Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: ĐẬU NÀNH VÀ SẢN PHẨM LÊN MEN TỪ ĐẬU NÀNH 3 1.

1 Khái quát chung về đậu


nành 3 1.1.1 Giới thiệu về cây đậu nành 3 1.1.2 Giá trị dinh dưỡng của cây đậu nành 3 1.2 Các sản phẩm
từ đậu nành 4 1.2.1 Đậu phụ 4 1.2.2 Chao 5 1.2.3 Nước chấm 5 1.2.4 Tương 5 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM
CHUNG CỦA VI SINH VẬT ỨNG DỤNG TRONG LÊN MEN ĐẬU NÀNH 6 2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng các sản phẩm lên men 6 2.2 Vi sinh vật thường có trong lên men đậu nành 6 2.3 Vi sinh vật trong
sản xuất tương 7 2.4 Vi sinh vật trong sản xuất nước chấm 7 2.5 Vi sinh vật trong sản xuất nước chao 8
CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT LÊN MEN TỪ ĐẬU NÀNH 9 3.1 Sản xuất chao 9
3.1.1 Tổng quan về chao 9 3.1.2 Quy trình làm chao Việt Nam 9 3.1.3 Sản xuất chao theo phương pháp
hiện đại 10 3.1.4 Chất lượng và bảo quản chao 11 3.2 Sản xuất nước chấm 15 3.2.1 Quy trình làm nước
chấm 15 3.2.2 Giải thích quy trình 17 3.3 Sản xuất tương 20 3.3.1 Kỹ thuật sản xuất tương thủ công 20
3.3.2 Kỹ thuật sản xuất tương công nghiệp 21 3.3.3 Giá trị dinh dưỡng của tương 23 3.3.4 Chất lượng và
bảo quản tương 23 3.4 Sản xuất sữa chua từ đậu nành 24 3.4.1 Quy trình chế biến sữa chua đậu nành
thủ công 24 3.4.2 Giải thích quy trình 25 3.4.3 Giá trị dinh dưỡng của sữa chua đậu nành 27 KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 1 : ĐẬU NÀNH VÀ SẢN PHẨM LÊN MEN TỪ ĐẬU NÀNH 1.1. Khái quát
chung về đậu nành 1.1.1. Giới thiệu về cây đậu nành Đậu nành là một loại cây trồng ngắn ngày, có nhiều
tác dụng như: cung cấp thực phẩm cho người, nguyên liệu cho công nghiệp, thức ăn cho gia súc, nông
sản xuất khẩu. Đậu nành là cây lấy hạt, cây có dầu quan trọng của thế giới, đứng thứ tư sau cây lúa mì,
lúa nước và ngô. 1.1.2. Giá trị dinh dưỡng của đậu nành Đậu nành được nhiều nhà khoa học xem như là
chìa khóa để giải quyết nạn thiếu protein trong dinh dưỡng của con người. Hạt đậu nành có ba bộ phận:
vỏ hạt chiếm 8% trọng lượng hạt, phôi chiếm 2%, tử diệp chiếm 90%. Thành phần hóa học của đậu nành
thay đổi tùy loại, thời tiết, đất đai, điều kiện trồng trọt. Có loại chứa hàm lượng protein lớn hơn 50%,
lipid lớn hơn 22%. * Protein và thành phần acid amin : Hàm lượng protein dao động trong hạt từ 29,6–
50,5%, trung bình là 36–40%. Về giá trị protein, đậu nành dễ tan trong nước và chứa nhiều acid amin
không thay thế như lysin, tryptophan. Trừ methionin và cystein hơi thấp còn các acid amin khác của đậu
nành có thành phần giống thịt. * Lipid : Chất béo trong đậu nành dao động từ 13,5–24%, trung bình
18%. Chất béo đặc trưng chứa khoảng 6,4–15,1% acid béo no (acid stearic, acid acid archidonic) và 80–
93,6% acid béo không no (acid enoleic, acid linolenic, acid oleic). * Carbohydrates : Glucid trong đậu
nành khoảng 22–35,5%, trong đó 1–3% tinh bột. Carbohydrates được chia làm 2 loại: loại tan trong
nước chiếm khoảng 10% và loại không tan trong nước. * Chất tro : Chất tro trong đậu nành từ 4,5–6,8%.
Ngoài ra còn có các nguyên tố khoáng khác: Al, Fe, I, Mn, Cu, Mo… * Vitamin : Đậu nành chứa nhiều
vitamin khác nhau, trừ vitamin C và vitamin D. * Một số enzyme trong đậu nành : Urease: chống lại sự
hấp thụ các chất đạm qua hàng ruột do đó không nên ăn đậu nành sống. Lipase: thủy phân glyceric tạo
thành glycerin và acid béo. Phospholipase: thủy phân ester của acid acetic. Amylase: thủy phân tinh bột,
b-amylase trong đậu nành với số lượng khá lớn. Lipoxygenase: xúc tác phản ứng chuyển H2 trong acid
béo. 1.2. Các sản phẩm chế biến từ đậu nành 1.2.1. Đậu phụ Đậu phụ là một sản phẩm được sản xuất từ
đậu nành. Đậu phụ có nhiều dạng khác nhau, chính vì thế mà cũng có tên gọi khác nhau. Tất cả các dạng
và tên gọi khác nhau trên đều chia làm ba loại: loại mềm, loại cứng, loại đậu phụ lụa. 1.2.2. Chao Chao là
sản phẩm lên men được sản xuất từ đậu nành. Chao có nhiều sản phẩm khác nhau như chao nước, chao
đặc, chao bánh và chao bột. Do quá trình lên men, các enzim của vi sinh vật tham gia thủy phân protein
thành các axit amin, lipit thành các este thơm nên chao có giá trị dinh dưỡng cao và có mùi vị rất đặc
trưng. 1.2.3. Nước chấm Nước chấm là tên chung chỉ các loại gia vị dạng lỏng chứa chủ yếu là axit amin,
muối ăn và hương vị đặc trưng. Nước chấm được sản xuất từ các nguyên liệu giàu protein và bằng hai
phương pháp: vi sinh vật, hóa học. 1.2.4. Tương Tương là một sản phẩm lên men từ các nguồn nguyên
liệu giàu gluxit và giàu đạm. Đây là một dạng thực phẩm cổ truyền của Việt Nam. CHƯƠNG 2 : ĐẶC ĐIỂM
CHUNG CỦA VI SINH VẬT ỨNG DỤNG TRONG LÊN MEN ĐẬU NÀNH 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng các sản phẩm lên đậu nành Chất lượng giống vi sinh vật. Chất lượng nguyên liệu. Điều kiện môi
trường lên men như độ ẩm, nhiệt độ, pH... Các thao tác trong quy trình sản xuất, điều kiện sản xuất. 2.2.
Vi sinh vật thường có trong lên men đậu nành Trong lên men đậu nành chủ yếu là các quá trình thủy
phân protein, gluxit nên trong lên men đậu nành chủ yếu là các quá trình thủy phân protein, gluxit thành
các phân tử nhỏ hơn dưới tác dụng của các enzim. Các enzim này chủ yếu do các nấm mốc sinh tổng
hợp. Hai enzim chủ yếu là amylaza và proteaza: Amylaza thủy phân tinh bột đường và các dextrin có
phân tử lượng nhỏ. Proteaza thủy phân protein thành các axit amin và các peptit có phân tử lượng nhỏ.
Các loài nấm mốc: Mucor, Aspergillus, Rhizopus thường có hoạt tính amylaza và proteaza cao, phát triển
nhanh nên thường được dùng trong các sản phẩm lên men đậu nành. Ngoài ra, trong quá trình lên men
đậu nành còn có các vi sinh vật sản sinh sản phẩm lên men nhờ quá trình trao đổi chất. Điển hình như vi
khuẩn lactic chuyển hóa đường thành axit latic, kết quả làm cho thực phẩm có vị chua của axit latic. Một
số vi khuẩn khác qua quá trình trao đổi chất tạo hương cho sản phẩm. Tóm lại, trong lên men đậu nành,
vi sinh vật chủ yếu là nấm mốc và vi khuẩn. 2.3. Vi sinh vật thường có trong sản xuất tương Để làm mốc
tương trước đây người ta vẫn nhờ vào các bào tử nấm mốc có trong không khí, đất, nước hoặc trong các
dụng cụ nhiễm vào khối bột và phát triển. Trong hệ nấm mốc 10 loài sau thường gặp với số lượng lớn
trên mốc tương : Mucor mucode, M.rouxii, Rhizopus nigricans, Aspergillus oryzae, A.flavus, A.niger,
Penicillum prolatum, P.expansum, Monilia sitophila, Trichoderma lignorum ... Trong quá trình ủ mốc thủ
công, ta thấy trên xôi bắt đầu mọc mốc trắng, xám nhạt. Qua màu sắc này, bằng mắt thường, ta có thể
phân biệt những loài nấm mốc nào đã phát triển. Mốc đen xám với hệ sợi như mạng nhện là do Mucor,
Rhizopus, Syneephalastrum. Mốc đen hoặc đen nâu là do Aspergillus niger. Mốc xanh chủ yếu do
Penicillum và Trichoderma lignorum. Mốc đỏ gạch là Monilia sitophila. Những loại mốc đen đỏ này đều
không thích hợp cho sản xuất tương. Mốc tương thích hợp thì cần các yêu cầu : phát triển nhanh, có
hoạt tính amylase và protease cao, màu sắc đẹp, không cho mùi mốc mạnh, không hình thành độc tố và
các chất kháng sinh có hại. Thì người ta thấy rằng chủng nấm mốc Aspergillus oryzae đáp ứng được
những điều này. Người ta còn gọi loại mốc này là mốc vàng hoa hòe hay hoa cau. Ngoài ra, trong sản
xuất tương, còn có sự xuất hiện của vi khuẩn Bacillus subtilic trong giai đoạn ngâm nước đậu. 2.4. Vi sinh
vật trong sản xuất nước chấm Trong sản xuất công nghiệp, điều cần thiết phải tạo được giống vi sinh vật
thuần chủng. Giống vi sinh vật đưa vào sản xuất phải đảm bảo các điều kiện sau: Có ảnh hưởng tốt đến
sự tạo hương. Có hoạt lực proteaza cao. Không được chứa độc tố Aflatoxin. Giống nấm mốc dùng trong
sản xuất nước chấm có thể là: A. Oryzae, A. Sojae, A. teriol, A. mellieus, A. niger, A. ochracus ... Hình 2.1 :
Apergillus oryzae 2.5. Vi sinh vật trong sản xuất chao Giống tốt nhất trong sản xuất chao là Actinomucor
elegans. Việc chọn giống là rất quan trọng. Tiêu chuẩn đối với một chủng vi sinh vật để sản xuất chao
như sau: Khuẩn ty thể của nấm phải tròn, bóng, có màu trắng hoặc màu hơi vàng để chao sản xuất ra có
màu đặc trưng. Cấu trúc của sợi nấm phải chặt, dày, tạo một lớp màng vững chắc trên mặt bánh đậu để
giữ được hình dạng ban đầu. Không tạo ra mùi vị khó chịu do nấm bị nhiễm. Tạo được enzyme có hoạt
tính thủy phân đạm cao. Vì thế muốn chao có chất lượng tốt, sản phẩm ổn định phải có VSV thuần
chủng và tạo các điều kiện tối thích như nhiệt độ, độ ẩm, môi trường, pH, … Hình 2. 2 : Khuẩn lạc
Actinomucor elegans CHƯƠNG 3 : ỨNG DỤNG VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT LÊN MEN TỪ ĐẬU NÀNH
3.1. Sản xuất chao 3.1.1. Tổng quan về chao Chao là một sản phẩm lên men từ sữa đậu nành đông đặc
do vi sinh vật tiết ra enzyme để chuyển biến protein, chất béo, gluxit có trong sữa đậu nành thành
những phân tử đơn giản như axit amin, axit béo, các đường đơn. Nhờ vậy chao có mùi thơm, béo đặc
biệt. Về mặt dinh dưỡng chao có đầy đủ các chất bổ dưỡng của sữa đậu nành, nhưng dễ tiêu hóa vì các
protit, lipid, gluxit đã được các enzyme của vi sinh vật chuyển hóa ra các phân tử đơn giản sẵn sàng
được tiêu hóa và hấp thụ. 3.1.2. Qui trình làm chao Việt Nam Chao Việt Nam sản xuất theo phương pháp
truyền thống có ba giai đoạn: 3.1.2.1. Làm miếng chao : Đậu nành tốt, đều hạt được ngâm qua đêm (5-6
giờ tuỳ tình trạng của đậu). Đậu được xay dưới dòng nước và thu được một khối lỏng, mịn. Lược qua vải
thô để loại bỏ phần bã, còn lại là phần sữa lỏng. Pha thêm nước cho đủ tỷ lệ một phần đậu, mười phần
nước và nấu dung dịch sữa lỏng này trong vòng 30 phút cho sôi chín và bốc mùi thơm. Dung dịch sữa
lỏng để nguội xuống 500C và dùng nước chua để cô kết. Nước chua là nước ép của miếng chao để cho
chua lên men lactic và thêm axit. Khi cô kết hoàn toàn, khối kết đã đứng yên, phần nước ở trên được
hút ra, phần đặc được cho khung gỗ có bề dày 2 – 2.5 cm, có vải mịn, dùng vật nặng ép lên để loại bỏ
hết nước, có được đậu hủ. 3.1.2.2. Lên mốc chao : Các miếng chao được xếp vào khay có đục lỗ dưới
đáy và được xếp cách đều nhau một khoảng cần thiết cho thông thoáng để mốc chao mọc đều khắp trên
bề mặt của miếng chao. Đem các khay xếp vào phòng ủ và được xếp cách đều cho thông thoáng. Khi
miếng chao đã phủ các khuẩn ty từ trắng, ngả sang vàng xám là được. Không có mốc xanh, mốc đen
phát triển, không có mùi khó ngửi là miếng chao tốt – có hàm lượng nước 74%, đạm tan 2,3%, đạm
không tan 10,4% và béo 4,3%. 3.1.2.3. Để chao chín : Khi mốc chao đã đủ chín, có mùi đặc trưng của
chao, không có mùi úng thúi thì đem sắp vào keo, lọ để đổ dung dịch mặn vào và tiếp tục cho chao chín.
Sau đó, hấp keo chao ở lò nóng để thanh trùng trước khi phân phối tiêu dùng. Chao có mùi chua đặc
trưng không có mùi thúi hoặc hôi. Vị của chao béo, thơm và hơi chua, dịu, không có vị đắng, tanh hoặc vị
khó chịu nào khác. Chao làm từ nước chua lên men lactic ở 410C có hàm lượng đạm toàn phần, tính trên
chất khô khoảng 55%, từ axit acetic hàm lượng đạm có thể lên đến 57,1% và so với cô đặc bằng calcium
sulfat là 54% tính trên chất khô. 3.1.3. Sản xuất chao theo phương pháp hiện đại 3.1.3.1. Qui trình sản
xuất : Hình 3.1.3.1 : Quy trình sản xuất chao nước 3.1.3.2. Giải thích qui trình : á Chuẩn bị đậu phụ chao :
Đậu nành qua lựa chọn đem phơi khô, rửa sạch rồi ngâm nước khoảng 5–6 giờ để vỏ đậu mềm, sau đó
xả nước và đãi cho tróc bớt vỏ đi. Xay ướt trong cối đá đến khi được dịch sữa đậu nành. Để đảm bảo
đậu phụ chao không chứa vi sinh vật tạp và vi sinh vật kị khí, sữa phải được đun sôi ngay và giữ ở nhiệt
độ này trong 5 phút, sau đó lọc qua vải màn để tách phần bã còn lại. Kết tủa protein là công đoạn đông
tụ sữa đậu thành hoa đậu bằng cách đưa dịch sữa đậu về khoảng pH của protein đậu nành (pH » 4).
Dùng CaSO4, MgSO4 hoặc nước chua . Lưu ý : Lượng tác nhân kết tủa để sản xuất đậu phụ chao cao hơn
20% so với sản xuất đậu phụ thường, vì vậy bánh đậu này rắn chắc hơn bánh đậu ăn hàng ngày rất
nhiều. Lượng protein kết tủa khoảng 2.5–3.5% khối lượng chất khô ban đầu của đậu nành. Bánh đậu có
chất lượng tốt là bánh đậu sau khi ép xong phải rắn chắc, lấy dao cắt để lại vết cắt mịn, không có lỗ rỗng.
Thành phần bánh đậu là tốt nhất: hàm lượng nước nhỏ hơn 60% tuy nhiên thông thường hàm ẩm
khoảng 63–72%, pH = 6–6.5. á Nuôi mốc Actinomucor elegans : Điều kiện nuôi cấy Actinomucor
elegans : Nhiệt độ và độ ẩm tương đối của không khí tối ưu cho sự phát triển của Actinomucor elegans
là 250C và 90 – 97%. Những giờ đầu phải nuôi ở độ ẩm 90%, sau 14 – 16 giờ nuôi trên bề mặt đậu xuất
hiện những khuẩn ty màu trắng ta phải đưa hàm ẩm lên 95%. Phòng nuôi mốc phải có thiết bị điều chỉnh
nhiệt độ, giữ được ẩm và nền phòng phải có khả năng thoát nước. Actinomucor elegans là sinh vật hiếu
khí, chỉ phát triển bình thường khi có đầy đủ oxi. Để đáp ứng điều kiện này môi trường nuôi phải thoáng,
cụ thể là 100kg bánh đậu dùng để nuôi mốc cần có dung tích 6 – 7 m3 khí trên diện tích 2m2. Là giai
đoạn quan trọng nhất trong quá trình sản xuất chao. Trước khi cấy mốc, bánh đậu cần được xử lý nhiệt
để tiêu diệt vi sinh vật tạp nhiễm. Có thể chần nước sôi hoặc sấy ở 100oC trong 15 phút. Mốc chao sau
khi đã được sản xuất ở dạng bào tử, cấy trực tiếp vào bánh đậu không cần phải thêm chất dinh dưỡng
nào khác, ta có thể cấy giống mốc vào bánh chao bằng máy hoặc thủ công. Khống chế hàm ẩm thích hợp
với điều kiện sinh trưởng và phát triển của nấm mốc là vấn đề hết sức phức tạp, phải nắm vững 3 yếu tố
có liên quan mật thiết với nhau để điều chỉnh cho thích hợp. Hàm ẩm của bánh đậu sau khi ép. Hàm ẩm
của phòng nuôi mốc. Hàm ẩm của không khí. Nuôi mốc đúng kỹ thuật sau 36–42 giờ mốc có hoạt lực
thủy phân protein cao nhất là 2.8–3.5 đơn vị protease. Khi thấy mốc chuyển từ màu trắng sang màu
hung nâu là kết thúc giai đoạn nuôi mốc. Để việc nuôi mốc tốt cần lưu ý phòng nuôi mốc phải có thiết bị
điều chỉnh nhiệt độ (10–200C), giữ được ẩm và nền phòng phải có khả năng thoát nước. Một phòng chỉ
nên nuôi mốc trong 1000kg đậu. Thông thường đối với các phòng thông gió tự nhiên 100kg bánh đậu
dùng để nuôi mốc cần có dung tích 6–7m3 khí trên diện tích 2m2. á Ướp muối : Ngừng sự phát triển của
nấm mốc, chuẩn bị chuyển sang lên men. Đậu phụ chao lên mốc được chuyển vào các hũ sành lớn. Xếp
vào hũ sành cứ một lớp đậu một lớp muối. Lượng muối thích hợp để ngâm là 130–150g/kg bánh đậu đã
mọc mốc. Đến lớp đậu cuối cùng thì phủ một lớp kín bề mặt đậu. Muối để ướp phải sạch. Thời gian ướp
muối khoảng 24 giờ sau đó các miếng đậu được lấy ra, rửa nước sạch và xếp vào hũ khác để chế biến.
Ngoài phương pháp ướp muối, còn có phương pháp nhúng muối, thực hiện như sau: chuẩn bị dung dịch
muối có nồng độ 300–320g/l và nhúng bánh đậu đã lên men trong liên tục 6–7 giờ thì nhấc lên, để khô
24 giờ, sau đó cho vào thiết bị lên men. á Lên men và chế biến : Sau nuôi mốc, lên men là công đoạn rất
quan trọng, giai đoạn này quyết định chất lượng của sản phẩm. Trong giai đoạn này các enzyme của nấm
mốc sẽ tham gia hàng loạt các phản ứng sinh hóa, mà chủ yếu là protease với sự thủy phân protein
thành các acid amin, lipid và các ester thơm, tạo thành các sản phẩm và hương vị đặc trưng cho chao.
Hương vị này do 4 nhóm chính tạo nên: các acid amin và NH3, các sản phẩm thủy phân protein, các acid
béo, và methylacetone. Đầu tiên phải chuẩn bị hỗn hợp áo ngoài (dressing mixture), các hỗn hợp này rất
đa dạng vì có rất nhiều loại chao. Xếp lần lượt từng lớp đậu và hỗn hợp áo ngoài vào hũ đến 80% thể
tích hũ, sau đó cho vào dung dịch nước muối nồng độ khoảng 20%. Sau đó cho thêm rượu trắng vào,
mục đích chính là để bảo quản: chống vi sinh vật, đặc biệt là vi sinh vật gây thối. Các hũ sành được đậy
bằng nắp gỗ và ủ kín trong vòng 3 tháng. Trong phương pháp truyền thống, đậu phụ được đem phơi
nắng khoảng vài giờ, mục đích là tận dụng UV của ánh sáng mặt trời tiệt trùng bề mặt đậu phụ. Tuy
nhiên phương pháp này sẽ dẫn đến tổn thất do sự phân hủy của đậu phụ. Hình 3.1.Actinormucor
elegans phát triển trên bánh đậu 3.1.4. Chất lượng và bảo quan chao Hiện nay ở Việt Nam chủ yếu sản
xuất chao theo phương pháp thủ công, dân gian nên rất dễ bị nhiễm vi sinh vật nhất là vi khuẩn nên
phẩm chất chao thường xảy ra có mùi hôi thúi, vị đắng. Chất lượng sản phẩm không đồng đều. Do đó
theo phương pháp truyền thống, các công đoạn diệt khuẩn rất cần thiết và phải lựa chọn, xử lí nguyên
liệu thật kĩ. Giải pháp tốt nhất là chuyển sang sản xuất công nghiệp, sản xuất chao theo phương pháp
hiện đại để chất lượng sản phẩm tốt và ổn định hơn. 3.2. Sản xuất nước chấm 3.2.1. Quy trình công
nghệ Nước 2 Khô đậu Nghiền nhỏ Trộn nước Ủ Hấp Làm nguội Cấy giống Nuôi nấm mốc Đánh tơi Trộn
nước Trích ly Nước 1 Bã Ngâm Trích ly Phối chế Thanh trùng Nước chấm thành phẩm Nước muối Bã
Nước muối Giống trung gian Hình 3.2.1 : Quy trình sản xuất nước chấm 3.2.2. Giải thích quy trình
3.2.2.1. Xử lý nguyên liệu : Công đoạn xử lý nguyên liệu được thực hiện qua các bước chính như sau:
Nghiền nhỏ: nhằm mục đích tăng khả năng xúc tác của enzym thủy phân. Kích thước hạt sau khi xay
xong là 1mm là tốt nhất. Hình 3.2.2. Thiết bị nghiền 1: vỏ thiết bị nghiền 4: cửa máy nghiền 2: đĩa quay
5: trục động cơ 3: cánh nghiền 6: má nghiền Mục đích : Nguyên liệu sẽ được làm nhỏ trước khi thực hiện
những bước tiếp theo. Cấu tạo : Gồm 1 động cơ gắn liền với trục có các cánh nghiền. Trong khoang
nghiền có cánh nghiền và má nghiền , ngoài ra còn có bảng hệ thống điều khiển và đường ống dẫn nước
để vệ sinh thiết bị. Nguyên lý hoạt động : Nguyên liệu sau khi rửa sạch,(nguyên liệu có kích thước lớn thì
thái trên của thiết bị nghiền. Nhờ động cơ có cánh nghiền, nguyên liệu được băm miếng thích hợp) được
đưa đến cửa nghiền ở phía và ép vào má nghiền. Qua các lỗ nhỏ trên má nghiền, nguyên liệu ra ngoài
theo cửa ra ở phía dưới của thiết bị. Phối liệu và trộn nước: trộn 90% khô đậu đã được xay nhỏ với 10%
bột bắp hoặc bột mì. Hấp chín: nhằm mục đích tiêu diệt vi sinh vật đồng thời làm thay đổi đặc tính lý
hóa học của bột, giúp cho nấm phát triển tốt hơn. 3.2.2.2. Nuôi nấm mốc Apergillus oryzae : á Các điều
kiện nuôi cấy A.oryzae như sau : Độ ẩm môi trường là khoảng 55-58% thích nhất cho sự hình thành
enzyme. Độ ẩm cho sự hình thành bào tử là khoảng 45%. Cần giữ cho độ ẩm môi trường không bị giảm .
Độ ẩm tương đối của không khí từ 80% trở lên đến bão hoà đều thích hợp cho nấm mốc . Ảnh hưởng
không khí: A.oryzae là sinh vật hoàn toàn hiếu khí, chỉ phát triển bình thường khi có đầy đủ oxi. Để đáp
ứng điều kiện này môi trường nuôi phải xốp, rải thành lớp không dày quá 2,5-3 cm, phòng nuôi phải
thoáng. Ảnh hưởng của nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho mốc phát triển và hình thành enzyme là
khoảng 28-320C. Nhiệt lượng do nấm mốc toả ra mạnh nhất là từ giờ thứ 14 - 19 . Do nhiệt môi trường
toả ra có thể lên tới 400C, cần giữ nhiệt độ từ 28-320C. Thời gian nuôi mốc hầu hết các chủng A.oryzae
có hoạt động cực đại của amylase ở khoảng giờ thứ 30-36 rồi sau đó cực đại protease từ giờ thứ 36-40.
Thời gian nuôi mốc giống thường hết 60-70h . pH : thích hợp cho A.oryzae là môi trường axít yếu 5.5
-6.5. Các môi trường từ cám gạo ngô thường có sẵn pH ở khoảng này nên không cần điều chỉnh . Trong
tế bào của Aspergillus oryzae có chứa ít nhất là 23 enzim: α – Amilaza, β – Amilaza, Maltaza, Lactaza,
Proteaza, Peptidaza, Dipeptidaza, Renin, Pectinaza, Pectozanaza, Lipaza, Xellulaza, Pirophosphataza,
Phosphomonoesteraza, Phophodiesteraza, Tannaza, Catalaza, Nucleaza, Fitaza, Trehalaza, Amidaza,
Xitaza, Sulfataza. á Mục đích : Nuôi nấm mốc nhằm thu nhận được số lượng và chất lượng enzym
proteaza cao. Thường nuôi mốc ở 28 – 32oC và độ ẩm không khí 85 – 90%. Quá trình phát triển của nấm
mốc có thể chia ra làm ba giai đoạn: Giai đoạn 1: sau khi cấy giống 8 – 10 h, ta thấy nhiệt độ tăng dần
Giai đoạn 2: sợi nấm sẽ phát triển mạnh, nhiệt tạo ra nhiều và hệ sợi thường kết thành tảng. Giai đoạn
3: sau 24h bào tử của nấm mốc chuyển sang vàng hoa cam. 3.2.2.3. Lên men hoặc thủy phân : Trong quá
trình thủy phân chịu ảnh hưởng ba yếu tố: Lượng muối, Nhiệt độ thủy phân, Lượng nước cần thiết cho
quá trình thủy phân. Ở các xí nghiệp sản xuất nước chấm cho thấy lượng nước cho vào tốt nhất thường
là 30 – 40% so vớ

You might also like