Professional Documents
Culture Documents
Tâm bệnh học
Tâm bệnh học
3. HVBT là hành vi khiến cho người ta cảm thấy bất an, tội lổi, lo âu, mặc cảm, đau khổ.
Định nghĩa này có hạn chế vì trong một số trượng hợp rối loạn tâm lí đặc biệt người bệnh cảm
thấy phấn chấn tâm trạng đạt đỉnh cao.
4. HVBT là hành vi thiếu khả năng thích ứng xã hội.
Theo định nghĩa này nếu người nào không sống chung( hòa hợp) người khác, không có khả
năng nuôi sống bản thân thì được xem là bất thường.
Vd: trong một tập thể xấu , có một cá nhân tốt tìm mọi cách để tách ra (không hòa hợp)- không
thể xem họ có hành vi bất thường.
• Trong thực tế để nhận biết HVBT người ta thường sử dụng các dấu hiệu sau:
- Hành vi khó dự đoán trước được.
- Lệch khỏi chuẩn mực xã hội, từ chối những điều mà người ta thường mong đợi.
- Kém thích ứng.
- Có cảm giác tội lổi, mặc cảm.
- Làm thương hại đến người khác.
- Hành vi khó hiểu và phi lí.
Nếu hành vi nào rơi vào nhiều dấu hiệu thì độ hiệu quả chính xác nhận diện HVBT càng cao.
Chú ý: khi nhận diện hành vi bất thường ta cần chú ý đến yếu tố văn hóa- lịch sử- xã hội.
có ảnh hưởng sâu sắc những hành động hiện thời. Cũng vì lí do đó mà họ cho rằng “ đứa bé là cha
của người lớn”.
2. Tâm lí học hành vi:
Do J.B Watson ( 1878- 1958)
S (kích thích) Não người R ( hành vi)
Stimulant Reaction
Theo Watson : Từ R có thể dự đoán được S từ đó : Thưởng - Phạt.
Người Mỹ có câu : “ Không có gì không mua được chỉ chưa trả đúng và trả đủ mà thôi”.
Rơi vào môi trường chủ nghĩa cực đoan.
Tâm lí học hành vi là:
Thực dụng.
Cơ giới hóa hành vi con người.
Có lúc xem phản ứng của con người như phản ứng của con vật.
Đồng nhất hành vi bên ngoài với nội dung tâm lí bên trong.
- Ưu điểm lớn nhất: Việc chọn đối tượng nghiên cứu sẽ làm cho việc nghiên cứu khách quan
hơn vì hành vi có thể quan sát được. Thấy được vai trò của môi trường trong việc chi phối
hành vi.
** Theo quan điểm hành vi : con người bất thường, con người rối loạn tâm lí là do những hành vi
bất thường và cái cần chữa trị là hành vi. Theo lý thuyết này, hành vi được xem là phản ứng tập
nhiễm ( hành vi lặp đi lặp lại thành thói quen) trong quá khứ or là được phát sinh do những “ kích
thích” trong cuộc sống của con người.
Để tìm hiểu hành vi của bất thường cần phải tìm hiểu họ đã tập nhiễm hành vi đó như thế nào và
tìm hiểu hoàn cảnh S nào để tạo ra hành vi R của con người.
Sự nhấn mạnh yếu tố hành vi cũng là ưu điểm và cũng là nhược điểm lớn nhất của quan điểm
hành vi. Tuy nhiên quan điểm này được xem là quan điểm khách quan nhất trong việc chuẩn đoán
hành vi bất thường và đã họ đã xây dựng được kỹ thuật chữa trị thành công những hành vi bất
thường.
3. Quan điểm nhận thức :
Đại biểu : J. Piaget…
Quan điểm này cho rằng : Chính nhận thức, suy nghĩ, niềm tin là nguồn gốc phát sinh hành vi
con người.
HVBT do nhận thức sai lầm , ý nghĩ sai lầm.
Mục tiêu căn bản chữa trị là: Chỉ cho người ta một lối tư duy, nhận thức cái mới phù hợp với
thực tế hơn.
Vd: 1 học sinh phổ thông có suy nghĩ sai lầm : “ con đường vinh quanh nhất để bước vào đời là
cánh cửa của trường Đại Học”…
Chữa trị:
- Tranh luận.
- Thuyết phục ( chỉ ra được những ưu điểm năng lực, phẩm chất của người có hành vi bất
thường).
4. Quan điểm nhân văn:
Maslow ( - 1970)
Tháp nhu cầu (….)
- Bản chất con người là thiện, là tốt.
- Ai cũng có tìm năng và giá trị nhất định.
- Mỗi người có quyền lựa chọn cho mình 1 cách sống miễn là họ thấy hạnh phúc.
- Con người là 1 thực thể độc đáo không giống bất kì mọi loại động vật nào.
- Mỗi một cá nhân là một thực thể độc đáo không giống bất kì ai.
Tâm lí học Nhân văn luôn đề cao sự sáng tạo của con người, tôn trọng sự sáng tạo và kêu gọi con
người sống bằng cái tôi đích thực của mình. Có như vậy cuộc sống mới hồn nhiên, sống đúng chất
của mình.
“ Hãy là chính mình”
“ Hãy là những gì chính gì bạn suy nghĩ”.
• Hạn chế:
- Đề cao chủ nghĩa cá nhân.
- Đề cao sự thể nghiệm chủ quan bản thân mỗi người có khi vào chổ lố bịch, phản cảm dẫn tới
xa rời cộng đồng, tập thể.
- Con người trong Tâm lí học nhân văn là con người trong mơ ước, trừu tượng chỉ có trong thơ
ca mà thôi, thoát li khỏi thực tế.
“ Nhưng thử 1 giây, 1 giờ, 1 ngày ta sống chính mình thì ta cảm thấy hạnh phúc”.
• Theo Tâm lí học nhân văn :
Con người bị rối loạn tâm lí, tâm bệnh là do:
- Do bị ràng buộc, nhu cầu không được thể hiện.
- Do bị đau khổ vì họ sống không là chính mình.
- Nổ lực 1 cách căng thẳng để được chấp nhận có điều kiện.
- Bản ngã không phù hợp với bản thân và xã hội.
Vd: Cô A nghĩ mình đẹp nên khi đến đám đông không ai nhìn theo cô cho nên cô buồn bực tức
giận.
Nghĩ mình đep Bản ngã.
5. Quan điểm văn hóa xã hội:
Cho rằng: Hành vi con người được hình thành bởi tầng lớp xuất thân của gia đình, bởi sự tác
động của nền văn hóa xã hội mà con người đang sống, chính môi trường sống đã kích thích và di trì
hành vi bất thường. Một số người còn cho rằng những người có hành vi vi phạm các quy tắc chuẩn
mực xã hội có thể bị xã hội coi là bất thường nhưng chính ra là xã hội đang bất ổn.
Vd: Trong đời sống kinh tế -xã hội- văn hóa do sự khác biệt về văn hóa những người da đen
thường được cưỡng bức nhập viện ( tâm thần) vì các bác sĩ tâm thần và các chuyên gia tâm lí là
những người da trắng.
Vì có mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố văn hóa xã hội với các hành vi bất thường của các
con người. Nhưng nó không hướng đến chữa trị trực tiếp những cá nhân có hành vi bất thường mà
hướng vào cải tạo các nhân tố xã hội rộng lớn.
Cách trả lời: Bệnh nhân phải giáp mặt, đương đầu với các xung đột và xung lực đưa chúng ra
khỏi tầng vô thức, hiện ra ở tầng ý thức. Nói cách khác nhà chuyên môn phải làm sống lại nó và
giải quyết nó một cách thấu đáo. Và các nhà Phân tâm sử dụng các kỹ thuật sau đây:
** Kỹ thuật liên kết tự do:
Trong đó bệnh nhân được khuyến khích theo dòng suy nghĩ, ý tưởng đang có trong đauù của
họ, bệnh nhân được nói tự do, nói ra những gì hiện có trong đầu của họ cho dù điều đó không thích
hợp hay vô nghĩa.
Phân tâm học cho rằng: Những chổ không mạch lạc hoặc ngập ngừng là đầu mối quan trọng để
tìm hiểu vô thức.
Nhiệm vụ của nhà phâm tâm là: Liên kết những câu nói tự do tững chừng như vô nghĩa đó rồi
xâu kết lại thành câu chuyện gây xung đột trong vô thức người bệnh.
** Kỹ thuật phân tích sự “ lở lời”:
Những chổ nào mà “lở lời” đó là đầu mối để tìm hiểu vấn đề.
Vd: Một nhà lãnh đạo trong buổi diển văn khai mạc. Nhưng ông ta lại “ lỏ lời” đọc bế mạc. Theo
phân tâm : Trong thâm tâm ông ta không muốn có cuộc họp này, đụng chạm đến quyền lực của
ông ta.
Ở đây “ lở lời” mà không phải “ lở lời”.
Sự lở lời xuất phát từ những mâu thuẫn trong vô thức được bộc lộ ra mà ý thức chưa kiệp kiểm
soát. Việc tìm hiểu việc “ lở lời” có thể tìm ra những nguyên nhân của tâm bệnh.
** Kỹ thuật phân tích giấc mơ:
Phân tâm học cho rằng: Con người không thỏa mản ở hiện thực sẽ được thỏa mản ở giấc mơ.
Phân tích giấc mơ có thể tìm kiếm được các đầu mối tạo ra xung đột vô thức có liên quan đến rối
loạn tâm lí hiện thực, bởi vì các biện pháp kiểm duyệt phê phán phòng vệ thượng bị giảm đi trong
khi ngủ. Nhưng ngay cả trong giấc mơ cũng vẩn cồn tình trạng kiểm duyệt, cho nên các sự kiện
trong giấc mơ thường được tượng trưng bởi các biểu tượng. Và công việc đầy khó khăn của nhà
phân tâm phải tìm ra được thông điệp trong những giấc mơ được ẩn tàng trong các biểu tượng đó.
Vd: Một cô gái mong có chồng đã mơ thấy cảnh chợ búa.
Biểu tượng : cảnh chợ búa ( đông đúc, mua sắm, gã bán -> “đám cưới)
Thông điệp : mong có chồng
** Kỹ thuật thôi miên:
Thôi miên là lôi kéo, thôi thúc con người vào giấc ngủ.
Giấc ngủ ở đây không hoàn toàn ( lơ mơ, chập chờn), bộ não ức chế không hoàn toàn, có những
vùng chưa ức chế.
Nhà phân tâm sẽ hỏi và có câu bệnh nhân sẽ trả lời một cách vô thức (tự động).
Câu trả lời đó là những thông tin đáng tin cậy để tìm hiểu vô thức.
Tóm lại : Chữa trị theo phương pháp phân tâm tốn kém nhiều thời gian và tiền bạc.
Trung bình 1-2 giờ một ngày, 4-6 ngày một tuần, điều trị 1-2 năm. Và trả tiền cho nhà phân tâm
theo giờ.
Hiện nay có khuynh hướng rút bớt thời gian chữa trị, thầy thuốc đóng vai trò quan trọng hơn
bằng cách thúc dục và khuyên bảo bệnh nhân nhưng thầy thuốc sẽ dẩn đến sớm kết luận, áp đặt và
chủ quan.
Phương pháp này thường phù hợp với một số bệnh nhân thuộc nhóm YAVIS ( young
actractive verbal intelligent succesful)
Bởi vì : họ :
+ Trẻ dể bộc lộ, dể chấp nhận, dể thay đổi
+ Lôi cuốn hấp dẩn tạo ra sự hưng phấn cho nhà phân tâm
+ Có năng khiếu ngôn ngữ diển tả được nội tâm
+ Thông minh nói nghe hiểu nhanh
+ Thành đạt có tiền để trả.
Do quá trình điều trị dài ngày giữa nhà phân tâm và bệnh nhân, có sự gần gũi, bệnh nhân có khi
xem nhà phân tâm là nhân vật đại diện hiện vật trong quá khứ của họ và biểu hiện tình cảm đặt biệt
đối vớir rà phân tâm. Đây thường gọi là hình tượng phóng chiếu. Phân tâm học gọi đây là tai nạn
nghề nghiệp.
người “thầy dạy học”. Người bệnh được tiếp nhận những thông tin về bản thân, thế giới để nhận ra
được những năng lực, phẩm chất của chính mình và những thông tin có ích xung quanh. Từ đó từ bỏ
những suy nghĩ thiếu chính xát của mình.
Vd: Một người sợ hãi khi đi máy bay, chỉ nghĩ đến nó thôi là đã toát mồ hôi và run người. Ta chữa
trị theo các bước:
B1: Liệt kê chữa trị theo thứ tự tăng dần:
- Nhìn thấy máy bay bay qua đầu
- Đi đến phi trường
- Mua vé máy bay
- Bước lê máy bay – nhìn cửa máy bay đóng lại
- Máy bay cất cánh
B2: Thư giản, tưởng tưởng theo mức độ sợ hãi tăng dần
Thư giản, thực hiện tiếp xúc các mức độ sợ hãi tăng dần.
Bài tập: Một thanh niên luôn sợ chốn đông người, hãy chữa trị hành vi bất thường trên theo kỹ
thuật giảm cảm thụ dần dần.
Giải:
B1: liệt kê các mức độ sợ hãi theo thứ tụ tăng dần.
Sơ đồ:
Xa nhóm nhỏ Cùng người thân
Một mình
Nhóm lớn Cùng người thân
Một mình
Gần Nhóm nhỏ Cùng người thân
Một mình
Nhóm lớn Cùng người thân
Một mình
Khoảng cách Tiếp xúc Nhóm nhỏ Cùng người thân
Một mình
Nhóm lớn Cùng người thân
Một mình
Hòa nhập Nhóm nhỏ Cùng người thân
Một mình
Nhóm lớn Cùng người thân
Một mình
- Khen thưởng tích cực: tạo ra một tình trạng thoải mái để khuyến khích lặp lại một hành vi đúng
nào đó.
- Khen thưởng tiêu cực: lấy đi một hậu quả tiêu cực để kích thích lặp lại một hành đúng nào đó.
- Trừng phạt tích cực: tạo ra một hậu quả khó chịu để ngăn ngừa một hành vi nào đó.
- Trừng phạt tiêu cực: lấy đi một tình trạng thoải mái để ngừa hành vi sai.
Vd: Người ta cho bệnh nhân đóng vai trò của người cha của người cha đang nổi giận sau đó diển
lại vai của mình khi người cha quát tháo, nhằm hiểu rõ các các khía cạnh khách nhau trong cuộc
xung đột nhờ đó bệnh nhân có thể hiểu rõ những rối loạn của mình theo một cách tổng thể hơn, bao
quát hơn.
5. So sánh các liệu pháp tâm li:
TT TIÊU CHÍ SO SÁNH CÁC BIỆN PHÁP TÂM LÍ TRẢ LỜI
1 Chi phối hay không chi phối Phân tâm Không chi phối
Hành vi Chi phối
Nhận thức Chi phối
Nhân văn Không chi phối
2 Kiểm soát yếu tố ( tác động) bên ngoài Phân tâm Bên trong
hay bên trong Hành vi Bên ngoài
Nhận thức Cả hai
Nhân văn Cả hai
3 Thời gian điều trị dài hay ngắn Phân tâm Dài nhất
Hành vi Tùy theo mức độ
Nhận thức Tùy theo mức độ
Nhân văn Tùy theo mức độ
4 Quan tâm đến lịch sử hay hiện tại Phân tâm Lịch sử
Hành vi Hiện tại
Nhận thức Cả hai
Nhân văn Hiện tại
5 Chỉnh sửa nội tâm hay cách cư xử Phân tâm Nội tâm
Hành vi Cư xử
Nhận thức Cả hai
Nhân văn Cả hai
- Tương tự đặc điểm tâm lí của thầy thuốc phù hợp với bệnh nhân đối với bệnh nhân thuộc
tuýp người nào đó có lẽ thích hợp hơn với liệu pháp này hơn liệu pháp khác.
II. Các biện pháp sinh học:
Phương pháp lùi về thời trước đó nhỏ hơn để tránh trách nhiệm người lớn hoặc để được vổ về an
ủi.
Vd: Giả đò ốm để được chăm sóc.
Trẻ múc tay khi mẹ sinh em bé
Giả đò hồn nhiên ngây thơ trong sáng.
9. Phương pháp hài hước:
Là phương pháp dùng sự hài hước để giảm bớt căng thẳng lo lắng.
Vd: học sinh trước phòng thi thường pha trò, đùa giởn để giảm bớt sự căng thẳng.
10. Cách các giải tỏa stress:
( Tùy theo từng người mà chọn những cách khác nhau)
a, Nói chuyện
Tìm người thân nhất, tri kỹ nhất, tín nhiệm nhất để dốc hết bầu tâm sự, có thể nói rất to, có thể nói
chuyện nhiều lần khi nào hết bầu tâm sự, hết khổ thì thôi.
b, Viết, vẽ
Có thể dốc nổi lòng qua các bức thư( không gởi), làm thơ, vẽ tranh, ghi nhật ký.
c, Vận động:
- Đi bộ
- Đá bóng
- Chơi thể thao
- Đập phá đồ vật hỏng, xé vải vụn
d, Khóc:
Tìm chổ yên tỉnh một mình gào khóc thật to thì hiệu quả càng cao.
e, Diển kịch:
Mượn một nhân vật nào đó trong một tuồng trích nào đó để nhập vai, để giải tỏa những buồn bực
của mình.
Note:
Các phương pháp phòng vệ tiêu cực, giúp chúng ta “hoản binh” tạm thời né tránh khi “kẻ định
mạnh” để tinh thần khỏi bị sụp đổ đợi áp lực giảm bớt, tinh thần tơ lại bình thường, đợi cho các điều
kiện thuận lợi đến chúng ta mới giải quyết vần đề là một cách lựa chọn khôn ngoan.
Nếu trong điều kiện không cho phép thì tìm cách đương đầu chỉ làm cho tình hình thêm xấu.
Mặc khác, nếu chúng ta chỉ dựa vào phương pháp phòng vệ tiêu cực và sử dụng nó lâu dài thì
không giải quyết được vấn đề mà còn rơi vào bế tắc.
The end