Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Bà cụ Tứ là nhân vật không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà đến khi anh cu Tràng

“nhặt được vợ” cùng về thưa chuyện với mẹ thì nhà văn mới cho bà xuất hiện. Có lẽ, nhà
văn cần đến sự xuất hiện của bà để thêm một mối quan hệ với người vợ nhặt và góp phần
hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình. Nhưng đối với một người sâu sắc như Kim Lân,
dụng ý của ông không chỉ đơn giản như thế!
Nhà văn nổi tiếng người Đức Betong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ
thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là hình tượng
được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”. Xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, Kim
Lân không đi sâu vào khái quát dáng vẻ bên ngoài mà tập trong đi sâu vào những nét đẹp
tâm hồn làm nổi bật tính cách của người mẹ nghèo.
Viết về bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã tái hiện lại hình ảnh của rất nhiều người phụ nữ
Việt Nam trong nạn đói, giàu lòng yêu thương con và phải gánh vác nhiều gian khổ. Bà
là nhân vật xuất hiện muộn nhất nhưng lại có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện
tư tưởng của tác phẩm. Ngoại hình của bà nhạt nhòa như ánh hoàng hôn, dật dờ như một
cái bóng, được nhà văn miêu tả bằng những câu văn mang giọng điệu nhẹ nhàng: “Ngoài
đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Một bà lão từ rặng tre đi vào. Bà lão vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Cái đói đã đẩy bà vào hoàn cảnh túng quẫn, là dân
ngụ cư với căn nhà vắng teo “đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại”, mất đi cả chồng và con gái. Có thể nói, bà là một người nông dân nghèo khổ, từng
trải và hiểu đời với cuộc sống đầy tăm tối trong nạn đói 1945. Ngay từ những ấn tượng
ban đầu, tác giả đã gợi nên nhiều sự thương cảm, xót xa trước hình ảnh bà cụ Tứ.

Đó là lúc buổi hoàng hôn tê tái phủ nhuộm lấy cái xóm ngụ cư nghèo ấy, Tràng dẫn thị về
nhà, đợi chờ một cái gật đầu cho hôn nhân giữa hai người giữa nạn đói túng thiếu. Bà cụ
tứ trở về, nhạc nhiên với sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình. Thấy mẹ,
Tràng sốt sắng reo lên như một đứa trẻ không khỏi khiến bà lo lắng, phấp phỏng. Ngay cả
khi theo con trai vào nhà, bà lão vẫn chưa hiểu mọi chuyện đang diễn ra. Có lẽ bởi đời bà
là một chuỗi ngày đau khổ, mất đi chồng đi con, mất luôn cả hy vọng và niềm tin vào
việc con trai mình lấy vợ, có một tổ ấm cho gia đình. Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau
của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm
trước hạnh phúc của con.
Sau khi Tràng giãi bày chuyện hệ trọng của cuộc đời mình, Bà cụ Tứ mới hiểu ra tất cả.
Từ đây, diễn biến bà cụ Tứ cứ từng câu, từng chữ xoắn vào lòng người đọc, gợi bao thổn
thức xót xa.
Miêu tả nhân vật bà cụ Tứ, ngòi bút của Kim Lân đã lấy đi biết bao giọt nước mắt đánh
rơi trên trang giấy. Nhà văn không tả thêm những suy nghĩ, những căn dặn trong tiềm
thức của nhân vật, hay những hành động có tác động tâm lí phức tạp khác mà đơn giản
chỉ là cái “cúi đầu nín lặng”. Một câu văn trần thuật ngắn gọn nhưng lại rưng rưng một
tấm lòng hoài cảm, đầy ân tình của nhà văn Kim Lân. Cái cúi đầu ấy chất chứa bao suy
nghĩ, cả những nỗi niềm không thể nói thành lời. Có chút gì đó chua xót, chút gì đó tủi
hờn, và cả những nghẹn ngào khiến người mẹ nín lặng bởi câu chuyện con trai vừa giãi
bày.
Như vậy, trong cái nín lặng của bà cụ Tứ là sự nén chặt, sự dồn tụ rất nhiều cảm xúc: vừa
là niềm hạnh phúc khi thằng con mình có một người bạn đời để sẻ chia buồn vui, vừa là
sự xót xa vì việc trọng đại với đứa con trai lại diễn ra chóng vánh, bất ngờ đến thế, vừa là
sự tủi phận của người mẹ cảm thấy mình đã không làm tròn trách nhiệm, không lo lắng
được cho hạnh phúc của con cái. Sự từng trải đã giúp bà thoát ra khỏi sự chậm chạp của
một con người già để lập tức hiểu ra “biết bao cơ sự” cơ sự của con trai, cơ sự người đàn
bà kia và cũng là cơ sự của chính mình. Phải rất tinh tế Kim Lân mới bắt được khoảnh
khắc tâm lý tưởng như rất tĩnh tại nhưng thực chất lại đầy phức tạp, uẩn khúc này của bà
cụ Tứ.
Sau phút cúi đầu nín lặng với nhiều cảm xúc trái chiều phức tạp, bà cụ đã trở về vơi thực
tại, nhìn vào thực tế đói khổ nghiệt ngã để trong lòng trào lên sự lo lắng, thương xót cho
hai đứa con.
Từ thương con bà hướng về hờn trách chính bản thân mình: “Chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt
sau này. Còn mình thì...”. Từ cảm thán “chao ôi!” đứng đầu câu tạo nên một giọng điệu
than oán, nó bắt trọn cảm xúc chua xót của một người làm mẹ. Phận làm cha, làm mẹ ai
mà chẳng vui mừng khi “trai lớn dựng, gái lớn gả chồng”. Đằng này, bà cụ Tứ nghe
chuyện của con lại “không khỏi chạnh lòng”! Bà nghĩ đến người ta, rồi ngầm so sánh với
chính mình mà khóc! Bà tủi hờn, trách phận lắm! Bởi khi gia đình có điều kiện cha mẹ sẽ
lo cho con một đám cưới chu toàn, đầy đủ lễ nghi. Bao nhiêu tủi cực, nghẹn ngào chua
xót, đắng cay nén sau chữ “thì” vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận
của một người mẹ, không lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói
“như ngả rạ” lại có người theo con trai mình làm vợ. Dấu chấm lửng “…” thể hiện sự
nghẹn ngào, bất lực như một tiếng thở dài đây tâm trạng của người mẹ già có tâm nhưng
lại không đủ sức. Nếu cho rằng “Văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân
quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩ ấy” (Trần Ninh Hồ). Ông đã vẽ đúng cung bậc
mà con người hướng đến: “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn
vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người”.
Chi tiết giọt nước mắt:
Nhà văn Nam Cao quan niệm: “Nước mắt là giọt châu của loài người”. Ở đây nhà văn
của nông thôn Bắc Bộ đã cho ta thấy giọt châu, hạt ngọc trong tâm hồn người hồn người
mẹ qua những giọt nước mắt hiếm hoi: “Trong kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống hai dòng nước
mắt” lí trí đã không thể ngăn nổi con tim, bà đã cố nén giọt nước mắt vào trong, để chỉ
riêng mình bà đau, trong nỗi đau của một người mẹ. Nhưng tình thương con quá lớn, nó
tràn qua khỏi vách ngăn của một trái tim nóng nổi. Bà khóc vì thương con và bà quá tủi
nhục cho chính mình. Kim Lân đã như một nhà quay phim tài ba khi lia ống kính của
mình chớp lấy những nét thần tình đó là những thước phim cận cảnh làm hiện lên đôi mắt
hằn in dấu chân chim vất vả một đời của người mẹ già. Và trong cái kẽ mắt nứt nẻ theo
thời gian ấy rạn ra một dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già mà như Nguyễn
Khuyến xưa đã từng viết trong Khóc Dương Khuê:
“Tuổi già giọt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả thế, chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ đã cho
ta thấy được tài năng miêu tả diễn biến tâm lí của KL, nó bao hàm giá trị hiện thực, cùng
giá trị nhân đạo lớn lao của cả tác phẩm.

Từ tủi hờn, bà thương xót cho các con, bà không chỉ thương cho số kiếp của đứa con
mình mà với tấm lòng nhân hậu, bao dung, bà còn thương cả người đàn bà xa lạ bị hoàn
cảnh xô đẩy mới thành con dâu mình. Bà nghẹn ngào, suy nghĩ: “... Biết rằng chúng nó
có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”, câu nói ấy chứng tỏ bà lão đã
chấp nhận người vợ nhặt là thành viên trong gia đình nên lo lắng cho hạnh phúc của
chúng nó giữa cảnh khốn cùng của cuộc sống, chứ không riêng gì anh cu Tràng. Và rồi:
“Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà” tiếng thở dài nhè nhẹ ấy là
tiếng thở của bao lo toan, uất ức cả một đời. Bà “đăm đăm” nhìn người đàn bà như để
nhìn người bạn sẽ đồng hàng cùng mình trong cuộc đời khổ cực phía trước. Dường như
thị e thẹn quá, chỉ biết đứng im đấy “vân vê tà áo đã rách bợt”. Và cũng từ đó trong tâm
hồn người mẹ ấy như đã thức dậy bao ý nghĩ nhân đạo và cả sự hàm ơn: “Bà lão nhìn thị
và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho
con..”. Những lời độc thoại ấy cứ như những đợt sóng cuộn trào, dâng ngập lên trong
lòng người mẹ vừa khắc khoải vừa dào dạt vừa bao la, đong đầy tình mẫu tử, hòa vào
trong đó là những rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân.
Hai chữ “mừng lòng” của bà lão nói ra với con: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải
kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. Chữ “mừng” thật là một chữ đắc địa. Nó lột tả đúng
cái thần thái của một tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu
đi giọt nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính người đang thương xót. Người
mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình yêu thương của
mình an ủi các con. Người mẹ ấy chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong
con hãy hưởng trọn vẹn hạnh phúc lứa đôi lòng”. Vì một lẽ đơn giản, trong hoàn cảnh
đói kém như thế bà chỉ có thể “mừng” vì cuối cùng con bà cũng lấy được vợ, nhưng làm
sao có thể “vui” khi phía trước các con là cả một giai đoạn đói khát.

Ta cũng quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu ta
tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương đằng sau câu nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Câu nói ấy, đã xóa tan mọi khoảng cách, ranh giới giữa mẹ
chồng - nàng dâu. Dường như tình yêu thương, sự bao dung của người mẹ già đã xóa
nhòa tất cả. Và rồi “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót” người mẹ nghèo khổ
ấy thấu hiểu bao nỗi lòng của đứa con dâu mới. Nhưng e thẹn, tủi hổ ấy có lẽ bà đã từng
trải qua trong cái tuổi trẻ của chính mình. Thấy người đàn bà chỉ “khẽ nhúc nhích” nhưng
vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Trong không khí mang đôi chút ngột ngạt chứa đựng
cả những ngại ngùng, tình yêu thương sự quan tâm của bà đã đánh tan đi không gian chật
chội ấy. Tưởng chừng như dưới mái phên che chắn mà nắng có thể lọt qua khe mà rơi
xuống ấy, tình thương đã dâng ngập bến bờ nơi tấm lòng người mẹ già, bà thấp giọng
thân mật: “Kể có ra làm được ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo…”, đâu còn
sự ngỡ ngàng, kinh ngạc như lúc có người đàn bà lạ trong nhà, lời nói ấy chính là những
lo lắng cho người con dâu mới, lo lắng cho hạnh phúc đôi trẻ. Bà nói tiếp: “Cố làm sao
chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá”. Còn điều gì cao quý và thiên liêng hơn tình mẹ. Kim Lân đã thật sự
nung đốt lên trong tâm hồn chúng ta tình mẫu tử thiên liêng và cao quý. Quả thật, không
có kì quan nào đẹp đẽ nào mà trường tồn bất tử hơn tình mẹ.

TỔNG KẾT NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ:


Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của
Nam Cao, thì tình mẫu tử trong đoạn trích ‘Trong lòng mẹ” của nhà văn Nguyên Hồng,
hay tấm lòng bao dung, vị tha, giàu đức hy sinh của người đàn bà vô danh trong “CTNX”
thật đáng trân trọng biết bao. Có thể nói, quả thật, không có kì quan nào đẹp đẽ mà
trường tồn bất tử hơn tình mẹ.
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con”

Chúng ta sẽ nhớ mãi những trang viết xúc động và dào dạt tình mẹ trong “Hòn đất” của
Anh Đức, hay Người mẹ cầm súng của Nguyễn Đình thi, và cũng không thể nào quên
nhân vật Bà Cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân. Với hình tượng bà cụ Tứ, Kim Lân đã tái
hiện xuất sắc hình ảnh người mẹ Việt Nam với đức tính hiền lành, bao dung. Mẹ còn giàu
tình yêu thương con đến mãnh liệt, luôn lo nghĩ cho con, tủi hổ xót xa khi không lo được
cho con tròn vẹn. Chính vì vậy mà bà cụ Tứ là nhân vật tiêu biểu cho tính người và lòng
nhân ái, đây cũng chính là 2 giá trị mang ý nghĩa lớn lao trong truyền thống dân tộc Việt
Nam mà Kim Lân đã gửi gắm vào thông điệp ẩn dưới những trang viết của mình. Nhân
vật bà cụ Tứ đã góp phần thể hiện chiều sâu nhân đạo của tác phẩm, đó chính là sự phát
hiện và trân trọng vẻ đẹp của những người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng ẩn chứa trong
mình những phẩm chất tốt đẹp. Đồng thời, nhân vật này còn in đậm dấu ấn phong cách
sáng tác của Kim Lân, một cuộc đời luôn hướng về những người nông dân nghèo khổ,
một ngòi bút luôn đầy ắp ấm áp và tình yêu thương.

KẾT BÀI:
Lỗ Tấn đã từng viết trong những trang viết về quê hương "Cố hương": “Trên thế gian
này làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…”. Trên “con đường
mòn” của chủ nghĩa hiện thực, Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của
những tác phẩm hiện thực phê phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng
Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được
niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Ở mảng đề tài quen thuộc về nạn đói, Kim Lân đã
khai mở lối đi riêng, ông hướng tới khám phá vẻ đẹp khỏe khoắn, đôn hậu, chất phác
trong tâm hồn những người nông dân. Thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã phát
hiện và trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng giàu
lòng thương con, giàu tình thương người, giàu đức hi sinh và sự vị tha trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Trong bế tắc, trong tuyến đường cùng cực mà đói khổ bủa vây,
bà đã thắp nên niềm hy vọng, tinh thần lạc quan để hướng về phía chân trời tươi đẹp ở
tương lai. Ta có quyền tin rằng, nạn đói không chỉ có đói khổ, mà còn là khoảnh khắc ta
dát tỏa yêu thương lên bức thành cuộc đời.

You might also like