Professional Documents
Culture Documents
Tam Ly Hoc Gioi Tinh Va Giao Du PGS. TS. Bui Ngoc Oanh
Tam Ly Hoc Gioi Tinh Va Giao Du PGS. TS. Bui Ngoc Oanh
TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH
Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
Tâm lí học giới tính là một chuyên ngành của Tâm lí học,
nghiên cứu về đời sống giới tính, mối liên hệ giữa giới tính với các
hoạt động xã hội của con người và cuộc sống của con người trong
xã hội.
Giáo dục học giới tính là chuyên ngành của Giáo dục học,
nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính cho con người, chủ yếu là
giáo dục cho thế hệ trẻ.
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính là hai ngành khoa
học tuy khác nhau nhưng quan hệ rất mật thiết với nhau.
Trong thực tế nghiên cứu về giới tính hiện nay, người ta
thường kết hợp tâm lí học giới tính với giáo dục học giới tính như
một lĩnh vực khoa học thống nhất. Khi tìm hiểu về tâm lí học giới
tính, người ta phải kết hợp với vấn đề giáo dục giới tính cho học
sinh. Việc nghiên cứu những vấn đế của tâm lí giới tính phải phục vụ
cho giáo dục giới tính, phải đi tới nội dung, phương hướng giáo dục
những vấn đề giới tính đó… cho con người. Ngược lại, khi nghiên
cứu về giáo dục học giới tính, các nhà giáo dục phải dựa trên cơ sở
tri thức của Tâm lí học giới tính để xác định chương rình, nội dung,
phương pháp, hình thức, kế hoạch… giáo dục giới tính phù hợp.
Vì vậy trong nhiều công trình nghiên cứu về khoa học giới tính
hiện nay ở nước ta, thường có sự kết hợp chặt chẽ của cả hai
ngành khoa học trên.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục
học giới tính
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa nam và nữ dưới ảnh hưởng của đời sống
giới tính.
+ Lịch sử nghiên cứu các vấn đề giới tính và sự hình thành
phát triển của các khoa học về giới tính.
+ Những vấn đề tâm lí trong giáo dục giới tính.
+ Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục giới tính.
– Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mô tả và giải thích các hiện tương của đời sống giới tính.
+ Phát hiện các quy luật của các hiện tượng giới tính.
+ Nghiên cứu các hiện tượng tâm lí, các quy luật tâm lí về việc
giáo dục giới tính cho thanh niên, học sinh.
+ Đề xuất những phương hướng giáo dục, vững nội dung,
cách thức, biện pháp thích hợp để giáo dục con người về mặt giới
tính, tạo điều kiện để phát triển toàn diện dân cách cho thanh thiếu
niên học sinh và cho mọi người.
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính
với các ngành khoa học khác
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính có mối quan hệ
mật thiết với nhiều ngành khoa học, phải dựa trên cơ sở của Sinh lí
học, Giải phẫu sinh lí, Tâm lí học, Tâm lí học xã hội, Tâm lí học giao
tiếp, Xã hội học…
Khi nghiên cứu Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính,
chúng ta còn phải dựa trên cơ sở của Giới tính học, Xã hội học giới
tính, Sinh lí học giới tính… Đây là những ngành khoa học còn non
trẻ ở nước ta.
Ngoài ra, việc nghiên cứu tâm lí giới tính còn phải gắn với
nhiều ngành khoa học khác như: Y học, Sinh học, Xã hội học, Giáo
dục học, Dân số học và Giáo dục dân số…
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu các vấn đề giới tính đang
được sự quan tâm đặc biệt của Y học, Xã hội học, Giáo dục học và
Tâm lí học.
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam
hiện nay
Việc nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là tâm lí học giới tính và
giáo dục học giới tính ở nước ta hiện nay đang được quan tâm và
phát triển mạnh mẽ.
– Có nhiều quan điểm khác nhau về đời sống giới tính, về
những thuật ngữ cơ bản được sử dụng trong các ngành khoa học
về giới tính (giới, giới tính, tính dục, tình dục, tình yêu…).
– Có nhiều biểu hiện phức tạp trong việc nghiên cứu về giới
tính:
+ Sự lẫn lộn giữa các khái niệm, các thuật ngữ về giới và giới
tính.
Có người cho rằng, giới chỉ là những đặc điểm xã hội, do xã
hội tạo ra. Ngược lại, giới tính lại chỉ được hiểu là những đặc điểm
về sinh lí và không biến đổi. Nhiều thuật ngữ như: tính dục và tình
dục, giới và giới tính, tình dục và giới tính… thường bị sứ dụng lẫn
lộn hoặc phiến diện, lệch lạc.
+ Nội hàm của một số khái niệm chưa được thống nhất như
giới tính, tính dục, sức khoẻ sinh sản.
+ Sự pha trộn các quan điểm phương Tây với những quan
điểm truyền thống Việt Nam. Trong xã hội, nhiều người cho rằng
không cần thiết phải giáo dục giới tính trong nhà trường, trong thanh
niên, nhiều người có quan niệm tình dục tự do, tình yêu tự do, tình
yêu không cần hôn nhân…
+ Những tồn tại của các quan điểm phong kiến lạc hậu về các
hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Sự xuất hiện nhiều tài liệu, sách báo thiếu khoa học về vấn
đề giới tính, nhằm mục đích chạy theo thị hiếu, thay theo kinh
doanh; thậm chí có sự nhầm lẫn giữa các sách báo, tài liệu khoa
học về giới tính với các sách báo mê tín dị đoan hoặc mang tính
kích dục, tính khiêu dâm, dồi trụy… Những sách này thiếu tính giáo
dục, tính khoa học, nhiều khi chỉ kích thần tính tò mò, gây tác hại
cho thanh thiếu niên.
+ Các văn hoá phẩm đồi trụy hoặc văn hoá phẩm theo những
quan điểm nước ngoài nhiều khi gây tác dụng tiêu cực trong giáo
dục thanh thiếu niên, không phù hợp với phong tục truyền thống Việt
Nam. Ngược lại, những tư tưởng, quan điểm phong kiến khắt khe,
lạc hậu vẫn song song tồn tại trong đời sống xã hội, trong nghiên
cứu và đánh giá các vấn đề của đời sống giới tính.
+ Nhận thức của nhiều tầng lớp xã hội như: phụ nữ, thanh
thiếu niên, người lớn, thậm chí, có cả một bộ phận không nhỏ của
nhà giáo, giới trí thức về nhiều vấn đề của đời sống giới tính còn
thấp hoặc phiến diện, hoặc sai lầm.
+ Những phương tiện thiết bị nghiên cứu về vấn đế giới tính
còn rất hạn thế. Do điều kiện xã hội phong kiến, những phương
pháp nghiên cứu chưa thật sự đa dạng và toàn diện, kể cả phương
pháp điều tra xã hội học cũng khó có thể phát huy hết tác dụng,
không thể hỏi nhiều vấn đề tế nhị.
+ Việc nghiên cứu về giới tính đang được quan tâm nhưng kết
quả thưa thật sự cao, thậm chì còn có lệch lạc trong một số công
trình nghiên cứu.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân:
+ Đời sống giới tính rất phức tạp nhưng chưa được quan tâm
nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống bởi các nhà khoa học.
Nhiều người còn e ngại hoặc thành kiến, có quan niệm không đúng
về vấn đề nghiên cứu và giáo dục giới tính.
+ Những vấn đề của đời sống giới tính thường kích thích tính
tò mò của con người, nhất là đối với thanh niên. Họ thường rất quan
tâm đến những vấn đề của giới tính, thường xuyên trải nghiệm, thể
nghiệm những biểu hiện của giới tính trong đời sống hàng ngày
nhưng không tự giải thích được. Chính vì vậy, nhu cầu tìm hiểu về
giới tính rất cao. Họ thường tự tìm hiểu chúng trong mọi điều kiện có
thể có trong mọi tài liệu sách báo có đề cập đến những vấn đề giới
tính mà không có khả năng phân biệt những tài liệu khoa học hay
phản khoa học.
+ Những tri thức về đời sống giới tính có thể được tích luỹ qua
kinh nghiệm sống của con người. Nhiều trường hợp có những
người không học tập trong nhà trường nhưng vẫn có những hiểu
biết nhất định thông qua sự từng trải trong cuộc sống của họ. Những
kinh nghiệm và sự hiểu biết này có thể không có tính hệ thống khoa
học nhưng cũng có thể giúp cho họ vận dụng ở mức độ nhất định
trong cuộc sống. Có khi còn làm cho họ nghĩ rằng hình đã biết rất
nhiều.
+ Có những vấn đề của đời sống giới tính là những vấn đề tế
nhị ít khi được trình bày một cách công khai và chính thức trong xã
hội. Nhiều người còn cho rằng đó là những vấn đế thiếu đứng đắn,
thiếu lịch sự, do đó tuy rất quan tâm nhưng họ không dám nói ra.
Việc nghiên cứu và tìm hiểu chúng thường chỉ là vụng trộm, truyền
miệng, rỉ tai nhau hoặc bàn tán trong nhóm bạn bè… Vì vậy những
hiểu biết thường chỉ là vụn vặt, phiến diện và đôi khi không chính
xác.
+ Còn nhiều những quan điểm khác nhau về các khái niệm,
các thuật ngữ, thậm chí về cả nội dung và phương pháp nghiên cứu
các vấn đề giới tính ở Việt Nam. Các tài liệu sách báo lưu hành trên
thị trường rất phong phú đa dạng, có nhiều tài liệu khoa học nhưng
cũng có những tài liệu chỉ tập trung khai thác những vấn đề giới tính
thu hút sự quan tâm chú ý của người đọc, phục vụ cho việc kinh
doanh, vì vậy có nhiều tài liệu rất phiến diện, lệch lạc, thậm chí có
những tài liệu mang tính mê tín dị đoan, hoặc phản khoa học.
+ Việc dịch thuật các tài liệu nước ngoài sang tiếng Việt cũng
chưa được chuẩn hoá, hiệu đính một cách nhất quán bởi các nhà
chuyên môn. Chẳng hạn, từ “sex” trong tiếng Anh có thể dịch thành
nhiều nghĩa như: giới tính”, “tình dục, tính dục, “khoả thân”… Vì thế
nhiều tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài, dù là của các tác giả có uy tín
khoa học, cũng không được chính xác và toàn diện.
Trong khi đó, ở nước ta, thưa có những công trình nghiên cứu
cần thiết để thống nhất các khái niệm, các thuật ngữ, cách sử dụng
từ trong nghiên cứu các vấn đề giới tính, chưa có những hội nghị
khoa học cần thiết để thống nhất và phát triển các khoa học về giới
tính.
+ Nhiều tệ nạn xã hội liên quan đến đời sống giới tính có chiều
hướng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ăn chơi trác táng, nhậu nhẹt
bia ôm, biến tướng của vũ trường, hoạt động của các “động lắc”,
mại dâm…
+ Vấn đề giáo dục giới tính còn nhiều quan niệm phức tạp,
mâu thuẫn. Nhiều ý kiến không thống nhất về nội dung, chương
trình, về phương thức giáo dục giới tính trong nhà trường. Thậm chí,
có ý kiến cho rằng, không nên tiến hành giáo dục giới tính trong
chương trình nội khoá, hoặc ngay cả trong ngoại khoá vì cần phải
dành thời gian cho các môn khoa học cơ bản hoặc các môn học
quan trọng hơn. Ngay cả khi đã có quyết định đưa một số nội dung
của đời sống giới tính vào chương trình giáo dục trong nhà trường
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều địa phương, nhiều trường học
vẫn không nghiêm tức thực hiện, hoặc chỉ thực hiện một cách cầm
chừng, một cách hình thức để đối phó với những đợt kiểm tra của
Bộ.
+ Lực lượng các nhà nghiên cấm các giáo viên làm công tác
giáo dục giới tính, giảng dạy kiến thức giới tính cho học sinh còn rất
thiếu. Trong nhiều trường phổ thông không có giáo viên được đào
tạo chuyên môn để giảng dạy những kiến thức này. Trong trường sư
phạm, việc trang bị những kiến thức giới tính cho sinh viên, giáo
sinh cũng chưa được quan tâm.
+ Việc đào tạo cán bộ chuyên khoa về ngành này chưa được
thực hiện một cách tập trung, hoàn chỉnh, thưa có chương trình đào
tạo chuyên ngành, nội dung giảng dạy còn đơn giản, sơ lược.
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí
học giới tính
Hiện nay, việc nghiên cứu các khoa học về giới tính đang được
quan tâm ở nhiều ngành, nhiều cơ quan khoa học. Đây là một lĩnh
vực khoa học còn khá mới mẻ ở nước ta. Còn nhiều vấn đề cần
phải tập trung nghiên cứu như:
– Nghiên cứu chuyên sâu để phát triển các ngành khoa học về
các lĩnh vực của đời sống giới tính như: Giới tính học, Xã hội học
giới tính, Sinh lí học giới tính, những vấn đề y học về đời sống giới
tính, Giáo dục học và Tâm lí học giới tính…
– Nghiên cứu sâu hơn bản chất của các hiện tượng trong đời
sống giới tính như: sự phát triển sinh lí cơ thể ở nam và ở nữ trong
các giai đoạn lứa tuổi, đặc biệt là các lứa tuổi ở người lớn như: giai
đoạn từ khoảng 48 – 50 đến 54 55; từ 56 đến 65; từ trên 65 đến 70
– 75 ở nữ; từ trên 75 đến 85 ở nam, hiện tượng kinh nguyệt và sinh
nở; các hiện tượng bệnh lí giới tính, đời sống tình dục, sự già lão
của cơ thể, vấn đề sức khoẻ sinh sản, đời sống tình yêu và hôn
nhân…
– Vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục tính dục cho học sinh,
sinh viên và các lứa tuổi lớn hơn…
– Các vấn đề tâm lí, diễn biến tâm lí về việc giáo dục giới tính
trong nhà trường và xã hội.
– Tăng cường việc nghiên cứu, giảng dạy các kiến thức giới
tính cho học sinh, sinh viên, đặc biệt là sinh viên các trường sư
phạm, để khi ra trường, họ sẽ là các giáo viên có khả năng, trình độ
làm công tác giảng dạy và giáo dục giới tính.
Thống nhất và chính xác hoá các khái niệm quan trọng (như
giới, giới tính, tính dục, tình dục, sức khoẻ sinh sản…) các nội dung
trình bày của những ngành khoa học có liên quan đến đời sống giới
tính mới được quan tâm nghiên cứu (như giáo dục dân số và sức
khoẻ sinh sản, giáo dục gia đình, tâm lí và giáo dục giới tính…).
– Xây dựng, bổ sung thêm những khái niệm, thuật ngữ mới
trong khoa học giới tính như “độ trẻ trung”, “sự già lão”, “chỉ số sinh
sản” ở nam, ở nữ, “vẻ đẹp cơ thể”, “động cơ yêu đương”, “hôn nhân
hạnh phúc”…
V. HÔN NHÂN
1. Khái niệm hôn nhân
– Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, trong đó, hai người khác
giới được xã hội thừa nhận sống chung với nhau, gắn bó với nhau,
có trách nhiệm với nhau và cùng có trình nhiệm trước xã hội.
– Hôn nhân thường là kết quả của tình yêu. Khi tình yêu phát
triển cao, nó trở thành một trong những yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy
hai người kết hôn. Tuy nhiên, cũng có nhiều cuộc hôn nhân được
hình thành từ những động cơ tâm lí hoặc động cơ xã hội khác.
Hôn nhân thường được biểu hiện ở các hình thức:
+ Hình thức về mặt pháp lí: Đăng kí kết hôn.
+ Hình thức về phong tục tập quán: Lễ cưới.
Hình thức đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền là cơ bản.
Nhưng do phong tục tập quán dân tộc, nhiều khi lễ cưới lại có ý
nghĩa quan trọng hơn. Có địa phương, lễ cưới có vai trò chủ yếu
quyết định nhất. Lễ cưới phụ thuộc rất nhiều vào phong tục tập
quán, nếp sống xã hội hoặc nghi lễ tôn giáo.
– Hôn nhân tạo nên một gia đình mới trong xã hội, tạo nên
cuộc sống vợ chồng. Cuộc sống gia đình và hạnh phúc vợ chồng
phụ thuộc nhiều vào động cơ hôn nhân.
2. Động cơ hôn nhân
– Động cơ hôn nhân là tổng hợp những yếu tố thúc đẩy hai
người đi tới hôn nhân. Những yếu tố này thường rất phức tạp, đa
dạng có thể bao gồm như sau:
+ Yếu tố thuộc về tâm lí xã hội: Sự thành đạt, ổn định về danh
phận, sự nghiệp, nhu cầu về cuộc sống gia đình, sự thúc đẩy của họ
hàng, bạn bè, sự hoà hợp cá tính…
+ Yếu tố lứa tuổi: Đến một độ tuổi nào đó, đến độ trưởng thành
về mặt cơ thể, người ta có nhu cầu kết hôn.
+ Yếu tố vật chất: Khi điều kiện sống phát triển đến một mức
nhất định, hoặc khi nhu cầu cơ thể phát triển đến một mức nhất định
nó trở thành yếu tố thúc đẩy con người đi tới hôn nhân.
+ Yếu tố tình yêu: Tình yêu phát triển đến một mức nào đó, hai
người có nhu cầu kết hôn.
+ Yếu tố tâm lí cá nhân: Đặc điểm tâm lí cá tính mỗi người.
Động cơ hôn nhân không nhất thiết phải gồm toàn bộ các yếu
tố đã kể trên, mà có thể chỉ bao gồm một số yếu tố nào đó, tuỳ từng
trường hợp cụ thể, từng người cụ thể (do đặc điểm đao đức, quan
điểm sống, cá tính…).
– Động cơ hôn nhân có vai trò quan trọng đến hạnh phúc gia
đình. Chỉ những động cơ đúng đắn, lành mạnh mới có thể có gia
đình hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng êm ấm, thuận hoà, bến vững.
Động cơ hôn nhân đúng đắn, lành mạnh thường bao gồm
các yếu tố sau:
+ Tình yêu thân thực, chân chính phát triển ở mức cao.
+ Hai người tự nguyện và cùng mong được chung sống.
+ Có sự suy nghĩ, cân nhắc thận trọng về nhiều mặt ở cả hai
người (sự trưởng thành về tâm lý xã hội, về điều kiện hoàn cảnh, cơ
sở vật chất, tuổi tác, hoà hợp trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau).
+ Sự kết hợp của nhiều yếu tố trên.
Nếu động cơ hôn nhân càng bao gồm nhiều yếu tố như trên,
cuộc sống gia đình càng có nhiều điều kiện để hạnh phúc và phát
triển hơn.
– Động cơ hôn nhân không đúng đắn thường có những
biểu hiện như:
+ Có mục đích lợi dụng (tiền tài địa vị, xác thịt) hoặc có sự vị kỉ,
tính toán cá nhân.
+ Có sự cả nể, thương hại.
+ Có sự bị động (thúc đẩy của gia đình, sự gả bán, cưỡng
ép…).
+ Có những dấu hiệu chưa tốt về tình yêu: chưa yêu thật sự
(tình yêu ngộ nhận) hoặc mức độ yêu chưa đến độ phát triển cao
(chưa yêu nồng thắm, chưa sâu sắc…).
+ Chưa tìm hiểu đầy đủ về nhau, chưa hiểu rõ nhau (cưới vội
vàng).
+ Chưa có sự chuẩn bị cho cuộc sống chung.
3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn
nhân
a) Cần chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân theo nhiều hướng
– Xây dựng tình yêu thân thực và chân chính, và làm cho tình
yêu ngày càng phát triển.
– Phải tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau khi đã yêu, khi sắp kết hôn và
trong toàn bộ cuộc sống vợ chồng sau này.
– Phải tìm hiểu về cuộc sống vợ chồng, về nội dung của cuộc
sống gia đình, những phương hướng, biện pháp xây dựng gia đình
hạnh phúc, luật hôn nhân gia đình…
Phải chuẩn bị cho cuộc sống chung: xây dựng cơ sở vật chất
cho sự chung sống vợ chồng, tìm hiểu những tri thức về cuộc sống
vợ chồng, về cuộc sống gia đình.
– Chuẩn bị cho lễ cưới.
b) Những điều kiện dẫn tới hôn nhân hạnh phúc
Có nhiều yếu tố điều kiện, ảnh hưởng đến việc kết hôn. Tuy
nhiên, để tiến tới hôn nhân hạnh phúc, người ta chỉ nên kết hôn khi
đã đạt được một số điều kiện chính sau đây:
Mức độ phát triển của tình yêu giữa hai người đến mức độ
cao.
– Hai người có sự hiểu biết tương đối đầy đủ về cá tính, trình
độ đạo đức thế giới quan… (đặc điểm tâm lí), nhất là hoàn cảnh gia
đình của nhau.
– Ít nhất một trong hai người phải có nghề nghiệp ổn định.
– Sự hiểu biết nhất định về cuộc sống vợ chồng, cuộc sống gia
đình.
– Có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ về cuộc sống chung sau
này.
c) Đăng kí kết hôn và lễ cưới
Việc đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền là việc cơ bản của
hôn nhân, nhưng ở nước ta, lễ cưới lại có ý nghĩa quan trọng (do
phong tục, tập quán).
Nghi lễ đám cưới ở mỗi địa phương, mỗi tôn giáo, mỗi gia đình
có thể khác nhau, nhưng việc chuẩn bị cho lễ cưới là điều rất quan
trọng.
Cần chú ý, vấn đề “lễ cưới” trong thanh niên còn nhiều biểu
hiện không tốt như: cầu kì, xa hoa, lãng phí… Nhiều khi sau đám
cưới, hai vợ tượng trẻ phải “kéo cày” nhiều năm để trả nợ. Điều đó
lại là một nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến hạnh phúc sau
này. Vì thế, việc xây dựng một quan điểm đúng đắn và một nghi
thức phù hợp về lễ cưới trang trọng, có ý nghĩa giáo dục, giản dị, tiết
tiệm nhưng có tác động mạnh mẽ cho cô dâu, chú rể và “hai họ”… là
điều rất cần thiết hiện nay.
Để có hôn nhân hạnh phúc cần chú ý đến các vấn đề sau:
– Phải có đăng kí kết hôn.
– Tổ chức lễ cưới phù hợp, trang trọng theo tục lệ.
Phải giáo dục mọi người hiểu biết ý nghĩa, tầm quan trọng của
vấn đề trên.
d) Vấn đề đêm tân hôn và tuần trăng mật
Đêm tân hôn và tuần trăng mật là những vấn đề phức tạp cần
quan tâm, hướng dẫn cho thanh niên khi kết hôn. Thường hai vợ
chồng trẻ còn nhiều bỡ ngỡ, mới lạ, lúng túng trong những hoàn
cảnh này. Thậm thí, tâm lí của họ có nhiều xáo động, bối rối, có thể
dẫn tới những hậu quả bất lợi cho cuộc sống chung. Vì vậy, việc
hướng dẫn chu đáo cho thanh niên về những vấn đề này rất cần
thiết sẽ góp phần tạo nên hạnh phúc gia đình nồng thắm, bền vững
sau này.
e) Những vấn đề cụ thể của thời kì đầu trong cuộc sống vợ
chồng
Trong thời kì đầu của cuộc sống chung, cả hai vợ chồng cần
quan tâm và hiểu biết về nhiều vấn đề sau đây:
– Đêm tân hôn và tuần trăng mật.
Làm quen với cuộc sống chung.
– Tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau.
“Giáo dục”, “cảm hoá” lẫn nhau từ đầu (ngay từ đêm tân hôn).
– Xây dựng nề nếp cuộc sống gia đình.
– Cách cư xử với nhau giữa hai vợ chồng và với họ hàng hai
bên.
– Xây dựng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.
– Xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc sống gia đình…
Những kiến thức và kỹ năng về những vấn đề trên sẽ giúp cho
hai vợ chồng trẻ có điều kiện thuận lợi để xây dựng cuộc sống gia
đình hạnh phúc.
4. Cuộc sống vợ chồng
Kết quả của hôn nhân là sự hình thành một gia đình mới. Mỗi
gia đình là một tế bào của xã hội. Những mối quan hệ trong gia đình
là những quan hệ xã hội phức tạp, trong đó mối quan hệ cơ bản
nhất, quan trọng nhất là quan hệ vợ chồng. Quan hệ vợ chồng là
một tổng hợp những mối quan hệ đa dạng, phức tạp, chịu tác động
của nhiều yếu tố: xã hội, kinh tế, tâm lí, đạo đức… Do đó, cuộc sống
vợ chồng là một quá trình phát triển lâu dài và nhiều biến động.
a) Đặc điểm của cuộc sống vợ chồng
– Là sự chung sống giữa hai người được xã hội công nhận
+ Từ hai người “xa lạ” gắn bó với nhau, cùng chung số phận,
cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chung những điều kiện và hoàn cảnh
sống.
+ Sự chung đụng hàng ngày trong sinh hoạt, cuộc sống của
hai người có những cá tính khác biệt.
+ Hai người lệ thuộc vào nhau, mất đi một phần tự do của
mình, phải chịu trách nhiệm về nhau.
+ Sự giao tiếp hàng ngày có thể làm nảy sinh những tình cảm
tốt đẹp hoặc những va chạm, mâu thuẫn:
+ Quan hệ tình dục tự do có thể dẫn đến sự nhàm chán.
+ Rất nhiều vấn đề mới nảy sinh: xây dựng cuộc sống gia đình,
mua sắm đồ đạc, những biểu hiện của mối quan hệ họ hàng và gia
đình hai bên, vấn đề sinh nở và nuôi con, vấn đề đảm bảo đời sống
vật chất hàng ngày, những nhu cầu vật chất và tinh thần mới luôn
luôn nảy sinh, vai trò của yếu tố kinh tế ngày càng quan trọng hơn…
+ Sự ảnh hưởng của xã hội đến cuộc sống vợ chồng rất đa
dạng và phức tạp.
Quan hệ vợ chồng là một tổng hợp của nhiều mối quan hệ tâm
lí xã hội:
+ Mối quan hệ giữa hai con người bình đẳng trong xã hội, phản
ánh các mối quan hệ xã hội.
+ Mối quan hệ luật pháp (hai nguồn phải tuân theo luật hôn
nhân, gia đình).
+ Mối quan hệ liên nhân cách (tâm lý).
+ Mối quan hệ tình cảm (tình người, tình bạn, tình nghĩa).
+ Mối quan hệ sinh lí, tình dục.
+ Tình yêu vợ chồng là mối quan hệ trung tâm bao trùm nhất.
Đó cũng là tình yêu, nhưng có nhiều đặc điểm khác biệt với tình yêu
nam nữ thông thường.
– Do hai đặc điểm trên; đời sống vợ chồng là một quá trình
phức tạp, biến động, có thể phát triển theo những diễn biến rất khác
biệt:
+ Theo hướng tốt đẹp: tình nghĩa phát triển ngày càng yêu
nhau sâu sắc, hai người sống ngày càng hạnh phúc bên nhau.
+ Theo hướng xấu: ngày càng mất hạnh phúc, càng nhàm
chán, khó chịu.
+ Theo hướng phức tạp: không ổn định, khi tốt, khi xấu
Sự biến động trên tuỳ thuộc thủ yếu vào tình yêu, cách sống,
cách cư xử phẩm chất đạo đức, trình độ của hai người… đồng thời
cũng chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác.
b) Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống vợ chồng
Cuộc sống vợ chồng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Do tác
động của các yếu tố này, cuộc sống vợ chồng có thể hạnh phúc
hoặc bị tan vỡ.
Sau đây là một số yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu, rõ rệt nhất.
Mức độ của tình yêu vợ chồng:
+ Thường khi mới cưới, tình yêu vợ chồng ở mức cao nhất,
sau đó trong quá trình sống, tình yêu vợ chồng có thể bị biến đổi đi.
Có những trường hợp tình yêu vợ chồng ngày càng tăng dần lên,
nhưng cũng có những trường hợp tình yêu này ngày càng giảm sút.
Sự giảm sút của tình yêu vợ chồng có thể làm cho hạnh phúc của
cuộc sống vợ chồng bị sút giảm theo. Để tình yêu vợ chồng ngày
càng phát triển, làm hậu thuẫn cho cuộc sống gia đình hạnh phúc,
cả hai vợ chồng phải cùng có đạo đức, trách nhiệm, có hiểu biết về
cuộc sống vợ thông và nhiều điều kiện khác.
+ Mức độ tình yêu vợ chồng càng cao, cuộc sống vợ chồng
càng hạnh phúc. Vì thế, việc xây dựng, gìn giữ tình yêu vợ chồng có
ý nghĩa, vai trò quan trọng.
– Mức độ và sự hiểu biết lẫn nhau:
+ Nếu hai vợ chồng càng hiểu biết về nhau, càng có nhiều điều
kiện chung sống hạnh phúc hơn. Sự hiểu biết lẫn nhau giúp cho hai
người giải quyết những biểu hiện rắc rối những nhược điểm của
nhau, có kế hoạch và cách cư xử thích hợp khi có “tình huống phức
tạp”, nảy sinh, có kế hoạch “giáo dục”, “cảm hoá” lẫn nhau, có điều
kiện để biểu hiện sự yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau…
+ Việc tích cực, chú ý tìm hiểu lẫn nhau có tác dụng lớn đến
hạnh phúc vợ chồng.
– Mức độ và sự hoà hợp giữa hai vợ chồng:
+ Sự hoà hợp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thúc đẩy cho tình
yêu vợ chồng phát triển, tạo điều kiện tốt cho vợ chồng hạnh phúc.
+ Sự hoà hợp ở đây chủ yếu là sự tương đồng tâm lí, cá tính,
nhất là sự tương đồng về quan điểm sống, lối sống. Sự hoà hợp còn
biểu hiện ở các hành vi yêu thương, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ
lẫn nhau, thấp nhận nhau, ở cách hành xử đạo đức hàng ngày.
+ Sự hoà hợp nhiều khi không thể có ngay khi cưới, mà
thường là một quá trình, hình thành, phát triển phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: xã hội, đạo đức, tình yêu, sự thiện chí… Hạnh phúc vợ
chồng phụ thuộc vào việc xây dựng tạo nên sự hoà hợp vợ chồng.
+ Sự hoà hợp có thể được tạo nên bởi sự cảm hoá lẫn nhau,
sự hi sinh cá nhân mình vì người kia. Quá trình chung sống vợ
chồng luôn là quá tình cảm hoá, giáo dục lẫn nhau, là quá trình giáo
dục và tự giáo dục để đi tới sự tương đồng, sự hoà hợp…
Đạo đức giữa hai người:
+ Những phẩm chất đạo đức tốt dẹp có tác động rất mạnh cho
hạnh phúc vợ chồng phát triển, bền vững.
+ Cần lưu ý đặc biệt các phẩm chất như sự trung thực và lòng
chung thuỷ, sự tôn trọng và tin tưởng, sự hi sinh và quan tâm chăm
sóc sự cao thượng và linh vị tha, sự hiền dịu và chăm chỉ, tính thời
đựng và kiềm chế, sự tế nhị và lòng nhân ái đối với nhau, tinh thần
trách nhiệm và lo lắng quan tâm cho nhau… Những phẩm chất này
có tác dụng rất lớn tạo nên hạnh phúc vợ chồng.
+ Ngược lại, có những nét tính cách tai hại như: tính tự ái, cố
chấp, tính lắm điều, tàn nhẫn, sự bần tiện, tham lam, sự nghi kị, tính
vị kỉ… Những nét tính cách trên là kẻ thù của hạnh phúc, thường là
những nguyên nhân dẫn tới sự rạn nứt trong mối quan hệ vợ chồng.
Có thể nói, những phẩm chất đạo đức ở mỗi người đều có ảnh
hưởng quan trọng đến hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng.
Vấn đề tình dục giữa hai người:
Đây là vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng trong cuộc
sống vợ chồng. Sự “trục trặc” trong “quan hệ tình dục” dễ làm quan
hệ vợ chồng mất hạnh phúc. Việc tạo ra tình hấp dẫn và sự hoà hợp
tình dục vợ chồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngược lại, sự
thiếu hoà hợp, thiếu hiểu biết sâu sắc về tình dục vợ chồng sẽ làm
cuộc sống chung của hai người bị tẻ nhạt, đơn điệu, dẫn đến mất
hạnh phúc dần dần… Việc xây dựng “nghệ thuật quan hệ tình dục
vợ chồng” được coi là một trong những yếu tố quan trọng của “nghệ
thuật xây dựng hạnh phúc vợ chồng”.
Cách cư xử hàng ngày đối với nhau:
Cách cư xử hàng ngày giữa hai vợ chồng bao gồm toàn bộ hệ
thống thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói, nụ cười… Đó là sự giao tiếp
vợ chồng. Cách cư xử vợ chồng thường bao gồm hai phần:
+ Thái độ đối xử với nhóm chẳng hạn như: tôn trọng, bình
đẳng, lo lắng, quan tâm đến nhau, sự tươi cười, âu yếm, chăm
sóc…
+ Những hành vi biểu hiện tương ứng với các thái độ trên: sự
hỏi han, sự vuốt ve, ôm ấp, ánh mắt, nụ cười, những hành động
thân mật, sự giúp đỡ các công việc hàng ngày…
Sự cư xử khéo léo trung thực, đằm thắm, thân mật… sẽ làm
hạnh phúc vợ chồng phát triển. Ngược lại, sự cư xử không tốt, tàn
nhẫn, vô trách nhiệm… sẽ ảnh hưởng xấu đến cuộc sống chung.
– Yếu tố đẹp trong cuộc sống vợ chồng:
Yếu tố đẹp có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạnh
phúc vợ chồng.
Đây là cái đẹp trong tâm hồn ở mỗi người, vẻ đẹp cơ thể, vẻ
đẹp trong cách ăn mặc, trong hành vi, cử chỉ, lời nói, trang trí gia
đình… Cần chú ý rằng cái đẹp là nhu cầu tinh thần tất yếu ở mỗi
người. Nghệ thuật xây dựng hạnh phúc gia đình bao gồm nhiều yếu
tố trong đó có việc xây dựng cái đẹp của cuộc sống chung.
Trình độ hiểu biết, năng lực:
Trình độ tri thức và năng lực của mỗi người cũng ảnh hưởng
đến việc xây dựng hạnh phúc vợ chồng. Sự hiểu biết và năng lực
bao gồm hai mặt chủ yếu: trình độ, kỹ năng, kiến thức khoa học
(bằng cấp) và trình độ văn hoá đời sống (văn hoá, xã hội, kinh
nghiệm sống) Trình độ hiểu biết cao, những năng lực về tổ chức,
nghề nghiệp, hoạt động của mỗi người có thể giúp cho việc nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của cuộc sống chung của gia đình.
Sự chênh lệch về trình độ hiểu biết cũng có ý nghĩa rất đặc
biệt, nhiều trường hợp, sự chênh lệch quá mức thường gây khó
khăn cho sự phát triển của hạnh phúc vợ chồng như: vợ hơn chồng,
vợ khác chồng quá nhiều…
Ở Việt Nam, “sự chênh lệch thích hợp” về trình độ có tác dụng
thuận lợi trong việc xây dựng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng
sự chênh lệch không quá xa.
– Con cái:
Những đứa con là niềm vui của hai vợ chồng, là niềm hạnh
phúc tuyệt vời của gia đình. Việc sinh con cái thuờng là nhu cầu
mạnh mẽ của cả hai vợ chồng nhất là khi vợ chồng đứng tuổi. Tuy
nhiên, yếu tố con cái do thực sự là nguồn hạnh phúc của vợ chồng
khi thoả mãn những điều kiện sau đây:
+ Là những đứa con khoẻ mạnh, thông minh, ngoan ngoãn,
học giỏi, vâng lời cha mẹ.
+ Số lượng con vừa phải, thích hợp với điều kiện về vật chất,
kinh tế gia đình, thích hợp về giới tính (trai hay gái, “có nếp có tẻ”).
+ Cha mẹ phải biết sinh nở và nuôi con khoa học, phải thống
nhất trong việc nuôi dạy con.
+ Con cái được phát triển nhân cách toàn điện, phải được “nên
người”.
Trong cuộc sống vợ chồng, cả hai người cần phải có những tri
thức, hiểu biết về việc sinh con, có khả năng sinh con, nuôi dạy con,
chăm sóc cho con trưởng thành, trở thành những người có ích cho
xã hội. Đó là một trong những tiêu chuẩn quan trọng của việc xây
dựng gia đình hạnh phúc.
– Các yếu tố xã hội:
Hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng còn bị chi phối bởi nhiều
yếu tố xã hội. Các yếu tố của cuộc sống xã hội luôn luôn tác động
đến cuộc sống vợ chồng. Có những yếu tố quan trọng và điển hình
như:
+ Cuộc sống chung của xã hội, đời sống xã hội, các quan hệ
xã hội.
+ Sự giao tiếp xã hội của hai vợ chồng, địa vị xã hội của vợ,
của chồng.
+ Gia đình họ hàng hai bên, nhất là cha mẹ, anh chị em trong
gia đình bên chồng, bên vợ, mẹ chồng nàng dâu… Đặc biệt là
trường hợp hai vợ chồng ở chung với gia đình bố mẹ.
+ Sự tác động và mối quan hệ của bạn bè hai bên, bà con lối
xóm…
+ Sự tác động “của người thứ ba” theo hai hướng “người thứ
ba” tấn công vào một trong hai vợ chồng, hoặc một trong hai người
“chạy theo” người thứ ba…
Để có hạnh phúc vợ chồng, cả hai người cần quan tâm đến
các yếu tố xã hội trên. Cần phải gắn cuộc sống gia đình riêng của
hai vợ chồng với cuộc sống chung của xã hội. Phải góp phần tham
gia vào việc xây dựng xã hội phát triển.
– Vấn đề kinh tế và nghề nghiệp của từng người:
+ Yếu tố kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống chung
của vợ chồng và trong từng thời kì của đời sống vợ chồng. Nếu đời
sống kinh tế quá khó khăn, thiếu thốn, hạnh phúc vợ chồng sẽ khó
có điều kiện phát triển thuận lợi.
+ Tuy nhiên, vai trò của yếu tố kinh tế thường chỉ có tác dụng ở
một chừng mực nhất định. Không phải giàu có mới có hạnh phúc,
hoặc nghèo nàn là hạnh phúc tan vỡ… Trong thực tế, có những
trường hợp khi vợ chồng còn nghèo, thậm chí kinh tế khó khăn
nhưng vợ chồng vẫn sống hạnh phúc. Đến khi giàu sang thì hạnh
phúc giữa hai người lại bị rạn nứt.
+ Yếu tố kinh tế thường chỉ thể hiện rõ vai trò, tác dụng mạnh
mẽ trong việc xây dựng và phát triển hạnh phúc vợ chồng khi nó
đám bảo một số điều kiện như: nghề nghiệp của vợ chồng được ổn
định, đồng tiền kiếm được bằng lao động chân chính, biết sử dụng
đúng mức đồng tiến, biết chi tiêu có kế hoạch, hợp lí…
Khả năng tổ chức cuộc sống gia đình của từng người:
Là sự hiểu biết và kĩ năng về cuộc sống vợ chồng, cách tổ
thức gia đình, kế hoạch hoá kinh tế gia đình, kế hoạch hoá sự phát
triển của gia đình và sự phát triển nhân cách của từng thành viên,
sự đảm đang, khéo léo, cách cư xử đúng mức và hợp lí, cách xây
dựng nề nếp cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái…
Cần chú ý đến việc tổ chức những hoạt động điển hình của
cuộc sống gia đình, bao gồm nhiều loại hình hoạt động như: sự giao
tiếp, trao đổi giữa các thành viên, cách nói năng, cư xử, chăm sóc
lẫn nhau, việc tổ chức sinh nhật và các ngày lễ Tết, việc tổ chức các
hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, sự hưởng thụ những giá trị
văn hoá, tinh thần (xem nghệ thuật, ti vi, đi du lịch)…
Khả năng tổ chức cuộc sống gia đình của mỗi người sẽ góp
Phần tạo nên hạnh phúc của cuộc sống chung. Nếu cả hai vợ chồng
cùng quan tâm đến việc tổ chức cuộc sống gia đình, hạnh phúc vợ
chồng sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cao.
– Một số vấn đề cần chú ý:
+ Mỗi yếu tố trên đều có ý nghĩa nhất định đến cuộc sống vợ
chồng. Trong từng thời kì, từng điều kiện, mỗi yếu tố đều có thể nổi
lên thành yếu tố quan trọng nhất và mỗi yếu tố đều có thể ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc vợ chồng.
+ Sự tác động của các yếu tố vào cuộc sống vợ chồng rất
phức tạp tinh tế. Có khi nhiều yếu tố kết hợp với nhau, tác động một
cách tổng hợp đến hạnh phúc vợ chồng, có khi chỉ một yếu tố nào
đó cũng đủ phá vỡ hạnh phúc.
c) Những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm hoặc làm tan
vỡ hạnh phúc vợ chồng
Sự suy giảm hoặc tan vỡ hạnh phúc vợ chồng có thể do nhiều
nguyên nhân phức tạp. Nó có thể do các khía cạnh không tốt của
các yếu tố chi phối cuộc sống vợ chồng và cũng có thể do những
nguyên nhân khác.
Sau đây là những nguyên nhân chủ yếu nhất:
– Động cơ hôn nhân không đúng đắn:
Ví dụ: không yêu nhau thực sự, chưa hiểu biết lẫn nhau, kết
hôn vì ép buộc, gả bán, kết hôn vì những mục đích vị kỉ, cá nhân, vì
sự tính toán không lành mạnh…
+ Việc xây dựng gia đình quá sớm, nhất là kết hôn trước tuổi
trưởng thành.
+ Sự thoái hoá của nhân cách.
Do không biết kiếm chế và rèn luyện, giáo dục nhau, những
thói hư tật xấu có thể dẫn đần phát triển hoặc xuất hiện ở mỗi
người. Những thổi hư tật xấu thường gây nhiều tác hại nhất là
nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè, ngoại tình, tính độc ác, tàn nhẫn, vị
kỉ, tham lam, sự thô lỗ thiếu tế nhị, tính nhỏ nhen, bần tiện…
Một số thói hư tật xấu khác như: tính chấp nhặt, dai dẳng, tai
quái sự vụng về, lười biếng, thích ăn diện, đua đòi, tính thiếu khiêm
tốn, bất lịch sự trước nhau, ghen tương, tranh khôn, mê tín dị đoan,
hay ăn hàng… cũng ảnh hường mạnh đến hạnh phúc gia đình.
Những thói hư tật xấu thường có liên quan với nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau, từ cái xấu này nảy sinh cái xấu khác và tất cả
những cái xấu đó phá hoại hạnh phúc gia đình.
Nhiều khi chỉ một vài thói xấu đã đủ để làm tan vỡ cuộc sống
gia đình.
Những thói hư tật xấu thường xuất hiện do sự thoái hoá của
nhân cách và càng ngày càng làm cho nhân cách con người bị thoái
hoá thêm.
– Sự thiếu hoà hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là:
+ Sự thiếu hoà hợp về cá tính (như về đạo đức, lối sống, quan
điểm sống), sự chênh lệch quá nhiều về trình độ, về tri thức và văn
hoá.
+ Sự thiếu hoà hợp về tình dục.
– Điều kiện kinh tế:
Điều kiện kinh tế thường ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống
vợ chồng trong những trường hợp sau:
+ Đời sống kinh tế quá thiếu thốn, nghèo khó.
+ Nghề nghiệp không ổn định, không chính đáng (nhất là nghề
nghiệp làm ăn bất chính).
+ Nguồn kinh tế thiếu cơ bản, bền vững.
+ Sử dụng tiến bạc không đúng mức, thiếu kế hoạch.
+ Ăn chơi hoang toàng, xa xỉ, đua đòi, không hợp với xã hội.
Tác động không tốt của môi trường sống:
+ Do “người thứ ba” hoặc bạn bè không tốt.
+ Do quan hệ hoặc tác động không tốt của gia đình lớn” (cha
mẹ chồng, anh em họ hàng hai bên…).
+ Do các tệ nạn xã hội của môi trường sống: ăn chơi trụy lạc,
cờ bạc, nhậu nhẹt, ma tuý, mại dâm…
+ Do ít giao tiếp xã hội, gia đình cách biệt với xã hội.
+ Do hai vợ chồng sống xa cách nhau quá nhiều, quá lâu mà
không chú ý đến việc giao tiếp liên lạc…
– Do ảnh hưởng xấu của vấn đề con cái:
+ Con cái quá hư hỏng, dốt nát.
+ Không thống nhất trong cách nuôi dạy con.
+ Không có con hoặc quan niệm sai lầm về con trai con gái.
– Do không biết cách khắc phục những biểu hiện bất lợi,
khó khăn dễ nảy sinh trong cuộc sống chung, như:
+ Sự nhàm chán tâm lí xuất hiện. Tính chất đẹp đẽ, hấp dẫn
trong tình yêu và trong quan hệ giữa hai người có thể giảm dần.
+ Sự nhận biết càng ngày càng rõ những nhược điểm của
nhau.
+ Sự xung đột, mâu thuẫn có thể xuất hiện.
+ Quan hệ tình dục có thể giảm dần sự hấp dẫn…
5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng
– Quá trình chung sống vợ chồng là một quá trình biến động,
có thể diễn biến phức tạp. Sự biến động ấy có thể diễn ra theo mấy
hướng sau đây:
– Biến động tốt: Vợ chồng, gia đình ngày càng hạnh phúc hơn,
yêu nhau hơn, gia đình hạnh phúc đến già.
Biến động không tốt: Cuộc sống vợ chồng, gia đình ngày càng
mất dần hạnh phúc và có thể đi đến tan vỡ. Ở các cặp vợ chồng
này, khi mới cưới là thời kì hạnh phúc nhất, yêu thương nhau mãnh
liệt nhất sau đó hạnh phúc giảm dần…
Biến động phức tạp: Cuộc sống vợ chồng biến động phức tạp
thất thường có tính chất đột biến, có thời kì hạnh phúc, có thời kì bất
hạnh, sau đó lại hạnh phúc… Tuy nhiên, hạnh phúc của các cặp vợ
chồng thuộc dạng này nhìn chung, cũng thường biến động theo
chiều hướng không tốt.
– Trong tình hình hiện nay, sự biến động của gia đình diễn tiến
theo hướng hạnh phúc giảm dần là khá phổ biến (tức là sự bên
động không tốt).
Sự biến động đó do nhiều nguyên nhân phức tạp: về tâm lí xã
hội, về kinh tế… Sự biến động do thường dẫn tới việc hạnh phúc vợ
chồng có thể bị suy giảm, cuộc sống vợ chồng có thể dần dần trở
nên tẻ nhạt đơn điệu và đi đến tan vỡ.
Sự biến động không tốt có thể làm cho cuộc sống vợ chồng
diễn biến theo những thời kì nhất định sau đây:
a) Thời kì nồng thắm
+ Là thời kì hạnh phúc nhất, đẹp đẽ nhất của cuộc sống vợ
chồng.
+ Hai người yêu nhau thắm thiết, mãnh hệt, quan hệ vợ chồng
mang tính hấp dẫn, háo hức, mới lạ. Sự yêu thương thân thiết rất
sâu sắc. Hai người luôn luôn muốn âu yếm, cưng chiều nhau. Họ
mang tâm trạng mong chờ, nhớ thương nhau tha thiết…
+ Trong cuộc sống chung vẫn có xung đột giữa hai người.
Nhưng đó là sự xung đột “dễ thương”: thường là sự hờn giận, sự
bực dọc trong thốc lát, ít khi kéo dài. Người ta giận nhau và chờ đối
phương năn nỉ để làm lành.
+ Quan hệ tình dục vợ thông thường “vô tổ chức”, đầy hấp dẫn
và mãnh liệt.
+ Thời kì này thường bắt đầu từ ngay sau khi cưới, có thể kéo
dài tới 5, 7 năm, tuỳ theo từng cặp vợ chồng. Đỉnh cao của hạnh
phúc thường từ đêm tân hôn, qua tuần trăng mật một thời gian.
+ Nếu thời kì này càng kéo dài, càng ảnh hưởng tốt đến toàn
bộ cuộc sống gia đình sau này.
b) Thời kì tình nghĩa
Là thời kì tình yêu giữa vợ chồng đã trở nên sâu sắc, thắm
thiết, tuy nhiên tính háo hức, hấp dẫn, thú vị giảm dần. Tình cảm yêu
thương đã lắng đọng, đi vào chiều sâu của tâm hồn, tạo nên tình
nghĩa vợ chồng sâu nặng. Hai vợ chồng yêu quý, tôn trọng lẫn nhau,
chăm sóc, lo lắng cho nhau, cùng đồng tâm, nhất trí trong việc xây
dựng gia đình, nuôi dạy con cái. Thời kì này thường có một số đặc
điểm dáng chú ý:
– Đã có xung đột thực sự giữa hai người: cãi vã, giận nhau vài
ba ngày hoặc lâu hơn. Tuy nhiên, đây là “xung đột nội bộ”, cả hai
người cùng không muốn để người ngoài biết, dù là người trong gia
đình. Sự xung đột thường dù ở dạng cãi nhau hoặc “chiến tranh
lạnh”, không ai chịu nói với ai trước.
– Con cái có vai trò quan trọng trong gia đình, đứa con là niềm
hạnh phúc, là cầu nối giữa hai vợ chồng.
– Yếu tố kinh tế ngày càng trở nên có vai trò quan trọng trong
gia đình. Tuy nhiên, tính ổn định, tính chính đáng, tính kế hoạch hoá
tinh tế gia đình là yếu tố cơ bản, có vai trò chú yếu trong kinh tế.
– Vấn đề “sinh hoạt vợ chồng” đã đi vào ổn định, mang tính
chu kì, tuỳ theo sức khoẻ, đặc điểm cá tính, lứa tuổi của mọi người.
Trong sinh hoạt vợ chồng yếu tố kĩ thuật trở nên cần thiết và có ý
nghĩa lớn đối với hạnh phúc vợ chồng.
Đây vẫn là thời kì hạnh phúc và ổn định của cuộc sống vợ
chồng là thời kì xây dựng và vun đắp cho gia đình phát triển.
– Thời kì này có thể kéo dài tới 10, 15 hoặc 20 năm (sau thời
kí nồng thắm). Ở những gia đình hạnh phúc, có thể kéo dài đến lúc
hai vợ chồng “đầu bạc răng long”, “trăm năm hạnh phúc”.
c) Thời kì tình yêu – trách nhiệm
– Là thời kì hạnh phúc gia đình đã suy giảm, mức độ yêu
thương giữa hai vợ chồng đã nhạt dần đi do nhiều nguyên nhân:
+ Thói hư tật xấu đã bộc lộ rõ rệt, hoặc ngày càng trầm trọng,
gây nên những khó chịu, bực dọc cho người bạn đời. Đôi khi còn
gây nên những nỗi thất vọng, buồn chán, nảy sinh hiện tượng “thần
tượng bị đổ vỡ”.
+ Sự nhàm chán tâm lí đã xuất hiện.
+ Những khó khăn phức tạp của đời sống kinh tế, xã hội…
– Tình yêu không còn mặn nồng để tạo nên hạnh phúc và duy
trì cuộc sống gia đình, không còn đủ sức để ngăn chặn các thói hư
tật xấu
Gia đình muốn còn tồn tại và ổn định phải nhờ vào những ràng
buộc khác: trách nhiệm của mỗi người, luật pháp, con cái, ý thức
đạo đức của mỗi người. Lúc này đứa con là cầu nối của hạnh phúc
gia đình. Nhiều trường hợp, chỉ vì lo cho tương lai của con cái, nghĩ
đến danh dự của gia đình, hoặc vì tinh thần trách nhiệm, lòng nhân
ái… mà người ta cố gắng hàn gắn những rạn nứt gia đình.
– Tư tưởng ngoại tình có điều kiện nảy sinh, có thể có ngoại
tình thực sự Nhưng người ta không muốn gia đình đổ vỡ: vì tương
lai con cái, vì công danh sự nghiệp, vì đạo đức, lương tâm… có khi
vì tình nghĩa sâu nặng, hay vì mặc cảm tâm lí… người ta hay cảm
hoá lẫn nhau, hi sinh tình cảm riêng để duy trì hạnh phúc vợ chồng.
– Sự xung đột vợ chồng đã khá lớn, không còn tính nội bộ
nữa. Có thể xuất hiện những trận cãi vã, đánh nhau thực sự và bà
con lối xóm “chứng kiến”, có thể giận nhau hàng tuần, hàng tháng.
Những mâu thuẫn vợ chồng có thể âm ỉ kéo dài.
– Đây là “thời kì thất thường” của cuộc sống vợ chồng. Nếu hai
vợ chồng có ý thức cảm hoá, giáo dục lẫn nhau kịp thời, có những
phẩm chất đạo đức tốt… hạnh phúc vợ chồng vẫn có thể hàn gắn,
duy trì. Nếu hai vợ chồng kém sự chịu đựng, không biết giúp đỡ
hoặc không biết tha thứ, thiếu tính cao thượng, độ lượng… đặc biệt
là không biết và không quan tâm đến việc xây dựng hạnh phúc, cuộc
sống vợ chồng có thể chuyển sang thời kì đáng ngại hơn. Đó là thời
kì trách nhiệm chịu đựng.
d) Thời kì trách nhiệm chịu đựng
– Tình yêu thương giữa hai vợ chồng hầu như không còn nữa.
Sự chung sống giữa hai bên thường chỉ còn là sự chấp nhận.
Những biểu hiện “quá quắt” của một bên làm bên kia rất bực tức,
khó chịu. Những thói hư tật xấu đã đến mức độ tệ hại, gay gắt: cờ
bạc, rượu chè suốt ngày, ích kỉ nhỏ nhen, bần tiện, tàn nhẫn, độc ác,
tham lam… Cuộc sống vợ chồng chỉ còn là sự chịu đựng…
– Xung đột vợ chồng luôn ở mức căng thẳng, nặng nề, “trận
chiến” luôn đe doạ “bùng nổ”, con cái ngơ ngác, sợ sệt… những
cuộc cãi vã xô xát đã trở nên phổ biến và mang tính quyết liệt,
không khí gia đình căng thẳng, lạnh lùng, xa lạ…
Ý muốn li dị thường xuất hiện nhưng có khi chưa thành sự thật
vì một lí do nào đó: con cái, gia tài, danh dự cá nhân, vợ chồng chấp
nhận hi sinh vì tương lai của con cái và gia đình… Ngoại tình có khi
công khai, trắng trợn.
– Cuộc sống vợ chồng chỉ là những ngày tháng chịu đựng
căng thẳng, sự giáo dục, cảm hoá có thể vẫn còn hiệu quả nhưng
rất thấp rất khó xây dựng lại hạnh phúc như xưa.
e) Thời kì đau khổ – tan vỡ
Là thời kì tồi tệ nhất của cuộc sống vợ chồng: quan hệ vợ
chồng rất căng thẳng hai người giận nhau đến mức thù hận. Họ rất
khó chịu khi ở bên nhau, thường nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói và
ác ý Những kỉ niệm đẹp xưa kia trở thành mỉa mai. Những yếu tố
ràng buộc (danh dự, con cái bây giờ không đủ hiệu lực, sự li dị là
điều không thể tránh khỏi và là sự giải thoát cho hai người. Cũng có
thể hai người không li dị, nếu họ tính toán rằng việc li dị có lợi cho
“đối phương”.
“Xung đột gia đình” lúc này mang tính chất quyết liệt “cạn tình”,
“cạn nghĩa”, có thể rất căng thẳng, không còn một chút xót thương
hoặc cũng có thể theo dạng đặc biệt: lạnh lùng, thù hận, tuy không
có trận chiến bùng nổ nhưng “không khí nặng nề”, xa lạ.
f) Một vài lưu ý:
Trên đây là 5 thời kì có thể diễn ra trong sự biến đổi của cuộc
sống vợ chồng. Sự xác định các thời kì như trên chỉ là tương đối, vì
thực chất không có giới hạn phân định rõ rệt. Đây chỉ là một trình tự
có thể có đối với một cặp vợ chồng, nếu cặp vợ chồng này không
quan tâm gì đến nhau, không chú ý tìm hiểu nhau để cùng xây dựng
hạnh phúc gia đình…
Như vậy không phải mọi gia đình đều phải trải qua cả 5 thời kì.
Những gia đình hạnh phúc, hai vợ chồng yêu thương nhau đến trọn
đời gia đình vẫn ở thời kì 2. Trái lại, có những gia đình dù 5, 7 tháng
sau khi cưới đã chuyển sang thời kì “chịu đựng” hoặc “thời kì đau
khổ tan vỡ”.
Sự li dị cũng không phải chỉ xảy ra ở thời kì 4 hay 5. Có những
trường hợp li dị đáng tiếc xảy ra ở thời kì 2 hoặc 3, do một hoặc hai
bên có sự sốc nổi, sự đam mê quá sức, hay do một thủ đoạn đáng
sợ nào đó của người ngoài. Vì thế, sau khi li dị, tình nghĩa vẫn còn,
để đôi lúc trong mỗi người vẫn trào dâng niềm hối hận, tiếc nuối…
– Sự ngoại tình cũng không nhất thiết sẽ xảy ra ở thời kì 3, 4
hay 5. Có khả tuy không ngoại tình, gia đình vẫn không có hạnh
phúc.
– Ở những cặp vợ chồng biến động phức tạp, sự biến đổi từ
thời kì này có thể không tuân theo một tự nhất định. Có thể từ thời kì
3 (có khi từ thời kì 4), quay trở lại thời kì 2 (hoặc 1), rồi lại biến động
chập chờn như cũ. Tuy nhiên, khi đã sang tới thời kì 4, nhất là thời
kì 5, khó có thể quay lại thời kì 2.
Nguyên nhân của sự biến động phức tạp này, có thể có nhiều
nhưng có một nguyên nhân đáng chú ý: “sự đột biến” trong tình yêu
vợ chồng. Có khi sống chung với nhau lâu, quan hệ giữa hai vợ
chồng đang “bình thường”, nhạt nhẽo bỗng nhiên họ phát hiện được
ở nhau “một cái gì đó” rất hấp dẫn, đặc biệt, hoặc họ hiểu sâu sắc,
tìm thấy cái tốt đẹp của nhau… do đó họ yêu nhau thắm thiết hơn
(có khi từ thời kì 3 quay trở lại thời kì 1, hoặc 2).
Vì thế, nếu hai vợ chồng quan tâm đến nhau, có ý chung sống,
có đạo đức tốt, nhất là biết cảm hoá giáo dục nhau, hi sinh vì nhau…
có thể xây dựng lại cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.
Muốn gia đình hạnh phúc lâu dài (chú ở thời kì 2 cho đến già),
cả hai vợ chồng đều phải quan tâm lo lắng đến việc xây dựng hạnh
phúc. Cuộc sống vợ chồng cần đạt những điều kiện nhất định.
6. Điều kiện chủ yếu để tạo nên cuộc sống vợ chồng hạnh phúc
lâu dài
a) Phải có động cơ hôn nhân đúng đắn: Hai người kết hôn phải
tự nguyện yêu nhau thắm thiết, có sự hiểu biết nhau cần thiết (cá
tính, hoàn cảnh gia định…) có sự cân nhắc, suy nghĩ chín chắn.
b) Hai người cần có những phẩm chất đạo đức nhất định, có
trách nhiệm, có văn hoá.
c) Nên kết hôn đúng độ tuổi đó là nam từ 25, 26 trở lên, nữ từ
21, 22 trở lên,
Có nghề nghiệp ổn định, chân chính,
Có sự chuẩn bị chu đáo cho hôn nhân tìm hiểu nhau kỹ chuẩn
bị tốt cho lễ cưới, cho cuộc sống chung lâu dài… Có ý muốn sống
chung với nhau.
d) Kết hôn đúng lúc khi thời điểm đã “chín muồi”
e) Có ý thức ngăn chặn những nguyên nhân làm tan vỡ hạnh
phúc gia đình, luôn cảnh giác, cảm hoá, giáo dục nhau kịp thời. Cần
chú ý rằng, cuộc sống vợ chồng là quá trình tìm hiểu liên tục, cảm
hoá giáo dục nhau liên tục. Đó cũng là quá trình chấp nhận, hi sinh
vì nhau và tự giáo dục, tự cải tạo mình cho phù hợp.
f) Hai người cùng nắm được những tri thức cần thiết về cuộc
sống, hôn nhân gia đình, nhất là phương hướng, biện pháp cụ thể
để xây dựng cuộc sống vợ chồng tươi trẻ, hạnh phúc.
7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày nay
Hiện nay, vấn đề giáo dục về cuộc sống gia đình cho thanh
niên, cho mọi người đang trở thành một vấn đề cần thiết. Việc giáo
dục cuộc sống gia đình chủ yếu bao gồm những nội dung sau đây:
a) Làm cho thanh niên hiểu được bản chất của cuộc sống
gia đình
Khái niệm về gia đình và cấu trúc của gia đình, khái niệm về
gia đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ, quy mô hợp lí trong sự phát
triển gia đình, những đặc điểm của đời sống gia đình, sự biến động
của gia đình, các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, nguyên
nhân làm tan vỡ gia đình… để khi đó họ có ý thức và phương
hướng đúng đắn trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
b) Làm cho thanh niên hiểu được nội dung của cuộc sống gia
đình và một loạt những vấn đề phức tạp, đa dạng như:
– Các mối quan hệ trong gia đình, quan hệ vợ chồng, quan hệ
cha mẹ và con cái…
– Trách nhiệm, vai trò của mỗi thành viên trong gia đình đối với
nhau và đối với xã hội.
– Việc tìm hiểu lẫn nhau, cảm hoá, giáo dục lẫn nhau, tự cải
biến mình để tạo nên sự hoà hợp trong cuộc sống chung.
Cư xử với nhau, với mọi người, từ đó xây dựng những mối
quan hệ tốt đẹp trong gia đình và với xã hội.
– Vấn đề sinh hoạt vợ chồng.
– Vấn đề tổ chức gia đình, xây dựng nề nếp cuộc sống gia
đình.
– Đảm bảo đời sống kinh tế gia đình.
– Sinh con, nuôi con, dạy con.
– Vấn đề phát triển nhân cảm của mỗi thành viên (đạo đức, tài
năng, sự nghiệp…).
Chức năng xã hội của gia đình.
– Xây dựng và phát triển gia đình theo hướng nâng cao chất
lượng cuộc sống và gia đình văn hoá mới.
– Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc gia đình.
c) Giáo dục cho thanh niên có ý thức trách nhiệm đối với gia
đình, đối với vợ (hoặc chồng), đối với con cái, đối với xã hội. Đặc
biệt cần hiểu được luật hôn nhân gia đình.
d) Giáo dục những tri thức và kĩ năng xây dựng gia đình hạnh
phúc, đặc biệt là cách thức xây dựng gia đình hạnh phúc.
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc có ý nghĩa rất lớn đối với xã
hội. Gia đình là một đơn vị xã hội. Gia đình hạnh phúc và phát triển
sẽ làm xã hội giàu mạnh và phát triển. Việc xây dựng gia đình hạnh
phúc và phát triển còn là ước mơ và nguyện vọng của tất cả mọi
người. Tuy nhiên, xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển lại là
một việc rất khó khăn. Trong thực tế đã có nhiều gia đình chưa hạnh
phúc.
Để có thể xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển, cần hiểu
rõ về bản chất của gia đình, quy luật của đời sống gia đình để từ đó
xác định được những phương hướng đúng đắn xây dựng gia đình
hạnh phúc và phát triển.
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí
xã hội phức tạp
a) Gia đình là kết quả và là sự phát triển của hôn nhân:
Mỗi gia đình đều có nhiều mối quan hệ tâm lí, xã hội như: vợ
chồng, cha mẹ con cái, họ hàng, bà con lối xóm, luật pháp, xã hội,
đời sống, sinh hoạt… Những mối quan hệ này chịu sự chi phối bởi
nhiều yếu tố: đặc điểm tâm lí của mỗi thành viên, tình yêu, sự hoà
hợp, thời gian chung sống, tuổi tác, kinh tế, xã hội, đạo đức, năng
lực, sức khoẻ của mỗi thành viên.
Trong các mối quan hệ của gia đình, quan hệ vợ chồng là quan
hệ cơ bản, có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng có một số đặc điểm chính sau đây:
Hai người chung sống với nhau: cùng ăn chung, ở chung, sinh
hoạt chung, cùng gặp gỡ nhau hàng ngày, cùng xây dựng cuộc sống
chung… Sự chung sống này chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tình yêu
sự hoà hợp, bởi cách cư xử, ý thức trách nhiệm, sự quan tâm đến
nhau của mỗi người…
Hai người cùng bị ràng buộc với nhau, có trách nhiệm đối với
nhau, và cùng có trách nhiệm trước xã hội và cùng phải tuân theo
luật pháp của xã hội. Hai người cùng mất đi một phần tự do của
mình.
Hai người cùng có nghĩa vụ xây dựng và phát triển gia đình,
sinh con, nuôi dạy con khôn lớn, phát triển gia đình về mọi mặt: kinh
tế, văn hoá, xã hội… nhất là về sự phát triển nhân cách của mỗi
thành viên trong gia đình.
Mối quan hệ vợ chồng là niềm vui, là hạnh phúc của cả hai
người, nhưng cũng từ đó có thể nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp
như:
Sự chung đụng lâu dài có thể dẫn đến sự va chạm, sự xung
đột (do khác biệt cá tính, do phát hiện những nhược điểm của
nhau), có thể làm nảy sinh những mâu thuẫn mới trong quá trình
sống chung…
– Sự gia tăng dần về tuổi tác làm cho sức khoẻ, độ trẻ trung,
sắc đẹp bị suy giảm dần.
– Do đặc điểm của cuộc sống chung, những rung cảm yêu
đương, thương nhớ cũng dễ giảm sút, có khi nảy sinh những va
chạm và xung đột, có thể dẫn đến hiện tượng “nhàm chán tâm lý,
“nhàm chán sinh lí”, “thần tượng đổ vỡ”…
– Nhiều vấn đề mới xuất hiện trong sự chung sống vợ chồng:
việc sinh nở và những vất vả trong việc nuôi dạy cơn, việc đảm bảo
nhu cầu cuộc sống về mặt vật chất, tinh thần hàng ngày, những mối
quan hệ xã hội, họ hàng, bạn bè… Những vấn đề đó có thể làm tăng
áp lực về nhiều mặt đối với cuộc sống của hai vợ chồng, có thể dẫn
tới những xung đột, làm nảy sinh những khó khăn, phức tạp cho
cuộc sống chung.
Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố tâm lí xã hội phức tạp khác tác
động đến cuộc sống gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.
b) Nhiều yếu tố của xã hội như: pháp luật, đạo đức, khoa
học, kĩ thuật, kinh tế, chính trị… ảnh hưởng mạnh đến gia đình, đòi
hỏi mỗi gia đình phải đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao
để phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Mỗi gia đình phải
gắn bó mật thiết với xã hội, chịu sự chi phối, tác động của xã hội về
nhiều mặt và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với xã hội. Vì vậy, mỗi
gia đình đều phụ thuộc vào xã hội, phát triển theo sự phát triển của
xã hội. Các mối quan hệ xã hội phức tạp cũng thể hiện ở các mối
quan hệ trong gia đình và làm cho các mối quan hệ trong gia đình
cũng phức tạp theo.
c) Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố của xã
hội như: luật pháp, phong tục tập quán, khoa học kỹ thuật, đạo đức
xã hội, nếp sống sinh hoạt, đặc biệt là yếu tố kinh tế và sự cạnh
tranh làm cho các giá trị xã hội có nhiều biến đổi, do đó, các giá trị
trong gia đình cũng biến đổi theo như: vai trò của đồng tiền, các giá
trị đạo đức trong gia đình, tính chất của mối quan hệ cha mẹ và con
cái sự cư xử giữa các thành viên… Khoảng cách giữa cha mẹ và
con cái dự bị gia tăng. Vấn đề giáo dục trẻ em trong gia đình ngày
càng phức tạp hơn và khó khăn hơn do ảnh hưởng của yếu tố kinh
tế, của khoa học kĩ thuật và nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp
khác.
d) Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, ăn chơi sa đoạ,
xì ke ma tuý… cũng ảnh hưởng mạnh đến gia đình, luôn cám dỗ,
quyến rũ các thành viên trong gia đình, nhất là người chồng và
người con trai, làm cho họ dễ sa ngã, dễ bị tha hoá nhân cách, có
khi trở thành kẻ phá hoại hạnh phúc gia đình, làm cho gia đình khó
có thể phát triển tốt đẹp và thuận lợi.
e) Trong thực tế, có nhiều gia đình sống chưa hạnh phúc,
tỉ lệ ly hôn ngày càng cao. Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình,
đặc biệt nạn bạo hành trong gia đình có chiều hướng gia tăng. Hiện
tượng cho hạnh phúc trong gia đình thường có nhiều biểu hiện,
nhiều mức độ khác nhằm tạo nên nhiều loại gia đình chưa có hạnh
phúc như:
Những gia đình đau khổ tan vỡ: Đó là những gia đình mà trong
đó quan hệ vợ chồng căng thẳng, thường xuyên xảy ra xung đột
nặng nề, người này đổ trách nhiệm cho người kia, hành hạ, đánh
đập tàn nhẫn người kia…
– Những gia đình hạnh phúc giả tạo: Đó là những gia đình nhìn
bề ngoài có vẻ hạnh phúc: nhà cửa đầy đủ tiện nghi, vợ chồng có
địa vị xã hội, con cái được học hành, đời sống kinh tế đầy đủ… Mọi
người tưởng lầm rằng đó là một gia đình hạnh phúc. Nhưng thực sự
bên trong là mối quan hệ căng thẳng giữa hai vợ chồng, họ chịu
đựng lẫn nhau, cố gắng che giấu những bất hạnh, những bực bội
không để người khác biết vì nhiều lí do: bảo vệ danh dự gia đình,
danh dự bản thân, hoặc để không bị ảnh hưởng đến công danh sự
nghiệp, công việc làm ăn hay vì nhiều lí do cá nhân khác. Thực tế
cuộc sống gia đình là cuộc sống căng thẳng, bực bội, là sự chịu
đựng lẫn nhau.
– Những gia đình thiếu hạnh phúc: Đó là những gia đình mà vợ
chồng có thể vẫn thương yêu nhau nhưng lại thiếu hạnh phúc vì
nhiều lí do như con cái hư hỏng, học hành dốt nát, bỏ nhà đi bụi đời
nhiễm xì ke ma tuý, bệnh hoạn, ốm đau, vợ chồng không hoà hợp,
thường xuyên cãi vã, hoặc kinh tế gia đình quá khó khăn thiếu
thốn…
Một vấn đề cần chú ý là trong những gia đình chưa hạnh phúc
trên, nỗi bất hạnh chủ yếu thường người phụ nữ phải gánh chịu. Nói
cách khác, người gây ra những nỗi bất hạnh đau khổ cho gia đình
đa số là người đàn ông, người chồng, người con trai. Đây là một
thực tế cần quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ hơn.
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
Một gia đình được gọi là hạnh phúc và phát triển thường có
những đặc điểm sau:
– Cuộc sống vợ chồng hoà hợp, tràn đầy yêu thương, các
thành viên trong gia đình quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, biết
tôn trọng nhau, cư xử lễ độ đối với nhau…
– Kinh tế gia đình đầy đủ, đảm bảo cuộc sống thuận lợi cho
mỗi thành viên, đáp ứng được những nhu cầu phù hợp và chính
đáng của mỗi thành viên, làm cho các thành viên có điều kiện phát
triển tốt đẹp về nhân cách, tài năng, công danh, sự nghiệp…
Mỗi một thành viên đều có điều kiện phát triển hài hoà nhân
cách của mình, phát triển về trình độ văn hoá, đạo đức, tài năng…
góp phần xứng đáng xây dựng đất nước, rạng danh cho gia đình.
Đặc biệt, con cái được học hành, được phát triển một cách toàn
diện, trở thành những người công dân tốt của xã hội.
– Gia đình luôn luôn gắn bó với xã hội, hoà nhập với xã hội,
thực hiện tốt luật pháp và nghĩa vụ đối với xã hội, đóng góp tích cực
vào việc xây dựng xã hội phát triển.
Gia đình luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng
cuộc sống vật chất, văn hoá, tinh thần và ngày càng phát triển hơn
và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.
Những gia đình hạnh phúc và phát triển thường là kết quả của
hôn nhân tự nguyện, được xây dựng trên cơ sở của tình yêu sâu
nặng, đằm thắm. Ngược lại, những cuộc hôn nhân vì tiền tài, địa vị
hoặc vì những mưu đồ tính toán vị kỉ nào đó đều khó có thể trở
thành một gia đình hạnh phúc.
Nếu vợ, chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình là
những người có đạo đức tốt, có văn hoá, có hiểu biết, có thiện chí
đối với nhau, thì việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển
càng có nhiều thuận lợi và càng đạt tới mức độ phát triển cao.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển là một vấn đề
khó khăn, phức tạp, không phải tự nhiên mà có. Mỗi người phải có
kiến thức, có sự hiểu biết, có trình độ và có ý thức trách nhiệm, có
đạo đức tốt, nhất là kiến thức và hiểu biết cuộc sống gia đình, tập
trung và quyết tâm xây dựng cuộc sống gia đình, mới có thể tạo nên
một gia đình hạnh phúc và phát triển.
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát
triển
Ngày nay việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển càng
có nhiều khó khăn, phức tạp. Cần phải quan tâm tới nhiều vấn đề:
a) Cần phải thay đổi những quan niệm xưa cũ, lạc hậu về
gia đình như:
– Quan niệm “chồng chúa vợ tôi” và những quan niệm bất bình
đẳng, quan niệm lạc hậu về cuộc sống gia đình.
– Quan niệm về người phụ nữ như là người lệ thuộc vào
chồng, coi công việc nội trợ gia đình là việc của người đàn bà.
Quan niệm về cuộc sống gia đình tách biệt với cuộc sống xã
hội.
– Quan niệm về cuộc sống gia đình là đơn giản, ai cũng biết,
coi số phận của gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người
đàn ông, chủ gia đình…
b) Để có một gia đình hạnh phúc, cần phải có kiến thức dầy
đủ, đúng đắn về bản chất cuộc sống gia đình, cuộc sống vợ chồng,
từ đó biết cách xây dựng gia đình.
c) Ngăn chặn một cách nghiêm khắc và kịp thời những biểu
hiện xấu trong gia đình như: bạo lực, cư xử tàn nhẫn hoặc vô trách
nhiệm đối với người vợ, hành hạ đánh đập con cái…
d) Nâng cao nhận thức và trang bị cho mọi thành viên của gia
đình những tri thức khoa học về cuộc sống gia đình (khái niệm về
gia đình hạt nhân, về quy mô vừa phải và kế hoạch hoá gia đình, về
nghệ thuật xây dựng gia đình hạnh phúc…). Tăng cường những
biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình cả về vật chất
lẫn tinh thần (nâng cao dần những tiện nghi phục vụ cho cuộc sống,
nâng cao trình độ hưởng thụ các giá trị văn hoá nghệ thuật, đổi mới
về tổ chức cuộc sống gia đình…), phấn đấu xây dựng “Gia đình văn
hoá mới”…
e) Chuẩn bị tốt cho thanh niên nam nữ khi bước vào cuộc
sống hôn nhân gia đình
– Làm cho họ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về quan hệ vợ
chồng và cuộc sống gia đình.
Có sự trân trọng và suy nghĩ chín chắn khi quyết định các vấn
đề tình yêu hôn nhân.
– Phải đảm báo được những điều kiện nhất định và cần thiết
khi kết hôn như: đúng độ tuổi, nghề nghiệp ổn định, sự trưởng thành
nhân cách, yêu thương nồng thắm…
Những tiêu chuẩn cần thiết khi lựa chọn bạn đời.
– Biết chủ động chuẩn bị những yếu tố cần thiết cho cuộc sống
hôn nhân…
f) Tăng cường việc giáo dục gia đình cho thanh niên và cho
mọi người, với những nội dung phong phú, đa dạng về đời sống gia
đình như:
– Những kiến thức về bản chất cuộc sống gia đình và quan hệ
vợ chồng, chức năng của gia đình, quy mô thích hợp của gia đình
hiện nay (số lượng con và phải), vai trò trách nhiệm người chồng,
người vợ, của con cái, nội dung của đời sống vợ chồng, các yếu tố
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, các kiến thức về dân số, giáo
dục dân số, kế hoạch hoá gia đình…
– Những kiến thức về văn hoá gia đình, về chất lượng cuộc
sống gia đình, về xây dựng cơ sở vật chất cho gia đình, trang trí nhà
cửa.
Những kiến thức khoa học về sinh lí cơ thể người, về đời sống
tình dục vợ chồng, về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, về cách giữ gìn
vẻ đẹp độ trẻ trung và các kiến thức cơ bản khác về y tế.
– Những kiến thức khoa học về sinh nở, nuôi dạy con…
– Những kiến thức về nghệ thuật xây dựng cuộc sống hạnh
phúc gia đình, đặc biệt là:
+ Nghệ thuật cư xử và chung sống vợ chồng.
+ Nghệ thuật tổ chức cuộc sống gia đình.
+ Nghệ thuật sinh nở, nuôi con.
+ Nghệ thuật quan hệ với xã hội và bà con lối xóm.
+ Nghệ thuật bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Vấn đề 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG, TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CHO HỌC
SINH PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Giáo dục dân số Gia đình và giới
tính 1991
Vấn đề giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh là
một vấn đề mới ở nước ta. Trong quá trình tiến hành thực nghiệm
cũng như trong quá trình nghiên cứu và xây dựng chương trình giáo
dục này, có nhiều vấn đề đang được các nhà nghiên cứu quan tâm:
Nên dạy những gì cho học sinh và sẽ dạy chương trình này cho học
sinh như thế nào. Từ đó có một loạt vấn đề được đặt ra:
– Trong nhiều vấn đề phong phú của nội dung giáo dục đời
sống gia đình và giới tính mà các nước đang áp dụng, chúng tạ lựa
chọn những vấn đề nào để dạy cho học sinh phổ thông Việt Nam?
Nên dạy cho học sinh từ lớp nào?
Nên dạy lồng vào trong các môn học có liên quan hay dạy
thành môn riêng.
Ban chỉ đạo đề án VIE/88/P09 Cụm các tỉnh phía Nam và
Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành một cuộc điều tra thăm dò ý
kiến của giáo viên và học sinh về những vấn đề trên, để thực hiện
có hiệu quả hơn những nhiệm vụ của đề án do Ban Chủ nhiệm đề
án Trung ương trao cho Ban Chỉ đạo đề án Cụm các tỉnh phía Nam.
Cuộc điều tra này tiến hành trong cán bộ ngành giáo dục và
giáo viên ở các tỉnh phía Nam theo 3 đợt: Đợt 1 (192 giáo viên) và
đợt 2 (169 giáo viên) điều tra trong giáo viên chưa được huấn luyện,
đợt 3 điều tra trong 137 cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên đã
được dự các lớp huấn luyện về chương trình Giáo dục đời sống gia
đình và Giới tính do Ban Chỉ đạo cụm và Ban Chỉ đạo các tỉnh tổ
chức. Đây là các giáo viên sẽ trực tiếp tham gia chỉ đạo và dạy
chương trình này ở trường phổ thông.
Các tài liệu thu được chúng tôi xử lí bằng toán thống kê, chủ
yếu là dùng Test T–Student đối với các nhóm độc lập để so sánh sự
khác biệt.
Sau đây là một số kết quả điều tra.
I. NÊN DẠY CHO HỌC SINH NHỮNG NỘI DUNG NÀO TRONG
VIỆC GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH
Đây là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm.
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đưa ra một hệ thống bài dự kiến
sẽ dạy trong chương rình Giáo dục đời sống gia đình để mọi người
lựa chọn bài nào nên dạy cho học sinh trong trường phổ thông.
1. Từ các phiếu của giáo viên, chúng tôi thu được kết quả
như sau:
– Có những bài được đa số ý kiến của giáo viên và cán bộ giáo
dục tán thành (lựa chọn) trong cả 2 đợt điều tra 1989 và 1990 (trên
65%) đó là:
+ Gia đình và đời sống gia đình.
+ Trách nhiệm làm cha mẹ.
+ Trình nhiệm làm con.
+ Quản lí gia đình.
+ Luật hôn nhân và gia đình.
+ Giới tính và sự khác biệt nam nữ.
+ Tình người.
+ Tình bạn.
+ Hôn nhân.
+ Biến đổi tâm lí và sinh lí ở tuổi dậy thì.
+ Hiện tượng kinh nguyệt.
+ Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.
Có những bài số ý kiến lựa chọn còn ít. Chúng tôi chỉ xin phân
tích về những bài này. Số liệu cụ thể được tính trong Bảng 1:
Bảng 1
Số Số
người % người %
đồng ý đồng ý
Chăm sóc bà mẹ và
27 14,06 11 6,5 +
trẻ sơ sinh.
Nhận xét:
– Kết quả nghiên cứu ở 2 đợt không có sự khác biệt có ý nghĩa
ở hầu hết các bài, tức là quan điểm của mọi người ở cả 2 đợt
nghiên cứu giống nhau. Chỉ riêng bài “Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ
sinh” ở đợt 2 thấp hơn đợt 1. Điều này cho thấy dư luận của các
giáo viên ở đây cho rằng bài này chưa cần lắm đối với học sinh.
– Những bài “Các bệnh lây lan qua đường tình dục”, “Những
vấn đề của vợ chồng trẻ”, có tỉ lệ tán thành thấp hơn cả (từ 10,06
đến 19,79%). Còn tất cả các bài khác có tỉ lệ cao hơn, nhưng tối đa
chỉ từ 32,29% đến 33,14%, điều này cho thấy:
+ Giáo viên còn e ngại khi dạy những bài này cho học sinh
+ Khi dạy các bài này, chúng ta phải thận trọng hơn.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có thể do giáo viên chưa nắm
hết nội dung cụ thể của vấn đề nên có nhiều e ngại.
2. Để tìm hiểu kĩ hơn chúng tôi tiến hành điều tra trong học
sinh:
a) Chúng tôi cũng để ta một loạt bài cho học sinh lựa chọn (chỉ
đưa những bài có nhiều ý kiến không thống nhất). Sau đây là kết
quả thu được:
Bảng 2: Sự lựa chọn của học sinh về các bài
TT Tên bài Ý
nghĩa
của
Đợt 1 Đợt 2
sự
khác
biệt
Số % Số %
người người
đồng ý đồng ý
11 Vần đề vợ chồng
22 10,57 42 11,38
trẻ
13 Vẻ đẹp và cách
98 47,11 151 51,8
làm đẹp
14 Sự cư xử trong
mối quan hệ nam 118 56,73 194 52,57
nữ
Nhận xét:
– Nhìn chung kết quả trong hai đợt điều tra, đa số cho thấy sự
lựa chọn không có sự khác biệt cố ý nghĩa, tức là kết quá tương
đương. Chỉ có 2 bài: “Tình bạn khác giới” và “Tình yêu” ở đợt điều
tra 1990 có sự khác biệt rõ rệt so với đợt I, nhưng đó là tỉ lệ lựa
chọn cao hơn.
– Một số bài có tỉ lệ lựa chọn khá cao (từ 26,6% trở lên) như
bài: “Giới tính”, “Tâm sinh lí tuổi dậy thì, “Tình bạn khác giới”, “Tình
yêu”, “Hôn nhân và đời sống gia đình”, “Vẻ đẹp và cách làm đẹp”,
“Cách cư xử trong mối quan hệ nam nữ, “Tình yêu trong tuổi học
trò”. Đó là những bài được các em quan tâm và chấp nhận.
Tuy nhiên, có một số bài, tỉ lệ lựa chọn thấp như: “Cấu tạo cơ
quan sinh dục nam nữ” (15,38 – 19,2%), “Hiện tượng kinh nguyệt”
(13,8 – 18,26%), “Vấn đề vợ chồng trẻ” (10,57 – 11,38%), “Các bệnh
đường tình dục” (16,3 – 17,3%), “Sự thụ thai” (7,6 – 9,4%), “Các
biện pháp tránh thai” (8,7 – 10,3%). Đặc biệt bài “Tình dục” chỉ có
4,8 – 5,2%.
Từ tỉ lệ thấp như vậy có thể kết luận rằng đó là những bài các
em có nhiều e ngại nhất khi học chúng.
b) Nếu kết hợp chung những bài có tỉ lệ lựa chọn thấp ở
giáo viên và học sinh, chúng tôi có bảng 3 như sau:
Bảng 3
Nhận xét:
Có những bài, tỉ lệ lựa chọn giữa giáo viên và học sinh không
có sự khác biệt có ý nghĩa, đó là các bài:
1. Cấu tạo cơ quan sinh dục.
2. Các bệnh lây lan qua đường tình dục.
3. Vấn đề vợ chồng trẻ.
Ở những bài này, tỉ lệ lựa chọn là thấp (vì chỉ từ khoảng
10,57% – 23,44%). Đây là những bài mà cả người dạy lẫn người
học còn nhiều e ngại.
– Có những bài, tỉ lệ lựa chọn giữa giáo viên và học sinh có sự
khác biệt ý nghĩa, thậm chí khác biệt rất lớn:
1. Bài hiện tượng kinh nguyện, tỉ lệ giáo viên chọn từ 67,8% –
71,3%, còn ở học sinh chỉ 13,8% 18,2%.
2. Bài sự thụ thai”, ở giáo viên là 24,44% – 30,22%, ở học sinh
chỉ có từ 7,6 – 9,4%.
3. Bài “Biện pháp tránh thai”, ở giáo viên: 32,29% – 33,14%
còn ở học sinh chỉ từ 8,7 – 10,3%.
Chúng tôi cho rằng có hiện tượng trên vì các thầy cô giáo đã
nhận thấy rõ hơn tầm quan trọng của những bài này, còn các em thì
chưa nhận thấy. Mặt khác, có thể các em nghe nói đến những hiện
tượng đó thường xấu hổ (mắc cỡ), e ngại.
– Bài “Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh”, chúng tôi chỉ hỏi trong
giáo viên và tỉ lệ lựa chọn cũng thấp: 6,5% – 14,06%.
Riêng bài về “Tình dục”, tỉ lệ lựa chọn của các em học sinh rất
thấp: 4,8 – 5,2%, chứng tỏ các em rất e ngại bài này. Đây cũng là
vấn đề rất phức tạp, còn rất nhiều e ngại khi nói đến nó.
c) Để rõ hơn chúng tôi tìm hiểu về sự e ngại của học sinh
đối với những nội dung của việc Giáo dục đời sống gia đình và giới
tính.
Sau khi giới thiệu cho học sinh các bài của chương trình Giáo
dục đời sống gia đình, chúng tôi đặt câu hỏi: nếu được học những
kiến thức trên, bạn có e ngại gì không?
Chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 4: Sự e ngại của học sinh đối với chương trinh Giáo dục
đời sống gia đình và giới tính.
Như vậy, ở cả 2 đợt điều tra, tỷ lệ học sinh e ngại là khá cao từ
71,81 đến 78,36%.
Tìm hiểu về sự e ngại của các em đối với từng bài, chúng tôi
thấy như sau:
Bảng 5. Sự e ngại của học sinh đối với từng bài:
Sự cư xử trong mối
14 30 14,42 45 12,19
quan hệ nam nữ
Từ bảng trên, căn cứ vào kết quá của 2 đợt điều tra chúng tôi
có thể rút ra những bài học học sinh có nhiều e ngại nhất như sau:
1. Tình dục: từ 93,46 – 90,38% (số lượng học sinh e ngại).
2. Biện pháp tránh thai: 76,15 – 82,2%.
3. Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ: 71,8 – 79,32%.
4. Hiện tượng kinh nguyệt: 71,8 – 75,96%.
5. Các bệnh lây lan đường tình dục: 69,9 – 77,88%.
6. Sự thụ thai: 61,79 – 71,15%.
7. Vấn đề vợ chồng trẻ: 50,48 – 53,65%.
8. Tình yêu: 32,24 – 40,86%.
Trong những bài trên, chúng tôi thấy có thể gồm 2 loại:
– Loại bài đề cập đến những vấn đề “có nhiều vấn đề phức
tạp” do quan niệm, phong tục tập quán của xã hội ta, nhiều người e
ngại khi nói đến nó:
– Loại bài có nhiều tri thức phức tạp mà học sinh chưa hiểu
hết, hoặc sự đánh giá của xã hội, của mọi người về chúng còn chưa
được thống nhất (Bài “Vấn đề vợ chồng trẻ”, “Sự thụ thai”).
3. Từ những kết quả trên có thể rút ra một sẽ kết luận về
những nội dung dạy học trong chương trình Giáo dục đời sống gia
đình và Giới tính như sau:
a) Có nhiều bài, chúng ta có thể dạy cho học sinh phổ
thông một cách bình thường. Đó là các bài:
– Gia đình, quản lí gia đình, hôn nhân…
– Trách nhiệm làm con.
– Các bài về tâm lí xã hội như giới tính, tình người tình bạn,
tâm sinh lí tuổi dậy thì…
Tác hại của việc có thai ở tuổi vị thành niên.
b) Có những bài khi dạy phải thận trọng, sao cho phù hợp
với học sinh (về phương pháp trình bày, thái độ của giáo viên, tổ
chức lớp học…).
Đó là các bài:
1. Cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ.
2. Các bệnh lây lan đường tình dục.
3. Vấn đề vợ chồng trẻ
4. Hiện tượng kinh nguyệt.
5. Sự thụ thai.
6. Biện pháp tránh thai.
7. Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh.
8. Tình yêu.
c) Riêng bài “Tình dục”, tỉ lệ chọn quá ít. Đây hình là vấn đề
còn rất nhiều phức tạp do nhận thức, quan niệm, phong tục… Theo
chúng tôi hiện nay cần chú ý lựa chọn kĩ những nội dung tri thức và
phương pháp giảng dạy phù hợp.
d) Trên đây là kết quả nghiên cứu khi các giáo viên chưa
được huấn luyện, tức là họ chưa nắm vững được nội dung tri thức
các bài. Để có thể kết luận chắc chắn, chúng tôi thấy cần phải điều
tra ý bến của giáo viên sau khi họ được huấn luyện về chương trình
Giáo dục đời sống gia đình và giới tính.
4. So sánh kết quả điều tra ở giáo viên (về sự lựa chọn nội
dung giảng dạy chương trình Giáo dục đời sống gia đình và giới tính)
trước và sau khi được huấn luyện:
Sau khi các thầy cô giáo được huấn luyện về thương trình
Giáo dục đời sống gia đình, chúng tôi đã dùng ngay các phiếu đã
điều tra trước đây để thăm dò ý kiến của họ.
Kết quả về sự lựa chọn các bài dạy trong chương trình như
sau (chúng tôi chỉ nghiên cứu những bài “có nhiều vấn đề phức tạp”
hoặc chỉ có sự thống nhất cao):
Bảng 6: So sánh sự lựa chọn của giáo viên.
Nhận xét:
– Tỉ lệ lựa chọn các bài dạy trong chương trình Giáo dục đời
sống gia đình và Giới tính của giáo viên sau khi được huấn luyện
đều cao hơn trước. Ở hầu hết các bài đều có sự khác biệt có ý
nghĩa, chứng tỏ quan điểm của giáo viên đã có biến đổi rõ rệt sau
khi huấn luyện. Kể cả hai bài “Những biện pháp tránh thai” và “Các
bệnh lây lan đường tình dục” dù sự khác biệt không nhiều, nhưng tỷ
lệ lựa chọn vẫn cao hơn trước.
Có thể giải thích hiện tượng này là: các giáo viên đã hiểu rõ
hơn về các bài và thấy tầm quan trọng của nó. Điều đó cho thấy nội
dung giáo dục đời sống gia đình và giới tính rất bổ ích và cần thiết
nên được các giáo viên và các nhà giáo dục tán thành dạy trong các
trường phổ thông.
– Cũng có thể khẳng định rằng việc giáo dục đời sống gia đình
và giới tính cho học sinh trong thời kì đầu có thể gặp nhiều khó khăn
do nhiều người thưa hiểu hết tầm quan trọng của nó. Nhưng nếu họ
được học tập hoặc có điều kiện tìm hiểu kĩ, họ sẽ thấy việc giáo dục
những tri thức này cho học sinh là cần thiết. Từ kết quả nghiên cứu
trên chúng ta có thể kết luận rằng: nếu mọi người càng hiểu rõ và
nắm vững được về Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính họ sẽ
càng tán thành và giúp đỡ việc thực hiện nội dung giáo dục này cho
học sinh. Điều đó cho ta một phương hướng quan trọng: cần tuyên
truyền sâu rộng và đầy đủ trong quần chúng nhân dân, giáo viên,
học sinh về ý nghĩa và nội dung của nội dung giáo dục mới này.
II. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VỀ MẶT TỔ CHỨC GIÁO DỤC ĐỜI
SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH
Qua việc gặp gỡ trao đổi với nhiều cán bộ, giáo viên ngành
giáo dục về giáo dục đời sống gia đình và giới tính, chúng tôi thấy về
mặt tổ chức thực hiện giáo dục chương trình này có nhiều vấn đề
làm mọi người băn khoăn:
Nên dạy lồng vào các môn học khác có liên quan hay dạy tính
ra thành từng môn?
Dạy từ lớp nào.
1. Sau đây là kết quả thu được từ các phiếu thăm đò qua 2 đợt
điều tra giáo viên
Bảng 7: Số ý kiến lựa chọn qua 2 đợt
Số Số
người % người %
đồng ý đồng ý
Số Số
người % người %
đồng ý đồng ý
Vấn đề 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÍ – XÃ HỘI CẦN CHÚ Ý KHI TIẾN HÀNH
GIÁO DỤC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH VÀ GIỚI TÍNH CHO HỌC SINH
PHỔ THÔNG
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về
Giáo dục Giới tính cho học sinh Phổ thông – 1991
Việc triển khai chương trình dạy thực nghiệm và chương trình
thí điểm về giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh các
tỉnh phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh đã được tiến hành từ năm
1989 liên tục cho đến nay (1991). Hiện nay, đa số các tỉnh trong cụm
phía Nam của đề án VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09, gồm 7 tỉnh) đã
thực hiện xong giai đoạn dạy thí điểm của năm học 1990 – 1991.
Nhìn chung, việc triển khai đã đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện chúng tôi đã phát hiện được một số vấn đề tâm lí xã
hội có thể ảnh hướng trực tiếp đến hiệu quả của đề án nói riêng,
đến việc Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính cho học sinh nói
chung. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu bước đầu những vấn đề
tâm lí xã hội đó.
Việc nghiên cứu này nằm trong chương trình Nghiên cứu điều
tra dư luận xã hội do Ban Chỉ đạo đề án P09 của Cụm các tỉnh phía
Nam và Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, nhằm mục đích nâng
cao hiệu quả và chất lượng việc thực hiện những nhiệm vụ mà Ban
Chủ nhiệm đề án P09 Trung ương giao cho Cụm các tỉnh phía Nam
và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chúng tôi đã thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu: trao
đổi, mạn đàm, hội thảo, phỏng vấn và điều tra dư luận bằng phiếu
thăm dò. Chúng tôi đã gửi phiếu điều tra đến các trường học ở
Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam và đã thu được 169
phiếu trả lời của các thầy cô giáo. Những kết quả nghiên cứu này
được so sánh với kết quả nghiên cứu năm 1989 để có cơ sở kết
luận chính xác hơn.
Các phiếu điều tra thu được xử lí bằng toán thống kê chủ yếu
gồm:
– Tính giá trị trung bình X để tìm hiểu mức độ của các ý kiến.
Tính độ lệch S để tìm hiểu độ dao động của các ý kiến.
– Việc so sánh ý kiến khác biệt của các nhóm độc lập được
tiến hành theo Test T–student so sánh tỉ lệ của các nhóm.
Kết quả nghiên cứu bao gồm nhiều vấn đề: hiện trạng về đời
sống giới tính của học sinh trung học phổ thông, những dư luận xã
hội và dư luận học sinh đối với việc Giáo dục đời sống gia đình và
Giới tính trong nhà trường…
Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung nêu lên một số vấn đề
tâm lí xã hội cần chú ý khi tiến hành Giáo dục đời sống gia đình cho
học sinh.
1. Một số quan niệm của giáo viên đối với việc Giáo dục đời
sống gia đình và Giới tính
Trước hết, chúng tôi tìm hiểu ý kiến của giáo viên về sự cần
thiết của Giáo dục đời sống gia đình và Giới tính đối với học sinh
trong tình hình hiện nay.
a) Kết quả nghiên cứu đợt năm 1990 (đợt 2) cho thấy ở
Bảng 1 như sau:
Bảng 1
Số lượng
Ý kiến đánh giá của giáo viên Tỉ lệ %
(169)
Ý
nghĩa
Đợt 1989 Đợt 1990 của sự
khác
Nội dung nhận biệt
STT
định
Số ý Số ý
kiến kiến
% %
đồng đồng
ý ý
S Ý
T nghĩa
T Đợt 1989 Đợt 1990 của sự
Khó khăn có thể khác
có biệt
Ý kiến Ý kiến
khẳng % khẳng %
định định
Vấn đề 4
VẺ ĐẸP VÀ VẤN ĐỀ LÀM ĐẸP Ở THANH NIÊM
Bài giảng về giới tính cho Thanh niên
Lớp Giáo dục giới tính Nhà Văn hoá
Thành phố Hồ Chí Minh.
I. Ý NGHĨA CỦA VẺ ĐẸP CON NGƯỜI TRONG ĐỜI SỐNG
Vẻ đẹp là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần
của mỗi con người. Ở đâu, làm việc gì, hầu như con người đều chú
ý đến cái đẹp và cách làm đẹp. Chọn một cái áo, cái nón, một thứ đồ
dùng nào đó, chúng ta đều để ý xem nó có đẹp không, nó có làm
cho mình đẹp lên không. Đi ra ngoài nhiều người thường quan tâm
đến vẻ đẹp bản thân hay nhận xét vẻ đẹp của người khác.
Hầu như ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tâm tư tình cảm,
nguyện vọng, mơ ước đến lao động, học tập… con người đều
hướng tới cái đẹp. Hầu như ở mọi người, mọi lứa tuổi, nam cũng
như nữ ai cũng có nhu cầu về cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, vươn tới cái
đẹp… Có thể nói, cái đẹp, là một trong những yếu tố cơ bản của
cuộc sống con người, của đời sống tinh thần của “tính người” của
con người.
Đánh giá con người, chúng ta chú ý đến nhiều cái đẹp của họ:
cái đẹp trong tâm hồn, trong cư xử, hành vi, cái đẹp trong ăn mặc,
trang điểm, cái đẹp bởi sự khoẻ mạnh, trẻ trung, cái đẹp trong nếp
sống, trong lao động làm việc… nhất là đối với bạn gái, người con
gái phải biết làm đẹp.
Vẻ đẹp con người, vẻ đẹp cơ thể là yếu tố quan trọng làm nảy
sinh nền văn hoá xã hội, nảy sinh những sáng tạo, những cảm hứng
âm nhạc, nghệ thuật… làm nảy sinh những tình cảm cao đẹp, tình
cảm đạo đức xã hội.
Vẻ đẹp con người có khi trở thành yếu tố đầu tiên làm nảy sinh
tình yêu nam nữ hoặc ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc vợ chồng.
Nhiều trường hợp, chỉ vì sắc đẹp, thậm chí chỉ một cặp mắt huyền,
một mái tóc mây óng ả, một má lúm đồng tiền… tình yêu đã nảy
sinh, say đắm.
Trong lao động, vẻ đẹp làm con người bớt mệt mỏi, làm tăng
hứng thú, tăng năng suất, tăng hiệu quả của lao động.
Đối với thanh niên, vẻ đẹp con người lại càng có ý nghĩa lớn
lao, ở tuổi trẻ, nhu cầu về cái đẹp, sự vươn tới cái đẹp được biểu
hiện rõ rệt trực tiếp và mãnh liệt. Vẻ dẹp con người thường được
nhiều bạn trẻ coi là yếu tố đầu tiên và quan trọng để xem xét người
khác và chính bản thân mình. Họ thường dành nhiều thời gian để
tìm hiểu vẻ đẹp của mình; họ rất chú ý làm đẹp, sáng tạo cái đẹp,
nhận thức cái đẹp, cảm thụ cái đẹp… cái đẹp như là một yếu tố hình
thành, phát triển nhân cách của thanh niên.
Có thể nói, tuổi trẻ là tuổi khát khao cái đẹp, gắn liền với cái
đẹp không thể thiếu được cái đẹp. Giáo dục thanh niên phải gắn liền
với giáo dục về cái đẹp.
Điều quan trọng là hiểu cho đúng về vẻ đẹp con người và cách
làm đẹp ở con người.
II. THẾ NÀO LÀ VẺ ĐẸP CON NGƯỜI
1. Nói đến vẻ đẹp con người, ta cần chú ý đến hai loại yếu tố
chính
a) Vẻ đẹp bên trong
Vẻ đẹp bên trong là vẻ đẹp về đạo đức, tâm hồn con người. Đó
là những phẩm chất đạo đức cao thượng, đúng đắn, phù hợp với
đạo đức xã hội như: sự trung thực, thẳng thắn, đức tính cần cù trong
lao động, chăm chỉ trong công việc, sự lễ độ, lòng nhân ái, lòng
chung thuỷ, lòng yêu nước, lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm,
hăng say trong lao động, lao động sáng tạo… Những phẩm chất này
thể hiện ra ở mọi hành vi, cử chỉ. Chúng là động cơ cao cả của
những cử chỉ, hành vi.
Vẻ đẹp bên trong là những phẩm chất đẹp đẽ của trí tuệ, của
nhận thức như: sự thông minh, linh hoạt, sự nhạy bén, sự hiểu biết
rộng, tài năng, tính văn hoá khoa học… Nó còn là những phẩm chất
tốt đẹp khác như: tình cảm sâu sắc, cảm xúc tinh tế, nhạy bén… Sự
kết hợp hài hoà của những phẩm chất trên, thường tạo ra những vẻ
đẹp đặc biệt mà ta thường nói “một tâm hồn phong phú”, “một con
người thông minh, nhạy cảm”.
Vẻ đẹp bên trong còn thể hiện qua tình bạn cao cả, tình yêu
thắm thiết, chung thuỷ, sự đối xử cao thượng… Nó còn là sự biểu
hiện một cách phù hợp, rõ nét, sâu sắc những đặc điểm giới tính
con người: “Một cô gái dịu dàng đôn hậu”, “Một chàng trai dũng
cảm, hiên ngang”…
b) Vẻ đẹp bên ngoài:
Là vẻ đẹp biểu hiện ở nhiều khía cạnh, đặc điềm ở con người
mà người khác có thể thấy trực tiếp, bao gồm:
– Những vẻ đẹp của hành vi, cử chỉ, nếp sống, dáng điệu, điệu
bộ.
Đó là vẻ đẹp của tư thế tác phong, từ cách nghiêng đầu, nghẹo
cổ cúi mình, vuốt tóc… đến cách đi lại, đứng ngồi, các động tác cầm
tay… đó là nét mặt, ánh mắt, nụ cười… Những biểu hiện trên
thường được gọi là dáng điệu con người.
Đó là lời nói với những nội dung, từ ngữ, âm điệu kèm theo:
Những lời nói dịu êm, dứt khoát, ngọt ngào, tế nhị lịch sự… (trái lại,
những lời nói sỗ sàng, trắng trợn, tục tĩu… là sự xấu xa, kém văn
hoá). Đánh giá vẻ đẹp người con gái, dân tộc ta có câu: “Nhất thanh,
nhì sắc”. Như thế ngay từ ngày xưa, người Việt Nam ta đã coi lời nói
là một yếu tố quan trọng của vẻ đẹp con người.
Đó là vẻ đẹp trong lao động hăng say, lao động sáng tạo.
Đó là nếp sống sinh hoạt lành mạnh, văn minh, là sự tổ chức
cuộc sống gọn gàng, ngăn nắp, khoa học dù trong bất kì điều kiện
nào. Đó là những hoạt động vui chơi, thể thao, ca hát sau giờ làm
việc là sự sạch sẽ nơi ăn, ở, là những bông hòa tươi mát trang điểm
nơi sinh hoạt, học hành, là cách ăn mặc lịch sự, phù hợp với điều
kiện, vóc dáng con người…
Vẻ đẹp hành vi còn là những hành động, việc làm của con
người trong những điều kiện, tình huống nhất định: sự giúp đỡ
người khác, cách xử thế văn hoá, văn minh, những cử chỉ âu yếm,
chăm sóc…
– Vẻ đẹp hình thể: Đó là sự khoẻ mạnh, cường tráng đầy sức
sống của con người, là chiều cao và kích thước hợp lí của các bộ
phận cơ thể, là sự cân đối giữa cái mũi và cái miệng, cặp mắt với
hàng mi, khuôn mặt và mái tóc… Người ta thường nói: “Đôi mắt bồ
câu cái mũi dọc dừa”… để chỉ vẻ đẹp con người. Tuy nhiên, mọi
người thường chú ý trước hết vào các yếu tố sau:
+ Thân hình nảy nở, cân đối.
+ Dáng điệu khoẻ mạnh, đầy sức sống và duyên dáng.
+ Nét mặt xinh xắn hài hoà.
+ Làn da hồng hào, mịn màng…
c) Mối quan hệ giữa các yếu tố
Vẻ đẹp bên trong và bên ngoài có quan hệ mật thiết với nhau,
vẻ đẹp bên trong thể hiện ra và chi phối vẻ đẹp bên ngoài. Nó có thể
làm tăng lên, giảm đi hoặc thay đổi ý nghĩa của vẻ đẹp bên ngoài.
Một bộ quần áo, kiểu tóc, một hành vi cử chỉ có thể làm đẹp, duyên
dáng, nhưng lại có thể trở thành lố bịch, kệch cỡm. Nguyên nhân
chủ yếu do vẻ đẹp bên trong quyết định. Qua vẻ đẹp bên ngoài, ta
lại biết được vẻ đẹp bên trong.
Sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp bên trong và bên ngoài sẽ tạo
nên vẻ đẹp toàn diện bền vững và hấp dẫn ở con người, tạo nên cái
duyên của con người.
Nhiều trường hợp, vẻ đẹp bên trong và bên ngoài có mối quan
hệ mật thiết đến nỗi, khó có thể tách bạch được, đâu là yếu tố của
vẻ đẹp bên trong, đâu là của bên ngoài. Thực chất, sự phân chia
này chỉ có ý nghĩa tương đối. Đứng trên một góc độ nhất định, một
phẩm chất, một yếu tố nào đó được coi là vẻ đẹp bên ngoài (mái tóc
đẹp, đôi mắt đẹp…) nhưng đứng trên một góc độ khác nó có thể là
vẻ đẹp bên trong. Bởi thế, hiểu được cái đẹp, đánh giá đúng đắn về
cái đẹp là vấn đế rất khó khăn, phức tạp. Muốn hiểu đầy đủ hơn về
về đẹp con người, chúng ta cần chú ý đến tính tâm lí xã hội của nó.
2. Tính tâm lí xã hội của vẻ đẹp con người
Do trình độ khác nhau, con người có nhận thức về cái đẹp
khác nhau. Cùng một kiểu ăn mặc, người này cho là đẹp, là mốt,
người khác đánh giá là vô duyên, trơ trẽn, bất lịch sự. Cùng một
hành vi cư xử có bạn trẻ tưởng là ngang tàng, độc đáo, anh hùng
mà không biết rằng mọi người đánh giá là thiếu văn hoá và vô đạo
đức, việc đánh giá về cái đẹp của con người phụ thuộc vào trình do
nhận thức của họ. Muốn làm đẹp phải biết cách làm đẹp, phải có
văn hoá và kiến thức.
Do tình cảm hoặc cảm xúc chi phối, con người cũng đánh giá
cái đẹp không thống nhất: Nếu bạn thích ai, bạn sẽ thấy người đó
cái gì cũng đẹp, hoặc bạn chỉ nhìn thấy những cái đẹp ở người đó.
Khi đang yêu say đắm, bạn sẽ thấy “người ta” thật là đẹp: mái tóc
đẹp, cặp mắt đẹp, nụ cười tươi trẻ… thậm chí tiếng… ho của người
yêu cũng dễ thương. Có trường hợp, những đặc điểm xấu được
“đẹp hoá” chiếc răng khểnh trở thành có duyên, người gầy ốm là
mảnh mai, người mập là bụ bẫm, nảy nở…
Nhưng nếu bạn ghét người đó, cách đánh giá sẽ hoàn toàn
ngược lại.
Bởi vậy, người ta thường nói: “Người đẹp nhất là người mình
yêu”.
Những yếu tố đẹp của thái độ, hành vi, những vẻ đẹp của các
bộ phận cơ thể: cặp mắt, đôi môi… chỉ là do thói quen của xã hội,
chỉ là do quy ước của con người.
Mỗi hành vi cử chỉ phù hợp với đạo đức xã hội, những cách ăn
mặc, trang điểm, kiểu đầu tóc, quần áo nếu phù hợp với mọi người,
với hoàn cảnh đều trở thành đẹp đẽ và ngược lại. Nói một cách
khác cái đẹp phụ thuộc chủ yếu vào con người và xã hội. Người Việt
Nam chúng ta cho rằng: đôi môi hồng hào hình trái tim, cặp mắt bồ
câu là đẹp, nhưng một số vùng châu Phi lại cho rằng cặp môi dày,
hoặc đôi mắt lác mới là đẹp. Vì thế, nhiều cô gái châu Phi phải kẹp
vào môi những vật nặng, kéo dài môi ra, hoặc từ bé phải tập nhìn
vào một điểm giữa mũi để mắt lác cho đẹp.
Nếu bạn mặc bộ trang phục thật đẹp, thật mốt, sang trọng đắt
tiễn để đi dự hội hay đám cưới, bạn có thể được đánh giá là đẹp.
Nhưng nếu bạn ăn mặc trang điểm như thế để đến thăm một bạn
khác nhà nghèo, phải mặc áo vá, bạn sẽ trở thành kệch cỡm, thiếu
văn hoá, thậm chí là tàn nhẫn. Trong trường hợp đó, chẳng ai khen
bạn là đẹp cả.
Có những kiểu quần áo ngoại quốc mà nếu cô gái Việt Nam
mặc đi ngoài đường sẽ có thể bị mọi người đánh giá là trơ trẽn,
thiếu đứng đắn.
Nhiều cách làm đẹp, trang điểm vào một thời kì nhất định nào
đó, được nhiều người cho là đẹp và bắt chước, nhưng ở một thời kì
khác lại là lạc hậu, không phù hợp. Có những kiểu giầy dép, đầu tóc
đồ dùng từ thế kỉ thứ XIV, XV bây giờ lại đang là hiện tượng “mốt”.
Một chàng trai ăn mặc trang điểm giống hệt một bạn gái, có khi
trở thành một trò cười cho mọi người: người ta sẽ gọi anh chàng là
“pêđê” hay ái nam ái nữ. Trong trường hợp này, vẻ đẹp phụ thuộc
vào giới tính: con người chỉ đẹp thực sự khi ăn mặc, trang điểm phù
hợp với giới của mình. Nói một cách khác, việc làm đẹp phải phù
hợp với giới tính.
Còn nhiều yếu tố tâm lí xã hội khác chi phối cái đẹp và việc làm
đẹp ở con người. Do tác động của những yếu tố này, cái đẹp mang
tính tương đối. Khi làm dẹp, chúng ta phải chú ý đến mọi người, đến
tính dân tộc, đến hoàn cảnh, điều kiện, đến giới tính và lứa tuổi…
cùng với nhiều yếu tố khác.
Tuy nhiên, vẫn có những tiêu chuẩn nhất định do xã hội đặt ra
để đánh giá vẻ đẹp con người.
Ở nhiều nơi khi chấm thi và lựa chọn hoa hậu người ta thường
dựa vào những tiểu chuẩn như:
– Chiều cao và kích thước của một số bộ phận cơ thể.
– Sự hài hoà cân đối cua một số đường nét trên mặt và cơ thể.
– Dáng điệu, cách cư xử, cách đi lại, đứng ngồi.
– Cách ăn mặc, trang điểm.
– Cách ứng xử, nói năng.
– Sự hiểu biết về đời sống xã hội…
Muốn tìm hiểu về cái đẹp hình thể và làm đẹp một cách có hiệu
quả, bạn trẻ cần biết được đầy đủ và có hệ thống những tiêu chuẩn
đó để rèn luyện.
III. VẤN ĐỀ LÀM ĐẸP Ở THANH NIÊN
1. Những nguyên tắc làm đẹp
Do bản chất của vẻ đẹp con người, đặc biệt do những yếu tố
tâm lí, xã hội của cái đẹp, việc làm đẹp phải tuân theo nhưng
nguyên tắc cơ bản sau:
– Phải có ý thức làm đẹp đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi trong đời
sống hằng ngày.
– Làm đẹp phải mang tính đạo đức, tức là phải phù hợp với
đạo đức xã hội, phải gắn liền với những phẩm chất đạo đức, đạo lí
Việt Nam như: tính trung thực, lòng nhân ái… Những hành vi đẹp,
những vẻ đẹp thực sự ở con người bao giờ cũng phải xuất phát từ
nền tảng đạo đức, động cơ đạo đức tốt đẹp. Những vẻ đẹp kiêu kì,
tàn nhẫn thường làm mọi người xa lánh. Sự cư xử giả tạo, “màu
mè” thường làm người ta khó chịu; thái độ âu yếm, chiều chuộng
của kẻ phản bội, giảo hoạt cũng làm cho người ta ghê sợ…
– Làm đẹp phải đảm bảo giới tính và cá tính. Vẻ đẹp của người
nam và người nữ có đặc điểm khác nhau. Việc làm đẹp phải tuân
theo những đặc điểm đó, nhất là những đặc điểm riêng của mỗi
người. Việc làm đẹp theo kiểu a dua, bắt chước, chạy theo mốt mù
quáng, nhiều khi không làm cho bạn đẹp hơn, mà ngược lại, làm
bạn mất đi cái đẹp tự nhiên, vốn có của bạn. Nghệ thuật làm đẹp
chính là ở chỗ, bạn biết tạo ra cái đẹp, phù hợp với đặc điểm riêng
của mình.
– Làm đẹp phải chú ý đến tính hiện đại và tính truyền thống. Là
người Việt Nam, bạn hãy làm đẹp theo kiểu Việt Nam, theo tâm lí
Việt Nam. Việc giữ gìn bản sắc dân tộc nhiều khi giúp cho ta tạo nên
những nét đẹp độc đáo: mái tóc dài Việt Nam, tà áo dài Việt Nam.
Tuy nhiên, tính thời đại và mốt cũng rất cần thiết.
Làm đẹp phải bảo đảm tính cân đối, hài hoà. Đó là sự hài hoà
cân đối giữa các bộ phận cơ thể, giữa các đường nét, màu sắc, hình
khối… muốn để kiểu tóc nào, bạn phải chú ý giữa sự cân đối giữa
kiểu tóc ấy với khuôn mặt, chiều cao… của bạn. Mặc kiểu quần áo
nào, phải chú ý đến tầm vóc cơ thể (mập, ốm…) màu sắc quần áo
phải hài hoà với màu da. Đặc biệt phải đảm bảo sự cân đối giữa vẻ
đẹp bên trong với vẻ đẹp bên ngoài.
Làm đẹp phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, phải tuỳ từng
lúc, từng nơi. Bộ quần áo mặc ở nhà đẹp nhưng ra ngoài đường lại
không hợp. Nếu đi lao động mà trang điểm chải chuốt, có khi bị chê
là ăn diện. Đi dự vũ hội, dám cưới mà ăn mặc giản dài quá có thể bị
gọi là… mắc bệnh tâm thần.
Tóm lại, việc làm đẹp trong ăn mặc luôn phải gắn liền với
nguyên tắc phù hợp và hài hoà.
– Làm đẹp, phải biết cách giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên, kết hợp với
sự sửa soạn trang điểm. Nếu bạn sử dụng quá nhiều mĩ phẩm, vẻ
đẹp tự nhiên của bạn sẽ bị ảnh hưởng tai hại. Con người vẫn thích
vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Đó là vẻ đẹp quý giá nhất.
2. Một số vấn đề làm đẹp cụ thể
a) Muốn làm đẹp, việc đầu tiên là bạn phải biết thế nào là
đẹp và cách làm đẹp
Đó là một khoa học, một nghệ thuật với nhiều tri thức phức tạp
và phong phú. Trên cơ sở nắm vững tri thức ấy bạn hãy làm đẹp
toàn diện, cả vẻ đẹp bên trong lẫn bên ngoài.
b) Làm đẹp những vẻ đẹp bên trong gắn liền với việc rèn
luyện đạo đức và trau dồi kiến thức văn hoá
Bạn hãy rèn luyện để sống đẹp theo tiêu chuẩn của đạo đức xã
hội. Bạn hãy quan tâm đến mọi người, sống nhân hậu, có trách
nhiệm, trung thực và tôn trọng mọi người… đó là những yếu tố cốt
lõi của vẻ đẹp bên trong. Bạn hãy cố gắng học tập nâng cao kiến
thức hãy tăng cường giao tiếp, để học hỏi bạn bè, mở rộng hiểu
biết. Có những kiến thức kĩ năng, tưởng chừng bình thường nhưng
lại rất có ý nghĩa đối với vẻ đẹp tâm hồn con người. Bạn đừng coi
thường những tài lẻ, như cách sửa chữa đồ điện, nghệ thuật nấu
ăn, cách làm bánh, cắm bông…
c) Làm đẹp những vẻ đẹp bên ngoài cũng rất phức tạp, đa
dạng
Trước hết là làm đẹp trong hành vi cử chỉ, tư thế tác phong.
Mỗi người đều phải giữ gìn ý tứ, tế nhị trong cư xử, lời nói, nụ
cười… Để có được nghệ thuật giao tiếp, các bạn cần luôn luôn chú
ý “học ăn, học nó học gói, học mở”. Một số bạn trẻ do hiểu lầm về
cách cư xử, nói năng, dễ bị đánh giá là điệu bộ, kiểu cách, hống
hách bêu kì, lập dị… Đó là những cái xấu trong hành vi, cử chỉ mà
mỗi bạn cần tránh.
Việc làm đẹp cơ thể cũng rất quan trọng, để có một thân hình
khoẻ mạnh, cân đối, nảy nở, một làn da đẹp mịn màng, điều trước
tiên là phải tập luyện cơ thể, đặc biệt là tập thể dục thẩm mỹ dưỡng
sinh, bơi lội, xoa bóp… Tập thể dục nhịp điệu cũng rất tốt nhưng cần
hỏi ý kiến các thầy thuốc để tập những bài phù hợp với cơ thể của
mỗi người. Chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng quan trọng đến vẻ đẹp
hình thể mà mỗi người chúng ta cần lưu ý. Cơ thể của bạn đẹp hay
không chủ yếu phụ thuộc vào sự tập luyện của mình. Bên cạnh đó,
con người còn biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ và vẻ đẹp của cơ thể.
Lao động, làm việc trong trời nắng cần mặc áo vải dày, che
mặt để bảo vệ da. Tắm rửa vệ sinh sạch sẽ để không bị nhiễm
bệnh…
Việc làm đẹp trong cách ăn mặc, sửa soạn trang điểm không
phải là điều đơn giản, dễ dàng. Nghệ thuật ăn mặc, nghệ thuật trang
điểm đòi hỏi bạn phải có nhiều tri thức khoa học và giao tiếp xã hội
rộng rãi. Trong lĩnh vực này, “mốt” có ý nghĩa rất quan trọng, mỗi
bạn trẻ cần biết và vận dụng nó.
– “Mốt” là một hiện tượng tâm lí xã hội đặc biệt, có tác dụng lôi
cuốn rất nhiều người, nhiều khi, nó như một trào lưu xã hội, ít người
thoát khỏi ảnh hưởng của nó.
Trước đây có một số người hiểu lầm về “mốt”, thành kiến với
“mốt” cho rằng cứ ai theo “mốt” là ăn chơi, ăn diện, không đứng
đắn… Quan niệm như thế là chưa đầy đủ, chưa đúng. Thực tế, có
những “mốt” hầu như ai cũng bị ảnh hưởng bởi nó. Trong một mức
độ nhất định một là văn hoá xã hội, là kiến thức mới. Xã hội càng
phát triển, càng xuất hiện nhiều “mốt” theo từng địa phương, từng
thời kì lịch sử.
Bởi vậy, không nên chống “mốt”, lên án “mốt” một cách máy
móc. Và cũng không thể chống mốt. He ghen, một nhà triết học nổi
tiếng đã nói: “Người nào chống mốt, đó là thằng khùng”. Điều quan
trọng là phải hiểu được mốt và biết vận dụng mốt một cách thích
hợp với điều kiện và bản thân.
Sai lầm chính của nhiều bạn trẻ là chạy theo mốt một cách mù
quáng. Thấy mọi người mặc áo thụng, mình cũng phải cố tìm mua
áo thụng để mặc, thấy một người để tóc “xù lông nhím”, mình cũng
lập tức “xù lông nhím”. Chạy theo mốt như thế, bạn khó có thể trở
thành đẹp. Nhiều khi nó trở nên kì quái, khó coi, vì mốt đó không
phù hợp với bạn.
Việc chạy theo “mốt” mù quáng có những tác hại cơ bản sau
đây:
+ Nếu mốt không hợp sẽ làm bạn xấu đi nhiều.
+ Có những mốt nảy sinh không lành mạnh, không phù hợp
với đạo đức truyền thống văn hoá Việt Nam lan tràn, bị xã hội lên
án. Bạn chạy theo mốt đó sẽ bị giảm giá trị nhân phẩm, hoặc sẽ bị
mọi người chê cười. Chẳng hạn những mốt đầu tóc dị dạng, kiểu
“mô đen quằn quại”… Nhiều khi, do không hiểu biết có những bạn
mặc những chiếc áo Pull (áo phông) có in dòng chữ có hại cho
người mặc như “Tôi là một con chó “ (I am a dog), “Hãy hôn em đi”
(Kiss me)…
+ Trong điều kiện hiện nay, việc đua đòi theo mốt của một số
bạn trẻ sẽ là gánh nặng cho gia đình, làm ảnh hưởng cuộc sống của
cha mẹ… Bạn ấy là người vị kỉ, dễ bị mọi người chê cười.
Bởi thế, việc theo mốt, cần chú ý mấy điểm sau đây:
* Bạn phải hiểu về mốt và ý nghĩa của nó.
* Xem mốt có phù hợp với đặc điểm riêng của mình không?
Mốt có phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp của bản thân
không?
* Tốt nhất, bạn hãy tìm hiểu dư luận xã hội đối với mốt ấy như
thế nào, trước khi vận dụng nó.
3. Việc làm đẹp của thanh niên hiện nay thường có một số
nhược điểm sau
– Nhiều bạn chỉ chú ý làm đẹp hình thức bên ngoài mà ít quan
tâm đến vẻ đẹp bên trong.
Khi làm đẹp hình thức bên ngoài, nhiều bạn chỉ chú ý làm đẹp
trong việc sửa soạn, trang điểm, ăn mặc, mốt… mà không chú ý tới
làm đẹp trong hành vi, lời nói, nụ cười, cử chỉ…
– Có nhiều bạn chạy theo mốt một cách mù quáng mà không
biết vận dụng mốt cho phù hợp với bản thân. Nhiều bạn nghĩ rằng,
việc làm đẹp đồng nghĩa với việc ăn chơi thời thượng, tiêu xài hoang
phí, đồ đạc quần áo phải là hàng hiệu, phải là vật dụng thật đắt tiền,
độc đáo, ít người có được.
– Nhiều bạn không nắm được kĩ thuật làm đẹp trong cách sửa
soạn, trang điểm, ăn mặc… Tình trạng lạm dựng mỹ phẩm, trang
điểm thiếu thẩm mĩ, ăn mặc lố lăng, không phù hợp… còn khá phổ
biến.
– Việc cảm thụ cái đẹp trong âm nhạc, nghệ thuật, thể dục thể
thao còn nhiều hạn chế, lệch lạc, phiến diện. Nhiều khi việc tập thể
dục nhịp điệu, thấm mĩ, bơi lội… chỉ có tính phô trương, hình thức,
hoặc nhằm mục đích thiếu lành mạnh.
4. Các bạn trẻ, hãy biết làm đẹp
Vẻ đẹp và làm đẹp là một trong những mục tiêu cơ bản của
cuộc sống con người. Nó là biểu hiện tập trung nhất của lí tưởng
thẩm mỹ trong nhận thức, trong thế giới quan của mỗi người. Cái
đẹp lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với lứa tuổi thanh thiếu niên,
vì bản thân lứa tuổi thanh thiếu niên là lứa tuổi đẹp nhất của đời
người.
Vẻ đẹp và làm đẹp chính là tri thức, là nếp sống văn hoá, là
ước vọng nhu cầu của mỗi người, của xã hội.
Bởi vậy các bạn trẻ hãy vươn lên tới cái đẹp, hãy tăng cường
làm đẹp và sống đẹp.
Tuy nhiên, bạn hãy chú ý rằng vẻ đẹp không phải ở những kiểu
tóc kì quái, những đồ dùng hàng hiệu đắt tiền… Bạn đừng biến mình
thành con công sặc sỡ với cách trang điểm loè loẹt. Bạn đừng trở
thành nạn nhân tội nghiệp của thời trang nước ngoài của lối sống
kiểu cách, trưng diện…
Làm đẹp trước hết là nhận thức đúng về cái đẹp và có những
cử chỉ, hành vi đẹp. Làm đẹp là tạo nên nếp sống, lối sống phù hợp
với đạo đức xã hội, là học tập để có tri thức phong phú và đúng đắn,
là lao động chân chính sáng tạo, là sự cống hiến cho con người và
xã hội.
Làm đẹp là tạo nên sự hài hoà trong ăn mặc, trang điểm, trong
việc sử dụng đồ dùng theo mốt và thời trang một cách phù hợp.
Làm đẹp là vươn tới mọi yếu tố thẩm mĩ của tự nhiên, xã hội,
của con người.
Có những yếu tố làm đẹp luôn luôn là chân lí, trường tồn với
thời gian và không gian. Đó là cái đẹp trong một tâm hồn cao cả,
trong những hành vi dũng cảm, hi sinh cho tổ quốc, cho dân tộc. Đó
là cái đẹp trong lòng nhân ái yêu thương đối với con người, trong
lao động hăng say và sáng tạo, trong những hành động giúp đỡ
người yếu đuối đang gặp khô khăn. Bạn sẽ luôn luôn nhận thấy sự
tôn vinh của xã hội về những hành động đẹp như việc giúp đỡ một
người nghèo bệnh tật, một em bé mồ côi, một cụ già ốm yếu… Bạn
sẽ thấy chân giá trị của con người, những rung cảm, hạnh phúc
trong những hành động đẹp đó.
Có những cái đẹp luôn tạo ra những cảm xúc nhẹ nhàng, thoải
mái, thu hút lòng người. Đó là một vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của cô
gái dịu dàng, thuỳ mị đằm thắm, là vẻ đẹp của tháng trai dũng cảm,
mạnh mẽ, tài năng. Mọi người sẽ phải chú ý, ngạc nhiên trước vẻ
thông minh, dáng điệu đàng hoàng, chững chạc, trước một nụ cười
tươi trẻ duyên dáng, một cử chỉ lịch sự văn minh.
Nhiều yếu tố đẹp luôn luôn làm mọi người thán phục và chiêm
ngưỡng. Đó là sự hài hoà giữa mái tóc với khuôn mặt, giữa màu sắc
son với làn da, giữa vóc dáng cơ thể với kiểu quần áo… Đó là sự
phù hợp của mốt và thời trang, giữa tính hiện đại với tình truyền
thống, giữa cách làm đẹp ở một người trong mối quan hệ với những
người khác…
Làm đẹp là tri thức và đạo đức, là khoa học và nghệ thuật.
Các bạn trẻ, hãy biết làm đẹp và sống đẹp.
Vấn đề 5
NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH
Vấn đề ra đình có ý nghĩa rất lớn đối với người phụ nữ và
người phụ nữ lại có vai trò đặc biệt quan trọng trong gia đình. Trong
đời sống tinh cảm, trong ước vọng cũng như trong nếp sống hằng
ngày, người phụ nữ luôn gắn bó với gia đình, dành trọn vẹn cho gia
đình. Tuy nhiên, việc xây dựng cuộc sống gia đình đối với người phụ
nữ lại thường gặp nhiều khó khăn, trắc trở hơn nam giới.
I. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VIỆC XÂY
DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
So với nam giới, việc xây dựng cuộc sống gia đình của người
Phụ nữ thường gặp nhiều khó khăn hơn và thiệt thòi hơn. Sự khó
khăn, thiệt thòi đó do những nguyên nhân như:
1. Do đặc điểm tâm sinh lí ở người phụ nữ
Người phụ nữ có tầm vóc nhỏ hơn nam giới, sức mạnh thể lực
thường chỉ bằng 4/5 so với nam giới. Tuy nhiên, ở người phụ nữ lại
có những thiên chức nặng nề hơn nam giới. Việc thực hiện những
thiên chức này nếu không đám bảo tính khoa học, hợp lí sẽ là
những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khoẻ, sắc đẹp và độ trẻ
trung của người phụ nữ.
Trong đời sống sinh lí cơ thể, người phụ nữ trường thành sớm
hơn nam giới nhưng cũng già đi nhanh hơn nam giới. Ở độ tuổi 45 –
55, sau thời kì hồi xuân, người phụ nữ thường bước sang tuổi già.
Trong khi đó đối với nam giới, thường vẫn còn rất khoẻ mạnh và
nhiều “xuân sắc”.
Hiện tượng kinh nguyệt hằng tháng có ý nghĩa đặc biệt, thể
hiện tình trạng sức khoẻ và khả năng sinh nở của người phụ nữ.
Nếu không đảm bảo đúng những điều kiện vệ sinh kinh nguyệt cần
thiết người phụ nữ dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, vẻ
đẹp và độ trẻ trung.
Vấn đề sinh nở đảm bảo tính khoa học, vừa là một thiên chức
cao cả vừa có tác dụng nâng cao nữ tính, vẻ đẹp của người phụ nữ.
Tuy nhiên, nếu sinh nở không đúng khoa học (quá nhiều, quá mau
hoặc không biết cách cho con bú, nuôi con khi còn nhỏ…), người
phụ nữ sẽ già nhanh, xấu nhanh, ốm yếu đi nhanh chóng. Dù là một
thiên chức cao cả, thiêng liêng, việc sinh nở vẫn là một gánh nặng
đối với người phụ nữ trong cuộc sống gia đình
Những vấn đề sinh lí trên ảnh hưởng rất nhiều đến người phụ
nữ trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Khi xấu đi, già đi, hoặc
ốm yếu đi, người phụ nữ sẽ mất đi một thứ “vũ khí mạnh mẽ” để bảo
vệ hạnh phúc gia đình của mình.
2. Do những quan niệm sai trái lạc hậu về vai trò của người phụ
nữ trong cuộc sống gia đình
Những quan niệm xưa cũ và lạc hậu cho rằng người phụ nữ
không có quyền chủ động xây dựng cuộc sống gia đình. Họ phải
tuân theo sự sắp đặt và yêu cầu của cha mẹ (cha mẹ đặt đâu con
ngồi đây). Thậm chí, hôn nhân đối với người phụ nữ có khi giống
như là một cuộc mua bán, trong đó họ trở thành một món hàng phục
vụ cho những mưa đồ riêng tư của người khác. Ngày nay, vẫn còn
có người quan niệm rằng người phụ nữ đàng hoàng, đứng đắn
không nên chủ động “tấn công” hoặc chủ động biểu lộ tình yêu đối
với nam giới.
Trong gia đình, nhiều người chồng vẫn còn muốn theo quan
niệm “tam tòng”, hoặc mang nặng tư tưởng “chồng chúa vợ tôi”, coi
thường vai trò của người vợ. Họ muốn người phụ nữ phải hầu hạ
chồng, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của chồng. Một số người
chồng kém đạo đức, kém hiểu biết còn thiếu tôn trọng vợ, thậm chí
đánh đập tàn nhẫn dã man vợ mình. Họ cho rằng họ có quyền dạy
vợ đánh đập vợ nếu làm trái ý của họ. Nạn bạo hành trong gia đình
chủ yếu do người chồng gây ra.
Những công việc nội trợ gia đình, nuôi dạy và chăm sóc con
cái thường được coi là trách nhiệm của người vợ. Nhiều ông chồng
cho rằng đó chỉ là những việc vặt không đáng kể, không phải là việc
của đàn ông.
Trong thực tế, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã xác
nhận rằng các công việc nội trợ gia đình: thu dọn, vệ sinh nhà cửa,
cơm nước, chăm sóc con cái… đã tiêu hao năng lượng, sức lực rất
lớn của người phụ nữ. Toàn bộ năng lượng tiêu hao để phục vụ cho
công việc nội trợ gia đình trong một ngày có thể tương đương với
một ngày công lao động.
Nếu người phụ nữ ngoài việc đảm trách công việc do xã hội
giao phó “là công nhân viên chức hoặc phải làm ăn sinh sống…), lại
phải chịu toàn bộ gánh nặng của công việc nội trợ gia đình, sẽ bị
ảnh hưởng nặng nề về mặt sức khoẻ, và không còn thời gian để có
điều kiện rèn luyện và phát triển nhân cách, tài năng: Chính những
công việc nội trợ gia đình quá vất vả nặng nề ở người phụ nữ trong
khi họ còn phải làm việc ở cơ quan Nhà nước hoặc lo bươn chải
kiếm sống là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho họ già
đi, xấu đi và ốm yếu nhanh hơn.
Trong xã hội, vẫn còn có nhiều người đánh giá quá khắt khe,
quá nặng nề về người phụ nữ trong tình yêu và xây dựng cuộc sống
gia đình. Họ đòi hỏi rất cao ở người phụ nữ về tính “đứng đắn”, tính
“nghiêm túc”, tính “chung thuỷ”, tính “nề nếp” trong sinh hoạt… Nếu
mắc một chút thiếu sót nào, người phụ nữ sẽ bị lên án nghiêm khắc
hơn rất nhiều so với nam giới.
Do quan niệm không được chủ động trong tình yêu và hôn
nhân, người phụ nữ phải “giữ giá”, phải chờ đợi người đàn ông nào
đó đến với mình, nhiều chị thường gặp khó khăn trong việc xây
dựng gia đình, có chị đến tuổi già vẫn chưa tìm được một người
chồng, một người yêu mong đợi.
3. Do sự phức tạp trong đời sống xã hội hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền ngày một gia
tăng, nhiều người phụ nữ phải hi sinh bản thân mình để giải quyết
vấn đề sinh kế cho gia đình. Họ phải làm việc ngày đêm để kiếm
sống, phải chăm lo công việc gia đình mà không có điều kiện hưởng
thụ hay rèn luyện học tập để phát triển nhân cách. Đời sống kinh tế
xã hội hiện nay đang nâng cao và phát triển mạnh, nhưng những
tiêu cực những tệ nạn xã hội cũng có chiều hướng gia tăng và ảnh
hưởng mạnh đến cuộc sống của mỗi gia đình.
Do đặc điểm tâm sinh lí, người đàn ông thường dễ mắc những
thiếu sót trong đời sống hôn nhân. Họ dễ bị sa ngã cám dỗ bởi sinh
hoạt vật chất, sắc đẹp. Những tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, xì
ke, ma tuý, chơi bời trác táng thường lôi kéo quyến rũ người chồng,
người con, gây ảnh hưởng nặng nề căng thẳng cho gia đình, là một
trong những nguyên nhân chủ yếu phá hoại hạnh phúc, làm cho gia
đình đổ vỡ. Trong những trường hợp ấy người phụ nữ chính là
người phải gánh chịu những bất hạnh.
4. Do tính phức tạp của cuộc sống gia đình
Bản thân gia đình có nhiều mối quan hệ phức tạp và đa dạng.
Trong cuộc sống chung của vợ chồng có rất nhiều vấn đề khó khăn
nảy sinh: sự xung đột vợ chồng, quy luật biến động của đời sống gia
đình, sự nhàm chán tâm lí, sinh lí, sự vất vả trong việc sinh nở và
nuôi dạy con cái, những tác động phức tạp của xã hội, bạn bè… có
thể dẫn đến sự suy giảm hạnh phúc. Nếu không biết cách giải quyết
phù hợp, không biết cách xây dựng hạnh phúc gia đình, người phụ
nữ dễ bị trở thành người gánh chịu những đau khổ, những bất hạnh.
5. Do một số nhược điểm, hạn chế của chính bản thân người
phụ nữ
Trong đời sống xã hội, nhiều người phụ nữ còn bị hạn chế về
trình độ văn hoá xã hội. Với tính khiêm tốn nhiều khi đến mức tự ti,
tính nhút nhát tính an phận, một số chị không mạnh dạn, không dám
đấu tranh với những sai trái của chồng con.
Một số chị thiếu tự tin, chưa quan tâm nhiều đến việc học tập,
nghiên cứu… do đó, trình độ hiểu biết những kiến thức về văn hoá,
xã hội, đặc biệt là những kiến thức về đời sống gia đình, về thời sự
chính trị còn thấp. Việc tham gia những hoạt động xã hội, kể cả hoạt
động của Hội Phụ nữ, một tổ chức thực sự bảo vệ quyền lợi cho
người phụ nữ, còn ít. Chính sự hạn chế này làm cho người phụ nữ
khó hiểu biết và hoà hợp với người chồng, khó có điều kiện chủ
động giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Ngoài ra còn khá nhiều những lí do khám quan và chủ quan
khác làm cho người phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng
cuộc sống gia đình.
II. NGƯỜI PHỤ NỮ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC
GIA ĐÌNH
Hạnh phúc gia đình là ước mơ là nguyện vọng của mọi người.
Nhưng hạnh phúc gia đình không tự nhiên mà có, và xây dựng cuộc
sống hạnh phúc gia đình không phải là việc dễ dàng. Mỗi người
chúng ta cần phải chủ động và biết cách xây dựng, giữ gìn, bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Trong tình hình xã hội hiện nay, người phụ nữ
cần đặc biệt quan tâm đến những vấn đề sau đây:
Cần phải có những quan niệm mới hơn và đúng hơn về cuộc
sống gia đình. Người phụ nữ cần phải xem cuộc sống gia đình là
một bộ phận của đời sống xã hội, phải chủ động hoà nhập cuộc
sống gia đình của mình với đời sống xã hội. Phải tăng cường việc
tham gia hoạt động xã hội thông qua việc tham gia những hoạt động
của Hội Phụ nữ, của tổ chức Công đoàn (hoạt động nữ công), hoặc
của Đoàn Thanh niên Cộng sản… Đó là những tổ chức chăm lo trực
tiếp và thực sự cho quyền lợi của người phụ nữ.
Người phụ nữ phải quan tâm tiếp cận với những thông tin mới
qua việc đọc báo chí, xem truyền hình hay nghe đài phát thanh, nhất
là những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
những vấn đề về tình hình thời sự, chính trị nổi bật ở trong nước và
trên thế giới.
+ Cần phải mạnh dạn và tự tin, tăng cường việc học tập nâng
cao trình độ tri thức và trí tuệ. Phải tăng cường việc giao tiếp xã hội,
tạo sự hoà hợp với chồng con trong đời sống văn hoá xã hội.
+ Cần chủ động trong việc giải quyết các công việc của gia
đình, mạnh dạn dấu tranh một cách hợp lí với những sai trái của
chồng con, hay của các thành viên khác trong gia đình.
Cần thay đổi cách tiết kiệm trong chi tiêu mua sắm, mạnh dạn
tăng cường trang bị những thiết bị tiện nghi cần thiết và tối thiểu
trong gia đình (ti vi, tủ lạnh, bếp gas, máy giặt…) để giảm bớt gánh
nặng vất vả của công việc nội trợ, phục vụ cho cuộc sống chung.
– Chú ý nhiều hơn đến việc giữ gìn bảo vệ sức khoẻ, độ trẻ
trung sắc đẹp như: tập luyện thể dục thể thao, trang điểm, sử dụng
mỹ phẩm và ăn mặc hợp lí… Việc làm đẹp ở đây là vẻ đẹp toàn
diện, từ vẻ đẹp tâm hồn đến vẻ đẹp hình thức. Đối với chồng con,
cần quan tâm tạo vẻ đẹp từ nét mặt tươi tắn đến dáng vẻ dịu dàng,
từ cách ăn mặc trang điểm đến cách nói năng cư xử…
Cần chú ý nhiều đến việc cải tiến tổ chức cuộc sống gia đình,
sắp xếp thời gian hợp lí cho các công việc, có lúc nghỉ ngơi, vui chơi
giải trí, có lúc xem phim ảnh, truyền hình, có những hoạt động tổ
chức kĩ niệm giỗ, tết, du lịch, có những giờ phút tâm tình với chồng
con có sự phân công hợp lí công việc và trách nhiệm cho mỗi thành
viên trong gia đình…
Cần có những hiểu biết đầy đủ và khoa học về cuộc sống gia
đình đặc biệt là nghệ thuật cư xử trong quan hệ vợ chồng, nghệ
thuật tổ thức cuộc sống gia đình, nghệ thuật sinh nở và nuôi con,
nghệ thuật quan hệ giữa gia đình với xã hội, nghệ thuật bảo vệ hạnh
phúc gia đình. Cần lưu ý rằng người đàn ông dù to lớn khoẻ mạnh
đến đâu vẫn muốn trở thành bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của vợ
mình. Không một người chồng nào lại muốn có một người vợ lúc
nào cũng “sẵn sàng tranh luận”, “nói năng gay gắt” và “chiến đấu
dũng cảm” với mình.
Nghệ thuật cư xử trong gia đình bao gồm rất nhiều yếu tố, từ
cách nói năng đến nét mặt nụ cười, từ cách khen, chê đến những
hành vi đối xử, từ sự quan tâm chăm sóc đến những cử chỉ đằm
thắm yêu thương…
Vấn đề 6
SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tạp chí Nghiên cứu Con người số 3, 2003
Ngày nay, ở nước ta, cùng với các yếu tố kinh tế, văn hoá, yếu
tố con người được coi là những yếu tố hàng đầu để phát triển xã
hội, phát triển đất nước. Nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng,
muốn phát triển xã hội, phát triển đất nước, cần phải phát triển kinh
tế, phát triển văn hoá. Điếu đó có nghĩa là phải phát triển con người,
vì các vấn đế kinh tế, văn hoá luôn gắn bó mật thiết với các vấn đề
con người. Văn hoá là sản phẩm của con người.
Giáo sư Viện sĩ Nguyên Duy Quý khẳng định: “Trong sự phát
triển xã hội, với bất cứ giải pháp nào, chúng ta cũng phải lấy con
người, các quan hệ của con người trình độ phát triển con người làm
nền tảng”. “Muốn đất nước và xã hội phát triển được, con người
phải có sức khoẻ, có học vấn, có cấu trúc thể chất và tinh thần hài
hoà”. “Con người phải được sống hạnh phúc trong gia đình và tổ
quốc của mình”. Con người phải được chăm sóc tốt, phải được giáo
dục tốt, nhờ đó tiềm năng của con người mới được phát triển để
“thực sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội”.
Như vậy muốn đất nước phát triển, con người phải được phát
triển. Để giúp cho con người được phát triển mạnh mẽ, có khả năng
đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội, chúng ta cần phải hiểu
sâu sắc và đúng đắn về con người.
Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc, “Khái niệm người, con
người hết sức phức tạp… có khi người ta gọi con người là một hệ
thống tích hợp mang cả đặc điểm của vũ trụ, giới sinh học, xã hội
tâm lý chứa đựng tất cả các hình thức phản ánh: cơ, sinh, xã hội,
tâm lý còn cấu trúc người nói chung, cấu trúc nhân cách, cấu trúc
tâm lý nói riêng bao gồm nhiều yếu tố đan xen: tinh thần và vật chất,
tâm linh và thể xác, nhân cách và sinh thể, lí tưởng và hiện thực,
động cơ và hành vi…”. Vì vậy hiểu đầy đủ toàn diện về con người là
một vấn đề rất khó khăn, cần có những quá trình nghiên cứu công
phu và đúng hướng.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề quan trọng là phải tập trung
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực để vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá”. Phải làm cho con người có đủ khả năng đáp ứng
được những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, tham gia tích cực và hiệu quả vào việc xây dựng đất
nước. Để làm được điều đó, phải tăng cường giáo dục và phát triển
con người về mọi mặt: đạo đức, tư tưởng, trình độ văn hoá và khoa
học kĩ thuật, năng lực chuyên môn, đặc điểm thể chất… trong đó, có
một mặt trước đây chưa được quan tâm nhiều, đó là đời sống giới
tính.
Trong sự tồn tại và phát triển của con người, đời sống giới tính
có vai trò đặc biệt quan trọng.
Trước hết, mọi người đều thấy rằng, một người có giới tính rõ
rệt và bình thường sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi. Những đặc
điểm sinh lí, tâm lí giới tính đó giúp con người có sự phát triển cơ
thể hài hoà, khoẻ mạnh, có sự cân đối giữa thể chất và tinh thần, có
sự tự tin trong cuộc sống… Nhờ đó, con người mới có điều kiện
phát triển toàn diện, có khả năng lao động sáng tạo, có cuộc sống
gia đình hạnh phúc, sinh con khoẻ mạnh, góp phần xây dựng và
phát triển xã hội. Ngược lại, những người có giới tính không bình
thường dễ gặp khó khăn trong sinh hoạt, trong cuộc sống. Xã hội ta
chưa chấp nhận những người con trai mà đi lại uốn éo, phấn son loè
loẹt cũng như người con gái hưng tợn ngổ ngáo, nói cười oang
oang… Những người bệnh hoạn về giới tính khó có thể phát triển
toàn diện hay có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
– Nhiều đặc điểm giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp
đến sự hình thành và phát triển nhân cách, có khi cũng chính là đặc
điểm nhân cách.
Theo cách đánh giá chung của nhiều người, một con người
toàn diện, có văn hoá, có đạo đức, phải là người có những đặc điểm
mang bản sắc riêng của giới: người con trai phải đàng hoàng, mạnh
mẽ, lịch sự, cường tráng… Những người con gái phải dịu dàng, thuỳ
mị, uyển chuyển, khéo léo… Các bậc cha mẹ luôn luôn đòi hỏi
người con gái phải đi lại nhẹ nhàng, đứng ngồi kín đáo… người con
trai cần nói năng rõ ràng, tính cách cao thượng, dũng cảm, sẵn sàng
hi sinh cho Tổ quốc. Đó là những phẩm chất giới tính tốt đẹp của
con người, của truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước phát triển, tiến tới công
nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta không đòi hỏi người nam, người
nữ quá khắt khe như xưa, nhưng nhiều phẩm chất tốt đẹp của giới
tính theo truyền thống Việt Nam, vẫn là những đòi hỏi của xã hội đối
với con người, trở thành những phẩm chất, những yếu tố đẹp đẽ
trong văn hoá dân tộc. Đó là những yếu tố của đạo đức giới tính.
Những phẩm chất giới tính tốt đẹp trên, đồng thời cũng là những
phẩm chất của nhân cách, góp phần tạo nên nền tảng đạo đức của
nhân cách con người Việt Nam.
Như vậy, sự hình thành, phát triển những phẩm chất giới tính
tốt đẹp góp phần cho nhân cách phát triển, cho con người phát triển.
Ngược lại, những đặc điểm tiêu cực của giới tính lại có thể làm suy
thoái đạo đức làm tha hoá nhân cách.
Khi con người không được giáo dục đầy đủ, kém hiểu biết về
giới tính, những đặc điểm đó, nhất là một số bản năng, dễ đưa họ
vào các tệ nạn xã hội, ăn chơi sa đoạ, cờ bạc, mại dâm… từ đó sa
vào vòng tội lỗi, trở thành những phần tử phá hoại xã hội.
Sự kém hiểu biết trong quan hệ giới tính cũng dễ dẫn tới
những hành vi cử chỉ thiếu văn hoá, vi phạm đạo đức xã hội. Một số
thanh niên do nhận thức về giao tiếp nam nữ yếu kém hoặc sai lầm,
dễ có hành vi cư xử với bạn khác giới một cách suồng sã, sàm sỡ,
thô bạo. Họ thường nói năng thô tục, ăn mặc lố lăng, bất lịch sự nơi
công cộng, phá rối trật tự kỉ cương xã hội.
Có trường hợp, do nhận thức về giới tính yếu kém, một số ít
cán bộ, mặc dù có động cơ tốt nhưng lại mắc sai lầm trong giáo dục
con người: tổ chức những sinh hoạt, những trò chơi xô bồ, lộn xộn,
cho từng cặp nam nữ cõng nhau chạy thi, ngồi lên vai nhau để đập
vỡ chiếc niêu đất treo trên cao; cô mẫu giáo trang điểm phấn son
cho các em trai giống như các em gái; trong lớp học các em nữ sinh
trung học phổ thông lớp 10 – 12 (khoảng 16 – 18 tuổi) trong tà áo
dài trắng mỏng manh, ngồi ngay trước mặt hoặc sát bên cạnh các
bạn trai đồng lứa tuổi… Đó là những sai lầm vô tình, nhưng cũng có
thể dẫn đến những hậu quả tai hại khó lường, ảnh hưởng đến sự
phát triển con người, phát triển xã hội.
Ngày nay, nhiều nhà giáo dục, nhiều bậc phụ huynh đang rất lo
ngại tình trạng một bộ phận thanh niên có những biểu hiện xấu trong
sinh hoạt, trong tình yêu như: yêu đương quá sớm, yêu đương mù
quáng, nếp sống sinh hoạt nam nữ trụy lạc… Một số em yêu theo
kiểu tình yêu tự do, tình yêu không cần hôn nhân, sống gấp, sống
thử… Những biểu hiện trên đây là kết quả của sự nhận thức sai lầm
về tình yêu, một lĩnh vực tình cảm rất phức tạp, nhưng cũng hết sức
quan trọng của đời sống giới tính con người, trong tuổi trẻ. Có em
bó cả học hành, ăn chơi trác táng, ôm nhau trong những điệu nhảy
điên cuồng, thâu đêm suốt sáng do tác dụng của các loại thuốc kích
thích. Những kiểu ăn chơi này làm cho các em dần dần đi đến bại
hoại thanh danh, tha hoá nhân cách và bước vào vòng tội lỗi…
Một số khá đông các em hiện nay theo quan niệm tình dục tự
do, tình dục không cần hôn nhân, yêu đương quá sớm… dẫn tới
tình trạng quan hệ lang chạ, có thai ngoài ý muốn, mắc nhiễm các
bệnh lây lan qua đường tình dục, nạo phá thai bị biến chứng… Tình
trạng nạo phá thai ngày nay càng gia tăng trong lớp trẻ và gây nhiều
hậu quả tai hại.
Còn nhiều những biểu hiện phức tạp khác trong đời sống gia
đình như: cuộc sống vợ chồng thiếu hạnh phúc, tỉ lệ li hôn ngày một
gia tăng, bạo hành trong gia đình… Đó cũng là những vấn đề của
đời sống giới tính, nếu con người không được hướng dẫn, tìm hiểu,
họ sẽ mắc những sai lầm đáng tiếc, khó có thể cứu vãn trong đời
sống hôn nhân.
Những biểu hiện phức tạp trên gây nhiều khó khăn cho cuộc
sống con người, làm cho họ khó có thể có cuộc sống hạnh phúc và
phát triển toàn diện, mà nguyên nhân chủ yếu chính là sự thiếu hiểu
biết về đời sống giới tính.
Vì vậy, để có sự phát triển con người mạnh mẽ, bên cạnh các
nội dung giáo dục đạo đức, tư tưởng, năng lực… cần chú ý tăng
cường giáo dục giới tính. Cần thực hiện nội dung giáo dục giới tính
một cách toàn diện đầy đủ và hợp lí.
Trong điều tra nghiên cứu của chúng tôi và của nhiều tác giả
khác giáo dục giới tính vẫn chưa được quan tâm đầy đủ và thực
hiện nghiêm tức ở trường học. Nhiều nơi nội dung này vẫn bị cắt
xén một cách tuỳ tiện. Những kiến thức về giới tính trong thanh niên
học sinh, sinh viên chủ yếu được họ nhận thức bằng con đường tự
đọc sách, rút kinh nghiệm, thông qua bạn bè và nếp sống sinh hoạt
hằng ngày. Điều đó có phần đáng ngại vì những kinh nghiệm
thường khó có thể đúng đắn, khoa học. Mặt khác, trong thị trường
sách báo hiện nay, những sách báo về giới tính rất phức tạp. Những
sách khoa học và phản khoa học đang “thực giả lẫn lộn”. Có những
cuốn sách núp dưới chiêu bài giáo dục giới tính, nhưng thực chất là
kích thích thị hiếu sai lệch, tính tò mò của thanh niên, chạy theo mục
đích kinh doanh.
Một thực tế trong hoạt động giáo dục và tuyên truyền hiện nay
về lĩnh vực giới tính là, đang có hiện tượng quá tập trung, quá nặng
về sinh lí giới tính (giáo dục sức khoẻ sinh sản, bệnh lí giới tính, giáo
dục tình dục…), mà ít chú ý đến giáo dục toàn diện về giới tính, giáo
dục những thái độ, phẩm chất đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính,
quan hệ giới tính, sự cư xử giữa nam và nữ… Hiện tượng đó có thể
gây ra những hậu quả như:
Dẫn đến sự nhận thức phiến diện trong mọi người về đời sống
giới tính. Có thể mọi người cho rằng giới tính thì là những đặc điểm
sinh lí cơ thể, quan hệ tình dục, sự sinh nở…
– Dẫn đến những tác dụng phản diện trong giáo dục giới tính,
thậm chí có thể có những người lạm dụng giáo dục giới tính để chạy
theo mục đích kinh doanh không lành mạnh (xuất bản những sách
báo kích thích những thị hiếu thấp hèn của con người).
– Việc nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính bị hạn thế,
nhất là trong tình hình xã hội ta hiện nay, những quan niệm về giới
tính và giáo dục giới tính rất phức tạp chưa có sự thống nhất, có
những quan niệm còn trái ngược nhau.
Để khắc phục những hậu quả trên, cần tập trung nghiên cứu
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về giới tính, đặc biệt là các ngành Giới tính
học, Tâm lí học giới tính, Xã hội học giới tính. Cần tổ chức những
hội nghị khoa học để tạo nên sự thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu về các khái niệm cơ bản của đời sống giới tính, giáo dục giới
tính cần thực hiện nghiêm túc chương trình, nội dung giáo dục giới
tính trong nhà trường, trong xã hội.
Tổng quát hơn, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giới tính
và giáo dục giới tính trong đời sống con người. Phải coi việc nghiên
cứu giới tính và giáo dục giới tính là một nội dung quan trọng trong
nghiên cứu con người, trong việc phát triển con người.
Có thể nói rằng, vấn đề phát triển con người gắn bó mật thiết
với vấn đề giới tính và giáo dục giới tính cho con người. Nói cách
khác nghiên cứu về giới tính và thực hiện giáo dục giới tính là điều
kiện quan trọng để phát triển con người toàn diện, tạo nên nguồn
nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vấn đề 7
MỘT SỐ BIỂU HIỆN SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU
CỦA THANH NIÊN, HỌC SINH HIỆN NAY
Tình yêu là một vấn đề quan trọng của cuộc đời con người.
Thường thường, một tình cảm đẹp đẽ, tất yếu xuất hiện ở con
người, ảnh hường mạnh mẽ đến cuộc sống của họ. Đã từ ngàn xưa,
tình yêu được coi là một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp mang lại ý
nghĩa lớn lao cho cuộc sống của con người.
Tuy nhiên, trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đặc biệt là trong
nền kinh tế thị trường, vấn đề tình yêu trở nên phức tạp trong xã hội.
Đã xuất hiện nhiều biểu hiện lệch lạc trong yêu đương không những
làm mất đi sự trong sáng, thiêng liêng, cao đẹp, vốn có của tình yêu
mà còn gây nhiều hậu quá tai hại cho con người, cho xã hội, và nhất
là cho những bạn trẻ đang yêu.
Nhiều biểu hiện lệch lạc ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học
tập sinh hoạt và cuộc sống của thanh thiếu niên mới lớn, nhất là
trong thanh niên, học sinh. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu
của chúng tôi về những biểu hiện sai lệch trong tình yêu của thanh
niên hiện nay.
I. MỘT SỐ BIỂU HIỆN SAI LỆCH TRONG TÌNH YÊU CỦA THANH
NIÊN, HỌC SINH HIỆN NAY
1. Quan hệ nam nữ quá thân mật, suồng sã
Những bạn trẻ này luôn cặp kè bên nhau, lợi dụng những buổi
sinh hoạt đi chơi có những hành vi cư xử thiếu nghiêm túc, mang
tính lợi dụng, vui đùa quá trớn, sinh hoạt quá tự nhiệm bạn không ra
bạn, yêu chẳng ra yêu. Họ lợi dụng lẫn nhau, cặp với nhau một thời
gian rồi chán. Quan hệ của họ thường nhanh chóng chấm dứt.
2. Yêu đương quá sớm
Những công trình nghiên cứu của chúng tôi đều rút ra kết luận
là các bạn trẻ quan tâm đến tình yêu và bước vào yêu đương quá
sớm, từ 15, 16 tuổi thậm chí ngay từ khi mới 13, 14 tuổi. Tuy còn ít
tuổi nhưng ở họ đã có đầy đủ những biểu hiện, những hành vi yêu
đương “như của người lớn”, gây ra những hậu quả nghiêm trọng,
thậm chí có những em gái 13, 14 tuổi đã phải đi nạo phá thai.
3. Yêu theo phong trào
Các bạn trẻ yêu nhau nhưng không xuất phát từ những rung
cảm yêu thương thực sự, không xuất phát từ sự rung động chân
thành của con tim. Họ thấy bạn có người yêu thì cũng phải nhanh
chóng tìm kiếm một người yêu cho khỏi thua kém bạn bè, để có cặp
có đôi cùng đi chơi với các cặp khác cho vui. Kết quả là có lớp học,
hầu hết học sinh đều có người yêu.
4. Yêu vô trách nhiệm
Những bạn trẻ này chỉ háo hức ban đầu trong những ngày mới
yêu nhau. Chỉ một thời gian ngắn, khi đã nếm đủ “mùi”, thậm chí khi
“con ong đã tỏ đường đi lối về” họ bắt đầu chán nhau, bỏ rơi nhau.
Dẫn đến tình trạng một bên còn say đắm, nặng tình, bên kia đã thờ
ơ, vô trách nhiệm, bỏ mặc người yêu đang chờ đợi, đau khổ để chạy
theo những thú vui mới khác. Đặc biệt, người con trai thường “cao
chạy xa bay” khi biết người yêu có bầu.
5. Yêu chung chung, chỉ biết hiện tại mà không nghĩ đến tương
lai
Nhiều cặp yêu dương chỉ nghĩ đến quan hệ hiện tại: đi chơi, âu
yếm và vui sống bên nhau theo những thời điểm. Họ yêu để mà
“yêu” không hề nghĩ đến tương lai sẽ như thế náo, hậu quả ra sao
và càng không hề nghĩ đến hôn nhân.
6. Yêu ngộ nhận, yêu chỉ để thoả mãn tình dục
Những cặp này yêu đương rất nhanh, mới gặp đã rủ đi chơi,
và có những biểu hiện yêu đương. Họ lầm tưởng rằng họ đã yêu
nhau. Nhưng chỉ mới đi chơi với nhau một số lần là đã chán.
Sự ngộ nhận này có nhiều biểu hiện:
Họ tưởng rằng mình đã yêu đối tượng, nhưng thực tế chỉ là
cảm giác “thích” ban đầu, chỉ là cảm xúc chợt đến, nhất thời.
– Họ tưởng người yêu có những đặc điểm đáng yêu, nhưng
khi đi chơi tiếp xúc nhau vài lần, họ phát hiện đối tượng không có
những đặc điểm ấy và hết yêu.
– Họ tưởng đối tượng đã yêu mình qua một vài lần gặp gỡ,
dấu hiệu quan tâm của đối phương.
– Họ lầm tưởng yêu chỉ là quan hệ tình dục và những hành vi
âu yếm. Họ đòi hỏi lẫn nhau, nếu không được, hoặc nếu “được” quá
dễ dãi, họ chán nhau nhanh chóng.
7. Quan hệ yêu đương trong sáng dần dần được thay thế bằng
tình yêu “hoà nhập”, tình yêu lợi dụng, tình yêu vật chất
Trong quan niệm truyền thống, tình yêu trong sáng là một tình
cảm đẹp đẽ, trong đó hai người yêu nhau chân thành, giúp đỡ lẫn
nhau, quan tâm đến nhau, tôn trọng nhau. Tình cảm mãnh hệt
nhưng luôn luôn giữ đúng khoảng cách, không có những hành vi
quá mức cho phép. Đặc biệt họ cố gắng giữ gìn sự trong trắng, sự
thiêng liêng cho đến ngày cưới.
Nhưng ngày nay, quan niệm yêu đương đó dễ bị coi là lạc hậu
là lẩm cẩm, là tâm thần. Thay thế vào quan niệm đó là tình yêu vật
chất, là sự lợi dụng nhau: người bỏ tiền của, người phục vụ, hoặc
yêu là liên hệ trực tiếp tới tình dục, yêu cho biết những cảm xúc mới
lạ… Hiện tượng “sống thử” đang là một lối sống, một “mốt” mới
đáng ngại trong sinh viên và thanh niên.
Ngày nay, quan niệm quan hệ tình dục trước hôn nhân trở
thành khá phổ biến trong nhiều bạn trẻ.
8. Yêu nhanh và tan vỡ nhanh
Đây là đặc điểm khá phổ biến trong thanh niên mới lớn. Họ yêu
nhau khá dễ dàng, có khi chỉ cần gặp nhau trong một buổi tiệc sinh
nhật, một lần đi chơi, một buổi sinh hoạt hay một buổi tối tại vũ
trường là họ có thể hò hẹn đi chơi và “yêu” nhau, hoặc có những cử
chỉ hành vi yêu đương. Những hành vi chớp nhoáng như thế cũng
tan vỡ rất nhanh. Có khi chỉ một vài tháng hoặc vài tuần là “tình yêu”
tan vỡ. Trong nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đều
thấy tình yêu trong thanh niên học sinh rất kém bền vững. Hầu hết
các cuộc tình đều tan vỡ khi tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
thậm chí hết năm học. Vì vậy, có nhiều bạn trẻ mới 16, 17 tuổi
nhưng đã trải qua hàng chục cuộc tình.
9. Xuất hiện nhiều kiểu yêu đương không lành mạnh
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong thanh niên
học sinh hiện nay có nhiều kiểu tình yêu không đích thực như:
Yêu vụ lợi, yêu lừa dối, yêu chơi bời, yêu tạm bợ, yêu ngộ
nhận, yêu si mê, yêu tuyệt vọng, yêu theo mốt, yêu buông thả, yêu
mơ mộng, yêu cho đỡ buồn, yêu thử cho biết… Rất ít thấy tình yêu
chân thực và tình yêu thân chính.
10. Yêu nhưng thiếu hiểu biết về tình yêu
Đa số các bạn trẻ thiếu hiểu biết về tình yêu, về đời sống tâm
sinh lí người… Họ không hiểu được biểu hiện, quy luật, tính chất
của một tình yêu chân thực, chân chính. Tuy nhiên, họ vẫn mạo
hiểm yêu với vốn liếng ít ỏi về kinh nghiệm yêu đương do bạn bè
cung cấp, với những quan niệm yêu đương sai lầm mà họ được biết
qua sinh hoạt thường ngày, qua sách báo, phim ảnh, đặc biệt có khi
từ các tệ nạn xã hội.
Cư xử không đúng trong quan hệ yêu đương: Một số người
cho người yêu là sở hữu của riêng mình, dẫn tới cấm đoán, cư xử
thô bạo, ghen tương vô lí…
II. NHỮNG HẬU QUẢ, TÁC HẠI DO SỰ SAI LỆCH TRONG TÌNH
YÊU
Có thể rút ra những tác hại chủ yếu do việc yêu đương sai lệch
sau đây:
– Tạo nên nếp sống thiếu lành mạnh, thiếu văn hoá trong
thanh niên với nhiều biểu hiện như: những cử chỉ suồng sã, đôi khi
là sàm sỡ trong quan hệ cư xử, những cuộc gặp gỡ trong các quán
cà phê đèn mờ, những cuộc đi chơi hay sinh hoạt thiếu lành mạnh,
ăn chơi sa đoạ, dẫn tới các tệ nạn xã hội: xì ke, ma tuý…
– Khi tình yêu tan vỡ, họ phải chịu đựng những đau khổ mất
mát lớn lao trong cuộc đời: tình cảm bị tổn thương, danh dự bị xúc
phạm, tinh thần bị khủng hoảng… và nhiều hậu quả tai hại khác.
– Trong tình yêu của tuổi trẻ trong tình yêu tuổi học trò (nhất là
ở học sinh trung học phổ thông), tình yêu thường phức tạp, hạnh
phúc chen lẫn đau khổ. Đa số trường hợp, những phút giây hạnh
phúc thì ít mà những lúc đau khổ thì nhiều, thậm chí có những mất
mát lớn lao không thể bù đắp hay hàn gắn. Đa số tình yêu trong tuổi
này tan vỡ trước khi kết thúc việc học tập.
– Ảnh hưởng nhiều đến việc rèn luyện phát triển nhân cách,
đến việc tu dưỡng vươn lên của tuổi trẻ, ảnh hưởng xấu đến học
tập, rèn luyện, công tác. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi vướng
vào vòng yêu đương, đa số học sinh học hành kém đi rõ rệt, rất ít
trường hợp khi yêu nhau thì chất lượng học tập nâng cao. Có khá
nhiều em phải bỏ học.
– Hậu quả nghiêm trọng nhất là:
+ Nhiều em phải nạo phá thai sớm, có khi gây tử vong hoặc
thương tật suốt đời.
+ Tình yêu tan vỡ gây những cú sốc về tâm lí, khiến nhiều em
đau khổ vì tình, đi đến chán đời, bỏ học… Có em xấu hổ bỏ nhà đi
bụi đời, mại dâm, đi trả thù đời để rồi bước vào con đường sa ngã,
hư hỏng, đồi trụy… Có em quá đau khổ và xấu hổ, phải tự tử.
+ Nhiễm bệnh hiểm nghèo, nhất là HIV.
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Chủ yếu
là các nguyên nhân sau:
1. Sự thiếu hiểu biết về tình yêu và hôn nhân. Các bạn trẻ
không được trang bị những kiến thức về đời sống yêu đương, về
quy luật phát triển tâm sinh lí của con người, bản chất của tình yêu,
hôn nhân và cách xử lí trong tình yêu. Do đó, các em thiếu bản lĩnh
khi bước vào đời sống yêu đương.
2. Các sách báo về tình yêu lan tràn, nhưng nhiều sách lại
chạy theo thị hiếu tằm thường, chạy theo kinh doanh nên trong thực
tế, vẫn thiếu những tài liệu, thông tin khoa học, hệ thống. Nhiều sách
tuy có tựa đề là “giáo dục giới tính”, “giáo dục tình yêu”, nhưng nội
dung lại không phù hợp, nhiều trường hợp nội dung lệch lạc, không
có tính khoa học, thậm chí gây phản tác dụng.
3. Các tệ nạn xã hội phức tạp ngày càng gia tăng, các quán cà
phê đèn mờ, bia ôm, mại dâm trá hình, vũ trường biến tướng, tệ nạn
sử dụng ma tuý, thuốc lắc xuất hiện ở khắp mọi nơi, kích thích, thu
hút giới trẻ.
4. Ảnh hưởng của nhiều quan điểm sống mới du nhập từ nước
ngoài: tình yêu tự do, tình dục tự do, tình dục trước hôn nhân, sống
chung, sống thử (hôn nhân thử nghiệm)… Những quan điểm trên
ảnh hưởng mạnh đến giới trẻ, làm cho các em thêm tò mò, bị kích
thích, muốn áp dụng thử nghiệm. Trong khi đó, các em lại không
được hướng dẫn đầy đủ, không được trang bị tri thức để có đủ bản
lĩnh đấu tranh chống lại những quan điểm sai lầm trên.
5. Xã hội và các bậc cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến việc
giáo dục thanh niên học sinh về lĩnh vực này. Thậm chí, còn nhiều
người né tránh hoặc có quan niệm sai lầm cho rằng không nên giáo
dục vấn dế này cho học sinh, vì thế là “vẽ đường cho hươu chạy”,
hoặc làm “ô uế” học đường. Nhiều bậc cha mẹ chạy theo công việc
làm ăn, không lo đến việc giáo dục con cái.
6. Nhận thức sai trong nhiều người về giáo dục giới tính, giáo
dục tình yêu. Có người còn cho rằng giáo dục giới tính, giáo dục tình
yêu là giáo dục tình dục. Chưa có một chương trình hoặc chưa thực
hiện nghiêm tức nội dung giáo dục này một cách khoa học, hệ thống
với một lượng thời gian thích hợp. Khi có hướng dẫn của Bộ Giáo
dục và đào tạo về giáo dục giới tính trong nhà trường, nhiều nơi,
nhiều trường học vẫn cho đó là phần không quan trọng, không cần
thiết lắm, họ tuỳ ý dạy hay không, hoặc thiếu tổ chức chặt chẽ,
nghiêm tức thực hiện nội dung này.
7. Chúng ta chưa quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ,
giáo viên có trình độ tri thức khoa học về lĩnh vực này để làm công
tác giáo dục cho thanh niên, học sinh. Đa số cán bộ, giáo viên giảng
dạy hoặc làm công tác này chỉ dựa vào kinh nghiệm, vốn liếng trí
thức ít ỏi do tự nghiên cứu. Mặt khác, nhiều người lại chủ quan, cho
rằng mình đã biết hết về vấn đế này.
8. Chưa có những tư liệu khoa học, giáo trinh, sách, tài liệu
một cách hệ thống, khoa học, sâu sắc về lĩnh vực này. Đặc biệt,
những công trình nghiên cứu khoa học một cách toàn diện, sâu rộng
về tình yêu hôn nhân còn rất ít, hoặc chưa được phổ biến rộng rãi.
Do quan niệm xã hội hạn chế, nhiều người còn thành kiến hoặc e
ngại khi nghiên cứu, giảng dạy, hoặc nói đến chuyện tình yêu, hôn
nhân.
Từ tình hình và nguyên nhân trên, chúng tôi xin đề nghị
một số giải pháp sau:
a) Những giải pháp chung
– Cần phải có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ của xã
hội, của nhiều ngành, nhiều lực lượng: giáo dục, văn hoá xã hội, an
ninh… tạo nên một môi trường xã hội lành mạnh mang tính giáo dục
cao. Bài trừ văn hoá phẩm đồi trụy, tệ nạn xã hội (mại dâm, bia ôm,
cà phê đèn mờ, vũ trường biến tướng…).
Phải tăng cường công tác giáo dục giới tính, giáo dục tình yêu
hôn nhân gia đình. Phải cổ sự kết hợp đồng bộ của nhà trường, gia
đình và xã hội.
Phát triển những hoạt động của các cơ quan chức năng của xã
hội, cũng như các trung tâm văn hoá, các câu lạc bộ, đặc biệt là các
trung tâm tư vấn Tình yêu, hôn nhân và gia đình.
b) Những biện pháp giáo dục cụ thể
– Tăng cường việc Giáo dục giới tính trong nhà trường, gia
đình và xã hội.
Xây dựng những tài liệu hướng dẫn cần thiết, những tri thức
khoa học hệ thống về vấn đế này, để giáo viên, phụ huynh có thể
hướng dẫn cho các em, hoặc các em tự học để biết.
– Xây dựng chương trình và nội dung giáo dục giới tính cụ thể
để giảng dạy trong nhà trường (trước mắt, có thể từ lớp 9 trở lên),
dành một lượng thời gian thích đáng để giảng dạy cho học sinh.
– Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng, và đào tạo cán bộ chuyên
môn về giới tính và giáo dục giới tính. Trang bị kiến thức khoa học
tình yêu hôn nhân, gia đình cho giáo viên, cán bộ các trung tâm tư
vấn, cán bộ phụ nữ, đoàn thanh niên làm công tác quần chúng.
MỤC LỤC
PHẦN MỘT
TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI
TÍNH
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI
1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính
2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính
3. Giới tính và nhân cách con người
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục
học giới tính
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính
với các ngành khoa học khác
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam
hiện nay
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí
học giới tính
Chương 2
GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
1. Khái niệm giới
2. Khái niệm giới tính
3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH
1. Sự phức tạp của đời sống giới tính
2. Mối quan hệ giữa hai giới
3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIỚI TÍNH
1. Sự xuất hiện và quá trình hình thành của giới tính ở con
người
2. Các giai đoạn phát triển của giới tính
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH CẦN CHÚ Ý Ở TUỔI THANH
NIÊN, HỌC SINH
Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH
I. ĐỜI SỐNG TÍNH DỤC
1. Khái niệm Tính dục
2. Những vấn đề điển hình của đời sống tính dục được quan
tâm hiện nay
II. HIỆN TƯỢNG KINH NGUYỆT DƯỚI GÓC ĐỘ TÂM SINH LÍ
1. Ý nghĩa của hiện tượng kinh nguyệt
2. Vấn đề vệ sinh kinh nguyệt
3. Chu kì tâm sinh lí học trong chu kì kinh nguyệt
III. TÌNH DỤC
1. Khái niệm chung về tình dục
2. Mối quan hệ giữa tình dục và tình yêu ở lứa tuổi thanh thiếu
niên
3. Vấn đề giáo dục tình dục và tình yêu cho thanh thiếu niên
IV. TÌNH YÊU VÀ TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH
1. Khái niệm chung về tình yêu
2. Những thành phần cơ bản trong tình yêu
3. Sự hình thành và phát triển của tình yêu
4. Động cơ yêu đương và tình yêu chân chính
5. Mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân
V. HÔN NHÂN
1. Khái niệm hôn nhân
2. Động cơ hôn nhân
3. Một số vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng cuộc sống hôn
nhân
4. Cuộc sống vợ chồng
5. Sự biến động của cuộc sống vợ chồng
6. Điều kiện chủ yếu để tạo nến cuộc sống vợ chồng hạnh
phúc lâu dài
7. Vấn đề giáo dục cuộc sống gia đình cho thanh niên ngày
nay.
VI. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
1. Gia đình là một đơn vị xã hội chứa đựng nhiều yếu tố tâm lí
xã hội phức tạp
2. Những đặc điểm của một gia đình hạnh phúc và phát triển
3. Những phương hướng xây dựng gia đình hạnh phúc và phát
triển
VII. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
1. Khái niệm sức khoẻ sinh sản
2. Giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Chương 4
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
I. VỀ KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính
2. Thời điểm giáo dục giới tính cho con người
II. NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
III. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về nội dung giáo dục giới tính
2. Nội dung chung của giáo dục giới tính
3. Nội dung giáo dục giới tính cho từng đối tượng
4. Nội dung giáo dục giới tính theo chương trình giáo dục phổ
thông
5. Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh niên ngoài nhà trường
và người lớn
IV. NGUYÊN TẮC CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
V. Ý NGHĨA CỦA GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển toàn
diện nhân cách
2. Giáo dục giới tính đáp ứng những quy luật phát triển về tâm
lí, sinh lí cơ thể của thanh thiếu niên
3. Giáo dục giới tính có ý nghĩa lớn đối với giáo dục dân số và
sự phát triển xã hội
4. Giáo dục giới tính có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển tâm
sinh lí trong tình hình hiện nay
5. Giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt trong tình hình phức
tạp và gia tăng của các tệ nạn xã hội hiện nay
PHẦN HAI
NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Vấn đề 1: Tình trạng trẻ em hư và vấn đề giáo dục giới tính
Vấn đề 2: Một số vấn đề về nội dung, tổ chức thực hiện chương
trình giáo dục đời sống gia đình cho học sinh phổ thông
Vấn đề 3: Một số vấn đề tâm lí – xã hội cần chú ý khi tiến hành giáo
dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh phổ thông
Vấn đề 4: Vẻ đẹp và vấn đề làm đẹp ở thanh niên
Vấn đề 5: Người phụ nữ với việc xây dựng cuộc sống gia đình
Vấn đề 6: Sự phát triển con người với vấn đề giáo dục giới tính
Vấn đề 7: Một số biểu hiện sai lệch trong tình yêu của thanh niên,
học sinh hiện nay
---//---
TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tác giả:
PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh
Nhà xuất bản Giáo Dục
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QÚY THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm hội dung:
Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP. Hồ Chí Minh
VŨ BÁ HÒA
Biên tập nội dung và tái bản:
NGUYÊN VĂN HÂN
Biên tập kĩ – mĩ thuật:
BÙI XUÂN DƯƠNG
Trình bày bìa:
TÔN THẤT HIỀN
Sửa bản in:
PHÒNG SỬA BẢN IN (NXBGD TẠI TP.HCM)
Chế bản:
PHÒNG SCĐT – NXB GIÁO DỤC TẠI TP. HCM
Mã số: 8G804m8 – TTS
In 3.000 bản, (04TK) khổ 16 x 24 cm; tại Công ty cổ phần In và Vật
tư Hải Dương. Số in: 01; Số xuất bản: 11–2008/CXB/212 –
2097/GD. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2008.
Table of Contents
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH
VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH
Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐIỂN HÌNH CỦA ĐỜI
SỐNG GIỚI TÍNH
Chương 4: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Phần 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC
GIỚI TÍNH
Vấn đề 1
Vấn đề 2
Vấn đề 3
Vấn đề 4
Vấn đề 5
Vấn đề 6
Vấn đề 7
MỤC LỤC