Professional Documents
Culture Documents
Mono Sac Cha Ride
Mono Sac Cha Ride
CHÍ MINH
KHOA: CÔNG NGHỆ HÓA HỌC VÀ THỰC PHẨM
------
Điểm: .....................................................................................................................
Một monosaccharide thường chuyển từ dạng mạch hở sang mạch vòng thông qua
phản ứng cộng giữa nhóm carbonyl và một trong các nhóm hemiacetal hoặc hemiketal,
tùy thuộc vào dạng mạch thẳng là aldose hay ketose. Phản ứng dễ dàng được đảo ngược
tạo ra chuỗi mới ban đầu.
Trong các dạng chu kì này, vòng thường có năm hoặc sáu nguyên tử. những dạng
này được gọi là furanose và pyranose, tuong tự như furan và pyran, những hợp chất đơn
giản nhất có cùng vòng carbon-oxy.
Monosaccharide là những chất không màu, phần lớn có vị ngọt, hòa tan tốt trong
nước, không tan trong dung môi hữu cơ
_ Khả năng hút ẩm của các loại đường đơn là khác nhau.
_ Trong phân tử monosaccharide có mang nhiều nhóm hydroxy phân cực mạnh có khả
năng tạo liên kết hydrogen do đó quyết định tính hòa tan.
_ Độ hòa tan của đường đơn tốt, mỗi loại đường có độ hòa tan khác nhau.
_ Độ hòa tan của đường giảm khi bị vón lại với nhau và thường xảy ra với đường ở dạng
bột hay dạng hạt.
_ Có thể dựa vào độ hòa tan khác nhau của các alpha và beta mà có thể cô lập riêng biệt
từng đồng phân
_ Dựa vào đặc điểm hòa tan con người có thể chế biến các sản phẩm kết tinh theo ý muốn
bằng cách phối trộn các loại đường lại với nhau.
_ Các monosaccharide ( trừ dioxy aceton ) đều có tính quang hoạt ( khả năng quay cực )
_ Tính hoạt quang: làm lệch mặt phẳng của ánh sáng phân cực khi cho ánh sáng đi qua
dung dịch đường.
Các monosaccharide dễ dàng cho phản ứng oxy hóa, phụ thuộc vào các điều kiện
khác nhau sẽ tạo ra nhiều phản ứng khác nhau.
Oxy hóa nhẹ: bằng các tác nhân oxy hóa như Cu(OH) 2, Br2, Cl2,... trong dung dịch
kiềm thì nhóm andehyde ở carbon số 1 sẽ bị oxi hóa thành carbolxylic.
Các phản ứng này thường dùng để định lượng đường trong máu.
Oxy hóa mạnh: cho tác dụng với chất oxy hóa mạnh như HNO3.
Khi phản ứng oxy hóa mạnh monosaccharide xảy ra thì andehyle ở carbon số 1 và
nhóm hydroxyl ở carbon số 6 đều bị oxy hóa thành nhóm carbolxylic ( COOH).
Oxi hóa có điều kiện: xảy ra ở cấu trúc vòng khi nhóm -OH semiaxetal liên kết
glucoside với một phân tử khác, khi đó chỉ nhóm –OH bậc I bị oxy hóa tạo thành axit
uronic.
_ Dưới tác nhân khử, nhóm –CHO hay –CO bị khử thành các polyalcol
Monosaccharide dễ tham gia phản ứng thế với nhóm amin tạo thành bazo schiff
4. Phản ứng tạo ester:
Nhóm –OH ở carbon số 1 và carbon số 6 dễ tham gia tạo phức ester với nhóm
photphate – sản phẩm của nhiều quá trình chuyển hóa trao đổi chất trong cơ thể.
Nhóm –OH của glicoside của đương đơn tham gia phản ứng với nhóm –OH của
nhóm ancol:
_ Hexose: D- glucose là thành phần cấu tạo của nhiều glucid quan trọng ở động vật và
người như saccarose, lactose..
_ Fructose
_ Galactose
_ Manose
Trong tự nhiên, các monosaccharide thường gặp nhiều nhất lad pentose và hexose,
đặc biệt là glucose
Tên gọi Công thức cấu tạo Tính chất Tồn tại trong Ứng dụng
- Ít ngọt hơn
đường glucose và
fructose
- D- galactose chỉ
được lên men bởi
các loại nấm men
đặc biệt
Tính chất cảm quan quan trọng nhất đó là chúng thường có vị ngọt
Cường độ vị ngọt được đánh giá bằng ngưỡng nồng độ cảm nhận của đường hoặc so
sánh với một đường chuẩn khác ( thường là đường saccharose)
Khi chế biến thực phẩm phải điều chỉnh thành phần và nồng độ các chất để được cảm
quan tốt nhất
Saccarose 100
Fructose 115 – 180
Glucose 50 – 70
Galactose 54
Lactose 15 - 40
=> Độ ngọt của đường không phải là giá trị tuyệt đối, mà còn tùy thuộc vào nồng độ,
nhiệt độ, hiệu ứng trong hỗn hợp...
VII. Ứng dụng của Monosaccharides trong công nghệ thực phẩm
1. Glucose trong sản xuất kẹo và các loại mức
Đa số các kẹo ngọt đều được làm bằng cách đun nóng nước có đường hòa tan sẵn
trong đó. Những loại kẹo khác nhau được sản xuất bằng cách kiểm soát thành phần nước
của hỗn hợp siro, nhiệt độ gia nhiệt tối đa và tốc độ làm mát và kết tinh.
Kẹo mềm: Đun nóng hỗn hợp gồm đường và nước đến nhiệt độ từ 110-120°C.
Làm mát và khuấy hỗn hợp được đun ở nhiệt độ thấp, rồi khuất thật nhanh trong lúc để
nguội, khuyến khích rất nhiều tinh thể bé xíu hình thành; các tinh thể càng nhỏ thì kẹo
mềm càng mịn. Tinh thể nhỏ của các phân tử glucose hình thành.
Kẹo cứng: Đun nóng hỗn hợp gồm đường và nước đến nhiệt độ từ 300-320°C.
Làm mát nhanh thì các tinh thể sẽ không thể hình thành. Thay vào đó, việc này sẽ tạo ra
viên kẹo có hình thức trong veo như thủy tinh, cấu trúc cứng, giòn như các loại kẹo mút.
Làm lạnh nhanh khiến các phân tử Glucose nằm cách xa nhau.
Mứt: Trong một số trường hợp ở các chế phẩm mứt kẹo nếu đường tồn tại trạng
thái vô định hình thì sự có mặt của các chất hút ẩm không có lợi vì khi đó sự hấp thụ nước
sẽ làm tăng nhanh quá trình kết tinh đường và làm cho chế phẩm dính hơn. Vì vậy ta thêm
siro glucose để khắc phục tình trạng trên, có thể giảm đi đường nghịch đảo.
2. Phản ứng caramel hóa
Việc loại bỏ hơi nước và phá vỡ cấu trúc đường làm biến đổi về màu sắc và mùi vị
của nguyên liệu, hay hoạt động oxy hóa của đường được gọi là caramel.
Trong chế biến các món như bánh flan, làm kho thịt, cá, làm bánh, kẹo… chúng ta
vẫn hay thực hiện thao tác gọi nôm na là thắng đường. Nói cách khác, người nấu sẽ làm
đường tan chảy ở nhiệt độ cao làm bốc hơi nước, đường chuyển sang màu nâu và kết lại
có độ dính, hơi đặc, vị không còn ngọt như lúc đầu. Đó chính là một trường hợp dễ hình
dung của caramel – biến đường thành caramel. Xét về phương diện hóa học, quá trình
caramel đường bắt đầu từ việc chúng ta đun sôi đường với một ít nước (hoặc có thể
không cho nước). Sau đó quan sát sẽ thấy hiện tượng sủi bọt. Đường sucrose ban đầu
(thường là đường mía, đường củ cải) sẽ phân hủy thành hai loại đường đơn là đường
glucose và fructose. Hai loại đường đơn này sẽ phản ứng với nhau và tạo nên hương
thơm mới so với đường ban đầu.
Khi caramel, đến một thời điểm nhất định, chúng ta sẽ quan sát thấy đường bị biến
đổi về màu sắc và hình dạng, đó là khi các thành phần bắt đầu phản ứng với nhau.
Nguyên tắc của việc tạo ra phản ứng chính là đun nóng đường đến một nhiệt độ sôi nhất
định, cụ thể như sau:
_ Fructose sôi ở 110oC
_ Glucose sôi ở 160oC
_ Sucrose sôi ở 160oC
3. Glucose trong sản xuất rượu vang
Lên men rượu là quá trình phân giải kị khí Glucose thành rượu etylic với sự tham
gia của nấm nem và một số sinh vật khác theo phương trình tổng quát sau:
Men rượu
C6H12O6 −to ----------- 2C2H5OH + 2CO2
Trong quá trình lên men , đường từ nho làm rượu bị nấm men phân hủy và
chuyển hóa thành rượu (etanol ) và khí cacbonic . Nho tích tụ đường khi chúng phát triển
trên cây nho thông qua sự chuyển vị của các phân tử sucrose được tạo ra bởi quang hợp
từ lá. Trong quá trình chín , các phân tử sacaroza được thủy phân bởi enzym invertase
thành glucose và fructose . Vào thời điểm thu hoạch , từ 15 đến 25% nho sẽ bao gồm
đường đơn . Cả glucose và fructose đều là đường sáu- cacbon nhưng đường ba-, bốn-,
năm- và bảy cacbon cũng có trong nho. Không phải tất cả các loại đường đều có thể lên
men, với các loại đường như 5 carbon arabinose , rhamnose và xylose vẫn có trong rượu
sau khi lên men. Hàm lượng đường rất cao sẽ tiêu diệt nấm men một cách hiệu quả khi
đạt đến nồng độ cồn (cao) nhất định. Vì những lý do này, không có loại rượu nào được
lên men hoàn toàn "khô " (nghĩa là không có đường dư ). Vai trò của đường trong việc
quyết định nồng độ cồn cuối cùng của rượu đôi khi khuyến khích các nhà sản xuất rượu
thêm đường (thường là sucrose ) trong quá trình sản xuất rượu vang trong một quy trình
được gọi là quá trình phân hóa chỉ để tăng nồng độ cồn - quá trình phân hóa không làm
tăng vị ngọt của rượu. Lên men là nuôi cấy nấm men trong điều kiện thuận lợi để sản
xuất rượu. Quá trình này được thực hiện ở khoảng 35–40 ° C (95–104 ° F). Độc tính của
etanol đối với nấm men chế độ etanol có khi nấu bia; Do đó, nồng độ cao hơn thu được
bằng cách tăng cường hoặc chưng cất .
Để sản xuất etanol từ nguyên liệu có tinh bột như ngũ cốc , tinh bột trước tiên phải
được chuyển thành đường. Trong sản xuất bia bia , điều này theo hệ thống đã được thực
hiện bằng cách cho phép nảy mầm, hoặc malt , tạo ra enzymeamylase . Khi hạt mạch nha
nghiền , amylase sẽ chuyển hóa phần tinh bột thành đường.
4. Glucose và Fucose trong mật ong
Mật ong có được vị ngọt từ monosacarit fructose và glucose, và có độ ngọt tương
đối giống như sucrose (đường hạt). Nó có tính chất hóa học hấp dẫn để nướng
và hương vị đặc biệt khi được sử dụng như một chất làm ngọt. Hầu hết các vi sinh vật
không phát triển trong mật ong, vì vậy mật ong kín không bị hỏng, thậm chí
sau hàng ngàn năm.
Mật ong cung cấp 46 calo trong một khẩu phần một muỗng canh (15 ml) tương đương
với 1272 kJ mỗi 100 g. Mật ong nói chung là an toàn, nhưng có thể có nhiều tác động
hoặc tương tác có thể có hại khác nhau khi tiêu thụ quá mức, tình trạng bệnh hiện có hoặc
sử dụng thuốc theo toa. Chúng được sử dụng làm nguyên liệu trong nhiều thực phẩm và
công thức nấu ăn đóng gói sẵn. Cả hai có thể dẫn đến tăng cân nếu sử dụng nhiều.
Mật ong có hàm lượng fructose cao hơn glucose. Fructose ngọt hơn glucose, vì
vậy có thể sử dụng một lượng mật ong nhỏ hơn trong thức ăn hoặc đồ uống mà không
phải hy sinh vị ngọt. Lượng vi lượng vitamin và khoáng chất tìm thấy trong mật ong cũng
có thể có thêm lợi ích sức khỏe.
Mật ong cũng cung cấp các lợi ích sức khỏe bổ sung:
_ Nó có thể giúp tiêu diệt vi trùng vì nó có đặc tính kháng khuẩn.
_ Khi được sử dụng như một salve ở dạng gel, nó có thể giúp thúc đẩy chữa lành vết
thương và bỏng nhẹ.
_ Nó cũng có thể giúp giảm ho và đau họng.
Nhược điểm của mật ong:
_ Mật ong có nhiều calo.
_ Nó chủ yếu được tạo thành từ đường.
_ Nó có thể không an toàn cho trẻ nhỏ hơn 1 tuổi.
5. Đường Galactose
Galactose thường được viết tắt là Gal – là một đường monosaccharide ít ngọt hơn
glucose và fructose. Galactose bao gồm các nguyên tố giống như glucose , nhưng có sự
sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Galactose được tìm thấy trong các sản phẩm sữa,
củ cải đường, các gôm và chất nhầy khác. Nó cũng được tổng hợp bởi cơ thể, nơi hình
thành một phần của glycolipid và glycoprotein trong một số mô; và là một sản phẩm phụ
từ quá trình sản xuất ethanol thế hệ thứ ba (từ rong biển).
_ Nguồn galactose trong chế độ ăn uống chính là đường sữa từ sữa và sữa chua, được
tiêu hóa thành galactose và glucose.
_ Các loại thực phẩm chứa một lượng nhỏ galactose tự do bao gồm sữa ít đường hoặc
sữa không có đường sữa, một số loại sữa chua, pho mát, kem, kem và các thực phẩm
khác được làm ngọt nhân tạo với galactose. Thực phẩm tự nhiên đơn giản (trái cây,
rau, quả hạch, ngũ cốc, thịt tươi, trứng, sữa) thường chứa ít hơn 0,3 g galactose mỗi
khẩu phần .
Galactose trong các nhà máy thường ở dạng gel trong nhiều loài thực vật, chẳng hạn
như tảo đỏ của K-carrageenan là một D-galactose và 3,6 - anhydro-D-galactose
polysaccharide.