Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 53

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  


---------***--------

TIỂU LUẬN
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA
VIỆT NAM, TÁC ĐỘNG, KIẾN NGHỊ

Nhóm thực hiện: Nhóm 9

Lớp: K59D

Khóa: 59

Môn học: Kinh tế vĩ mô

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phan Văn Quỳnh

TP. HCM, ngày 20 tháng 7 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN

i
MỤC LỤC

DANH SÁCH THÀNH VIÊN..........................................................................................i

MỤC LỤC ii

DANH MỤC HÌNH ẢNH...............................................................................................iv

DANH MỤC BẢNG.........................................................................................................v

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.....................................................3

1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT..........................................................................................3

1.1.1.Cơ sở hình thành và định nghĩa tỷ giá hối đoái........................................3

1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái...................................................................................5

1.2.1.Phân loại tỷ giá hối đoái...........................................................................5

1.3. Thực trạng tỷ giá hối đoái...................................................................................9

1.3.1.Thực trạng tỷ giá hối đoái chung ở các quốc gia trên thế giới (đặc biệt các
quốc gia có mối quan hệ kinh tế với Việt Nam).........................................................9

1.3.2.Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam...................................................10

1.4. Đánh giá sự điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay........16

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN THỊ
TRƯỜNG VIỆT NAM...................................................................................................19

2.1. Các nhân tố tác động lên tỷ giá hối đoái...........................................................19

2.1.1.Chênh lệch lạm phát...............................................................................19

2.1.2.Chênh lệch lãi suất.................................................................................19

2.1.3.Thâm hụt tài khoản vãng lai...................................................................19

2.1.4.Nợ công..................................................................................................20

2.1.5.Tỷ lệ trao đổi thương mại.......................................................................20

ii
2.1.6.Mức độ ổn định chính trị và hiệu quả kinh tế.........................................20

2.1.7.Vai trò của chính phủ và sự can thiệp của Ngân hàng Trung Ương.......21

2.2. Ảnh hương đến tình hình lạm phát....................................................................21

2.2.1.Cơ chế tác động......................................................................................21

2.2.2.Diễn biến tác động của tỷ giá hối đoái lên tình trạng lạm phát...............23

2.3. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM...........................................27

2.3.1.Thực trạng kinh doanh chung của các NHTM nước ta hiện nay............27

2.3.2.Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên các NHTM nước ta hiện nay............29

2.4. Ảnh hưởng đến cán cân thương mại: (xuất nhập khẩu, đầu tư quốc tế,…)........31

2.4.1.Số liệu về thực trạng cán cân thương mại hiện nay................................31

2.4.2.Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại Việt Nam............36

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TRƯỚC BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI HIỆN NAY
41

3.1. Giải pháp chung................................................................................................41

3.2. Kiến nghị..........................................................................................................43

CHƯƠNG 4: BÀI HỌC..............................................................................................45

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................46

iii
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1-1: Tỷ giá USD/VND năm 1990 - 1991........................................................10

Hình 1-2: Đồ thị Tỷ giá USD/ VND 2008 - 2011....................................................12

Hình 1-3: Tỷ giá hối đoái Việt Nam năm 2020.......................................................14

Hình 1-4: Tỷ giá Việt Nam đầu 2020 - 2021..........................................................15

Hình 2-1: Kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát.......................................................22

Hình 2-2: Trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 01/01/2021 đến
15/5/2021 và cùng kỳ năm 2020......................................................................................35

Hình 2-3: Trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 01/01/2021 đến
15/5/2021 và cùng kỳ 2020..............................................................................................36

Hình 2-4: Tỷ giá NEER và REER của Việt Nam từ 2014 đến nay..........................39

Hình 2-5: Thị trường có mức thặng dư hoặc thâm hụt thương mại lớn với Việt Nam
năm 2020 (Đơn vị: tỷ USD).............................................................................................41

iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1-1: Diễn biến tỷ giá, tương quan giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực song
phương............................................................................................................................. 11

Bảng 2-1: Lạm phát, lãi suất thị trường và mức tăng tỷ giá USD giai đoạn 2000 –
2019 ở Việt Nam (%).......................................................................................................24

v
vi
Nhóm 9 - KTVM

LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi mở cửa hội nhập kinh tế vào năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã
và đang phát triển mạnh mẽ với nhiều cột mốc quan trọng. Ngày 11/1/2007 Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đây là
một bước chuyển mình lớn, đã mở ra nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều thách thức cho
nền kinh tế Việt Nam trên chặng đường vươn tầm ra thế giới. Để hội nhập ngày càng sâu
rộng hơn với nền kinh tế của thế giới, Việt Nam luôn đặc biệt chú trọng các hoạt động
thương mại quốc tế trong các mối quan hệ thương mại song phương, đa phương với các
quốc gia khác trong đó có hoạt động xuất, nhập khẩu đang trên đà tăng trưởng với tốc độ
đáng kinh ngạc. Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động xuất nhập khẩu luôn
là vấn đề nóng hổi được các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt
Nam quan tâm bởi vì đây chính là con đường ngắn nhất góp phần tăng tích lũy của cải,
giải quyết gánh nặng nợ nần cho hầu hết các quốc gia trên thế giới. Xuất phát từ vai trò
vô cùng quan trọng ấy, các quốc gia trên thế giới hiện nay lại bước chân vào một cuộc
chạy đua mới, cuộc đua thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn thế nữa, đối với nền
kinh tế của một quốc gia, sự vận hành của tỷ giá hối đoái chi phối trực tiếp đến việc xác
định mục tiêu phát triển, chính sách liên quan và tác động rất lớn đến các vấn đề vĩ mô,
điều tiết nền kinh tế cả về đối nội lẫn đối ngoại. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái biến động từng
ngày, từng giờ và chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố làm cho việc xây dựng thành
công một chính sách điều hành tỷ giá hối đoái thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn,
phức tạp, đòi hỏi các nhà chính trị, nhà kinh tế,... ở Việt Nam phải am hiểu thấu đáo về
lĩnh vực này, vận dụng được những kiến thức hiện tại đang được áp dụng phổ biến trên
thế giới. Vì vậy, chính sách tỷ giá hối đoái phải liên tục được điều chỉnh, hoàn thiện và
phù hợp với tốc độ thay đổi nhanh chóng và thường xuyên của môi trường vĩ mô trong
nước và quốc tế.
Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề tỷ giá hối đoái trong xu thế phát triển
chung của thế giới, cũng như tính cấp thiết của vấn đề này đối với sự phát triển thịnh
vượng và lâu dài của Việt Nam, nhóm 9 đã lựa chọn đề tài: “Chính sách tỷ giá hối đoái
của Việt nam, tác động, kiến nghị” là vấn đề chính cần được nghiên cứu và khai thác
sâu trong bài báo cáo này.

1
Nhóm 9 - KTVM

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI


1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.1. Cơ sở hình thành và định nghĩa tỷ giá hối đoái
1.1.1.1. Cơ sở hình thành
Ngang giá vàng: Trong chế độ bản vị vàng, mỗi quốc gia sẽ xác lập hàm lượng
vàng trong đơn vị tiền tệ của họ. Từ đó, tỷ giá trao đổi giữa các đơn vị tiền giấy được xác
định trên cơ sở so sánh thông qua hàm lượng vàng mà mỗi đồng tiền chứa đựng.

Chẳng hạn, những năm đầu thế kỷ 20, đồng tiền vàng của nước Anh (đồng bảng
Anh - GBP) nặng 7,31 gram, đồng tiền vàng của nước Mỹ (USD) nặng 1,504 gram. Như
vậy đồng giá vàng của bảng Anh và đôla Mỹ là: 7,31/1,504 = 4,8745. Tỷ giá hối đoái của
GBP và USD là: 1GBP = 4,8745 USD.

Khi cuộc đại chiến thế giới thứ nhất bùng nổ, chế độ bản vị vàng sụp đổ thì chế độ
tỷ giá cố định căn cứ vào đồng giá vàng không còn cơ sở để tồn tại. Chế độ bản vị vàng
không thể tồn tại bởi hai lý do: lượng vàng trên thế giới quá nhỏ so với lượng cầu tiền
toàn cầu và lượng tiền vừa đủ (không gây lạm phát hay giảm phát) không cố định mà
biến đổi. Để tiếp tục duy trì các quan hệ thương mại, dịch vụ, tín dụng, đầu tư, các nước
phải áp dụng một chế độ tiền tệ quốc tế mới có nhiều so với bản vị vàng, dưới các hình
thức khác nhau như các chế độ bản vị vàng thỏi, bản vị vàng hối đoái,... vốn là những chế
độ tiền tệ không ổn định, vì giấy bạc ngân hàng không đổi được lấy tiền vàng nữa mà chỉ
đổi được lấy vàng thỏi một cách hạn chế hoặc đổi lấy một thứ ngoại tệ mạnh đã quy định,
rồi từ ngoại tệ này mới đổi được lấy vàng.

Tình hình trên đã làm cho chế độ tỷ giá cố định mất cơ sở ổn định và khi cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) xảy ra thì các hình thức khác nhau của chế độ
bản vị vàng sụp đổ hoàn toàn, chế độ tỷ giá cố định cũng không còn nữa. Nền kinh tế
toàn cầu đòi hỏi một chế độ tỷ giá mới phù hợp hơn.

Ngang giá sức mua (PPP): Ngang giá sức mua là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng
tiền, theo tỷ lệ này thì số lượng hàng hóa mua được là như nhau ở trong nước và ở nước
ngoài khi chuyển đổi một đơn vị nội tệ ra ngoại tệ và ngược lại. Ngang giá sức mua giữa

2
Nhóm 9 - KTVM

hai đồng tiền đơn thuần chỉ là sự so sánh mức giá hàng hóa tính bằng nội tệ và ngoại tệ ở
hai nước mà không đề cập đến chi phí vận chuyển quốc tế, thuế quan…

- Lý thuyết PPP dự đoán rằng giảm sức mua trong nước của nội tệ (biểu thị bằng
sự gia tăng mức giá nội địa) sẽ đi kèm với sự mất giá nội tệ tương ứng trên thị trường
ngoại hối. Ngược lại, PPP dự đoán rằng tăng sức mua trong nước của nội tệ sẽ đi kèm với
sự lên giá tương ứng của nội tệ.

Như vậy, lý thuyết PPP cho rằng giá hàng hóa ở các nước sẽ bằng nhau khi tính
theo cùng một loại tiền tệ.

- PPP tuyệt đối cho rằng tỷ giá phản ánh sự khác biệt về mức giá giữa các nước.

- PPP tương đối phát biểu rằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của tỷ giá giữa hai đồng
tiền trong một giai đoạn sẽ bằng với chênh lệch giữa tỷ lệ phần trăm thay đổi mức giá nội
địa. Hay giá và tỷ giá hối đoái thay đổi sao cho bảo toàn tỷ số sức mua trong nước và
nước ngoài của mỗi đồng tiền. Ví dụ, nếu mức giá ở Việt Nam tăng 5%/năm trong khi
mức giá ở Mỹ chỉ tăng 2% chẳng hạn, thì lý thuyết PPP tương đối dự đoán rằng đồng
Việt Nam sẽ mất giá 3% so với đồng USD.

1.1.1.2. Định nghĩa

- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền
tệ, tỷ giá hối đoái phản ánh giá trị của 1 đơn vị đồng tiền này khi trao đổi 1 đơn vị đồng
tiền khác. Tỷ giá hối đoái là mức giá tại một thời điểm đồng tiền của một quốc gia hay
khu vực có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của quốc gia hay khu vực khác.

- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa được định nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền,
tức là nó cho biết cần bao nhiêu đồng nội tệ để có thể mua được một đồng ngoại tệ, hoặc
ngược lại cần bao nhiêu đồng ngoại tệ để có thể mua được một đồng nội tệ.

- Một sự gia tăng của EVND/USD là một sự mất giá danh nghĩa của đồng nội tệ và
tăng giá danh nghĩa của đồng ngoại tệ.

- Một sự gia tăng của EVND/USD sẽ làm giảm chi phí của hàng hóa trong nước ở
thị trường nước ngoài và tăng chi phí của hàng hóa nước ngoài ở thị trường trong nước,
nghĩa là làm cho nước đó trở nên cạnh tranh hơn, nếu như các yếu tố khác (giá cả) không
đổi.

3
Nhóm 9 - KTVM

- Tỷ giá hối đoái thực tế cho biết tỷ lệ giá cả hàng hóa ở hai quốc gia khi tính
theo cùng một đơn vị tiền tệ, hay nói cách khác là tỷ lệ trao đổi hàng hóa hai quốc gia.

- Một sự gia tăng của 𝜀 là sự mất giá thực (so với giá danh nghĩa) và cho thấy hàng
hóa trong nước tăng cạnh tranh về giá ở thị trường nước ngoài.

- Một sự suy giảm của 𝜀 là sự tăng giá thực, cho thấy giá tương đối của hàng hóa
trong nước tăng và vì vậy giảm năng lực cạnh tranh về giá của nước đó.

1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái

Là một hệ thống các công cụ dùng để tác động tới cung cầu ngoại tệ trên thị
trường, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt được những mục tiêu cần thiết của
quốc gia trong một thời gian nhất định.

Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái cũng giống như chính sách tiền tệ quốc gia,
đó là:

- Đảm bảo cân bằng nội: đảm bảo sự ổn định giá trị của tiền tệ.

- Đảm bảo cân bằng ngoại: đảm bảo cân bằng cán cân vãng lai.

1.2.1. Phân loại tỷ giá hối đoái

1.2.1.1. Căn cứ vào phương tiện di chuyển ngoại hối

- Tỷ giá điện hối: Là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Ngày nay do ngoại hối
được chuyển chủ yếu bằng điện nên tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng là tỷ giá điện hối.

- Tỷ giá thư hối: Là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư (không phổ biến, hiện nay
không còn dùng nữa)

1.2.1.2. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối

+ Tỷ giá mua vào (Bid rate): Là tỷ giá tại đó ngân hàng niêm yết mua vào đồng
tiền yết giá.

+ Tỷ giá bán ra (Offer rate): Là tỷ giá mà tại đó ngân hàng niêm yết giá bán ra
đồng tiền yết giá.

Đây là những loại tỷ giá được niêm yết tại các NHTM. Các loại tỷ giá này được
dùng để giao dịch mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng và các khách hàng. Tỷ giá mua

4
Nhóm 9 - KTVM

vào bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra, phần chênh lệch đó chính là lợi nhuận kinh
doanh ngoại hối của ngân hàng.

1.2.1.3. Căn cứ vào thời điểm giao dịch ngoại hối

Trong giao dịch ngoại hối, thông thường các ngân hàng không thông báo tất cả các
hợp đồng ký trong ngày mà chỉ công bố tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa.

+ Tỷ giá mở cửa (Opening rate): Là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán món ngoại tệ
đầu tiên trong ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.

+ Tỷ giá đóng cửa (Closing rate): Là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán món ngoại
tệ cuối cùng trong ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.

- Căn cứ vào thời điểm giao nhận ngoại hối.

+ Tỷ giá giao ngay (Spot rate): Là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giá nhận chúng
sẽ được thực hiện chậm nhất sau 2 ngày làm việc.

+ Tỷ giá kỳ hạn (Forward rate): Là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận
được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ 3 ngày trở lên).

Tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn được công bố theo hình thức tỷ giá mua vào, bán
ra căn cứ vào thời điểm giao dịch ngoại hối.

- Căn cứ vào mối quan hệ với lạm phát

+ Tỷ giá danh nghĩa: Là tỷ giá giao dịch mua bán giữa các đồng tiền trên thị
trường ngoại hối.

+ Tỷ giá thực tế: Là tỷ giá phản ánh mối tương quan sức mua của hai đồng tiền.

Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực tế với tỷ giá hối đoái danh nghĩa như sau:

TGHĐ thực tế = TGHĐ danh nghĩa x (giá cả nước ngoài/giá cả nội địa) = TGHĐ
danh nghĩa x (tỷ lệ lạm phát nước ngoài/tỷ lệ lạm phát trong nước).

- Căn cứ vào chế độ quản lý tỷ giá:

+ Tỷ giá chính thức (Official rate): Là tỷ giá do Nhà nước công bố (thường là ngân
hàng trung ương), đây là tỷ giá làm cơ sở để hình thành tỷ giá thị trường.

5
Nhóm 9 - KTVM

+ Tỷ giá thị trường (Market rate): Là tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung
cầu ngoại hối. Tỷ giá này biến động thường xuyên tùy theo tình hình cung cầu ngoại tệ
trên thị trường ngoại hối.

- Ngoài ra, căn cứ theo chế độ quản lý tỷ giá hối đoái, người ta còn có thể chia
thành:

+ Tỷ giá cố định (Fixed rate): Là tỷ giá hình thành trong chế độ tiền tệ Bretton
Woods. Tỷ giá cố định chính là tỷ giá chính thức do nhà nước công bố. Dưới áp lực cung
cầu của thị trường, để duy trì được tỷ giá cố định buộc nhà nước phải thường xuyên can
thiệp.

+ Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (Freely Floating rate): Là tỷ giá hình thành tự phát
ngoài hệ thống ngân hàng và diễn biến theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.

+ Tỷ giá thả nổi có điều tiết (Managed Floating rate): Là tỷ giá được thả nổi nhưng
Ngân hàng Trung ương can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế.

- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, có các loại tỷ giá:

+ Tỷ giá Séc (Cheque Rate): Là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán các loại Séc
ngoại tệ. Tỷ giá Séc thấp hơn tỷ giá điện hối. Tùy thuộc vào loại Séc, có tỷ giá Séc trả
ngay và tỷ giá Séc có kỳ hạn.

+ Tỷ giá hối phiếu trả ngay (Draft Rate): Là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán các
loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ. Tỷ giá hối cổ phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối
trừ đi lãi phát sinh từ khi hối phiếu được phát hành đến khi hối phiếu được trả tiền.
Khoảng thời gian này bao gồm thời gian chuyển hối phiếu và kỳ hạn của hối phiếu.

+ Tỷ giá chuyển khoản (Transfer Rate): Là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán ngoại
hối mà việc chuyển trả ngoại hối được thực hiện bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
Trong nhiều trường hợp, tỷ giá chuyển khoản có thể lớn hơn tỷ giá điện hối (nhưng
thường chỉ với tỷ giá mua).

+ Tỷ giá tiền mặt (Cash Rate): Là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán ngoại hối mà
việc chuyển trả ngoại hối là bằng tiền mặt.

- Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán:

6
Nhóm 9 - KTVM

+ Tỷ giá danh nghĩa song phương (Nominal Bilateral Exchange Rate - NER): Là
giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến
tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng.

+ Tỷ giá thực song phương (Bilateral Real Exchange Rate - BRER): Là tỷ giá
danh nghĩa đã được điều chỉnh theo mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước, nó là chỉ
số thể hiện sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ.
+ Tỷ giá danh nghĩa đa phương (Nominal Effective Exchange Rate - NEER):
Là chỉ số tỷ giá trung bình của một đồng tiền so với các đồng tiền còn lại.

+ Tỷ giá thực đa phương (Real Effective Exchange Rate - REER): Bằng tỷ giá
danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước với tất cả các
nước còn lại, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền
còn lại.

1.3. Thực trạng tỷ giá hối đoái

1.3.1. Thực trạng tỷ giá hối đoái chung ở các quốc gia trên thế giới (đặc biệt các quốc gia
có mối quan hệ kinh tế với Việt Nam)

Gần 2 năm kể từ khi lần đầu bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc) và ngày càng lan
rộng, đại dịch Covid-19 đã gây ra nhiều sức ép lên nền kinh tế của nhiều quốc gia, khu
vực trên thế giới. Các quốc gia, khu vực với nền kinh tế lớn mạnh như Mỹ, EU, Trung
Quốc đối mặt với sự sụt giảm nghiêm trọng trong GDP và đồng tiền nội tệ dần mất giá.
Việt Nam là một trong số ít các nước kiểm soát tốt dịch Covid-19, nhưng vẫn bị ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế.

Năm 2021, nền kinh tế của nhiều quốc gia đã có những chuyển biến tốt. Đồng tiền
Trung Quốc đã mạnh lên kể từ tháng 6/2020, cùng với sự phục hồi kinh tế nhanh chóng
của đất nước này sau những thiệt hại do đại dịch Covid-19 gây ra. Hồi giữa năm 2020,
CNY từng hạ trở lại mốc 7 CNY đổi 1 USD, nhưng sau đó lại tăng liên tiếp nhiều tháng
và giờ đây đã phá vỡ mốc 6,5 CNY đổi 1 USD. Đồng Euro cũng tăng mạnh sau năm
2019; theo tỷ giá giao dịch ngoại tệ ngày 9/3 tại các ngân hàng châu Âu, đồng Euro đã
tăng 1,32% và vượt 1,14 USD/euro, đây là đợt tăng giá mạnh nhất kể từ tháng 1/2019.

Trái ngược với đồng Nhân dân tệ và Euro, đồng đô la Mỹ chịu áp lực mất giá
nghiêm trọng. Nhà kinh tế học người Mỹ, cựu giám đốc Morgan Stanley Asia, ông

7
Nhóm 9 - KTVM

Stephen Roach bày tỏ quan điểm của mình trong một bài báo được đăng trên Bloomberg
rằng, đồng dollars Mỹ vốn đang suy yếu rất mạnh, sẽ giảm giá sâu hơn vào cuối năm
2021. Chuyên gia kinh tế cho rằng trong một kịch bản bất lợi, giá trị của đồng tiền Mỹ có
thể giảm tới 35%. Ông cũng nhấn mạnh, có ba yếu tố góp phần vào sự sụp đổ của đồng
tiền Mỹ, đó là: thâm hụt tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán của Mỹ tăng mạnh;
sự lớn mạnh của đồng euro; Cục Dự trữ Liên bang Mỹ không muốn can thiệp trước bất
kỳ sự suy yếu nào của đồng USD.

Đồng USD mất giá cũng là nguyên nhân làm tăng giá đồng VND. Tỷ giá
USD/VND suy giảm trong bối cảnh đồng USD trên thị trường thế giới giảm do giới đầu
tư lo ngại về lạm phát của Mỹ gia tăng. Theo giới phân tích, tỷ giá USD /VND suy giảm
giúp giảm thiểu tác động đến lạm phát, đặc biệt trong bối cảnh giá hàng hóa và dịch vụ
tiêu dùng tăng, giá xăng dầu, giá điện, nước sinh hoạt tăng đang khiến lạm phát tăng lên.

1.3.2. Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

Nhìn chung, diễn biến tỷ giá của Việt Nam từ năm 1989 đến nay có xu hướng đi
theo một chu kỳ rõ rệt. Đặc biệt, từ năm 1997 - 2000 với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, và từ năm 2008 - 2011 với cuộc khủng hoảng toàn
cầu và nỗ lực bình ổn vĩ mô, gắn liền với những giai đoạn kinh tế biến động mạnh này,
NHNN phải nới rộng biên độ tỷ giá hoặc chính thức phá giá, làm cho VND mất giá mạnh
mẽ. Nhưng từ năm 2015 đến nay, dưới sự vận động linh hoạt của NHNN tỷ giá hối đoái
đã được kiểm soát tốt trên góc độ chủ động và phạm vi đủ rộng ở tầm vĩ mô.

1.3.2.1. Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn 1989 – 2006

Giai đoạn 1 (năm 1989 - 1995):

Đây là giai đoạn sau khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập. Cuộc
cải tiến hệ thống ngân hàng được thực hiện song song việc hợp nhất hai tỷ giá và phá giá
mạnh đồng nội tệ.

Có thể nói đây là mốc thời gian quan trọng trong sự phát triển chính sách tỷ giá
hối đoái ở nước ta khi quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống ở Đông Âu
và Liên Xô bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh
toán bằng Đô la Mỹ, chấm dứt trạng thái đồng nội tệ đánh giá cao so với đồng tiền nước
khác. Trong năm 1990 – 1991, tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng

8
Nhóm 9 - KTVM

giá trị đồng đô la Mỹ tăng liên tục, đỉnh cao của mức tăng giá trị đồng đô la Mỹ là cuối
năm 1991 (giá đô la Mỹ trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60% đến 80% so với mức đầu
năm).

Hình 1-1: Tỷ giá USD/VND năm 1990 - 1991

(Nguồn:Ngân hàng nhà nước Việt Nam)

Tuy nhiên, sau khi NHNN sử dụng triệt để các biện pháp hỗ trợ khác thì từ tháng
3/1992 tỷ giá hối đoái đã dịu xuống giảm chỉ còn 11.550 VND/USD, và tiếp tục giảm cho
đến cuối năm 1992. Nhờ vậy từ tháng 3 năm 1993, tỷ giá hối đoái đã tăng và duy trì ổn
định.

Giai đoạn 2 (năm 1995 - 2006):

Giai đoạn năm 1995 - 2000 là thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
châu Á. Trong thời gian này, chế độ tỷ giá Việt Nam là pha trộn giữa neo cố định và neo
với biên độ điều chỉnh. Cụ thể vào cuối năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
khởi nguồn từ Thái Lan đã lan sang Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Philippin,
Hongkong, Singapore, khiến đồng tiền của các Quốc gia rớt giá liên tục so với USD. Tỷ
giá giai đoạn này biến động khá phức tạp, có xu hướng tăng nhanh kèm theo các cơn sốt
giá ngoại tệ đã tạo ra sự mất cân bằng về cung – cầu ngoại tệ trên thị trường. Trong giai
đoạn 1999 – 2001, tỷ giá VND/USD chỉ biến động một chiều, không thúc đẩy việc yết
giá cạnh tranh giữa các Ngân hàng, thủ tiêu tính năng động của thị trường.

Giai đoạn 2000 - 2006, khi thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hoạt động
nóng lên rất nhanh và thu hút một lượng vốn lớn từ dân chúng và nhà đầu tư. Đây là giai
đoạn của chế độ tỷ giá neo với biên độ hẹp gần như cố định. Tỷ giá không có sự lên
xuống thất thường, NHNN không can thiệp vào tỷ giá.

9
Nhóm 9 - KTVM
Bảng 1-1: Diễn biến tỷ giá, tương quan giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực song phương

Tỷ giá song phương


Năm Tỷ giá chính thức % lên giá của VND
USD/VND

2001 15070 - 5,2 1,103

2002 15368 - 3,9 1,100

2003 15608 - 3,8 1,105

2004 15736 + 7,1 1,051

2005 15859 + 17, 3 1,012

2006 15950 + 26,4 0,983

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Có thể thấy VND đã xuống giá liên tục so với USD trong giai đoạn 2001 – 2003,
mặc dù nhịp độ mất giá đã giảm vào cuối năm 2003. Kể từ năm 2004, tỷ giá VND/USD
đã dần hồi phục khi mức lạm phát của Việt Nam tăng cao đột biến hơn so với nhiều năm
trước đó (9,5%). Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, VND có phá giá nhẹ song vẫn lên
giá so với hầu hết các đồng tiền khác. Từ cuối năm 2007 thì VND đã lên giá khá nhanh
và mạnh (có thời điểm lên tới 25% so với 2006).

1.3.2.2. Thực trạng tỷ giá hối đoái ở VIệt Nam giai đoạn 2006 – 2011

Đây là giai đoạn nền kinh tế toàn cầu rơi vào giai đoạn suy thoái kéo dài với hai
cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ hai trung tâm lớn nhất thế giới: Mỹ (cuộc khủng hoảng
tài chính) và châu Âu (cuộc khủng hoảng nợ công). Trong giai đoạn này các dòng vốn đổ
vào Việt Nam một cách ồ ạt dẫn đến sự biến động lớn của tỷ giá. NHNN liên tục bán
ngoại tệ ra để can thiệp khi thị trường xuất hiện tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen với
khoảng cách chênh lệch lớn trong một thời gian dài.

Trong năm 2008 NHNN đã đưa ra khá nhiều quyết định về tỷ giá nhằm kiểm soát
lạm phát và những ảnh hưởng do khủng hoảng tài chính gây ra, tác động đến tỷ giá trong
năm 2008. NHTM hạn chế mua vào, nhưng từ cuối tháng 5/2008 đến đầu tháng 6/2008,
xảy ra cơn sốt ngoại tệ trên thị trường tự do và tác động lên thị trường chính thức đặc biệt

10
Nhóm 9 - KTVM

là cơn sốt vào tháng 6/2008. Giá đô la Mỹ trên thị trường tự do được đánh giá là “sụt
giảm nghiêm trọng”.

Hình 1-2: Đồ thị Tỷ giá USD/ VND 2008 - 2011

(Nguồn: Tổng cục thống kê và Ngân hàng nhà nước)

Từ đồ thị có thể thấy, tỷ giá bắt đầu diễn biến tăng liên tục từ đầu năm 2009, thị
trường ngoại hối luôn trong tình trạng căng thẳng do VND đã chịu sức ép giảm giá so với
USD trong một thời gian dài. So với đầu năm 2007, VND đã tăng giá khoảng 20% so với
USD tính theo tỷ giá thực, trong đó nguyên nhân lạm phát (đo bằng CPI) ở Việt Nam
trong hai năm 2007 và 2008 là rất cao, lần lượt là 12,7% và 20%. Đáng lưu ý là trong
năm 2009, mặc dù CPI ở mức thấp (6,52%) nhưng sức ép giảm giá VND vẫn được duy
trì, lần này là do thâm hụt cán cân thanh toán.

1.3.2.3. Thực trạng tỷ giá hối đoái ở VIệt Nam giai đoạn 2011 – Nay

Đặc biệt, trong năm 2019, tỷ giá VND/USD đã có nhiều diễn biến “bất ngờ”, tình
hình cung - cầu ngoại tệ có nhiều thuận lợi cho việc duy trì tỷ giá ổn định. Trong năm
2019, mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã chậm lại đáng kể so với năm 2018 nhưng
vẫn đạt mức 7,8%, trong khi tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chỉ đạt mức 7,4%. Tính chung
năm 2019, cả nước xuất siêu trên 9,1 tỷ USD – mức kỷ lục từ trước đến nay. Bên cạnh
mức thặng dư thương mại lớn, tình hình cung – cầu ngoại tệ còn được hỗ trợ bởi các
dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) Việt Nam đã nâng tỷ giá trung tâm thêm khoảng 1,5% (từ mức 22.825

11
Nhóm 9 - KTVM

VND/USD vào cuối năm 2018 lên mức 23.164 VND/USD vào ngày 6/12/2019). Diễn
biến này trái ngược với những năm trước đây, khi tỷ giá VND/USD luôn theo sát những
diễn biến trên thị trường tiền tệ quốc tế như CNY, cũng như phản ứng tương đối mạnh
mẽ với chính sách điều chỉnh tỷ giá của NHNN. Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào,
NHNN có thể mua ròng lượng ngoại tệ lớn, ước tính khoảng 6,6 tỷ USD kể từ tháng
7/2019, từ đó nâng tổng dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức 73 tỷ USD.

Tình hình tỷ giá trong năm 2020 chỉ biến động mạnh trong 2 tuần cuối của tháng
3/2020 và đã quay trở lại trạng thái ổn định với xu hướng giảm trong quý 2 và quý 3.
Tính đến ngày 30/9, tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng và chợ đen lần lượt tăng 0,1%
và 0,3% so với cuối năm ngoái, trong khi tỷ giá trung tâm tăng 0,3%. Nếu so với các
đồng tiền khác trong khu vực, VND vẫn tiếp tục được đánh giá là đồng tiền ổn định trong
9 tháng đầu năm nay. NHNN tích cực mua vào USD để tăng dự trữ ngoại hối trong vòng
gần 1 năm qua cũng đã phần nào chặn đà giảm của tỷ giá USD/VND trên thị trường liên
ngân hàng và giúp đồng VND giảm giá tương đối so với các đồng tiền khác trong rổ 8
đồng tiền tham chiếu.

Hình 1-3: Tỷ giá hối đoái Việt Nam năm 2020

(Nguồn: Vietstockfinance)

Theo đánh giá của chuyên gia, mặc dù dư địa điều hành chính sách tiền tệ năm
2021 sẽ hạn hẹp hơn một chút so với năm 2020, song với nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định
sẽ khó có cú sốc nào xảy ra đối với tỷ giá 2021. Dự báo về tỷ giá năm 2021, chuyên gia

12
Nhóm 9 - KTVM

phân tích của Công ty chứng khoán KB Securities cho rằng “Kịch bản của đồng VND
trong năm 2021 sẽ tăng giá khoảng 0,5 – 1% – trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ tích
cực và đồng USD giảm giá cùng với những nỗ lực của NHNN. Nguồn cung ngoại tệ
được đánh giá vẫn duy trì trạng thái dồi dào 2021, khi hoạt động xuất nhập khẩu và kỳ
vọng dòng vốn FDI chảy mạnh về Việt Nam.

Ngoài ra trong báo cáo vừa công bố, các chuyên gia của Công ty Chứng khoán
VNDIRECT dự báo, tỷ giá giữa VND/USD sẽ dao động trong biên độ hẹp +/-0,5% trong
năm 2021, điều này sẽ củng cố dòng vốn ngoại đổ vào Việt Nam. Hiện nay, tỷ giá
VND/USD niêm yết tại các ngân hàng thương mại và trên thị trường tự do vẫn rất ổn
định, lần lượt ở mức 23.010 - 23.220 đồng và 23.200 - 23.230 đồng.

Hình 1-4: Tỷ giá Việt Nam đầu 2020 - 2021

(Nguồn: Vietstockfinance)

Nhìn chung, tỷ giá hối đoái và các vấn đề liên quan trong vài năm gần đây và năm
2015 đã được NHNN kiểm soát tốt trên góc độ chủ động và phạm vi đủ rộng ở tầm vĩ
mô. Hay có thể nói rằng, “VND trong tầm tay NHNN”, cho dù còn không ít trở ngại và
thách thức.

13
Nhóm 9 - KTVM

1.4. Đánh giá sự điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay

Lưu ý: Các chính sách liên quan đến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam (nhà nước, quốc
tế)

Năm 2018, vượt qua những thách thức khó khăn, Ngân hàng nhà nước Việt Nam
đã thực thi khá linh hoạt một số biện pháp nhằm bình ổn tỷ giá trên thị trường, cụ thể như
sau:

Thứ nhất, NHNN tiếp tục phát đi thông điệp về điều hành chính sách tiền tệ thận
trọng linh hoạt nhằm ổn định lạm phát, kinh tế vĩ mô như:

- Cơ bản giữ tỷ giá ổn định song có xem xét diễn biến trên thị trường ngoại hối thế
giới (sự biến động của các ngoại tệ mạnh, đặc biệt là USD) để điều chỉnh khi cần thiết.

- Cho phép tỷ giá được dao động trong một biên độ nhất định (có lúc cao nhất lên
đến ±5%, sau giảm còn ±3%).

- Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước đưa ra tuyên bố về giới hạn điều chỉnh của tỷ
giá trong năm để thị trường biết trước.

- Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng can thiệp mỗi khi thị trường tự do có biến động
mạnh. Trước hết, bằng các tuyên bố chính thức về ổn định thị trường. Sau đó, nếu thị
trường vẫn có biến động mạnh, thì áp dụng các nghiệp vụ mua vào, bán ra USD để giữ tỷ
giá ổn định.

Biện pháp này góp phần làm gia tăng niềm tin của công chúng vào hoạt động điều
hành của NHNN và giá trị nội tệ, qua đó góp phần ổn định thị trường tài chính nói chung
và thị trường ngoại hối nói riêng.

Thứ hai, NHNN đã can thiệp trực tiếp thông qua việc bán ngoại tệ từ nguồn dự trữ
ngoại hối nhằm cân xứng kịp thời lượng cung cầu trên thị trường ngoại hối, qua đó giảm
áp lực tới tỷ giá hối đoái.

- Nếu tỷ giá trên thị trường vẫn tiếp tục dao động mạnh trong một thời gian dài,
Ngân hàng Nhà nước sẽ có động thái điều chỉnh tỷ giá, thường là với mức độ nhỏ vài
phần trăm. Lần điều chỉnh tỷ giá lớn nhất gần đây là tháng 2/2011 với mức tăng 9%, các
đợt điều chỉnh sau đó đều áp dụng mức độ giao động thấp hơn.

14
Nhóm 9 - KTVM

Thứ ba, NHNN Việt Nam đã có động thái điều hành, chỉ đạo các tổ chức tín dụng,
NHTM đẩy mặt bằng lãi suất VND tại các kỳ hạn tăng lên quanh mốc 4% nhằm duy trì
mức hấp dẫn đối với các tài sản ghi bằng nội tệ so với tài sản bằng ngoại tệ, qua đó giảm
tâm lý đầu cơ nắm giữ tài sản bằng ngoại tệ.

*Thành tích:

Trong năm 2018, tỷ giá trung tâm do NHNN công bố đã tăng khoảng 1,6%, tỷ giá
giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng khoảng 2,7% so với đầu năm. Trong 7 năm
qua, chỉ có năm 2015 chứng kiến tỷ giá biến động mạnh hơn với mức tăng 5,1%

- Cán cân thương mại trong năm 2018 ghi nhận con số thặng dư ở mức kỷ lục
(khoảng 7 tỷ USD).

- Nguồn cung ngoại tệ tăng mạnh trong mấy năm qua không chỉ do xuất siêu, mà
còn là kết quả tổng hợp của các nguyên nhân khác, trong đó có: dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tiếp tục duy trì ở mức cao bất chấp những biến động trên
thị trường thế giới. Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, vốn FDI đăng ký và bổ sung cả năm
2018 ước đạt 35,5 tỷ USD (tương đương mức của năm 2017), giải ngân FDI đạt trên 19
tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước.

- Với sự tăng mạnh của các nguồn cung ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước thông qua
các hoạt động mua vào ngoại tệ, hiện nắm giữ trong tay một lượng dự trữ ngoại hối cao
kỷ lục, tính đến quý I/2019 dự trữ ngoại hối vượt mốc 65 tỷ USD. Lượng dự trữ ngoại
hối cao cho phép Ngân hàng Nhà nước có khả năng can thiệp giữ ổn định tỷ giá mỗi khi
thị trường có biến động lớn, bằng cách bán ra ngoại tệ khi giá lên nhằm giữ cho tỷ giá
không dao động quá lớn.

- Tình trạng đô la (USD) hóa nền kinh tế đã giảm mạnh trong các năm gần đây,
trong khi niềm tin vào đồng nội tệ tăng lên. Đồng thời, lãi suất tiết kiệm gửi bằng VND
cao hơn nhiều so với gửi bằng USD. Các yếu tố đó khiến nhu cầu nắm giữ USD trong
dân cư và tình trạng đầu cơ USD trên thị trường giảm mạnh, do vậy giảm áp lực về cầu
ngoại tệ.

*Hạn chế:

Bên cạnh những thành công đáng ghi nhận nói trên, việc hành chế độ tỷ giá hối
đoái của NHNN thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế như:
15
Nhóm 9 - KTVM

Thứ nhất, viê ̣c điều hành chính sách tỷ giá của NHNN nhiều khi vẫn chưa theo kịp
biến động của thị trường và có độ trễ nhất định. Cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay tuy đã
có những chuyển biến tích cực, song vẫn còn châ ̣m so với sự biến động của môi trường
trong nước và quốc tế.

Thứ hai, chính sách “hai tỷ giá” gây nên nhiều bất cập. Tại Việt Nam, song song
với thị trường ngoại hối chính thức là sự tồn tại của thị trường chợ đen. Giao dịch trên thị
trường chợ đen hiện nay vẫn còn sôi động và thanh khoản cao hơn so với thị trường
chính thức. Tỷ giá trên hai thị trường này luôn có sự chênh lệch đáng kể, gây nên những
khó khăn trong việc cạnh tranh thu mua ngoại tệ của các NHTM và thị trường chợ đen.

Thứ ba, chính sách tỷ giá của Viê ̣t Nam vẫn đánh giá quá cao giá trị thực của
VND so với USD và các đồng tiền khác. Trong những năm gần đây, NHNN đã nhiều lần
điều chỉnh tỷ giá chính thức USD/VND theo hướng tăng lên và mở rô ̣ng biên đô ̣ giao
dịch nhằm điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa sát hơn với tỷ giá thị trường tự do. Tuy nhiên,
trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều bất ổn, do yếu tố lạm phát ở Viê ̣t Nam cao hơn
nhiều so với các đối tác thương mại chính và sự điều chỉnh tỷ giá của NHNN thường
chậm hơn so với sự thay đổi của lạm phát nên VND thường bị định giá cao hơn giá trị
thực của nó.

16
Nhóm 9 - KTVM

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI


ĐOÁI ĐẾN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
2.1. Các nhân tố tác động lên tỷ giá hối đoái

2.1.1. Chênh lệch lạm phát

Theo nguyên tắc chung, khi một quốc gia duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, giá trị
của đồng tiền của quốc gia đó sẽ tăng lên vì sức mua trong nước tăng lên tương đối so với
các đồng tiền khác. Đồng tiền của những quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao hơn thường mất
giá so với với đồng tiền của các đối tác thương mại của mình. Hiện tượng này cũng
thường đi kèm với lãi suất cao hơn. Trong nửa cuối của thế kỷ 20, những nước có lạm
phát thấp bao gồm Nhật Bản, Đức và Thụy Sĩ, còn Mỹ và Canada mãi về sau mới đạt
được mức lạm phát thấp.

2.1.2. Chênh lệch lãi suất

Lãi suất, lạm phát và tỷ giá hối đoái có mối tương quan mật thiết. Bằng cách kiểm
soát lãi suất, các ngân hàng trung ương sẽ gây ảnh hưởng đến lạm phát và tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động đến lạm phát và giá trị tiền tệ. Một nền kinh
tế có lãi suất cho vay cao sẽ mang lại lợi nhuận cho chủ nợ cao hơn so với các nền kinh tế
khác. Do đó, lãi suất cao thu hút vốn đầu tư nước ngoài và làm tăng tỷ giá hối đoái. Tuy
nhiên, tác động của lãi suất cao sẽ trở nên tiêu cực, nếu lạm phát trong nước cao hơn
nhiều so với các nước khác, hoặc nếu có thêm những yếu tố khác làm giảm giá trị đồng
tiền. Ngược lại, lãi suất giảm có xu hướng làm giảm tỷ giá hối đoái.

2.1.3. Thâm hụt tài khoản vãng lai

Tài khoản vãng lai là cán cân thương mại giữa một quốc gia và các đối tác thương
mại của quốc gia đó, phản ánh tất cả các khoản thanh toán liên quan đến hàng hoá, dịch
vụ, lãi và cổ tức giữa các quốc gia, cho thấy rằng chi tiêu của một quốc gia cho ngoại
thương nhiều hơn việc thu nhập từ xuất khẩu, và nước đó đang vay vốn từ các nguồn
nước ngoài để bù đắp thâm hụt. Nói cách khác, quốc gia cần nhiều ngoại tệ hơn những gì
họ nhận được thông qua xuất khẩu, và cung cấp nội tệ cho nước ngoài nhiều hơn những
gì họ cần để mua hàng hóa. Nhu cầu ngoại tệ dư thừa làm giảm tỷ giá hối đoái của nước

17
Nhóm 9 - KTVM

này cho đến khi giá của hàng hóa, dịch vụ trong nước đủ rẻ đối với người nước ngoài và
các tài sản nước ngoài quá đắt để tạo ra doanh số bán hàng trong nước

2.1.4. Nợ công

Mặc dù hoạt động tài trợ quy mô lớn cho các dự án nhà nước dưới hình thức nợ
kích thích nền kinh tế trong nước, nhưng các quốc gia có thâm hụt ngân sách và nợ công
lớn sẽ trở nên kém hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân là vì một
khoản nợ lớn thường dẫn đến lạm phát, và nếu lạm phát lên cao, chính phủ phải trả lãi
cho các khoản nợ này và cuối cùng trả hết nợ bằng đồng đô la rẻ hơn ở tương lai.
Trong trường hợp xấu nhất, chính phủ có thể in tiền để trả một phần của một
khoản nợ lớn, nhưng việc tăng cung tiền không tránh khỏi gây ra lạm phát. Ngoài ra, nếu
chính phủ không có khả năng trả lãi cho phần thâm hụt thông qua các công cụ trong nước
(bán trái phiếu trong nước, tăng cung tiền), thì họ sẽ phải tăng nguồn cung chứng khoán
để bán cho người nước ngoài, dẫn đến giá chứng khoán giảm xuống. Cuối cùng, nếu các
nhà đầu tư tin rằng quốc gia này sẽ không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình thì gánh
nặng nợ khổng lồ có thể là mối lo cho nhà đầu tư nước ngoài. Nếu nguy cơ vỡ nợ là rất
cao, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không muốn sở hữu chứng khoán đề mệnh giá bằng
đồng tiền quốc gia đó. Vì lý do này, xếp hạng nợ của một quốc gia (ví dụ như của
Moody’s hay Standard & Poor) là một yếu tố quyết định đến tỷ giá hối đoái.

2.1.5. Tỷ lệ trao đổi thương mại

Là tỷ lệ so sánh giá xuất khẩu với giá nhập khẩu, liên quan đến tài khoản vãng lai
và cán cân thanh toán. Nếu tốc độ tăng giá xuất khẩu của một quốc gia nhanh hơn tốc độ
tăng giá nhập khẩu, thì tỷ lệ trao đổi thương mại đã được cải thiện tích cực. Tỷ lệ trao đổi
thương mại tăng cho thấy nhu cầu về hàng xuất khẩu của nước đó đang tăng, dẫn đến
doanh thu từ xuất khẩu tăng, và nhu cầu cho nội tệ tăng lên (và giá trị của đồng nội tệ
tăng). Nếu tốc độ tăng trưởng của giá xuất khẩu chậm hơn so với nhập khẩu, giá trị của
đồng nội tệ sẽ giảm tương đối với các đối tác thương mại.

2.1.6. Mức độ ổn định chính trị và hiệu quả kinh tế

Các nhà đầu tư nước ngoài chắc chắn muốn đầu tư vào những quốc gia có tình
hình chính trị ổn định với nền kinh tế hoạt động mạnh mẽ. Những quốc gia có những đặc
điểm này sẽ thu hút được nhiều đầu tư hơn so với những quốc gia có rủi ro chính trị và
kinh tế cao hơn.
18
Nhóm 9 - KTVM
2.1.7. Vai trò của chính phủ và sự can thiệp của Ngân hàng Trung Ương

Chính phủ thông qua Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối
bằng cách mua vào hay bán ra ngoại tệ với khối lượng lớn nhằm làm thay đổi quan hệ
cung cầu ngoại tệ. Từ đó, tác động đến tỷ giá nhằm đạt mục tiêu chính sách tiền tệ của
Ngân hàng trung ương.

2.2. Ảnh hương đến tình hình lạm phát

2.2.1. Cơ chế tác động

Hình 2-5: Kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát

Theo lý thuyết kinh tế học vĩ mô, trong nền kinh tế mở, tác động của chính sách tỷ
giá đến lạm phát theo ba kênh truyền dẫn sau.

Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất khẩu ròng, là khi đồng
nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài, xuất khẩu ròng tăng lên, cán cân thương mại
có thể được cải thiện. Do xuất khẩu ròng là một thành phần của tổng cầu AD, nên khi
xuất khẩu ròng tăng, đường AD dịch chuyển lên trên (trong mô hình AD-AS), tác động
làm lạm phát gia tăng.

Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua cán cân thanh toán. Cơ chế
truyền dẫn này trải qua hai giai đoạn:

[i]. Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng sẽ tăng lên, góp phần cải thiện tình trạng
cán cân thương mại, làm cán cân vốn tăng lên, từ đó cán cân thanh toán tổng thể được cải
thiện.

19
Nhóm 9 - KTVM

[ii]. Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư, tức là luồng vốn nước ngoài đổ vào
trong nước tăng lên, sẽ có hai khả năng xảy ra: (1) NHTW sẽ phải cung ứng thêm tiền để
mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá không bị giảm xuống làm cân bằng tiền hàng trong nền
kinh tế thay đổi, lạm phát sẽ tăng lên; (2) nếu NHTW không vì mục tiêu giữ cho đồng
bản tệ được định giá thấp để khuyến khích xuất khẩu và giả định rằng dự trữ ngoại hối đã
đủ mức cần thiết và không cần tăng thêm. Khi tổng phương tiện thanh toán bằng nội tệ và
ngoại tệ tăng lại gây sức ép lên giá cả và đẩy lạm phát tăng lên.

Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Giá hàng
nhập khẩu bị tác động bởi hai thành phần là giá nhập khẩu trên thị trường thế giới và tỷ
giá danh nghĩa. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng làm giá hàng nhập khẩu tăng và ngược lại, nếu
là hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất, khi tỷ giá tăng dẫn đến chi phí các yếu tố đầu vào
tăng, sản phẩm đầu ra cũng phải tăng giá và nếu là hàng nhập khẩu tiêu dùng, khi tỷ giá
tăng dẫn đến giá của hàng hóa tính bằng nội tệ tăng lên cũng là một nguyên nhân gây ra
lạm phát. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giá hàng nhập khẩu đến lạm phát sẽ biểu hiện rõ hơn
khi quốc gia có tỷ lệ nhập khẩu/GDP lớn, còn với những nước có tỷ lệ này là không đáng
kể.

Có hai kênh truyền dẫn tỷ giá quan trọng đó là truyền dẫn tỷ giá trực tiếp và gián
tiếp.

+ Kênh truyền dẫn trực tiếp phụ thuộc vào yếu tố của thị trường nước xuất khẩu.
Sự tăng lên trong giá nhập khẩu sẽ truyền dẫn vào giá sản xuất, giá tiêu dùng nếu các
doanh nghiệp nhập khẩu tăng giá bán đối với nhà sản xuất hàng hóa cuối cùng, và do đó
sẽ làm gia tăng lạm phát (còn gọi là nhập khẩu lạm phát).

+ Kênh truyền dẫn gián tiếp đề cập đến tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường quốc tế. Một sự giảm sút trong tỷ giá làm cho sản phẩm nội địa rẻ hơn đối với
người tiêu dùng nước ngoài và hệ quả là xuất khẩu và tổng cầu sẽ tăng dẫn đến sự tăng
lên trong mức giá nội địa. Như vậy, sự giảm sút trong tỷ giá về lâu dài sẽ tác động làm
giảm lạm phát.

Như vậy, tỷ giá là một công cụ của Nhà nước trong việc điều hành các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô như lạm phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán,... Khi tỷ giá tăng,
đồng nội tệ thấp giá thì có lợi cho xuất khẩu, có tác động làm gia tăng lạm phát. Khi tỷ

20
Nhóm 9 - KTVM

giá giảm, đồng nội tệ lên giá thì có lợi cho nhập khẩu, có tác động làm giảm lạm phát. Do
đó, tỷ giá có biến động cùng chiều với lạm phát.

2.2.2. Diễn biến tác động của tỷ giá hối đoái lên tình trạng lạm phát

Trước năm 1989, Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái đa tỷ giá với hệ
thống tỷ giá hối đoái ba bậc: giao dịch, phi giao dịch và tỷ giá hối đoái nội bộ. Năm 1981,
tỷ giá thị trường của VND so với USD cao hơn bốn lần so với tỷ lệ chính thức và nó đã
tăng lên 11 lần vào năm 1985. Do tỷ giá hối đoái chính thức luôn thấp hơn nhiều so với
tỷ giá hối đoái song phương, các đơn vị kinh doanh và các hộ gia đình nắm giữ ngoại tệ
đã cố gắng tránh bán nó cho ngân hàng nhà nước. Điều này không chỉ gây rắc rối cho
ngân sách chính phủ mà còn thúc đẩy các hoạt động phi pháp trên thị trường chợ đen.
Chính phủ đã phải phát hành tiền để giải quyết thâm hụt ngân sách, do đó gây ra siêu lạm
phát.

Vào tháng 3 năm 1989, hai tỷ giá hối đoái chính thức được thống nhất thành một
tỷ giá duy nhất và được điều chỉnh thành 4500 VND/ USD. Năm 1994, thị trường ngoại
hối liên ngân hàng được thành lập trong việc thay thế hai sàn giao dịch ngoại hối chính
thức tại TP.HCM và Hà Nội. Suốt trong những năm 1993-1996, cả tỷ giá chính thức và tỷ
giá song phương của VND so với USD vẫn tương đối ổn định và dao động quanh mức
11000đ/USD. Duy trì một sàn giao dịch ổn định trong một thời gian dài, tỷ giá đã đóng
vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
và khuyến khích tiền gửi nội tệ. Tuy nhiên, thỏa thuận tỷ giá hối đoái đã làm giảm động
cơ xuất khẩu và do đó tăng thâm hụt thương mại khoảng 16% GDP vào năm 1996. Áp
lực thâm hụt tài khoản vãng lai do kết quả của dòng vốn chảy vào giảm trong cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á năm 1997 dẫn đến việc VND bị mất giá hai lần, dẫn đến sự mất
giá tổng cộng của VND là 16,3% vào năm 1998. Hơn nữa, để tăng khả năng biến động tỷ
giá hối đoái, biên độ tỷ giá hối đoái được điều chỉnh tăng. Mặc dù tỷ giá hối đoái được
cho là được thiết lập dựa trên tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá hối đoái chính
thức do NHNN công bố vẫn chưa phản ánh đầy đủ cung cầu ngoại trao đổi trong nền
kinh tế. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh từ 9% năm 1996 lên
4,8% năm 1999. Tỷ lệ lạm phát tăng từ 4,5% năm 1996 lên 9,2% năm 1999.

21
Nhóm 9 - KTVM
Bảng 2-2: Lạm phát, lãi suất thị trường và mức tăng tỷ giá USD giai đoạn 2000 – 2019 ở Việt Nam (%)

Giai đoạn 2000-2006: Giai đoạn này, áp dụng cơ chế tỷ giá neo cố định, tỷ giá
bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố được giữ xoay quanh từ mức 14.000
VND/USD lên mức 16.000 VND/USD. Trong giai đoạn từ 2000-2003, tỷ giá và lạm phát
được duy trì tương đối ổn định, điều này đã góp phần không nhỏ đến ổn định kinh tế và
tăng trưởng kinh tế. Vào năm 2004, lạm phát tăng lên 9,5%, nguyên nhân của đợt lạm
phát này do nguyên nhân chủ quan của nền kinh tế và tác động của thiên tai dịch bệnh
năm 2003, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt khiến cho lãi suất tăng lên, đồng
thời duy trì sự ổn định của tỷ giá nhằm kiềm chế lạm phát từ năm 2004. Năm 2006 lạm
phát có giảm nhẹ so với hai năm trước đó, tuy nhiên khi NHNN thực hiện chính sách tiền
tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát đã dẫn đến lạm phát thực tế tăng lên ở giai đoạn
tiếp theo của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá chỉ có tác động cộng hưởng do tác động
của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế chứ không có tác động trực tiếp đến lạm phát

Giai đoạn 2007 đến năm 2011: Đây là giai đoạn mà tỷ giá USD/VND có nhiều
biến động mạnh. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO (tháng 11/2006), tự do hóa tài khoản
vốn được nới rộng dẫn đến các dòng vốn nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư
gián tiếp, thu từ dịch vụ qua biên giới, kiều hối…) vào Việt Nam gia tăng đã ảnh hưởng
rất lớn đến sự biến động của tỷ giá. Để ổn định tỷ giá hối đoái, tăng khả năng cạnh tranh
hàng hóa trong nước, NHNN đã phải tăng cung tiền để hút ngoại tệ vào, làm tăng tổng
phương tiện thanh toán trong lưu thông, gây áp lực lên lạm phát.

Sự gia tăng mạnh mẽ của cung tiền và tăng trưởng tín dụng vào năm 2007 đã
khiến cho tỷ lệ lạm phát năm 2008 bị đẩy lên cao ở mức 19,9% bên cạnh các nguyên
22
Nhóm 9 - KTVM

nhân thuộc về điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn này. Trong suốt
một thời gian dài, NHNN để VNĐ “neo” quá lâu vào đồng USD, cam kết một tỷ lệ biến
động tỷ giá danh nghĩa (có thời kỳ cam kết là 1%) và phải chấp nhận mức lạm phát cao
hơn. Kể từ 2006 đến giai đoạn này, đồng USD mất giá mạnh (khoảng 15%) so với các
đồng tiền mạnh khác, trong khi đó đồng VND lại mất giá so với USD, điều này làm cho
mức độ mất giá của đồng VND so với các đồng tiền mạnh khác càng trở nên trầm trọng
hơn. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào hai năm 2008 và 2009 đã góp phần làm giảm
lạm phát vào năm 2009 và 2010 do giá cả hàng hóa quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm,
đã giúp Việt Nam giảm được lạm phát. Tuy nhiên, khi Chính phủ thực hiện các gói kích
cầu từ giữa năm 2009 cùng với việc mở rộng cung tiền và tín dụng khiến cho lạm phát
gia tăng trở lại vào năm 2010 và 2011. Trong năm 2011, ngay từ đầu năm Chính phủ đưa
ra Nghị quyết 11 với trọng tâm ưu tiên là ổn định kinh tế vĩ mô, giảm thâm hụt thương
mại và kiểm soát lạm phát, thông qua phối hợp đồng bộ các chính sách vĩ mô như thắt
chặt tài khóa và tiền tệ, ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu… Diễn biến thực
tế cho thấy kết quả vẫn chưa được như mong muốn, lạm phát năm 2011 đã lên tới
18,58%. Biến động trên thị trường vàng tương đối lớn nhưng không ảnh hưởng nhiều đến
tỷ giá. Cuối năm 2011, NHNN đã sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp để kiểm soát và ổn
định thị trường.

Giai đoạn từ năm 2012 đến 2019: Đầu năm 2012, NHNN đã phát đi tín hiệu, tỷ
giá VND/USD sẽ không biến động quá 3% trong cả năm. Ngay lập tức các ngân hàng
thương mại (NHTM) đã bán USD cho NHNN để thu về VND, vì lúc đó lãi suất VND
đang cao hơn lãi suất USD rất nhiều. Tiếp theo đó, NHNN cũng đã chỉ đạo hạ lãi suất
huy động đối với VND, các NHTM đã vay VND trên thị trường liên ngân hàng nhằm
tránh rủi ro về tỷ giá trong dịp cuối năm khi nhu cầu về ngoại tệ tăng. Đến thời điểm cuối
năm 2012, tỷ giá được giữ ở mức ổn định. Do tổng phương tiện thanh toán trong năm
2013 được kiểm soát chặt chẽ, lạm phát phần nào được giữ ổn định, giúp tỷ giá hối đoái
giữa VND/USD trong 10 tháng đầu năm 2013, chỉ tăng 1,32% so với thời điểm cuối năm
2013. Mục tiêu của CSTT là hướng đến ổn định lạm phát và tỷ giá, tạo điều kiện cho các
thành phần trong nền kinh tế có thể lập kế hoạch kinh doanh trong trung hạn và dài hạn
đã dần phát huy tác dụng. Nhờ đó, mức lạm phát ở năm 2014 giảm chỉ còn 4,09% so với
6,6% ở năm 2013. Năm 2015 là một năm đầy biến động của tỷ giá, trong bối cảnh đồng
USD bình quân trên thị trường tăng giá 3,16% do kỳ vọng Cục Dự trữ liên bang Mỹ
23
Nhóm 9 - KTVM

(Fed) điều chỉnh tăng lãi suất và Trung Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng Nhân
dân tệ kéo theo làn sóng giảm giá mạnh của các đồng tiền của các đối tác thương mại
chính của Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ động, linh hoạt trong điều
hành để đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện, tình hình mới. Ngày 31/12/2015,
NHNN đã ban hành Quyết định số 2730/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá trung tâm của
USD/VND, tỷ giá tính chéo của VND với một số ngoại tệ khác và giá nhiên liệu thế giới
giảm mạnh, cạnh tranh lương thực thế giới tăng, điều chỉnh giá của dịch vụ giáo dục và y
tế của Nhà nước dẫn đến năm 2015 với lạm phát ở Việt Nam chỉ tăng 0,63% thấp nhất
trong 14 năm. Giai đoạn năm 2016 -2019, các giải pháp tiền tệ của NHNN đã tạo cho thị
trường ngoại tệ có những chuyển biến tích cực, lạm phát được kiểm soát nhờ thực hiện
tốt các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và tài khóa cũng như cơ chế phối hợp linh hoạt giữa
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Chỉ số CPI bình quân năm giảm từ 4,74% năm
2016 xuống 3,54% năm 2018; năm 2019, giảm còn 2,79%.

Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, về tỷ giá, trong cả giai đoạn 2000-2019,
nhờ NHNN áp dụng chặt chẽ các biện pháp quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá linh hoạt
nên tỷ giá ít biến động, tăng bình quân qua các năm khoảng 3 %. Đặc biệt những năm
2007-2011, chỉ số lạm phát tăng cao, dẫn đến tỷ lệ tăng tỷ giá từ 0,7%/năm (2007), tăng
đột biến lên đến 10,19 % (2011). Trong giai đoạn 2000-2019, tỷ giá có xu hướng biến
động thuận chiều với lạm phát, nhưng tương đối ổn định hơn.

Trong năm 2020, NHNN điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn
định thị trường, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ kinh tế ứng phó với tác động bất lợi của các
cú sốc. Nghiệp vụ thị trường mở (mua/bán tín phiếu) được điều hành linh hoạt để chủ
động kiểm soát tiền tệ, lạm phát, hỗ trợ giảm mặt bằng lãi suất, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng, đảm bảo thanh khoản hệ thống. Đồng thời, phối hợp đồng bộ với việc ổn định tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) đã góp phần nâng cao
hiệu quả, hiệu lực của CSTT trong kiểm soát tiền tệ, không tạo ra áp lực gia tăng lạm
phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và lãi suất thị trường.

Nhờ đó, dù Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao kỷ lục nhưng lạm phát được kiểm
soát chặt chẽ, bình quân 11 tháng năm 2020 đạt 3,51%, dưới mục tiêu 4% của Quốc hội;
lạm phát cơ bản bình quân đạt 2,43%, cho thấy hiệu quả điều hành CSTT linh hoạt, đóng
góp tích cực vào việc giảm áp lực lên lạm phát bình quân chung trong khi vẫn có dư địa

24
Nhóm 9 - KTVM

hỗ trợ nền kinh tế. Lạm phát ổn định đã tạo lập nền tảng vững chắc duy trì niềm tin của
cộng đồng đầu tư đối với môi trường kinh doanh Việt Nam, thu hút FDI.

Một đồng tiền ổn định trong những năm gần đây sẽ làm giảm bớt lo ngại về tỷ giá
hối đoái cao chuyển lên chỉ số giá tiêu dùng. HSBC dự báo giá USD sẽ nằm trong
khoảng 23.100 đồng/USD vào cuối năm 2021 và lạm phát sẽ ở mức trung bình khoảng
3% trong năm 2021, thấp hơn nhiều so với mức trần 4% do NHNN đề ra. Một khi lạm
phát không còn là vấn đề đáng lo ngại, NHNN có nhiều cơ hội để giữ chính sách tiền tệ
của mình không thay đổi trong suốt năm 2021.

2.3. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM

2.3.1. Thực trạng kinh doanh chung của các NHTM nước ta hiện nay

Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã
phát triển đa dạng về mô hình tổ chức, loại hình sở hữu, đa dạng nghiệp vụ và có những
đóng góp rất lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, kiềm
chế lạm phát, Hệ thống này chuyên làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, cho
vay, cung ứng dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế…

Nếu như đầu những năm 1990, tại Việt Nam, 4 NHTMNN chiếm gần như toàn bộ
thị trường tiền gửi và cho vay ở Việt Nam thì cho đến nay, theo số liệu của Ngân hàng
Nhà nước (NHNN), hiện cả nước có hơn 100 ngân hàng thương mại hoạt động. Cùng với
đó là việc thành lập và hoạt động của hàng loạt công ty tài chính và công ty cho thuê tài
chính, quỹ tín dụng từ trung ương tới địa phương.

Tuy nhiên thực trạng kinh doanh của các NHTM hiện nay vẫn còn nhiều những
bất cập:

(1) Mức độ đa dạng hóa loại hình dịch vụ không cao, chủ yếu tập trung vào
cung ứng các dịch vụ ngân hàng truyền thống là huy động vốn, cho vay và thanh
toán, các loại hình dịch vụ khác, nhất là các dịch vụ mới nhiều tiện ích lại khó triển
khai. Ðiều này xuất phát từ cả nguyên nhân do khách quan lẫn chủ quan.

Lý do khách quan: Trình độ phát triển của kinh tế Việt Nam chưa cao, nền tảng hạ
tầng kỹ thuật chung chưa cho phép các NHTM triển khai các loại hình dịch vụ ngân hàng
hiện đại. Hơn nữa, một bộ phận không nhỏ khách hàng trong nền kinh tế chưa có sự nhận

25
Nhóm 9 - KTVM

thức đúng về vai trò và vị trí của các dịch vụ ngân hàng mới, nên các NHTM sẽ khó triển
khai.

Lý do chủ quan: Ðể có thể triển khai thành công các loại hình dịch vụ mới luôn
đòi hỏi điều kiện về hạ tầng kỹ thuật công nghệ ở mức tương thích, nhưng để có thể triển
khai được các kỹ thuật công nghệ hiện đại luôn đòi hỏi chi phí cao, trong khi năng lực tài
chính của hầu hết các NHTM còn rất thấp. Hiện nay, theo các tư liệu thống kê thì các
NHTM Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của Nghị định 141. Tuy nhiên, nếu đi sâu xem xét
thì có không ít NHTM chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu do tình trạng “sở hữu chéo”
rất phức tạp, khó kiểm soát trong nội bộ hệ thống này mà thực chất là để “lách luật”.
Thậm chí do kinh doanh yếu kém nên có một số NHTM thậm chí còn bị mất hết vốn điều
lệ.

Ngoài yếu tố kỹ thuật công nghệ thì cũng không thể không đề cập đến những bất
cập về chất lượng nguồn nhân lực của các NHTM. Do kinh doanh ngân hàng là kinh
doanh trên cơ sở chấp nhận rủi ro, nhưng suy cho cùng thì mọi rủi ro đều xuất phát từ yếu
tố con người, nên để giảm thiểu rủi ro thì chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống ngân
hàng luôn phải hết sức được coi trọng. Thực tế thì chất lượng nguồn nhân lực ở không ít
NHTM Việt Nam chưa thực sự tương thích với việc triển khai các loại hình dịch vụ mới,
tuy có nhiều tiện ích nhưng tiềm ẩn rủi ro rất cao. Hơn nữa, bản thân nhiều loại hình dịch
vụ lại chủ yếu dựa trên cơ sở chất lượng nguồn nhân lực của các NHTM phải cao, thí dụ
các dịch vụ về môi giới hay tư vấn… Rõ ràng là có không ít NHTM Việt Nam chưa có sự
chuẩn bị tốt cho vấn đề này.

Với thực trạng chất lượng nguồn nhân lực như vậy, thì sẽ rất khó khăn cho các
NHTM mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng mới, và có thể nói, nếu các NHTM càng
mở ra các loại hình dịch vụ mới, thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Một thực tế cũng cần chú ý
là chất lượng đào tạo của một bộ phận không nhỏ của các cơ sở đào tạo trong nước chưa
thực sự đáp ứng được kỳ vọng về chất lượng. Sự nhận thức chưa thấu đáo về lĩnh vực
kinh doanh, đặc biệt phần lớn cán bộ lại chưa có nhận thức đúng về vai trò và sự tác động
của kinh doanh ngân hàng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội chung, có thể sẽ gây
những hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế - xã hội trên nhiều phương diện.

(2) Các NHTM mạo hiểm đầu tư hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao,
đặc biệt là hoạt động tín dụng. Hầu hết các NHTM tập trung vào lĩnh vực tín dụng, thể
26
Nhóm 9 - KTVM

hiện ở tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao. Dư nợ tín dụng cao trong khi chất lượng tín
dụng lại khá thấp do có không ít NHTM thực hiện các hoạt động đầu tư có độ rủi ro cao.
Cụ thể:

(i) Một số NHTM nhỏ cho vay lĩnh vực bất động sản quá cao (chiếm tới xấp xỉ
50% tổng dư nợ tín dụng). Một số NHTM tồn một tỷ trọng không nhỏ khoản cho vay bất
động sản dưới hình thức các tài sản thế chấp. Do thị trường bất động sản trầm lắng, nên
rủi ro gia tăng trong một bộ phận không nhỏ NHTM.

(ii) Một số NHTM không chỉ cho vay mà còn trực tiếp đầu tư vàng, ngoại tệ rủi ro
tiềm ẩn lớn, đồng thời gây rối loạn thị trường, khó khăn cho NHNN trong điều hành thị
trường tiền tệ (những bất ổn trên thị trường vàng gần đây phản ánh rất rõ thực tế này).

(iii) Trong hoạt động cho vay, các NHTM chưa thực sự chú trọng công tác sàng
lọc khách hàng nên chất lượng tín dụng chưa cao. Mặt khác, do lãi suất cho vay khá cao,
vượt quá sức chịu đựng của hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, nên vốn tín
dụng thường không đến đúng các địa chỉ cần thiết (thường là đổ vào các thị trường bất
động sản, vàng, ngoại tệ…), làm giảm hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế. Theo thống
kê, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam là khá cao và mức độ nợ xấu là đáng
quan ngại.

2.3.2. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên các NHTM nước ta hiện nay

Nhằm đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho các hoạt động trên, NHTM đã cung cấp
nhiều dịch vụ trong đó kinh doanh ngoại tệ là một trong những hoạt động đầu tiên và
đang ngày càng được mở rộng và phát triển. Nó có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
và bản thân NHTM.

Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động phức tạp chứa nhiều rủi ro. Các rủi ro
mà các NHTM thường gặp là rủi ro về giá và rủi ro về khả năng thanh toán. Cũng giống
như các lĩnh vực kinh doanh khác, kinh doanh ngoại tệ chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn cần biết
để có những biện pháp phòng tránh và ngăn chặn.

Đối với các NHTM thì tỷ giá ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh ngoại hối.
Nếu tính toán sai về thời điểm ký những hợp đồng kỳ hạn để mua bán ngoại hối thì hậu
quả là NHTM sẽ mất khả năng thanh khoản, không đủ USD để thực hiện những giao dịch
khác. Mà tính thanh khoản có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống ngân hàng. Vì

27
Nhóm 9 - KTVM

thế, rủi ro hay những ảnh hưởng của biến động tỷ giá tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ
của Ngân hàng là vấn đề cần được xem xét để có những biện pháp thích hợp hạn chế ảnh
hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng.

Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến rủi
ro tỷ giá của Ngân hàng. Trong năm 2019, tỷ giá VND/USD đã có nhiều diễn biến “bất
ngờ”. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung leo thang, khiến cho đồng nhân dân tệ (CNY)
mất giá trung bình gần 5% so với đồng USD. Trong bối cảnh đó, NHNN Việt Nam đã
nâng tỷ giá trung tâm thêm khoảng 1,5% (từ mức 22.825 VND/USD vào cuối năm 2018
lên mức 23.164 VND/USD vào ngày 6/12/2019). Theo đó, giá mua - bán USD tại NHTM
vào cuối năm 2019 gần như không thay đổi so với cùng thời điểm năm 2018, dao động
quanh mức 23.100 VND/USD (mua vào) và 23.250 VND/USD (bán ra). Diễn biến này
trái ngược với những năm trước đây, khi tỷ giá VND/USD luôn theo sát những diễn biến
trên thị trường tiền tệ quốc tế, đặc biệt là diễn biến của đồng CNY, cũng như phản ứng
tương đối mạnh mẽ với chính sách điều chỉnh tỷ giá của NHNN.

Trước hết, có thể nhận thấy, trong năm 2019, tình hình cung - cầu ngoại tệ có
nhiều thuận lợi cho việc duy trì tỷ giá ổn định. Trong năm 2019, mặc dù tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu đã chậm lại đáng kể so với năm 2018 nhưng vẫn đạt mức 7,8%, trong
khi tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chỉ đạt mức 7,4%. Tính chung năm 2019, cả nước xuất
siêu trên 9,1 tỷ USD – mức kỷ lục từ trước đến nay. Bên cạnh mức thặng dư thương mại
lớn, tình hình cung – cầu ngoại tệ còn được hỗ trợ bởi các dòng vốn đầu tư trực tiếp và
gián tiếp nước ngoài. Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào, NHNN có thể mua ròng lượng
ngoại tệ lớn, ước tính khoảng 6,6 tỷ USD kể từ tháng 7/2019, từ đó nâng tổng dự trữ
ngoại hối quốc gia lên mức 73 tỷ USD.

Yếu tố thứ hai khiến tỷ giá ổn định là kỳ vọng VND bị mất giá đã giảm đi đáng kể
trong những năm gần đây. Kết quả này đạt được là nhờ Chính phủ luôn kiên định và ưu
tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, giảm mức độ đô la hóa trong nền kinh tế. Kể từ năm
2014 trở lại đây, tốc độ tăng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) luôn được kiềm chế ở mức dưới
4% (dưới 2% nếu sử dụng lạm phát cơ bản làm thước đo) trong khi tốc độ mất giá trung
bình của VND so với USD cũng ở mức dưới 2%. Niềm tin vào sự ổn định giá trị của
VND đã khiến cho tâm lý tích giữ ngoại tệ giảm mạnh, đồng thời khuyến khích người
dân và các tổ chức bán ngoại tệ cho NHNN.

28
Nhóm 9 - KTVM

Nhìn chung, chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam có những đặc điểm chính:
Thứ nhất, chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam trong nhiều giai đoạn có xu hướng
cố định và neo vào USD là chủ yếu. Thứ hai, việc neo chặt tỷ giá VND vào USD đã có
ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thương mại, đầu tư với các đối tác khác Mỹ. Thứ ba,
tỷ giá trung tâm của USD/VND do NHNN công bố hàng ngày không phải lúc nào cũng
phản ánh theo thực chất cung cầu của thị trường, nhất là những thời điểm xảy ra tình
trạng dư thừa hay căng thẳng ngoại tệ.

Kinh doanh ngoại tệ là nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động của NHTM nhằm
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng sinh lời cho NHTM. Thực tế cho
thấy để kinh doanh ngoại tệ có lãi thì nhà kinh doanh phải tạo ra trạng thái ngoại hối mở
và tỷ giá biến động. Điều cần chú ý là lãi/lỗ trong kinh doanh ngoại hối có thể phát sinh
cùng với quy mô biến động tỷ giá, trong khi đó tỷ giá biến động là không giới hạn nên có
thể làm cho lãi/lỗ phát sinh là rất lớn. Điều này buộc NHTM phải có một cơ chế quản lý
và giám sát hoạt động kinh doanh ngoại tệ một cách chặt chẽ.

2.4. Ảnh hưởng đến cán cân thương mại: (xuất nhập khẩu, đầu tư quốc tế,…)
2.4.1. Số liệu về thực trạng cán cân thương mại hiện nay

Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2020 – nửa đầu năm 2021 rất phức tạp, không thuận
lợi cho thương mại quốc tế. Đây là năm thế giới chứng kiến những biến động nhanh,
phức tạp, đa chiều và khó đoán định từ xung đột thương mại Mỹ-Trung, biến động về
quan hệ kinh tế – chính trị giữa các nền kinh tế lớn và đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của
dịch Covid-19 đến mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Sự xuất hiện của dịch Covid-19 đã gây
ra những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế, trong đó xuất, nhập khẩu hàng hóa bị
ảnh hưởng khá nghiêm trọng. Những biến động, khó khăn đó đã khiến các nước có xu
hướng sử dụng sản phẩm nội địa thay cho sản phẩm nhập khẩu khi thực hiện biện pháp
đóng cửa biên giới để phòng chống dịch bệnh. Do đó nhiều nước đã sử dụng các biện
pháp bảo hộ thương mại, các rào cản kỹ thuật để tăng cường bảo hộ sản phẩm nội địa,
đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản.

Tuy nhiên, với sự điều hành khéo léo, tỉnh táo và rất kiên quyết của Chính phủ với
mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đứng vững trong sự đứt gãy thương mại quốc tế
trên toàn cầu, giữ được đà tăng trưởng và tạo lực kéo quan trọng cho cả nền kinh tế.
29
Nhóm 9 - KTVM

Năm 2020 có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó, 24
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD
và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD. Mặt hàng đóng góp lớn nhất vào tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2020 là điện thoại và linh kiện với giá trị xuất khẩu lớn
nhất đạt 50,9 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 1% so với năm
trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 44,7 tỷ USD, tăng 24,4%. Những năm gần đây
nổi lên vai trò chi phối của nhóm hàng điện tử, máy tính, điện thoại và linh kiện. Trị giá
xuất khẩu của 2 nhóm hàng này đang tiến dần tới mốc 100 tỷ USD (năm 2019 đạt 87 tỷ
USD, năm 2020 ước tính đạt gần 96 tỷ USD) với tỷ trọng ngày càng tăng, chiếm tới
33,9% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2020.Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 262,4 tỷ
USD, tăng 3,6% so với năm 2019. Nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết
cho sản xuất, xuất khẩu, gồm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất,
xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 245,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với
năm 2019, chiếm tỷ trọng 93,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhập khẩu
nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng tăng mạnh tới
16,3%. Điều này chứng tỏ nền kinh tế đang có sự phục hồi khá mạnh mẽ về sản xuất
trong khi nhập khẩu cho tiêu dùng đã giảm đáng kể, tỷ trọng chỉ chiếm 6,4%, giảm 0,5
điểm phần trăm so với năm 2019.

Từ 2016 đến nay, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên tục thặng dư
với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất siêu hàng hóa của nước
ta đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,5 tỷ USD; năm 2019
đạt 10,9 tỷ USD và năm 2020 ước tính đạt 19,1 tỷ USD.

Ở thời điểm hiện tại, số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho
thấy tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 5/2021 (từ
ngày 01/5 đến ngày 15/5/2021) đạt 25,7 tỷ USD, giảm 6,8% (tương ứng giảm 1,87 tỷ
USD) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 4/2021.

Kết quả đạt được trong nửa đầu tháng 5/2021 đã đưa tổng trị giá xuất nhập khẩu
của cả nước đến hết ngày 15/5/2021 đạt 233,95 tỷ USD, tăng 32,4%, tương ứng tăng
57,26 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2020.

Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đạt 163,49 tỷ USD, tăng 37% (tương ứng tăng tới 44,17 tỷ USD); trị
30
Nhóm 9 - KTVM

giá xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước là 70,46 tỷ USD, tăng 22,8%
(tương ứng tăng 13,09 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2020.

Trong kỳ 1 tháng 5 năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 1,93 tỷ
USD. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/5/2021, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt
353 triệu USD.

Về xuất khẩu, Tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 5
năm 2021 đạt 11,89 tỷ USD, giảm 14,1% (tương ứng giảm 1,94 tỷ USD về số tuyệt đối)
so với kỳ 2 tháng 4/2021.

Như vậy, tính đến hết 15/5/2021, tổng trị giá xuất khẩu của Viê ̣t Nam đạt gần
116,8 tỷ USD, tăng 30,9% tương ứng tăng 27,57 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2020.
Trong đó, một số nhóm hàng tăng mạnh như: Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng tăng
5,8 tỷ USD, tương ứng tăng 76,9%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 4,11
tỷ USD, tương ứng tăng 30,2%; Điện thoại các loại & linh kiện tăng 3,52 tỷ USD, tương
ứng tăng 21,4%... so với cùng kỳ năm 2020.

Hình 2-6: Trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 01/01/2021
đến 15/5/2021 và cùng kỳ năm 2020

(Nguồn: Tổng cục Hải quan)

Số liê ̣u thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy trị giá xuất khẩu hàng hóa
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ 1 tháng 5/2021
đạt 8,7 tỷ USD, giảm 14,1%, tương ứng giảm 1,43 tỷ USD so với kỳ 2 tháng 4/2021.
31
Nhóm 9 - KTVM

Tính đến hết ngày 15/5/2021, tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của nhóm các doanh nghiê ̣p
này đạt 87,03 tỷ USD, tăng 37,2%, tương ứng tăng 23,58 tỷ USD so với cùng kỳ năm
trước, chiếm 74,5% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.

Về nhập khẩu, tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng
5/2021 đạt 13,82 tỷ USD, tăng nhẹ 0,5% (tương ứng tăng 73 triệu USD về số tuyệt đối)
so với kết quả thực hiê ̣n trong nửa cuối tháng 4/2021. Trị giá nhập khẩu hàng hóa trong
kỳ 1 tháng 5/2021 tăng so với kỳ 2 tháng 4/2021 chủ yếu ở một số nhóm hàng sau: Máy
móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng tăng 188 triệu USD, tương ứng tăng 9,9%; Vải tăng 56
triệu USD, tương ứng tăng 7,7%...

Như vậy, tính đến hết 15/5/2021, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 117,15 tỷ
USD, tăng 34% (tương ứng tăng 29,69 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó một
số nhóm hàng tăng mạnh như: máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 5,21 tỷ
USD, tương ứng tăng 26,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng khác tăng 4,27 tỷ
USD, tương ứng tăng 33,9%; điện thoại các loại & linh kiện tăng 2,27 tỷ USD, tương ứng
tăng 49,8%... so với cùng kỳ năm 2020.

Hình 2-7: Trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ
01/01/2021 đến 15/5/2021 và cùng kỳ 2020

Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 8,87 tỷ
USD, giảm nhẹ 1,1% (tương ứng giảm 103 triệu USD) so với kỳ 2 tháng 4/2021. Tính

32
Nhóm 9 - KTVM

đến hết ngày 15/5/2021, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm các doanh nghiê ̣p này đạt 76,46
tỷ USD, tăng 36,9% (tương ứng tăng 20,59 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2020, chiếm
65,3% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.

Như vậy, cán cân thương mại đã đổi chiều lần đầu tiên trong tháng 5. Tính chung
5 tháng đầu năm, Việt Nam nhập siêu 369 triệu USD. Điều này có nghĩa xuất siêu đang
phụ thuộc hoàn toàn vào khu vực FDI và chỉ cần khu vực này chững lại, nền kinh tế sẽ
quay lại tình trạng nhập siêu.

Minh chứng rõ nét nhất là khi làn sóng thứ tư của dịch Covid-19 bùng phát trở lại
đầu tháng 4/2021 khiến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp FDI trong các khu công
nghiệp, nhất là tại tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều doanh
nghiệp phải tạm ngừng hoạt động đã ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và xuất khẩu. Theo
báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong tháng 5/2021, kim ngạch xuất khẩu của khu vực
FDI (kể cả dầu thô) đạt 19,04 tỷ USD, giảm 2,4% so với tháng trước.

Ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương
khẳng định, việc nhập siêu này không có đột biến và không đáng ngại. “Sau 4 tháng duy
trì mức xuất siêu thì đến tháng 5, chúng ta có mức nhập siêu nhẹ. Tôi cho rằng điều này
cũng không có gì quá bất thường. Vì hiện nay, các mặt hàng chúng ta nhập khẩu nhiều
chủ yếu là các nguyên liệu để phục vụ cho hoạt động sản xuất, đặc biệt trong đó phục vụ
cho sản xuất của nhóm hàng xuất khẩu. Ví dụ như linh kiện điện tử, các nguyên phụ liệu
trong ngành dệt may, da giày là những ngành hiện nay đang có đà phục hồi tăng trưởng
rất mạnh mẽ, và do vậy sự gia tăng nhập khẩu cũng là điều tất yếu…” - ông Trần Thanh
Hải nói.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Công Thương, hoạt động xuất nhập khẩu hiện
vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản như: Việc vận chuyển hàng hóa gặp khó khăn; nhiều
chuỗi cung ứng bị gián đoạn, nhu cầu thị trường chưa hồi phục đồng đều; chi phí đầu vào
như logistics, nguyên liệu nhập khẩu tăng cao; các thị trường xuất khẩu nông, thủy sản
liên tục đưa ra những thay đổi trong quy định chứng nhận an toàn thực phẩm... Do đó,
bản thân doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như khả năng thích
ứng để vượt qua khó khăn, chủ động chuyển hướng để nắm bắt hiệu quả những cơ hội từ
bối cảnh mới.

33
Nhóm 9 - KTVM

Để góp phần đạt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước năm 2021 tăng
khoảng 6,5%, ngành công thương phấn đấu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đặt mục tiêu
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2021 tăng khoảng 4-5% so với năm 2020, tiếp tục
duy trì đà xuất siêu.

2.4.2. Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại Việt Nam

Nếu đồng tiền của một quốc gia mạnh lên, hàng hóa xuất khẩu của quốc gia này ra
nước ngoài sẽ đắt đỏ hơn và hàng hóa nhập khẩu sẽ rẻ hơn. Ngược lại, một đồng tiền yếu
sẽ làm cho hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia rẻ hơn và nhập khẩu đắt hơn ở thị
trường nước ngoài. Khi tỷ giá hối đoái tăng cao, cán cân thương mại của một nước
thường giảm đi và khi tỷ giá hối đoái thấp hơn, cán cân thương mại sẽ tăng. Trong bối
cảnh ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần điều chỉnh tỷ giá hối
đoái như thế nào để cải thiện cán cân thương mại?

Theo Điều kiện Marshall-Lerner, việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán
cân thương mại, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co dãn theo giá cả của xuất khẩu và
độ co dãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1. Phá giá dẫn tới giảm giá hàng xuất
khẩu định danh bằng ngoại tệ, do đó nhu cầu đối với hàng xuất khẩu tăng lên. Đồng thời,
giá hàng nhập khẩu định danh bằng nội tệ trở nên cao hơn, làm giảm nhu cầu đối với
hàng nhập khẩu.

Hiệu quả ròng của phá giá đối với cán cân thương mại tùy thuộc vào độ co dãn
theo giá. Nếu hàng xuất khẩu co giãn theo giá, thì tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng hóa sẽ lớn
hơn tỷ lệ giảm giá, do đó, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng. Tương tự, nếu hàng nhập khẩu co
giãn theo giá, thì chi cho nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm. Cả hai yếu tố này đều góp phần
cải thiện cán cân thương mại.

Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, hàng hóa thường không co dãn theo giá cả trong
ngắn hạn, bởi thói quen tiêu dùng không thể thay đổi dễ dàng. Do đó, điều kiện Marshall-
Lerner không được đáp ứng, dẫn tới việc phá giá tiền tệ chỉ làm cho cán cân thương mại
trong ngắn hạn xấu đi. Trong dài hạn, khi người tiêu dùng đã điều chỉnh thói quen tiêu
dùng của mình theo giá mới, cán cân thương mại mới được cải thiện.

Một số hạn chế từ việc phá giá VND

34
Nhóm 9 - KTVM

Một là, năng lực sản xuất hàng hóa trong nước còn hạn chế, các mặt hàng sản xuất
trong nước đều phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu khiến tỷ giá ít tác động đến cán
cân thương mại, cụ thể:

- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Có một số hàng hóa mà các nền
kinh tế đang phát triển (gồm cả Việt Nam), không hoặc có thể sản xuất được thì chất
lượng không tốt bằng hay giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu đắt hơn,
người tiêu dùng chưa chắc sẽ lựa chọn hàng trong nước. Như vậy, nếu thực hiện phá giá,
nền kinh tế Việt Nam với năng lực sản xuất hàng thay thế cho hàng nhập khẩu còn yếu sẽ
khó hạn chế được nhập khẩu.

Hình 2-8: Tỷ giá NEER và REER của Việt Nam từ 2014 đến nay

Năng lực sản xuất hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đa phần doanh nghiệp (DN)
Việt Nam vẫn sản xuất nhỏ lẻ và có năng suất thấp. Nếu DN trong nước không có năng
lực sản xuất hàng xuất khẩu hoặc không tìm được thị trường xuất khẩu, khi Chính phủ
thực hiện phá giá, những cơ hội kinh doanh tốt mà Chính phủ hướng tới thông qua phá
giá sẽ bị bỏ lỡ, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại chưa chắc được cải thiện.

Điều hành tỷ giá ít có tác động đến cán cân thương mại ở Việt Nam: Về mặt lý
thuyết, nếu tiền đồng được định giá cao, hàng hóa nội địa sẽ mất dần tính cạnh tranh, ảnh
hưởng đến xuất khẩu và cán cân thương mại. Ngược lại, nếu tiền đồng được định giá
thấp, hàng hóa trong nước có tính cạnh tranh hơn, đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu và
cải thiện cán cân thương mại.

Từ biểu đồ cho thấy, chênh lệch NEER và REER gia tăng nhanh chóng và từ năm
2016 đến nay, tiền đồng đang được định giá rất cao. Thực tế, tỷ giá và cán cân thương

35
Nhóm 9 - KTVM

mại tại Việt Nam ít thấy mối quan hệ chặt chẽ theo lý thuyết. Điều này phản ánh cán cân
thương mại của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào những yếu tố “thực”, “cơ cấu” chứ
không phải là yếu tố “danh nghĩa”. Bởi vì cơ cấu sản xuất trong nước và xuất khẩu phần
lớn phụ thuộc đầu vào nhập khẩu trong khi ngành công nghiệp phụ trợ còn thiếu vắng và
chưa phát triển.

Khảo sát các ngành hàng xuất khẩu cho thấy, hầu hết xuất khẩu của các nhóm
ngành công nghiệp chế biến - chế tạo đều kích thích nhập khẩu mạnh mẽ. Trong khi đó,
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đóng góp đến 72.2% giá trị xuất khẩu năm 2020
và chủ yếu tận dụng lao động rẻ để gia công tại Việt Nam. Ví dụ Samsung Vina gần như
nhập khẩu 100% linh kiện của Samsung từ Trung Quốc để sản xuất hàng điện thoại, giá
trị gia tăng tại Việt Nam không lớn trong tổng số 12 tỷ USD xuất khẩu năm 2012 và gần
23 tỷ USD xuất khẩu năm 2013. Vì vậy, mặc dù, DN này đóng góp lớn đến xuất khẩu
nhưng cũng là nguyên nhân gia tăng nhập khẩu.

Như vậy, mục tiêu cải thiện cán cân thương mại một cách bền vững cần phải cải
thiện trong mô hình tăng trưởng kinh tế và cơ cấu nền kinh tế.

Kết quả này cho thấy, hiện nay VND lên giá tương đối so với giỏ tiền tệ. NEER đã
khiến tỷ giá hữu hiệu thực (REER) tăng theo và tăng mạnh hơn, do khoảng chênh lệch
lạm phát giữa Việt Nam và 08 nước trong giỏ tiền tệ ngày càng mở rộng. Diễn biến của
REER cho thấy, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã trở nên đắt hơn tương đối so với
hàng hóa của 08 nước trong giỏ tiền tệ, trong dài hạn sẽ ảnh hưởng không tốt đến cán cân
thương mại. Theo Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam năm 2020 đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019. Kết quả này góp
phần đưa thặng dư thương mại hàng hóa của cả nước đạt mức kỷ lục 19,1 tỷ USD (tăng
gần gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2019 là 10,8 tỷ USD). Sự bứt phá của xuất, nhập khẩu
hàng hóa chủ yếu bắt đầu từ quý III/2020, khi các nước từng bước dỡ bỏ quy định cách
ly, giãn cách xã hội và đưa nền kinh tế trở lại trạng thái bình thường mới.

Việt Nam tiếp tục duy trì mức thặng dư thương mại cao chủ yếu với 02 thị trường
lớn là Hoa Kỳ (62,7 tỷ USD) và Liên minh châu Âu (20,3 tỷ USD); thâm hụt thương mại
lớn với các thị trường như: Trung Quốc (35,4 tỷ USD), Hàn Quốc (27,6 tỷ USD) và
ASEAN (6,9 tỷ USD).

36
Nhóm 9 - KTVM

Năm 2020, có tới 72.2% giá trị xuất khẩu của Việt Nam do các DN có vốn đầu tư
nước ngoài tạo ra. Từ vị trí là khu vực chủ lực về xuất khẩu, khối các DN trong nước hiện
chỉ còn đóng góp chưa tới 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Điều này hàm ý rằng,
nếu tỷ giá được điều chỉnh mạnh hơn thì chưa chắc cán cân thương mại được cải thiện,
mục tiêu lấy tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu là không phù hợp trong giai đoạn hiện nay.

Hình 2-9: Thị trường có mức thặng dư hoặc thâm hụt thương mại lớn
với Việt Nam năm 2020 (Đơn vị: tỷ USD)

Hai là, sự xuất hiện ngày càng nhiều, trên quy mô lớn của chuỗi sản xuất toàn cầu
đang đặt ra những vấn đề mới cho việc xem xét, nhìn nhận lại thương mại quốc tế. Các
kết quả cho thấy, việc giảm giá VND vẫn có thể có tác động khuyến khích xuất khẩu ban
đầu, nhưng sau đó tác động này có thể giảm đi do làm gia tăng các yếu tố đầu vào. Đối
với các mặt hàng gia công, tỷ giá cũng có thể có tác động, ít nhất là thông qua hiệu ứng
“ảo ảnh tỷ giá”. Sự xuất hiện ngày càng nhiều, trên quy mô lớn của chuỗi sản xuất toàn
cầu đang đặt ra những vấn đề mới cho việc xem xét, nhìn nhận lại thương mại quốc tế,
trong đó có xuất khẩu và tác động của các yếu tố khác đến thương mại, trong đó có tỷ
giá.

Ba là, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cho thấy, yếu tố chính quyết định sức
cạnh tranh của nền kinh tế là khoa học công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực của các
37
Nhóm 9 - KTVM

quốc gia. Vậy nên, tỷ giá hối đoái chỉ có tác dụng hỗ trợ nhất định, không phải là then
chốt.

Những tác động tích cực từ việc phá giá VND

Giả sử giá xuất khẩu mặt hàng nào đó của Việt Nam là 100 USD/cái, nguyên vật
liệu nhập về để sản xuất hàng đó là 90 USD/cái; VND bị phá giá từ 20.000 VND/USD
lên 21.000 VND/USD; Giá bán và giá nguyên vật liệu sản xuất mặt hàng đó trên thị
trường quốc tế (thị trường xuất khẩu) là không đổi, tương ứng là 100 USD và 90 USD.
Khi phá giá, mức chênh lệch 10 USD tính theo tiền VND tăng lên, suy ra phá giá thì DN
xuất khẩu có lợi.

Hơn nữa, phá giá giúp DN xuất khẩu thay thế (một phần) đầu vào nhập khẩu bằng
hàng sản xuất trong nước. Ví dụ như đối với sản xuất và xuất khẩu hàng điện tử. Doanh
nghiệp xuất khẩu thay vì phải nhập khẩu một chi tiết nào đó, chẳng hạn, con vít (giá 1
USD, tương đương với 20.000 VND, so với con vít cùng loại và chất lượng tương đương
sản xuất tại Việt Nam với giá thành cao hơn khoảng 20.500 VND), thì nay DN xuất khẩu
có thể mua cũng con vít đó sản xuất trong nước với giá rẻ hơn sau khi VND bị phá giá
(Ví dụ, từ 20.000 VND/USD lên thành 21.000). Nghĩa là, khi phá giá, rất có thể hàm
lượng hàng nhập khẩu trong hàng xuất khẩu sẽ giảm đi. Suy rộng ra cho cả nền kinh tế,
khi hàng hóa sản xuất trong nước trở nên cạnh tranh hơn sau khi phá giá, hàng nhập khẩu
sẽ ít hơn.

38
Nhóm 9 - KTVM

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TRƯỚC BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI


ĐOÁI HIỆN NAY

3.1. Giải pháp chung

Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội
của mỗi nước, là công cụ để đo lường giá trị giữa các đồng tiền và do vậy có tác động
như một công cụ cạnh tranh trong thương mại quốc tế, một công cụ quản lý kinh tế, có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá cả, tới mọi hoạt động kinh tế – xã hội của nước đó và các
nước có liên quan.

Do đó việc điều hành chế độ tỷ giá nào là điều kiện tiên quyết cho quá trình phát
triển nền kinh tế của đất nước.

NHNN cần thực hiện một số chính sách nhằm điều hành chế độ tỷ giá góp phần ổn
định tỷ giá và thị trường ngoại hối.

Thứ nhất, cần nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái, vừa giảm sức ép lạm phát, vừa
giảm mức độ cần phải can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho thị
trường tự điều chỉnh theo quan hệ cung cầu ngoại tệ. Ví dụ, hiện nay thâm hụt thương
mại đang rất lớn, vì vậy thị trường sẽ điều chỉnh tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá hối đoái
tăng có tác dụng làm giảm thâm hụt thương mại; nhưng do biên độ hẹp và do can thiệp
bán ra của Ngân hàng Nhà nước, nên hiệu ứng điều chỉnh nói trên của thị trường không
thể đạt được, kết quả là thâm hụt thương mại có thể còn kéo dài.

Thứ hai, chú trọng sử dụng hệ thống lãi suất của Ngân hàng Trung ương như một
công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái ngoài việc mua vào, bán ra qua dự trữ ngoại tệ của
Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất của Ngân hàng Trung ương phải phản ánh đầy đủ mức độ
tăng giảm của cung tiền nội tệ. Đến lượt nó mức tăng giảm cung tiền phụ thuộc vào dự
báo lạm phát. Ngân hàng Nhà nước chỉ mua vào và bán ra ngoại tệ trong trường hợp cung
cầu không cân bằng tại mức tỷ giá cân bằng trung tâm.

Thứ ba, thay thế chế độ tỷ giá gắn với USD bằng chế độ tỷ giá gắn với một rổ tiền
tệ. Theo đó tỷ giá hối đoái được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối
và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ chốt có thể từ 3 đến 5 đồng tiền có tỷ trọng
39
Nhóm 9 - KTVM

thương mại lớn nhất. Các đồng tiền này sẽ tham gia vào rổ tiền tệ với trọng số theo quan
hệ thương mại và đầu tư vào VN. Các trọng số và đồng tiền được điều chỉnh tùy theo sự
thay đổi của thương mại và đầu tư và được giữ bí mật.

Thứ tư, cần phân tích sâu hơn về tỷ giá hối đoái thực hiệu quả gắn với một rổ tiền
tệ xác định. Như đã đề cập ở trên, nhằm xác lập được mức tỷ giá cân bằng trung tâm
(central parity) làm cơ sở để điều hành tỷ giá và biên độ thích hợp trong từng giai đoạn cụ
thể. Mức cân bằng trung tâm là mức mà tỷ giá hối đoái danh nghĩa cần đạt được để tỷ giá
hối đoái thực cân bằng tính theo cùng một năm gốc.

Doanh nghiệp cũng cần có những giải pháp để giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả
kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Tỷ giá hối đoái tăng có lợi cho các nhà xuất khẩu và hạn chế tình trạng nhập siêu,
đồng thời cũng có tác dụng giảm sức ép lạm phát. Tuy nhiên, trong ngắn hạn sẽ gây ra
một số khó khăn cho doanh nghiệp như các quyết định đầu tư sẽ phải tính đến rủi ro hối
đoái, đặc biệt các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu. Vì vậy, để giảm thiểu những rủi
ro này các doanh nghiệp cần phối hợp với ngân hàng thương mại thực hiện các công cụ
phái sinh như hợp đồng forward, futures, swaps. Cũng cần lưu ý rằng những biến động tỷ
giá hối đoái thường lớn hơn biến động về lãi suất vì vậy việc tiết giảm chi phí phòng
ngừa rủi ro hối đoái trong ngắn hạn là vô cùng quan trọng.

Về dài hạn, các doanh nghiệp cần tập trung vào những tác động kinh tế thực sự
của việc biến đổi tiền tệ và cần thiết xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro hối đoái,
cùng với các chiến lược như marketing, sản xuất và quản lý tài chánh thích hợp để đối
phó với những tác động kinh tế của việc biến động tỷ giá hối đoái. Bởi vì, sự biến động tỷ
giá hối đoái kéo theo sự thay đổi giá bán sản phẩm làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của công ty. Vì vậy, ban điều hành cần điều chỉnh quá trình sản xuất, kế hoạch
marketing -mix để tạo ra tương quan giá mới để đảm bảo lợi nhuận lâu dài. Các công ty
có thể ngăn ngừa những rủi ro dựa vào thu chi ngoại tệ đã được dự trù trước, nhưng
ngược lại, những rủi ro cạnh tranh, vấn đề này xuất phát từ sự cạnh tranh với các công ty
dựa vào loại tiền tệ khác, là lâu dài, khó để định lượng và không thể giải quyết đơn thuần
thông qua những kỹ thuật phòng ngừa giản đơn.

40
Nhóm 9 - KTVM

3.2. Kiến nghị

NHNN tiếp tục kiên định mục tiêu bình ổn kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất và tái
cấu trúc nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến kiềm chế lạm phát. NHNN cũng cần điều
hành chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng có thận trọng.

Nghiên cứu thực hiện cải cách chế độ tỷ giá, chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý, trước hết Việt Nam cần học tập tấm gương của Trung Quốc để đảm bảo rằng hệ
thống các doanh nghiệp quốc doanh đã được cải tổ về chất và sẵn sàng đáp ứng được yêu
cầu cho một cuộc cải cách tiếp theo về tỷ giá.

Tự do hóa tài khoản vốn cần được thực hiện sau khi quốc gia chính thức chuyển
sang chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Bởi vì, nếu tài khoản vốn được mở trước và chế độ
tỷ giá vẫn là neo với một đồng tiền, dòng vốn vào gia tăng, có nguy cơ gây bong bóng tín
tệ. Ngược lại, khi vốn bị rút ra ồ ạt, dự trữ sẽ cạn kiệt nếu NHTW không phá giá.

Tiếp tục kiên định với các biện pháp hạn chế tình trạng đô la hóa, tình trạng vàng
hóa nền kinh tế. Đồng thời, cần chú ý đặc biệt tới tình trạng đô la hóa tiền mặt trong nền
kinh tế, vì từ đó có thể giảm quy mô của mục sai số thống kê trong cán cân thanh toán
quốc tế.

Triển khai triệt để chủ trương chuyển toàn bộ từ quan hệ vay mượn ngoại tệ sang
quan hệ mua bán ngoại tệ.

Tiếp tục định hướng điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ nhằm ổn
định thị trường tiền tệ, bảo đảm thanh khoản hệ thống, cung ứng vốn có hiệu quả cho nền
kinh tế, hỗ trợ ổn định tỷ giá, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước phù hợp với
điều kiện thực tế.

Cần có những công cụ hướng dẫn DN giải quyết hiệu quả các khó khăn, vướng
mắc, rủi ro gặp phải trong quá trình đầu tư ra nước ngoài. Kịp thời nắm bắt, xử lý các
vướng mắc, khó khăn của DN đầu tư ra nước ngoài. Hướng dẫn cung cấp thông tin tổng
thể về quy trình đầu tư ra nước ngoài từ Việt Nam đến nước nhận đầu tư thông qua từng
bước đầu tư với những rủi ro môi trường - xã hội tiềm ẩn qua những chính sách và pháp
luật liên quan. Chú trọng hỗ trợ về mặt pháp lý, chủ động phối hợp cùng DN tham gia xử
lý các vấn đề phát sinh, các tranh chấp trong quá trình đầu tư tại nước sở tại.

41
Nhóm 9 - KTVM

Để góp phần đạt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước năm 2021 tăng,
một trong những giải pháp ưu tiên được lựa chọn là sẽ tận dụng tốt hơn các hiệp định
thương mại tự do, đặc biệt là hai hiệp định là Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Liên minh châu Âu, tạo nền
tảng vững chắc cho việc doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường
tiềm năng cũng như tạo lực đẩy cho xuất khẩu bền vững trong năm 2021

42
Nhóm 9 - KTVM

CHƯƠNG 4: BÀI HỌC


Tỷ giá hối đoái có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế mỗi quốc gia nói
chung và đến Việt Nam nói riêng. Tỷ giá là công cụ cơ sở và rất cần thiết đối với quan hệ
thương mại và tài chính quốc tế, đối với các cơ quan quản lý vĩ mô, đối với các cá nhân
và doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nhìn chung, biến động tỷ giá hối đoái của Việt Nam
có xu hướng diễn biến theo một chu kỳ rõ, với những “mốc thời gian quan trọng” gắn với
tình hình kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Nhờ vào những nền tảng kinh tế vĩ mô
vững chắc như lạm phát thấp, cán cân thanh toán thặng dư, dự trữ ngoại hối cao…, tỷ giá
hối đoái VND/USD trong năm 2020, nửa đầu năm 2021 và những năm tiếp theo được kỳ
vọng sẽ tiếp tục nằm trong xu thế ổn định. Với những vai trò đặc biệt trong việc giúp tính
toán hiệu quả của các giao dịch ngoại thương - “huyết mạch của nền kinh tế” - cũng như
hiệu quả của các chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước, chúng ta rất cần thiết phải có
sự quan tâm đúng mực cùng những chính sách cụ thể, hiệu quả và kịp thời để kiểm soát
tỷ giá hối đoái, từ đó tạo đà tăng trưởng kinh tế vững chắc. Ngân hàng Nhà nước cần đưa
ra những quyết định kịp thời, triệt để, bám sát tình hình thực tế để kiểm soát những ảnh
hưởng của các tác nhân, nhất là khủng hoảng tài chính toàn cầu, đến tỷ giá hối đoái. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần xây dựng một chiến lược hợp lý và toàn diện để đối phó
với những biến động của tỷ giá hối đoái cũng như của nền kinh tế. Ngoài nỗ lực của các
thành viên trên thị trường, việc xác lập một tỷ giá thỏa đáng nhằm kích thích xuất khẩu,
hỗ trợ kinh tế phát triển cũng là một vấn đề đáng lưu tâm đối với các nhà hoạch định
chính sách. Thực tế cho thấy việc cần thực hiện nhất trong bối cảnh hiện tại là phải làm
sao cho tỷ giá được kiểm soát tốt hơn, chuẩn bị các kế hoạch và kịch bản hành động khi
có các diễn biến kinh tế hay khủng hoảng bất ngờ xảy ra. Đảm bảo hoàn thành tốt các
giải pháp và mục tiêu đã đề ra, chúng ta có thể kỳ vọng trong tương lai, tỷ giá và thị
trường ngoại hối sẽ được ổn định, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng của ngoại thương
và của cả nền kinh tế quốc dân.

43
Nhóm 9 - KTVM

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. https://tcxd.vn/ty-gia-hoi-doai-la-gi/
2. https://123docz.net/document/1131749-luan-van-tinh-hinh-bien-dong-ty-gia-hoi-doai-
vnd-usd-trong-giai-doan-2008-den-nay-docx.htm
3. https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-van-tac-dong-cua-ty-gia-hoi-doai-den-
ngoai-thuong-viet-nam
4. http://quantri.vn/dict/details/14075-phan-loai-ty-gia-hoi-doai
5. https://123docz.net/document/1131749-luan-van-tinh-hinh-bien-dong-ty-gia-hoi-doai-
vnd-usd-trong-giai-doan-2008-den-nay-docx.htm
6. https://thitruongtaichinhtiente.vn/anh-huong-cua-lai-suat-va-ty-gia-den-lam-phat-giai-
doan-2000-2019-o-viet-nam-28763.html
7. https://thebank.vn/blog/16308-ty-gia-hoi-doai-danh-nghia-va-thuc-te-co-gi-khac-
nhau.html
8. https://vneconomy.vn/vi-sao-dong-usd-chiu-ap-luc-mat-gia-du-kinh-te-my-dang-
phuc-hoi-manh.htm
9. https://tuoitre.vn/dong-euro-tang-gia-manh-va-tac-dong-toi-ecb-
20200311105256994.htm
10. https://tuoitre.vn/corona-quay-the-gioi-chung-khoan-giam-nhan-dan-te-mat-gia-
20200127124720083.htm
11. https://vov.vn/kinh-te/dong-nhan-dan-te-cua-trung-quoc-tang-manh-828813.vov
12. https://www.slideshare.net/trongthuy2/luan-an-hoan-thien-chinh-sach-ty-gia-o-viet-
nam-2010202
13. https://thitruongtaichinhtiente.vn/anh-huong-cua-lai-suat-va-ty-gia-den-lam-phat-giai-
doan-2000-2019-o-viet-nam-28763.html
14. https://tailieu.vn/doc/ty-gia-hoi-doai-giai-doan-2000-2011-cac-nhan-to-quyet-dinh-
muc-do-sai-lech-va-tac-dong-doi-voi-xua-1241104.html
15. https://luanvan1080.com/nhung-bien-doi-trong-chinh-sach-ty-gia-hoi-doai-o-viet-
nam-hien-nay.html
16. https://baodautu.vn/kho-co-cu-soc-ty-gia-nam-2021-d135613.html

44
Nhóm 9 - KTVM

17. https://123docz.net//document/1042536-thuc-trang-ty-gia-hoi-doai-o-viet-nam-
trong.htm
18. http://quantri.vn/dict/details/8345-cac-nhan-to-tac-dong-den-ty-gia-hoi-doai
19. https://www.saga.vn/6-yeu-to-anh-huong-den-ty-gia-hoi-doai~42730
20. https://luanvan2s.com/ty-gia-hoi-doai-la-gi-bid195.html
21. https://thitruongtaichinhtiente.vn/anh-huong-cua-lai-suat-va-ty-gia-den-lam-phat-giai-
doan-2000-2019-o-viet-nam-28763.html
22. https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/hsbc-du-bao-lam-phat-viet-nam-trung-binh-
3-1352269.html
23. https://www.researchgate.net/publication/338315074_The_impact_of_exchange_rate_
on_inflation_and_economic_growth_in_Vietnam/link/5e0ce2c4299bf10bc3899973/d
ownload
24. https://www.slideshare.net/trongthuy2/luan-an-hoan-thien-chinh-sach-ty-gia-o-viet-
nam-20102020
https://laodong.vn/kinh-te/chinh-sach-tien-te-nam-2020-nhung-dau-an-noi-bat-
866087.ldo
25. https://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/an-ninh-tai-chinh-va-bien-dong-cua-lam-phat-
lai-suat-ty-gia-tien-te-tai-viet-nam-129510.html
https://dangcongsan.vn/thoi-su/nam-2015-ty-gia-do-la-my-binh-quan-tren-thi-truong-
tang-316-363963.html
26. https://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/vi-sao-lam-phat-nam-2015-thap-nhat-14-nam-
20151224102628229.chn
27. https://baoxaydung.com.vn/kinh-te-viet-nam-2016-2019-va-dinh-huong-2020-
272195.html
28. https://elearning.tdmu.edu.vn/elearning-ebook/T%E1%BA%A1p%20Ch%C3%AD
%20S%E1%BB%91%20Ho%C3%A1/chinh%20sach%20ty%20gia%20hoi
%20doai.pdf
29. https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?
ID=1943&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh
%20k%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
30. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/xuat-nhap-khau-nam-
2020-no-luc-va-thanh-cong/
45
Nhóm 9 - KTVM

31. https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?
ID=1944&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh
%20k%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch
32. https://cafef.vn/5-thang-nhap-sieu-369-trieu-usd-khong-dang-ngai-
2021060307263123.chn
33. https://cafef.vn/am-anh-nhap-sieu-quay-tro-lai-2021060207584096.chn
34. https://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/tac-dong-cua-ty-gia-hoi-doai-den-can-can-
thuong-mai-viet-nam-hien-nay-138529.html
35. https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/nam-2021-xuat-nhap-khau-hang-hoa-viet-
nam%C2%A0se-but-pha-331918.html

46

You might also like