Professional Documents
Culture Documents
Zero Budget Natural Farming in India KAYLA-NGUYEN
Zero Budget Natural Farming in India KAYLA-NGUYEN
ISSN: 2168-3565 (Bản in) 2168-3573 (Trực tuyến) Trang chủ tạp chí: https://www.tandfonline.com/loi/wjsa21
Canh tác Tự nhiên với Ngân sách bằng Không ở Ấn Độ - từ khi khởi đầu cho
đến khi thể chế hóa
Để trích dẫn bài viết này: Ashlesha Khadse & Peter M. Rosset (2019): Canh tác Tự nhiên với
Ngân sách bằng Không ở Ấn Độ - từ khi khởi đầu đến khi thể chế hóa, Các Hệ Thống Thực
Phẩm Sinh Thái Học Nông Nghiệp Bền Vững
Để liên kết đến bài viết này: https://doi.org/10.1080/21683565.2019.1608349
Có thể tìm thấy đầy đủ Điều khoản & Điều kiện truy cập và sử dụng tại
https://www.tandfonline.com/action/journalInformation?journalCode=wjsa21
CÁC HỆ THỐNG THỰC PHẨM SINH THÁI HỌC NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
https://doi.org/10.1080/21683565.2019.1608349
Canh tác Tự nhiên với Ngân sách bằng Không ở Ấn Độ - từ khi khởi đầu cho đến khi thể
chế hóa
Ashlesha Khadse a và Peter M. Rosset b,c
a
Trung tâm Amrita Bhoomi, Chamarajanagara, Karnataka, Ấn Độ; bBộ Nông nghiệp, Xã hội và
Môi trường, Trường Cao đẳng Biên giới phía Nam (ECOSUR), San Cristobal de las Casas,
Mexico; Khoa đào tạo của Crateús và Chương trình Sau Đại học Về Xã hội học, Đại học Bang
Ceará (UECE), Brazil
TRÍCH YẾU TỪ KHÓA
Bài viết này mô tả sự phát triển của Canh tác tự nhiên với ngân sách Sinh thái học nông nghiệp; KRRS;
bằng không (ZBNF) ở Ấn Độ. Khởi nguồn từ một phong trào xã hội do Mở rộng quy mô sinh thái học nông
nghiệp;
nông dân lãnh đạo ở bang Karnataka, trở thành thể chế hóa trong một
Subhash Palekar;
chương trình quốc gia ở Andhra Pradesh, ZBNF đang đạt được quy mô Canh tác tự nhiên ngân sách không
và tiếp cận ngày càng nhiều hộ nông dân. Chúng tôi xem xét một số yếu
tố chính đã kích hoạt sự phát triển của ZBNF, cũng như làm nổi bật một
số thách thức và mâu thuẫn có thể phát sinh trong quá trình thể chế hóa.
Giới thiệu
Ở Ấn Độ, xét về phương diện lịch sử, các phong trào nông nghiệp bền vững từng được dẫn dắt
và là khớp nối bởi khu vực Tổ chức Phi Chính phủ (NGO) và các nhà hoạt động chính trị giai
cấp trung lưu ở đô thị hơn là các phong trào nông dân (Brown 2018). Mặt khác, các trường hợp
thành công trong nông nghiệp bền vững bất chấp những thành tựu quan trọng, phần lớn vẫn là
“các hòn đảo thành công” và quy mô ảnh hưởng không đủ lớn để có thể trở thành một “làn sóng
thay đổi” (Gregory, Plahe, and Cockfield 2017).
Chúng tôi lập luận rằng có một trường hợp ngoại lệ cho xu hướng này là Phong trào Canh
tác Tự nhiên với Ngân sách bằng Không (ZBNF) được khởi xướng tại Karnataka. Trong khi đó,
nó không phải là phong trào nông dân từ các giai cấp hoặc tầng lớp được đặc quyền cận biên, và
có nhiều thành viên giai cấp trung lưu ở đô thị, nhưng chủ yếu là phong trào nông thôn bao gồm
sự lan truyền một cách tự phát giữa các tầng lớp nông dân chiếm hữu đất vừa và nhỏ (Khadse và
cộng sự 2017). Nó tán thành các giá trị về sự tự lực và quyền tự trị của những người theo chủ
nghĩa Gandhi tân thời. Nó đã được vận hành bên ngoài phạm vi hoạt động của các nhà tài trợ thể
chế quốc tế và các mạng lưới lãnh đạo bởi NGO đối với nông nghiệp bền vững ở Ấn Độ. Trong
số các lý do đó chính là sự khước từ nhận bất kỳ khoản đầu tư nào của các thể chế quốc tế và tổ
chức phi chính phủ bởi người sáng lập kiêm đạo sư Subhash Palekar, người nhấn mạnh tầm quan
trọng của quyền tự chủ.1 Thế nhưng, ZBNF hiện đã lan rộng khắp đất nước và hàng loạt các sáng
LIÊN HỆ Ashlesha Khadse ) ashlesha.khadse@gmail.com ) Trung tâm Amrita Bhoomi, Chamarajanagara, Karnataka, Ấn
Độ
Phiên bản màu của một hoặc nhiều số liệu trong bài viết có thể được tìm thấy trực tuyến tại www.tandfonline.com/wjsa.
© 2019 Taylor & Francis Group, LLC
kiến chính sách mang tầm quan trọng đang nổi lên bất ngờ. Trong khi ZBNF được đẩy mạnh như
một phong trào chống bá quyền, thách thức những ý tưởng thống trị toàn cầu hóa kinh tế, khi
ZBNF trở thành thể chế hóa trong các chính sách mô hình nhà nước lãnh đạo mang ý nghĩa quan
trọng, giờ đây nó có nguy cơ bị vướng vào các thể chế bá quyền mà nhà lãnh đạo của nó đã phản
đối.
Từ nguồn gốc của một phong trào xã hội từ năm 2002 đến 2015, ZBNF đã lan rộng ở cấp
cơ sở thông qua các nỗ lực chung của một số người xuất sắc của các phần tử nông dân và các
đồng minh phong trào, theo cách gọi một cách lỏng lẻo là 'Phong trào ZBNF' ở Karnataka, và
theo sau đó là các bang khác của Ấn Độ, đặc biệt là ở Nam Ấn Độ. Nó hầu như không nhận được
bất kỳ sự chú ý nào từ các nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học hoặc thậm chí các tổ chức
phi chính phủ. Song, ngày nay, Andhra Pradesh- một bang miền nam Ấn Độ, đang cố gắng mở
rộng quy mô ZBNF trên toàn bộ bang như thể các chính sách công toàn diện. Lấy cảm hứng từ
Andhra Pradesh, các chính phủ tiểu bang khác cũng đang thể hiện sự quan tâm mạnh mẽ và đã
thực hiện phân bổ ngân sách ban đầu. Các nhà hoạt động đã bày tỏ lo ngại rằng các nỗ lực do nhà
nước lãnh đạo để mở rộng quy mô ZBNF có thể phụ thuộc vào các tổ chức tài chính quốc tế
cùng với khả năng xung đột lợi ích (Saldanha 2018). Dù sao chương trình ZBNF của Andhra
Pradesh cũng đang đầu tư nguồn lực vào sinh thái học nông nghiệp do nông dân lãnh đạo, hỗ trợ
học tập tập thể, các tổ chức xã hội do phụ nữ lãnh đạo và tuyển dụng thanh niên nông thôn – đối
lập hoàn toàn với sự can thiệp truyền thống của nhà nước trong nông nghiệp.
Bài tiểu luận này cố gắng cung cấp một cái nhìn tổng quan về một số phát triển then chốt
trong sự tăng trưởng lớn mạnh của ZBNF từ khi thành lập cho đến khi được thể chế hóa. Nó
phác họa một số yếu tố tác động chính đằng sau sự tăng trưởng của nó cũng như phản ánh về
một số thách thức và mâu thuẫn đã nảy sinh trong quá trình này. Bài thuyết trình mô tả trước tiên
là các nhân tố đằng sau việc nhân rộng ZBNF, sau đó xem xét sự phát triển ban đầu của phong
trào ZBNF ở Karnataka, tiếp theo là quá trình thể chế và mô hình của chương trình ở Andhra
Pradesh.
Giống như sinh thái học nông nghiệp là một nguyên lý khoa học, tập hợp các thực tiễn và
một phong trào xã hội (Wezel và cộng sự 2009), ZBNF cũng biểu thị cả tập hợp thực tiễn và
phong trào xã hội. Do đó, chúng tôi sử dụng thuật ngữ ZBNF cho cả thực tiễn và phong trào.
Các yếu tố chính đằng sau việc mở rộng quy mô ZBNF ở Karnataka đã từng được
Khadse và cộng sự 2017 nghiên cứu trước đây. Những yếu tố này phần lớn được rút ra từ các lý
thuyết phong trào xã hội như lý thuyết về cơ cấu, lý thuyết huy động nguồn lực và khuôn khổ cơ
hội chính trị, cùng với bằng chứng thực nghiệm từ các trường hợp thành công và các tài liệu mới
nổi về việc nhân rộng sinh thái học nông nghiệp (Altieri và Nicholls 2008; Parmentier 2014;
Varghese và HansenKuhn 2013; Wijeratna 2018), và sau đó được phát triển thêm bởi Mier y
Terán và cộng sự. (2018). Họ nhận dạng tám yếu tố tác động chính thông qua một phân tích về
năm trường hợp tượng trưng của sinh thái học nông nghiệp, bao gồm phong trào ZBNF ở Ấn Độ.
Đó là: (1) các cuộc khủng hoảng thúc đẩy việc tìm kiếm các phương pháp thay thế; (2) tổ chức
xã hội; (3) các phương pháp kiến tạo quá trình dạy-học; (4) thực hành sinh thái học nông nghiệp
hiệu quả; (5) diễn ngôn năng động; (6) các đồng minh bên ngoài; (7) thị trường thuận lợi; và (8)
các cơ hội chính trị và các chính sách thuận lợi. Chúng tôi sẽ phản ánh các yếu tố này trong bối
cảnh bộc lộ sự khuếch đại của ZBNF ở Ấn Độ.2
Thực tiễn về ZBNF
ZNBF là một phương pháp canh tác sinh thái học nông nghiệp nhằm thúc đẩy cây trồng phát
triển hài hòa với thiên nhiên. Bộ công cụ của ZBNF được phát triển bởi đạo sư Subhash Palekar
vào những năm 1990. ZBNF có hai trục chủ yếu, một cấu trúc sinh thái học nông nghiệp và cấu
trúc khác. Một mặt, đó là về việc cải thiện độ phì nhiêu của đất thông qua một số nguyên tắc sinh
thái học nông nghiệp, bao gồm đa dạng hóa, tái tạo chất dinh dưỡng, tăng dần các tương tác sinh
vật có lợi, trong số những thứ khác (Palekar 2006). ZBNF phản đối việc sử dụng đầu vào bên
ngoài hoặc phân bón vô cơ. Mặt khác, ZBNF nói về việc ngưng kết nối các nông dân ra khỏi các
đầu vào bên ngoài và thị trường tín dụng để tạo quyền tự chủ bằng cách không mua bất cứ thứ gì
từ các tác nhân bên ngoài và đặc biệt là từ các tập đoàn (Sensu Rosset và MartínezTorres. 2012).
Bảng 1. Hệ dẫn động bốn bánh của ZBNF, Nguồn: (APZBNF 2018).
Hệ dẫn động bốn bánh của ZBNF Lợi ích
Jivamrita: Một sự trao đổi vi sinh lên men có nguồn gốc từ Kích thích hoạt động của vi sinh vật để tạo nên các chất dinh
phân bò và nước tiểu, đường thô, bột từ các loại đậu, và đất dưỡng sinh học; bảo vệ chống lại mầm bệnh.
Bijamrita: một lớp phủ vi sinh cho hạt giống, dựa trên Bảo vệ rễ non khỏi nấm và các mầm bệnh truyền qua từ hạt
phân bò, nước tiểu và vôi hoặc đất
Acchadana- lớp phủ: Bao phủ bề mặt đất bằng cách trồng cây Tạo mùn, bảo toàn lớp đất trên cùng, tăng khả năng giữ nước,
che phủ đất và dư lượng cây trồng khuyến khích nhóm động vật đất, ngăn ngừa cỏ dại
Whapahasa: thông khí đất, một kết quả của jivamrita và Tăng khả năng cung cấp nước, hiệu quả sử dụng nước, tăng
acchadana – là điển hình cho những biến đổi trong việc quản khả năng thích ứng khi khô hạn
lý nước dẫn đến sự cải thiện cấu trúc đất và hàm lượng mùn
Palekar tuyên bố rằng nước tiểu và phân từ một con bò là đủ để canh tác 30 mẫu đất, và
do đó, việc sở hữu bò đối với từng cá thể nông dân là không cần thiết. Ở những nơi không có bò
địa phương, có thể luân phiên thay thế từ động vật khác như trâu hoặc thậm chí nước tiểu của
con người4, nhưng Palekar cho rằng các giống bò bản địa có nhiều vi khuẩn tốt nhất và tuyệt vời
nhất. Các giống bò bản địa ít đòi hỏi nhiều ở đầu vào và dễ quản lý hơn đối với các nông dân
thiếu thốn nguồn lực, nhưng quần thể của chúng đã giảm đáng kể (Balaraju, Tripathi và Yadav
2017). Một số nông dân chúng tôi đã phỏng vấn ở Karnataka từng gặp khó khăn khi tìm bò bản
địa. Đây cũng là trường hợp tương tự ở Kerala (Münster 2016). Một số người khác đã mua phân
và nước tiểu từ những người nông dân khác hoặc những người chăn gia súc không có đất. Tại
AP, chính phủ tiểu bang đã hỗ trợ tăng thêm phân và nước tiểu của bò cho nông dân. Tại AP,
chính phủ tiểu bang đã hỗ trợ tăng thêm phân và nước tiểu của bò cho nông dân. Chúng tôi đã
đến thăm một trại chủ chăn nuôi gia súc truyền thống, người có bộ sưu tập nước tiểu chuồng đặc
biệt được dựng lên thông qua hỗ trợ của chính phủ theo ZBNF. Ông đã thu thập phân và nước
tiểu và bán chúng cho các nhóm nông dân ZBNF lân cận.
Lớp phủ trong ZBNF có nhiều hình thức khác nhau. "Lớp phủ sống" được thúc đẩy bằng
cách trồng các loại cây che phủ đất gồm sự pha trộn giữa đơn tử diệp (như các loại hạt kê) và
song tử diệp (như các loại đậu). Các đơn tử diệp cung cấp các chất dinh dưỡng như Kali
cacbonat hoặc phân lân, trong khi các song tử diệp giúp cố định đạm (Palekar 2006). Lớp phủ
rơm rạ cũng được thúc đẩy, sử dụng dư lượng cây trồng khô.
Waaphasa có nghĩa là hơi nước. Palekar cho rằng rễ hấp thụ hơi nước chứ không phải
nước. Ông thúc đẩy một điều kiện vi khí hậu xung quanh rễ, nơi có sự pha trộn của các phân tử
không khí và nước cũng như để loại bỏ lượng nước dư thừa. Ông quy định chỉ tưới nước khi mặt
trời lên cao vào buổi trưa để hình thành whaaphasa tối ưu. Palekar cho rằng có thể giảm tới 90%
lượng nước sử dụng thông qua các thực hành ZBNF khiến nó trở nên lý tưởng cho canh tác chủ
yếu nhờ vào nước mưa (Palekar 2006).
Palekar cũng chỉ định một số loại thuốc trừ nấm và thuốc trừ sâu được làm từ các thành
phần tự nhiên có nguồn gốc địa phương như lá neem, ớt, tỏi, thuốc lá, bơ sữa chua, v.v. Tăng
cường tính đa dạng chức năng là một nguyên lý cơ bản mang tính quyết định của ZBNF; một số
phương pháp phối hợp cây trồng, với quan điểm tăng cường chức năng đa dạng sinh học được đề
xuất bởi Palekar. Ông từ chối bất kỳ sự bổ sung nào từ bên ngoài, bao gồm cả phân trùn quế
được tạo ra bởi các loài giun ngoại lai và thay vào đó là hỗ trợ phát triển bảo tồn nguyên vị của
giun đất bản địa.
Về mặt thiết kế trang trại, mô hình phổ biến nhất của Palekar là cái mà ông gọi là mô
hình năm lớp; một loại mô hình nông lâm kết hợp có tích hợp nhiều cây cối với nhiều tầng khác
nhau của tán thực vật, mỗi lớp ở một tầng tối ưu để nhận ánh sáng mặt trời cần thiết. Ông đề xuất
nhiều cách kết hợp cây trồng và cây khác nhau, bao gồm hàng rào sống ở mép rìa và mương để
thu hoạch nước. Các phép đo cẩn thận được quy định để thiết lập bao nhiêu hàng và khoảng cách
ra sao. Nông dân đã điều chỉnh thêm mô hình này để phù hợp hơn với nhu cầu của riêng họ và ở
Karnataka, nhiều phiên bản địa phương có thể được tìm thấy. Xem hình minh họa 1 để xem
phiên bản của mô hình.
Hình minh họa 1. Một phiên bản của mô hình Palekar năm lớp. Nguồn: (BNNMurali 2016).
Nhiều mô hình canh tác truyền thống khác cũng được nông dân thực hiện, ví dụ như
trồng ragi (một loại cây kê canh tác nhờ vào nước mưa), mô hình canh tác guli-ragi hoặc ô vuông
từ Karnataka, thúc đẩy khoảng cách rộng hơn, tương tự như mô hình Hệ thống thâm canh lúa
(SRI) dẫn đầu năng suất cao hơn (Adhikari et al. 2018). Chính phủ AP đã từng đề xướng các mô
hình guli ragi và SRI trong số nông dân của họ và kết quả thu nhập có thể được nhìn thấy trong
Bảng 2.
Trong các cuộc phỏng vấn với nông dân ở Karnataka, họ tiết lộ rằng việc yêu cầu đòi hỏi
về nhân công cho thiết lập ban đầu của mô hình năm lớp là cao. Tuy nhiên, một khi cây được
thiết lập, yêu cầu đòi hỏi về nhân công giảm đáng kể theo thời gian. Lớp phủ ngăn ngừa yêu cầu
đòi hỏi về nhân công liên quan đến việc làm cỏ trong tương lai.
Các nông dân mà không có khả năng tiếp cận nhân công để chuẩn bị công tác jiwamrita
thì có thể sử dụng một dạng hình thức khô của jiwamrita là ghanajiwanrita. So với canh tác hóa
học, yêu cầu đòi hỏi về nhân công trong tất cả các mô hình của ZBNF giảm dần theo thời gian.
Tuy nhiên, nông dân được phỏng vấn giải thích rằng yêu cầu nhân công phụ thuộc vào quy mô
của trang trại và loại cây trồng; trồng mía và lúa thì đòi hỏi nhiều nhân công. Một trang trại nhỏ,
dưới 1-2 ha, có thể được quản lý bởi sức lao động từ hộ gia đình của chính trang trại đó, và
chúng tôi đã phỏng vấn một vài gia đình phụ thuộc hoàn toàn vào sức lực của họ cùng với sự hỗ
trợ dài hạn từ phía gia đình. Nông dân sở hữu mảnh đất lớn (trên 2 ha) thì phải thuê nhân công. Ở
Karnataka, lao động nông trại khả dụng bị suy giảm mạnh, đặc biệt là trong mùa cao điểm như
mùa thu hoạch và hàng loạt nông dân đang áp dụng các chiến lược để đối phó với tình trạng
thiếu hụt lao động như tăng cơ giới hóa nông nghiệp, trồng trọt luân phiên, cho thuê đất hay là bỏ
hoang đất (Satishkumar và Umesh 2018). Trong các mô hình ZBNF, giống như năm lớp, không
có mùa cao điểm, vì sản lượng trang trại đa dạng trong suốt cả năm, tiếp tục giảm áp lực để có
được lao động trong thời gian khan hiếm.
Thực tập sinh cần được làm sáng tỏ rằng 'Ngân sách bằng không' không phải có nghĩa
đen là chi phí bằng 'không', mà ngụ ý rằng nhu cầu tài chính bên ngoài bằng không, và mọi chi
phí phát sinh đều có thể được bù đắp bằng nguồn thu nhập đa dạng đến từ đa dạng hóa trang trại
hơn là phụ thuộc vào một nền độc canh (APZBNF 2018). Palekar đã phải đối mặt với một số
kháng cự vì việc sử dụng các điều khoản “ngân sách bằng không”, vì nhiều người đặt câu hỏi về
tính chính xác của thuật ngữ này, do một số chi phí có liên quan. Gần đây, anh đã đổi tên ZBNF
thành Canh Tác Tự Nhiên Subhash Palekar (SPNF). Điều này đã tạo ra sự nhầm lẫn cũng như có
nhiều người, bao gồm cả chính phủ AP, tiếp tục sử dụng thuật ngữ ZBNF.
Chính phủ AP đã nhận được sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ chuyên nghiệp,
mỗi tổ chức có gói thực hành riêng của họ rút ra rất nhiều từ ZBNF của Palekar, nhưng cũng bao
gồm nhiều thực tiễn khác thường được sử dụng trong các hệ thống sinh thái học nông nghiệp,
như bẫy pheromone, bẫy keo màu vàng, bẫy cây trồng, ủ phân NADEP5, Navdhanya hoặc hệ
thống chín hạt giống, sào cho chim đậu, bẫy đèn, bón phân cừu, bón phân lá xanh, hay canh tác
kết hợp với cá và lúa.
Bảng 2. Sự so sánh giữa thu nhập ròng trong các loại cây lương thực khác nhau được trồng
trong ZBNF so với canh tác hóa học, cũng như chỉ ra rằng ZBNF chỉ đạo để có thu nhập
ròng tốt hơn. Điều này cũng đã được giải thích trong trường hợp trồng lúa bởi Amareswari
and Sujathamma 2014 tại quận Chittoor ở AP. Nguồn (APZBNF 2018).