người thường băn khoăn vì chưa có sách giáo khoa về môn học này.
Hiện nay tuy dã có sách về giáo dục giới tính, nhưng sách tham khảo có tính khoa học
chỉ có rất ít. Ngược lại, có rất nhiều các loại tài liệu phiến diện hoặc thiếu tính khoa học
hoặc theo những quan điểm, những cách hiểu khác nhau về giới tính khiến cho người đọc
và các em học sinh hoang mang không biết nên theo tài liệu nào. Thậm chí, có những
sách biên soạn lệch lạc, chạy theo thị hiếu, thị trường nhằm mục đích kinh doanh, nên
nhiều khi lại có tác dụng phản diện.
- Hiện tượng “học sinh e ngại không dám học một số bài” cũng là một khó khăn cần
chú ý (có 61 ý kiến, chiếm 36,09%). Theo ý bến của một số thầy cô giáo, có nhiều bài
học sinh có thể e ngại khi nghe giảng như Kinh nguyệt, Cấu tạo cơ quan sinh dục nam
nữ, Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai…
Hiện tượng “học sinh e ngại học một số bài” sẽ được trình bày kĩ trong một bài viết
khác. Ở đây, qua điều tra ý kiến của các thầy cô giáo, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng
đó là một trong những khó khăn mà chúng ta phải tính đến khi triển khai chương trình
giáo dục này.
3. So sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989
– Theo Bảng 4, ta thấy những khó khăn như “Phong tục tập quán Việt Nam”, “Nhiều
người chưa thống nhất về vấn đề này”, “Nhiều người chưa biết về vấn này”, Tài liệu ít:
“Học sinh e ngại khi học”, được khẳng định như nhau ở 2 đợt nghiên cứu, vì sự khác biệt
ở 2 đợt nghiên cứu là không có ý nghĩa.
- Khó khăn do “Các thầy cô giáo chưa được huấn luyện” trong đợt 2 ít người
khẳng định hơn so với đợt 1, có thể do thời gian này, việc triển khai đề án P09 đã rộng
rãi hơn, vấn đề này đã được nhiều giáo viên quan tâm nghiên cứu hơn. Điều này cho thấy
nếu các thầy cô giáo quan tâm nghiên cứu lĩnh vực này, khó khăn trên có thể được giải
quyết.
Tuy nhiên, hiện tại, số ý kiến khẳng định khó khăn này còn chiếm tỉ lệ rất lớn
(85,80%). Cho thấy đây vẫn là một khó khăn cần quan tâm giải quyết trước mắt.
Các khó khăn “Tình hình xã hội phức tạp”, và “Không có thời gian” ở đợt nghiên cứu
1990 tăng hơn khá nhiều so với đợt 1989 cho thấy, đây chính là những vấn đề quan
trọng phải rất chú ý giải quyết thích hợp.
4. Kết luận chung
Qua cả 2 đợt nghiên cứu, có thể thấy những khó khăn được nêu trên là những vấn
đề chủ yếu cần tập trung giải quyết, để có thể tiến hành tốt việc giáo dục đời sống gia
đình và giới tính cho học sinh. Từ những khó khăn đó, chúng tôi thấy cần chú ý một số
vấn đề sau:
a) Cần làm tốt công tác tuyên truyền trong nhà trường, xã hội và học sinh về
ý nghĩa và nội dung của giáo dục đời sống gia đình và giới tính, nhất là giới thiệu chương
trình giáo dục. Khi giới thiệu ý nghĩa và chương trình chung của giáo dục đời sống gia
đình và giới tính, chúng ta sẽ có thể tránh được sự phản đối do nhận thức sai lầm hoặc
do sự hiểu biết không đầy đủ về nội dung của những vấn đề khoa học mới này. Thực tế
cho thấy nhiều người phản đối việc giáo dục này chính là vì họ hiểu sai về những nội dung
Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, khi
được giới thiệu, và nhất là khi được nghiên cứu kỹ họ sẽ có thể thay đổi quan niệm, họ
sẽ thấy rõ hơn sự cần thiết của nội dung giáo dục này.
b) Do phong tục tập quán nước ta, khi giảng dạy một số bài như “Tình dục”,
“Tình yêu”, “Đặc điểm cơ quan sinh dục nam nữ”… cần phải chú ý tiến hành bài giảng
thật “tế nhị” và thận trọng.
Ví dụ:
– Xếp thứ tự sau các bài khác, để “từ từ dưa những bài đó vào cho học sinh quen
dần.
– Thái độ giảng bài của giáo viên thật tự nhiên, nghiêm túc.
– Ở một số vùng, cần xét đến việc tổ chức dạy nam riêng, nữ riêng ở một số bài
“đặc biệt”.
– Không nên giảng kiến thức một cách sống sượng, thô thiển, dùng từ ngữ dung
tục, hoặc mô tả hiện tượng một cách trần trụi, đơn thuần.
- Cần kết hợp việc dạy tri thức với việc giáo dục, hình thành thái độ đúng đắn, văn
hoá đối với các vấn đề trên. Kết hợp việc giảng dạy với việc phê phán những biểu hiện
không tốt trong nếp sống, sinh hoạt có liên quan tới tri thức của những bài trên.
c) Việc lựa chọn và xây dựng chương trình, nội dung giảng dạy cần rất khoa
học, hợp lí. Có thể mạnh dạn bỏ hoặc thu hẹp thời gian dạy ở một số bài trong các môn
học khác để có thời gian dạy chương trình này.
d) Cần phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu lĩnh vực này, đặt họ viết
sách, viết bài để có nhiều tài liệu xây dựng tủ sách tham khảo cho việc Giáo dục đời
sống gia đình và Giới tính. Cần giúp cho học sinh phân biệt những sách báo, tài liệu
không khoa học, không phù hợp với việc giáo dục giới tính.
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 4
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH
Vấn đề ra đình có ý nghĩa rất lớn đối với người phụ nữ và người phụ nữ lại có vai
trò đặc biệt quan trọng trong gia đình. Trong đời sống tinh cảm, trong ước vọng cũng
như trong nếp sống hằng ngày, người phụ nữ luôn gắn bó với gia đình, dành trọn vẹn cho
gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng cuộc sống gia đình đối với người phụ nữ lại thường
gặp nhiều khó khăn, trắc trở hơn nam giới.
I. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VIỆC XÂY DỰNG HẠNH PHÚC
GIA ĐÌNH
So với nam giới, việc xây dựng cuộc sống gia đình của người Phụ nữ thường gặp
nhiều khó khăn hơn và thiệt thòi hơn. Sự khó khăn, thiệt thòi đó do những nguyên nhân
như:
1. Do đặc điểm tâm sinh lí ở người phụ nữ
Người phụ nữ có tầm vóc nhỏ hơn nam giới, sức mạnh thể lực thường chỉ bằng 4/5
so với nam giới. Tuy nhiên, ở người phụ nữ lại có những thiên chức nặng nề hơn nam
giới. Việc thực hiện những thiên chức này nếu không đám bảo tính khoa học, hợp lí sẽ là
những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khoẻ, sắc đẹp và độ trẻ trung của người phụ
nữ.
Trong đời sống sinh lí cơ thể, người phụ nữ trường thành sớm hơn nam giới nhưng
cũng già đi nhanh hơn nam giới. Ở độ tuổi 45 – 55, sau thời kì hồi xuân, người phụ nữ
thường bước sang tuổi già. Trong khi đó đối với nam giới, thường vẫn còn rất khoẻ mạnh
và nhiều “xuân sắc”.
Hiện tượng kinh nguyệt hằng tháng có ý nghĩa đặc biệt, thể hiện tình trạng sức
khoẻ và khả năng sinh nở của người phụ nữ. Nếu không đảm bảo đúng những điều kiện
vệ sinh kinh nguyệt cần thiết người phụ nữ dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ,
vẻ đẹp và độ trẻ trung.
Vấn đề sinh nở đảm bảo tính khoa học, vừa là một thiên chức cao cả vừa có tác
dụng nâng cao nữ tính, vẻ đẹp của người phụ nữ. Tuy nhiên, nếu sinh nở không đúng
khoa học (quá nhiều, quá mau hoặc không biết cách cho con bú, nuôi con khi còn nhỏ…),
người phụ nữ sẽ già nhanh, xấu nhanh, ốm yếu đi nhanh chóng. Dù là một thiên chức cao
cả, thiêng liêng, việc sinh nở vẫn là một gánh nặng đối với người phụ nữ trong cuộc sống
gia đình
Những vấn đề sinh lí trên ảnh hưởng rất nhiều đến người phụ nữ trong việc xây
dựng hạnh phúc gia đình. Khi xấu đi, già đi, hoặc ốm yếu đi, người phụ nữ sẽ mất đi một
thứ “vũ khí mạnh mẽ” để bảo vệ hạnh phúc gia đình của mình.
2. Do những quan niệm sai trái lạc hậu về vai trò của người phụ nữ trong cuộc
sống gia đình
Những quan niệm xưa cũ và lạc hậu cho rằng người phụ nữ không có quyền chủ
động xây dựng cuộc sống gia đình. Họ phải tuân theo sự sắp đặt và yêu cầu của cha mẹ
(cha mẹ đặt đâu con ngồi đây). Thậm chí, hôn nhân đối với người phụ nữ có khi giống
như là một cuộc mua bán, trong đó họ trở thành một món hàng phục vụ cho những mưa
đồ riêng tư của người khác. Ngày nay, vẫn còn có người quan niệm rằng người phụ nữ
đàng hoàng, đứng đắn không nên chủ động “tấn công” hoặc chủ động biểu lộ tình yêu đối
với nam giới.
Trong gia đình, nhiều người chồng vẫn còn muốn theo quan niệm “tam tòng”, hoặc
mang nặng tư tưởng “chồng chúa vợ tôi”, coi thường vai trò của người vợ. Họ muốn
người phụ nữ phải hầu hạ chồng, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của chồng. Một số người
chồng kém đạo đức, kém hiểu biết còn thiếu tôn trọng vợ, thậm chí đánh đập tàn nhẫn
dã man vợ mình. Họ cho rằng họ có quyền dạy vợ đánh đập vợ nếu làm trái ý của họ.
Nạn bạo hành trong gia đình chủ yếu do người chồng gây ra.
Những công việc nội trợ gia đình, nuôi dạy và chăm sóc con cái thường được coi là
trách nhiệm của người vợ. Nhiều ông chồng cho rằng đó chỉ là những việc vặt không đáng
kể, không phải là việc của đàn ông.
Trong thực tế, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã xác nhận rằng các công
việc nội trợ gia đình: thu dọn, vệ sinh nhà cửa, cơm nước, chăm sóc con cái… đã tiêu
hao năng lượng, sức lực rất lớn của người phụ nữ. Toàn bộ năng lượng tiêu hao để phục
vụ cho công việc nội trợ gia đình trong một ngày có thể tương đương với một ngày công
lao động.
Nếu người phụ nữ ngoài việc đảm trách công việc do xã hội giao phó “là công nhân
viên chức hoặc phải làm ăn sinh sống…), lại phải chịu toàn bộ gánh nặng của công việc
nội trợ gia đình, sẽ bị ảnh hưởng nặng nề về mặt sức khoẻ, và không còn thời gian để có
điều kiện rèn luyện và phát triển nhân cách, tài năng: Chính những công việc nội trợ gia
đình quá vất vả nặng nề ở người phụ nữ trong khi họ còn phải làm việc ở cơ quan Nhà
nước hoặc lo bươn chải kiếm sống là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho họ
già đi, xấu đi và ốm yếu nhanh hơn.
Trong xã hội, vẫn còn có nhiều người đánh giá quá khắt khe, quá nặng nề về người
phụ nữ trong tình yêu và xây dựng cuộc sống gia đình. Họ đòi hỏi rất cao ở người phụ nữ
về tính “đứng đắn”, tính “nghiêm túc”, tính “chung thuỷ”, tính “nề nếp” trong sinh hoạt…
Nếu mắc một chút thiếu sót nào, người phụ nữ sẽ bị lên án nghiêm khắc hơn rất nhiều so
với nam giới.
Do quan niệm không được chủ động trong tình yêu và hôn nhân, người phụ nữ phải
“giữ giá”, phải chờ đợi người đàn ông nào đó đến với mình, nhiều chị thường gặp khó
khăn trong việc xây dựng gia đình, có chị đến tuổi già vẫn chưa tìm được một người
chồng, một người yêu mong đợi.
3. Do sự phức tạp trong đời sống xã hội hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền ngày một gia tăng, nhiều người
phụ nữ phải hi sinh bản thân mình để giải quyết vấn đề sinh kế cho gia đình. Họ phải làm
việc ngày đêm để kiếm sống, phải chăm lo công việc gia đình mà không có điều kiện
hưởng thụ hay rèn luyện học tập để phát triển nhân cách. Đời sống kinh tế xã hội hiện
nay đang nâng cao và phát triển mạnh, nhưng những tiêu cực những tệ nạn xã hội cũng
có chiều hướng gia tăng và ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống của mỗi gia đình.
Do đặc điểm tâm sinh lí, người đàn ông thường dễ mắc những thiếu sót trong đời
sống hôn nhân. Họ dễ bị sa ngã cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất, sắc đẹp. Những tệ nạn xã
hội: cờ bạc, rượu chè, xì ke, ma tuý, chơi bời trác táng thường lôi kéo quyến rũ người
chồng, người con, gây ảnh hưởng nặng nề căng thẳng cho gia đình, là một trong những
nguyên nhân chủ yếu phá hoại hạnh phúc, làm cho gia đình đổ vỡ. Trong những trường
hợp ấy người phụ nữ chính là người phải gánh chịu những bất hạnh.
4. Do tính phức tạp của cuộc sống gia đình
Bản thân gia đình có nhiều mối quan hệ phức tạp và đa dạng. Trong cuộc sống
chung của vợ chồng có rất nhiều vấn đề khó khăn nảy sinh: sự xung đột vợ chồng, quy
luật biến động của đời sống gia đình, sự nhàm chán tâm lí, sinh lí, sự vất vả trong việc
sinh nở và nuôi dạy con cái, những tác động phức tạp của xã hội, bạn bè… có thể dẫn
đến sự suy giảm hạnh phúc. Nếu không biết cách giải quyết phù hợp, không biết cách
xây dựng hạnh phúc gia đình, người phụ nữ dễ bị trở thành người gánh chịu những đau
khổ, những bất hạnh.
5. Do một số nhược điểm, hạn chế của chính bản thân người phụ nữ
Trong đời sống xã hội, nhiều người phụ nữ còn bị hạn chế về trình độ văn hoá xã
hội. Với tính khiêm tốn nhiều khi đến mức tự ti, tính nhút nhát tính an phận, một số chị
không mạnh dạn, không dám đấu tranh với những sai trái của chồng con.
Một số chị thiếu tự tin, chưa quan tâm nhiều đến việc học tập, nghiên cứu… do đó,
trình độ hiểu biết những kiến thức về văn hoá, xã hội, đặc biệt là những kiến thức về đời
sống gia đình, về thời sự chính trị còn thấp. Việc tham gia những hoạt động xã hội, kể cả
hoạt động của Hội Phụ nữ, một tổ chức thực sự bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, còn
ít. Chính sự hạn chế này làm cho người phụ nữ khó hiểu biết và hoà hợp với người
chồng, khó có điều kiện chủ động giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Ngoài ra còn khá nhiều những lí do khám quan và chủ quan khác làm cho người phụ
nữ gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng cuộc sống gia đình.
II. NGƯỜI PHỤ NỮ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
Hạnh phúc gia đình là ước mơ là nguyện vọng của mọi người. Nhưng hạnh phúc gia
đình không tự nhiên mà có, và xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình không phải là việc
dễ dàng. Mỗi người chúng ta cần phải chủ động và biết cách xây dựng, giữ gìn, bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Trong tình hình xã hội hiện nay, người phụ nữ cần đặc biệt quan tâm
đến những vấn đề sau đây:
- Cần phải có những quan niệm mới hơn và đúng hơn về cuộc sống gia đình. Người
phụ nữ cần phải xem cuộc sống gia đình là một bộ phận của đời sống xã hội, phải chủ
động hoà nhập cuộc sống gia đình của mình với đời sống xã hội. Phải tăng cường việc
tham gia hoạt động xã hội thông qua việc tham gia những hoạt động của Hội Phụ nữ, của
tổ chức Công đoàn (hoạt động nữ công), hoặc của Đoàn Thanh niên Cộng sản… Đó là
những tổ chức chăm lo trực tiếp và thực sự cho quyền lợi của người phụ nữ.
Người phụ nữ phải quan tâm tiếp cận với những thông tin mới qua việc đọc báo chí,
xem truyền hình hay nghe đài phát thanh, nhất là những chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, những vấn đề về tình hình thời sự, chính trị nổi bật ở trong
nước và trên thế giới.
+ Cần phải mạnh dạn và tự tin, tăng cường việc học tập nâng cao trình độ tri thức
và trí tuệ. Phải tăng cường việc giao tiếp xã hội, tạo sự hoà hợp với chồng con trong đời
sống văn hoá xã hội.
+ Cần chủ động trong việc giải quyết các công việc của gia đình, mạnh dạn dấu
tranh một cách hợp lí với những sai trái của chồng con, hay của các thành viên khác
trong gia đình.
- Cần thay đổi cách tiết kiệm trong chi tiêu mua sắm, mạnh dạn tăng cường trang
bị những thiết bị tiện nghi cần thiết và tối thiểu trong gia đình (ti vi, tủ lạnh, bếp gas, máy
giặt…) để giảm bớt gánh nặng vất vả của công việc nội trợ, phục vụ cho cuộc sống
chung.
– Chú ý nhiều hơn đến việc giữ gìn bảo vệ sức khoẻ, độ trẻ trung sắc đẹp như: tập
luyện thể dục thể thao, trang điểm, sử dụng mỹ phẩm và ăn mặc hợp lí… Việc làm đẹp ở
đây là vẻ đẹp toàn diện, từ vẻ đẹp tâm hồn đến vẻ đẹp hình thức. Đối với chồng con, cần
quan tâm tạo vẻ đẹp từ nét mặt tươi tắn đến dáng vẻ dịu dàng, từ cách ăn mặc trang
điểm đến cách nói năng cư xử…
- Cần chú ý nhiều đến việc cải tiến tổ chức cuộc sống gia đình, sắp xếp thời gian
hợp lí cho các công việc, có lúc nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, có lúc xem phim ảnh, truyền
hình, có những hoạt động tổ chức kĩ niệm giỗ, tết, du lịch, có những giờ phút tâm tình với
chồng con có sự phân công hợp lí công việc và trách nhiệm cho mỗi thành viên trong gia
đình…
- Cần có những hiểu biết đầy đủ và khoa học về cuộc sống gia đình đặc biệt là
nghệ thuật cư xử trong quan hệ vợ chồng, nghệ thuật tổ thức cuộc sống gia đình, nghệ
thuật sinh nở và nuôi con, nghệ thuật quan hệ giữa gia đình với xã hội, nghệ thuật bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Cần lưu ý rằng người đàn ông dù to lớn khoẻ mạnh đến đâu vẫn
muốn trở thành bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của vợ mình. Không một người chồng nào
lại muốn có một người vợ lúc nào cũng “sẵn sàng tranh luận”, “nói năng gay gắt” và
“chiến đấu dũng cảm” với mình.
Nghệ thuật cư xử trong gia đình bao gồm rất nhiều yếu tố, từ cách nói năng đến nét
mặt nụ cười, từ cách khen, chê đến những hành vi đối xử, từ sự quan tâm chăm sóc đến
những cử chỉ đằm thắm yêu thương…
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 6
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tạp chí Nghiên cứu Con người số 3, 2003
Ngày nay, ở nước ta, cùng với các yếu tố kinh tế, văn hoá, yếu tố con người được
coi là những yếu tố hàng đầu để phát triển xã hội, phát triển đất nước. Nhiều nhà nghiên
cứu đều thống nhất rằng, muốn phát triển xã hội, phát triển đất nước, cần phải phát triển
kinh tế, phát triển văn hoá. Điếu đó có nghĩa là phải phát triển con người, vì các vấn đế
kinh tế, văn hoá luôn gắn bó mật thiết với các vấn đề con người. Văn hoá là sản phẩm
của con người.
Giáo sư Viện sĩ Nguyên Duy Quý khẳng định: “Trong sự phát triển xã hội, với bất
cứ giải pháp nào, chúng ta cũng phải lấy con người, các quan hệ của con người trình độ
phát triển con người làm nền tảng”. “Muốn đất nước và xã hội phát triển được, con người
phải có sức khoẻ, có học vấn, có cấu trúc thể chất và tinh thần hài hoà”. “Con người phải
được sống hạnh phúc trong gia đình và tổ quốc của mình”. Con người phải được chăm
sóc tốt, phải được giáo dục tốt, nhờ đó tiềm năng của con người mới được phát triển để
“thực sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội”.
Như vậy muốn đất nước phát triển, con người phải được phát triển. Để giúp cho
con người được phát triển mạnh mẽ, có khả năng đóng góp tích cực cho sự phát triển xã
hội, chúng ta cần phải hiểu sâu sắc và đúng đắn về con người.
Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc, “Khái niệm người, con người hết sức phức
tạp… có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mang cả đặc điểm của vũ
trụ, giới sinh học, xã hội tâm lý chứa đựng tất cả các hình thức phản ánh: cơ, sinh, xã
hội, tâm lý còn cấu trúc người nói chung, cấu trúc nhân cách, cấu trúc tâm lý nói riêng
bao gồm nhiều yếu tố đan xen: tinh thần và vật chất, tâm linh và thể xác, nhân cách và
sinh thể, lí tưởng và hiện thực, động cơ và hành vi…”. Vì vậy hiểu đầy đủ toàn diện về
con người là một vấn đề rất khó khăn, cần có những quá trình nghiên cứu công phu và
đúng hướng.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề quan trọng là phải tập trung “Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực để vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Phải làm cho con người có đủ khả
năng đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, tham gia tích cực và hiệu quả vào việc xây dựng đất nước. Để làm được điều đó,
phải tăng cường giáo dục và phát triển con người về mọi mặt: đạo đức, tư tưởng, trình
độ văn hoá và khoa học kĩ thuật, năng lực chuyên môn, đặc điểm thể chất… trong đó, có
một mặt trước đây chưa được quan tâm nhiều, đó là đời sống giới tính.
Trong sự tồn tại và phát triển của con người, đời sống giới tính có vai trò đặc biệt
quan trọng.
- Trước hết, mọi người đều thấy rằng, một người có giới tính rõ rệt và bình thường
sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi. Những đặc điểm sinh lí, tâm lí giới tính đó giúp con
người có sự phát triển cơ thể hài hoà, khoẻ mạnh, có sự cân đối giữa thể chất và tinh
thần, có sự tự tin trong cuộc sống… Nhờ đó, con người mới có điều kiện phát triển toàn
diện, có khả năng lao động sáng tạo, có cuộc sống gia đình hạnh phúc, sinh con khoẻ
mạnh, góp phần xây dựng và phát triển xã hội. Ngược lại, những người có giới tính không
bình thường dễ gặp khó khăn trong sinh hoạt, trong cuộc sống. Xã hội ta chưa chấp nhận
những người con trai mà đi lại uốn éo, phấn son loè loẹt cũng như người con gái hưng
tợn ngổ ngáo, nói cười oang oang… Những người bệnh hoạn về giới tính khó có thể phát
triển toàn diện hay có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
– Nhiều đặc điểm giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển nhân cách, có khi cũng chính là đặc điểm nhân cách.
Theo cách đánh giá chung của nhiều người, một con người toàn diện, có văn hoá,
có đạo đức, phải là người có những đặc điểm mang bản sắc riêng của giới: người con
trai phải đàng hoàng, mạnh mẽ, lịch sự, cường tráng… Những người con gái phải dịu
dàng, thuỳ mị, uyển chuyển, khéo léo… Các bậc cha mẹ luôn luôn đòi hỏi người con gái
phải đi lại nhẹ nhàng, đứng ngồi kín đáo… người con trai cần nói năng rõ ràng, tính cách
cao thượng, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Đó là những phẩm chất giới tính
tốt đẹp của con người, của truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước phát triển, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại
hoá chúng ta không đòi hỏi người nam, người nữ quá khắt khe như xưa, nhưng nhiều
phẩm chất tốt đẹp của giới tính theo truyền thống Việt Nam, vẫn là những đòi hỏi của xã
hội đối với con người, trở thành những phẩm chất, những yếu tố đẹp đẽ trong văn hoá
dân tộc. Đó là những yếu tố của đạo đức giới tính. Những phẩm chất giới tính tốt đẹp
trên, đồng thời cũng là những phẩm chất của nhân cách, góp phần tạo nên nền tảng đạo
đức của nhân cách con người Việt Nam.
Như vậy, sự hình thành, phát triển những phẩm chất giới tính tốt đẹp góp phần cho
nhân cách phát triển, cho con người phát triển. Ngược lại, những đặc điểm tiêu cực của
giới tính lại có thể làm suy thoái đạo đức làm tha hoá nhân cách.
Khi con người không được giáo dục đầy đủ, kém hiểu biết về giới tính, những đặc
điểm đó, nhất là một số bản năng, dễ đưa họ vào các tệ nạn xã hội, ăn chơi sa đoạ, cờ
bạc, mại dâm… từ đó sa vào vòng tội lỗi, trở thành những phần tử phá hoại xã hội.
Sự kém hiểu biết trong quan hệ giới tính cũng dễ dẫn tới những hành vi cử chỉ thiếu
văn hoá, vi phạm đạo đức xã hội. Một số thanh niên do nhận thức về giao tiếp nam nữ
yếu kém hoặc sai lầm, dễ có hành vi cư xử với bạn khác giới một cách suồng sã, sàm
sỡ, thô bạo. Họ thường nói năng thô tục, ăn mặc lố lăng, bất lịch sự nơi công cộng, phá
rối trật tự kỉ cương xã hội.
Có trường hợp, do nhận thức về giới tính yếu kém, một số ít cán bộ, mặc dù có
động cơ tốt nhưng lại mắc sai lầm trong giáo dục con người: tổ chức những sinh hoạt,
những trò chơi xô bồ, lộn xộn, cho từng cặp nam nữ cõng nhau chạy thi, ngồi lên vai nhau
để đập vỡ chiếc niêu đất treo trên cao; cô mẫu giáo trang điểm phấn son cho các em trai
giống như các em gái; trong lớp học các em nữ sinh trung học phổ thông lớp 10 – 12
(khoảng 16 – 18 tuổi) trong tà áo dài trắng mỏng manh, ngồi ngay trước mặt hoặc sát
bên cạnh các bạn trai đồng lứa tuổi… Đó là những sai lầm vô tình, nhưng cũng có thể
dẫn đến những hậu quả tai hại khó lường, ảnh hưởng đến sự phát triển con người, phát
triển xã hội.
Ngày nay, nhiều nhà giáo dục, nhiều bậc phụ huynh đang rất lo ngại tình trạng một
bộ phận thanh niên có những biểu hiện xấu trong sinh hoạt, trong tình yêu như: yêu
đương quá sớm, yêu đương mù quáng, nếp sống sinh hoạt nam nữ trụy lạc… Một số em
yêu theo kiểu tình yêu tự do, tình yêu không cần hôn nhân, sống gấp, sống thử… Những
biểu hiện trên đây là kết quả của sự nhận thức sai lầm về tình yêu, một lĩnh vực tình cảm
rất phức tạp, nhưng cũng hết sức quan trọng của đời sống giới tính con người, trong tuổi
trẻ. Có em bó cả học hành, ăn chơi trác táng, ôm nhau trong những điệu nhảy điên
cuồng, thâu đêm suốt sáng do tác dụng của các loại thuốc kích thích. Những kiểu ăn chơi
này làm cho các em dần dần đi đến bại hoại thanh danh, tha hoá nhân cách và bước vào
vòng tội lỗi…
Một số khá đông các em hiện nay theo quan niệm tình dục tự do, tình dục không
cần hôn nhân, yêu đương quá sớm… dẫn tới tình trạng quan hệ lang chạ, có thai ngoài ý
muốn, mắc nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình dục, nạo phá thai bị biến chứng…
Tình trạng nạo phá thai ngày nay càng gia tăng trong lớp trẻ và gây nhiều hậu quả tai
hại.
Còn nhiều những biểu hiện phức tạp khác trong đời sống gia đình như: cuộc sống
vợ chồng thiếu hạnh phúc, tỉ lệ li hôn ngày một gia tăng, bạo hành trong gia đình… Đó
cũng là những vấn đề của đời sống giới tính, nếu con người không được hướng dẫn, tìm
hiểu, họ sẽ mắc những sai lầm đáng tiếc, khó có thể cứu vãn trong đời sống hôn nhân.
Những biểu hiện phức tạp trên gây nhiều khó khăn cho cuộc sống con người, làm
cho họ khó có thể có cuộc sống hạnh phúc và phát triển toàn diện, mà nguyên nhân chủ
yếu chính là sự thiếu hiểu biết về đời sống giới tính.
Vì vậy, để có sự phát triển con người mạnh mẽ, bên cạnh các nội dung giáo dục
đạo đức, tư tưởng, năng lực… cần chú ý tăng cường giáo dục giới tính. Cần thực hiện
nội dung giáo dục giới tính một cách toàn diện đầy đủ và hợp lí.
Trong điều tra nghiên cứu của chúng tôi và của nhiều tác giả khác giáo dục giới tính
vẫn chưa được quan tâm đầy đủ và thực hiện nghiêm tức ở trường học. Nhiều nơi nội
dung này vẫn bị cắt xén một cách tuỳ tiện. Những kiến thức về giới tính trong thanh niên
học sinh, sinh viên chủ yếu được họ nhận thức bằng con đường tự đọc sách, rút kinh
nghiệm, thông qua bạn bè và nếp sống sinh hoạt hằng ngày. Điều đó có phần đáng ngại
vì những kinh nghiệm thường khó có thể đúng đắn, khoa học. Mặt khác, trong thị trường
sách báo hiện nay, những sách báo về giới tính rất phức tạp. Những sách khoa học và
phản khoa học đang “thực giả lẫn lộn”. Có những cuốn sách núp dưới chiêu bài giáo dục
giới tính, nhưng thực chất là kích thích thị hiếu sai lệch, tính tò mò của thanh niên, chạy
theo mục đích kinh doanh.
Một thực tế trong hoạt động giáo dục và tuyên truyền hiện nay về lĩnh vực giới tính
là, đang có hiện tượng quá tập trung, quá nặng về sinh lí giới tính (giáo dục sức khoẻ
sinh sản, bệnh lí giới tính, giáo dục tình dục…), mà ít chú ý đến giáo dục toàn diện về
giới tính, giáo dục những thái độ, phẩm chất đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, quan hệ
giới tính, sự cư xử giữa nam và nữ… Hiện tượng đó có thể gây ra những hậu quả như:
- Dẫn đến sự nhận thức phiến diện trong mọi người về đời sống giới tính. Có thể
mọi người cho rằng giới tính thì là những đặc điểm sinh lí cơ thể, quan hệ tình dục, sự
sinh nở…
– Dẫn đến những tác dụng phản diện trong giáo dục giới tính, thậm chí có thể có
những người lạm dụng giáo dục giới tính để chạy theo mục đích kinh doanh không lành
mạnh (xuất bản những sách báo kích thích những thị hiếu thấp hèn của con người).
– Việc nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính bị hạn thế, nhất là trong tình
hình xã hội ta hiện nay, những quan niệm về giới tính và giáo dục giới tính rất phức tạp
chưa có sự thống nhất, có những quan niệm còn trái ngược nhau.
Để khắc phục những hậu quả trên, cần tập trung nghiên cứu đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn về giới tính, đặc biệt là các ngành Giới tính học, Tâm lí học giới tính, Xã hội học giới
tính. Cần tổ chức những hội nghị khoa học để tạo nên sự thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu về các khái niệm cơ bản của đời sống giới tính, giáo dục giới tính cần thực hiện
nghiêm túc chương trình, nội dung giáo dục giới tính trong nhà trường, trong xã hội.
Tổng quát hơn, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giới tính và giáo dục giới tính
trong đời sống con người. Phải coi việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính là một
nội dung quan trọng trong nghiên cứu con người, trong việc phát triển con người.
Có thể nói rằng, vấn đề phát triển con người gắn bó mật thiết với vấn đề giới tính
và giáo dục giới tính cho con người. Nói cách khác nghiên cứu về giới tính và thực hiện
giáo dục giới tính là điều kiện quan trọng để phát triển con người toàn diện, tạo nên
nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Created by AM Word2CHM
Vấn đề 7
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH à Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Created by AM Word2CHM
MỤC LỤC
PHẦN MỘT
TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI
1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính
2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính
3. Giới tính và nhân cách con người
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các ngành khoa
học khác
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới tính
Chương 2
GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
1. Khái niệm giới
2. Khái niệm giới tính
3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH
1. Sự phức tạp của đời sống giới tính
2. Mối quan hệ giữa hai giới
3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH
1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con người
2. Các giai đoạn phát triển của giới tính
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH NIÊN, HỌC SINH
Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC
1. Khái niệm Tính dục
2. Những vấn đề điển hình của đời sống tính dục được quan tâm hiện nay
II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ
1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt
2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt
3. Chu kì tâm sinh lí học trong chu kì kinh nguyệt
III. TÌNH DỤC
1. Khái niệm chung về tình dục
2. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu ở lứa tuổi thanh thiếu niên
3. Vấn đề giáo dục tình dục và tình yêu cho thanh thiếu niên
IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH
1. Khái niệm chung về tình yêu
2. Những thành phần cơ bản trong tình yêu
3. Sự hình thành và phát triển của tình yêu
4. Động cơ yêu đương và tình yêu chân chính
5. Mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân
V. HÔN NHÂN
1. Khái niệm hôn nhân
2. Động cơ hôn nhân
3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn nhân
4. Cuộc sống vợ chồng
5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng
6. Điều kiện chủ yếu để tạo nến cuộc sống vợ chồng hạnh phúc lâu dài
7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay.
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản
2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Chương 4
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính
2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người
II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính
2. Nội dung chung của giáo dục giới tính
3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng
4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ thông
5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường và người lớn
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn diện nhân cách
2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lí, sinh lí cơ thể của
thanh thiếu niên
3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và sự phát triển xã hội
4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm sinh lí trong tình hình
hiện nay
5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức tạp và gia tăng của
các tệ nạn xã hội hiện nay
PHẦN HAI
NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Vấn đề 1: Tình trạng trẻ em hư và vấn đề giáo dục giới tính
Vấn đề 2: Một số vấn đề về nội dung, tổ chức thực hiện chương trình giáo dục đời sống
gia đình cho học sinh phổ thông
Vấn đề 3: Một số vấn đề tâm lí – xã hội cần chú ý khi tiến hành giáo dục đời sống gia
đình và giới tính cho học sinh phổ thông
Vấn đề 4: Vẻ đẹp và vấn đề làm đẹp ở thanh niên
Vấn đề 5: Người phụ nữ với việc xây dựng cuộc sống gia đình
Vấn đề 6: Sự phát triển con người với vấn đề giáo dục giới tính
Vấn đề 7: Một số biểu hiện sai lệch trong tình yêu của thanh niên, học sinh hiện nay
---//---
TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tác giả:
PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh
Nhà xuất bản Giáo Dục
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QÚY THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm hội dung:
Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP. Hồ Chí Minh
VŨ BÁ HÒA
Biên tập nội dung và tái bản:
NGUYÊN VĂN HÂN
Biên tập kĩ – mĩ thuật:
BÙI XUÂN DƯƠNG
Trình bày bìa:
TÔN THẤT HIỀN
Sửa bản in:
PHÒNG SỬA BẢN IN (NXBGD TẠI TP.HCM)
Chế bản:
PHÒNG SCĐT – NXB GIÁO DỤC TẠI TP. HCM
Mã số: 8G804m8 – TTS
In 3.000 bản, (04TK) khổ 16 x 24 cm; tại Công ty cổ phần In và Vật tư Hải Dương. Số in:
01; Số xuất bản: 11–2008/CXB/212 – 2097/GD. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm
2008.
Created by AM Word2CHM