Professional Documents
Culture Documents
Ấn Độ Phật Thích Ca - Nguyễn Hiến Lê
Ấn Độ Phật Thích Ca - Nguyễn Hiến Lê
Ấn Độ Phật Thích Ca - Nguyễn Hiến Lê
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ
I. ĐẤT ĐAI
Phát kiến Ấn Độ lần thứ nhì – Nhìn qua trên bản đồ – Ảnh
hưởng của khí hậu
Đây là một bán đảo mênh mông rộng trên năm triệu cây
số vuông, lớn gấp hai chục lần xứ Grande Bretagne, ba trăm
[5]
hai chục triệu dân , nhiều hơn toàn thể châu Mỹ (Nam và
Bắc), và bằng một phần năm dân số thế giới, nền văn minh
trên bán đảo phát triển điều đặn lạ thường từ thời Mohenjo-
daro (-2900 hoặc sớm hơn nữa) cho tới thời Gandhi, Raman
và Rabindranath Tagore, dân chúng hiện còn theo đủ các tín
ngưỡng có thể tưởng tượng được, từ hình thức sùng bái ngẫu
tượng của các dân tộc dã man tới một hình thức phiếm thần
giáo tế nhị nhất, duy linh nhất, các triết gia của họ đã đưa ra
đủ các triết thuyết về chủ đề nhất nguyên, từ các thuyết
[6]
Upanishad xuất hiện tám thế kỉ trước Ki Tô tới thuyết của
triết gia Sankara, sống sau Ki Tô tám thế kỉ, các nhà bác học
của họ ba ngàn năm trước đã làm cho khoa thiên văn tấn bộ
và hiện nay được giải thưởng Nobel, làng mạc của họ được
tổ chức theo những qui tắc rất dân chủ đã có từ thời xửa
thời xưa, không ai nhớ từ hồi nào nữa, kinh đô của họ đã
[7] [8]
được các minh quân Açoka và Akbar cai trị, vừa sáng
suốt vừa nhân từ, các người hát rong của họ đã ngâm những
thiên anh hùng ca cổ như anh hùng ca của Homère, còn các
thi sĩ của họ hiện nay được khắp thế giới đọc, các nghệ sĩ
của họ đã xây cất từ Tây Tạng đến Tích Lan, từ Cao Miên
đến Java những đền vĩ đại để thờ các thần linh Ấn Độ, và đã
chạm trổ hàng chục hàng trăm lâu đài cung điện tuyệt đẹp
cho các vua chúa. Đó là xứ Ấn Độ mà hiện nay nhiều người
đang gắng sức kiên nhẫn nghiên cứu để phát lộ cho người
phương Tây thấy một thế giới mới của trí tuệ mà khỏi tự hào
[9]
rằng trên địa cầu chỉ có họ mới văn minh .
Xứ đó là một tam giác mênh mông, đáy ở phía Bắc, tức
dãy núi Himalaya (Hi Mã Lạp Sơn) quanh năm tuyết phủ,
đỉnh ở phía Nam, tức đầu đảo Tích Lan, quanh năm nóng
như thiêu. Phía Tây là Ba Tư mà dân chúng, ngôn ngữ, thần
thánh đều rất gần gũi với Ấn Độ thời Veda, cơ hồ hai xứ là
bà con chú bác với nhau. Nếu chúng ta theo biên giới phía
[10]
Bắc mà tiến về phía Đông thì sẽ gặp A Phú Hãn , đây là
[11]
Kadahar , xưa mang tên là Gandhara, nơi mà nghệ thuật
điêu khắc Hi Lạp và Ấn Độ dung hoà với nhau trong một thời
gian rồi tách biệt nhau ra không còn bao giờ gặp lại nhau
nữa, tiến lên phía Bắc chút nữa, đây là Kaboul nơi xuất phát
những cuộc xâm lăng đẫm máu Hồi và Mông Cổ, và hai dân
tộc đó đã làm chủ Ấn Độ trong ngàn năm. Ở trong biên giới,
đây là Peshawer chỉ cách Kaboul một ngày ngựa. Bạn nhận
thấy đất Nga ở xứ Pamir thật sát Ấn Độ, thông với Ấn Độ
bằng những đèo Hindoukouch. Do đó mà sinh ra những rắc
rối về chính trị. Ở cực Bắc Ấn Độ là tỉnh Cachemire mà nội
cái tên cũng nhắc nhở cho ta nhớ sự vinh quang thuở xưa
của nghệ thuật dệt Ấn Độ. Ở phía Nam Cachemire là miền
Pendjab – nghĩa là “miền năm con sông” – với châu thành
[12]
lớn là Lahore và kinh đô mùa hè của Ấn Độ, tức Simla ,
trên dãy hoành sơn Himalaya (có nghĩa là “xứ tuyết phủ”).
Miền Penjab – tây có một con sông lớn chảy qua, sông Indus
dài trên ngàn rưởi cây số, tên Ấn của nó là Sindhu chỉ có
nghĩa là sông, người Ba Tư đổi nó thành Hindu và gọi tất cả
miền Bắc Ấn Độ là Hindustan, nghĩa là xứ các con sông. Từ
tiếng Ba Tư Hindu, người Hi Lạp xâm lăng chuyển qua thành
tiếng Inde.
Từ miền Penjab, sông Jumna và sông Gange [sông Hằng]
chảy lờ đờ về phía đông nam. Sông Jumna chảy qua kinh đô
Delhi và lăng Taj Mahal ở Agra soi bóng trên dòng nước của
nó, còn sông Gange, cứ rộng lớn lần lần tới thánh địa
Bénarès [Ba Nại La], mỗi ngày tẩy uế cho mười triệu tín đồ,
những chi nhánh của nó làm cho xứ Bengale và miền chung
quanh Calcutta – cựu kinh đô Anh – hoá phì nhiêu. Tiến về
phía Đông thì tới xứ Miến Điện với những ngôi chùa giát
vàng ở Rangoon và con đường Mandalay chói chang ánh
sáng. Từ Mandalay bay ngang qua Ấn Độ non sáu ngàn cây
số thì tới phi cảng Karachi. Một phi cơ bay ở phía Nam sông
[13]
Indus sẽ vượt qua không phận xứ Radjputana của dân
tộc anh dũng Radjpure và các thành phố nổi danh Gwalior,
Chitor, Jaipur, Ajmer và Udaipur. Ở phía Nam và phía Tây
Radjputana là tỉnh Bombay với những châu thành dân cư
đông như kiến: Surate, Ahmedabad, Bombay, và Poona. Ở
phía Đông và phía Nam là tiểu quốc Hyderabad và Mysore
(kinh đô cũng mang tên đó) mà các vua chúa đều có óc duy
tân tiến bộ. Trên bờ biển phía Tây là thành Goa thuộc Bồ,
trên bờ biển phía Đông là thành Pondichery thuộc Pháp, mỗi
thành chỉ rộng vài cây số vuông mà người Anh muốn an ủi
người Bồ Đào Nha và người Pháp đã nhường cho họ chiếm.
Dọc bờ vịnh Bengale là tỉnh Madras: giữa tỉnh là thành phố
Madras đẹp đẽ, còn ở ranh giới phía Nam là các đền Tanjore,
Trichinopoly, Madura, Rameshvaram tối tăm nhưng kì vĩ. Sau
cùng là “chiếc cầu Adam” – có hàng mỏm đá ló ra một nửa
lên khỏi mặt nước – đưa ta tới đảo Tích Lan nơi mà một ngàn
sáu trăm năm trước văn minh chói toả rực rỡ. Và tất cả
những chỗ tôi vừa mới kể qua đó chỉ mới là một phần nhỏ
của Ấn Độ mà thôi.
Không nên coi Ấn Độ là một quốc gia như Ai Cập,
Babylone hoặc Anh mà nên coi là một lục địa cũng đông
dân, nhiều ngôn ngữ như châu Âu, và về phương diện khí
hậu, chủng tộc, văn học, triết học, nghệ thuật cũng gần đa
dạng như châu Âu. Ở miền Bắc, các cuồng phong lạnh như
băng của dãy Himalaya ào ào thổi quanh năm và khi những
ngọn gió đó gặp những hơi nước nóng ở phía Nam thì tạo
thành những đám sương mù u ám cả nền trời. Ở miền
Pendjab, đất phù sa của mấy con sông lớn bồi thành những
cánh đồng phì nhiêu không đâu bằng, nhưng tiến xuống
phía Nam nữa thì ánh nắng chang chang quanh năm, khô và
cằn, nông phu phải làm việc cực khổ như mọi mới sản xuất
được chút ít. Xét chung thì người Anh không ai ở Ấn Độ quá
năm năm liên tiếp và sở dĩ một trăm ngàn người Anh cai trị
được ba trăm triệu người Ấn, chính là nhờ họ không bao giờ
ở lâu trong xứ.
Đó đây, ít nhất là trên một phần năm đất đai, còn những
khu rừng hoang của thời khai thiên lập địa, đầy cọp, báo,
[14]
chó sói và rắn. Phía cuối bán đảo, miền Deccan , khí hậu
nóng và khô, đôi khi nhờ gió biển mà mát được một chút.
Nhưng từ Delhi tới Ceylan, đặc điểm khí hậu Ấn Độ là nóng,
một sức nóng làm cho cơ thể ta suy nhược, con người mau
già, và ảnh hưởng lớn tới tôn giáo, triết học của thổ dân. Chỉ
có một cách chống lại sức nóng đó là ngồi yên, không ham
muốn gì hết. Mùa hè, gió mùa thổi, đất đai trồng trọt được,
những khi gió ngừng thổi thì Ấn Độ lại chịu cái nạn đói và chỉ
mơ tưởng cảnh Niết Bàn”.
*
Ề Ổ Ấ
II. NỀN VĂN MINH CỔ NHẤT?
Ấn Độ thời tiền sử - Mehenjo-Daro – Cổ bực nào?
Vào cái thời mà các sử gia [phương Tây] tin rằng Hi Lạp
đã mở màn cho văn minh nhân loại, thì châu Âu ngây thơ
cho rằng Ấn Độ sống trong cảnh dã man cho tới khi các dân
tộc châu Âu – anh em trong dòng Aryen của họ - rời biển
Caspienne, tiến xuống phương Nam, truyền khoa học và
nghệ thuật vào bán đảo đó mà dân chúng mới bắt đầu thoát
li cảnh tối tăm ngu muội. Các phát kiến gần đây đã phá tan
ảo tưởng làm cho họ phấn khởi đó – mà sau này chắc chắc
còn nhiều phát kiến khác làm đảo lộn các kết luận, tôi trình
bày trong cuốn sách này. Ở Ấn Độ cũng như ở những nơi
khác, các chứng tích của buổi đầu nền văn minh bị chôn vùi
dưới đất và các nhà khảo cổ có tốn công đào cuốc tới mấy
cũng không thể khai quật, tìm hết cho được. Những di tích
thời đại cổ thạch khí chất đầy trong nhiều tủ kính các viện
tàng cổ Calcutta, Madras và Bombay, tại nhiều nơi người ta
đã đào được di tích thời đại tân thạch khí. Nhưng đó chỉ là di
tích về văn hoá, chưa có thể gọi được là văn minh.
Năm 1924, có nhiều tin tức ở Ấn Độ kích thích các nhà
khảo cổ khắp thế giới. Ông John Marshall loan báo rằng các
học giả Ấn Độ hợp tác với ông – đặc biệt là ông R.D Banerji –
đã tìm thấy ở Mohenjo Daro, trên bờ phía Tây sông Indus -
hạ, nhiều di tích của một nền văn minh có vẻ cổ hơn hết các
nền văn minh mà chúng ta được biết cho tới nay. Ở đó và
Harappa, cách vài trăm cây số về phía Bắc, họ đã đào đất
và thấy bốn năm thành phố chồng chất lên nhau, có mấy
trăm ngôi nhà và cửa tiệm xây cất bằng gạch, rất chắc
chắn, có ngôi gồm mấy từng lầu, hết thảy đều sắp hàng hai
bên những con đường rộng hoặc những ngõ hẹp. Ông John
nói về thời đại của những ngôi nhà đó như sau:
Những phát kiến đó chứng tỏ rằng ba bốn ngàn năm
trước công nguyên, ở miền Sihdh (cực Bắc tỉnh Bombay) và
ở miền Pendjab nữa đã có một đời sống thành thị rất hoạt
động, nhiều nhà có giếng, phòng tắm, lại có một hệ thống
dẫn nước phức tạp, như vậy là người dân thời đó đã có một
lối sống, một địa vị xã hội ít nhất cũng bằng dân Sumérie
thời cổ, và cao hơn dân Babylone và Ai Cập đồng thời với họ.
Ngay ở Ur, nhà cửa xây cất cũng thô sơ hơn ở Mohenjo Daro.
Ấ
mới xâm chiếm Ấn Độ, tôn giáo đó hiện nay còn sót lại trong
vài nơi hẻo lánh. Hình như nó gồm một số tín ngưỡng về linh
hồn, về vật tổ. Người Naga thờ vô số thần: thần đá, thần
cây, thần gấu, thần cọp, thần sông, thần núi, thần tinh tú.
Rắn cũng là những thần tượng trưng cho sức truyền chủng
của giống đực, và cây bồ đề của Phật giáo là di tích của sự
tôn sùng các cây cao bóng cả rất phổ biến ở Ấn Độ thời
thượng cổ. Naga là rồng thần, Hanuman là thần khỉ, Nandi là
bò mộng thần, Yaksha là cây thần, hết thảy các thần thời
tiền sử đó đều được tôn giáo Ấn Độ giữ lại trọn để thờ. Có
thần thiện mà cũng có thần ác. Muốn khỏi bị các thần ác
ám, hành hạ làm hoá điên, hoá đau thì phải dùng phương
thuật, do đó mà kinh Atharva-veda chép rất nhiều bài chú.
Phải đọc thần chú để có con, để khỏi sẩy thai, để sống lâu,
để khỏi bị tai nạn bệnh tật, để ngủ được, để diệt được hoặc
để làm nản lòng kẻ thù.
Các vị thần đầu tiên trong các kinh Veda là các sức mạnh
thiên nhiên: trời, mặt trời, đất, lửa, ánh sáng, gió, nước và
sinh thực khí. Thần Dayus (tức như thần Zeus của Hi Lạp và
thần Jupiter của La Mã), mới đầu chính là trời, và tiếng
[27]
sanscrit deva (nguồn gốc của tiếng Pháp divin) kì thuỷ
chỉ có nghĩa là rực rỡ. Rồi người ta nhân cách hoá những vật
đó mà cho có thi vị và tạo ra vô số thần: chẳng hạn như trời
thành cha: Varuna, đất thành mẹ: Prithivi, trời đất giao hoan
với nhau, sinh ra mây mưa, nhờ mưa mà có thảo mộc. Chính
mưa cũng là một vị thần: Parjanya, Agni là thần lửa, Vayu là
thần gió, Rudra là thần gió độc gây ra các bệnh dịch, Indra
là thần dông tố, Ushas là thần rạng đông, Sitha là thần
luống cày, Suria, Mithra, hoặc Vichnou đều là thần mặt trời,
Soma một linh thảo có nước ngọt làm cho thần và người
uống đều say, cũng là một vị thần nữa, thần vui tính làm
cho con người hoá ra khoan dung, nhân từ, hiểu biết nhau,
vui đời, có thể làm cho người trường sinh bất tử nữa. Dân
tộc nào cũng vậy, thi ca xuất hiện trước rồi mới tới văn xuôi.
Vật được nhân cách hoá, mà những đức tính hoá thành
những vật, tính từ thành danh từ, hình dung từ thành danh
từ chỉ tên thần. Mặt trời thành một vị thần, Savitar, nuôi
sống vạn vật, mặt trời chói lọi thành một vị thần khác, thần
Vivasvat, thần Chói lọi, rồi mặt trời cũng lại thành vị thần
[28]
Prajapati, chủ tể mọi sinh vật .
Trong một thời gian, vị thần quan trọng nhất trong kinh
Veda là Agni thần lửa. Agni là ngọn lửa linh thiêng bốc lên
như để cầu nguyện trời, là làn chớp trên không trung, là
nguồn sống nóng hổi, là tinh thần của thế giới. Nhưng vị
thần được sùng bái nhất thời đó là thần Indra, thần sấm và
dông tố. Vì chính thần Indra ban những “cam vũ” cho dân
Ấn-Aryen, những trận mưa mà họ còn quí hơn mặt trời nữa,
họ coi Indra là vị thần tối thượng đẳng của họ, cũng là hữu
lí. Khi ra trận, họ cầu nguyện thần sấm giúp họ và họ hình
dung thần sấm có những nét một vị anh hùng khổng lồ, mỗi
bữa ăn mấy trăm con bò mộng và uống cả mấy ao rượu.
Địch thủ của Indra là Krishna. Trong các kinh Veda, Krishna
mới chỉ là một vị thần riêng của bộ lạc Krishna. Thời đó,
ngay thần mặt trời Vichnou cũng chỉ là một vị thần hạng
nhì. Hai thần đó không ngờ sau này có một tương lai rực rỡ.
Cái lợi ích nhất cho ta khi đọc các kinh Veda là được thấy
trong các sách cổ đó lần lần thành hình, các vị thần ra đời,
lớn lên rồi cũng chết theo các tín ngưỡng, từ thuyết linh hồn
thời ban sơ tới phiếm thần giáo có tính cách triết lí, từ các
mê tín dị đoan trong kinh Atharva-veda tới nhất thần giáo
rất cao đẹp trong các bộ Upanishad.
Các vị thần đó đều có những nét, những xúc động, đôi khi
cả cái ngu dốt của con người nữa. Một vị bị rầy rà vì các lời
cầu nguyện của tín đồ, tự hỏi: “Nên cho hắn cái đó không? –
Không, không nên, để cho nó một con bò cái - Ờ, mà tại sao
không cho nó một con ngựa? Nhưng thực ra nó có dâng cho
mình soma đấy không?”. Nhưng ngay từ khoảng cuối thời
đại Veda, nhiều vị thần đã tôn nghiêm rất mực rồi. Như thần
Varuna mới đầu chỉ là khoảng trời trùm vũ trụ mà hơi thở
gây ra bão tố, y phục là vòm trời xanh, nhờ sự biến hoá
trong tư tưởng của bọn người sùng bái mà thành vị thần đạo
đức nhất, lí tưởng nhất trong các kinh Veda: thần đó có một
con mắt vĩ đại, tức mặt trời, giám thị thế giới, thưởng người
thiện, phạt kẻ ác và tha thứ những kẻ nào cầu nguyện mình.
Như vậy Varuna như thể một vị thần bảo vệ và thi hành
“thiên đạo vĩnh viễn” gọi là Rita. Mới đầu đạo này đã tạo ra
các tinh tú và bắt các tinh tú phải vận hành đúng con đường
đã vạch sẵn, rồi lần lần đạo đó thành những qui tắc chí
công, cái nhịp điệu tinh thần và thuộc về vũ trụ mà ai cũng
phải theo, nếu không thì là bỏ cái đường chính trực mà sẽ bị
tiêu diệt.
Số các vị thần cứ tăng hoài, mỗi ngày mỗi đông, và người
Ấn Độ tự hỏi vị nào đã tạo ra thế giới. Lúc thì họ bảo thần
Agni, lúc lại bảo thần Indra, hoặc thần Soma, thần Prajapati.
Một bộ Upanishad chép về một vị thần sinh ra muôn loài
như sau:
Thực ra vị đó không biết vui là gì hết, chỉ riêng vị đó là
không vui, lẻ loi, thiếu một bạn đời. Vị thần đó to lớn bằng
một người đàn ông và một người đàn bà ôm chặt lấy nhau.
Vị thần đó làm cho thân thể mình rớt ra làm hai phần: một
phần thành một người đàn ông (pati) và một phần thành
một người đàn bà (patnie). Vì vậy mà cái bản ngã như chỉ có
một nửa… Người đàn ông ân ái với người đàn bà, do đó mà
có loài người. Rồi người đàn bà nghĩ bụng: “Mình là một
phần của ảnh tách ra mà sao ảnh dám ân ái với mình? Mình
phải trốn đi mới được”. Và người đàn bà thành con bò cái.
Người đàn ông thành con bò mộng. Bò mộng và bò cái giao
hợp với nhau mà sinh ra một bầy bò. Rồi nàng lại thành con
ngựa cái, chàng thành con ngựa đực. Nàng thành con lừa
cái, chàng thành con lừa đực. Do đó mà có loài súc vật có
móng. Nàng thành con dê cái, chàng thành con dê đực. Cứ
như vậy mà sinh ra vạn vật, cho tới loài kiến. Thần đó tự
biết: “Ta thực đã tạo ra hết thảy vì vạn vật tự ta mà ra”. Do
đó mà có muôn loài.
Đoạn đó chứa tất cả thuyết phiếm thần và thuyết luân
hồi. Hoá công với vạn vật chỉ là một, vạn vật và mọi hình
thể sinh hoá chỉ là một hình thể này do một hình thể trước
kia chuyển qua, sở dĩ ta tưởng như hai chỉ vì đã có sự thay
đổi bề ngoài mà giác quan chúng ta không đủ nhận ra được
cái bản thể ở bên trong. Quan niệm đó mặc dầu đã được
diễn ra trong các bộ Upanishad, nhưng ở thời đại Veda, vẫn
chưa thành tín ngưỡng của dân chúng, dân tộc Ấn-Aryen
cũng như dân tộc Aryen ở Ba Tư thời đó chưa tin thuyết luân
hồi mà chỉ mới tin rằng cá nhân bất diệt. Sau khi chết, linh
hồn hoặc bị trừng phạt chịu cảnh đoạ dày, hoặc sống trong
cảnh hạnh phúc bất tuyệt, được thần Varuna đưa tới một
vực thẳm tối tăm tựa như địa ngục, hoặc được thần Yama
dắt lên trời nơi đó hưởng đủ những thú vui trên trần một
cách vĩnh viễn. Bộ Upanishad Katha có câu: “Con người chết
đi như cây lúa, rồi tái sinh như cây lúa”.
Theo chỗ chúng tôi biết ngày nay thì tôn giáo Veda thời
nguyên thuỷ không dựng đền, đúc tượng, mỗi khi cúng tế
chỉ dựng một bàn thờ mới, như người Ba Tư thời Zoroastre,
và ngọn lửa linh thiêng bốc lên trời như dâng trời những lễ
vật của loài người. Ngày nay còn những di tích tỏ rằng thời
đó có tục giết người để tế thần như hầu hết mọi nền văn
minh khác thời nguyên thuỷ, nhưng di tích rất hiếm và
không được chắc chắc lắm. Cũng như ở Ba Tư, thỉnh thoảng
người ta giết ngựa tế thần. Một tục kì lạ nhất là tục
Ashvamedha: hình như người ta tin rằng sau khi giết một
con ngựa để tế thần thì con ngựa đó thành một linh vật và
hoàng hậu kết hợp với nó. Đồ cúng thường dùng nhất là
nước soma mà người ta rảy trong khi tế, và bơ nước mà
người ta đổ lên ngọn lửa. Gần trọn buổi cúng tế, người ta
đọc toàn thần chú, nếu cúng tế đúng phép thì dù ăn ở bất
nhân, lời cầu nguyện của mình cũng được chứng giám. Nghi
thức tế lễ mỗi ngày mỗi thêm rắc rối, các thầy cúng bắt tín
đồ phải đóng một số tiền rất lớn, và nếu không chịu đóng
trước thì họ không chịu đọc thần chú, họ muốn ăn chắc và
muốn được trả công trước cả thần nữa. Họ tự qui định mỗi
cuộc lễ nào đó phải trả cho họ bao nhiêu bò hoặc ngựa hoặc
vàng, muốn được lòng họ và được lòng các vị thần thì không
gì bằng vàng. Các Brahmana [Phạn Chí] do các Bà La Môn
viết, chỉ cho các thầy cúng cả những cách làm lén ra sao để
hại một tín đồ nào không đóng góp đủ số.
Mọi việc lớn nhỏ trong đời đều được các sách đó qui định:
trong mỗi trường hợp phải làm lễ nào, theo tục lệ, nghi tiết
nào và hầu hết trường hợp nào cũng phải nhờ tới thầy cúng.
Lần lần các người Bà La Môn thành một đẳng cấp có nhiều
đặc quyền cha truyền con nối, kiểm soát đời sống tinh thần
và tâm tưởng độc lập và ngăn cản mọi sự cải cách, biến đổi.
*
Ấ
chúng ta thấy được trong mấy ngàn năm Ấn Độ đã nhiệt
tâm tìm hiểu tôn giáo và triết lí ra sao:
Và lúc đó Yajanavalkya sắp đổi đời sống, bảo: “Maitreyi,
anh sắp bỏ xứ này đây. Để anh quyết định số phận cho em
và cho Katyayani”.
Maitreyi bèn hỏi như vầy: “Nếu em làm chủ được cả trái
đất và những của cải trên đó thì em có chắc bất tử không?”.
Yajanvalkya đáp: “Không, không, không thể hy vọng bất tử
nhờ của cải được”.
Maitreyi bèn nói: “Những cái không làm cho em bất tử
được thì em dùng nó vào việc gì? Xin anh giảng cho em
hiểu”.
Đề tài căn bản trong các Upanishad là tất cả những bí
mật của thế giới không sao hiểu được này: “Chúng ta sinh ra
từ đâu? Chúng ta sống ở đâu? Chúng ta về đâu? Ông là
người biết Brahman, xin ông giảng cho chúng tôi biết do
lệnh của ai mà chúng tôi sống trên cõi đời này… Phải do thời
gian, do thiên nhiên, do tất nhiên hay ngẫu nhiên, hay là
[35]
các nguyên tố , hay do đấng mà người ta gọi là Purusha
– tức Đấng Tối Cao? Ấn Độ có vô số những người “không cầu
thành triệu phú mà chỉ mong có người giải đáp những thắc
mắc của họ. Trong Upanishad Maitri chúng ta thấy một ông
vua từ bỏ ngôi quí, vô rừng sống đời khổ hạnh, luyện trí tuệ,
rán tìm hiểu bí mật của vũ trụ. Sau ngàn ngày khổ hạnh,
ông thấy một vị hiền triết “hiểu biết linh hồn” bước tới, bèn
hỏi: “Ông biết linh hồn ra sau không, xin ông chỉ cho tôi”. Vị
hiền triết đó khuyên: “Lựa ý muốn khác đi”. Nhưng nhà vua
vẫn nằng nặc đòi biết về linh hồn, và trong đoạn dưới đây
mà chính Schopenhauer cũng phải nhận là có giọng rất bi
đát, nhà vua nói lên cái ghê tởm của cuộc sống, nỗi sợ hải
tái sinh nó lởn vởn trong tâm hồn dân tộc Ấn Độ:
Trong cái thân thể phù du và nặc xú khí này, gồm xương,
[36]
da, thịt, bắp thịt, tuỷ, tinh dịch , máu, dãi, nhớt, nước
mắt, nước bọt, phân, nước tiểu, hơi thối, mật, đâu là phần
vui, đâu là phần ham muốn?
Trong cái cơ thể đau khổ vì ngàn ngày này: ưu tư, tham
vọng, vỡ mộng, sợ sệt, thất vọng, ghen tị, phải xa người
yêu, phải gần người ghét, đói khát, già, chết, đau ốm, buồn
bã vân vân, đâu là phần vui, đâu là phần ham muốn? Chúng
ta thấy thế giới chung quanh tàn diệt như ruồi muỗi, cỏ cây,
hết thảy đều sinh rồi tử… Chúng ta thấy biển cạn, núi sụp,
sao bắc đẩu di chuyển đi trong cuộc vận hành… thấy đất
chìm dưới biển… Trong kiếp người, con người sống nhờ đất
rồi lại trở về với đất thì còn gì là vui thích và ham muốn?
Bài học đầu tiên các hiền triết trong Upanishad dạy cho
môn đệ là sự bất túc của trí tuệ. Làm sao bộ óc yếu ớt này,
mới tính toán một lát đã nhức nhối, mà đòi hiểu được cái
bao la cực kì phức tạp của vũ trụ mà nó chỉ là một phần nhỏ
phù du? Không phải là trí tuệ vô ích: nó có địa vị của nó, địa
vị rất khiêm tốn thật đấy và nó giúp ích ta được rất nhiều
khi nó cho ta biết các sự vật và các mối liên quan. Nhưng
trước cái vĩnh cửu, vô biên, hoặc trước các nguyên tố của
các thực thể thì nó yếu ớt, lảo đảo làm sao! Trước các thực
thể thầm lặng, nó là cái nòng cốt của thiên hình vạn trạng
bề ngoài, và từ mọi lương tâm toả ra, chúng ta cảm thấy
cần có một cơ quan cảm giác tri thức khác hoàn hảo hơn
ngũ quan và lí trí của ta. “Không phải nhờ học mà hiểu được
Atman (tức linh hồn thế giới), có thiên tài không đủ, học
trong sách cũng không đủ… Một tu sĩ Bà La Môn phải từ bỏ
sự học đi mà trở lại như một em bé… đừng chạy theo từ ngữ
nữa, chỉ mỏi miệng vô ích thôi”. Như Spinoza sau này nói, sự
tri giác tuyệt cao là sự tri giác trực tiếp, sự đốn ngộ, như
Bergson nói, nó là sự trực giác, cái “giác” tự thâm tâm sau
khi đã tự ý hết sức khép kín cánh cửa của ngũ quan. “Cái
[37]
Brahman tự túc được, đã đục những cửa của ngũ quan
để ngó ra ngoài, vì vậy con người ngó ra ngoài mà không
ngó vào thâm tâm mình, nhưng một vị hiền triết nhắm mắt
lại, và muốn được bất tử, có thể thấy được cái “ngã” núp ở
phía sau”.
Nếu một người nhìn vào trong nội tâm mà không thấy gì
cả, thì đó là một chứng cớ rằng sự nội quan của người đó
đúng, vì con người mà còn chìm đắm trong cái phù du, cái
đặc thù thì không thể thấy được cái vĩnh cửu ở trong tâm.
Muốn cảm thấy cái thực thể nội tâm đó thì trước hết phải tự
gột sạch mọi hành động, mọi ý nghĩ xấu xa, mọi náo động
của thể chất và tâm hồn đã. Muốn vậy phải nhịn ăn và chỉ
uống nước thôi trong hai tuần lễ, như vậy tinh thần như
được cái đói dẫn dắt tới cõi bình tĩnh, ngũ quan được trong
sạch và hoàn toàn an ổn, tinh thần bình tĩnh rồi mới có thể
tự cảm thấy nó và cảm thấy cái biển mênh mông của linh
hồn mà nó chỉ là một phần tử, sau cùng cá nhân biến đi và
cái Đơn nhất cái Thực thể hiện lên. Vì nhìn vô nội tâm, con
người minh triết không thấy cá nhân của mình – bởi lẽ cá
nhân đó chỉ là một loạt những trạng thái ý thức nối tiếp
nhau, chỉ là thân thể nhìn từ phía trong – mà thấy cái
[38]
Atman cái Ngã của mọi cái ngã, Linh hồn của mọi linh
hồn, cái Tuyệt đối vô hình vô sắc nó bàng bạc chung quanh
ta mỗi khi ta tự quên mình đi.
Đây là giai đoạn thứ nhất trong bí giáo đó: người ta nhận
thấy bản thể cái “ngã” của ta không phải là thể chất, không
phải là tinh thần, cũng không phải là cái ngã cá nhân, nhưng
là cái gì sâu thăm thẳm, vô hình vô thanh ở trong nội tâm
[39]
ta, cái đó là Atman. Giai đoạn thứ nhì là Brahman , bản
thể của thế giới không thể đụng chạm được [nghĩa là vô
hình, vô sắc vô thanh] nó xâm nhập tất cả, không có cá tính
[40]
mà có trung tính , nó gồm hết thảy là căn bản của hết
thảy, là cái “Thực thể của thực thể”, nó là Linh hồn của mọi
linh hồn, nó là sức mạnh duy nhất vượt ra khỏi, vừa ở trên
vừa ở dưới mọi sức mạnh và mọi vị thần:
Viagda bèn hỏi Yajnavalkya: “Ở đó có hết thảy bao nhiêu
vị thần?”.
Yajnavalkya đáp: “Bài thánh ca dâng lên tất cả các vị
thần ghi bao nhiêu vị thì ở đó có bao nhiêu vị, nghĩa là ba
trăm lẻ ba và ba ngàn lẻ ba”.
“Phải, nhưng đúng ra ở đó có bao nhiêu vị thần, hỡi
Yajnavalkya?”.
“Ba mươi ba”.
“Phải, nhưng đúng ra ở đó có bao nhiêu vị thần,
Yajnavalkya?”.
“Sáu”.
“Phải, nhưng đúng ra ở đó có bao nhiêu vị thần,
Yajnavalkya?”.
“Hai”.
“Phải, nhưng đúng ra ở đó có bao nhiêu vị thần,
Yajnavalkya?”.
“Một rưỡi”
“Phải, nhưng đúng ra ở đó có bao nhiêu vị thần,
Yajnavalkya?”.
“Một vị một”.
Giai đoạn thứ ba quan trọng hơn cả: Atman và Brahman
chỉ là một. Linh hồn (không có tính cách cá nhân) hoặc các
sức mạnh ở trong đồng hoá với linh hồn của thế giới. Các
Upanishad lặp đi lặp lại hoài thuyết đó để ghi sâu vào óc tín
đồ.
Vượt ra ngoài tất cả các hình thức, ở phía sau tất cả các
giả tướng che phủ cái chân tướng, thì chủ thể và khách thể
chỉ là một, chính chúng ta – xét về phương diện thực thể phi
cá tính hoá, và Thượng Đế - bản thể cùng vạn vật chỉ là một.
Thiên, nhân đồng thể, hợp nhất. Một vị tôn sư đã diễn ý đó
trong ngụ ngôn bất hủ dưới đây:
“Đem lại cho ta một trái sung”
“Thưa tôn sư, đây”
“Bửa nó ra”
“Thưa tôn sư, con bửa rồi đây”
“Con thấy gì?”
“Thưa tôn sư, con thấy nhiều hột nhỏ”
“Cắt một cái hột đi”
“Thưa tôn sư, con cắt rồi đây”
“Con thấy gì?”
“Thưa tôn sư, con chẳng thấy gì cả”
“Đúng vậy đấy, con, chính từ cái bản thể tế vi đó mà
phát sinh ra cây sung lớn. Con tin thầy đi, chính cái bản thể
tế vi đó là linh hồn của cả vũ trụ. Nó chính là cái Thực thể.
Chính là Atman: Tat tvam asi – chính là con đấy, Shwetaketu
ạ”
“Thưa tôn sư, con có cần phải hiểu thêm gì về điều đó
nữa không?”
“Thôi, bấy nhiêu thôi”.
Đoạn biện luận đó về Atman, Brahman và sự tổng hợp
Atman và Brahman đó hơi có cái khí vị của Hegel, chính là
tinh tuý của các Upanishad. Đành rằng trong các Upanishad
còn nhiều thuyết nữa, nhưng thuyết nào cũng phụ thuộc vào
thuyết đó cả. Chẳng hạn chúng ta còn thấy thuyết luân
[41]
hồi và cái nguyện vọng mong được thoát khỏi (Moksha)
vòng luân hồi. Janaka, quốc vương Videha, xin Yajnavalkya
chỉ cho cách khỏi phải tái sinh, và Yajnavalkya bèn giảng
cho nhà vua thuyết Yoga: có thể dùng phép luyện tinh thần
của các nhà tu hành khổ hạnh mà diệt được tất cả các tư
dục, không còn là một phần tử của thế giới gồm các cá thể
nữa mà hợp nhất với Linh hồn của vũ trụ trong niềm vui cực
kì, như vậy là khỏi phải tái sinh. Nhà vua phục thuyết đó
quá, bảo: “Thưa tôn sư, tôi xin dâng tôn sư cả thần dân
Videha và chính thân tôi nữa, tôi xin làm nô lệ cho tôn sư”.
Cái cảnh giới Yajnavalkya hứa với nhà vua mộ đạo đó thật
khó hiểu, vì trong cảnh giới đó không còn ý thức cá nhân, cá
nhân đã nhập vào Thực thể (Être), phần tử tạm thời tách ra
đã hợp nhất lại với Toàn thể. “Sông đổ vào biển và mất cả
tên, cả hình thể, nhà hiền triết cũng vậy, bỏ được cái tên và
hình thể rồi, nhập vào Thượng Đế vượt lên trên tất cả”.
Người phương Tây mà từ tôn giáo tới các chế độ chính trị,
kinh tế đều thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân, dĩ nhiên là
không thích một thuyết như vậy về sinh, tử. Nhưng thuyết
đó đã làm thoả mãn tinh thần triết lí Ấn Độ một cách bền bỉ
lạ thường. Từ Phật Thích Ca tới thánh Gandhi, từ Yajnavalkya
tới thi hào Tagor, triết lí trong Upanishad đó, thần học nhất
nguyên luận đó đã chi phối tư tưởng Ấn Độ và cho tới ngày
nay xứ đó trọng các Upanishad cũng như phương Tây trọng
Tân Ước vậy – coi là một tín ngưỡng cao cả tuy không phải
mọi người thực hành, nhưng mọi người đều chấp nhận, tôn
sùng. Và ngay ở châu Âu, châu Mỹ, môn thần học đó
(théosophie) đã được hàng triệu người theo, từ những phụ
nữ cô độc, những thường nhân chán ngán, không muốn
sống nữa, tới những triết gia như Schopenhauer, Emerson.
Ai có ngờ đâu rằng đại triết gia Mỹ về chủ nghĩa cá nhân lại
diễn được đúng tới mức đó thuyết của Ấn Độ rằng cá thể chỉ
là ảo ảnh.
------------BRAHMA
Màu đỏ sát nhân nó biết rằng nó giết người,
Hoặc nạn nhân biết rằng mình bị giết,
Nhưng cả hai đều không biết những con đường bí mật
Mà ta theo, đi qua rồi đi lại.
Ở xa hay bị quên, tức là ở gần ta đó.
Bóng tối và ánh sáng mặt trời chỉ là một,
Các thần thánh đã khuất lại hiện ra với ta,
Và đối với ta, vinh và nhục chỉ là một.
Những kẻ nào bỏ ta là vụng suy,
Ta là những cánh đưa họ bay bổng,
Ta nghi ngờ và là sự nghi ngờ,
Và ta là thánh ca mà người Bà La Môn hát lên.
*
**
CHƯƠNG II
PHẬT THÍCH CA
[66]
VI. THỜI ĐẠI CUỐI CÙNG CỦA ĐẠO PHẬT
Thời cực thịnh của đạp Phật – Tiểu thặng và đại thặng –
Mayahana – Đạo Phật, đạo khắc kỉ và đạo Ki Tô – Đạo Phật
suy vi – Đạo Phật truyền qua: Tích Lan, Miến Điện, Turkistan,
Tây Tạng, Cao Miên, Trung Hoa và Nhật Bản
[67]
Vua Açoka mất được khoảng hai trăm năm thì đạo
Phật đạt tới mức cực thịnh ở Ấn Độ. Thời gian phát triển của
[68]
đạo đó, từ triều đại Açoka tới triều đại Harsha , cũng
chính là hoàng kim thời đại của tôn giáo về nhiều phương
diện. Nhưng Phật giáo thời thịnh đó không còn là đạo của
[69]
Phật Tổ nữa, mà có thể nói là đạo của Subhadda , người
đệ tử đã phản kháng lại Ngài khi hay tin Ngài tịch, bảo với
mười chín tăng sĩ: “Khóc bấy nhiêu đủ rồi, rầu rỉ bấy nhiêu
đủ rồi! Bây giờ chúng ta thoát li được đại Samana (Sa Môn)
rồi. Từ nay khỏi phải nghe hoài: “Điều này nên làm, điều nọ
không nên”. Từ nay chính mình tha hồ muốn làm gì thì làm,
và khỏi bị bắt buộc làm điều không muốn làm nữa”.
Họ lợi dụng ngay sự tự do đó và tự tách ra thành hai giáo
phái. Hai thế kỉ sau Phật tịch, di sản tinh thần của Ngài chia
thành mười tám giáo phái. Những Phật tử ở Nam Ấn và Tích
Lan còn giữ đúng trong một thời gian giáo lí giản dị và thuần
khiết của Ngài, mà người ta gọi là Hinayana (Tiểu thặng hay
Tiểu thừa): họ thờ Phật không phải như một vị thần mà như
một vị truyền đạo vĩ đại, và Thánh kinh của họ là những bản
bằng tiếng Pali chép giáo lý nguyên thuỷ. Trái lại, tại khắp
Bắc Ấn, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa và Nhật Bản người ta
theo giáo lí Mahayama (Đại thặng hay Đại thừa) mà Đại hội
tôn giáo Kanishka đã xác định rồi truyền bá; những nhà thần
học này tuyên bố rằng Phật Tổ là Đấng Thần Linh, chung
quanh Ngài có vô số Bồ Tát, La Hán; họ theo phép tu khổ
hạnh yoga của Patanjali và in một bản kinh mới bằng tiếng
sanscrit; kinh này mặc dầu chứa đầy những tế vi siêu hình
và thần học, tạo ra một tôn giáo được bình dân (ở Ấn) theo
nhiều hơn là đạo nghiêm khắc, bi quan của Thích Ca Mâu Ni.
Đại thặng là một thứ Phật giáo pha nhạt vì có thêm nhiều
vị thần, nhiều tập quán, lễ nghi, huyền thoại Bà La Môn hợp
với người Tartare ở Kushan, người Mông Cổ ở Tây Tạng, mà
[70]
vua Kanishka thống trị. Người ta tưởng tượng một cõi
trời trên có nhiều vị Phật, mà Phật Amida (A-Di-Đà), Đấng
Cứu Thế, được dân chúng thờ phụng nhiều nhất: phải có
một Thiên đường và một Địa ngục để khuyến thiện trừng ác
chứ, thế là nhà vua có cách dùng quân lính vào một việc
khác nữa. Trong thần thuyết mới đó, các vị thần tối cao là
các Bodhisattwa (Bồ Tát), tức những đấng đáng được lên cõi
Niết Bàn rồi (nghĩa là thoát vòng luân hồi rồi), nhưng tự
nguyện đầu thai trong nhiều kiếp nữa để giúp những những
[71]
kẻ ở trên trần tìm được chính đạo . Cũng như trong các
giáo phái Ki Tô ở miền Địa Trung Hải, các vị Bồ Tát đó được
dân chúng thờ phụng tới nỗi át hẳn Phật Tổ trong sự lễ bái
cũng như trong nghệ thuật. Rồi người ta cũng thờ Phật tích,
Phật cốt, cũng dùng nước dương, đốt nhang, đèn, lần tràng
hạt, dùng mọi thứ trang sức thuộc về giáo hội, cũng dùng
[72]
một tử ngữ trong các kinh kệ, rồi tăng ni phải xuống tóc,
phải ở độc thân, phải trường trai, phải tụng kinh sám hối,
cũng phong thánh những người tử vì đạo, cũng tạo ra tĩnh-
tội-giới, cũng tụng kinh siêu độ cho người chết, tóm lại là
Phật giáo Đại Thặng có đủ những hình thức lễ nghi của Ki Tô
giáo thời Trung cổ, và hình như nhiều hình thức lễ nghi của
[73]
Ki Tô đã mượn của Phật giáo . Thành thử Đại Thặng đối
với Tiểu Thặng tức Phật giáo nguyên thuỷ cũng tựa như
Công giáo đối với đạo Khắc Kỉ và Ki Tô giáo nguyên thuỷ,
Phật Tổ, cũng như Luther sau này, đã tưởng lầm rằng nghi
thức – một thứ bi kịch tôn giáo – có thể thay bằng những lời
thuyết pháp và dạy luân lí; vì vậy mà một thứ Phật giáo
nhiều thần thoại, phép màu, lễ bái, có vô số các vị thần
thánh làm trung gian giữa tín đồ và Đấng Tối Cao, đã thắng
Phật giáo nguyên thuỷ, cũng như Công giáo đa sắc thái, chú
trọng tới bề ngoài đã thắng Ki Tô giáo giản dị, nghiêm khắc
thời nguyên thuỷ và thắng đạo Tin Lành thời cận đại.
Chính vì dân chúng thích đa thần giáo, thích phép màu
và huyền thoại mà làm cho Phật giáo nguyên thuỷ suy tàn,
rốt cuộc chính Đại Thặng cũng bị linh lạc ngay trên đất Ấn
Độ nữa. Vì nói theo cái giọng các sử gia làm khôn hơn cổ
[74]
nhân
Ấn giáo các huyền thoại và các lời thần, lần lần lấp được
cái hố giữa hai tôn giáo thời nguyên thuỷ và người ta có thể
biết trước được rằng tôn giáo nào đâm rễ sâu trong dân
chúng nhất, hợp với nguyện vọng dân chúng nhất, sau cùng,
có những nguồn lợi kinh tế lớn nhất, được chính quyền ủng
[75]
hộ nhất, sẽ nuốt được tôn giáo kia . Tức thì cái lòng tin dị
đoan chính nó là da thịt, khí huyết của loài người, từ tôn
giáo cũ truyền qua tôn giáo mới, tới nỗi những lễ nghi về thờ
phụng dương vật của các giáo phái Shakti cũng thấy xuất
hiện trong đạo Phật nữa. Các tu sĩ Bà La Môn vốn kiên nhẫn
vô cùng, lần lần phục hồi uy tín và lại được nhà vua bảo hộ,
và rốt cuộc, triết gia trẻ tuổi Shankara, lại làm cho các kinh
Veda thành căn bản tư tưởng của Ấn Độ và từ đó Phật giáo
mất địa vị lãnh đạo tinh thần ở Ấn.
Tuy nhiên đòn tối hậu không phải tự đạo Bà La Môn mà tự
ngoại nhân tung ra và có thể nói chính là Phật giáp đã tự
gây hoạ cho mình. Uy tín của Sanga (Tăng Già) đã thu hút
vua Açoka và dòng dõi quí phái nhất Magadha (tức những
người mà mẹ thuộc tập cấp kshatriya, cha thuộc tập cấp
vaisya), mà tạo thành một tăng lữ độc thân yêu hoà bình;
ngay thời Phật Tổ đã có vài nhà ái quốc than rằng “tăng sĩ
Gautama khuyến khích người ta đừng sinh con đẻ cái nữa,
như vậy các gia đình sẽ tuyệt tự mất”. Sự phát triển của
Phật giáo và chế độ tăng viện ở đầu kỉ nguyên một mặt, sự
chia rẽ về chính trị mặt khác, cả hai đều làm cho sức chống
cự của Ấn suy đi và Ấn dễ bị ngoại nhân xâm lăng. Khi người
Ả Rập vô cõi, nóng nảy muốn truyền bá một nhất thần giáo
giản dị, khắc khổ, trông thấy các nhà sư biếng nhác, ham
tiền, sống nhờ lòng mê tín của các tín đồ ngu xuẩn thì họ
chẳng những khinh bỉ ra mặt mà còn thấy gai mắt, cho phá
hết các chùa chiền, giết hàng ngàn nhà sư, mà dân chúng
ngại không còn ai dám đầu Phật nữa. Những kẻ sống sót bị
đạo Bà La Môn thu hút trở lại, thế là tôn giáo chính thống
thời xưa tiếp nhận các người theo “tà giáo” đã biết hối hận,
và “đạo Bà La Môn thân thiệt bóp chết Phật giáo”. Đạo Bà
La Môn bao giờ cũng khoan dung; lịch sử các cuộc thịnh suy,
lên xuống của đạo Phật và cả trăm giáo phái khác đầy
những truyện tranh biện, gây lộn, nhưng tuyệt nhiên không
có một vụ tàn sát nào cả. Trái lại, đạo Bà La Môn còn nhận
Phật Tổ là một vị thần hoá thân của Vichnou – thành thử có
vẻ khuyến khích người con hoang [Phật tử] trở về mái nhà
cũ [đạo Bà La Môn]; không những vậy còn chấp nhận thuyết
của Phật cho rằng mọi sinh vật đều thiêng liêng, do đó cấm
sự giết súc vật để tế thần; thế là sau năm trăm năm suy lần,
[76]
đạo Phật biến mất ở Ấn Độ một cách êm ái, ôn hoà .
Nhưng đạo Phật đã lan tràn tới khắp các xứ khác ở Á
châu. Giáo lí, nghệ thuật văn học của nó truyền qua đảo
Tích Lan, bán đảo Mã Lai ở phía Nam, qua Tây Tạng,
[77]
Turkestan ở phía Bắc, qua Miến Điện, Thái Lan , Cao
Miên, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản ở phía Đông, và nhờ
đạo đó mà đem văn minh vô các xứ đó – trừ Viễn Đông đã
có một nền văn minh rồi – cũng như ở thời Trung cổ, nhờ các
tu sĩ La Mã và Byzantine mà văn minh vô được Tây Âu và
Nga. Có thể nói tại các xứ đó, văn minh đạt được cực điểm
chính nhờ đạo Phật. Từ thời Açoka cho tới thế kỉ thứ IX, lúc
mà đạo Phật bắt đầu suy, thành phố Anuradhapura ở Tích
Lan là một trong những thành phố lớn nhất phương Đông,
tại đó từ hai ngàn năm nay người ta vẫn thờ cây bồ đề và
[78]
ngôi đền trên cao nguyên Kandy là một thánh địa của
[79]
150 triệu người theo đạo Phật ở châu Á . Có lẽ chỉ ở Miến
Điện là các nhà sư thường gần gũi được lí tưởng của Phật Tổ,
mà đạo Phật còn thuần tuý hơn cả, nhờ các nhà sư đó mà
13 triệu dân Miến có một mức sống tương đối cao hơn mức
sống ở Ấn. Sven Hedin, Aurel Stein và Pelliot đã tìm được ở
Turkestan mấy trăm bản viết tay thời cổ về đạo Phật và
nhiều di tích khác của một nền văn hóa đã thịnh ở xứ đó từ
thời đại Kanishka tới thế kỉ XIII. Thế kỉ thứ VII, một chiến sĩ
yêu văn chương, Srong–tsan Gampo, lập một chính quyền
vững vàng ở Tây Tạng, chiếm xứ Népal, và dựng ở Lhassa
một kinh đô, chẳng bao lâu rất thịnh vượng vì là một trung
tâm tích trữ hàng hoá từ Ấn qua Trung Hoa và từ Trung Hoa
qua Ấn. Sau khi mời các nhà sư tới Tây Tạng, sau khi truyền
bá giáo dục và đạo Phật cho dân chúng, ông tạm thời rời
ngôi báu trong bốn năm để tập đọc tập viết và mở đầu cho
thời đại hoàng kim ở Tây Tạng. Ông cho xây cất mấy ngàn
ngôi chùa Phật trên núi và cao nguyên, và cho in một số
kinh, luận gồm ba trăm ba mươi ba cuốn, bảo tồn được cho
các học giả ngày nay biết bao tác phẩm quí giá mà nguyên
bản ở Ấn Độ đã mất từ lâu. Chính ở Tây Tạng cách biệt với
thế giới bên ngoài mà Phật giáo có vô số dị đoan, một chế
độ tăng viện và một số chủ nghĩa giáo tôn (cléricalisme) mà
khắp thế giới, ngoài châu Âu thời đầu Trung cổ, không nơi
nào sánh kịp. Còn Dalai-Lama (Đạt-Lai Đạt-Ma, tức Hoạt
Phật ở Tây Tạng) Ngài ở trong tịnh thất của đại tu viện Po-ta-
la, ở trên chỗ cao nhất của kinh đô Lhassa; ngày nay dân
Tây Tạng còn coi Ngài là hiện thân của Đức Bồ Tác
[80]
Avalokiteshvara . Ở Cao Miên, đạo Phật và đạo Ấn dung
hoà với nhau đã gây một tinh thần tôn giáo làm nẩy nở một
giai đoạn đẹp đẽ nhất của nghệ thuật phương Đông. Cũng
như Ki Tô giáo, đạo Phật ra khỏi xứ rồi mới phát triển rực rỡ
nhất. Ta nên nói thêm rằng đạo đó thắng lợi như vậy mà
không hề làm đổ một giọt máu.
[1]
Các bạn có thể xem trực tuyến hoặc tải về tại
http://www.scribd.com/doc/20351263/The-Story-of-Civilization-01-Our-Oriental-
Heritage
[2]
Các hình ảnh trong ebook nầy đều do tôi sưu tầm. (Goldfish).
[3]
Trong sách như hầu chỉ có dấu ( ), cho nên sau khi đối chiếu với bản tiếng
Anh mà không thấy những chữ tương ứng trong dấu ( ), thì có thể tôi sẽ sửa dấu
( ) thành dấu [ ]. Tuy tôi sửa lại như vậy, nhưng vì không có bản tiếng Pháp nên
tôi cũng chưa thật chắn chắn rằng đó là những chữ do cụ Nguyễn Hiến Lê thêm
vào vì biết đâu chừng những chữ trong dấu ( ) đó lại có trong bản tiếng Pháp?
[4]
Xem bài Tựa cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ tại http://www.thuvien-
ebook.com/forums/showthread.php?t=14297 (post #10-11).
[5]
Sách viết trong thế chiến vừa rồi và hiện nay dân số trên bốn trăm triệu.
(ND).
[Hai chữ hiện nay trong chú thích này là năm 1970, tức năm cụ Nguyễn Hiến
Lê dịch cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ. Trong sách, các chú thích của tác giả được
ghi dấu hoa thị, các chú thích của người dịch ghi số Ả Rập. Trong ebook này, tôi
chỉ dùng số Ả Rập, riêng các chú thích của người dịch tôi ghi thêm “(ND)” ở cuối
câu. (Goldfish)]
[6]
Upanishad: phần thuyết pháp trong các kinh Veda. (theo dt Ần, Hồi).
[7]
Açoka: (A Dục) một trong những ông vua đầu tiên theo đạo Phật và làm
cho đạo đó phát triển mạnh, ở thế kỉ thứ III trước công nguyên. (theo dt Ấn, Hồi).
[8]
Akbar: (A Cách Bá) một vua gốc Mông Cổ cai trị Ấn, rất có tài, ở thế kỉ
XVI. (theo dt Ấn, Hồi).
[9]
Từ thời Megasthène (khoảng -302) tả Ấn Độ do người Hi Lạp biết cho tới
thế kỉ XVIII, người châu Âu vẫn coi Ấn Độ là một xứ kì dị, bí mật. Marco Polo
(1254-1323) chỉ tả mơ hồ một dãi bờ biển phía Tây. Colomb muốn tìm Ấn Độ mà
lại gặp châu Mỹ. Vasco de Gama phải đi vòng châu Phi mới tìm ra Ấn Độ, thời đó
là thời con buôn tham tàn ngấp nghé các món lợi của Ấn Độ. Còn các nhà bác
học thì có vẻ không chú ý tới Ấn Độ. Một nhà truyền giáo Hoà Lan ở Ấn Độ,
Abranham Roger, là một trong những người đầu tiên để ý tới Ấn Độ trong cuốn
Open door to Hidden Heathendom (1651). Dryden viết một kịch uyển chuyển về
Ấn Độ, kịch Aurengzeb (1675), và một tu sĩ Áo, Fra Paolino de S. Bartolomeo, cho
in hai cuốn ngữ pháp sancrit và cuốn Systema Brahmanicum (1792). Năm 1789,
William Jones, một nhà Ấn Độ học danh tiếng dịch kịch Shakuntala Kalidasa, bản
dịch đó năm 1791 được chuyển qua tiếng Đức đã có tác động mạnh mẽ tới
Herder và Goethe, và anh em Schlegel - ảnh hưởng tới toàn thể phong trào lãng
mạn, phong trào này hi vọng tìm lại được ở phương Đông cái thần bí và huyền
diệu cơ hồ đã bị “thế kỉ ánh sáng” [tức thế kỉ XVIII] và cái tiến bộ khoa học làm
tiêu diệt ở phương Tây. Jones làm cho cả thế giới ngạc nhiên khi tuyên bố rằng
tiếng sanscrit có họ hàng hầu hết cùng ngôn ngữ châu Âu, như vậy người Âu
cùng một chủng tộc với người Ấn thời các kinh Veda, người ta gần như có thể nói
rằng tất cả các môn nhân chủng học và môn ngôn ngữ học hiện đại xuất phát từ
đó. Năm 1805, tập khảo luận On the Vedas của Colebrooke phát lộ cho châu Âu
biết những áng văn chương cổ nhất của Ấn Độ, cũng vào khoảng đó. Anquetil
Duperron dịch một bản dịch Ba Tư của bộ Upanishad, nhờ vậy Schelling và
Schopenhauer mới được biết triết học Ấn Độ mà Schopenhauer khen là thâm
thuý nhất, chưa từng thấy. Hồi đó, và mãi đến năm 1826, Burnouf xuất bản cuốn
Essai sur le Pali, nghiên cứu về tiếng Pali, người phương Tây cơ hồ chưa biết chút
gì về tư tưởng Phật giáo. Burnouf ở Pháp và môn đệ ông Max Muller ở Anh, đã
làm cho các học giả, các nhà bảo hộ văn nghệ dịch và xuất bản tất cả các
“thánh thư của phương Đông”, đồng thời Rhys David cặm cụi suốt đời giới thiệu
văn học Phật giáo để bổ túc công việc đó. Chính nhờ sự gắng sức đó, người ta
nhận thấy rằng chỉ mới hiểu biết được một chút xíu về Ấn Độ, mặc dầu những
công trình kể trên đáng coi là quan trọng, hiện nay kiến thức của chúng ta về
văn học Ấn Độ không hơn gì những kiến thức của tổ tiên chúng ta thời
Charlemagne về văn học Hi La. Nhưng có lẽ những phát kiến đẹp đẽ đó đã làm
cho chúng ta quá hăng hái mà đánh giá quá cao lợi ích của chúng chăng. Chúng
ta chẳng thấy đấy ư? Một triết gia châu Âu đã bảo “triết học Ấn Độ sâu sắc nhất”
và một tiểu thuyết gia danh tiếng đã viết: “Tôi không thấy ở châu Âu và châu Mỹ
có những thi sĩ, nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo quần chúng nào đáng đem ra so
sánh thôi – chứ đừng nên nói là bằng – các thi sĩ, nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo
quần chúng Ấn Độ”.
[10]
Tức Afghanistan. (Goldfish).
[11]
Thành phố lớn thứ hai của Afganistan. (Goldfish).
[12]
Bản tiếng Anh ghi là Shimla. (Goldfish).
[13]
Bản tiếng Anh ghi là: Rajputana. (Goldfish).
[14]
Do tiếng Daskshina (tay phải) (tiếng La Tinh là dexter). Một tín đồ đứng
ngó về phía mặt trời mọc, sẽ thấy phương Nam ở bên tay phải, do đó dackshina
có nghĩa là phương Nam.
[15]
Có những liên lạc đó vì chúng ta thấy nhiều con dấu giống nhau ở
Mohenjo Daro và ở Sumérie (đặc biệt ở Kish), lại thấy hình con Naga – rắn Ấn Độ
có mào trùm đầu – trên những con dấu cổ nhất ở miền Mésopotamie. Năm 1932,
tiến sĩ Henri Frankfort đã đào được ở gần Baghdad những con dấu mà ông cho
rằng đã nhập cảng từ Mohenjo Daro qua, khoảng 2000 năm trước công nguyên.
Ông John Marshall cũng nghĩ như vậy.
[16]
Macdonell cho rằng nền văn minh kì dị đó gốc ở Sumérie chuyển qua,
Hall, ngược lại, cho rằng Sumérie chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ. Wooley
bảo Sumérie và Ấn Độ cùng chung một nòi giống và cùng chịu ảnh hưởng một
nền văn minh xuất phát ở miền Béloutchistan hoặc gần đâu đấy. Các nhà khảo
cổ học thấy rằng những con dấu giống nhau đào được Babylonie và Ấn Độ thuộc
vào giai đoạn đầu văn minh Sumérie và giai đoạn cuối văn minh Indus, vậy thì
Ấn Độ đã văn minh trước Sumérie. Còn Childe thì muốn kết luận rằng bốn ngàn
năm trước công nguyên, nền văn minh vật chất của Abydos, Ur hoặc Mohenjo
Daro có thể so sánh được với nền văn minh Athène thời Périclẻs… Cứ xét kiến
trúc nhà ở, hình khắc trên con dấu, vẻ đẹp các đồ sành thì nền văn minh Indus
khoảng ba ngàn năm trước công nguyên tiến bộ hơn văn minh Babylonie và có
thể sớm hơn nhiều các nền văn minh khác.
Vậy thì ta có thể tự hỏi: các phát minh của nền văn minh Sumérie có thực là
độc đáo, phát sinh trên đất Babylonie không, hay chỉ bắt chước Ấn Độ? Nếu là
bắt chước thì dân tộc Sumérien có phải gốc gác từ sông Indus qua không, hoặc ở
một miền nào gần sông Indus, trong khu vực ảnh hưởng Ấn Độ? Chưa ai trả lời
những câu hỏi đó được, nhưng những câu hỏi đó cũng nhắc ta rằng hiện nay sự
hiểu biết của chúng ta còn kém lắm, và một cuốn sách về văn minh đành phải
bắt đầu từ một giai đoạn nhân loại đã khá tấn bộ rồi, chứ không thể bắt đầu từ
nguồn gốc, từ buổi đầu được.
[17]
Mới đây người ta đào được ở gần Chitaldrug trong tiểu quốc Mysore, sáu
lớp về sáu giai đoạn liên tiếp của một nền văn minh đã bị chôn vùi, từ những đồ
thuộc thời đại thạch khí, những đồ sành tô điểm xuất hiện vào khoảng 4000 năm
trước công nguyên, tới những vật mới nhất, vào khoảng 1200 sau công nguyên.
[18]
Sindh, cũng như Mohenjo Daro, nay thuộc của Pakistan. (Goldfish).
[19]
Naga: thổ dân Ấn trước khi người Aryen tới; cũng trỏ rồng thần hoặc rắn
thần mà thổ dân đó thờ. (Theo dt Ấn, Hồi).
[20]
Theo Monier William, Aryen do tiếng sanscrit Ri-ar biến ra, ri-ar là cày
ruộng so sánh với tiếng La Tinh aratrum là lưỡi cày, arca là khoảng trống. Theo
thuyết đó thì aryen hồi đầu không trỏ một nhà quí phái mà trỏ một nông dân.
[21]
Trong một bản hiệp ước kí giữa dân tộc Aryen hittite và dân tộc Aryen
mittanien, ở đầu thế kỉ XIV trước công nguyên, chúng ta thấy ghi tên các vị thần
rõ ràng là của Ấn Độ thời kinh Veda (Phệ Đà) như Indra, Mithra, Varuna; tục Ba
Tư làm lễ uống nước cây haoma cũng giống tục Ấn Độ thời Veda làm lễ uống
nước ngọt của cây soma. Ta nhận thấy chữ s sanscrit tương ứng với chữ h Ba Tư
ngữ, soma chuyển thành haoma cũng như sindhu chuyển qua thành hindu. Do
đó ta có thể kết luận rằng các dân tộc Mittaniene, Hittite, Kassite, Sogdien,
Bactrien, Mède, Ba Tư và các người Aryen xâm chiếm Ấn Độ đều là những chi
của một nòi giống “Ấn –Âu” rải rác khắp chung quanh bờ biển Caspiene.
[22]
Người Ba Tư hồi xưa dùng tiếng Hindoustan để trỏ miền Ấn Độ ở phía
Bắc sông Narbuddah.
[23]
Tiếng Ấn dùng để trỏ đẳng cấp là varna có nghĩa là màu sắc. Rồi sau
các nhà du hành Bồ Đào Nha dùng tiếng casta có nghĩa là thuần khiết.
[24]
Chúng tôi dịch chữ caste là tập cấp, để phân biệt với classe mà chúng
ta đã dịch là giai cấp. Tập có nghĩa là tiếp nối (như trong thế tập, tập ấm); tổ
tiên ở trong caste nào thì con cháu cũng ở trong caste đó. Trái lại, cha ở trong
classe lao động, con có thể ở trong classe tư sản, hoặc ngược lại, cùng một
người lúc trẻ nghèo ở trong classe lao động, về già, giàu có rồi, nhảy lên classe
tư sản. Caste và classe khác nhau ở đó. (ND).
[25]
Thời các kinh Veda xuất hiện, khoảng 1000 năm trước công nguyên.
[26]
Một nữ triết gia thời Veda (coi tiết VII ở sau).
[27]
Mấy chữ trong dấu ( ) không có trong bản tiếng Anh. Có thể là cụ
Nguyễn Hiến Lê ghi thêm, mà cũng có thể là cụ chỉ dịch đúng theo bản tiếng
Pháp. (Goldfish).
[28]
Sự thờ thần Prajavati sau gần như một nhất thần giáo cho tới khi thần
đó bị thần Brahma đoạt địa vị.
[29]
So sánh tiếng Anh: one, two, three, four, five, với tiếng Sanscrit: ek,
dwee, tree, chatoor, panch; tiếng La Tinh: unus, duo, tres, quattuor, quinque,
tiếng Hi Lạp: heis, duo, tria, tettara, pente (tiếng La Tinh quattuor chuyển qua
tiếng Anh thành four, cũng như tiếng quercus thành fir).
Hoặc so sánh tiếng Anh: am, art, is với tiếng Sansccrit: asmi, asi, asti, tiếng
La Tinh: sum, es, est, tiếng Hi Lạp: eimi, ei, esti.
Về các tên chỉ liên hệ dòng họ:
Sanscrit, Hi Lạp, La Tinh, Anh, Đức, Pháp
pitar, pater, pater, father, vater, père
…
matar, meter, mater, mother, mutter, mère
bhratar, phrater, frather, brother, bruder, frère
napot, anepsios, nephew, neffe, neveu
Theo luật Grimm mỗi dân tộc có những thói quen phát âm riêng, do đó các
tử âm biến đổi từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác. Áp dụng luật đó, ta thấy
tiếng Sanscrit và tiếng Anh gần gũi nhau lạ lùng. Xét chung (vì có nhiều biệt lệ)
thì:
1. Âm k Sanscrit (như trong từ kratu, sức mạnh) ứng với k Hi Lạp (kratos, sức
mạnh), với âm c hoặc qu La Tinh (cornu), với âm h, g, hoặc k Đức (hart) và với
âm h, g hoặc f Anh (hard),
2. Âm g hoặc j Sanscrit (như trong từ jan, sinh ra), ứng với âm g Hi Lạp
(genos, dòng giống), với âm g La Tinh (genus, dòng giống), với âm ch hoặc k
Đức (kind, đứa nhỏ), với âm k Anh (kin, bà con),
3. Âm gh hoặc h Sanscrit (như trong từ hyas, hôm qua) ứng với âm ch Hi Lạp
(chthes), với âm h, f, g hoặc v La Tinh (heri, hôm qua), với âm k hoặc g Đức
(gestern, hôm qua), với âm g hoặc y Anh (yesterday, hôm qua),
4. Âm t Sanscrit (như trong từ tar, xuyên qua) ứng với âm t Hi Lạp (terma,
tận cùng), âm t La Tinh (terminus, tận cùng), âm d Đức (durch, xuyên qua), âm
th hoặc d Anh (through, xuyên qua),
5. Âm d Sanscrit (như trong từ das, mười) ứng với âm d Hi Lạp (deka, mười),
âm d La Tinh (decem, mười), âm z Đức (zehn, mười), âm t Anh (ten, mười),
6. Âm dh hoặc h Sanscrit (như trong từ dha, đặt) ứng với âm th Hi Lạp (thi-t-
emi, tôi đặt), với âm f, âm d hoặc âm b La Tinh (fa-cere, làm), với âm t Đức (tun,
làm), âm d Anh (do, làm),
7. Âm p Sanscrit (như trong từ patana, lông chim) ứng với âm ph Hi Lạp
(pherein, cánh chim), với âm p La Tinh (penna, lông chim), với âm v hoặc âm f
Đức (feder, lông chim), với âm f hoặc âm b Anh (feather, lông chim),
8 Âm bh Sanscrit (như trong từ bhri, mang) ứng với âm ph Hi Lạp (pherein,
mang), với âm f hoặc b La Tinh (fero, tôi mang), với âm p, âm f hoặc âm ph Đức
(fahren, mang), với âm b hoặc âm p Anh (bear, mang, birth, sanh đẻ, brother,
anh) vân vân.
[Tôi theo bản tiếng Anh để sửa các chữ in sai. (Goldfish)].
[30]
Tương truyền là của Zoroastre.
[31]
Nếu kinh đó ngày nay được ngâm hoặc được tụng như hồi xưa chứ
không đọc thầm thì chất thơ trong kinh giữ được trọn mà có ảnh hưởng tới tâm
hồn người ta mạnh như hồi xưa.
[32]
Đó chỉ là một cách phân chia, còn nhiều cách khác nữa. Ngoài những
giải thích trong phần Brahmana và Upanishad, các học giả Âu còn thêm nhiều
bình giải ngắn có hình thức cách ngôn, gọi Sutra (kinh, nghĩa gốc có nghĩa là sợi
chỉ, do tiếng sanscrit siv là khâu). Những Sutra đó tuy không có tính cách thiên
khải hoặc linh cảm, nhưng cũng được tôn trọng lắm vì là một truyền thống cổ.
Nhiều câu ngắn quá, cô động quá, rất khó hiểu, có thể coi là những lời tóm tắt
học thuyết, áp dụng thuật kí ức giúp cho người học dễ nhớ. [Sutra thường dịch là
kinh].
Không ai biết được cái số lượng vĩ đại thơ, huyền thoại, thần chú, nghi lễ, và
tác phẩm triết lí đó do ai sáng tác và sáng tác vào thời nào. Các người Ấn theo
Ấn giáo, Phật giáo chứ không theo đạo Hồi, mà mộ đạo, thành kính thì cho rằng
các thánh ca xuất hiện từ 6.000 tới 10.000 trước công nguyên.
[33]
Các thánh ca đó gồm nhiều đoạn (thi tiết) mỗi đoạn thường có bốn câu,
mỗi câu lại xuống hàng. Số âm tiết (syllable) trong mỗi câu không nhất định:
hoặc 5, 6 hoặc 11, 12, nhưng bốn âm tiết cuối cùng thường gồm một âm tiết dài,
một âm tiết ngắn, lại tới một âm tiết dài, một âm tiết ngắn, hoặc một âm tiết
dài, một âm tiết ngắn rồi hai âm tiết dài.
[34]
Một vị tể tướng Ai Cập ở thế kỉ 29 trước công nguyên, tác giả một cuốn
về cách trị dân và xử thế. (ND).
[35]
Tức nước, lửa, đất, gió, tức như Trung Hoa gọi là hành (trong ngũ hành:
kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). (ND)
[36]
Sách in là tinh trùng, tôi sửa lại là tinh dịch. Nguyên văn tiếng Anh là
semen. (Goldfish).
[37]
Coi chú thích trang sau. (ND).
[38]
Chưa rõ nguồn gốc tiếng này, có lẽ mới đầu nó trỏ cái linh khí như từ
ngữ La Tinh spititus, rồi trỏ cái khí, sau trỏ linh hồn.
[39]
Từ ngữ Brahman ở đây trỏ linh hồn của vũ trụ, không nên lầm với
Brahma (Phạn Thiên), một trong ba vị thần tối cao Ấn Độ (Brahma, Vichnou,
Shiva), cũng không nên lầm với Bà La Môn (Brahmane), một hạng tu sĩ. Nhiều
người quên không phân biệt như vậy và dùng Brahma với nghĩa Brahman.
[40]
Trong số các triết gia tôn giáo, các tư tưởng gia của Ấn Độ, rất ít nhà
nghĩ tới thuyết thần nhân đồng hình (anthropromorphisme), nghĩa là thuyết cho
rằng thần cũng có hình thể như con người. Ngay cả trong những thánh ca xuất
hiện sau nhất trong kinh Rig-veda, đại danh từ trỏ Thượng Đế lúc thì thuộc giống
đực, lúc lại thuộc giống cái, hoặc thuộc trung tính (không đực, không cái), để tỏ
rằng Thượng Đế ở trên cao hết thảy và ở ngoài cái “tính” (sexe).
[41]
Thuyết đó xuất hiện lần đầu trong Upanishad Satapatha: trong đời mà
làm bậy thì khi chết, các thần linh bắt phải đi đầu thai. Hầu hết các dân tộc bán
khai tin rằng linh hồn một người có thể nhập vào một loài vật và ngược lại, linh
hồn loài vật cũng có thể nhập vào con người. Có lẽ do tín tưởng đó mà các dân
tộc tiền-Aryen ở Ấn có thuyết luân hồi.
[42]
Ý nói: họ biện thuyết xuôi ngược gì cũng được cả. (ND).
[43]
Y như thời Chiến Quốc ở Trung Hoa. (ND).
[44]
Sách in: Chỉ có vật chất là thực thể, cơ thể là các nguyên tử, bộ óc chỉ
gồm các tế bào suy tư, chính cơ thể chứ không phải linh hồn tách ra khỏi cơ thể
không?, bị thiếu các chữ : cảm thấy, trông thấy, nghe thấy, suy tư. “Có ai bao
giờ thấy một linh hồn, mà tôi đã gõ thêm như trên theo bản in của Trung Tâm
Đại học Sư phạm TP HCM – 1989 (bạn Tuanz cung cấp). Nguyên văn tiếng Anh:
Matter is the one reality; the body is a combination of atoms; the mind is merely
matter thinking; the body, not the soul, feels, sees, hears, thinks. "Who has seen
the soul existing in a state separate from the body? (Goldfish).
[45]
Trong truyền thuyết, Mahavira sinh năm 599 và mất năm 527 trước
công nguyên, nhưng Jacobi cho rằng sự thực có lẽ là vào các năm 549 và 477,
nghĩa là khoảng 50 năm sau.
[46]
Bản tiếng Anh còn cho biết ông mất vào tuổi bảy mươi hai. (Goldfish).
[47]
Ahimsa: ta thường dịch là bất bạo động, có người dịch là bất hại, chúng
tôi dịch là bất tổn sinh. Bất bạo động chỉ là một qui kết của ahimsa. Vì không
được làm tổn thương sinh mệnh, nên cả khi phản kháng cũng không được bạo
động. (ND)
[48]
Người ta thường bảo rằng thời đó, nhân loại phát sinh vô số thiên tài,
rực rỡ như ngôi sao. Mahavani và Phật ở Ấn Độ, Lão Tử và Khổng Tử ở Trung Hoa,
Jérémie và Isale thứ nhì ở Judée, các triết gia tiền Socrate ở Hi Lạp và có lẽ
Zarathoustra ở Ba Tư. Sự kiện đó cho chúng ta ngờ rằng những nền văn minh cổ
đó có ít nhiều liên lạc với nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau mà hiện nay chúng ta
chưa định rõ được.
[49]
Tức những “truyền thuyết về Phật ra đời” viết vào khoảng thế kỉ thứ V
sau công nguyên. Một truyền thuyết khác, trong cuốn Lalitavistara đã được
Edwin Arnold viết phỏng ra tiếng Anh nhan đề là The Light of Asia. Võ Đình
Cường phỏng dịch ra tiếng Việt là Ánh Đạo Vàng. (ND).
[50]
Uposatha là bốn ngày thiêng trong tháng: ngày sóc, ngày vọng, ngày
mùng tám, và hai mươi ba âm lịch.
[Ngày sóc, ngày vọng có nghĩa là ngày mùng một và ngày rằm. (Goldfish)]
[51]
Bodhisattwa có nghĩa là về sau sẽ thành Phật, ở đây trỏ Đức Phật. Phật
có nghĩa là “giác”, một vị sáng suốt hiểu mọi sự lí trong vũ trụ. Phật chỉ là một
trong nhiều tôn danh người ta tặng Ngài. Chính tên tục là Siddharta [Tất Đạt Ta]
tên họ (thị tộc) là Gautama [Cồ Đàm]. Ngài cũng có tên là Shakya-Muni [Thích
Ca Mâu Ni] nghĩa là vị minh triết của bộ lạc Shakya, và tên Tathagata [Như Lai]
nghĩa là “Vị nắm được chân lí”. Nhưng Ngài chưa hề lần nào tự xưng như vậy.
[52]
Cây sal: cây sal hay sala tức là cây Shorea robusta, có tác giả viết là
cây ashoka hay simsapa tức là cây vô ưu Saraca indica, còn có tên vàng anh.
(Theo Võ Quang Yến, Cây cối trong đời Đức Phật,
http://www.khoahoc.net/baivo/voquangyen/caycoitrongdoiducphat.htm).
(Goldfish).
[53]
Tức La Hầu La. (Goldfish).
[54]
Tức Ưu Lâu Tần Loa. (Goldfish).
[55]
Những tài liệu cổ nhất chép về Đức Phật dạy, và hơi đáng cho ta tin là
các kinh Pitaka (tức ảo luật) viết cho cuộc Hội nghị Phật giáo năm 241 trước
công nguyên, hội nghị đó cho những lời chép trong kinh đó là đúng lời Phật dạy,
những lời đó đã truyền khẩu bốn thế kỉ từ khi Ngài tịch, và sau cùng được chép
lại thành tiếng Pali vào khoảng 80 trước công nguyên. Các Pitaka đó chia làm
tam tạng: Sutta tức kinh (kí sự), Vinaya tức luật, và Abhidhamma tức luận. Chính
trong Sutta-Pitaka người ta thấy những lời đối thoại của Phật mà Rhys David đặt
ngang hàng với những lời đối thoại của Platon. Nhưng thực ra kinh đó không
chắc chắn đã chép đúng lời dạy của chính Đức Phật mà có lẽ chỉ là chép lời của
các học phái Phật. Charles Eliot bảo: “Mặc dầu những tập kí sự là công trình sưu
tập của nhiều thế kỉ, càng ngày càng tăng bổ thêm, nhưng tôi không có lí do gì
để nghi ngờ rằng trong những kí sự cổ nhất không có chút hồi kí của những
người sống đồng thời với Phật, đã thấy và đã nghe lời dạy của Phật”.
[Bảo luật: Tôi đã tạm sửa ảo luật thành bảo luật. Nguyên văn tiếng Anh là:
Baskets of the Law. (Goldfish)].
[56]
Chữ “không” do tôi thêm vào. Nguyên văn tiếng Anh cả câu: He claimed
“enlightenment”, but not inspiration; he never pretended that a god was
speaking through him. (Tạm dịch: Ngài cho biết mình “giác ngộ”, nhưng không
do linh cảm, Ngài không bao giờ tuyên bố rằng Thượng Đế đã nói qua Ngài).
(Goldfish).
[57]
Chánh kiến: sách in thiếu hai chữ này. Nguyên văn tiếng Anh là: right
views. (Goldfish).
[58]
Một thánh địa của Ấn Độ, nơi một chi nhánh của con sông Gange (sông
Hằng). Đức Phật có lần lại đó thuyết pháp.
[59]
Tôi ngờ bản tiếng Pháp in lộn ở đây: … il fut renvoyer aux trente-trois
qui…; có lẽ thiếu mấy chữ autres rois, tôi đoán như vậy mà thêm vô. Cũng có
thể là trentes rois (ba mươi vị vua) mà in lộn là trente troi (ba mươi ba). (ND).
[Nguyên văn tiếng Anh, từ đầu câu đến đây là: “Then that brother,
Kevaddha, went to the the Four Great Kings, and put the same question, and
was sent on, by a similar reply, to the Thirty-three”. Như vậy, bản tiếng Pháp in
trente troi (Thirty-three - ba mươi ba) là đúng. (Goldfish)].
[60]
Sách in thiếu một đoạn liên quan đến các thần Tusita và vua của họ là
Santusita; các thần Nimmana-rati và vua của họ là Sunimmita; các thần Para-
nimmita và vua của họ là Paranimmita Vatsavatt. Ở trên, dựa theo mạch văn, tôi
đã tạm dịch thêm một đoạn để đưa các vị đó vào. Nguyên văn tiếng Anh: (…)
Suyama; who sent him on to the Tusita gods, who sent him on to their king,
Santusita; who sent him on to the Nimmana-rati gods, who sent him on to their
king, Sunimmita; who sent him on to the Para-nimmita Vasavatti gods who sent
him on to their king, Vasavatti, who sent him on to the gods of the Brahma-
world. (Goldfish).
[61]
Charles Eliot bảo: “Phật nghĩ rằng thế giới không do một thần linh nào
sáng tạo mà luân lí không phải do thần linh khải thị. Một tôn giáo không dựa vào
những quan niệm đó mà có thể thành lập, tồn tại được, đó là một điều quan
trọng bậc nhất”.
[62]
Nghĩa là họ nghi ngờ Phật không phải là một nhân vật thực.
[63]
Nanda là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật. (Goldfish)
[64]
Tức Xá Lợi Phất. (Goldfish).
[65]
Đạo sĩ du thuyết (sách in sai thành đạo sĩ tu thuyết): nguyên văn tiếng
Anh: Wanderer. (Goldfish).
[66]
Trong sách là tiết I – chương V. (Goldfish).
[67]
Açoka tức A Dục (273-232 trước công nguyên). Ông có công lớn với đạo
Phật: “ông cho xây cất 84.000 ngôi chùa và dựng khắp nơi trong nước nhiều
dưỡng đường cho bệnh nhân, cho cả loài vật. Ông phái các cao tăng truyền bá
đạo Phật ở khắp Ấn Độ, Tích Lan, Syrie, Ai Cập, tới cả Hy Lạp nữa (có lẽ những
cao tăng đó đã giúp cho dân chúng phương Tây sau này dễ chấp nhận luân lí Ki
Tô), khi ông vừa mới mất thì nhiều phái đoàn khác đi truyền bá đạo Phật ở Tây
Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản” (tiết II - chương III). (Goldfish).
[68]
Harsha: tức Harsha-Vardhana (590-657). Người dành lại được Bắc Ấn từ
tay đế quốc Hung Nô, lập lại cảnh thanh bình trong một vương quốc rộng lớn. Vị
minh quân đó “Mới đầu theo giáo phái Shiva, sau cải giáo theo đạo Phật, thành
một Açoka. Ông cấm dân chúng ăn thịt, dựng trong lãnh thổ của ông những tha-
la dành cho khách bộ hành nghỉ chân, và cất trên bờ sông Gange mấy ngàn điện
Phật nhỏ gọi là “top” (tiết III – chương III). (Goldfish).
[69]
Không biết Subhadda được nói ở đây có phải là người cuối cùng, một du
sĩ, được Đức Phật giáo hoá, lúc Ngài sắp tịch không? (Goldfish).
[70]
Kanishka có nét giống với Açoka, là xây dựng rất nhiều đền đài. Ông đã
cho xây đại tháp Peshawer thờ xá lợi Phật. Ông tổ chức kết tập kinh điển và kết
quả của lần kết tập này là sự hình thành của Phái Đại thừa. Ông còn cho lưu giữ
nhiều bản kinh đại thừa viết bằng tiếng Prakrit, thổ ngữ của Gandhara. Sau này,
những bản kinh đó được dịch sang kiểu văn chương tiếng Phạn, và được truyền
sang phương Đông theo Con đường tơ lụa. (theo
http://vi.wikipedia.org/wiki/Kanishka). (Goldfish).
[71]
Trong một Purana (tên chung chỉ các sách dạy giáo lí cho các tập cấp
không phải Bà La Môn) có chép huyền thoại đặc biệt này: một ông vua đáng
được lên Thiên đường mà tự nguyện ở lại Địa ngục để chia sẻ nỗi khổ của những
kẻ bị đày xuống đó, cho tới khi nào họ được cứu rỗi hết rồi mới lên Niết Bàn mà
thành Phật.
[72]
Tử ngữ (sách in sai thành từ ngữ): tác giả ám chỉ tiếng sanscrit.
(Goldfish).
[73]
Fergusson bảo: “Tín đồ Phật giáo đã đi trước Giáo hội La Mã… cả năm
thế kỉ trong việc sáng lập và thi hành các cuộc lễ và các nghi thức chung cho cả
hai tôn giáo”. Còn Edmunds thì vạch các chi tiết để làm nổi bật lên những điểm
giống nhau các Thánh kinh Ki Tô giáo và Phật giáo. Tuy nhiên sự hiểu biết của
chúng ta về nguyên thuỷ của các tục lệ và tín ngưỡng đó còn mơ hồ quá, nên
chưa thể kết luận dứt khoát rằng Ki Tô giáo có chịu ảnh hưởng của Phật giáo
không.
[74]
Bản tiếng Pháp là: la sagesse a posteriori mà tôi có thể dịch là cái khôn
hậu luận, nghĩa là thấy cổ nhân lầm lẫn rồi, sử gia mới rút ra một kết luận như tỏ
rằng mình khôn hơn cổ nhân. (ND).
[75]
Đoạn từ “Vì nói theo cái giọng” đến “nuốt được tôn giáo kia” có phần
khó hiểu, chắc là do sách in sai. Tôi xin tạm sửa và bổ sung (các chữ tôi cho in
nghiêng) như sau: “Vì - nói theo cái giọng các sử gia làm khôn hơn cổ nhân – nếu
Ấ
Phật giáo chịu tiếp nhận của Ấn giáo các huyền thoại và các lời thần, lần lần lấp
được cái hố giữa hai tôn giáo thời nguyên thuỷ và người ta có thể biết trước được
rằng tôn giáo nào đâm rễ sâu trong dân chúng nhất, hợp với nguyện vọng dân
chúng nhất, sau cùng, có những nguồn lợi kinh tế lớn nhất, được chính quyền
ủng hộ nhất, sẽ nuốt được tôn giáo kia”. Tuy sửa lại như vậy, nhưng thú thật tôi
vẫn thấy không ổn.
Nguyên văn tiếng Anh: For - to speak with the hindsight wisdom of the
historian - if Buddhism was to take over so much of Hinduism, so many of its
legends, its rites and its gods, the more popular appeal, and the richer economic
resources and political support would gradually absorb the other.
[76]
Hiện nay ở Ấn chỉ còn khoảng ba triệu người theo đạo Phật, tức chưa
đầy một phần trăm dân chúng.
[77]
Thái Lan: nguyên văn tiếng Anh là Siam. Trong cuốn Nguồn gốc văn
minh, cụ dịch là Xiêm và ghi thêm trong phần chú thích: “Tên bây giờ là Thái
Lan. Cuốn này viết từ trước thế chiến thứ nhì”. (Goldfish).
[78]
Kandy là kinh đô của Tích Lan, ở trên một cao nguyên. (ND).
[79]
Chính ở đền Kandy này, người ta còn giữ cái “răng của mắt” (!) Phật Tổ
dài năm phân, trực kính hai phân rưỡi. Răng đựng trong cái hộp trang sức bằng
nhiều bảo vật, cất kỉ một nơi không cho công chúng thấy; người ta đặt chiếc hộp
trong một cái kiệu khiêng đi trong một cuộc rước long trọng thu hút không biết
bao nhiêu tín đồ hành hương từ khắp nơi ở Á châu tới cung chiêm. Trên tường
của ngôi đền, có những bích hoạ vẽ Phật tử từ bi đang giết các kẻ phạm tội ở Địa
ngục. “Đời sống” của bậc vĩ nhân nào sau khi chết, cũng bị hậu thế làm sai hẳn
đi, mất chân tướng đi một cách nhơ nhớp.
[“Răng của mắt” Phật: nguyên văn tiếng Anh là "eye-tooth of Buddha”. Theo
Tỳ Kheo Indacanda (Trương Đình Dũng) thì đó là “xá lợi răng bên trái của đức
Phật” (xem http://suoinguonhanhphuc.com/InfoShow.aspx?InfoID=497).
(Goldfish)].
[80]
Tức Đức Quán Thế Âm. (Goldfish).