Đoanthuyen (Nangcao)

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 13

Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Huy Cận

Dàn ý chi tiết


I. Mở bài
- Giới thiệu Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
+ Huy Cận : là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới với tập Lửa thiêng (1940), là một
trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
+ Đoàn thuyền đánh cá: khúc tráng ca ca ngợi thiên nhiên, đất nước tươi đẹp và người lao
động mới.
- Giới thiệu đoạn trích: (tùy thuộc vào đề)
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác và vị trí đoạn trích
- Bài thơ ra đời năm 1958, sau chuyến đi thực tế dài ngày của Huy Cận ở vùng mỏ Quảng
Ninh. Chuyến đi ấy đã thực sự làm hồn thơ Huy Cận nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên
nhiên, đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
- Vị trí đoạn trích (tùy thuộc vào đề)
+ 2 khổ đầu : hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
+ 4 khổ tiếp theo: cảnh đánh cá và hình ảnh biển đêm.
+ Khổ cuối: hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
2. Phân tích cụ thể
2.1) Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (2 khổ đầu)
a) Khổ đầu
- Câu 1,2: cảnh hoàng hôn trên biển :
+ So sánh và ngắt nhịp linh hoạt ở câu 1  khung cảnh thiên nhiên kì vĩ, rực rỡ.
+ Nhân hóa : “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”  chuyển đổi không gian, thời gian; biển cả
như một ngôi nhà, tạo cảm giác thân thuộc, ấm áp.
- Câu 3, 4: hình ảnh con người:
+ Hình ảnh đoàn thuyền  khí thế hăm hở, hào hứng, mạnh mẽ.
+ Từ lại mang hai nghĩa: vừa nối tiếp vừa thách thức.
+ Câu 2 và 3 có sự đối lập: thiên nhiên thì nghỉ ngơi còn con người lại bắt đầu làm việc  sự
quyết tâm và tư thế lớn lao của con người.
+ Hình ảnh trong câu 4 vừa tả thực, vừa tượng trưng  tinh thần phấn khởi, hăng say và khí
thế hào hứng của ngư dân vùng biển; thể hiện sự chan hòa giữa con người và vũ trụ.
 khổ thơ đầu đã thể hiện sự thay đổi diệu kì của con người và cuộc sống qua cái nhìn mới
mẻ của Huy Cận.
b) Khổ 2
- Con người ra khơi cất cao tiếng hát:
+ Hàng loạt hình ảnh nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của sự liên tưởng: so sánh, ẩn dụ,
nhân hóa  vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ đến huyền ảo của các loài cá trên biển.
+ Hình ảnh so sánh “Cá thu biển đông như đoàn thoi” được xây dựng trên một liên tưởng
thực tế: cá thu thân dẹt hình thoi lướt rất nhanh trên mặt biển như con thoi đang chạy đi chạy lại trên
khung cửi dệt vải.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 1
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
+ 2 câu sau nhân hóa : cá đi biển là cá dệt biển và cá vào lưới là cá dệt lưới. - Trí tưởng
tượng mãnh liệt đã chắp cánh cho hiện thực khách quan trở nên bay bổng, lung linh  tôn thêm vẻ
đẹp của một vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng của Tổ quốc.
2.2) Cảnh đánh cá và hình ảnh biển đêm (Khổ 3,4,5,6)
a) Hình ảnh đoàn thuyền giữa biển đêm thi vị ( Khổ 1)
- Không gian thật khoáng đạt : với gió, trăng, mây, với chiều cao (mây cao), chiều rộng (biển bằng)
và chiều sâu (bụng biển).
- Những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển” đã biến con thuyền
đánh cá vốn nhỏ bé trước biển bao la thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ.
- Từ “lướt” đặt đầu câu thơ  diễn tả thật ấn tượng hình ảnh đầy thi vị của con thuyền. Con
thuyền như bay lên chạm tới trăng sao.
- Những động từ, cụm động từ mang sắc thái mạnh : “đậu dặm xa, dò bụng biển, dàn đan thế
trận, vây giăng”  vừa tô đậm sự hăm hở, hào hứng của không khí lao động, vừa tỏ rõ quyết tâm của
con người
b) Vẻ đẹp của biển đêm (Khổ 2)
- Phép liệt kê tu từ đã vẽ ra bức tranh biển cả với vô số loài cá lấp lánh nguồn sáng, nguồn sống.
- Câu thơ thứ ba “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” :
+ Có sự ra đời khá thú vị.
+ Nhân hóa  sự gắn bó, thân thiết giữa thiên nhiên với con người.
+ Cá quẫy, trăng tan trong nước  trữ tình, lãng mạn.
- Hình ảnh đêm thở  nhịp thở của vũ trụ, tạo cảm giác thật huyền diệu.
c) Công việc đánh cá vất vả mà đầy chất thơ (Khổ 3)
- Tiếng hát được lặp lại cùng phép nhân hóa: hát bài ca gọi cá, đệm cho tiếng hát có trăng, sao
 thi vị hóa công việc đánh ca vất vả.
- Thiên nhiên và con người hòa quyện, gắn bó, con người rưng rưng cảm xúc biết ơn.
+ So sánh : lòng biển như lòng mẹ
+ Âm hưởng thơ sâu lắng.
d) Cảnh kéo lưới cũng trở nên thi vị (Khổ 4)
- Hình ảnh “Kéo xoăn tay”  khắc tạc một bức tượng ngư dân đầy sức sống.
- Hình ảnh “Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” hai nghĩa:
+Sắc màu óng ánh từ những con cá tươi ngon đang ánh lên giữa rạng đông ngày mới.
+ Vảy bạc đuôi vàng của những mẻ cá “kéo xoăn tay” đang bừng lên rạng đông của biển.
 kéo lưới cũng là kéo bình minh, kéo tương lai lên.
3) Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về (Khổ cuối)
- Câu mở đầu lặp gần như nguyên văn câu cuối trong khổ thơ thứ nhất  ẩn chứa bao điều
mới mẻ trong hình ảnh đoàn thuyền trở về.
- Tiếng hát lặp lại càng tô đậm không khí náo nức, phơi phới.
- Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên thật mạnh mẽ ở câu 2:
+ Nhân hóa và cường điệu  khí thế khẩn trương, quyết tâm
+ Động từ “chạy đua”  sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế lao động của họ vẫn hăng say;
hình ảnh con người thật lớn lao, kì vĩ như những hình tượng trong thần thoại, sử thi.
- Vẻ đẹp bình minh trên biển:

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 2
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
+ Mặt trời đội biển nhô màu mới: gợi cảm giác thần thoại, bừng sáng cả toàn cảnh thiên
nhiên.
+ Hình ảnh : Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi gợi nhiều ý nghĩa:
Ý nghĩa 1: hàng triệu triệu mắt cá thật phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ, lấp lánh huy hoàng cả
một vùng biển rộng, hóa thành triệu triệu mặt trời con.
Ý nghĩa 2: hàng triệu triệu gợn sóng cũng phản chiếu ánh bình minh rực rỡ giống như vô vàn
mắt cá trên muôn dặm khơi.
Ý nghĩa 3: mặt trời trong cảm quan vũ trụ của Huy Cận chính là cái mắt cá khổng lồ đang
phơi trên muôn dặm biển khơi.
 hình ảnh huy hoàng của niềm vui chiến thắng.
III. Kết bài
- Bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huy Cận.
- Hình ảnh thơ rực rỡ, kì vĩ được tạo nên bởi bút pháp lãng mạn, giọng điệu thơ hào hứng, sôi
nổi.
- Bài thơ là một bài ca về thiên nhiên, đất nước, con người trong công cuộc lao động mới. Bài
thơ truyền cho người đọc tình yêu, niềm tự hào về con người Việt Nam.
<Chú ý đánh giá đoạn thơ được trích tùy theo đề bài>

Đề 1. Phân tích đoạn thơ miêu tả cảnh ra khơi và cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá trong
bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (2 khổ đầu và khổ cuối)
I. Mở bài
Mở bài 1.
“Món quà đặc biệt vùng mỏ Hồng Gai - Cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận là bài “Đoàn
thuyền đánh cá”(Xuân Diệu). Cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động sôi nổi của ngư dân vùng
biển Hồng Gai đã thật sự là nguồn cảm hứng mãnh liệt để bài thơ ra đời. Ở đấy, tác giả đã không che
giấu niềm tự hào của mình trước sự giàu đẹp của biển cả và khí thế lao động hào hứng của những
người lao động trên biển. Đặc biệt, hai khổ đầu và khổ cuối của thi phẩm đã miêu tả thật ấn tượng,
đầy cảm xúc bức tranh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi hoàng hôn và trở về trong bình minh
ngày mới:
<Chép nguyên văn hai khổ đầu và khổ cuối của bài thơ>
Mở bài 2.
Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi.
(Chế Lan Viên)
Vâng, cuộc đời luôn là suối nguồn dào dạt cho mọi dòng sông thi ca bắt nước. Cuộc đời màu
mỡ luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho bao sáng tạo nghệ thuật. Một lần đến với vùng mỏ Hồng Gai
- Cẩm Phả, hồn thơ Huy Cận đã tràn trào thi hứng. Và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời. “Ở
đấy,tác giả đã không che giấu niềm tự hào của mình trước sự giàu đẹp của biển cả và khí thế lao
động hào hứng của những người lao động trên biển. Cảm xúc đó được thể hiện đậm nét trong đoạn
thơ:
<Chép nguyên văn hai khổ đầu và khổ cuối của bài thơ>

II. Thân bài


------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 3
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1. Hoàn cảnh sáng tác và vị trí đoạn trích
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra đời năm 1958, sau chuyến đi thực tế dài ngày của Huy Cận ở
vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa, bay bổng về vẻ đẹp của
người lao động trước khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của biển cả qua cái nhìn hứng khởi của hồn
thơ Huy Cận. Cảm xúc thơ phát triển theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.
Hai khổ thơ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người. Bốn khổ thơ tiếp theo là
hoạt động của đoàn thuyền đánh cá trên biển và khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình
minh của một ngày mới. Hai khổ thơ mở đầu và khổ thơ kết thúc thi phẩm là những khổ thơ tràn
ngập men say của Huy Cận đối với thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam.
2. Phân tích cụ thể
a) Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (2 khổ đầu)
a.1) Khổ đầu
Hai câu thơ mở đầu là cảnh hoàng hôn trên biển thật diễm lệ, hùng vĩ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Hình ảnh so sánh và sự linh hoạt trong nhịp ngắt ở câu thơ thứ nhất: có thể ngắt theo nhịp 3/4
hoặc 4/3 đã mở ra trước mắt người đọc một khung cảnh thiên nhiên thật kì vĩ, rực rỡ. Biển cả nhuốm
trong sắc đỏ của mặt trời. Để rồi, cùng với bước đi của thời gian, sóng đã nhanh chóng phủ lấp cái
ánh sáng đỏ rực ấy và màn đêm cũng buông xuống thật chóng vánh. Hình ảnh nhân hóa được nhà
thơ sử dụng thật nhuần nhị và hết sức tự nhiên : “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” đã diễn tả thật
khéo sự chuyển đổi của không gian và thời gian chớp nhoáng của thiên nhiên. Cái hay của hình ảnh
thơ còn là ở chỗ: nhà thơ đã nhìn biển cả, nhìn vũ trụ như một ngôi nhà: màn đêm sập xuống như
cánh cửa, còn những làn sóng chạy qua chạy lại như những chiếc then cài vào màn đêm. Cái nhìn
độc đáo, mới mẻ tạo cho hình ảnh thơ một vẻ đẹp kì vĩ mà ấm áp lạ thường. Cái nhìn về thiên nhiên,
vũ trụ của Huy Cận đã có một sự chuyển hướng. Trước Cách mạng, vũ trụ đi vào thơ ông trong
những hình ảnh lớn lao, vô biên, rợn ngợp, lạnh lẽo làm cho con người có cảm giác cô đơn, lẻ loi:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô, lạc mấy dòng
(Tràng giang)
Đó là sự khác nhau của hai nguồn sống, ở hai giai đoạn sống của một con người. Hình ảnh
trong Đoàn thuyền đánh cá là hình ảnh của cuộc sống mới, cuộc sống mà con người thực sự trở
thành người làm chủ biển trời của mình.
Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, con người xuất hiện:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hình ảnh “đoàn thuyền” tự bản thân nó đã hàm chứa khí thế của buổi xuất quân. Không phải
từng chiếc thuyền lẻ tẻ trên biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi
thay. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, chữ “lại” cho biết đây là một hoạt động thường nhật, lặp
đi lặp lại mỗi ngày, chứ không phải là đột xuất, cá biệt. Mặt khác, chữ “lại” còn biểu thị ý nghĩa
ngược lại, ngược chiều so với hoạt động có trước. Có một cái gì thật thách thức trong từ “lại” ấy.
Hình ảnh thơ tương phản với hai câu đầu đủ sức bật dậy khí thế và quyết tâm lao động của con người

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 4
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
trên biển. Thiên nhiên thì “đóng cửa, cài then” nhưng con người thì lại bắt đầu một hành trình. Thật
hăm hở và khẩn trương. Thật chủ động và sáng tạo. Con người bỗng chốc vụt lớn lên, cường tráng,
tự tin trong tư thế của người non sông đất nước. Có lẽ, chính điều đó đã đem đến cho bài thơ của
Huy Cận một hình ảnh thơ căng phồng chất lãng mạn:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Công việc đánh bắt cá trên biển quả là công việc nặng nhọc và đầy hiểm nguy. Nhưng đoàn
quân vẫn cứ cất cao tiếng hát. Khúc hát lên đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no
gió căng lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật vừa tả thực, vừa mang ý nghĩa
tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế hào hứng, nô nức của ngư dân vùng
biển. Đoàn thuyền ra khơi bằng buồm căng gió và buồm căng đầy tiếng hát, men say của những trái
tim tràn đầy nhiệt huyết với biển cả bao la. Một hình ảnh thật đẹp của sự chan hòa giữa con người và
vũ trụ. Hình ảnh giàu chất thơ ấy lại làm ta nhớ đến một ý thơ khác của Tế Hanh khi viết về sông
nước quê hương:
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
(Quê hương)
Trở lại với hình ảnh thơ của Huy Cận, người đọc một lần nữa cảm nhận được tính chất hành
khúc của bài thơ trong hình ảnh, câu chữ, nhịp điệu. Ta nghe rất rõ từng tiếng hát, từng lời ca say
sưa, hứng khởi của người lao động trong lần ra khơi ấy.
a.2) Khổ 2
Tiếng hát của họ là tiếng hát của con người mang khát vọng chinh phục biển khơi:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Biển cả thật đẹp đẽ, giàu có và thân thiết biết bao đối với con người. Nhà thơ đã khéo dùng
hàng loạt hình ảnh nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của sự liên tưởng: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa
để mang đến cho độc giả những cảm xúc thẩm mĩ về vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ đến huyền ảo của các
loài cá trên biển. Hình ảnh “Cá thu biển đông như đoàn thoi” là một so sánh đẹp được xây dựng trên
một liên tưởng thực tế: cá thu thân dẹt hình thoi lướt rất nhanh trên mặt biển như con thoi đang chạy
đi chạy lại trên khung cửi dệt vải. Từ đó mới thấy hai câu thơ sau là những nhân hóa rất tinh tế.
Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương mình, cá đi biển là cá dệt
biển và cá vào lưới là cá dệt lưới. Có thể nói trí tưởng tượng mãnh liệt của nhà thơ đã chắp cánh cho
hiện thực khách quan trở nên bay bổng, lung linh, làm tôn thêm vẻ đẹp muôn đời của một vùng biển
rộng lớn, giàu tiềm năng của Tổ quốc.
b) Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về (Khổ cuối)
Để rồi, sau một hành trình, bài thơ của Huy Cận đã khép lại bằng bốn câu thơ phảng phất
không khí thần thoại, anh hùng ca, anh hùng ca trong lao động. Mở đầu là một câu thơ lặp gần như
nguyên văn câu cuối trong khổ thơ thứ nhất:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Nhà thơ chỉ thay một chữ : “với” thay cho “cùng”. Chỉ một chữ thôi nhưng ẩn chứa bao điều
mới mẻ. Đoàn thuyền hôm nay không hoàn toàn giống đoàn thuyền ngày hôm qua. Con người hôm
nay, sau một hành trình cũng dạn dày sương gió, dạn dày kinh nghiệm hơn. Nhà thơ cũng rất có

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
dụng ý khi lặp lại chi tiết tiếng hát. Tiếng hát căng buồm ra khơi, tiếng hát ca ngợi biển cả với những
sản vật quí hiếm trong lòng nó, tiếng hát gọi cá đến với người, tiếng hát mừng chiến thắng… Bằng
tiếng hát, nhà thơ đã khắc họa được cái hồn của không khí lao động náo nức, phơi phới, giàu chất
thơ và chất chứa tình yêu thiên nhiên, yêu lao động.
Hình ảnh đoàn thuyền hiện lên thật mạnh mẽ:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Câu thơ kết hợp nhuần nhị phép nhân hóa và cường điệu để nêu bật khí thế quyết tâm của con
người. Tất cả thật khẩn trương trong cuộc đua tài tốc độ giữa con người và vũ trụ. Động từ “chạy
đua” cho thấy sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế lao động của họ vẫn hăng say. Hình ảnh thơ đã
nâng cao tầm vóc của con người trước vũ trụ rộng lớn, bao la. Thật chính xác khi ai đó đã từng liên
tưởng: “Cùng với cuộc chạy đua với mặt trời, con người lao động ngày nay càng kì vĩ như những
con người trong thần thoại, sử thi”.
Vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của bình minh trên biển được miêu tả thật sinh động ở câu thơ thứ ba:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Hình ảnh mặt trời xuất hiện trong một dáng vẻ mới: “đội biển nhô màu mới”. Hình ảnh nhân
hóa trong câu thơ gợi cảm giác thần thoại, hư ảo: sức mạnh của mặt trời thật vô cùng mạnh mẽ,
dường như nó đang đội biển mà lên. Câu thơ làm toàn cảnh thiên nhiên bừng lên sắc hồng của bình
minh. Và cái sắc hồng rực rỡ tươi vui, đầy sức sống ấy chính là lời chào đón ân cần, thắm thiết của
thiên nhiên với những người lao động cần cù, giàu nghị lực.
Và “cái thần” của quang cảnh bình minh ấy là câu thơ cuối cùng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Câu thơ gợi ra nhiều hình ảnh trong liên tưởng của người đọc. Một là hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi
nhau trở về, chiếc nào cũng cá đầy khoang, hàng triệu triệu mắt cá phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ,
lấp lánh huy hoàng cả một vùng biển rộng, hóa thành triệu triệu mặt trời con. Hai là hàng triệu triệu
gợn sóng cũng phản chiếu ánh bình minh rực rỡ giống như vô vàn mắt cá trên muôn dặm khơi. Hình
ảnh thơ cũng có thể đem đến môt cảm nhận khác: mặt trời trong cảm quan vũ trụ của Huy Cận chính
là cái mắt cá khổng lồ đang phơi trên muôn dặm biển khơi. Tất cả đều thật rực rỡ và kì vĩ gieo vào
lòng người trạng thái sảng khoái, chất ngất cực độ.
III. Kết bài
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận thật sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập
ánh sáng, màu sắc, âm thanh và sức sống mãnh liệt. Ba khổ thơ miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi và
trở về đã được nhà thơ khắc họa sống động, giàu cảm xúc và vô cùng ấn tượng. Bằng bút pháp lãng
mạn và sức tưởng tượng dồi dào, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dat chất
thơ. Điều đó đã góp phần làm giàu thêm cách nhìn cuộc sống và bộc lộ sâu sắc tình yêu thiên nhiên,
yêu đất nước, yêu con người của nhà thơ Huy Cận.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 6
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 2. Phân tích đoạn thơ sau :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…………………………………..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
(Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)
I. Mở bài
“Món quà đặc biệt vùng mỏ Hồng Gai - Cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận là bài “Đoàn thuyền
đánh cá””(Xuân Diệu). Cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động sôi nổi của ngư dân vùng biển
Hồng Gai đã thật sự là nguồn cảm hứng mãnh liệt để bài thơ ra đời. Ở đấy, tác giả đã không che giấu
niềm tự hào của mình trước sự giàu đẹp của biển cả và khí thế lao động hào hứng của những người lao
động trên biển. Cảm xúc đó được thể hiện đậm nét trong đoạn thơ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
……………………………………..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác và vị trí đoạn trích
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra đời năm 1958, sau chuyến đi thực tế dài ngày của Huy Cận ở
vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa, bay bổng về vẻ đẹp của
người lao động trước khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của biển cả qua cái nhìn hứng khởi của hồn thơ
Huy Cận. Cảm xúc thơ phát triển theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai
khổ thơ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người. Bốn khổ thơ tiếp theo là hoạt động
của đoàn thuyền đánh cá trên biển và khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh của
một ngày mới. Bốn khổ thơ miêu tả hoạt động của con người lao động trên biển được nhà thơ tái hiện
sống động trong những hình ảnh thơ bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn.
2. Phân tích cụ thể
a) Hình ảnh đoàn thuyền giữa biển đêm thi vị ( Khổ 1)
Đoàn thuyền đánh cá lên đường ra khơi như lướt đi trên sóng, cùng với gió căng buồm, cùng với
câu hát hào hứng, hăm hở, tin tưởng lại được miêu tả trong những hình ảnh đẹp mới :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Khổ thơ mở ra một không gian thật khoáng đạt với gió, trăng, mây, với chiều cao (mây cao), chiều
rộng (biển bằng) và chiều sâu (bụng biển). Những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng,
dò bụng biển” đã biến con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển bao la thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ
hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đánh cá lấy gió làm lái, lấy trăng
làm buồm và lướt với vận tốc phi thường giữa cái vô hạn của vũ trụ; vậy nên con thuyền đánh cá không
nhỏ bé mà khổng lồ. Lãng mạn hơn, con thuyền đánh cá còn là con thuyền thơ. Từ “lướt” nhẹ tênh, tốc
độ đặt đầu câu thơ đã diễn tả thật ấn tượng hình ảnh đầy thi vị của con thuyền. Con thuyền như bay lên
chạm tới trăng sao. Chất lãng mạn đã bao trùm cả bức tranh lao động, cả con thuyền đánh cá, biến công
việc nặng nhọc thành niềm vui, lòng yêu đời chứa chan. Thật chính xác khi nói : “Con thuyền đánh cá
tầm thường hàng ngày đã thành chiếc thuyền đi trong cảnh tiên”. Hình ảnh con người cũng theo đó
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 7
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
mà lớn lên, sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình tư thế của người làm chủ thiên nhiên, đất trời.
Những động từ, cụm động từ mang sắc thái mạnh : “đậu dặm xa, dò bụng biển, dàn đan thế trận, vây
giăng” vừa tô đậm sự hăm hở, hào hứng của không khí lao động, vừa tỏ rõ quyết tâm của con người.
Công việc ra khơi thật chẳng khác nào trận quyết chiến với thiên nhiên.
b) Vẻ đẹp của biển đêm (Khổ 2)
Cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho thơ Huy Cận những hình ảnh kì vĩ, lớn lao đồng thời cũng
mở ra những sắc màu lộng lẫy, rực rỡ như trẩy hội :
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long.
Phép liệt kê tu từ đã vẽ ra bức tranh biển cả với vô số loài cá lấp lánh nguồn sáng, nguồn sống.
Câu thơ thứ ba “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là một câu thơ có sự khai sinh khá thú vị. Huy
Cận từng tâm sự : lúc đầu, ông viết “Cá đuôi én quẫy trăng vàng choé”, với dụng ý miêu tả sự phong
phú của các loài cá trên biển Đông cùng với cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim, cá đé. Song, không hiểu vì
lí do gì khi cho xuất bản thì lại thành : “cái đuôi em”. Ông thấy, “cái đuôi em” cũng có cái thú vị của
nó. Gọi cá bằng em, thế là nhân hoá, thế là càng thể hiện được sự gắn bó, thân thiết giữa thiên nhiên
với con người. Thế là ta có câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Cá quẫy, trăng tan trong ánh
nước, vàng sáng cả một vùng biển cả. Hình ảnh thơ thật trữ tình, lãng mạn, mộng mơ. Rồi, thêm một
hình ảnh “đêm thở” mà ta như thấy cả màn đêm phập phồng, thấy cả gió, cả sóng nước dập dềnh.
Theo nhịp thở của vũ trụ, ngàn con sóng dồn đuổi ánh lên những đợt vàng sáng lấp lánh của vẩy cá
phản chiếu ánh trăng, ánh sao… Thật huyền diệu ! Phải chăng, cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng
trong khoảnh khắc ấy đã nối dài, chắp cánh cho hiện thực bay bổng, trở nên kì ảo ? Cái đẹp vốn có
trong tự nhiên phải chăng cũng chính nhờ đó mà càng được thăng hoa, đem đến những rung cảm mãnh
liệt trong xúc cảm của người đọc ?
c) Công việc đánh cá vất vả mà đầy chất thơ (Khổ 3)
Công việc đánh cá vất vả cũng được Huy Cận miêu tả trong cảm hứng lãng mạn tràn đầy:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào.
Tiếng hát lại được lặp lại. Tiếng hát căng buồm ra khơi, tiếng hát ngợi ca sự giàu đẹp của biển cả
và giờ đây là tiếng hát gọi cá đến với người. Đệm cho lời ca ấy đã có trăng, có sao. Những hình ảnh
nhân hoá trong khổ thơ đã thể hiện thật đẹp sự hoà quyện, gắn bó giữa thiên nhiên với con người. Cái
nhìn của Huy Cận đẹp và thơ làm sao ! Công việc lao động nặng nhọc của con người trên biển hoá nhẹ
tênh và thi vị vô cùng. Đúng là, cảm xúc thơ của Huy Cận đã thật sự được thăng hoa cùng tình yêu và
niềm vui say của những người lao động được làm chủ biển trời, làm chủ thiên nhiên. Trong cảm xúc
dạt dào, bay bổng ấy, lời thơ lắng lại trong lòng biết ơn sâu nặng :
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào
Nhà thơ cùng với những người lao động trên biển lắng lòng trong niềm tri ân sâu sắc. Lòng biển
được ví như lòng mẹ, tình biển được ví với tình mẹ. Câu thơ rưng rưng cảm xúc chân thành. Ý thơ của
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 8
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Huy Cận lại làm ta nhớ đến khoảng lặng trong thơ Tế Hanh :
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ,
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
(Quê hương)
d) Cảnh kéo lưới cũng trở nên thi vị (Khổ 4)
Công việc kéo lưới đậm chất hiện thực cũng được Huy Cận thể hiện bằng cảm hứng lãng mạn
dạt dào:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
“Kéo xoăn tay” là kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực khiến tất cả các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn.
Hình ảnh thơ khắc tạc một bức tượng ngư dân đầy sức sống. Thành quả lao động như đang mỉm cười
rạng rỡ trên từng câu chữ của Huy Cận. Hình ảnh thơ càng dạt dào màu sắc lãng mạn khi đặt bên cạnh
hình ảnh trong câu thơ thứ ba : “Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Câu thơ vụt sáng từ sắc màu rực
rỡ của ánh sáng “lóe rạng đông”. Hình ảnh thơ lung linh nhiều tầng nghĩa. Có thể nhà thơ đang miêu
tả sắc màu óng ánh từ những con cá tươi ngon đang ánh lên giữa rạng đông ngày mới. Song, câu thơ
cũng có thể hiểu là : vảy bạc đuôi vàng của những mẻ cá “kéo xoăn tay” đang bừng lên rạng đông của
biển. Người lao động kéo lưới và cũng là đang kéo về một tương lai rực sáng. Để rồi sau đó niềm vui
phơi phới : “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Công việc kéo lưới bình thường, vất vả bỗng chốc
trở nên thi vị, đẹp huyền ảo biết bao !
III. Kết bài
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận thật sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh
sáng, màu sắc và sức sống mãnh liệt. Đoạn thơ miêu tả cảnh lao động đánh cá đêm và vẻ đẹp huyền
ảo, rực rỡ, thần tiên của các loài cá trên biển giữa ánh trăng, sao và ánh nắng lúc rạng đông là đoạn thơ
có sức hấp dẫn đặc biệt. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã sáng tạo
ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dạt dào chất thơ. Tất cả đã góp phần làm giàu thêm cách nhìn cuộc
sống, góp phần thể hiện sâu sắc niềm tin yêu cuộc sống của nhà thơ, của người lao động Việt Nam.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 9
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 3: Cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên và con người lao động trong đoạn thơ sau:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
………………………………………
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)

I. Mở bài
“Món quà đặc biệt vùng mỏ Hồng Gai - Cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận là bài “Đoàn
thuyền đánh cá”(Xuân Diệu). Cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động sôi nổi của ngư dân vùng
biển Hồng Gai đã thật sự là nguồn cảm hứng mãnh liệt để bài thơ ra đời. Ở đấy, tác giả đã không che
giấu niềm tự hào của mình trước sự giàu đẹp của biển cả và khí thế lao động hào hứng của những
người lao động trên biển. Đặc biệt, đến với đoạn thơ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
………………………………………
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
ta sẽ cảm nhận được bức tranh thiên nhiên và con người lao động trên biển được miêu tả thật ấn
tượng, đầy cảm xúc.
II. Thân bài
1. Vài nét khái quát
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra đời năm 1958, sau chuyến đi thực tế dài ngày của Huy Cận ở
vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa, bay bổng về vẻ đẹp của
người lao động trước khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của biển cả qua cái nhìn thi vị của hồn thơ
Huy Cận. Cảm xúc thơ phát triển theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Đoạn
trích là bốn khổ thơ đầu của thi phẩm, thể hiện sinh động vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong
sự kết hợp thật hài hòa.
2. Phân tích cụ thể
2.1 Bức tranh thiên nhiên
a. Biển cả lúc hoàng hôn rực rỡ, tráng lệ mà gần gũi, thân thiết
Bức tranh thiên nhiên mở ra trong cái nhìn đầy cảm hứng lãng mạn của Huy Cận bắt đầu từ
cảnh hoàng hôn trên biển thật diễm lệ, hùng vĩ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Hình ảnh so sánh và sự linh hoạt trong nhịp ngắt ở câu thơ thứ nhất: có thể ngắt theo nhịp 3/4
hoặc 4/3 đã mở ra trước mắt người đọc một khung cảnh thiên nhiên thật kì vĩ, rực rỡ. Biển cả nhuốm
trong sắc đỏ của mặt trời. Để rồi, cùng với bước đi của thời gian, sóng đã nhanh chóng phủ lấp cái
ánh sáng đỏ rực ấy và màn đêm cũng buông xuống thật chóng vánh. Hình ảnh nhân hóa được nhà
thơ sử dụng thật nhuần nhị và hết sức tự nhiên : “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” đã diễn tả thật
khéo sự chuyển đổi của không gian và thời gian chớp nhoáng của thiên nhiên. Cái hay của hình ảnh
thơ còn là ở chỗ: nhà thơ đã nhìn biển cả, nhìn vũ trụ như một ngôi nhà: màn đêm sập xuống như
cánh cửa, còn những làn sóng chạy qua chạy lại như những chiếc then cài vào màn đêm. Cái nhìn
độc đáo, mới mẻ tạo cho hình ảnh thơ một vẻ đẹp kì vĩ mà ấm áp lạ thường. Cái nhìn về thiên nhiên,

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 10
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
vũ trụ của Huy Cận đã có một sự chuyển hướng. Trước Cách mạng, vũ trụ đi vào thơ ông trong
những hình ảnh lớn lao, vô biên, rợn ngợp, lạnh lẽo làm cho con người có cảm giác cô đơn, lẻ loi:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô, lạc mấy dòng
(Tràng giang)
Còn bây giờ, thiên nhiên ấy vẫn thật kì vĩ nhưng lại vô cùng gần gũi, thân thiết với con người!
b. Biển giàu có, trù phú bởi vô số các loài cá
Biển cả còn được khắc họa trong vẻ đẹp giàu có, trù phú bởi sự có mặt của vô số các loài cá:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Chim, thu, nhụ, đé là tên gọi của những loài cá biển ngon nổi tiếng. Tất cả đã tụ hội về đây,
trong trang thơ của Huy Cận để gợi về một vùng biển cả giàu có của Tổ quốc. Nhà thơ đã khéo dùng
hàng loạt hình ảnh nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của sự liên tưởng: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa
để mang đến cho độc giả những cảm xúc thẩm mĩ về vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ đến huyền ảo của các
loài cá trên biển. Hình ảnh “Cá thu biển đông như đoàn thoi” là một so sánh đẹp được xây dựng trên
một liên tưởng thực tế: cá thu thân dẹt hình thoi lướt rất nhanh trên mặt biển như con thoi đang chạy
đi chạy lại trên khung cửi dệt vải. Từ đó mới thấy hai câu thơ“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” là những nhân hóa rất tinh tế. Trong sự tưởng tượng của những người
đánh cá yêu quý biển cả quê hương mình, cá đi biển là cá dệt biển và cá vào lưới là cá dệt lưới. Có
thể nói trí tưởng tượng mãnh liệt của nhà thơ đã chắp cánh cho hiện thực khách quan trở nên bay
bổng, lung linh, làm tôn thêm vẻ đẹp của một vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng của Tổ quốc.
c. Biển đêm thi vị, huyền ảo, lãng mạn
Cảm hứng lãng mạn tiếp tục đem đến cho thơ Huy Cận những hình ảnh, sắc màu lộng lẫy, rực
rỡ như trẩy hội :
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long.
Câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” là một câu thơ có sự khai sinh khá thú vị. Huy Cận
từng tâm sự : lúc đầu, ông viết “Cá đuôi én quẫy trăng vàng choé”, với dụng ý miêu tả sự phong phú
của các loài cá trên biển Đông cùng với cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim, cá đé. Song, không hiểu vì lí
do gì khi cho xuất bản thì lại thành : “cái đuôi em”. Ông thấy, “cái đuôi em” cũng có cái thú vị của
nó. Gọi cá bằng em, thế là nhân hoá, thế là càng thể hiện được sự gắn bó, thân thiết giữa thiên nhiên
với con người. Thế là ta có câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Cá quẫy, trăng tan trong ánh
nước, vàng sáng cả một vùng biển cả. Hình ảnh thơ thật trữ tình, lãng mạn, mộng mơ. Rồi, thêm một
hình ảnh “đêm thở” mà ta như thấy cả màn đêm phập phồng, thấy cả gió, cả sóng nước dập dềnh.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 11
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Theo nhịp thở của vũ trụ, ngàn con sóng dồn đuổi ánh lên những đợt vàng sáng lấp lánh của vẩy cá
phản chiếu ánh trăng, ánh sao… Thật huyền diệu ! Phải chăng, cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng
trong khoảnh khắc ấy đã nối dài, chắp cánh cho hiện thực bay bổng, trở nên kì ảo ? Cái đẹp vốn có
trong tự nhiên phải chăng cũng chính nhờ đó mà càng được thăng hoa, đem đến những rung cảm mãnh
liệt trong xúc cảm của người đọc ?
2.2 Hình ảnh con người
a. Người lao động ra khơi đầy hào hứng, lạc quan
Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, con người xuất hiện thật đẹp:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hình ảnh con người hiện lên qua hình ảnh đoàn thuyền. Hình ảnh “đoàn thuyền” tự bản thân
nó đã hàm chứa khí thế của buổi xuất quân. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ trên biển mà là cả
một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”,
chữ “lại” cho biết đây là một hoạt động thường nhật, lặp đi lặp lại mỗi ngày, chứ không phải là đột
xuất, cá biệt. Mặt khác, chữ “lại” còn biểu thị ý nghĩa ngược lại, ngược chiều so với hoạt động có
trước. Có một cái gì thật thách thức trong từ “lại” ấy. Hình ảnh thơ tương phản với hai câu đầu đủ
sức bật dậy khí thế và quyết tâm lao động của con người trên biển. Thiên nhiên thì “đóng cửa, cài
then” nhưng con người thì lại bắt đầu một hành trình. Thật hăm hở và khẩn trương. Thật chủ động
và sáng tạo. Con người bỗng chốc vụt lớn lên, cường tráng, tự tin trong tư thế của người non sông
đất nước. Có lẽ, chính điều đó đã đem đến cho bài thơ của Huy Cận một hình ảnh thơ tràn đầy chất
lãng mạn:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Công việc đánh bắt cá trên biển quả là công việc nặng nhọc và đầy hiểm nguy. Nhưng đoàn
quân vẫn cứ cất cao tiếng hát. Khúc hát lên đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no
gió căng lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật vừa tả thực, vừa mang ý nghĩa
tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế hào hứng, nô nức của ngư dân vùng
biển. Đoàn thuyền ra khơi bằng buồm căng gió và buồm căng đầy tiếng hát, men say của những trái
tim tràn đầy nhiệt huyết với biển cả bao la. Một hình ảnh thật đẹp của sự chan hòa giữa con người và
vũ trụ. Hình ảnh giàu chất thơ ấy lại làm ta nhớ đến một ý thơ khác của Tế Hanh khi viết về sông
nước quê hương:
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
(Quê hương)
Trở lại với hình ảnh thơ của Huy Cận, người đọc một lần nữa cảm nhận được tính chất hành
khúc của bài thơ trong hình ảnh, câu chữ, nhịp điệu. Ta nghe rất rõ từng tiếng hát, từng lời ca say
sưa, hứng khởi của người lao động trong lần ra khơi ấy.
b. Người lao động làm chủ biển trời đầy khí thế quyết tâm chinh phục thiên nhiên
Cùng với gió căng buồm, cùng với câu hát hào hứng, hăm hở, hình ảnh người lao động tiếp
tục được miêu tả trong những hình ảnh khỏe khoắn, tự tin của người làm chủ biển trời, khát khao chiến
thắng trong hành trình chinh phục thiên nhiên:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 12
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579
Luyện thi lớp 10 (Bài nâng cao)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Khổ thơ mở ra một không gian thật khoáng đạt với gió, trăng, mây, với chiều cao (mây cao), chiều
rộng (biển bằng) và chiều sâu (bụng biển). Những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng,
dò bụng biển” đã biến con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển bao la thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ
hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đánh cá lấy gió làm lái, lấy trăng
làm buồm và lướt với vận tốc phi thường giữa cái vô hạn của vũ trụ; vậy nên con thuyền đánh cá không
nhỏ bé mà khổng lồ. Lãng mạn hơn, con thuyền đánh cá còn là con thuyền thơ. Từ “lướt” nhẹ tênh, tốc
độ đặt đầu câu thơ đã diễn tả thật ấn tượng hình ảnh đầy thi vị của con thuyền. Con thuyền như bay lên
chạm tới trăng sao. Chất lãng mạn đã bao trùm cả bức tranh lao động, cả con thuyền đánh cá, biến công
việc nặng nhọc thành niềm vui, lòng yêu đời chứa chan. Thật chính xác khi nói : “Con thuyền đánh cá
tầm thường hàng ngày đã thành chiếc thuyền đi trong cảnh tiên”. Hình ảnh con người cũng theo đó
mà lớn lên, sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình tư thế của người làm chủ thiên nhiên, đất trời.
Những động từ, cụm động từ mang sắc thái mạnh : “đậu dặm xa, dò bụng biển, dàn đan thế trận, vây
giăng” vừa tô đậm sự hăm hở, hào hứng của không khí lao động, vừa tỏ rõ quyết tâm của con người.
Công việc ra khơi thật chẳng khác nào trận quyết chiến với thiên nhiên.
III. Kết bài
Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất
ngờ, dạt dào chất thơ; âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan, đoạn thơ của Huy Cận đã đem đến
cho người đọc một bức tranh thơ thật đẹp. Vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp của con người lao động
mới tạo nên một kết hợp hài hòa, tràn đầy chất thơ, thật tuyệt! Qua đó, nhà thơ cũng đã bộc lộ niềm
vui, niềm tự hào trước vẻ đẹp của đất nước, con người và cuộc sống mới

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 13
Trung tâm bồi dưỡng văn hóa Kiến Văn, số 42 đường 30.4
Biên soạn: Huỳnh Thị Thu Ba - GV THPT chuyên Lê Quý Đôn; ĐT: 0983.527.579

You might also like