Bí Quyết Thi Đậu THPT Quốc Gia Môn Văn

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 430

NGUYÊN ĐÌNH CH IÊN

(C ao h ọ c T riế t, Đại h ọ c V ăn k h oa S ài Gòn)

quyêt
THI ĐẬU THPT QUỐC GIA

MÔN VẢN

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
16 Hàng Chuối - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Điện thoại: Biên tập - Chế bản: (04) 39714896;
Quản lý xuất bản: (04) 39728806; Tổng biên tập: (04) 39715011
Fax: (04) 39729436

C h ịu t r á c h n h iệ m x u ấ t b ả n :

G iám đốc - T ổ n g biên tập: T S . PH ẠM T H Ị TRÂ M

B iên tập: B Ù I TH Ư TRA N G

C h ế bả n: NHÀ SÁ CH H Ồ N G ÂN

T rìn h bày bìa: NHÀ SÁ CH H Ồ N G ÂN

Đối tác liên kết xuất bả n:

NHÀ SÁ CH HỒNG ÂN
20C Nguyễn T h ị M inh K h ai - Q1 - T P . Hồ C hí M inh

SÁCH LIÊN KẾT

BÍ Q lYẾr THI ĐẬIITHPT Qllỏc GIA MÔA VẢN

Mã số: 2L - 17ĐH2016
In 1.000 cuốn, khổ 17 X 24cm tại Công ti cổ phần Văn hóa Văn Lang.
Địa chỉ: Sô" 6 Nguyễn Trung Trực - P5 - Q. Bình Thạnh - TP. Hồ Chí Minh
Số xuâ"! bản: 299 - 2016/CXB,IPH/06-24/ĐHQGHN, ngày 27/01/2016.
Quyết định xuất bản sô": 96 LK-XH/QĐ - NXBĐHQGHN, ngày 28/01/2016.
In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2016.
Các em h ọc sin h thăn m ến!
Nhằm chuẩn bị cho các em học sinh tham dự vào kì thi THPT Quôc gia.
Chúng tôi biên soạn cuốn sách B í q u y ết t h ỉ đ ậ u T H P T Q u ốc g i a - m ô n Văn.
Nội dung cuốn sách bám sát vào chương trình giáo dục phổ thông của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 và lớp 12 (bộ chuẩn và
bộ nâng cao).
Sách gồm ba phần chính:

P h ầ n th ứ n h ấ t: Nghị luận văn học (đây là phần chủ yếu)

P h ầ n th ứ h ai: Nghị luận xã hội.

P h ầ n th ứ b a: Cấu trúc đề thi Đại học theo hướng mới của Bộ Giáo dục
và Đào tạo năm 2014.

P h ầ n th ứ tư: Cấu trúc đề thi THPT Quôc gia theo hướng mới của Bộ
Giáo dục và Đào tạo năm 2015.
Đặc biệt trong phần thứ nhất, chúng tôi hướng dẫn ôn tập những bài văn
theo trình tự thời gian:

- Văn học thời kì 1930 - 1945 (theo chương trình ngữ văn lớp 11 với nội dung
văn học mang xu thê lâng mạn - hiện thực phê phán - hiện thực Cách mạng).

- V ăn h ọ c th ờ i kì 1945 - 1975 (theo chương trình ngữ văn lớp 12 với


nội dung văn học mang xu thê hiện thực Cách mạng).

- V ăn h ọ c th ờ i kì 1975 đến h ế t th ế kỉ XX (văn học thời kì đổi mới).


Trong phần này, các bài ôn tập đều có cấu trúc của một đề tuyển sinh:
- Câu hỏi giáo khoa nhằm tái hiện kiến thức cơ bản.
- Đề văn nghị luận, ơ loại câu hỏi này, chúng tôi soạn hai phần:
+ P hần đầu là “những kiến thức cần nắm vững” để phân tích một đoạn
thơ, một bài thơ hay một tác phẩm, một nhân vật văn học. Bên cạnh đó,
chúng tôi còn gợi ý bổ sung thêm một số kiến thức ở các tác phẩm khác có
liên quan gần gũi với tác phẩm cần phân tích...

+ Phần sau là hướng dẫn xây dựng một bài văn trên cơ sở bộ đề thi của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, tác giả biên soạn thành những bài hướng dẫn
“VĂN” nhằm cung cấp cho các em học sinh những kiến thức cơ bản và
phương pháp làm từng kiểu bài do đề thi yêu cầu.

Hi vọng cuô’n sách sẽ góp phần giúp các em học sinh chuẩn bị tôt kiến
thức để đạt kết quả mong muốn trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới.

Dù chúng tôi đã rất cố gắng để cuốn sách đạt chất lượng tốt nhất, nhưng
chắc sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Mong được quý bạn đọc, quý
thầy (cô), các bậc phụ huynh và các em học sinh góp ý kiến để tác giả có thể
hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.
Mọi ý kiến đóng góp xin liên hệ:
Nhà sách Hồng  n: 20C Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 1 - TP HCM
Email: nhasachhongan@hotmail.com
Chân thành cảm ơn.
Tóc g i ả
N g u y ễn Đ ìn h C h iế n
NGHỊ LUẬN VẢN HỌC

VĂN HOC THỜI KÌ 1930-1945


I . ] VĂN HỌC CÁCH MẠNG - NHỮNG BÀI THƠ
CỦA TÁC GIẢ HỔ CHÍ MINH
trong tập thơ “Nhật kí trong tù”

Đề tuyển sinh: Anh (chị) iàm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nội dung Tập thơ
“N h ậ t k í tr o n g tù ” của tá c giả Hồ Chí Minh.
Câu 2: Hãy vận dụng thơ văn tiêu biểu trong Tập thơ “N h ậ t k í tro n g
tù ” củ a tá c giả Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ tâm lòng yêu
thương con người sâu sắc của chính tá c giả._____________________

HƯỚNG DẨN
Câu 1 : Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nội dung Tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ”.
1. Hoàn cảnh ra đời.
Tháng tám năm 1942 tác giả Nguyễn Ái Quôh đổi tên là Hồ Chí Minh để
sang Trung Quôh với tư cách đại biểu Việt Nam trong phong trào độc lập Đồng
minh nhằm xin viện trợ của thế giới, tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Suốt mười lăm ngày đi bộ băng rừng đến Túc Vinh (Quảng Tây - Trung Quốc).
Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch nghi ngờ làm gián điệp và bắt giam.
Những ngày tháng trong nhà tù, gần mười ba nhà tù của mười ba huyện thuộc
tỉnh Quảng Tây, tác giả đã chứng kiến những cảnh tượng đau lòng bức xúc đối với
tù nhân và thấy được một xã hội bất công thối nát cùng những sự việc của thế giới
bên ngoài, tác giả hiểu rất rõ để viết lên những trang nhật kí bằng thơ được gọi là
“Ngục trung nhật kí” gồm 134 bài, viết băng chữ hán với thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt, sáng tác từ tháng tám năm 1942 đến tháng chín nàm 1943. Sau đó tập
“Ngục trung nhật kỉ” được gọi “Nhật kí trong tù” là một văn kiện lịch sử quý báu,
một tác phẩm văn chương được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.
2. Ý nghĩa - nội dung củ a tập thơ:
Tập thơ Nhật kí trong tù nêu bật hai ý chính;
ý 1: T ố c á o th ự c t r ạ n g x ã h ộ i b ấ t c ô n g cù n g c h ế đ ộ n h à tù d ã m a n
hóc lột, c h à đ ạ p n h ă n p h ẩ m co n người.
- Thưc trang xã hỏi bất công thôi nát: ''Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội. Trong
tù đánh bạc được công k h a i”. {“Đánh bạc” - Hồ Chí Minh)
- Chà đap ĩên nhân phẩm con người: “Con người coi rẻ hơn con lợn. Chỉ tại
người không có chủ quyền”. {“Đám binh khiêng lợn cùng đ i” - Hồ Chí Minh)
- Khủng bô' đàn áp phu nữ và trẻ thơ: “Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi. Phải
theo mẹ đến ở nhà p h a ”. {“Cháu bé trong nhà lao Tân Dương” - Hồ Chí Minh)
Y 2: N h à t h ơ th ế h iệ n bứ c c h â n d u n g tự h ọ a về n g ư ời c h iê n s ĩ cộ n g
s ả n H ồ C h í M inh với m ộ t tâ m h ồ n lớn, d ũ n g k h í lớn, t r í tu ệ lớ n d ư ợ c t h ể
h iệ n q u a n h ữ n g h ìn h ả n h sa u :
Hình ảnh 1: Một nhà ái quôc yêu nước: “Canh bốn, canh năm vừa chợp mát -
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”. {“Không ngủ được” - Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 2: Một người chiến sĩ với nghị lực phi thường; “Thân thể ở trong lao.
Tinh thần ở ngoài lao. Muốn nên sự nghiệp lớn. Tinh thần càng p h ải cao”. {“Đề T ìf’
- Hồ Chí Minh).
Hình ảnh 3: Một người chiến sĩ với niềm tin tưởng lạc quan cách mạng:
“Hơi ấm bao la toàn vũ trụ. Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”. {“G iải đi sớm"
- Hồ Chí Minh)
Hinh ảnh 4: Một tấm lòng yêu thương con người sâu sắc: “Cô em xóm núi xay
ngô tối, Xay hết lò than dã rực hồng". (“Chiều tối"- Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 5: Một tâm hồn nhạy cảm trước mọi trạng thái của thiên nhiên: “Người
ngắm trăng soi ngoài cửa sổ. Trăng nhòm khe cỉta ngắm nhà th đ ’. (“Ngắm trăng" -
Hồ Chí Minh).
Câu 2: Tấm lòng yêu thương con người sâu sắc củ a chính tá c giả trong
tập thơ “N h ậ t k í tr o n g tù ”.
Nhắc đến tập thơ nhật kí của tác giả Hồ Chí Minh, người đọc thấy rõ thực
trạng xã hội bâ't công của chế độ nhà tù dã man dưới chính quyền Tưởng Giới
Thạch đôi với phạm nhân, đồng thời toát lên một tấm lòng yêu thương con
người sâu sắc của chính tác giả với những tháng ngày trong nhà tù. Tác giả là
một nhà thơ, một người chiến sĩ trước hoàn cảnh đọa đày cơ cực, khủng bố, đàn
áp từ thân thế đến tinh thần nhưng Người vẫn không quên trước nỗi đau của
đồng loại là thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn tác giả.
MINH HỌA
Hình ảnh 1: Trên đoạn đường chuyển lao giữa đất khách quê người, bóng
đêm bắt đầu bao trùm, nhưng tác giả đã quên đi nỗi đau của riêng mình để
hướng về cuộc sôhg người dân lao động miền núi cùng đồng cảm, chia sẻ, tin yêu
trước cuộc sông của họ, sẽ tô't đẹp, được ghi lại bằng những vần thơ thấm đẫm
tình người với hình ảnh: “Cô em xóm núi xay ngô tối. Xay hết lò than đ ã rực
hồng". {“Chiều tối” - Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 2: Những ngày tháng trong nhà lao, nhưng tác giả luôn luôn chia
sẻ, đồng cảm trước công việc cực nhọc gian khổ của người phu làm đường để viết
lên những vần thơ bày tỏ tình thương cùng sự quý mến của tác giả với hình ảnh:
“Giải nắng dầm mưa chảng nghỉ ngơi. Phu đường vất vả lắm ai ơi!”. {“Phu làm
đường” - Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 3: Tác giả cũng lo lắng, chia sẻ cuộc sống của những người nông dân
Trung Quốc khi mất mùa đại hạn với lời thơ: “Nghe nói Xuân này trời đại hạn.
Mười phân thu hoạch chỉ vài phân ”. {“Long An - Đồng Chính” —Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 4: Khi người nông dân Trung Quôc được mùa, tác giả vui trước
cuộc sông no đủ của họ với lời thơ: “K hắp chốn nông dân cười hán hở. Đồng quê
vang dậy tiếng ca vui”. {“Cảnh đồng nội” - Hồ Chí Minh)
Nhận x é t chung: Những vần thơ trong Tập nhật kí vừa được minh họa qua
nét bút của Hồ Chí Minh, gợi cho người đọc tìm thấy dù trong hoàn cảnh cơ cực,
tù đày nhưng tác giả như quên đi nỗi đau của riêng mình để cùng thương cảm,
xót xa, kê cả chia vui trước cuộc sống của người dân Trung Quô’c bằng những vần
thơ thấm đẫm tình người là thế hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn
người chiến sĩ Hồ Chí Minh. Đúng như lời nhận định của nhà phê bình Hoài
Thanh; “Tập thơ N hật kí trong tù là tiếng nói chứa chan tình nhân đạo”.

Đề tuyển sinh: Anh (chị) trình bày ngắn gọn bài thơ “C h iề u t ố i” (Mộ)
của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ”
là thi phẩm vừa thể hiện màu sắc cổ điển và hiện đại.

S ! ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Ca dao có viết: “Chim bay về núi tối rồỉl”. (Ca dao)
2. Thi hào Nguyễn Du có nói: “Chũn hôm thoi thót về rừng”. (Nguyễn Du)
3. Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Chiều hôm nhớ n hà” có viết; “Ngàn m ai gió
cuốn chim bay m ỏi” và “Kè chốn chương đài, người lữ thứ. B iết ai m à tỏ nỗi
hàn ôn”. (Bà Huyện Thanh Quan)
4. Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Qua Đèo Ngang” có viết: “Dừng chân đứng
lại trời non nước. Một m ảnh tình riêng ta với ta”. (Bà Huyện Thanh Quan)
5. Nhà thơ Thôi Hiệu (Trung Quôh) trong bài thơ “Hoàng Hạc L âu ” có viết:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhà
thơ Tản Đà có dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói
sóng cho buồn lòng a i”.
HƯỚNG DẪN
1. Nét đẹp cổ điển trong bài thơ “C h iều t ố i” của tá c giả Hồ Chí Minh.
Thể hiện qua hai câu thơ đầu:
“Chim mỏi về rừng tim chốn ngủ.
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng khôn g”.
(Chiều tố i- Hổ Chí Minh)
v ề thế loại thơ: Đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ảnh hưởng phong cách
của Đường Thi (Trung Quôh).
v ề h ìn h ả nh thơ: Hình ảnh cánh chim chiều mỏi mệt, áng mây chiều cô
đơn, lẻ loi là vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của không gian mà các thi nhân
xưa thường mượn cảnh đẹp ấy đê nói lên bước đi của thời gian như trong ca dao
có viết: “Chim bay về núi tối rồi”] thi hào Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi
thót về rừng"] Bà Huyện Thanh Quan trong “Chiều hôm nhớ n h à” có viết: “Ngàn
mai gió cuốn chim bay m ỏi” hay nhà thơ Lý Bạch (Trung Quốc) cũng viết:
“Chúng điểu cao p h i tận. Cô vân độc khứ nhàn”. Như vậy, bài thơ “Chiều tôi”
qua bút pháp của tác giả Hồ Chí Minh cũng nói lên cánh chim chiều “quyện
điểu ” và áng mây lẻ loi “có văn” để miêu tả chiều đã về là ảnh hưởng phong
cách cố điển của thơ xưa.
về tâm trạ n g củ a tác g iả : Các thi nhân xưa thường mượn hình ảnh thiên
nhiên để bày tỏ nỗi lòng như bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh
Quan, nhà thơ nhìn cảnh Đèo Ngang lúc chiều về, lại nói lên nỗi niềm cô đơn
của tác giả qua lời thơ cuôì “Một mảnh tình riêng ta với ta” hay trong bài thơ
“Chiều hôm nhớ n h à” chính tác giả đã tỏ bày nỗi lòng của mình qua câu thơ
cuôi: “Biết ai m à tỏ nỗi hàn ôn”. Nhìn lại bài thơ “Chiều tối” của tác giả Hồ Chí
Minh cũng mang một tâm trạng như thế tiêu biểu qua cánh chim chiều mỏi mệt
sau một ngày vất vả kiếm mồi gợi cho người đọc hiểu được, cảm nhận được, cánh
chim mỏi ấy mang hình ảnh người chiến sĩ, một người tù trên đoạn đường
chuyển lao sau một ngày mệt nhọc và hình ảnh áng mây chiều lẻ loi, trôi lơ lửng
giữa bầu trời gợi cho chúng ta hình dung hình ảnh người chiến sĩ, người tù trên
đường chuyển lao vẫn cô đơn, lẻ loi giữa đất khách đó là phong cách của tác giả,
ảnh hưởng của thơ xưa, mượn cảnh để bày tỏ tình cảm, nỗi lòng của thi nhân là
nét đẹp cổ điển trong hồn thơ “Chiều tối”.

2. Nét đẹp hiện dại trong bài thơ ‘‘Chiều tối” của tác giả Hồ Chí Minh.
Thể hiện qua hai câu thơ cuô'i:
“Cô em xóm núi xay ngô tối.
Xay hết lò than đ ã rực hồng”
(Chiều tố i- Hổ Chí Minh).
Về h ìn h tượng thơ: Xuất hiện vẻ đẹp con người là nhân vật trung tâm cho
toàn bài thơ, tiêu biểu là hình ảnh người thiếu nữ miền núi tràn đầy sức sôhg
đang xay ngô với hai cánh tay đều đặn, đây là một nét mới trong hồn thơ
“Chiều tối” là vẻ đẹp hiện đại của tác phẩm.

8
về h ìn h ả n h th ơ : Hình ảnh bếp lửa hồng rực đỏ, xua tan bóng đêm tăm tôl
lạnh lẽo của núi rừng để hướng về ánh sáng về sự sống là nét mới là vẻ đẹp
hiện đại trong tác phẩm.
v ề tă m tr ạ n g c ủ a t á c g iả : Tâm trạng của tác giả trong hồn thơ “Chiều tối”
không mang niềm u hoài bế tắc như trong thơ xưa tiêu biểu là bài thơ “Qua Đèo
Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan có viết: “Dừng chân đứng lại trời non nước.
Một mảnh tình riêng ta với ta”. Nhưng bài thơ “Chiều tối” của tác giả Hồ Chí
Minh, hình ảnh bếp lửa hồng, lò than đã rực hồng là nói lên niềm lạc quan, tin
yêu của con người ở một ngày mai tươi sáng, đặc biệt từ “hồng” ở cuôl bài thơ,
hàm ẩn cho người đọc hiểu rằng, tâm hồn người chiến sĩ, người tù trên đường
chuyến lao lúc ây vẫn hi vọng một ngày mai tươi đẹp, tiếp tục cuộc đấu tranh,
giải phóng cho dân tộc là nét đẹp hiện đại trong hồn thơ “Chiều tối”.
3. Nhận x é t chung: Bài thơ “Chiều tối” là sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc
cổ điển và hiện đại, tạo nên một bức tranh chiều thật sống động, giàu sức biểu
cảm, toát lên niềm tin yêu cuộc sông con người và niềm hi vọng, lạc quan một
ngày mai tươi sáng trong tâm hồn nhà thơ là giá trị, sức sông cho tác phẩm.

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Ghi lại bài thơ “L a i T â n ” của tá c giả Hồ Chí Minh trích trong
tập thơ “N h ậ t k í tro n g tù ” và nêu rõ chủ đề của tá c phẩm.
Câu 2: Anh (chị) có nhận x é t gì về bài thơ “L a i T ă n ” củ a tá c giả Hồ
Chí Minh trích trong tập thơ “N h ậ t k i tr o n g tù?”.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: B ài thơ L a i T â n của tá c giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ
“N h ậ t k í tr o n g t ù ” như sau:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đán h bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng lo công việc
Trời đất L ai Tân vẫn thái bình.”
(Nam Trân dịch - Sách Văn học 11)
C hủ đ ề b à i t h ơ L a i T â n : Tác giả viết lên nhằm tô' cáo những kẻ đại diện
cho bộ máy thông trị của xã hội Trung Quô'c dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch
lúc bấy giờ tham nhũng và thôi nát.
Câu 2: Nhận x é t vể bài thơ “L a i T ă n ” của tá c giả Hồ Chí Minh trích
trong tập thơ “N h ậ t k í tr o n g tù ”:
1. Nhận x é t ba câu thơ dầu:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng lo công việc”
(Trích Lai Tân - Hổ Chí Minh)
Tác giả dựng cảnh làm việc của những kẻ đại diện bộ máy thống trị của xã hội
Trung Quốc dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ là bất công, thối nát.
Xót xa thay, những kẻ đại diện cho pháp luật, chính quyền, cho phép nước mà hoạt
động hoàn toàn đi ngược lại pháp luật, vi phạm pháp luật, điển hình như Ban
trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng đều là những kẻ có chức, có quyền đại diện cho
dân, cho cán cân công lí, cho sự nghiêm minh của luật pháp nhưng chức vụ và việc
làm của họ hoàn toàn đôl lập đi ngược lại chức năng và nhiệm vụ của chính mình,
tiêu biểu là Ban trưởng, người quản lí trại giam, kẻ thực thi pháp luật đối với tội
phạm nhưng lại là kẻ chuyên đánh bạc, nghiện cờ bạc, chứng tỏ Ban trưởng là tay
cờ bạc chuyên nghiệp thì còn gì là kẻ thực thi cho pháp luật, chứng tỏ hắn đã vi
phạm pháp luật còn nặng hơn, tính chất sự việc còn nghiêm trọng hơn càng thấy rõ
sự bất công, thối nát của chế độ nhà tù dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy
giờ. Chúng ta còn nhớ bài thơ “Đánh bạc” của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập
thơ “Nhật kí trong tù” cũng nói lên sự thối nát bất công như thế qua lời thơ: “Đánh
bạc ớ ngoài quan bắt tội. Trong tù đánh bạc được công kh ai”. Tiếp đến là cảnh
trưởng, một tên cảnh sát trưởng có nhiệm vụ chuyến giải phạm nhân, thực thi
pháp luật đem lại trật tự xã hội nhưng mỉa mai thay, lúc giải người, hắn đã dở
trò ma mãnh với tiếng gọi “kiếm ăn quanh” nhằm phơi bày bộ mặt bỉ ổi của kẻ
ăn hôl lộ đế vun đắp cho cuộc sông vật chất riêng tư của hắn, thì hỏi rằng, hành
động bỉ ổi của hắn là thực thi luật pháp hay luật rừng và kẻ thi hành luật pháp
như tên cảnh trưởng thật là vô liêm sỉ. Rồi đến huyện trưởng chong đèn io công
việc mà lo việc gì đây? Có thể chong đèn hút thuôc phiện hay làm những việc
bâ't chính, phi pháp để vòi vĩnh phạm nhân, thật là đê tiện, mỉa mai cho kẻ đại
diện chính quyền mà người đời thường gọi là “quan chi phụ mẫu”, là tâ"m gương
sáng của dân vì dân mà lo cho dân như cha mẹ nhưng lại là kẻ vi phạm luật
pháp trắng trợn, chúng đã ung dung, ngang nhiên chạy theo vật chất đế vòi
vĩnh là hành động bất chính, càng thấy rõ bộ máy thông trị của xã hội Trung
Quô'c lúc bấy giờ thật đồi bại, thôi nát.
2. Nhận x é t lời thơ cuôi: (câu 4)
Lời thơ cuôl: “Trời đất L ai Tân vẫn thái bìn h”. Với giọng thơ châm biếm,
thâm thúy nhằm đã kích, lên án bộ máy thôhg trị thôi nát dưới chính quyền
Tưởng Giới Thạch như một tiếng thở dài của tác giả, phơi bày một xã hội mà
những kẻ cầm quyền, đại diện cho luật pháp, lại tự do ngang nhiên vi phạm
pháp luật mà chúng vẫn bình thản, an nhiên, vô sự, vẫn ung dung hưởng lạc
trên nỗi đau khổ của nhân dân như không có chuyện gì xảy ra, nhăm lên án một
chính quyền bất công, thôi nát, một “xã hội đại loạn” đúng như lời người xưa
từng nói: “Thượng bất chánh, hạ tắc loạn”, trên dưới đều loạn. Thật là mỉa mai.
10
3. Nhận xét chung: Lai Tân với ngòi bút sắc bén của tác giả Hồ Chí Minh, tác
giả đã khắc họa bức tranh trào phúng đặc sắc không chỉ đả kích một vài viên quan
cá biệt, cụ thế mà ngòi bút của tác giả, đã viết lên nhằm lên án cả một bộ máy
thống trị thối nát dưới thời chính quyền Tưởng Giới Thạch. Với nghệ thuật châm
biếm độc đáo, sắc sảo của tác giả, bài thơ cho ta thấy rõ, con người chiến sĩ trong
con người tù đã dũng cảm, dám đứng lên đấu tranh bằng ngòi bút đanh thép đế
phơi bày bộ mặt thống trị của chính quyền Tưởng Giới Thạch trong nhà tù cũng
như ngoài xã hội. Chứng tỏ tác giả Hồ Chí Minh là một chiến sĩ, một người nghệ sĩ
chân chính đã viết lên những vần thơ thép nhưng thấm đẫm một chất tình. Đúng
như lời bày tỏ của tác giả: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em
là một chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

TỪ ẤY
Tố Hưu

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Viết lại dầy đủ bài thơ ‘"Từ ấy" của nhà thơ Tô Hữu và nêu lên
hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung cùng chủ đề của tác phẩm.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “T ừ ấ y ” trong bài thơ cùng tên của nhà
thơ Tô Hữu.

HƯỚNG DẨN
Câu 1: B ài thơ “T ừ ấy" qua nét bút của Tô Hữu;
T ừ ấy
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim ...

Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Đ ể tình trang trải với trăm nơi
D ể hồn tôi với bao hồn k h ổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối dời.

Tôi đ ã là con của vạn nhà


Là em của vạn kiếp phôi p h a
L à anh của vạn dầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ ...
(Trích Tập thơ "Từ ẩy”)

11
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Tháng chín năm 1938 người thanh niên trẻ Tô Hữu được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây là niềm vinh dự rất lớn cho nhà thơ cũng là niềm sung
sướng tràn ngập tâm hồn người thanh niên trẻ khi tìm được lôl ra, lí tưởng sông
cho cuộc đời mình. Niềm sung sướng ấy, Tô' Hữu đã viết lên bài thơ “Từ ấy". Bài
thơ trích trong tập thơ “Từ ấy" (1937-1946). Đây là tập thơ đầu tay của Tố Hữu.
2. Ý nghĩa nội dung;
Bài thơ “Từ ấy" có hai ý chính:
Ý 1: Bôn câu đầu: “Từ ấy ... rộn tiếng chim".
Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thắp sáng trong tâm hồn người
thanh niên trẻ một lí tưởng sô'ng đẹp.
Ý 2: Hai khổ thơ còn lại: “Tôi buộc ... cù bất cù bơ".
Hai khố thơ còn lại nói lên tình yêu giai câ'p, những con người cùng khổ sẽ
cùng nhà thơ kết hợp lại, tạo thành một sức mạnh để đâu tranh giải phóng cuộc
đời mình và giải phóng dân tộc.
C hủ đ ề : “Từ ấy”, bài thơ đầu tay của Tố Hữu, toát lên một ánh sáng mới,
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thắp sáng trong tâm hồn người thanh
niên một lí tưởng sống đẹp. Sông phải biết cống hiến, dân thân cùng đứng lên
đấu tranh giành lại cuộc đời giành lại tự do độc lập cho dân tộc.
Câu 2: Giải thích tựa đề “Tù’ âý”:
Vào những năm 1937-1938, đất nước ta vẫn chìm trong bóng đêm, nhân dân lầm
than đói khổ. Chính thời điểm này, người thanh niên trẻ Tố Hữư đã tìm được lối ra
cho cuộc đời mình. Đó là giây phút, nhà thơ đón nhận ánh sáng của chii nghĩa Mác
- Lênin. Ánh sáng ấy soi rọi vào tâm hồn người thanh niên trẻ một nhận thức mới,
một cái nhìn mới và niềm vinh dự, sung sướng là cuối mùa thu, tháng chín năm
1938, Tố Hữu được kết nạp Đảng, trở thành người Đảng viên trẻ của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hai tiếng “Từ ấy” đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời thơ Tố
Hữu, khi đón nhận một lí tưởng sống đẹp từ ánh sáng cách mạng và sẵn sàng đem
sức trẻ, tuổi thanh xuân để cống hiến cho đời cho cách mạng để cuộc sống có ý
nghĩa. Tựa đề “Từ ấy” của bài thơ xuất phát từ những suy nghĩ trên.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bài thơ “T ừ ấ y ” củ a nhà thơ Tô
Hữu trích tron g tập thơ cùng tên của chính tá c giả dể thấy
đưỢc tâm trạ n g diễn biến của người thanh niên trẻ khi đón
nhận ánh sáng Mác - Lênin.

iSỈững kiến thức c ầ n nắm :


1. Nhà văn Pháp Aragông bày tỏ: “Đảng cho tôi sáng mắt sáng lòng”

12
2. Tô" Hữu bày tỏ nỗi lòng khi chưa tìm được lối ra với lời thơ: “Băn khoăn đi
kiêm lẽ yên đời”. (Tô" Hữu)
3. Triết gia người Áo - Nayrac có nói: “Niềm vui là hương thơm của cuộc đời,
làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ". (Nayrac)
4. Tô Hữu bày tỏ: “Lòng tôi sung sướng vô cùng kh i đón nhận ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - L êìiin ”. (Tô Hữu)
5. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Khi chúng ta cầm tay mọi người. Đất
nước vẹn tròn to lớn”. (“Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
6. Nhà thơ Xuân Quỳnh từng nói: “Làm sao được tan ra... Giữa biển lớn tỉnh
yêu”. (“Sóng” - Xuân Quỳnh)
7. Nhà thơ Chế Lan Viên bày tỏ: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp. Một
mái nhà yên rũ bóng xuống tâm hồn”, (trích “Người đi tim hình của Nước” -
Chế Lan Viên)
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Đảng cho tôi sáng mắt sáng lòng”
(Aragỏng - Pháp)
Lời bày tỏ của nhà vàn Pháp Aragông toát lên một lí tưởng sống đẹp, đưa chúng ta
nhớ về bài thơ “Từ ấy" của Tố Hũu tríbh trong tập thơ cùng tên của tác giả, thế hiện
một quan niệm sống đẹp khi nhà thơ đón nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cần phân tích bài thơ đê làm rõ tâm trạng diễn biến của người thanh niên trẻ
Tô Hữu khi đón nhận ánh sáng Mác - Lênin.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Quá trìn h d iễn b iến tâm trạn g củ a người th a n h n iên trẻ tron g “T ừ Ay”.
1. Tâm trạn g 1 (khố thơ đầu): Ánh sáng Mác - Lênin thắp sáng tâm
hồn người thanh niên trẻ một lí tưởng sông đẹp.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân li chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim ”.
("Từ ấy” - Tố Hữu)
Tiếng gọi đầu tiên vang lên ở dầu câu với hai tiếng “Từ ấy” cho người đọc
cảm nhận đây là tiêng lòng của nhà thơ, người thanh niên trẻ trong những nàm
1937-1938 là thời điểm đẹp nhất giúp nhà thơ tìm được lô"i ra,, hướng về, đó là lẽ
sống đẹp mà từ lâu nhà thơ vẫn “òă/ỉ khoăn đi kiếm lẽ yêu đời". Với từ gợi cảm
“bừnq” khơi nguồn một sức sông, một ánh sáng mới, một niềm tin mới, khơi dậy
tâm hồn nhà thơ một cảm nhận mới. Phải chăng, đó là ánh sáng Mác - Lênin,
ánh sáng của “mặt trời chân lí chói qua tim ”, đáng quý cho nhà thơ tiếp oận một
13
lí tưởng đẹp “sống là cho đâu chi nhận riêng m inh”. Đặc biệt với cụm từ gợi tả
“chói qua tim ” chính là giây phút mà ánh sáng Mác - Lênin soi rọi trong tâm
hồn nhà thơ, khai phá trong suy nghĩ nhà thơ một nhận thức mới, một con
đường mà mình đã chọn tràn đầy sức sông trào dâng, mãnh liệt như xua tan
bóng tôi tìm thấy ánh sáng, đau khố tìm thấy hạnh phúc, nô lệ tìm thấy tự do.
Đó là niềm vui sướng tràn ngập trong tâm hồn người thanh niên trẻ lúc ấy đế
bật thành tiếng gọi; “Hồn tôi là một vườn hoa lá. Rất đậm hương và rộn tiếng
chim ”. Với triết gia người Áo (Nayrac) đã từng nói: “Niềm vui là hương thơm của
cuộc đời, làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ”. Phải chăng, với hình ảnh so
sánh, ẩn dụ giàu sức biểu cảm qua hai câu thơ trên là tâm trạng vui sướng của
tác giả khi đón nhận một lí tưởng sống đẹp, một con đường đi tới mà tuổi trẻ
cần phải làm gì để tìm lại cuộc đời mình, cuộc đời dân tộc thì còn gì vui sướng
hơn. Với cách nói ví von, so sánh, tâm hồn nhà thơ lúc ấy, có khác gì như một
vườn xuân đầy hoa thơm cỏ lạ, hương sắc ngọt ngào, kết hợp những âm thanh
của tạo vật, những tiếng chim gọi mùa xuân về, đang ríu rít trên cành là biếu
hiện một tâm hồn tươi trẻ đang trào dâng một sức sông mới, một niềm tin mới
như lời bày tỏ của tác giả: “Lòng tôi sung sướng vô cùng kh i đón nhận ánh sáng
của chủ nghĩa Mác - L énin”. Quả thật: “Người vui cảnh có buồn đâu bao giờ".
2. Tâm trạng 2 (khổ thơ giữa và cuối): Người thanh niên trẻ tự nguyện
đứng cùng nhân dân lao khổ tạo sức mạnh đề giành lại cuộc đơi.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Đ ể tình trang trải với trăm nơi
Đ ể hồn tôi với bao hồn k h ổ
Gần gũi nhau thêm ìnạnh khối đ ờ i”.
Tiếng gọi; “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” thế hiện lời bày tỏ dứt khoát,
khẳng định của người thanh niên trẻ khi đón nhận ánh sáng Mác - Lênin. Nhà
thơ đã biến nhận thức thành hành động là cần phải làm gì đế thực hiện lí tưởng
đẹp ấy. Hai tiếng “tôi buộc” là tiếng nói chân tình trong trái tim người thanh
niên, phải làm sao nôi kết lại, hiệp lại cùng với mọi người, mọi thành phần
trong xã hội, ở đây, là nhân dân lao khố đang sông lây lâ't, vâ't vưởng ở ngoài
cuộc đời kia. Đây là một quan niệm sông đúng đắn, sông đẹp, biết đem “cái tôi”
hòa chung vào “cái ta” của quần chúng, “cái ta" của cộng đồng, của nhân dân tạo
thành một sức mạnh tổng hợp, một sợi dây liên kết, nôi thành một vòng tay lớn
cùng đứng lên đấu tranh giành lại cuộc đời mình và cuộc đời dân tộc. Hàng loạt
tiếng gọi “trang trải”, “trăm nơi”, “mạnh khối đời” càng tạo thêm niềm tin, sức
sống trong tâm hồn nhà thơ là biểu hiện một tình yêu giai cấp râ"t rõ từ đó hình
thành tình đồng chí, tình chiến hữu cùng đứng lên đấu tranh vì hạnh phúc của
nhân dân vì tự do độc lập của dân tộc đúng như lời bày tỏ của Mác: “Hạnh phúc
là dấu tranh”.

14
Mở rộ n g :
Hàng loạt từ ngữ “trang trải", “trăm nơi”, “mạnh khối đời” toát lên một lẽ sống
đẹp, sống phải biết đồng cảm, yêu thưomg, chan hòa, chia sẻ trước nỗi đau kẻ
khác, ở đây là những con người cùng khổ, đang sông giữa cuộc đời lầm than dưới
ách thống trị của thực dân phong kiến. Vậy chúng ta phải làm gì đây? phải biết
yêu ai? căm thù ai? phải có nhận thức đúng, hướng đi đúng từ ánh sáng Mác -
Lênin. Với người thanh niên trẻ, phải biết “làm sao được tan ra”, “giữa biển lớn
tinh yêu”, giữa biển lớn cuộc đời, cuộc đời lao khổ, cuộc đời lầm than ở ngoài kia
và “Phái biết cầm tay mọi người” nối kết thành một vòng tay lớn, một sức mạnh
mới, nhằm đập tan xiềng xích nô lệ để tìm thấy một ngày mai tươi sáng, đế “đất
nở hoa”, “trời mỗi ngày lại sáng” đế từ bóng tối bước ra ánh sáng từ nô lệ tìm đến
tự do là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ Việt Nam, lè sống đẹp của người thanh niên trẻ
Tô Hữu lúc bấy giờ.
Mạch cảm xúc của nhà thơ tiếp tục khơi dậy:
“Tôi đ ã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp p h ôi p h a
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Hàng loạt điệp câu “là con của vạn nhà... là anh của vạn đầu em nhỏ...”. Với
giọng thơ khẳng định, dứt khoát, chính là lời bày tỏ chân tình của người thanh
niên trẻ Tô”Hữu khi tìm thấy ánh sáng Mác - Lênin và nhà thơ tự khắng định,
là một thành viên trong đại gia đình lao khổ ở ngoài kia, lầm than đói rét ngoài
kia. Chứng tỏ nhà thơ đã xác lập “cái tôi” của mình hòa nhập vào “cái ta” của
nhân dân lao khố cùng nôi kết lại, hiệp lại tạo thành một sức mạnh tổng hợp,
một sợi dây liên kết, hình thành, một tình yêu giai câ”p, tình đồng chí, tình
chiến hữu cùng đứng lên đâu tranh giành lại tự do độc lập cho dân tộc là bổn
phận trách nhiệm của tuồi trẻ Việt Nam lúc ây. Thực hiện được như thế, nhà
thơ cảm thây không hổ thẹn với ông cha ta thuở trước đã xây dựng đâ't nước này
vì: “Đât Nước lá máu xương của mình. Phải biết gắn bó và san sẻ”. Phải biến
nhận thức đau thương thành hành động quên mình vì sự nghiệp đấu tranh cho
dân tộc là lẽ sông đẹp của người thanh niên.

II. PHÂN KẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Kết hợp những hình ảnh tiêu biểu, chọn lọc, lời thơ
khẳng định dứt khoát, nhịp thơ dồn dập, diễn đạt tự nhiên cùng những biện
pháp tu từ đặc sắc.
2. v ề nội dung: “Tư ấy” đã khắc họa hình ảnh người thanh niên trẻ Tô Hữu
khi tìm thấy ánh sáng mới, ánh sáng Mác - Lênin đã thắp sáng trong tâm hồn
nhà thơ một hướng đi đúng, một lẽ sông đẹp là niềm hạnh phúc của tác giả. Quả
thật: “Từ ấy là tiêng lòng của một hồn thơ đ ẹp ”.

15
VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI
Trích kịch “ Vũ N hư T ô” - Nguyễn Huy Tưởng

Để'tuyển sinh: A n h (ch ị) h ã y là m r õ c á c c â u s a u đ â y :


C áu 1: T rìn h b à y h o à n c ả n h v à m ụ c đ íc h s á n g t á c k ịc h b ả n “Vũ N h ư
T ô ” c ủ a tá c g i ả N gu yễn Huy Tưởng.
C âu 2: A nh (ch ị) h iể u g ì về tự a d ề “Vũ N h ư T ô ” tr o n g k ị c h b ả n cù n g
tên c ủ a tá c g i ả N gu yễn Huy Tưởng?
C áu 3: T óm t ắ t k ị c h Vũ N h ư Tô. ____________________________________

HƯỚN(Ỉ DẨN
Câu 1.
1. Hoàn cảnh sáng tác: Tác giả Nguyễn Huy Tưởng viết lèn kịch bản “Vũ Như
Tô” nhằm nói về một thời kì đất nước ta rơi vào tên bạo chúa Lê Tương Dực. Câu
chuvện xảy ra ở Thăng Long vào những nàm 1516-1517. Lê Tương Dực muốn xây
dựng Cửu Trùng Đài làm nơi vui chơi hưởng lạc cùng các cung nữ. Bạo chúa lại nhờ
kiến trúc sư Vũ Như Tô xây dựng. Trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” thuộc hồi
V trong kịch bản. Tác giả viết kịch bản này vào mùa hạ năm 1941.
2. Mục đích sáng tá c: Kịch bản “Vũ Như T ô” của tác giả Nguyễn Huy
Tưởng viết lên nhằm mục đích nêu lên nhiệm vụ của người nghệ sĩ là phải biết
kết hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống và chức năng của người làm nghệ thuật là
phải biết đem tài năng nghệ thuật của mình phục vụ cho nhân dân cho dân tộc.
Ngiíời nghệ sĩ không đứng trên quan niệm; “nghệ thuật vị nghệ thuật” mà phải
đứng trên quan điếm “Nghệ thuật vị nhân sin h”.
Câu 2.
Ý nghĩa tựa đề: Nhớ về nhà kiến trúc sư thiên tài, xây dựng Cửu Trùng Đài
dưới thời bạo chúa Lê Tương Dực không ai khác hơn là Vũ Như Tô. ông là một
nghệ sĩ tài năng có tâm huyết, yêu nhân dân, quý trọng những con người lao
động. Vũ Như Tô đã từ khước việc xây Cửu Trùng Đài theo yêu cầu của bạo chúa
Lê Tương Dực. Òng bị bắt. Sau đó gặp cung nữ Đan Thiềm, người đã ngưỡng mộ
tài năng của ông và khuyên ông hãy xây dựng Cửu Trùng Đài nhằm thực hiện
hoài'bão của mình bằng cả tài năng, tâm huyết và lúc ấy, vỢ con sẽ không bị
bắt, họ hàng không bị tru di tam tộc vì tội “khi quân”. Vũ Như Tô nghe lời
khuyên của Đan Thiềm, xây dựng Cửu Trùng Đài bằng tâd cả tài năng, thiện
chí, lòng dam mê nghệ thuật của mình. Vũ Như Tô dựa vào quyền lực và tiền
bạc của tập đoàn bạo chúa Lé Tương Dực nhằm ra sức xây dựng Cửu Trùng Đài,
làm sao cho thật nguy nga tráng lệ “bền như trăng sao” và có thế “tranh tinh
xảo với hóa công”. Cửu Trùng Đài sắp hoàn tất cũng là lúc gây ra sự mâu thuẫn
trầm! trọng giQa nhửng người thợ lành nghề cùng nhân dân lao động đôl với Vũ

16
Như Tô, mỗi lúc càng trở nên gay gắt. Lợi dung sự rôl ren mâu thuẫn trong việc
xây dựng Cửu Trùng Đài, quận công Trịnh Duy Sản lợi dụng cơ hội này, cầm đầu
một cánh quân phản nghịch và lôi kéo những người thợ xây cùng nhân dân lao
động đứng về phía mình nổi dậy, giết bạo chúa Lê Tương Dực. Lúc ấy, cung nữ
Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô tìm cách trôn thoát nhưng Vũ Như Tô kiên quyết
sông chết với Cửu Trùng Đài, cuôì cùng ông đón nhận cái chết. Hoài bảo của Vũ
Như Tô đã trở thành mây khói, kết thúc là một thảm kịch, nhưng trước giờ phút
cuôi cùng, Vũ Như Tô vẫn chưa nhận ra sự sai lầm của mình giữa chức năng của
người nghệ sĩ, nhà kiến trúc sư và nhiệm vụ của một công dân đôì với dân tộc.
Đó là quá trình diễn biến của kịch bản mà nhân vật Vũ Như Tô là nhân vật
trọng tâm, từ đó tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã lấy tên nhân vật Vũ Như Tô đế
xây dựng cho tựa đề kịch bản.
Câu 3. Tóm tắ t kịch bản: Gồm năm hồi và ba phân đoạn:
P h ă n đ o ạ n 1: Vũ Như Tô từ chôl yêu cầu của bạo chúa Lê Tương Dực trong
việc xây dựng Cửu Trùng Đài, sau đó ông bị bắt.
P h â n đ o ạ n 2: Cung nữ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô hãy hợp tác với
Lê Tương Dực đế xây Cửu Trùng Đài nhằm thực hiện hoài bảo của một nhà kiến
trúc sư tài năng đồng thời vợ con khỏi bị bắt, họ hàng khỏi bị tru di tam tộc vì tội
"khi quân”. Vũ Như Tô nghe lời khuyên của Đan Thiềm xây dựng Cửu Trùng Đài.
P h â n đ o ạ n 3: Vũ Như Tô thực hiện xây Cửu Trùng Đài. ông đã lợi dụng
quyền lực và tiền bạc của tập đoàn bạo chúa Lê Tương Dực để làm cho Cửu Trùng
Đài nguy nga, tráng lệ, hoành tráng, hùng vĩ để lại cho đời sau, chính là nguyên
nhân gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa những thợ xây lành nghề cùng nhân dân
lao động từng yêu quý Vũ Như Tô. Lợi dụng tình thế rối ren, quận công Trịnh Duy
Sản nôi dậy kết hợp với nhân dân lao động bất mãn cùng với những người thợ xây
đứng lên giết Lê Tương Dực, cung nữ Đan Thiềm và Vũ Như Tô rồi đốt Cửu Trùng
Đài (thuộc hồi V).

Để tuyến sinh: A nh (ch ị) p h â n tíc h n h ã n v ậ t Vũ N h ư T ô th u ộ c tr íc h


đ o ạ n '‘‘V ĩnh b iệt Cửu T rùng Đ à i” (h ồi V) tron g k ịc h b ả n “Vũ N h ư T ô”
c ủ a t á c g i ả N gu yễn Huy Tư ởng đ ể tìm th ấ y tâ m t r ạ n g u ẩ n k h ú c
c ủ a n h à k iế n trú c th iê n tà i trư ớc g iờ p h ú t c u ố i cù n g.

Ị3Ỉữnsr kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Nhà thơ Tô Hữu có viết: “Có cái chết hóa thành bất tữ ’. (Tô Hữu)
2. Có ý kiến rằng: “Người nghệ sĩ như con ong luôn luôn biết đem hương thơm
mật ngọt dếìi cho đ ờ i’. (Lời nhận định)
3. Trong quan niệm sáng tác có nhiều quan niệm: “N ghệ thuật vị nghệ thuật” và
“Nghệ thuật vị nhân sin h”.

17
4. Trong chương trình văn học cấp ba có nhiều cái chết khi kết thúc, đều có
hướng giải quyết tô4.
- Nhân vật Chí Phèo của nhà văn Nam Cao cuôl cùng phải tự sát để tìm về
người nông dân ngày ấy như là một lối thoát.
- Ông Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân
trước giờ phút cuôl cùng của cuộc đời mình, ông vẫn sáng tạo cái đẹp.
- Kịch bản “Hồn Trương Ba, d a hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ,
phần kết thúc vẫn định hướng cho Trương Ba tìm về cái chết là tìm về chính
mình “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có cái chết hóa thành bất tử”.
(Tố Hữu)
Nhưng cũng có cái chết để lại cho người đọc, cho đời vừa nuôi tiếc vừa oán
giận vì họ không nhận rõ chức năng của người nghệ sĩ và trách nhiệm của một
công dân trước hoàn cảnh đất nước đó là nhân vật Vũ Như Tô thuộc trích đoạn
“Vĩnh biệt Cửu Trùng Đ ài” (hồi V) trong kịch bản Vũ Như Tô qua ngòi bút của
tác giả Nguyễn Huy Tưởng, sáng tác năm 1941.
Cần đi sâu nhân vật Vũ Như Tô thuộc trích đoạn trên để tìm thấy tâm trạng
uẩn khúc của nhà kiến trúc sư thiên tài trước giờ phút cuối cùng.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


T âm tr ạ n g u ẩ n k h ú c c ủ a n h à k iế n trú c s ư Vũ N h ư T ô trư ớ c g iờ p h ú t
c u ố i cù n g.
1. Chi tiết 1: Vũ Như Tô kiên quyết không xây dựng Cửu Trùng Đài
theo yêu cầu củ a bạo chú a Lê Tương Dực: Vũ Như Tô, nhà kiến trúc sư tài
năng, có tâm huyết, có lòng dam mê nghệ thuật, ông là người không ham lợi,
không sợ chết, luôn luôn đứng về phía nhân dân lao động bằng tất cả tình yêu
thương. Vì thế Vũ Như Tô kiên quyết không xây dựng Cửu Trùng Đài theo yêu
cầu của bạo chúa Lê Tương Dực. Sau đó ông bị bắt. ông nhờ cung nữ Đan Thiềm
tìm cách để trôh thoát. Nhưng cung nữ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô không
nên hành động như vậy sẽ có hại cho bản thân, liên lụy đến vợ con và cả dòng
họ vì tội “khi quân”.
2. Chi tiết 2: Vũ Như Tô chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài theo lòd
khuyên của cung nữ Đan Thiềm: Vũ Như Tô thực hiện xây Củu Trùng Đài
trong thời điểm này là thể hiện khát vọng hoài bão về con đường nghệ thuật của
ông. Vũ Như Tô dựa vào quyền lực của tập đoàn Lê Tương Dực ra sức xây dựng
Củư Trùng Đài làm sao cho nguy nga, tráng lệ, hùng vĩ “bền như trăng sao”, có
thể "tranh tinh xảo với hóa công”. Và làm sao xây Cửu Trùng Đài trở thành nơi

18
bồng lai giữa trần gian. Đứng về mặt nghệ thuật, niềm khát vọng của Vũ Như Tô
là hợp lí với tính cách của một người nghệ sĩ, một kiến trúc sư giàu tâm huyết.
Nhưng khát vọng hoài bão cao đẹp của Vũ Như Tô trong việc xây Củu Trùng Đài
là nguyên nhân tạo nên sự mâu thuẫn giữa nhân dân lao động cùng những thợ
xây lành nghề đối với Vũ Như Tô. Đây là những người ông yêu quý nhất nhưng vì
khát vọng nghệ thuật, ông muốn làm sao Cửư Trùng Đài là tài sản của đất nước
đế lại cho hậu thế mai sau. Vũ Như Tô càng ra sức làm cho Cửu Trùng Đài hoành
tráng hơn như một tòa lâu đài hoa lệ, bắt buộc tập đoàn Lê Tương Dực ra sức bóc
lột đời sống nhân dân lao động, tăng thuế làm cho “cồng k h ố hao hụt", đời sống
của nhân dân lao động càng lầm than cơ cực. Đặc biệt việc xây Cửu Trùng Đài làm
cho vài ngàn người phải hi sinh, mẹ mất con, vợ mất chồng với bao nhiêu oán
than về Vũ Như Tô.
3. Chi tiết 3: Tâm trạng uẩn khúc của nhà kiến trú c sư Vũ Như Tô trước
giờ phút cuối cùng (hồi V): Cửu Trùng Đài sắp hoàn thành cũng chính là lúc
tình hình rối ren xảy đến cho tập đoàn phong kiến Lê Tương Dực. Lợi dụng tình
hình rối ren này, quận công Trịnh Duy Sản cầm một cánh quân đối nghịch, lôi kéo
hơn phân nửa, nhân dân lao động đứng về phía mình và kết hợp với giặc Trần Cao
ở Bồ Đề kéo binh nổi loạn. Trước tình hình nguy kịch ấy, cung hữ Đan Thiềm
khuyên Vũ Như Tô tìm cách trốn thoát vì biết ông là người có tài, cần phải sống để
tiếp tục xây dựng cho đất nước. Nhưng, Vũ Như Tô kiên quyết không bỏ trốn và
khẳng định rằng: “Tôi có tội tình gì? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu đ ể hại
nước. Ta xây Cửu Trùng Đài đ ể lại cho đất nước và cho hậu th ế một công trình
nghệ thuật đẹp, nguy nga tráng lệ”. Và Vũ Như Tô khẳng định: “Người quân tử
không bao giờ sợ chết mà vạn nhất có chết cũng đ ể cho mọi người hiểu rằng, việc
làm ciía mình chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài và tôi cũng chết
với Cỉtu Trùng Đài". Hàng loạt những suy nghĩ của Vũ Như Tô trước tình huống đầy
nguy kịch đang xảy ra như thế, chứng tỏ Vũ Như Tô, vẫn quả quyết việc xây dựng
Cửu Trùng Đài của mình là đúng với chức năng của người nghệ sĩ, nhà kiến trúc sư.
Nhấn m ạnh: Nhưng Vũ Như Tô không nhận ra rằng vì xây Cửu Trùng Đài theo
khát vọng nghệ thuật của ông, đã làm cho đời sống nhân dân cơ cực, lầm than, đói
khổ, công khố hao hụt, mấy ngàn người hi sinh vì Cửu Trùng Đài. Như vậy, với tư
cách một công dân, Vũ Như Tô là người có tội, là một “tội nhăn”. Nếu đứng về tư
cách một nghệ sĩ, nhà kiến trúc, ông là một “nạn nhân". Như vậy, Vũ Như Tô vẫn
chưa hiểu rõ giữa khát vọng nghệ thuật phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Nếu đi
ngược lại, Vũ Như Tô là người có tội với nhân dân và di ngược lại chức năng của một
nghệ sĩ chân chính vì nghệ thuật phải phục vụ cho cuộc sống, cho dân tộc.
Kết thúc Vũ Như Tô bị dẫn ra pháp trường và trước giờ phút cuôì cùng, Vũ
Như Tô vẫn mang một tâm trạng uẩn khúc vì ông chưa nhận rõ thiên chức của
người nghệ sĩ và trách nhiệm của một công dân phải có sự liên kết, hài hòa để
thích nghi trước cuộc sông thực tế, hoàn cảnh của đất nước thì chức năng người

19
nghệ sĩ mới đem lại giá trị, có ý nghĩa cho cuộc sông. Chứng tỏ Vũ Như Tô đã
đặt “nhầm người và nhầm thời”. Như vậy, hướng giải quyết của tác giả chưa
triệt để vì Vũ Như Tô vẫn chưa nhận ra sai lầm của mình về việc xây Cửu Trung
Đài, đó là mặt hạn chế của kịch bản.
Mở rộ n g: Trong chương trình văn học cấp ba, có nhiều tác phẩm với định
hướng của tác giả là hướng giải quyết về nhân vật của mình, khi kết thúc phải
đón nhận cái chết như là một giải thoát tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên của nhà vàn Nam Cao, kết thúc Chí Phèo tự sát, kết liễu cuộc
đời mình như một lôi thoát, một giải thoát đề Chí Phèo tìm lại người nông dàn
lương thiện của ngày nào ở bên kia cuộc đời. Nhân vật ông Huấn Cao trong
truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân, ông Huấn Cao, trước
giờ phút cuôd cùng, ông vẫn mỉm cười thanh thản, sáng tạo ra cái đẹp. Nhân vật
Lor-ca, người nghệ sĩ thiên tài của đất nước Tây Ban Nha trong bài thơ “Đàn
ghi-ta của Lor-ca” qua ngòi bút Thanh Thảo. Trước giờ phút cuôì cùng ra bãi
bắn, Lor-ca vẫn “hát nghêu ngao" vẫn “di như người mộng du" không bận lòng
với tất cả và cố quên tất cả để hướng cái chết thanh thản tự tại. Nhân vật Hồn
Trương Ba trong kịch bản “Ilồn Trương Ra, da hàng thịt" của tác giả Lưu Quang
Vũ, ở phần kết thúc, Hồn Trương Ba cũng xin được chết và chỉ có cái chết mới
trả lại cho Hồn Trương Ba, hồn nào xác nấy “tôi muốn được là tôi toàn vẹn"
được sông trong hoài niệm, nỗi nhớ của mọi người. Riêng cái chết của Vũ Như
Tô trong kịch bản cùng tên của tác giả Nguyễn Huy Tưởng, nhà kiến trúc sư Vũ
Như Tô đón nhận cái chết trước giờ phút cuô'i cùng, vẫn mang một tâm trạng
uẩn khúc, vẫn chưa nhận rồ sai lầm của mình giữa chức năng người nghệ sĩ và
trách nhiệm của một công dân đôi với đất nước thì cái chết của Vũ Như Tô vẫn
chưa thanh thản là cách giải quyết chưa triệt đế của tác giả, đó là mặt hạn chế
của kịch bản.

III. PHÂN K ẼT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Dài" (hồi V) của kịch
bản “Vũ Như Tô" qua ngòi bút cùa tác giả Nguyền Huy Tưởng. Đây là câu
chuyện có thật xảy ra tại Thăng Long vào năm 1516-1517. Xây dựng tình huông
truyện gây cấn, đầy kịch tính, lời thoại chân thật, đi sâu vào đời sống nhân vật,
tạo sự lôi cuôh hấp dẫn cho người đọc.
2. v ề nội dung: Trích đoạn (thuộc hồi V) khắc họa những diễn biến xảy ra
trong cung của tập đoàn phong kiến Lê Tương Dực và thấy rõ Vũ Như Tô là một
nhà kiến trúc thiên tài, yêu nghệ thuật muốn đế lại cho đời cho đất nước những
công trình quý báu do bàn tay con người xây dựng. Nhưng đáng tiếc, việc thực
hiện hoài bão cùa Vũ Như Tô không phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc ấy, đế đưa
đến cái chết của Vũ Như Tô cùng tàm trạng uấn khúc của ông. Vừa tiếc thương
ông lại vừa oán giận ông...

20
nì VĂN HỌC HIỆN THựC PHÊ PHÁN

CHÍ PHÈO
NAM CAO

Đế tuyển sinh: A nh (ch ị) là m r õ h a i c â u sa u d â y :


C âu 1: T rìn h b à y sự n g h iệ p văn h ọ c c ủ a n h à văn N a m C ao.
C ảu 2: T rìn h b à y q u a n đ iể m s á n g t á c c ủ a n h à v ăn N am C ao.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Sự nghiệp văn học của nhà văn Nam Cao:
1. Trước năm 1945: Nam Cao, một nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện
thực phê phán giai đoạn 1930-1945. Trong thời kì này nhân dân ta sống dưới
chẽ độ thực dân phong kiến, cuộc sông lầm than cơ cực đè nặng trên đôi vai
người nông dân và người trí thức. Trước hoàn cảnh ấy, tác giả đã xây dựng hai
đề tài về người nông dân nghèo và người trí thức nghèo.
а. về người n ôn g d â n n g h è o : Trước Cách mạng tháng Tám, đời sông người
nông dân thật cơ cực, đọa đày dưới sự áp bức của bọn tay sai cường hào. Đời sống
người nông dân với bao bi kịch và kết thúc là những thảm kịch như Lão Hạc, Chí
Phèo... Những tác phẩm viết về đề tài này gồm có: “Lão Hạc, Chí Phèo, Nửa Đêm,
Lan Rận, Trẻ con không được ăn thịt chó, Tư cách mỏ, Di Hảo ...”.
б. về n gư ời t r í th ứ c n g h è o : Thời kì này, sức mạnh của đồng tiền, đời sông
cơ khí được đề cao, trọng dụng nhưng vai trò người trí thức bị xem thường khi
'"cơm áo không đùa với khách thờ". Có những nghệ sĩ, trí thức tài năng và tâm
huyết muốn được công hiến, trọng dụng nhưng trở thành những kẻ bất tài,
không có đất sông. Bao nhiêu ước mơ, hoài bão về sự nghiệp văn chương của họ
bị xói mòn, thui chột, trở thành kẻ sông thừa, sống mòn tiêu biểu nhà văn Hộ
người tri thức nghèo trong tác phẩm “Đời Thừa”. Những tác phẩm viết về người
trí thức nghèo gồm có: “Đời Thừa, Trăng sáng, Sống mòn..". Nhìn chung sự
nghiệp văn học của Nam Cao trong thời kì này khắc họa hình ảnh người nông
dân nghèo và người trí thức nghèo rất rõ nét, sông động điển hình, gây một
tiếng vang rất lớn cho người đọc.
2. Sau năm 1945: Thời kì này nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chông
Pháp, nhà văn Nam Cao trở thành người chiến sĩ hòa chung trái tim của người
nghệ sĩ. Ông vừa viết báo, làm phóng viên chiến trường, viết lên những tác
phẩm gắn liền với cuộc kháng chiến. Những tác phẩm để lại trong thời kì này

21
là: “Đôi m ắt; Chuyện biên giới; Tình chiến dịch; Tập truyện cười”. Nhìn chung
về sự nghiệp văn học của Nam Cao để lại cho đời khoảng 60 truyện ngắn, một
truyện vừa, một tiểu thuyết và một vài vở kịch. Sự nghiệp sáng tác của ông bị
dở dang vì trên đường công tác, ông đã hi sinh vào năm 1951 tại Ninh Bình.
Câu 2: Quan điểm sáng tá c củ a nhà văn Nam Cao.
Được chia làm hai thời kì:
1. Thời kì trước năm 1945:
a. Nam Cao, ông có một quan niệm sáng tác rất rõ đôl với người cầm bút. Với
ông người nghệ sĩ, nhà văn phải đứng trong lòng cuộc đời trong lòng của nhân
dân lao khố để hiểu rõ cuộc sông, sô" phận, ước mơ và hoài bão chính đáng của
họ, nhằm khắc họa những hình tượng nghệ thuật thông qua những nhân vật
mang tính điển hình tiêu biểu trước cuộc sông. Với ông, nghệ thuật phải phục vụ
cho nhân sinh, “vị nhân sin h”, “nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật là tiếng kêu của những kiếp lầm
than”. (“Trăng sáng”)
b. Với Nam Cao, trong sáng tác, không lặp lại những gì đã có sẵn, đơn điệu,
bằng phăng, trơn tru, sáo mòn mà phải luôn luôn đổi mới sáng tạo, chọn lọc,
nâng cao tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Xây dựng những tình huông li kì, sông
động, kịch tính, đi vào thực tế cuộc sông. Đúng như lời bày tỏ của tác giả: “Văn
chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu dưa cho
mà văn chương p h ả i biết dung nạp, đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai
khơi và sáng tạo những gì chưa có”. (“Đời Thừa” - Nam Cao).
2. Thời kì sau năm 1945: Thời kì này nhân dân ta bước vào cuộc kháng
chiến chông Pháp, Nam Cao không còn là một nhà văn đứng trong lòng cuộc
đời, hiểu rõ nỗi đau sô' phận con người, để tạo nên nguồn cảm hứng trong sáng
tác. Thời kì này, Nam Cao, ông đã tham gia chiến trường, viết báo cứu quôc, gia
nhập đoàn quân Nam tiến. Lúc này, Nam Cao vừa là người chiến sĩ hòa chung
trái tim của người nghệ sĩ. ông vừa cầm bút vừa cầm súng, thâm nhập thực tê
cuộc kháng chiến để khám phá vẻ đẹp của người lính, tinh thần yêu nước đấu
tranh của nhân dân trong kháng chiến kế cả những mặt tích cực lẫn tiêu cực,
nêu lên những quan niệm của một sô' anh chị văn nghệ sĩ trí thức lúc ấy từ đó
giúp nhà văn có những nguồn cảm hứng trong sáng tác đế viết lên những tác
phẩm nhằm phục vụ kháng chiến, dân tộc, cách mạng. Với ông, cách mạng,
kháng chiến, dân tộc là trên hết là tâ't cả và Nam Cao đưa ra một quan niệm
râ't rõ trong sáng tác của thời kì này. Với ông: “Bước vào con đường không nghệ
thuật là đ ể chuẩn bị cho mình một nghệ thuật cao hơn”. Đây là quan điểm sáng
tác đúng đắn của một nhà văn chân chính trước hoàn cảnh đât nước lúc bấy giờ.

22
Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1; T ác phẩm “C hí P h èo ” của nhà văn Nam Cao có bao nhiêu tựa
đề. Anh (chị) giải thích ngắn gọn mỗi tựa đề.
Câu 2: Anh (chị) phân tích nhân v ật Chí Phèo trong tá c phẩm cùng
tên của nhà văn Nam Cao trích trong tập “L u ố n g cày”, xu ất
bản năm 1946 để thấy rõ sô phận đau thương củ a người nông
dân nghèo trước C ách mạng tháng Tám.________________________

HƯỚNG DẪN
Câu 1: T ác phẩm “C hi P hèo” có bao nhiêu tựa đề?
Tác phẩm “Chí P hèo” của nhà văn Nam Cao trong quá trình thực hiện có ba
tựa đề:
- Tựa đề đầu tiên do nhà xuất bản Đời Mới lấy tên “Cái lò gạch cũ”.
- Sau tựa đề này, nhà xuât bản Đời Mới lại sửa đổi, có tựa đề mới “Đôi lứa
xứng đ ô i”.
- Đến năm 1946 nhà văn Nam Cao chính thức chọn tựa đề cuôl cùng là
“Chi P hèo” trích trong tập “Luống cày”, xuất bản năm 1946.
Giải thích mỗi tựa đề:
- Tựa đ ề “Cái lò g ạ ch c ủ ”: Chí Phèo là nhân vật trung tâm xuyên suốt
toàn bộ tác phẩm. Lúc chào đời, hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ bỏ không, vắng
người qua lại là sô' phận bâ't hạnh của Chí. Sau khi Chí Phèo giết Bá Kiến, Chí
Phèo tự sát bằng con dao, hắn vùng vẫy đành đạch bên vũng máu tươi. Khi hay
tin Chí Phèo chết, Thị Nở lại nghĩ, những ngày đã sông với hắn như vợ chồng,
bỗng dưng ánh mắt Thị Nở nhìn thâp thoáng xuống bụng mình rồi Thị chợt
nghĩ một cái lò gạch cũ bỏ không vắng người qua lại sẽ là nơi Chí Phèo con ra
đời. Xuất phát từ những suy nghĩ ấy nhà xuất bản Đời Mới chọn tựa đề “Cái lò
gạch cũ”.
- Tựa đ ề “Đôi lứa x ứ n g đ ô i”: Tựa đề “Đôi lứa xứng đ ô i”, người đọc liên
tưởng nhân vật Chí Phèo đã trở thành một tên lưu manh, chỉ biết rạch mặt ăn
vạ, đô't nhà, đâm thuê, chém mướn và chỉ có rượu mới tạo cảm giác mạnh cho
hắn tồn tại. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà ai cũng phải sợ. Bên
cạnh hình ảnh Chí Phèo, lại xuất hiện chân dung người đàn bà ngoài ba mươi
tuổi, chưa chồng có tên Thị Nở. Thị xấu xí đến nỗi ma chê quỷ hờn và mang một
chứng bệnh nan y còn gọi là “bệnh hủ i”. Mọi người đều xa lánh Thị, Thị sông
với một bà cô không chồng. Tinh cờ Chí Phèo gặp Thị Nở nơi bến sông, họ ăn
nằm với nhau như vợ chồng. Quả thật, Thị Nở và Chí Phèo là hai nhân vật đặc
biệt hiếm thấy trong văn học vì thê nhà xuất bản “Đời Mới” lại chọn tựa đề thứ
hai là “Đôi lứa xứng đ ô i” ý nói “nồi nào úp vung nấy”.

23
- Tựa d ề “C hí P h èo ”: Năm 1946, nhà văn Nam Cao quyết định lấy tựa đề
“CAí P hèo”, Chí Phèo là một nhân vật có thật. Đây là câu chuyện xảy ra ở làng
Đại Hoàng tỉnh Hà Nam. Chí Phèo lọt lòng rồi trở thành kẻ “tứ cố vô thân”,
tuổi thơ của Chí Phèo đau buồn, tủi thân, tủi phận. Khi làm canh điền cho nhà
Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù vì sự độc ác nhẫn tâm của Bá Kiến cùng chế độ nhà
tù dã man, đã biến Chí Phèo trở thành con vật lạ, kẻ vô hồn mất cả nhân tính
lẫn nhân hình. Bọn tay sai lúc ấy điển hình là Bá Kiến, hắn đã biến Chí trở
thành công cụ tay sai đắc lực cho hắn và Chí Phèo hiện hình là một tên lưu
manh chuyên rạch mặt, ăn vạ, đô4 nhà. Khi Chí gặp Thị Nở, tình yêu thương
mộc mạc của Thị Nở làm cho “phần người” của Chí Phèo thức dậy. Chí khao
khát được sông, được làm người lương thiện như bao nhiêu con người bình
thường khác nhưng vẫn bị từ chôd, Chí bị ruồng bỏ khỏi cuộc đời, cuối cùng Chí
tự sát, kết liễu cuộc đời mình như một lối thoát. Chí Phèo là nhân vật trung tâm
làm nên nội dung tác phẩm vì thế, nhà văn Nam Cao chọn nhân vật Chí Phèo
làm tựa đề cho tác phẩm.
Câu 2: P h ân tích nhân v ậ t Chí Phèo dể thấy rõ số phận đau thương của
người nông dân nghèo trước C ách m ạng tháng Tám.

ÍHỈững kiến thức cầ n nắm :


1. Thi hào Nguyễn Du thôt lên trước nỗi đau con người: “Thương thay củng một
kiếp người”. (Nguyễn Du)
2. Có lời nhận định rằng: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống m ạnh m ẽ”.
(Nietzsche)
3. Có lời nói rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người,
thước đo g iá trị con người”. (Lời nhận định)
4. Có lời nhận định: “Một tác ph ẩm văn học chân chính có kh ả năng nhân đạo
hóa con người”.
HƯỚNG DẨN

I. PHẦN GIỚI THIỆU


“P hải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống mạnh m ẽ”.
(Nietzsche - triết gia người Đức)
Lời nói ấy, người đọc chợt nhận ra tên cường hào Bá Kiến trong tác phẩm
“Chí P hèo” của nhà vàn Nam Cao trích trong tập “Luống cày” xuất bản năm
1946, hắn cũng có lôi sông như thế. Bá Kiến đã dùng mọi thủ đoạn độc ác, đê
hèn đẩy người nông dân lương thiện phải vào tù và trở thành tên lưu manh
chuyên rạch mặt, ăn vạ, đô"t nhà, kết thúc là một thảm kịch đau thương đầy
nước mắt thông qua nhân vật Chí Phèo. Chúng ta cần đi sâu tác phẩm “Chí
P hèo” qua ngòi bút của Nam Cao đế thấy rõ số phận đau thương của người nông
dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.

24
II. PHÂN TRỌNG TÂM
Sô p h ậ n đau th ương củ a C hí Phèo.
1. Số phận bất hạnh lúc Chí ra đòfi: Nhắc đến Chí, ta lại nhớ ngay một đứa
trẻ vừa lọt lòng không phải ở một trạm xá, một mái gia đình có bàn tay săn sóc
của ngirời mẹ, sự ân cần lo lắng của người cha. Nhưng, sau tiếng khóc chào đời của
Chí, hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ bỏ không “nằm trần truồng xám ngắt trong
cái váy đụp” là số phận bất hạnh đáng thương. May mắn thay, hắn được người câu
lươn phát hiện mang về nuôi, sau đó hắn hết “đi ở nhà này sang ở nhà kh ác”.
Chứng tỏ tuổi thơ của Chí đâu được tung tàng bên cánh diều trên bờ đê hay được ê
a cắp sách đến trường mà tuổi thơ của Chí là những chuỗi ngày đau buồn, tủi
phận cùng với bao mồ hôi và nước mắt đế đồi lấy miếng cơm tấm áo.
2. Sô phận nghiệt ngã lúc Chí vào tù và lúc Chí ra tù:
а. Lúc C hí vào tù: Lúc Chí được nhận làm canh điền cho gia đình Bá Kiến
nhưng Chí Phèo bị vợ ba Bá Kiến sai bẳo làm những công việc khác, ngoài
nhiệm vụ của anh canh điền nhằm phục vụ cho sự thỏa thích của bà ấy, từ đó
lòng ghen tuông của Bá Kiến khơi dậy, cuôl cùng Bá Kiến giải Chí Phèo lên
huyện, đây vào tù. Chí Phèo vào tù không có một nguyên nhân nào hình thành
tội phạm. Như vậy, luật pháp và công lí dưới chế độ thực dân phong kiến đã
phục vụ và bảo vệ cho ai? Cho người dân nghèo thấp cổ bé miệng ư! Không!
Chính luật pháp và công lí vào thời điểm ấy nhằm bảo vệ cho bọn tay sai cường
hào cho sức mạnh đồng tiền cho kẻ có thê lực và chê độ nhà tù dã man kia,
không phải là nơi giáo dưỡng, giáo dục phạm nhân mà chính nhà tù đã tạo cho
con người thêm tội lỗi. Trong tù họ phải biết ác, biết tàn nhẫn đế tồn tại, từ đây
Chí Phèo đã bị tha hóa, biến chất,“òần cùng sinh đạo tặc”. Chứng tỏ chê độ nhà
tù làm biến dạng con người của Chí từ nhân tính lẫn nhân hình với “cái đầu
trọc lóc, hàm răng cạo trắng hớn, gương mặt đen đen, cơng cơng, đôi mắt gườm
gườm ghê tởm”. Xót xa thay! Phẫn uất thay! Chính chế độ nhà tù đã cướp đi
nhân tính lẫn nhân hình của Chí Phèo, là sô" phận nghiệt ngã của hắn.
б. L úc C hí ra tù: Sau, bảy, tám năm biệt tích ở làng Vũ Đại, Chí lù lù trở về
làng với ý định trả thù Bá Kiến. Klii Chí Phèo đôi diện Bá Kiến, một tên cáo
già gian hùng “mềm nắn rắn buông”, có nụ cười như Tào Tháo, là một tên thủ
đoạn, độc ác, và cuối cùng Chí Phèo không trả thù được Bá, Kiến, không rửa được
môi hận cho cuộc đời mình mà Chí lại trở thành công cụ, tay sai đắc lực cho Bá
Kiến. Từ đây, Chí Phèo chỉ có rượu là nguồn vui là hơi thở cho cuộc sông của
hắn. Có lúc: “hắn ăn trong lúc say”, “hắn ngủ trong lúc say và kh i thức dậy hắn
vẫn còn say”. Hắn say khướt rồi lại “chửi đời, chửi trời, chửi cả đứa nào đẻ ra
chính hán ” nhưng tât cả đều im lặng. Hắn sông trong đau thương, ngụp lặn
trong vũng bùn tội lỗi, bê tắc không lôi thoát, là sô" phận nghiệt ngã đè nặng lên
cuộc đời của Chí mà thủ phạm chính là Bá Kiến.

25
3. Sô" phận bi thảm lúc Chí gặp Thị Nở: Một bước ngoặt trong cuộc đời
của Chí, chính là lúc hắn gặp Thị Nở. Với tình yêu thương mộc mạc, chân thành
của Thị, cũng là lúc đánh thức “cái phần người của C hí” từ lâu nằm sâu trong
tiềm thức đã thật sự trở về, bừng dậy trong con người của hắn. Hắn khao khát
được sông, được sống lương thiện, hòa nhập với mọi người, cộng đồng, hắn hi
vọng Thị Nở là chiếc cầu nôi đưa hắn về với cộng đồng, với mọi người và Chí
khao khát một cuộc sông, một mái ấm gia đình bằng lời nói chân tình của hắn
với Thị Nở lúc ấy. Hắn nói: “hay là mình dọn sang đây ở với tớ một nhà cho
vui”. Lời nói của Chí, tưởng chừng như bình thường nhưng đó là khát vọng
chính đáng của hắn để hướng về một mái gia đình, cuô'i cùng khát vọng chính
đáng ấy đã bị dập tắt, hủy duyệt vì bà cô Thị Nở không cho đứa cháu gái của
mình, lấy một thằng như Chí Phèo vì nó là tên lưu manh, chuyên rạch mặt, ăn
vạ. Trước nỗi tuyệt vọng, hụt hẫng của Chí, hắn đã dùng rượu và càng uông, hắn
càng tĩnh, tĩnh trong say, say trong tĩnh để được tìm về con người thật của hắn
và được sông lại với bao hình ảnh đẹp của những ngày hắn sống với Thị Nở.
Cuô'i cùng Chí đã nhận ra, kẻ thủ phạm đã làm hại cuộc đời mình chính là Bá
Kiến. Lúc Chí đôi diện với Bá Kiến cũng chính là lúc, con quỷ dữ của làng Vũ
Đại, tên lưu manh chuyên rạch mặt, ăn vạ, không còn hiện hình trong con người
của hắn nữa mà Chí đã đứng lên với tư cách một con người, cùng tiếng nói
khẳng định, dõng dạc, dứt khoát của hắn: “Tao không đến đây xin năm hào, tao
bảo tao không đòi tiền, tao muốn làm người lương thiện, không được! Ai cho tao
lương thiện!”. Những lời nói khẳng định, dứt khoát, dõng dạc của Chí Phèo trước
Bá Kiến là tiếng nói của ý thức, của lương tâm nơi con người của Chí đã thật sự
trở về. Đó là tiếng nói của một kẻ biết ăn năn, sám hôl đế được trở về, trở về
con người ngày xưa và cuôi cùng Chí Phèo phóng dao giết Bá Kiến, kẻ gieo gió
phải gặt bão, tên thủ phạm phải đền tội. Đó là quy luật của cuộc sông cũng phù
hợp với “luật nhân quả của P hật g iá o”. Lúc ấy, Chí Phèo nhìn lại mình và trong
suy nghĩ của hắn chợt đến, hắn không thế tiếp tục sông như thế này được nữa,
khi cái ác không còn hiện hình trong con người hắn, hắn muốn làm người lương
thiện, nhưng hắn bị từ chô'i, người đời vẫn còn định kiến đôi với hắn, coi thường
và khinh bỉ hắn, hắn không được sông lương thiện như ý hắn muôn, thì hắn
sông đế làm gì? Và chỉ có cái chết mới là cách giải quyết tôt nhất, lôi thoát tôt
nhất đế Chí Phèo tìm lại con người nông dân ngày trước dù đó là cái chết bi
thảm, tiêu cực nhưng là cách giải quyết phù hợp với hoàn cảnh, sô' phận của Chí
lúc ấy vì thực trạng xã hội nông thôn dưới chê độ thực dân phong kiến vẫn còn
đó, áp bức, bất công, khủng bô, bóc lột người dân nghèo vẫn còn đó, chê độ nhà
tù dã man vẫn còn đó, thì làm sao Chí Phèo có đất sống, chỉ có cái chết mới là
lối thoát, sự giải thoát cho Chí Phèo. “Thương thay cũng một kiếp người”, người
nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.

26
III. PHẢN K ẼT THÚC
về n gh ệ thuật: Với tài năng, tâm huyết cùng vô'n sông của nhà văn, Nam
Cao xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Tác phẩm với những tình huông
đầy kịch tính, đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, ngôn ngữ giàu tính nhân
dân, lời thoại râ't thật, chân chất.
về nội d u n g : “Chí P h èo”, một tác phẩm nêu bật được sô" phận người nông
dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Khi thực trạng xã hội nông thôn lúc ấy,
con người sông trong sự ghẻ lạnh, vô cảm, thủ đoạn, độc ác, lương tâm đạo đức
không còn và chế độ thực dân phong kiến còn thông trị, sẽ tiếp tục đẩy người
nông dân lương thiện từ bi kịch này đến bi kịch khác và kết thúc là những thảm
kịch đau thương mà người nông dân nghèo phải gánh chịu. Chí Phèo là sô" phận
đáng thương như thế. Tác phẩm “Chí Phèo” ra đời vào thời điểm ấy như là lời
cảnh báo, là tiêng kêu “hãy cứu con người” là giá trị sức sông cho tác phẩm.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích tá c phẩm “C hí P hèo” củ a nhà văn
Nam Cao để làm sáng tỏ giá trị nhân dạo của tá c phẩm.

ỊSÍững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Đại thi hào Nguyễn Du đã nói: “Thương thay củng một kiếp người”. (Nguyễn Du)
2. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất là thước đo g iá trị
con người”. (Lời nhận định)
3. Có lời nhận định rằng: “Một tác ph ẩm văn học chân chính có kh ả năng nhân
đạo hóa con người”.
4. Tác phẩm “Tắt đ èn ” của Ngô Tâ"t Tô"; tác phẩm “Bước đường cùng” của
Nguyễn Công Hoan; tác phẩm “Lão H ạc” của Nam Cao đều nói lên sô" phận
đau thương bế tắc của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
5. Có lời nhận định: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau của kè kh ác chỉ là thứ
quái vật”.
6. Có lời bày tỏ rằng: “Kẻ nào sống dửng dưng trước nỗi đau của con người và
chỉ biết sống cho bản thân dược sung sướng đều là những kẻ đáng kh in h ”.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Thương thay củng một kiếp người”
(Nguyễn Du)
Lời thơ thông thiết của đại thi hào Nguyễn Du về sô" phận đau thương của
một kiếp người, chúng ta sực nhớ, sô" phận người nông dân nghèo thông qua
nhàn vật Chí Phèo trong tác phẩm cìmg tên của nhà văn Nam Cao trích trong
tập “Luống cày" đã nêu lên vân đề con người, người nông dân nghèo trước Cách

27
mạng tháng Tám. Nhà văn, đứng về kẻ bị áp bức, nhằm tô cáo thực trạng xã hội
nông thôn suy đồi về đạo đức, cùng bọn tay sai cường hào độc ác, đàn áp, khủng
bố, chà đạp lên nhân phẩm con người và chê độ nhà tù dã man, biến người nông
dân lương thiện thành kẻ mất cả nhân tính lẫn nhân hình. Qua đó, nhà văn ca
ngợi những phẩm chât đẹp của kẻ bị áp bức và hướng họ trở về cuộc sống lương
thiện. Tâ't cả những vấn đề â'y, viết lên thành những trang văn thâ'm đẫm tình
người là thể hiện giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

II. PHÂN TRỌNG TÂM


G iá trị n h ă n đ ạ o tr o n g t á c p h ẩ m “C h í P h è o ”.
1. Nhân đạo 1: Nhà văn đứng về kẻ bị áp bức nhằm tô cáo, lên án thực
trạng xã hội nông thôn cùng chế độ nhà tù trước Cách mạng tháng Tám.
- Hình ảnh đầu tiên chúng ta bắt gặp, một bé sơ sinh, lúc chào đời, bị bỏ rơi
bên lò gạch cũ không người qua lại. Chứng tỏ lòng dạ độc ác của con người đã cố
tình đấy một sinh linh, một kiếp người đi vào chỗ chết, không một chút thương
tiếc. Qua hình ảnh ấy, nhà văn thương xót cho sô' phận bất hạnh và lên án
những kẻ sinh ra nó, họ đã nhẫn tâm hủy diệt, chứng tỏ thực trạng xã hội nông
thôn lúc ấy, suy đồi đạo đức, mâ't cả tính người. Nhà vàn luôn luôn đi sâu đi sát
đời sông nhân vật và khi biết Chí Phèo bị đấy vào tù mà không có nguyên nhân
hình thành tội phạm, chỉ xuât phát vì dục vọng tầm thường cùng thủ đoạn hèn
hạ, độc ác của vỢ chồng Bá Kiến, chúng đẩy người nông dân lương thiện vào
chôn tù đày, khôn cùng không lôi thoát. Viết lên điều ấy, nhằm tô cáo chê độ
thực dân phong kiến ở nông thôn trước Cách mạng tháng Tám, không dựa vào
luật pháp, công lí đế thực thi bảo vệ quyền lợi cho người nông dân mà chỉ dựa
vào uy quyền, thê lực, sức mạnh đồng tiền, cố tình chà đạp trắng trợn lên nhân
phẩm người nông dân nghèo, thâp cố bé miệng là thế hiện tinh thần nhân đạo
trong tác phẩm.
- Trong quá trình cuộc sông của Chí Phèo, nhà văn tiếp tục theo dõi từng
bước đi của Chí. Thương thay cho Chí, một thanh niên nông dân “hiền như đất",
khi bước vào tù, chính chế độ nhà tù dã man kia, đã cướp đi cả nhân tính lẫn
nhân hình của Chí với: “Cái đầu trọc lóc, hàm răng cạo trắng hớn, gương mặt
đcn đen, cơng cơng, đôi mắt gườm gườm g h ê tởm”. Như vậy chê độ nhà tù, đâu
phải là nơi giáo dưỡng, giáo dục phạm nhân, mà nhà tù là nơi tiếp tục hình
thành cái ác, gây thêm tội lỗi cho con người. Viết lên điều ấy là biểu hiện tấm
lòng của nhà văn luôn luôn yêu thương con người, hiểu rõ nỗi đau con người là
giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
- Lúc Chí Phèo ra tù, hắn trở về làng Vũ Đại, với ý định trả thù Bá Kiến
nhưng khi hắn đôi diện với Bá Kiến, một tên cáo già gian hùng, “mềm nán rắn
buông”, có nụ cười như Tào Tháo, Chí Phèo không những không trả thù được mà
hắn tiếp tục trở thành công cụ, tay sai đắc lực cho Bá Kiến. Bá Kiến biến Chí

28
Phèo thành tên lưu manh không lối thoát, con quỷ dữ của Làng Vũ Đại từng phá
hoại hiết hao cơ ngơi sự nghiệp của người dân lương thiện, làm tan vỡ hạnh
phúc cua bao gia đình, ỉlành động gây ra tội ác của Chí xuât phát từ tên tay sai
cường hào, độc ác Bá Kiến. Nhà văn khắc họa những vấn đề ấy là đứng về kẻ bị
áp bức, qua đó vạch trần thủ đoạn độc ác đê hèn của Bá Kiến, kẻ đại diện cho
phép nước, phép làng, xã hội ở nông thôn lúc ấy là thể hiện tinh thần nhân đạo
trong tác phẩm.
2. Nhân dạo 2: Nhà ván nêu lên những phẩm ch ấ t đẹp của Chí và
hướng cho Chí trỏ’ về con người lương thiện.
P h ẩ m c h ấ t 1: Chí mong ước cuộc sông lương thiện.
Ngược về quá khứ dù Chí là một đứa trẻ bất hạnh, “tứ cố vô thân” nhưng Chí
luôn luôn sông với lòng tự trọng, sẩn sàng đem mồ hôi, sức lực “hết di ở nhà này
sanq ớ nhà kh ác” đế đổi lấy miếng cơm tâm áo, miíu sinh tồn tại. Đến năm 20
tuối, Chí ao ước “một qia dinh nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải ...
khá giá mua dăm ba sào ruộng làm ” là một ước mơ đẹp, một cách sông đẹp rất
nông dân, chân châb, mộc mạc, đời thường của một thanh niên đã trưởng thành.
P h ẩ m c h ấ t 2: Chí th ể hiện lòng tự trọng.
Với Chí, khi hắn đối diện với vỢ ba Bá Kiến, yêu cầu Chí làm những việc
không phải của anh canh điền, lúc ấy hắn vừa “run” vừa “sợ” và cảm thấy “nhục
hơn là thích”. Chứng tỏ, nhà văn đã đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, đồng
cám quý mến những suy nghĩ chính đáng của nhân vật là thế hiện lòng tự trọng
của Chí, qua đó phơi bày sự suy đồi đạo đức của xã hội nông thôn ngày ấy là thế
hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
P h ẩ m c h ấ t 3: Chí khao khát đưỢc sông lương thiện
Không ai ngờ, một tên lưu manh như Chí Phèo, một con quỷ dữ của làng Vũ
Đại nhưng khi cảm nhận tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở, con
quy dữ, tên kíu manh kia đã khơi dậy cái phần người, Chí lại khát khao lương
thiện, thèm lương thiện, mong được hòa nhập với cộng đồng, khao khát một mái
gia đình bằng tiêng nói chân thành của hắn đôi với Thị Nở, hắn nói: “hay là
mình dọn sang dây ở với tớ một nhà cho vui” và Chí hi vọng Thị Nở là chiẽc cầu
nối dưa Chí trở về với cộng đồng, hòa nhập với mọi người, là niềm khát vọng
chính đáng của Chí đê tìm về con ngitời lương thiện, là biêt ăn năn sám hôi
những tội lội của mình là phẩm chát đẹp của Chí.
Nhà văn định hướng cho Chí tìm về con người lương thiện: Một định
hướng dũng đắn của nhà văn, tác giả tạo tình huôhg để Chí Phèo gặp Thị Nở và
hi vọng Thị Nở là nguồn trợ lực giúp cho Chí Phèo tìm về con đường hoàn lương,
đó là hướng giải quyết đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh, và mong ước của Chí
lúc ây. Nhưng rất tiếc, kết thúc Chí Phèo phải tự sát, kết liễu cuộc đời mình, cho
chúng la thấy dược sô phận bi thảm của Chí Phèo vẫn không tìm về con người
lương thiện, không tìm thây một mái gia đình vì hoàn cảnh xã hội lúc ây vẫn
29
không thay đổi, thực trạng xã hội nông thôn dưới chế độ thực dân phong kiến
vẫn còn đó, chúng vẫn thông trị, vẫn câu kết với bọn tay sai tác oai tác quái, bóc
lột, đàn áp cuộc sông người dân nghèo vì thế Chí Phèo phải tìm đến cái chết
như là qui luật tất yếu là một lôi thoát. Hướng giải quyết của Nam Cao tuy thể
hiện tính tiêu cực, có sự hạn chế của tác phẩm. Nhưng hướng giải quyết ấy hoàn
toàn hợp lí, đúng đắn, hợp với qui luật của hoàn cảnh và cuộc sống là thể hiện
giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. Về nghệ thuật: Tình huống truyện sống động đầy kịch tính; đi sâu vào đòd
sống nội tâm nhân vật; ngôn ngữ giàu tính nhân dân, những lời thoại của nhân vật
rất thật..
2. Về nội dung: Tác phẩm “C/iỉ P hèo” đã nêu lên vấn đề số phận con người,
người nông dân nghèo dưới chế độ thực dân phong kiến, phải chịu bao bi kịch và
kết thúc là một thảm kịch. Nhà văn luôn luôn đứng về phía người nông dân
nghèo, họ là những kẻ bị áp bức nhằm viết lên nỗi đau của họ cùng đồng cảm, đau
xót với họ như là lời cảnh báo “hãy cứu lấy con người” và hướng con người tìm đến
cuộc sống tốt đẹp, một xã hội tốt đẹp. Tất cả những vấn đề ấy, ghi lại thành
những trang văn đầy tình người, lay động lòng người là thể hiện tinh thần nhân
đạo sâu sắc trong tác phẩm. Quả thật: “Chí P hèo” là “một tác ph ẩm văn học chân
chính có kh ả năng nhân đạo hóa con người”.

ĐỜI TH Ừ A
NAM CAO

Đề tuyển sinh: Có ý kiến rằng: “T ru yện n g ắ n “Đ ời T h ừ a ” l à m ộ t “Tuyên


n g ôn n g h ệ t h u ậ t ” c ủ a n h à v ăn N am C a o trư ớ c C á c h m ạ n g th á n g
T á m ”. Thông qua tru yện ngắn “Đ ời T h ừ a ” anh (chị) hãy làm sáng
tỏ ý kiến trên .

ững kiến thức cầ n nắm:


1. Truyện ngắn “Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao có ghi: “N ghệ thuật không
cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối m à nghệ thuật là
tiếng kêu của kiếp lầm than”, (trích “Trăng sáng” - Nam Cao)
2. Truyện ngắn “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao có ghi: “Một tác p h ẩm có g iá
trị p h ả i là một tác p h ẩm vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, p h ả i là tác
phẩm chung cho cả loài người. Nó p h ả i chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh
mẽ, vừa đau đớn lại vừa p h ấn khởi... Nó ca tụng lòng thương, tình hác ái, sự
công bằng ... Nó làm cho người gần người hơn”, (trích “Đời Thừa” - Nam Cao)

30
3. Có lời nhận định rằng: “Một tác p h ẩm văn học chân chính có k h ả năng nhân
đạo hóa con người”. (Lời nhận định)
4. Truyện ngắn “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao có ghi: “Văn chương không
cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn
chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tim tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có”, (trích “Đời Thừa” —Nam Cao)
5. Có nhận định rằng: “Người cầm bút như con ong luôn luôn biết đem hương
thơm mật ngọt đến cho đời”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Viết văn p h ả i th ể hiện cái đẹp và cái thật, p h ả i biết chọn lọc, trau chuôt,
tìm kiếm , sáng tạo, gạn đục khơi trong là chức năng của người cầm bút”.
(Lời nhận định)
Đọc “Đời thừa” của Nam Cao, chúng ta có suy nghĩ về quan niệm sáng tác của
nhà văn cũng thể hiện như thế. Vì thế, có ý kiến rằng: 'Truyện ngắn “Đời thừa” là
một “Tuyên ngôn nghệ thuật” của nhà văn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám”.
Cần đi sâu thiên truyện ngắn này để làm sáng tỏ ý kiến trên.

II. PHẤN TRỌNG TÂM


“Dời T h ừ a ” là m ột “T uyên n g ô n n g h ệ th u ậ t ” củ a nhà văn Nam Cao.
1. Quan niệm 1: Nghệ th u ật gắn k ết con người và cu ộc sống.
Đọc “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao, ta có thể phát hiện ở đó nhiều quan
niệm nghệ thuật sáng tác của ông thật gần gũi với cuộc sống con người. Để thấy
rõ quan niệm sáng tác đúng đắn ấy, nhà vàn đã từng phê phán trong truyện
ngắn “Trăng sáng” của ông rằng: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối m à nghệ thuật là tiếng kêu của kiếp lầm than”.
Như vậy, ở truyện ngắn “Trăng sáng”, Nam Cao phê phán “văn chương thoát
ly”, “văn chương hão huyền” trừu tượng xa rời thực tế mà với ông, văn chương
phải gắn kết với cuộc đời và con người trước cuộc sôhg thực. Với Nam Cao, ông
luôn luôn quan niệm rằng, một tác phẩm có giá trị phải là một tác phẩm thế
hiện những rung động của đời và “một tác p hẩm có giá trị p h ả i là một tác ph ẩm
vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, p h ải là tác ph ẩm chung cho cả loài người.
Nó p h ải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa p h ấn khởi
... Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng, ... Nó làm cho người gần
người hơn” (Đời Thừa). Đây là một quan niệm đúng đắn của nhà văn Nam Cao
trong sáng tác nghệ thuật để xây dựng, sáng tạo nên những tác phẩm mang tầm
vóc của thời đại, mang hơi thở của cuộc sông.
Với Nam Cao, giá trị của văn chương phải gắn kết với cuộc đời, cuộc đời thật,
cuộc sông thật, con người thật đang lăn lộn, bươn chải, ngụp lặn, chịu đựng giữa

31
cuộc đời đế tìm sự sông. Văn chương chỉ có giá trị khi tác phẩm ấy nói lên được
tiếng nói chung của con người, của loài người, của cả nhân loại, nó vưcrt lên trên
mọi bờ cõi và giới hạn. Văn chương có giá trị khi tác phẩm ấy có tác động rất lớn,
mạnh mẽ đôi với con người và cuộc đời, “Nó p h ải làm cho người gần người hơn”.
Văn chương có giá trị khi tác phẩm ấy phải hướng con người đến Chân,
Thiện, Mỹ. “Nó p h ả i ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằn g”, nó phải là
“một tác phẩm văn học chân chính có kh ả năng nhân đạo hóa con người”.
2. Quan niệm 2: Nghệ th u ật phải sáng tạo, chọn lọc, khám phá.
-- Với Nam Cao, một nhà văn chân chính là một nhà văn phải yêu nghề, gắn
bó với nghề, phải có tâ'm lòng tha thiết, gắn bó với cuộc sông, phải có lương tâm
và trách nhiệm vì đó là một nghề cao quý. Với Nam Cao, trong bâ"t cứ nghề gì
nêu rơi vào “sự cẩu th ả” đều là sự bất lương nhưng cẩu thả trong văn chương
nghệ thuật thì thật là đê tiện tiêu biểu là nhà văn Hộ khi nhìn lại những cuô'n
văn viết vội vàng và khi phải viết những “bài báo d ể người ta dọc rồi quên
ngay” chính là lúc nhà văn Hộ tự mắng mình, xỉ vả mình là: “một kẻ khốn nạn”;
“một tên đê tiện” không hơn không kém.
- Với Nam Cao, quan niệm rằng, văn chương nghệ thuật phải có sự sáng tạo.
Trong truyện ngắn “Đời Thừa” nhà văn Hộ như nói thay cho Nam Cao vấn đề
ấy. Với Hộ “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một
vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có” (Đời Thừa).
- Văn chương phải thế hiện cái đẹp, cái hay, cái mới, phải có sự sáng tạo
không lặp lại những gì đã có, đã định sẩn, không phải nhìn thấy “người ta ăn
khoai rồi vác mai di dào kh oa i”. Văn chương không phải là người thợ khéo tay,
làm theo những gì theo yêu cầu của khách hàng một cách đơn điệu, dễ dãi mà
nói đến văn chương, nghệ thuật phải có sự sáng tạo, đối mới, cách tân, khám
phá, đột phá đế mang lại cho người đọc sự hâ'p dẫn, lôi cuôii, ân tượng đầy
thuyèt phục, là thực hiện chức năng của một nhà văn chân chính. Đây là quan
niệm sáng tác chính đáng của Nam Cao mà suô't bao nhiêu năm cầm bút, Nam
Cao luôn luôn trăn trở với nghề mà ông đã chọn đế làm sao phải tạo cho tác
phárn của mình không theo những lôi mòn cũ, vết xe cũ, mà phải có sự đổi mới,
sáng tạo, đột phá đế tác phẩm tạo sự hấp dần, lôi cuốn thật sự đi vào lòng người
đọc. Chính ngòi bút tài năng, tâm lòng yêu nghề cùng vôn sống của ông, Nam
Cao đi sáu vào đời sông nhân vật rất thực, rât sinh động và ông thấu hiểu được
nồi đau, niềm xót xa, cay đắng về sô' phận con người mà nói đến Nam Cao, ông
là một nhà văn đã nhìn thấy được bi kịch tinh thần đau đớn của con người thật
sâu sắc và thấm thìa tiêu biêu là Nam Cao đã nhận ra nỗi đau không được làm
người trên khuôn mặt của một con quỷ dữ như “Chí P h èo” và ông cũng nhận ra
từ những giọt nước mắt của “Lão H ạc” khóc thương cho một con chó với bao nỗi
đau đớn dav dứt đang giằng xé trong tâm hồn lão, thật cảm động xót thương và

32
Nam Gao cảm nhận nỗi đau đớn, ray rứt, dày vò của nhà văn Hộ khi anh đã tự
chà đạp lên nguyên tắc tình thương thật sống động, thật chân thành, từ những
giọt nước mắt ăn năn muộn màng của Hộ.
Tất cả những nỗi đau ấy đã để lại trên từng trang viết của ông, bao giọt nước
mắt khóc thương của người đọc, cho sô" phận con người trước Cách mạng tháng
Tám. Đó là sự thành công trên con đường nghệ thuật của Nam Cao và có thể
khẳng định rằng: “Đời Thừa là một truyện ngắn thành công của ông trước Cách
mạng tháng Tám" và tác phẩm ấy còn là “một tuyên ngôn nghệ thuật” đã khẳng
định vị trí, chỗ đứng của ông trên vàn đàn Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945.
II. PHẦN KẾT
Truyện ngắn “Đời Thừa” đánh dấu con đường sáng tác nghệ thuật của Nam
Cao trước Cách mạng tháng Tám cũng là “Tuyên ngôn nghệ thuật” của ông. Với
ông, văn chương nghệ thuật là hơi thở, là mạch sống, là cuộc đời, ai đã bước vào
nghề văn, phải yêu nghề, phải có tài năng cùng vô"n sốhg, phải có lương tâm trách
nhiệm với chính mình và trước cuộc sống để tác phẩm có giá trị, có sức sông mãi
mãi đi vào lòng người là thể hiện chức năng của một nhà văn chân chính như con
ong luôn luôn biết đem hương thơm mật ngọt đến cho đời, cho người.

Đề tuyển sinh: Anh (chị) phân tích tru yện ngắn “Đ ời T h ừ a ” củ a nhà
văn Nam Cao để tìm thấy bi kịch tinh th ần đau dớn củ a người trí
thức nghèo trư ớc C ách m ạng tháng Tám thông qua nhân v ậ t Hộ.

iSỈững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người,
thước đo g iá trị con người”. (Lời nhận định)
2. Quan niệm triết gia Đức (Nietzsche): “Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống
mạnh m ẽ”. (Nietzsche)
3. Có ý kiến rằng: “Kẻ mạnh không p h ả i là kể giẫm lên vai kẻ kh ác đ ể thỏa mãn
lòng ích kỉ. Kề m ạnh chính là kề giúp đỡ kẻ kh ác trên đôi vai m ình”.
(“Đời Thừa” - Nam Cao)
4. Xuân Diệu có viết: “Cuộc đời cay cực đang giơ vuốt. Cơm áo không đùa với
khách thơ”. (Xuân Diệu)
5. Có ý kiến rằng; “Đời Thừa là tiếng kêu thương đầy lệ ”. (Lời nhận định)
6. Nhà thơ Tản Đà có viết: “Văn chương h ạ giới rẻ như bèo". (Tản Đà)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Cuộc đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ.
(Xuân Diệu)

33
Tiếng thơ cũng là tiếng lòng nỗi xót xa của người thi sĩ, người cầm bút trước
cuộc sông khó khàn, gạo châu củi quế mà “văn chương h ạ giới rẻ như bèo" đã
hủy diệt bao ước mơ hoài bão đẹp của người cầm bút, hình thành nỗi đau ray
rứt, cam chịu trong tâm hồn của nhà vàn là bi kịch tinh thần đau đớn của người
trí thức nghèo trong xã hội cũ trước Cách mạng tháng Tám thông qua nhân vật
Hộ trong truyện ngắn “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Bi kịch tỉnh thần đau đớn của người tri thức nghèo (Hộ)
1. Bi kịch 1: Nhà văn Hộ mơ ước thực hiện m ột sự nghiệp văn chương
nhưng tự chà đạp lên sự nghiệp ây.
- Với tựa đề “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao đập vào mắt chúng ta một cái
nhìn, một suy nghĩ về cuộc đời của người trí thức đang sông lay lắt, bỏ quên, rẻ
rúng giữa lòng xã hội cũ trước cách mạng, cuộc sống của họ trở nên vô nghĩa với
ngày tháng đi qua trong buồn đau, tủi nhục cho sô" phận của chính mình đó là
nhân vật Hộ, một nhà văn, một người trí thức nghèo được khắc họa rất rõ, sông
động hiện thực qua ngòi bút của Nam Cao trong tác phẩm. Nhắc đến Hộ là nhớ
về một nhà văn có tài, có tâm huyết, có hoài bão, lí tưởng đẹp nhưng lại không
thực hiện những ước vọng chính đáng của mình giữa cuộc đời. Lúc Hộ chưa có vợ
con, một gia đình riêng, anh là một nhà văn, anh sông bằng cây bút, anh viết
thận trọng với sự cô' gắng và lòng yêu nghề nhưng cũng chỉ kiếm được vừa đủ để
một mình anh sông một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Dù vậy, Hộ muôn có
một cuộc sông đẹp “muốn nâng cao g iá trị dời sống” của chính mình bằng sự
nghiệp văn chương có ích cho đời, cuộc sông có ý nghĩa. Hộ vẫn nuôi, vẫn ôm ấp
một “hoài bão lớn" một giâ'c mộng của văn chương. Với anh; “đói rét không có
nghĩa lí g ì” anh “khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất” anh muôn vun đắp
tài năng của mình bằng sự nghiệp vàn chương thông qua những tác phẩm có giá
trị cho đời cho cả nhân loại. Với Hộ: “Nghệ thuật là tất cả” Hộ khao khát một
tác phẩm của mình ra đời “sẽ làm mờ hết các tác p h ẩm kh ác cùng ra một thời".
Thật sự ước vọng, hoài bão về giấc mộng văn chương của Hộ là hoàn toàn
chính đáng là lẽ sông đẹp của một nhà văn có tài, có tâm huyết, muôn sông có
ích cho đời. Điều muôn nói về giấc mộng văn chương của Hộ là một giấc mộng
đúng đắn, thấm đẫm tinh thần nhân đạo và thiên chức của một nhà văn chân
chính. Vì sự nghiệp văn chương của Hộ là hướng tới chân thiện mỹ. Với Hộ, một
nhà văn phải biết vận dụng tài và tâm của người cầm bút đế mang hoa thơm
mật ngọt đến cho đời. Với Hộ, tác phẩm của anh phải có giá trị về tư tưởng lẫn
nghệ thuật, mang tầm vóc thời đại. Tác phẩm ấy: “P hải vượt lên bên trên tất cả
bờ cõi và giới h ạn ” ; tác phẩm ấy “p h ải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,

34
vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công
bàng, ... Nó làm cho người gần người hơn” (Đời Thừa). Đó là quan điểm sáng tác
""nghệ thuật vị nhân sin h” nghệ thuật hướng tới vì hạnh phúc của con người. Đặc
biệt ở Hộ, văn chương là một thứ nhu cầu tinh thần, một món ăn tinh thần vô
giá. Mỗi lần đọc được một đoạn văn hay, cảm được cái hay của văn chương “thi
dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm ”. Nhưng
tại sao ước mơ, hoài bão đẹp về giấc mộng văn chương của nhà văn Hộ lại bị dập
tắt, tan vỡ? Hộ rơi vào nỗi đau tinh thần, bế tắc, khủng hoảng. Dù nhà văn Hộ
có tài năng, tâm huyết, có lẽ sông đẹp, có hoài bão lớn, sông phải có ích cho đời
nhưng đó là ước mơ còn việc thực hiện đâu phải là đơn giản, chuyện dễ. Ngay cả
lúc Hộ chưa có vỢ con, chưa có một gia đình riêng anh đã sông bằng cây bút,
anh viê't thận trọng nhưng cũng chỉ nuôi được bản thân anh một cách eo hẹp,
còn hiện nay Hộ đã có một gia đình riêng, anh phải gánh trên đôi vai gầy của
mình một gánh nặng vỢ con với cơm áo gạo tiền, anh phải lo toan mọi vấn đề
trong cuộc sông của một gia đình nào “tiền nhà ... tiền giặt ... tiền thuốc ... tiền
nước m ắm ”, Hộ phải lo lắng thật chật vật nhưng nợ nần vẫn triền miên, lúc này
Hộ mới thấy được “g iá trị của đồng tiền”, “mới thấu hiểu nỗi đau k h ổ của một
người chồng khi thấy vợ con mình đói rách ”. Trước tình cảnh ây, Hộ phải làm gì
đế có tiền trang trải cuộc sông nợ nần của gia đình? Anh phải tiếp tục viết
nhưng Hộ không còn đủ thời gian để viết thận trọng, chăm chuôd từng trang
văn mà anh lại “viết vội vàng”, viết nhiều mới có đủ tiền giải quyết cuộc sông
gia đình trước mắt. Cuôl cùng ílộ: “Cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng, p h ải
viêt những bài báo đ ể người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đ ọc”. Lúc ấy, Hộ vô
cùng xâh hổ, khi đọc lại một cuô'n sách hay một đoạn văn có kí tên mình, “Hộ
đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và máng minh như một thằng
khốn nạn”, một tên đê tiện. Vì Hộ đã viết: “Toàn những cái vô vị nhạt nhẽo gợi
những tinh cảm rất nhẹ, rất nông cạn, diễn một vài ý rất thông thường, quấy
loãng” hình thành “một thứ văn bằng phẳn g và quá ư d ễ d ã i”. Hộ đau đớn, xót
xa, buồn tủi và cảm thấy mình bất lực bế tắc với bao ước vọng đẹp về giấc mộng
văn chương đã biến thành mây khói và Hộ thôt lên trong đau đớn ngậm ngùi:
“Thôi, th ế là hết! ta d ã hỏng! ta dã hỏng dứt rồi!” và “còn gi đau đớn hơn cho
một kẻ vẫn khao khát làm một cái gi nhằm nâng cao g iá trị của mình nhưng kết
cục chẳng làm được cái ...”. Lời than thở của Hộ là bi kịch tinh thần đau đớn thứ
nhâ’t của anh, bi kịch của một nhà văn mang ước mơ, hoài bão đẹp về giấc mộng
văn chương, sự nghiệp văn chương đế đời đế cuộc sông có ý nghĩa nhưng cuối
cùng lại sống rất tầm thường, toan tính, tủn mủn của một kẻ sông thừa như
chính tựa đề của tác phẩm.

35
2. Bi kịch 2: Nhà văn Hộ đề cao nguyên tắ c tình thương nhiAig tự
chà đạp lên nguyên tắ c ấy.
- Tiếp tục Hộ lại rơi vào bi kịch thứ hai, bi kịch của một người trí thức, xem
tình thương là nguyên tắc sông cao nhất của con người và sẵn sàng hi sinh tất
cả cho tình thương. Nhưng trong thực tế, Hộ lại sôhg bê tha, thô bạo, gây đau
khổ cho vỢ con và anh đã tự chà đạp lên nguyên tắc sôhg cao đẹp ấy. Tại sao Hộ
phải rơi vào tình cảnh như thế? Chúng ta vẫn còn nhớ rất rõ, nhân vật Từ trong
truyện ngắn “Đời Thừa” của Nam Cao, khi trang sách khép lại, vẫn thấy hình
ảnh Từ là người phụ nữ đáng thương, một người vỢ ngoan hiền, tận tụy với
chồng con, sông rất thật. Trước khi Từ đến với Hộ, là vợ của Hộ, Từ là một cô
gái lỡ làng, bị một tên sở khanh lấy Từ và sau khi sinh, hắn đã cao bay xa chạy
bỏ mặc mẹ con Từ cùng một mẹ già bơ vơ, hụt hẫng giữa cuộc đời. Từ đang đứng
bên bờ vực thẳm, đang đôì diện với đau khố và cái chết. Chính thời điểm ấy, Hộ
đã hiểu được tình cảnh đáng thương của mẹ con Từ, Hộ có một quan niệm sống
đẹp, luôn luôn đề cao tình thương và xem tình thương là nguyên tắc sông cao
nhât của con người. Với Hộ: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác chỉ là
thứ quái vật”. Xuất phát từ quan niệm sông đúng đắn đầy tính nhân văn của
Hộ, anh đã mở rộng tấm lòng, giang đôi cánh tay nhân ái, nhận Từ làm vỢ,
nhận làm bố cho đứa con mới sinh của Từ. Quả thật, đây là hành động dũng
cảm, đầy nghĩa hiệp của Hộ. Hộ đã: “Cúi xuống nỗi đau k h ổ của Từ”. Từ đây Hộ
đã có một gia đình và trong thời gian đầu, cuộc sông êm ấm vui vẻ. Nhưng theo
bước đi của thời gian, gia đình đã có nhiều thay đổi “đứa con này chưa kịp lớn
lên, đứa con khác đ ã vội ra” nhiều lúc Hộ “p h ải điên lên vì con kh óc”. Có lúc Hộ
thoáng nghĩ bỏ mặc vợ con để rảnh rang viết, thoát khỏi tình trạng đời thừa.
Nhưng với Hộ, anh vẫn đề cao nguyên tắc tình thương, tình thương là tất cả là
trên hết và anh vôh là con người nhân hậu, anh không thể có hành động tàn
nhẫn như thế. Anh không thể “sống ác, sống tàn nhẫn đ ể sống m ạnh m ẽ” cho
chính bản thân mình, anh không thể sôAg ích kỉ được.’ Chính Hộ, anh: “Sẵn
sàng hi sinh hoài bão nghệ thuật đ ể giữ lấy tình thương” dù anh biết đó là sự hi
sinh quá lớn đôl với anh. Với Hộ: “Kể m ạnh không p h ả i là kẻ giẫm lên vai kẻ
khác đ ể thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ m ạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ kh ác trên đôi vai
m ình” (trích “Đời Thừa” - Nam Cao).
Nhưng cuộc đời không bằng phăng, đơn giản như ý mình, có lúc Hộ gặp lại
những bạn văn cùng thời, “tự ái nghề nghiệp” trong con người Hộ khơi dậy, giấc
mộng văn chương hiện hình. Hộ lại cảm thấy nuôi tiếc, ray rứt, đau khổ vì
không thực hiện được. Hộ lại nghĩ, chính gia đình này, cái gia đình mà mình
đang sôhg đã làm cản bước đi cho con đường văn chương nghệ thuật của mình.
Đế giải tỏa nỗi buồn đau ấy, bế tắc ấy, Hộ đã dùng rượu, mượn rượu đế mong
được vơi đi nỗi đau khổ đang đè nặng trong tâm tư của anh. Nhưng, men rượu

36
không làm cho Hộ bừng tỉnh lại mà rượu đã làm cho Hộ thay đổi cả tâm tính
“thay đổi quá lớn thật đán g sợ” có lúc: “Hắn đ ã đ ổ xuống như một khúc gỗ
xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết” có lúc “hắn lảo đảo bước vào nhà”,
“mất gườm gườm, dôi môi mím chặt...”. Thô bạo hơn! tàn nhẫn hơn! có lúc hắn say
rượu lại đánh đập, mắng chửi mẹ con Từ không một chút ngượng mồm “hấn đòi
vật một nhát cho chết cả mẹ con T ừ ’, hắn mắng Từ thậm tệ, hắn nói “chỉ biết ăn
rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thèm việc gì cho
có tiền”, “chỉ k h ổ thằng này thôi ... chỉ k h ổ thằng này thôi Nhưng lúc hắn tỉnh
rượu, hắn “rón rén ” lại gần bên Từ “xin lỗi T ừ ’, “hôn hít các con như một người
cha tốt” rồi hắn tuyên bô' bỏ rượu, chừa rượu, nhưng cái nghiệp văn chương vẫn
còn nặng nợ với hắn và sau đó, hắn lại say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi say. Cái vòng
luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn. Hộ phải trải qua những ngày tháng dằn vặt u uất,
đau khổ, bất lực, bế tắc không tìm được lôi ra và có lúc; “Hắn khóc nức nở” bên
Từ, đó là những giọt nước mắt àn năn, đau khổ, muộn màng của Hộ là bi kịch
tinh thần đau đớn thứ hai của anh, khi tình thương là tất cả là trên hết, là
nguyên tắc sống cao nhất đôi với Hộ nhưng trong thực tế cuộc sông, Hộ đã tự
chà đạp lên nguyên tắc ấy, là nỗi đau đớn của người tri thức nghèo trong xã hội cũ
trước Cách mạng tháng Tám. Tại sao Hộ phải rơi vào những bi kịch tinh thần đau
đớn như thế? Qua những bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ trước cách
mạng, chứng tỏ, chế độ thực dân phong kiến lúc ấy, đã không biết trọng dụng
những người có tài năng và tâm huyết, xem thường thành phần trí thức, không tạo
cho họ có những cơ hội, môi trường để phát huy tài năng và thực hiện những hoài
bão chính đáng của mình và bên cạnh đó, cuộc sông của người dân quá cơ cực, lầm
than với “gạo châu củi quế”, “văn chưcmg hạ giới rẻ như beo”. Chính hoàn cảnh xã
hội lúc ấy, đã đẩy họ vào bước đường cùng, không lối thoát là nỗi buồn của một
thời đại đã qua cũng là nỗi đau chung không của riêng ai.

II. PHẢN KẼT


1. v ề nghệ th u ật: Ngôn ngữ bình dị, lời văn trong sáng, dễ hiểu, đi sâu vào
đời sông nội tâm nhân vật, lời thoại rất thật, gần gũi với tiếng nói của con
người đang sông giữa cuộc đời thường.
2. v ề nội dung: “Đời Thừa” khắc họa rõ nét nỗi đau khổ, tủi nhục của người
trí thức nghèo trước cách mạng. Nam Cao viết “Đời Thừa” như gióng lên một
tiếng chuông báo động về nỗi đau đớn của người trí thức trước cách mạng và
mong ước của tác giả là phải thay đổi hoàn cảnh, thay đổi cuộc đời ngột ngạt kia
và phải thay đổi xã hội lúc ấy. Nói như nhà văn Vũ Trọng Phụng là “xã hội chó
đểu" thì mới cứu lấy con người trí thức để họ được sông trong một xã hội tô't
đẹp, sẵn sàng đem tài năng, tâm huyết để công hiến cho đời, trở thành người
sông có ích, là giá trị, sức sông của truyện ngắn “Đời Thừa” hơn nửa thế kỉ qua.

37
H Ạ N H P H Ú C C Ủ A M Ộ T T A N G G IA
(Trích chưdng XV - tiểu thuyết “ Sô Đ ỏ”)
v ũ TRỌNG PHỤNG

Đề tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Anh (chị) giải thích tựa đề “H ạn h p h ú c c ủ a m ột ta n g g i a ” thuộc
chương XV- tiểu thuyết “S ố D ỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Câu 2: Anh (chị) phân tích chương XV “H ạ n h p h ú c c ủ a m ộ t ta n g g i a ”
tron g tiểu thuyết “S ố D ỏ ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng đế
thây rõ sức m ạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường đã hủy
hoại tâm hồn con người.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Giải thích tựa đề:
Tiểu thuyết “Sô Đỏ" của nhà văn Vũ Trọng Phụng là một kiệt tác văn chương
của nền vãn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Trong chương XV -
tiêu thuyêt “Sô Dỏ” có tựa đề “Hạnh phúc của một tang gia”, làm cho người đọc
ngờ ngàng, vì sao tang gia lại hạnh phúc? Từ xưa đến nay, nói đến hai chữ “tang
gia”, chúng ta lại nghĩ ngay, một gia đình có người chết là biểu hiện sự mất
mát, đau buồn khi người thân đã ra đi, nhưng tang gia ở đây lại hạnh phúc qua
cái chết của cụ tô là một thành viên cao niên, đã từng xây dựng cơ nghiệp cho
gia đình, cụ là ông nội, là cha, tại sao đám con cháu lại thể hiện niềm hạnh
phúc? Xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Thông qua cái chết của cụ Tổ là thời điếm thực hiện cái “chức thif, còn gọi
là bản di chúc, không còn viển vông mà nó trở thành hiện thực. Chứng tỏ mỗi
thành viên trong gia đình ai nấy đều nghĩ đến quyền lợi của mình khi bản di
chúc được thực hiện.
- Thông qua cái chết cụ Tổ, chính cái chết ấy là cơ hội nhằm phô trương cái
giàu, cái sang, cái hào nhoáng bên ngoài để người đời khen tụng một gia đình tư
sản giàu sang ở Ilà Thành và có một cái chết hoành tráng như thế, có cụ con
trai cả, già đến thế.
- Thông qua cái chết cụ Tổ là cơ hội cho đám con cháu thực hiện những toan
tính vị kỉ tầm thường điển hình như bà Văn Minh (cháu dâu của người chết) qua
cái chết ấy sẽ là cơ hội để bà lăng xê, quảng cáo về thời trang may mặc cho nhà
may của bà và cậu Tú Tân (người cháu nội của người chết) cũng qua đám tang
ấy, có cơ hội được bấm máy, trổ tài vặt của mình cho mọi người biết đến, trầm
trồ khen ngợi. Hàng loạt những nguyên nhân đã nêu, chứng tỏ tựa đề

38
“Hạnh phúc của một tang g ia ” với ngòi bút trào lộng của nhà văn Vũ Trọng
Phụng nhằm nói lên một sự thật, một sự thật phũ phàng, xót xa, tàn nhẫn khi
sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường của con người được đề cao, ngự trị
đã biến các thành viên trong gia đình người chết không còn tình thương và đạo
lí đó là ý nghĩa nội dung của tựa đề.
Câu 2 : P h ân tích chương XV “H ạ n h p h ú c c ủ a m ộ t ta n g g i a ” tron g tiểu
thuyết “S ố Đ o” củ a nhà văn Vũ Trọng Phụng.
3 0 ững kiến th ứ c c ầ n nắm:
1. Nhà vàn Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là: “ô n g vua phóng sự đất Bắc".
2. Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng bày tỏ về xã hội đương thời ở đâ't Hà Thành
ngày ấy như sau: “Một xã hội quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông
dâm bôn, một xã hội chó đểu ”. (Vũ Trọng Phụng)
3. Có ý kiến rằng: “Đánh mất lòng tự trọng ở con người chỉ còn là cái chêt, cái
chết tâm hồn ”. (“Một người Hà N ội” - Nguyễn Khải)
4. Nhà văn Vũ Trọng Phụng nhận định về đám tang của cụ Tổ trong chương
“Hạnh phúc của một tang g ia ” như sau: “Đám tang một người hay đây là cuộc
hành trình xuống mộ của toàn xã h ội”. (Vũ Trọng Phụng).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Tiểu thuyết “S ố đỏ" của nhà văn Vũ Trọng Phụng là một kiệt tác văn chương
của nền văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Đặc biệt ở chương XV “Hạnh
phúc của một tang g ia ” ngòi bút trào lộng của Vũ Trọng Phụng, ông đã phơi bày
một sự thật đau lòng, bỉ ối khi sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường của
con người làm tha hóa biến chất thành phần tư sản ở Hà Thành lúc bấy giờ, lộ
nguyên hình là những kẻ vong ơn, suy đồi đạo đức. cần khám phá chương XV trong
tiểu thuyết “S ố Đỏ” đế’ thấy rõ thực trạng xã hội ở đất Kinh kì lúc bấy giờ?

II. PHẦN TRỌNG TÂM


1. Chi tiế t 1; Phơi bày sự tàn nhẫn, tán tậ n lương tâm củ a những
thành viên trong gia đình người chết.
Thông qua cái chết cụ Tổ, là người cao niên từng xây dựng cơ nghiệp cho gia
đình nhưng khi biết tin cụ qua đời, đám con cháu là những thành viên trong gia
đình, ai nấy đều “nhao lên”, rộn lên biểu hiện niềm vui vì họ hiểu rằng, quyền
lợi của mình sẽ được giải quyết cụ thể, bản di chúc được thực hiện với hình ảnh,
kẻ thì đi phát cáo phó, người thì thuê đội phường kèn... tất cả rộn lên niềm vui
trong lòng, biểu hiện sự tàn nhẫn, tán tận lương tâm của đám con cháu bất hiếu
và một hình ảnh không ai ngờ là cụ cố Hồng, người con trai cụ Tổ, khi xác của

39
cha mình chưa liệm còn nằm ở dưới nhà thì trên căn gác, ông lim dim từng điếu
thuôc phiện, mơ màng nghĩ đến một đám tang thật lớn, thật hoành tráng được
người đời khen tặng. Càng xót xa thay, khi lim dim trong khói thuôc phiện, tìm
lạc thú, ông lại nghĩ ngay, khi đám tang đưa đi, được mặc bộ đồ xô gai, chông
gậy, ho lụ khụ vừa khóc mếu lúc ấy người đời sẽ trầm trồ “ú i kìa! Con trai người
chết, g ià đến th ế k ia ”. Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tác giả đi sâu vào đời sông
nhân vật, hiểu rõ những suy nghĩ thật tàn nhẫn, quái gở của một người con trai
cả, trước cái chết của cha mình mà không hề nghĩ đến sự tiếc thương, đau đớn,
chứng tỏ một gia đình tư sản thành thị suy đồi đạo đức. Tiếp đến hình ảnh ông
Văn Minh, cháu nội của người chết, từng đi du học ở Pháp nhiều năm nhưng
chẳng có bằng cấp gì, khi trở về, ông ấy mở một nhà may lấy tên là “Văn M inh”
tại đất Hà Thành. Khi hay tin cụ Tổ chết, Văn Minh lại nghĩ ngay đến “cái chúc
thứ” không còn viển vông nữa mà trở thành hiện thực, chỉ cần mời luật sư đến
chứng kiến là được phân chia tài sản. Đây là một suy nghĩ tàn nhẫn khi sức
mạnh đồng tiền đã đánh mất lương tri con người. Còn vợ của Văn Minh thì sao?
Quả thật, chồng nào vỢ nấy. Bà Văn Minh là người cháu dâu của gia đình nhưng
lúc ấy, suy nghĩ của bà mong lễ phát phục thực hiện sớm, bà sô"t cả ruột vì xác
của cụ Tổ vẫn nằm đó. Bà mong lễ phát phục sớm, sẽ là cơ hội để bà được bận
bộ đồ xô gai tân thời nhằm lăng xê, quảng cáo cho nhà may của mình. Còn cậu
Tú Tân, em trai ông Văn Minh thì sao? Cậu ấy cũng giông tâm trạng như người
chị dâu, cũng sô't lên cả ruột, mong lễ phát phục thực hiện sớm, để được bấm
máy, được người đời khen tặng về tài vặt của hắn. Và một tình huông xảy ra
thật bỉ ổi, đáng sợ, khi xác cụ Tổ vẫn nằm đó, chưa tính toán chuyện lễ phát
phục thì cả gia đình lại nghĩ đến chuyện “đám cưới chạy tang cho cô Tuyết”, em
gái ông Văn Minh cũng là cháu nội người chết, một cô gái tân thời hư hỏng, đã
hứa hôn với một người nhưng lại tư tình với Xuân Tóc Đỏ. Cả nhà sợ rằng, qua
cái chết của cụ tổ, việc thực hiện đám cưới sẽ trì hoãn đến ba năm, họ sợ những
chuyện không tốt, hậu họa sẽ xảy đến với gia đình, có khác gì như chứa bom
trong nhà không biết nổ lúc nào. Quả là một cảnh tượng suy đồi về đạo đức của
gia đình tư sản thành thị ở đất Hà Thành:, đúng như lời nhận định của tác giả:
“Một xã hội quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một xã
hội chó đểu ”.

2. Chi tiế t 2: Phơi bày sự dị hỢm, lô lăng trong cản h đám tang.
H ình ảnh 1: Một hình ảnh lô" lăng, dị hợm qua ngòi bút miêu tả của Vũ
Trọng Phụng, ở đây là những tên tai to mặt lớn, bạn của cụ cô' Hồng, những kẻ
đại diện cho bộ máy chính quyền thống trị lúc ấy nhưng khi đến phúng điếu, họ
toàn đeo trên ngực đủ loại huân chương nào là “B ắc đẩu bội tinh, Long bội tinh,
Vạn tượng bội tinh, Cao Miên bội tinh ...” tưởng chừng như đây là cuộc tổng
duyệt binh của quân đội thực dân Pháp. DỊ hợm thay! Dơ dáy thay! trên mép và
40
dưới cằm của các vỊ tai to mặt lớn ấy có đủ loại râu ria “ngđn có, dài có, đen có,
hung hung có, lún phún có, rầm rậm có, loăn quăn có”, trông thật là buồn cười,
dị hợm, thiếu lịch sự, phi văn hóa, thế mà những vị ấy là những kẻ đại diện cho
chính quyền, cho bộ máy thông trị lúc bấy giờ. Thật bỉ ổi đáng lên án.
H ình ản h 2: vẫn những tên tai to mặt lớn, ăn trên ngồi trước khi nhìn thấy
cô Tuyết xuất hiện, một cô gái tân thời hư hỏng, lúc ấy họ đứng bên linh cữu
người chết tỏ vẻ cảm động hơn nhưng không phải để thương tiếc cho người chết
mà mong được người đẹp chiếu cố, để ý để được nhìn làn da trắng trên đôi cánh
tay của cô Tuyết. Với cái nhìn của Vũ Trọng Phụng cho đây là “cái dâm lộ liễu”
của các vỊ ấy. Quả thật, một sự suy đồi đạo đức trầm trọng của giai cấp tư sản
cùng những kẻ có thế lực lúc bấy giờ.
H ình ản h 3: Một hình ảnh thật đáng sợ về người cháu nội gái là cô Tuyết
được mệnh danh là “cô g ái tần thời hư hỏng”. Lúc ra mời trầu, mời thuôb lá
nhưng cô ăn mặc thật hở hang, lô' lăng, gợi dục với bộ y phụ c “Ngây thó” bằng
chiếc áo dài voan mỏng phía trong chỉ có “coóc-sê, hở cả nách và nửa vú”, thì hỏi
rằng đạo đức của một gia đình tư sản thành thị ở đâu khi dục vọng tầm thường
của con người đã làm cho họ tha hóa biến chất. Đặc biệt trên khuôn mặt cô
Tuyết với “một vẻ buồn lãng m ạn” thật đúng mô't của một nhà có tang. Đây là
cách miêu tả trào lộng, mỉa mai, châm biếm của Vũ Trọng Phụng nhằm vạch
trần hình ảnh một người cháu gái dù đã hứa hôn với một người nhưng lại trông
chờ người tình Xuân Tóc Đỏ chưa đến phúng điếu nên mới có nét buồn lăng mạn
như thế. Quả thật, ngòi bút độc đáo của Vũ Trọng Phụng, ông đã lột tả được
chiều sâu trong tâm hồn một cô gái tân thời hư hỏng thật tinh tế, rõ nét.

3. Chi tiế t 3: Phơi bày sự dối trá , đồi bại tron g cản h đ ư a tang.
H ình ảnh 1: Một đám tang thật lớn, thật to, thật hoành tráng, long trọng,
nào là “Kèn Ta, Kèn Tây, Kèn Tàu”, “kiệu bát cống, lợn quay đi lọng... và vòng
h oa”, có đến ba trăm câu đôl, “vài ba trăm người đi đưa” kể cả hai tên cảnh sát
giữ trật tự. Hàng loạt hình ảnh liệt kê, tiêu biểu, chứng tỏ một đám tang thật
to, thật sang, thật hoành tráng nhưng đó là cái bề ngoài, hình thức bên ngoài
nhằm phơi bày cái giàu cái sang của một gia đình tư sản thành thị ở Hà Thành.
Nhưng điều cơ bản nhất là cái bên trong đám tang ấy, nó vẫn thiếu một yếu tô'
thật quan trọng, cơ bản làm nền tảng cho giá trị đạo đức đó là “tình thương”,
yếu tô' tình thương hoàn toàn không có trong đám tang ấy. Chính “tình thương
là nguyên tắc sống cao nhất của con người là thước đo giá trị con người” nhưng
thực chất trong đám tang ấy làm gì có hai chữ “tình thương”. Chứng tỏ cái sang
trọng kia, to tát, hoành tráng kia trong đám tang ấy đều trở thành vô nghĩa.
H ình ả nh 2: Đám tang cứ đi, bên ngoài ai nây đều trầm trồ một đám tang to
thật, long trọng thật nhưng họ có hiểu đâu, bên trong cảnh đưa tang ấy, hiện

41
hình nỗi xót xa mỉa mai khi đạo đức con người đã suy đồi, sức mạnh đồng tiền
và dục vọng tầm thường của con người đã ngự trị thì cái to lớn kia, cái long
trọng kia có ý nghĩa gì. Có ai ngờ rằng, những người đi đưa ma, ai nấy với bộ
mặt nghiêm chỉnh thế hiện đúng diện mạo của người đi đưa ma nhưng oái oăm
thay, cái bên trong của nó thật bỉ ổi đó là lúc họ vừa đi vừa thì thầm “về vợ con,
về nhà cửa, về một cái tủ mới sám, một cái áo mới may”. Họ chú trọng, bàn
chuyện về đời sống vật chất, lôl sông thực dụng, thì hỏi rằng, việc đi đưa tang
của họ chỉ là cơ hội đế thỏa mãn những chuyện riêng tư cá nhân mà thôi. Quả
thật, một đám tang bỉ ổi đáng ghê tởm. Và hình ảnh những người đưa tang ở
đây là giai thanh gái lịch đất Hà thành, những người tiêu biểu cho sự văn minh,
lôi sông mới nhưng bên trong thật xấu xa, đồi bại. Khi những bộ mặt đưa tang
ấy vẫn biêu hiện sự buồn rầu đúng tâm trạng của người đi đưa tang, họ vừa đi,
họ lại vừa “chim nhau, cười tình với nhau, bình ph ẩm nhau, chê bai nhau, ghen
tuông nhau, hẹn hò nhau...”. Hàng loạt hình ảnh liệt kê biểu hiện bên trong
cảnh đưa tang thật lô lăng, dị hợm, đồi bại khi dục vọng tầm thường của con
người, khi dục ái khơi dậy, họ đã đánh mất lòng tự trọng, đánh mất nhân cách,
họ chỉ còn là cái chết, cái chết tâm hồn. Đúng như lời nhận định của nhà văn
Vũ Trọng Phụng: “Dám tang một người hay đây là cuộc hành trình xuống mộ
cứa toàn xã h ội”. Phải chăng, không chỉ đám tang một người đã nằm xuông mà
những người đi đưa tang, họ đã sôhg và hành động vô liêm sĩ, tán tận lương
tâm, đánh mâ't lòng tự trọng thì họ chẳng khác gì như những cái xác vô hồn, họ
cũng là cái chết, cái chết tâm hồn. Vậy, cuộc hành trình xuôhg mộ của một
người cũng chính cuộc hành trình xuôhg mộ của toàn xã hội được thu nhỏ mà ở
đây là lớp tư sản thành thị Hà thành đã mâ"t gôh, họ đánh mất nhân cách, đánh
mất cả lòng tự trọng là nỗi đau của một thời đại cũ, nỗi đau không của riêng ai.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. Về nghệ th u ật: Chương XV “Hạnh phúc của một tang g ia ” trích tiểu
thuyết “S ố đ ỏ ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Với ngòi bút trào lộng, sâu cay
thâm thúy, tình huôhg truyện sôhg động hiện thực đầy kịch tính, lời thoại đi
sâu vào nội tầm nhân vật.
2. Vể nội dung: Tác giả bóc trần một sự thật, một sự thật bỉ ổi, tán tận
lương tâm con người thông qua cái chết của một thành viên trong gia đình tư
sản đất Hà thành trước Cách mạng tháng Tám. Từ cái chết đã bóc trần một xã
hội suy đồi đạo đức, hủy hoại nhân cách khi sức mạnh đồng tiền và dục vọng
tầm thường của con người đã biến thành phần tư sản thành thị đất Kinh kì lúc
ấy trở thành những kẻ vô cảm, vô hồn, tha hóa, biến chất là nỗi đau của toàn xã
hội, nỗi đau của một thời đại đã qua.

42
VĂN HỌC LÃNG MẠN

HAI ĐỨA TR Ẻ
THẠCH LAM

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bức tran h đời sông của phố huyện
nghèo tron g tru yện ngắn “Hai đ ứ a t rẻ ” củ a nhà văn Thạch
Lam trích tron g tập truyện “N ắ n g trong vườn” (1938) qua dó
nêu lên cảm nhận của Anh (chị) về bức tran h ấy.

ỊBĨững k iến th ứ c cần nắm :


1. Nhà văn Nguyền Tuân nhận định về truyện ngắn 'Hai đứa trề”: "Đọc "Hai đíỉa trẻ”
thấy bận bịu uô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái sâu kin.” (Nguyền Tuân)
2. Lời tục ngữ có nói: "Đói cho sạch, rách cho thơm.
3. Lời cồ nhân có nói: "Bần cùng sinh dạo tặc”.
4. Lời ngLíời xưa có nói: “Cái khó, bó cái kh ôn ”.
5. Lời người xưa có nói: "Thương người như th ể thương thân ”.
6. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sổng cao nhất của con người. Kẻ
nào dửng dưng quay lưng trước nỗi đau kẻ khác, chỉ biết nghĩ cho sự sung
sướng của riêng m ình là kẻ dáng kh in h ”. (Lời nhận định)

HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Đọc “hai đứa trẻ” thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái, sâu
kín ” (Nguyễn Tuân).
Quả thật, khi truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam khép lại,
khơi gợi trong lòng người đọc bao hình ảnh quê hương êm ái qua bức tranh đời
sông của một phô" huyện nghèo thật hiu hắt buồn, gợi trong chúng ta bao nỗi ưu
tư trước cuộc sông của người dân phô' huyện ngày ấy.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Bức tranh dời sống của p h ố huyện nghèo trong “Hai dứa trẻ ”.
1. Phô' huyện lúc chiều về: Đọc "Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, qua nét bút
dung dị của nhà văn, gợi lại những âm thanh buồn. Với "tiếng trống thu không...
từng tiếng một vang ra” báo hiệu một ngày đã tàn cùng “tiếng ếch nhái kêu ran
ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” hòa với tiếng muỗi vo ve, tất cả là
những âm thanh quen thuộc gần gũi của quê hương, cho chúng ta nhớ lại bao
hoài niệm của một thời thơ ấu. Khi phiên chợ đã vãn, trên đâ't “chỉ còn rác rưởi,
vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá m ía” nằm chơ vơ, ngổn ngang. Lúc ấy xuất hiện "mấy
43
đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi, chúng
nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre” những gì người bán hàng bỏ lại, rồi chúng
góp nhặt mang về cải thiện cuộc sông gia đình. Nhìn chúng “Zom khom nhặt
nhạnh" có khác gì như những tâm hồn bơ vơ lạc lõng giữa cuộc đời. Hình ảnh
thật đáng thương, khi tuổi thơ của chúng bị đánh mất. Đây là bức tranh chiều
quê nơi phô" huyện thật buồn.
2. P h ố huyện lúc đêm về: Phố huyện khi đêm về, ta bắt gặp hình ảnh mẹ
con chị Tý, người mẹ quê nghèo chịu thương chịu khó, tâ't bật ngày cũng như
đêm vì mưu cầu cho cuộc sông nhưng cũng chẳng kiếm được bao nhiêu và hình
ảnh gia đình bác xẩm, người nghệ nhân mù, cả gia đình ngồi trên tấm chiếu,
trước mặt là cái thau trắng như họ đang chờ đợi một cái gì cho cuộc sông, đứa
con bò lê ra đất, nghịch với đất. Cảnh đời của họ đáng thương thật. Tiếp đến là
gánh phở của bác Siêu giữa không gian mênh mông, bóng bác chập chờn với
tiếng kêu kĩu kịt từ gánh phở vang lên một âm thanh cuộc sông của người dân
nghèo phố huyện. Và hình ảnh bà cụ Thi hơi điên, lúc chiều xuông bà thường
ghé quán Liên, mua cút rượu và ""uổng cạn sạch" cùng với “tiếng cười khanh
khách" rồi bà lảo đảo bước vào ngõ tôl. Và hình ảnh chị em Liên bên cửa hàng
tạp hoá nhỏ xíu mà mẹ Liên thuê lại của bà lão móm, nằm cạnh đường tàu bên
cái ga xếp, cửa hàng của Liên bán lèo tèo vài món hàng vặt vảnh, như dăm ba
bánh xà phòng, thuôc lào, rượu... nhưng cũng chẳng kiếm được bao nhiêu. Tất cả
hình ảnh ấy đã khắc họa cho bức tranh quê càng buồn hơn, thấm thìa hơn.
Hàng loạt hình ảnh với bao mảnh đời, bao số phận, tật nguyền có, bệnh hoạn
có, nghèo khổ có, tuổi thơ bị đánh mất cũng có. Tất cả được góp nhặt nơi phô"
huyện và được thu nhỏ bên ngọn đèn con của chị Tý, gợi cho chúng ta tìm thấy
cuộc sông phô" huyện lúc về đêm càng hiu hắt u buồn. Phải có một tình yêu quê
hương thắm thiết, gần gũi với con người và cuộc sông, thì tác giả mới khắc họa
bức tranh phô" huyện rõ nét và buồn đến thế. Và một hình ảnh khó quên là chị
em Liên đêm đêm vẫn đợi chuyến tàu đi qua như mơ về quá khứ, mơ về một ánh
sáng mới ở tương lai để mong kiếm tìm một chút ấm áp, hi vọng tin yêu trước
cuộc sông dù họ đang sông trong tăm tôi, cơ cực, nghèo khổ nhưng “cái khó
không bó cải kh ôn ” mà trong cuộc sông khôn khó ấy, vẫn gieo vào lòng họ niềm
tin yêu, một ánh sáng mới, hi vọng sẽ thay đổi cuộc đời họ là vẻ đẹp đáng quý
trong tâm hồn trẻ thơ và của người dân phô" huyện.
Cảm n h ận củ a em :
Nhìn lại bức tranh đời sông của phô" huyện nghèo lúc chiều về và khi đêm
xuông, gợi trong lòng chúng ta bao suy nghĩ. Trước tiên, ta liên tưởng âm thanh
của phô" huyện lúc chiều về và khi đêm xuô"ng trong truyện ngắn “H ai đứa trẻ”
của Thạch Lam với tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve mãi
măi là hình ảnh là âm thanh của quê hương đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi
con người vì mỗi người ai cũng có một quê hương để thương, để nhớ. Tiếp đến

44
chúng ta lại liên tưởng những mảnh đời, bao sô' phận, bao con người vẫn còn
sông trong tăm tôì nghèo khổ, bâ't hạnh, tật nguyền nhưng họ vẫn cam chịu,
vẫn sông, vẫn đem mồ hôi sức lực đổi lấy miếng cơm, tấm áo và hi vọng, ước
vọng ở một ngày mai tươi sáng, gợi cho người đọc niềm cảm thông, xót thương
quý mến. Hôm nay, chúng ta được sông trong bầu trời tự do độc lập, trong ánh
sáng cách mạng, nhưng quanh đây vẫn còn bao mảnh đời cơ cực bất hạnh trước
cuộc sống. Với những đứa trẻ lượm ve chai, những người tật nguyền hát rong trên
đường phố, những đứa trẻ lang thang đen đủi đứng ở các trục giao thông ngửa bàn
tay, chiếc nón, xin những đồng tiền nhỏ của người đi đường. Chúng ta cảm thấy
lòng mình, một nỗi buồn đau đáu và ước vọng làm sao và làm sao mọi người được
sống no đủ, trẻ thơ đều được cắp sách đến trường để cây đời lại xanh tươi là mong
ước chính đáng của mỗi con người không của riêng ai. Quả thật: “Đọc hai đứa trẻ
thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái, sâu kín ”.

II. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Truyện “Hai đứa trẻ”, không có cốt truyện, không có
những tình huông gây cấn, ly kì, lời văn gọn gàng trong sáng, hình ảnh tiêu
biểu sinh động, lôi kể chuyển nhẹ nhàng, ngôn ngữ giàu tính nhân dân.
2. Về nội dung: Tác phẩm để lại trong lòng người đọc bao hình ảnh quê
hương, dư vị của quê hương ngày ấy còn nghèo khổ và tăm tôl. Và trước cuộc
sông hôm nay, chúng ta có một cuộc sông tô't đẹp trong bầu trời độc lập tự do.
Chúng ta mong sao mọi người dân Việt được sông trong ấm no đầy đủ, tất cả trẻ
thơ đều được đến trường là niềm vui chung của dân tộc vì: “Có gì đẹp trên đời
hơn thế. Người yêu người sống đ ể yêu nhau”. (Tô' Hữu)

Để tuyển sinh: Anh/ chị giải thích vì sao chị em Liên đêm đêm vẫn
đợi chuyến tàu đi qua? _____________________

ỊHĨữ n s kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng: “Cuộc sống của con người là một quá trình kết hợp từ quá
khứ hiện tại và tương la i”. (Lời nhận định)
2. Có ý kiến rằng: “Đôi diện với thực tại là u buồn, tăm tối, nghèo k h ổ m à quá
khứ với bao hình ảnh tươi đẹp thỉ lòng người vẫn mơ về quá khứ đ ể được
sống lại những kỉ niệm đ ẹp ”. (Lời nhận định)
3. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đ ất ở. K hi ta đi, đất đã
hóa tâm hồn ”, (trích “Tiếng hát con tàu” - Chê' Lan Viên)
4. Có lời nhận định rằng: “Dù cuộc sổng người dân p h ố huyện vẫn sống trong
tăm tối, lầm lũi, cơ cực nhưng họ vẫn hi vọng, tin yêu vào cuộc sông, tin yêu
vào sự đổi thay”. (Lời nhận định)

45
H ướng d â n : Vì s a o c h ị e m L iê n d ê m d ê m vẫn d ợ i ch u y ên tà u d i qu a?
Hình ảnh đợi tàu của chị em Liên từng đêm nơi phô' huyện, cạnh con đường
tàu bên cái ga xép là một hình ảnh ấn tượng, khắc sâu trong tâm hồn người đọc
một cảm nhận đẹp, một khát vọng chính đáng của những người dân nghèo phô'
huyện, tiêu biểu là hình ảnh đợi tàu từng đêm của chị em Liên. Xuất phát từ
những suy nghĩ sau:
1. Chị em Liên thực hiện lời mẹ dặn: Từ khi bô Liên mât việc tại íĩà Nội,
cả gia đình dọn về quê ngoại tại huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nhằm giải
quyêt cuộc sông bê tắc của gia đình. Mọ Liên thuê một cửa hàng tạp hóa nhỏ của
bà lão cạnh đường tàu đế chị em Liên trông coi, bán hàng nhằm cải thiện cuộc
sông gia đình. Chiều chiều mẹ Liên thường ra quán và dặn dò chị em Liên: “Mẹ
vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống". Đây là lời dặn dò chính đáng của mẹ
Liên, bà mong được bán thêm vài món hàng khi tàu đến, may ra còn có một vài
người mua. Nhưng lời dặn dò này, không phải là nguyên nhân sâu xa trong việc
đợi tàu của chị em Liên mà việc đợi tàu của Liên và An còn mang một ước vọng
sâu xa khác.
2. Chị em Liên nghĩ về hiện tại: Từ khi bô' Liên mất việc ở Hà Nội, chị
em Liên cùng gia đình về quê ngoại, mẹ giao hai chị em trông coi cửa hàng tạp
hoá nhỏ được thuê lại, mong cải thiện cuộc sông gia đình. Ngày ngày, chị em
Liên đô'i diện với kẻ mua người bán, khi đèm về, hai chị em cảm thấy hiu quạnh
trông vắng, xung quanh đâu đâu cũng bóng tôi, nghèo khổ. Chiều xuông, hai chị
em ngồi đếm lại những đồng tiền nhỏ và cảm thây mình già đi, tuổi thơ bị đánh
mất và trong “dôi mắt Liên bóng tối ngập đầy”, xung quanh đâu đâu cũng là
bóng tôi. Chính giây phút ấy, Liên khao khát được nhìn về đoàn tàu, ánh sáng
của đoàn tàu từng đêm đi qua là biểu tượng cho cuộc sống văn minh sang trọng,
những toa tàu bóng loáng, sáng rực và ánh sáng của đoàn tàu không phải là
đóm sáng nhỏ nhoi như ngọn đèn con của chị Tý hay đóm lửa từ gánh phở của
Bác Siêu mà ánh sáng đoàn tàu là một vùng sáng, ánh sáng của vàn minh đô
thị và chị em Liên hi vọng, ánh sáng của đoàn tàu rồi đây sẽ xua tan bóng đêm
tăm tô'i nơi phô' huyện, đẩy lùi cuộc sông nghèo khổ của người dân phô' huyện
nhưng đó là khát vọng là ánh sáng của tâm tưởng mà chị em Liên cùng người
dân phô huyện đêm đêm vẫn cứ đợi, vẫn cứ chờ như đem lại cho họ niềm tin yêu
vào cuộc sông.
3. Chị em Liên nghĩ về quá khứ: Cả gia đình dọn về quê ngoại từ khi bô
Liên mất việc ở Hà thành, mẹ Liên giao cho hai chị trông coi cửa hàng tạp hoá
nhỏ xíu, bán vài món hàng vặt vãnh như vài bánh xà phòng, những phong thuôc
lào, diêm quẹt, đôi ba lít rượu... Cuộc sống nơi đây, hai chị em cảm thấy đơn
điệu, cứ ngày ngày tiếp cận với kẻ mua người bán, chiều xuôhg lại nghe những

46
âm thanh quen thuộc vọng lại rất buồn và đôi mắt Liên vẫn nhìn thây những
mảnh đời cơ cực nghèo khổ, những sô phận bất hạnh tật nguyền vẫn ngày ngày
tiêp cận trước cuộc sông như những thước phim cứ lặp đi lặp lại một nỗi buồn.
Và khi đêm xuông, đâu đâu cũng là bóng tôi, bóng tôi ngập đầy trong đôi mắt
của Liên. Liên mơ ước được sông lại với quá khứ với Hà Nội xa xăm, tưng bừng,
huyên náo, vui V G . Liên nhớ rất rõ, lúc mẹ có tiền nhiều, mẹ thường dẫn chị em
Liên đi chơi ở bờ hồ, chị em Liên được uô"ng những nước cô"c lạnh xanh đỏ, được
nhìn thây Hà Nội sang trọng, sáng rực, huyên náo là niềm khao khát về một
quá khứ đẹp của tuổi thơ. Trước giây phút ấy, chị em Liên mong được nhìn
chuyến tàu đêm đi qua như được trở về với hoài niệm, tìm lại một quá khứ đẹp.
Phải chăng, với chị em Liên, chuyên tàu từng đêm đi qua là biêu tượng cho sự
sang trọng, văn minh với những toa tàu sáng trưng lộng lẫy như đưa chị em
Liên về một thê giới khác, thê giới của hoài niệm là hình ảnh Hà Nội xa xăm
sáng rực, huyên náo như đem lại cho chị em Liên một chút ấm áp, niềm tin yêu
trước cuộc sông còn nhiều khó khăn, tăm tôi giữa lòng phô" huyện này.

Để tuyến sinh: Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “H a i d ứ a t r ẻ ” của
nhà văn Thạch Lam trích trong tập “N ắ n g tr o n g vư ờn ”, xu ất
bản năm 1938.

122ững kiến thức cần nắm:


1. Có nhận định rằng: “Một tác phâm vân học chân chính có kh á năng nhân đạo
hóa con người”. (Lời nhận định)
2. Nhà văn Nguyên Tuân có nhận định về truyện ngắn ''Hai đứa trẻ" như sau:
“Dọc hai đứa trẻ thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái, sâu
kin ”. (Nguyễn Tuân)
3. Có nhận định rằng: “Tình thương là thước đo g iá trị, nhân cách của con
người”. (Lời nhận định)
4. Lời người xưa từng nói: “Đói cho sạch, rách cho thơm ” hay “Bần cùng sinh
dạo tặc”. (Lời người xưa)
5. Có ý kiên rằng: “Cái khó không bó cái khôn mà cái khó làm rõ cái kh ôn ”. (Lời
nhận định)

HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Đọc “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam trích trong tập “Nắng trong vườn”
xuâ"t bẳn năm 1938. Khi trang sách khép lại, chúng ta vẫn còn nhớ rất rõ những
trang văn là những trang đời, biểu hiện tâ"m lòng của Thạch Lam luôn luôn đồng
cảm thương xót cho bao sô phận, mảnh đời cơ cực, nghèo khố của người dân phố

47
huyện và thấy được phẩm chất tô't đẹp của họ cùng ước mơ một cuộc sô'ng mới,
một ánh sáng mới sẽ làm thay đổi cuộc đời, sô" phận của họ. Những vấh đề ấy,
viết lên từ trái tim, vô"n sông, tài năng của nhà văn và hình thành những trang
văn lay động lòng người là thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Giá trị n h â n dạo trong truyện n gắ n “Hai d ứ a t rẻ ”.
1. Nhân dạo 1: Nhà văn đồng cảm thương x ó t cho người dân nghèo
phô huyện.
Chi tiết 1: Bao hình ảnh về con ngưò i trước cuộc sông của một phô' huyện lúc
chiều về và khi đêm xuô'ng qua ngòi tú t của Thạch Lam, khơi gợi người đọc
niềm thương cảm vô hạn. Hàng loạt hình ảnh với những đứa trẻ con nhà nghèo
ở ven chợ, mẹ con chị Tý, gia đình bác xẩm trên tấm chiếu cùng gánh phở của
bác Siêu chập chờn trong bóng tối, hình ảnh chị em Liên trong cửa hàng tạp
hóa nhỏ với tiếng muỗi vo ve và hình ảnh bà cụ Thi hơi điên lảo đảo đi vào ngõ
tôi. Tất cả, những hình ảnh ấy, được khắc họa rất rõ qua nét bút của Thạch Lam
là thế hiện bao sô' phận, mảnh đời cơ cực, nghèo khổ, tật nguyền, bệnh hoạn
được gom lại giữa lòng phô' huyện lúc đêm về như một xã hội thu nhỏ, nói lên
niềm đồng cảm thương xót của nhà văn trước cuộc sông nghèo khổ của người
dân phô huyện là thê hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
Chi tiết 2: Đọc “Hai đứa trẻ”, khi phô' huyện lên đèn, đâu đâu cũng là bóng
tôi, bóng tô'i ngập đầy trong đôi mắt của Liên, bóng tôi bao trùm các dãy tre
làng, bóng tô'i bao phủ các con đường ra sông, qua chợ, về nhà, xung quanh ngập
đầy bóng tô'i. Bóng tôi được lặp lại hơn ba mươi lần, càng cho ta thấy rõ cuộc
sông về đêm của phô' huyện vẫn tăm tôi cơ cực, nghèo khổ. Nhưng nói đến bóng
tôi, chúng ta lại suy nghĩ, bóng tô'i cũng là nguyên nhân hiện hình tội ác, đồng
lõa với tội ác nhưng bóng tô'i trong “Hai đứa trẻ” là bóng tôi của niềm đồng cảm
xót thương, bóng tô'i của sự nghèo khổ cơ cực, bóng tôi của sự cam chịu để hướng
về cuộc sông mới đó là niềm xót thương trăn trở của nhà văn trước cuộc sông
con người. Đặc biệt một hình ảnh đầy ấn tượng, thuyết phục, gieo vào lòng
người niềm ưu tư bận lòng khi cả phô' huyện chỉ còn lại ngọn đèn con leo lét
chập chờn nơi hàng nước của chị Tý và ngọn đèn huê kì của Liên “từng hột sáng
lọt qua phên nứa” cùng ánh lửa lấm tấm vàng từ gánh phở của bác Siêu tất cả
chỉ là đóm sáng, vệt sáng nhỏ giữa không gian phô' huyện lúc đêm về, càng thấy
rõ cuộc sông người dân phô' huyện, họ vẫn còn sông trong tăm tôi nghèo khổ lầm
lũi, cam chịu. Đáng nhớ nhâ't ngọn đèn con của chị Tý được khắc họa đến bảy
lần, càng thấy rõ tấm lòng của nhà văn luôn luôn ưu tư trăn trở trước cuộc sống
còn nhiều khó khăn của người dân nghèo phô' huyện là thể hiện tinh thần nhân
đạo trong tác phẩm.

48
2. Nhân đạo 2: ISThà văn th ể hiện phẩm châ't đẹp củ a người dân
nghèo ph ố huyện.
Nói đến Thạch Lam là nói đến tấm lòng yêu thương con người sâu sắc. õ n g
đã đi vào đời sôhg từng nhân vật từng con người mà sô' phận cửa họ là những
mảnh đời luôn luôn cam chịu cơ cực lầm lũi trước cuộc sống. Họ không kêu than,
trách hờn sô" phận, không tha hoá, biến châ"t, không “bẩn cùng sinh đạo tặc” mà
mỗi số phận, mỗi mảnh đời dù nghèo khổ, tật nguyền, bệnh hoạn, tuổi thơ bị
đánh mât. Họ vẫn sông với lòng tự trọng, sẵn sàng đem sức lao động của chính
bản thân đế đổi lấy miếng cơm manh áo dù họ nghèo thật nhưng lòng họ vẫn
thơm “giấy rách vẫn giữ lấy lề” là phẩm chất đẹp của người dân nghèo phố huyện.

3. Nhân dạo 3: Nhà văn ư ớ c vọng m ột cuộc sô"ng mới, m ột ánh sáng
mới cho người dân phô huyện.
Hình ảnh đợi tàu của chị em Liên là hình ảnh ấn tượng sâu sắc nhất khi
trang sách “Hai dứa trẻ” khép lại. Nó biểu tượng cho sự khao khát, mong đợi
một cuộc sông mới, một ánh sáng mới không phải là một đô"m sáng, vệt sáng
nhỏ nhoi, hiu hắt như ngọn đèn con của chị Tý, ngọn đèn huê kì trong cửa hàng
tạp hóa nhỏ xíu của Liên hay ánh lửa lấm tấm vàng từ gánh phở của bác Siêu
mà ở đây là vùng sáng rộng lớn, lấp lánh sự sang trọng, một thứ ánh sáng từ
hình ảnh của đoàn tàu để xua tan bóng đêm, tăm tôi, nghèo khổ, lạnh lùng nơi
phô' huyện dù đó là khát vọng là ảo ảnh là tâm tưởng vì hoàn cảnh xã hội vẫn
chưa thay đổi nhưng chị em Liên cùng người dân phô' huyện, đêm đêm họ vẫn
đợi, vẫn chờ chuyến tàu đi qua như một nhu cầu tinh thần, nguồn động viên
giúp họ tin yêu vào cuộc sông ở ngày mai. Hiểu rõ niềm khao khát của người
dân phô' huyện là thể hiện tấm lòng của nhà văn luôn luôn trăn trở, ưư tư đến
cuộc sông của con người, sô' phận con người là thể hiện tinh thần nhân đạo làm
nên sức sống giá trị cho thiên truyện ngắn “Hai đứa trẻ” hơn nửa thê' kỉ qua.

II. PHẦN KẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với giọng văn nhẹ nhàng,
những tình huông như cơn gió thoảng, những nhân vật gần gũi, chân thật, thấm
đẫm dư vỊ quê hương.
2. v ề nội dung; Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” nêu lên cuộc sống nghèo khổ tăm tô'i
của người dân phô huyện với niềm xót thương vô hạn của nhà văn và mong ước hi
vọng, họ sẽ tìm thấy một ánh sáng mới, xua tan bóng tối, cơ cực, nghèo khổ để
hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Tất cả thể hiện qua những trang văn như những trang
đời thấm đẫm tình người, lấp lánh tính nhân văn. Quả thật “Hai đứa trẻ” là “tác
phẩm văn học chân chính có khả nâng nhân dạo hóa con người”.

49
C H Ữ NGƯỜI TỬ TÙ
NGUYỄN TUÂN

Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: T ruyện ngắn “C h ữ n g ư ời tử tù ” củ a nhà văn Nguyễn Tuân
trích tron g tập “V an g b ó n g m ộ t t h ờ i” xuâ't bản năm 1940 có bao
nhiêu tự a đề. Anh (chị) giải thích ngắn ngọn ý nghĩa của mỗi
tựa đề.
Câu 2: Anh (chị) phân tích nhân v ật ông H uấn Cao tron g truyện
ngắn “C h ữ người tử tù ” củ a nhà văn Nguyễn Tuân để làm sáng
tỏ vẻ đẹp tà i năng, khí phách, nhân cá ch củ a chính nhân v ật -
ông H uấn Cao.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. T ruyện ngắn “C h ữ n g ư ời tử tù ” có bao nhiêu tự a đề?
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân lần đầu tiên có tựa
đề là “Dòng chữ cuối cùng” được in trong tạp chí “Tao đ àn ” năm 1938. Sau đó
tựa đề “Dòng chữ cuối cùng” được thay bằng “Chữ người tử tù” trích trong tập
truyện “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940. Đây là một tập truyện đặc sắc
được xem như một kiệt tác nhằm ca ngợi những thú chơi tao nhã như thú chơi
chữ, đánh cờ... của người xưa thời phong kiến.
Ý nghĩa mỗi tựa đề:
a. T ự a đ ề 1: “D òn g c h ữ c u ố i c ù n g ”: ông Huấn Cao một nhà thơ lớn có tên
là Cao Bá Quát bút hiệu Chu Thần, ông làm một chức quan dưới triều Tự Đức.
Ông đứng về phía nông dân đòi lại quyền lợi cho họ nhưng cuộc đấu tranh thất
bại. Ông bị kết án tử hình rồi đưa về trại giam tỉnh Sơn cùng năm đồng chí chờ
ngày hành quyết. Suô't nửa tháng sôhg trong nhà lao, cuối cùng ông đã hiểu ra
được ngục quan là ngưdi có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, biết trọng người tài,
người có khí phách, yêu cái đẹp, có sở thích thanh cao. Và ông Huấn Cao quyết
định cho chữ ngục quan trong đêm cuôl cùng tại nhà giam tỉnh Sơn dù ngày mai
ông Huấn Cao sẽ giải về Kinh hành quyết. Từ đó mới có tựa đề là “Dòng chữ
cuối cùng”.
b. T ự a đ ề 2: “C h ữ n gư ời tử tù ”: ông Huấn Cao, một nhà thơ lớn có tên là
Cao Bá Quát làm một chức quan dưới triều Tự Đức. ông đứng về phía nông dân,
làm cuộc đấu tranh nổi dậy để đòi lại quyền lợi cho nông dân. Cuộc đấu tranh thất
bại, ông bị kết án tử hình và chờ ngày hành quyết. Những ngày sông trong đề lao
tỉnh Sơn, ai ngờ ngục quan là người biết yêu cái đẹp, chữ viết đẹp của ông Huấh
Cao và khao khát mong được ông Huấh Cao cho chữ. Thầy thơ lại như là chiếc cầu

50
nôl, đã giúp cho ông Huấn Cao hiểu được ước vọng của ngục quan là muốn được
chữ viết của ông. ông Huấn Cao ngỡ ngàng trước sở thích cao quý của viên quản
ngục và hiểu được viên quản ngục có một “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”. Cuối cùng
ông Huấn Cao quyết định cho chữ trước giờ phút cuôl cùng để ngày mai về kinh
hành quyết vì thế có tựa đề “Chữ người tử tù”.
Câu 2. Phân tích vẻ đẹp tài năng, khí phách, nhân cách của ông Huấn Cao.
ỊSEững kiến thức cần nắm:
1. “Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét về nhân vật Từ Hải
như sau: “Chọc trời khuấy nước m ặc dầu. Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.”
(Nguyễn Du)
2. Nhà thơ Tô" Hữu ca ngợi về cái chết đẹp: “Có cái chết hóa thành bất tử”.
(Tố Hữu)
3. Lời cồ nhân có nói; “Bần tiện bất năng di. Phú quý bất năng dâm. Uy vũ bất
năng khuất". Ý nói: Nghèo khổ không thay lòng đổi dạ. Giàu sang đừng ham
dục vọng tầm thường. Trước bạo lực không cúi đầu khuất phục.
4. Ông Huấn Cao bày tỏ quan niệm sông của mình: “N hất sinh đ ê thủ bái hoa
m ai”. Ý nói: Cuộc đời của ta chỉ biết cúi đầu trước hoa mai mà thôi.
5. Ngạn ngữ phương Tây có nói: “Đứng trước một trí tuệ vĩ đ ại tôi cúi đầu. Đứng
trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ g ối”.
6. Nhà văn Pháp Musset có nói: “Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”.
(Musset)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có cái chết hóa thành bất tử”
(Tố Hữu)
Một cái chết đẹp mãi mãi đi vào lòng người, bất tử với năm tháng. Đó là cái
chết vì cộng đồng vì quyền lợi của con người, mong cho con người có cuộc sông
tô"t đẹp. Cái chết ấy làm sao chúng ta quên được nhân vật ông Huấn Cao trong
truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân trích trong tập truyện
“Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940. Nhà văn đã khắc họa thành công về
tài năng, khí phách và nhân cách của ông Huấn Cao thật đẹp, lấp lánh tính
nhân văn.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ đẹp tài năng, k h í p h á ch , n h â n cá ch củ a ông H u ấ n Cao.
1. Vẻ đẹp 1: Ông H uấn Cao m ột nghệ sĩ tà i hoa, m ột tra n g anh hùng
dũng khí.
a, Một n gh ệ sĩ tài hoa: Nhắc đến ông Huấn Cao ta nhớ ngay nhà thơ Cao Bá
Quát có bút hiệu Chu Thần. Văn thơ của ông mang tính uyên bác, sâu rộng người
51
đời thường ca tụng rằng: “Văn như Siêu Quát vô tiền h án ”. Đặc biệt, ông Huấn
Cao có chữ viết rất đẹp, chữ ông “đẹp lắm vuông lắm ”, người đời ca tụng ngưỡng
mộ chữ viết đẹp của ông và có được chữ của ông Huấn Cao cho, như là “có một
báu vật trên đời”. Có được chữ viết đẹp, chữ viết vuông của ông Huấn Cao là nét
đẹp hình thức nhưng ngoài vẻ đẹp hình thức còn mang một vẻ đẹp khác trong
chữ viết của ông Huấn Cao, nó xuâ't phát từ cái tâm trong sáng, thanh cao của
ông thì ông mới có chữ viết đẹp, vuông như thế và trong chữ viết của ông Huấn
Cao, nó mang một ý nghĩa, một ý tưởng có giá trị ảnh hưởng rất lớn đến cách
sông của con người, của một đời người. Như vậy, nghĩ về ông Huấn Cao là nghĩ
về một người nghệ sĩ tài hoa với cái tâm trong sáng.
6 . Một tra n g a nh h ù n g d ũ n g khí: ông Huấn Cao làm một chức quan dưới
triều Tự Đức. Ông nhìn thấy bọn quan lại tham nhũng, suy đồi đạo đức, hà hiếp
bóc lột cuộc sông, quyền lợi của người nông dân. Cuôì cùng ông đứng về phía
nông dân đòi lại quyền lợi của họ bằng cuộc đấu tranh nổi dậy tại Mỹ Lương.
Nhưng cuộc đấu tranh thất bại vì mang tính tự phát, không có sự hậu thuẫn
rộng lớn của mọi tầng lớp nhân dân. Cuôì cùng ông bị khép tội và tử hình, tru di
tam tộc. Hành động của ông Huấn Cao biểu hiện khí phách của người quân tử,
kẻ trượng phu vì ông không đồng tình thỏa hiệp những điều xấu xa của bọn
quan lại, không vào luồn ra cúi mà chỉ biết ngẩng cao đầu nhằm thực hiện
quyền lợi cho con người cho người nông dân. Hành động của ông là hành động
dũng cảm, hành động của một trang anh hùng dũng khí thật cao đẹp.
2. Vẻ đẹp 2: ô n g Huân Cao b ât khuất trong đề lao.
а. Tình h u ố n g 1: ông Huấn Cao cùng năm đồng chí được chuyển về trại
giam tỉnh Sơn chờ ngày hành quyết. Khi sáu tên tử tù bước vào cửa trại giam
trên một chiếc gông rất nặng, mỗi đầu người chui vào một thang gông. Trước
mặt ngục quan và bọn lính canh, ông Huấn Cao dõng dạc quát tháo lên rằng:
“Rệp cắn tôi đỏ cả c ổ lên rồi. P hải rổ gông đ i”. Bâd thần ông Huấn Cao “khom
minh, thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đ á tảng đán h thuỳnh một cá i”
trước sự ngỡ ngàng của viên quản ngục và bọn lính gác. Hành động của ông
Huấn Cao thể hiện sự ngang tàng, bất tuân dù đôl diện với ngục quan, ông vẫn
xem là kẻ tiếu lại, hèn mọn đang sông trong cái ác, cái lọc lừa. Với ông chỉ biết
“nhất sinh đê thủ bái hoa m ai”, ông Huấn Cao chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai
mà thôi đó là vẻ đẹp của khí phách, vẻ đẹp của “uy vũ bất năng khu ất”. Hình
ảnh của ông Huấn Cao gợi cho chúng ta nhớ lại nhân vật Từ Hải trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du cũng ngang tàng như thế với lời thơ: “Chọc trời khuấy
nước mặc dầu. Dọc ngang nào biết trẽn đầu có a i” (Truyện Kiều).
б. Tình huống 2: Ngục quan khao khát được đối diện, trò chuyện với ông
Huấn Cao để mong ông nghĩ đến và cho chữ đó là ước vọng, ý nguyện từ lâu của
ngục quan. Khi ngục quan “khép nép” mở khóa cửa buồng giam đế mong gặp và tỏ
bày cùng ông HuỂLn Cao. Với cử chỉ “khép nép” của ngục quan biểu hiện sự ngưỡng

52
mộ, khuất phục trước một tài năng khí phách mặc dù ngục quan là kẻ đại diện cho
triều đình, phép nước, cho trật tự xã hội, còn ông Huấiì Cao là kẻ tử tù là giặc là
kẻ mất đi quyền sống, nhưng tài năng khí phách của ông Huấn Cao, đã làm cho
ngục quan phải “khép nép”, hoàn toàn thụ động. Chứng tỏ cái đẹp đã ngự trị lên
tất cả. Sau đó, ngục quan ôn tồn bày tỏ sự quan tâm của mình đối với ông Huấn
Cao, ngục quan nói: “Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lám. Nhưng
biết ngài là một người có nghĩa khi, tôi muốn chăm chước ít nhiều. Miễn là ngài
giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết thì phiền lụy cho tôi nhiều lắm ”. Và
ngục quan nói tiếp: “Vậy ngài có cần thêm gi nữa xin cho biết. Tôi sẽ cô gắng chu
tất”. Trước lời nói ôn tồn thể hiện tấm lòng của ngục quan đối với ông Huấn Cao
nhưng không vì thê mà ông Huấn Cao đồng tình đón nhận mà trái lại, ông Huấn
Cao biểu hiện một thái độ dứt khoát, bất cần. Òng Huấn Cao nói: “Ngươi hỏi ta
muốn gì? Ta chi muốn có một diều. L à nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Chỉ
một lời nói ngắn gọn, khẳng định, dứt khoát toát lên cái ngang tàng, khí phách,
bất khuất của ông Huấn Cao trong đề lao. Với ông, ngục quan chỉ là một tên tiểu
lại, sông trong đề lao là sống trong cái ác, cái xấu xa, lọc lừa, tội lỗi thì làm gì đối
diện cùng ông. ông quan niệm; “Nhất sinh đê thủ bái hoa m ai” ý nói đời ta chỉ
biết cúi đầu, bái lạy hoa mai mà thôi đó là khí phách, nhân cách của ông Huấn
Cao. Một phẩm chất cao đẹp của kẻ trượng phu, bậc quân tử.
3. Vẻ đẹp 3: ô n g H uấn Cao vẫn cho chữ, cùng với lời khuyên ngục
quan trước giờ phút cuôi cùng.
a. Ông H uấn Cao quyết địn h cho chữ: ồng Huấn Cao nhận được tin ngày
mai ông và Inăm đồng chí giải về Kinh hành quyết. Đẹp thay, khi nhận được
“phiến trát” của triều đình, ông Huấn Cao vẫn “mỉm cười” thanh thản, sẵn sàng
đón nhận cái chết như là một sự giải thoát đó là vẻ đẹp của khí phách. Và trước
giờ phút cuôl cùng, ông Huấn Cao vẫn sáng tạo ra cái đẹp, ông tặng chữ viết cho
ngục quan. Quả thật, việc cho chữ của ông Huấn Cao cũng là điều hiếm thấy. Vì
một tử tù, ngày mai giải về Kinh hành quyết, họ mất đi quyền sống, quyền làm
người nhưng đêm cuôì cùng ông Huấn Cao vẫn sáng tạo ra cái đẹp của nghệ thuật,
vẫn cho chữ ngục quan, kẻ đại diện cho phép nước, trật tự xã hội, quả là điều chưa
bao giờ xảy ra. Và cảnh tượng cho chữ trong buồng giam lúc ấy tăm tối, dơ bẩn,
phân chuột, phân gián bừa bãi trên đất, nhưng cái đẹp vẫn hiện hình, chứng tỏ
cái đẹp đã ngự trị lên tất cả, khuất phục tất cả. Hình ảnh ông Huẩh Cao càng đẹp
hơn khi “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng với tư thế uy nghi, đĩnh đạc cùng
bàn tay nghệ thuật như ngọn bút thần đã viết lên những chữ đẹp, dành tặng cho
ngục quan. Và lúc ấy, ngục quan lại “khúm núm”, cất những đồng tiền kẽm, còn
thầy thư lại “run run” bưng chậu mực, cả hai hoàn toàn trong tư thế thụ động, lo
lắng, càng toát lên khí phách của ông Huấn Cao lồng lộng giữa không khí trang
nghiêm của bó đuốc được thắp sáng trong buồng giam.

53
6 . Õng H uấn Cao cho lời khuyên'. Hình ảnh cuôi cùng khi ông Huấn Cao
cho chữ xong, ông còn đưa ra lời khuyên với ngục quan. Với ông, muôn gìn giữ
bảo vệ chữ viết đẹp, phát huy cái thiên lương cho lành vững thì ngục quan hãy
“nền tìm về nhà quê m à ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đ ã rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. ơ đây khó giữ thiên lương cho lành vững. Và rồi cũng
đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đ i”. Lời dặn dò của ông Huấn Cao đôi
với ngục quan có khác ^ như lời dặn dò của một người thầy đôi với người học trò
của mình, làm sao phải sông đẹp, biết gìn giữ cái đẹp. Trước giây phút cuôi
cùng, viên ngục quan “vái người tù một vái” như biểu hiện lòng khâm phục,
ngưỡng mộ trước một nghệ sĩ tài hoa, một trang anh hùng dũng khí, khác gì như
một ngôi sao chính vị sắp vụt tắt giữa không gian rộng lớn của vũ trụ nhưng
ngôi sao ấy vẫn tỏa sáng lấp lánh giữa bầu trời, rồi ngục quan nghẹn ngào, xúc
động cùng những dòng nước mắt rĩ vào kẽ miệng và bật thành lời: “Kẻ mê muội
này xin bái lĩn h ”. Hàng loạt cử chỉ, lời nói, thái độ, hành động của ngục quan
trước hình ảnh ông Huấn Cao, chứng tỏ tài năng và khí phách của ông Huấn
Cao đã ngự trị lên tất cả là phẩm châ't cao đẹp của người tử tù.

II. PHẦN KẾT THÚC


1. v ề nghệ thuật: Xây dựng tình huôhg sôhg động, đầy kịch tính, đi sâu vào
đời sông nội tâm nhân vật, lời thoại nhân vật rất thật, côt truyện mạch lạc, hấp
dẫn người đọc, dễ theo dõi.
2, v ề nội dung: Nhà vàn khắc họa thành công hình tượng ông Huân Cao
chính là nhà thơ lớn Chu Thần Cao Bá Quát. Với tài năng, khí phách, nhân
cách của ông Huấn Cao luôn luôn tỏa sáng giữa cuộc đời, mãi mãi hình tượng
nghệ thuật bất tử trong văn học.

Để tuyển sinh; Anh (chị) phân tích nhân v ậ t viên quản ngục trong
tru yện ngắn “C h ữ người tử tù ” của nhà văn Nguyễn Tuân trích
trong tập tru y ện “Vang bóng một thời” x u ấ t bản năm 1940 để làm
sáng tỏ phẩm ch â t đáng quý của ngục quan.

ỊHÍững kiến thức cầ n nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Gần bùn m à chẳng hôi tanh mùi bùn", (trích Ca dao)
2. Hình ảnh ngục quan được ví von như sau: “Hình ảnh ngục quan như một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản dàn mà nhạc luật đều hỗn loạn
xô bồ”, (trích “Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân).
3. Lời ngạn ngữ phương Tây có nói: “Đứng trước một tri tuệ vĩ đại tôi cúi đầu.
Đứng trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ g ố i”. (Ngạn ngữ phương Tây)

54
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Gần bùn m à chẳng hôi tanh mùi bùn”
(Lời ca dao)
Lời nói của người xưa, đưa người đọc hình dung một đóa sen sống trong bùn
lầy, nước đọng nhưng vẫn tỏa ngát hương thơm cho đời, mang nét đẹp thuần
khiêt, trong lành, biểu tượng cho người quân tử. Nét đẹp ấy, chúng ta nghĩ đến
nhân vật ngục quan trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn
Tuân trích trong tập truyện “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940. Hình ảnh
viên quản ngục dù sông trong đề lao với bao xấu xa, lọc lừa nơi chôn lao tù.
Nhưng đẹp thay, ngục quan vẫn có những sở thích cao quý là phẩm chất đẹp của
nhân vật.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


N h ữ n g p h ẩ m chất cao quỷ củ a n gụ c quan.
1. Phẩm ch ấ t 1: Ngục quan có những sở thích cao quý.
Nói đến ngục quan là một người coi tù, quản lí phạm nhân trong trại giam
gồm đủ mọi đôi tượng trong xã hội. Tâ4 cả đều thu gọn trong đề lao này V Ớ I
bao xâu xa, lọc lừa, cái ác luôn luôn hiện hình. Vai trò của viên ngục quan là
phải biết sông tàn nhẫn, không chế để cai quản nhà lao. Nhưng lạ thay,
ngục quan lại có một sở thích đặc biệt, là ông biết yêu cái đẹp, cái đẹp của
nghệ thuật qua chữ viết là thú chơi chữ tao nhã của người xưa đó là hình ảnh
ông Huấn Cao, nhà thơ nổi tiếng dưới triều Tự Đức, có tên là Cao Bá Quát.
Ngục quan ao ước, một ngày nào đó, có được chữ viết đẹp, chữ viết “vuông
lắ m ” của ông Huân Cao mà cho như “có m ột báu vật trên đ ờ i”. Đây là ước
vọng chính đáng về cái đẹp, cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của ý tưởng là
phẩm chất đáng quý của ngục quan.
2. Phẩm chất 2: Ngục quan khuất phục trước tài năng và khí phách của
ông Huấn Cao.
a. Tình h u ố n g 1: Cuộc gặp gỡ đầy kịch tính giữa ngục quan và ông Huấn
Cao toát lên hai hình ảnh hoàn toàn đôì lập. Hình ảnh ngục quan, một cai tù
đại diện cho phép nước cho trật tự xã hội. Còn ông Huấn Cao một tử tù, kẻ mất
quyền sôhg, chờ ngày hành quyết. Nhưng lạ thay, khi ngục quan mở cửa khóa
buồng giam của ông Huấn Cao, ngục quan lại “khép nép” bước vào, là cử chỉ biểu
hiện lòng ngưỡng mộ, kính trọng của ngục quan với ông Huấn Cao rồi ngục quan
bày tỏ tấm lòng của mình với tiếng xưng hô “tôi và ngài” và đưa ra một thiện ý
tô't, muôn biệt đãi ông Huấn Cao, nhưng ông Huấn Cao tỏ vẻ khinh thường,
55
bằng lời nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng
dặt chân vào đây”. Trước sự miệt thị, xem thường của ông Huấn Cao, ngục quan
vẫn im lặng từ tô'n bước ra với lời nói: “xin lĩnh ý ”. Hàng loạt cử chỉ, thái độ,
hành động, lời nói của viên ngục quan thể hiện sự khuất phục trước khí phách
và tài năng của ông Huấn Cao. Quả thật, “trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đ ầu ”,
ngục quan là con người có phẩm chất như thế.
b. Tỉnh h u ốn g 2:
Lúc cho chữ: Hình ảnh ông Huấn Cao uy nghi, đĩnh đạc dù cổ đeo gông, chân
vướng xiềng nhưng bàn tay của ông như ngọn bút thần vẫn sáng tạo ra cái đẹp
trước giờ phút cuôì của cuộc đời. Lúc ấy viên quản ngục lại “khúm núm” cất
những đồng tiền kẽm là biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ và kính phục trước tài
năng khí phách của ông Huấn Cao.
Lúc cho lời khuyên: ông Huấn Cao cho chữ xong, ông đưa ra lời dặn dò,
khuyên bảo ngục quan một cách chân tình như một người thầy dặn dò, khuyên
bảo người học trò phải sống như thế nào để bảo vệ cái thiên lương mới gìn giữ
cái đẹp. Trước giờ phút ấy, ngục quan vẫn cúi đầu lắng nghe lời dặn dò, chỉ bảo
của ông Huấn Cao như những lời di huấn quý báu mà ông Huấn Cao đã dành
cho ngục quan. Sau đó ngục quan “vái người tù một vái” cùng những giọt nước
mắt rỉ vào kẽ miệng, nói trong nghẹn ngào, xúc động: “kẻ mê muội này xin bái
lĩn h”. Hàng loạt cử chỉ, thái độ, lời nói và hành động của ngục quan, chứng tỏ
ngục quan khuất phục nghiên mình trước hình ảnh ông Huấn Cao. Hình ảnh
ngục quan có khác gì như: “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn
mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Phải chăng, cái thanh âm trong trẻo kia là
phẩm chất đáng quý của ngục quan.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ậ t: Xây dựng tình huôhg đầy kịch tính, đi sâu vào đời
sông nội tâm nhân vật, lời thoại của nhân vật chân thật, ngôn ngữ trong
sáng dễ hiểu.
2. v ề nội dung: Nhà văn khắc họa thành công nhân vật viên quản ngục như
một hình tượng nghệ thuật gần gũi chân thật dù sống trong cái ác, lọc lừa, xấu
xa của đề lao nhưng ngục quan vẫn có những sở thích cao quý và “tấm lòng biệt
nhỡn liên tài” là phẩm chất đẹp, khác gì đóa sen trong bùn “Gần bùn m à chẳng
hôi tanh mùi bùn”.

56
VỘI VÀNG
XUÂN DIỆU

Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau dây:


Câu 1: Anh/ chị giải thích ngắn gọn tựa đề “Vội v à n g ” tron g bài thơ
cùng tên của nhà thơ Xuân Diệu trích tron g tập “T h ơ T h ơ ”
xuâ't bản năm 1938 và nêu lên những ý chính củ a tá c phẩm,
Câu 2: Mở dầu bài thơ “Vội v àn g ” của nhà thơ Xuân Diệu có đoạn viết:
“T ôi m u ốn t ắ t n ắ n g đ i
C ho m àu đừng n h ạ t m ất
T ôi m u ốn b u ộ c g ió lạ i
C h o h ư ơ n g d ừ n g hay đ i ”
(Trích “Vội v à n g ” - X uân Diệu)
Anh (chị) phân tích những vần thơ trê n để tìm thây ý nguyện
củ a nhà thơ m uốn giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên trong
tâm hồn thi nhân.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Giải thích tự a đề “Vội vàng”:
Xuân Diệu đã từng thô"t lên:
“Mau với chứ! vội vàng lên với chứ! Eni ơi em! Tinh non sắp g ià rồi”
{“Giục giã" - Xuân Diệu).
- Xuân Diệu! ông hoàng của thơ tình, căm nhận về mùa xuân của đất trời thì
bất tận, vô tận “Xuân vẫn tuần hoàn ”. Nhưng mùa xuân của tuổi trẻ, tuổi thanh
xuân thì hữu hạn, ngắn ngủi. Với tuổi trẻ “chẳng hai lần thắm lạ i”. Khi mùa
xuân của tuổi trẻ đi qua, mùa xuân đã hết mà “Xuân hết nghĩa là tôi cũng m ất”
tuồi thanh xuân cũng không còn, đi vào lãng quên là bi kịch của con người, của
đời người cũng là bi kịch của thi nhân.
- Xuất phát từ dự cảm lo lắng băn khoăn về mùa xuân của tuổi trẻ, tuổi đẹp
nhâ't của một đời người, Xuân Diệu khao khát muốn trẻ mãi không già, muốn
được sông mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên với bao ước mơ đẹp để tận hưởng vẻ
đẹp của thiên nhiên và cuộc đời đó là lòng yêu đời, ham sống, sống hết mình
cho tình yêu tuổi trẻ là ý tưởng đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn là ý
nghĩa nội dung của tựa đề “Vộỉ vàng” cho bài thơ bất hủ của ông. Như vậy, ý
nghĩa “Vội vàng” trong thơ Xuân Diệu không có nghĩa là sông gấp, sông vội để
hưởng thụ mà phải sông hết lòng mình để tận hưởng mọi vẻ đẹp của đất trời và
cuộc đời.

57
Ý n gh ĩa nội d u n g bài thơ “Vội vàng”. Có ba ý chính:
Y 1: (Đoạn đầu bài thơ) Thê hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sông đến mê say,
ngây ngâ't của thi nhân.
ý 2: (Đoạn giữa bài thơ) Thể hiện nỗi băn khoăn, dự cảm lo lắng của thi
nhân trước cuộc đời.
Y 3: (Đoạn cuôi bài thơ) Thể hiện lòng yêu đời, ham sông lại bùng lên mãnh
liệt, hôl hả, cuồng say của thi nhân.
Câu 2: Phân tích đoạn thơ trên trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
3 2 ững kiến thức cần nắm:
1. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh bày tỏ về bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu: “Đây
là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời yêu sống đến cuồng nhiệt".
(GS. Nguyễn Đăng Mạnh)
2. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận định về nhà thơ Xuân Diệu: “Xuân Diệu là
nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ m ới”. (Hoài Thanh)
3. Có ý kiến rằng; “Thơ Xuân Diệu là tâm hồn Xuân Diệu” hay “Xuân Diệu là
Ông hoàng của thơ tinh Việt Nam". (Lời nhận định)
4. Có lời bày tỏ về Xuân Diệu: “N hà thơ Xuân Diệu đi vào th ế giới vĩnh hằng
nhưng ta vẫn cảm thấy ông và thơ của ông đang hiện diện giữa cuộc đời và
hát ca”. (Lời nhận định)
7. Bài thơ “Giục g iã ” của Xuân Diệu có viết: “Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em ơi em, tình non sắp già rồi”. {“Giục giã" - Xuân Diệu).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Nhà thơ Xuân Diệu d ã di vào th ế giới vĩnh hàng nhưng ta vẫn cảm thấy ông
và thơ của ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca)”, (lời nhận định).
Mở đầu bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, thi nhân có bày tỏ:
“Tôi muốn tát nấng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương dừng bay đ i”
(Trích “ Vội vàng' - Xuân Diệu)
Chúng ta tìm hiểu những vần thơ giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng qua nét
bút tài hoa Xuân Diệu để tìm thấy ý nguyện của thi nhân muốn giữ nguyên vẻ đẹp
của thiên nhiên, vẻ đẹp nguyên thủy mãi mãi nằm trọn trong tâm hồn của chính
tác giả.

58
II. PHÂN TRỌNG TÂM
Ý nguyện của nh à thơ muốn g i ữ nguyên vẹn vẻ đẹp thiên nhiên
“Vội vàng” là tiếng nói của một hồn thơ đẹp, một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc
sông, yêu thiên nhiên tạo vật đến cuồng nhiệt, hăm hở, náo nức toát lên một
quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thông Việt Nam.
Mở đầu bài thơ thế hiện một cảm xúc, một ước nguyện của thi nhân trước vẻ đẹp
thiên nhiên với tiếng gọi: “Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng nhạt m ất”.
Tiếng nói đầu tiên của “cái tôi trữ tình” là ước nguyện trong tâm hồn thi nhân.
Lời thơ “Tôi muốn tát nắng đ i” là ý nguyện của người thi sĩ muôn tác động vào
vũ trụ, không gian đế giữ nguyên vẻ đẹp ban đầu, trọn vẹn, vẻ đẹp thực của tạo
vật vì “nắng”, ánh nắng của mặt trời sẽ làm biến dạng, thay đổi bao sắc màu
tươi đẹp nguyên thủy của tạo vật, ánh nắng làm cho sắc màu không còn đẹp như
thuở ban đầu, vẻ đẹp thực, vẻ đẹp nguyên thủy của chính nó. Ánh nắng kia
chính là thủ phạm đá hủy diệt, làm tàn phai bao sắc màu mà có lần Xuân Diệu
đã thôt lên “Hơn một loài hoa đ ã rụng cành. Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
là thé hiện niềm thương tiếc trong tâm hồn thi nhân khi sắc hoa biến dạng
trước sự khắc nghiệt của vũ trụ đát trời. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, một
tình yêu thiên nhiên sâu sắc, Xuân Diệu mới viết lên những vần thơ hay đẹp
như thế! Tiếp đến nhà thơ lại bày tỏ: “Tôi muốn buộc gió lại. Cho hương đừng
bay d i” cũng là ước nguyện của thi nhân, muôn tác động vào vũ trụ, không gian,
muôn giữ nguyên hương sắc ngọt ngào, đậm đà của thiên nhiên khi mùa xuân
đê'n. Vì gió có thế làm cho hương bay đi, nhạt nhòa đi, gió sẽ cướp đi hương sắc
của thiên nhiên, gió sẽ làm tan dần, nhạt nhòa dần, mất dần nhụy hương của
bao loài hoa đẹp. Xuân Diệu hăm hở, muôn ôm trọn cả sự sông của thiên nhiên
vào tâm hồn mình để tận hưởng vẻ đẹp trọn vẹn “sắc không bao giờ p h ai và
hương không bao giờ n hạt” như lời bày tỏ của thi nhân: “Ta muốn ôm cả sự sống
mới, hắt đầu mơn mởn. Ta muốn riết mây đưa và gió lượn. Ta muốn say cánh
bướm với tình yêu. Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều ...” là vẻ đẹp của một
hồn thơ lãng mạn. Rồi nhà thơ như muôn thô't lên: “nắng ơi, hãy dịu lại và tắt
di, gió ơi, hãy dưng lại và ngưng thổi” đế thiên nhiên giữ mãi vẻ đẹp nguyên
thủy của chính nó vì nhà thơ lo sợ rằng, vẻ đẹp của sắc của hương trong hiện tại
sẽ chóng mất, chóng phai tàn rồi sẽ đi vào hư vô, quên lâng thì cuộc sông buồn
lắm, hụt hẫng lắm đó là nỗi lòng và ước nguyện của thi nhân.
N hận xét: Qua những lời bày tỏ của tác giả: “Tôi muốn tắt nắng đi. Tôi
muôn buộc gió lại" điều đó dường như vô lí, nghịch lí “xa rời cuộc sống” và
“thoát ly hiện tại” là ảo ảnh, ảo tưởng nhưng xét cho cùng, nó lại là điều có lí,
hợp lí của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sông tha thiết. Phải chăng:
“Thơ Xuân Diệu chinh là tâm hồn Xuân Diệu”.
Mở rộng: Chúng ta còn nhớ bài thơ “Cánh chiều hôm ” của Hồ Chí Minh (trích
trong tập “Nhật k í trong tù”) có viết: “Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng. Hoa tàn,

59
hoa nở cũng vô tình”. Những vần thơ là lời bày tỏ tấm lòng của tác giả thương tiếc
cho số phận một loài hoa sớm nở tôl tàn rồi thi nhân trách cho thời gian nghiệt
ngã, người đời vô tình. Nhưng phần mở đầu trong bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu
có viết: “Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng nhạt mất. Tôi muốn buộc gió lại.
Cho hương dừng bay đ i”. Với Xuân Diệu, nhà thơ không chỉ buồn khi nhìn sắc
màu phai vì nắng không chỉ thương khi nhìn hương của hoa nhạt nhòa vì gió mà
nhà thơ lại tác động vào vũ trụ, muốn không chế không gian, thể hiện bằng hành
động, tưởng chừng như vô lí, nghịch lí mà lại hoàn toàn hợp lí, có lí của một tâm
hồn yêu thiên nhiên tha thiết và tha thiết với thiên nhiên. Đây là một quan niệm
nhân sinh rất mới, rất hiện đại đúng như lời nhận định: “Thơ Xuân Diệu chính là
tâm hồn Xuân Diệu”.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Đoạn thơ mở đầu như một lời tự sự chân tình, nhịp thơ
êm đềm trầm bổng, giọng thơ giàu tính triết lí, giàu chất suy tưởng.
2. v ề nội dung; Thể hiện một tâm hồn tràn đầy sức sôhg, sông hết mình với
thiên nhiên, tạo vật với ước nguyện được giữ mãi vẻ đẹp nguyên thủy của thiên
nhiên. Đây là một qụan niệm nhân sinh rất mới, mới nhất đế làm nên một hồn
thơ bất hủ. Đúng như lời nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh: “Xuân Diệu
là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ m ới”.

Để tuyển sinh: Anh chị phân tích “S ự c ả m n h ậ n về th ờ i g i a n ” của nhà


thơ Xuân Diệu qua đoạn thơ sau tron g bài “V ội v à n g ” trích trong
tập “T h ơ T h ơ ” x u ấ t bản năm 1938 để tìm thấy nỗi băn khoăn, lo
lắng của nhà thơ trước cuộc đời.
X u ân d a n g tới n g h ĩa l à X u ân đ ư ơ n g q u a
X u ân cò n n on n g h ĩa l à X u ân s ẽ g ià .
M à X u ân h ế t n g h ĩa l à tô i cũ n g m ấ t
L ò n g tô i rộn g , n h ư n g lư ợ n g trờ i c ứ c h ậ t
K h ô n g c h o d à i th ờ i tr ẻ c ủ a n h â n g ia n
N ó i là m c h i r ằ n g X u ân v ẫn tu ầ n h o à n
N ếu tu ổ i tr ẻ c h ẳ n g h a i lầ n th ắ m lạ i!
C òn t r ờ i:đ ấ t n h ư n g c h ẳ n g cò n tô i m ã i
N ên h ă n g k h u â n g tô i t iế c c ả đ ấ t trờ i
M ùi th á n g n ă m đ ề u rớ m vị c h i a p h ô i
K h ắ p sô n g n ú i v ẫn th a n th ầ m tiễ n hiệt...
(Trích “Vội Vàng” - Xuân Diệu - 1938)

60
ữns kiến thức cần nắm:
1. Quan niệm của Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy d ài thế. Năm tháng vẫn đi qua.
Như biển kia dẫu rộng. Mây vẫn bay về xa.” (Sóng - Xuân Quỳnh )
2. Quan niệm Phật giáo: “Sinh, Lão, Bệnh, T ử ’. (Quan niệm Phật giáo)
3. Quan niệm Thiên Chúa giáo: “Nấm mồ là nơi trú ngụ cuối cùng của một đời người"
4. Xuán Diệu quan niệm về tình yêu: “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết. Trong
gặp gỡ d ã có m ầm ly biệt”. (Giục giã - Xuân Diệu) hay “Mau với chứ! Vội
vàng lên với chứ! Em ơi em! Tình non sắp g ià rồi”. (Giục giã - Xuân Diệu)
5. Xuân Quỳnh có viê’t: “Em đâu dám nghĩ, tình yêu là vĩnh viễn. Hôm nay yêu
mai có th ể xa rồi”. (Nói cùng Anh - Xuân Quỳnh)
6. Lời dân gian: “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đ i”. (Lời dân gian)
7. Xuân Diệu từng bày tỏ: “Mười Chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!" (Đẹp -
Xuân Diệu)
8. Cao Bá Quát có nói: “Xử thế nhược đại mộng” ý nói: Cuộc đời như giấc mộng lớn.
9. Lời cổ nhân: “Cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ". (Lời cồ nhân)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Cuộc dời tuy d ài thê
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
(Sóng - Xuân Quỳnh )
Thời gian là bất tận, vô tận, cuộc đời là hữu hạn, mong manh trước cái vô
cùng của không gian và thời gian rồi đi vào lãng quên vào hư vô. Y nghĩa ấy,
người đọc liên tưởng bài thơ “Vộỉ Vàng” cũa Xuân Diệu trích trong tập
“Thơ Thớ" xuât bản năm 1938. Thi nhân cũng cảm nhận về thời gian là vĩnh
cửu, còn tuổi xuân của một đời người sao mong manh, hữu hạn chợt đến rồi chợt
đi được thể hiện qua đoạn thơ sau:
Xuân đang tới nghĩa là Xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ già.
Mà Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
ỉjòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho d ài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng Xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trc chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
61
Mùi tháng năm đều rớm vị chia p h ôi
K hắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ...
(Trích “ Vội vàng"- Xuân Diệu năm 1938)
- Chúng ta cần đi sâu những vần thơ giàu sức biểu cảm, giàu châ^t suy tưởng
để tìm thấy “Sự cảm nhận về thời gian ” của Xuân Diệu là nỗi băn khoăn lo lắng
của nhà thơ trước cuộc đời.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


S ự cảm n h ậ n về thời g ia n củ a X uân D iệu qua đoạn thơ trên.
1. P hân tích 2 cầu đầu:
“Xuân đang tới nghĩa là Xuân dương qua.
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ g ià ”.
(Trích “ Vội vàng')
- Với nhịp thơ 3/5 trầm bỗng cất lên, ta cảm nhận, mùa xuân như đang nhịp
bước, nhún nhảy theo vận hành của thời gian. Hàng loạt từ ngữ “đang tới",
“đương qua” “Còn non” “sẽ g ià ” vừa tương ứng vừa đôì lập gợi người đọc thấy
được mùa xuân và thời gian đang vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân
và dòng chảy của thời gian là liên tục vô tận. Nhưng cái nhìn, cảm nhận của
Xuân Diệu trong hiện tại là “đang tới” nhưng đã nhuốm màu ly biệt là “dương
qua” trong dáng xuân “còn non” của hôm nay đã báo hiệu một tương lai “sẽ g ià ”.
Cách thế hiện trong thi pháp của Xuân Diệu về việc sử dụng từ ngữ rất mới,
chứng tỏ sự cảm nhận về thời gian thì vô tận còn mùa xuân của thi sĩ thì hữu
hạn trước cái vô cùng của vũ trụ. Một cảm nhận thật tinh tế, giàu sức biểu cảm,
một nét mới rất mới trong thơ Xuân Diệu để thấy được nỗi băn khoăn, lo lắng
của nhà thơ trước cuộc đời.
Liên hệ: Người đọc từng bắt gặp trong thơ Xuân Diệu về dự cảm ấy. Với tiếng
gọi; “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết. Trong gặp gỡ đ ã có mầm li biệt” hay “Mau
với Chứ! Vội vàng lên với Chứ! Em ơi em! Tình non sắp g ià rồi”. (“Giục g iã ” -
Xuân Diệu) và nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng có một dự cảm như thế: “Em đâu dám nghĩ
tình yểu là vĩnh viền. Hôm nay yêu mai có th ể xa rồi”. (Xuân Quỳnh)
2. Phân tích 7 câu tiếp:
“Mà Xuân hết nghĩa là tôi cũng m ất

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.


(Trích “ Vội vàng' - Xuân Diệu)
Đoạn thơ như nói lên “bi kịch của con người, đời người”. Với tiếng thì thầm
“mà xuân h ết”. Chứng tỏ tuổi trẻ, tuổi thanh xuân đã đi qua, tàn phai theo năm
tháng nghĩa là tôi sẽ không còn “tôi cũng m ất”, tôi sẽ đi vào lăng quên với năm
tháng, mất hết ý vị của cuộc đời. Mà nói đến tuổi trẻ, cái tuổi thanh xuân tràn

62
đầy sức sông đáng yêu biết bao! Nó tượng trưng cho tình yêu, ước mơ, hạnh phúc
mà mỗi người chỉ có một thời son trẻ nhưng rồi thời gian đi qua, tuổi trẻ thu
nhỏ lại, ngắn lại, hẹp lại và sẽ không còn hiện hữu, nghĩa là tôi cũng mất, cũng
hòa vào vũ trụ, vào không gian như lời tự sự tỏ bày nuôi tiếc của thi nhân: “Mà
xuân hết nghĩa là tôi cũng m ất”. Mạch cảm xúc của thi nhân tiếp tục cảm nhận:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật. Không cho dài thời trẻ của nhăn gian".
vẫn nhịp thơ 3/5 dìu dặt. Với tiếng gọi “lòng tôi rộng” như muốn nói lòng tôi
mênh mông, bao la rộng lớn, tôi muôn trường sinh bất tử cùng năm tháng, muôn
trẻ mãi không già để được tận hưởng với đâ't trời nhưng quy luật tạo hóa lại vô
cùng nghiệt ngã vì “lượng trời cứ chật” phải khép lại, đóng sầm lại không cho
tôi vươn dài trải rộng với thời gian với nhân gian như lời thầm thì, oán trách
của thi nhân: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật. Không cho dài thời trẻ
của nhân g ian ”. Đặc biệt với hai từ tương phản giữa “rộng” và “chật” nói lên cái
nghịch lí của đời người, bi kịch của con người cũng là bi kịch của thi nhân. Vì
sao lòng tôi rộng mở, muôn ôm trọn cả sự sông của tạo vật này, cuộc đời này
mãi mãi với thời gian, không gian nhưng “ý trời" không cùng đồng cảm, cùng
cảm nhận được “lòng tôi” mà lại nghiệt ngã với tôi, muôn khép chặt cuộc đời tôi
và trong lòng thi nhân cất lên như tiếng vọng buồn, lời than thở tiếc nuôi: “Nói
làm chi rằng Xuân vẫn tuần hoàn. Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Còn trời
đất nhưng chẳng còn tôi mãi. Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đ ất trời”. Tiếng thầm
thì “Xuân vẫn tuần h oàn ” người đọc hiểu rằng, Xuân của bốn mùa của đất trời,
tạo vật vẫn tuần hoàn, nôl tiếp, tiếp nôl, theo bước đi vô tận của thời gian với
“Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận” (Xuân qua, xuân đến, xuân mãi mãi) nhưng
một dời người chỉ có thời thanh xuân, một quảng đời tuổi trẻ, nó chỉ đến và qua
đi, chỉ có một lần, một thời khắc nhất định “Chẳng hai lẩn thắm lạ i” nói như
triết gia Hi Lạp - Hécralite: “Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông”
bao giờ. Nhưng đất trời, vũ trụ thì lại vĩnh hằng, trường cửu, vô hạn với thời
gian. Còn tuổi trẻ, đời người thì hữu hạn như thi nhân Cao Bá Quát từng thôt
lên: “Xử th ế nhược dại m ộng” ý nói cuộc đời như một giấc mộng lớn hay: “Cuộc
dời như bóng câu qua cửa sổ” thoáng thấy đó rồi lại mất đó, ngắn ngủi quá, tiếc
nuôi quá, kiếp nhân sinh, kiếp con người chỉ là bi kịch trước sự vô hạn khắc
nghiệt của thời gian. Vì trời đất thì còn mãi, hiện hữu mãi, vô tận nhưng còn tôi
“chẳng còn tôi m ãi” tôi chỉ là hữu hạn, có rồi mất, đến rồi đi, đi vào lãng quên
cùng năm tháng. Một dự cảm sẽ mất, sẽ không còn hiện hữu, sẽ không còn tôi
mãi ở cõi nhân gian, vì thế, thi nhân đã thể hiện niềm nuôi tiếc qua tiếng thơ:
“Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Tiếng gọi: “Tôi tiếc cả đ ất /rời”chính là
tiếng lòng của thi nhân, niềm nuôi tiếc không nguôi vì tuổi trẻ, tuổi thanh xuân
sẽ chóng qua, đâu còn trẻ mãi để tận hưởng vẻ đẹp của tạo vật, đất trời và cuộc
đời là thế hiện niềm khao khát sự sống, ham sống, tha thiết sông. Chính là lòng
yêu đời, yêu đất trời thiên nhiên tạo vật trong tâm hồn thi nhân. Một quan
niệm nhân sinh rất mới, rất Xuân Diệu.

63
3. P hân tích hai câu còn lại:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
K hắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ...”
(Trích “ Vội Vàng' - Xuân Diệu)
Tiếng gọi “mùi tháng năm ” và “vị chia p h ô i” là một cảm nhận rất mới trong
thơ Xuân Diệu. Hai tiếng “m ùi” và “vị" là nói về thời gian, năm tháng chia phôi,
chứng tỏ Xuân Diệu có một cảm nhận thật tinh tế, sâu lắng, nhạy cảm theo bước
đi của thời gian với cái mùi của nó, cái vị của nó. Chứng tỏ Xuân Diệu cảm nhận
dòng chảy thời gian rất độc đáo, giàu sức biểu cảm, rất thơ, rất mới, và nhà thơ
bồi hồi, cảm xúc khi lắng nghe bước đi thời gian như tiếng “than thầm tiễn biệt”
của sông núi, của đất trời cũng tiễn biệt tuổi thanh xuân ra đi, không bao giờ
thắm lại trong nuôi tiếc, bùi ngùi.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. Về nghệ thuật: Với ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, giàu hình tượng, giàu sức
biểu cảm, nhịp thơ hối hả, dồn dập, sử dụng thi pháp rất mới, rất Xuân Diệu.
2. v ề nội dung: Nhà thơ thể hiện một quan niệm về nhân sinh về cuộc đời
về tuổi trẻ, theo dòng chảy của thời gian. Thời gian là sự khắc nghiệt của tuổi
trẻ, tuổi thanh xuân là bi kịch khổ đau của con người, là nỗi băn khoăn, lo lắng
của nhà thơ trước cuộc đời. Qua đó mới thấy niềm khao khát sự sống, ham sống,
sống hết mình và yêu đời trong tâm hồn thi nhân là những ý tưởng đẹp của một
hồn thơ lãng mạn. Quả thật: “Thơ Xuân Diệu chính là tâm hồn Xuân Diệu”.

TRÀNG GIANG
HUY CẬN

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Anh (chị) ghi lại bài thơ “T ra n g G ia n g ” củ a nhà th ơ Huy Cận
từ đó nêu lên hoàn cảnh sáng tá c và chủ đề củ a tá c phẩm,
Câu 2: Anh (chị) phân tích khố thơ đầu tron g bài thơ “T r à n g G ia n g ”
củ a nhà thơ Huy Cận trích trong tập thơ “L ử a t h iê n g ” xu ất
bản năm 1940 dể làm sáng tỏ “T h ơ Huy C ận c h ín h l à tâ m h ồ n
Huy C ậ n ”.
S ó n g g ợ n T r à n g G ia n g b u ồ n đ iệ p đ iệ p
C on th u y ền x u ô i m á i n ư ớc so n g so n g
T h u y ền về n ư ớc lạ i s ầ u tr ă m n g ả
C ủi m ộ t c à n h k h ô lạ c m ấy d òn g .
(Trích “Tràng Giang” - Huy Cận)_______

64
HƯỚNG DẪN
Câu 1. Ghi lại bài thơ T r à n g G ia n g củ a nhà thơ Huy Cận.
1. B ài thơ: TRÀNG GIANG
“B âng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Sóng gạn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi m ái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
N ắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng


Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc


Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Trích tập thơ "Lửa Thiêng’ năm 1940 - Huy Cận)
2. Hoàn cảnh sáng tá c: Năm 1939, Huy Cận là một sinh viên trường Cao
Đẳng Canh Nông Hà Nội. Chiều chiều ông thường đạp xe ra bờ Nam bến Chèm
gần dòng sông Hồng đâ't Bắc. Trước trời rộng sông dài, bao la của vũ trụ, đã
khơi dậy trong tâm hồn thi nhân nguồn cảm hứng để viết lên bài thơ “Tràng
Giang”. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ đặc sắc của phong trào thơ
mới (thơ ca lãng mạn) in trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
3. Chủ đề: Huy Cận mượn cảnh đẹp thiên nhiên với trời rộng sông dài nhăm
bày tỏ nỗi lòng tâm trạng của thi nhân đang nhớ về quê nhà cùng tình yêu quê
hương đất nước.
Câu 2. P h ân tích khổ thơ dầu trong bài thơ “T r à n g G ia n g ” củ a nhà thơ
Huy Cận.
iSỈữkig kiến th ứ c c ầ n nắm :
1. Lời ca dao: “Sóng bao nhiêu gợn d ạ em buồn bấy nhiêu”. (Ca dao)
2. Thi hào Nguyễn Du có viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh
có vui dâu bao giờ”. (Nguyễn Du)

65
3. Nhà thơ Huy Cận bày tỏ nỗi lòng trước hoàn cảnh của đất nước: “Buồn đất
nước m à nặng tình sông núi”, (trích “Mai sau” - Huy Cận)
4. Nhà thơ Huy Cận bày tỏ: “Đau đời có cứu được đời đâu”. (Huy Cận)
5. Có lời nhận định rằng: “Chính nguyên nhãn thời đại đã chi phối hồn thơ của thi nhân”.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Sóng bao nhiêu gợn d ạ em buồn bấy ỉihiêu”.
(Ca dao)
Hình ảnh con sóng nước được hình tượng hóa như con sóng tình dạt dào
trong tâm hồn người con gái với bao nỗi niềm tâm trạng buồn thương giữa cuộc
đời. Hình ảnh ấy, chúng ta nhớ lại khổ thơ đầu trong bài thơ “Tràng Giang” của
Huy Cận trích trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Nhà thơ, mượn
con sóng nước, thi vị hóa như con sóng tình dạt dào để bày tỏ nỗi lòng thi nhân
trước trời rộng sông dài được thế hiện qua đoạn thơ sau:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp.
Con thuyền xuôi m ái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả.
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
(Trích “ Tràng Gianự' - Huy Cận).
Chúng ta cần đi sâu những vần thơ giàu sức biểu cảm qua nét bút Huy Cận
để tìm thấy “Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.

II. PHÂN TRỌNG TÂM


“T h ơ H uy C ận c h ín h l à tâ m h ồ n Huy Cận".
1. Lời thơ 1: Với lời thơ đầu “Sóng gợn Tràng Giang buồn đ iệp đ iệp ”. Khi
còn là sinh viên trường Cao đẳng Canh Nông Hà Nội, chiều chiều nhà thơ
thường đạp xe ra bờ Nam bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đất Bắc. Trước trời
rộng sông dài gợi tâm hồn thi nhân niềm cảm xúc với tiếng gọi: “Sóng gợn
Tràng Giang buồn điệp đ iệp ”. Nhịp thơ 2/2/3 rải đều, giọng thơ êm đềm trầm
buồn, khắc họa cảnh thiên nhiên đẹp nhưng lại buồn. Hình ảnh “sóng gợn” là
con sóng đang nhấp nhô theo nhịp thở của nó, khơi gợi tâm hồn thi nhân niềm
u hoài qua nét bút “buồn điệp đ iệp ”. Với cụm từ láy gợi cảm “buồn đ iệp đ iệp ” thê
hiện một nỗi buồn thăm thẳm, dịu vợi không nhìn thấy bằng ánh mắt bằng mọi
giác quan mà chỉ cảm nhận bằng tâm hồn. Nhà thơ đứng trước trời rộng, sông
dài trước vũ trụ bao la choáng ngợp, người thi sĩ cảm thấy lòng mình cô đơn,
trống vắng gợi tâm hồn Huy Cận, nỗi buồn vời vợi xa xăm. Phải chăng, những
lớp sóng gợn ở ngoài kia, còn ẩn chứa nỗi lòng thầm kín về tình yêu quê hương
đất nước trong tâm hồn Huy Cận, mà có lần nhà thơ đã bày tỏ: “Buồn đất nước

66
mà nặng tình sông núi". Như vậy, nhà thơ đã mượn ngoại cảnh là con sóng nước
đê nói lên tâm cảnh là con sóng tình dạt dào trong tâm hồn thi nhân. Quả thật:
“Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.
2. Lời thơ 2; Với hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song”, vẫn nhịp
thơ 2/2/3 rải đều, giọng thơ êm đềm, sâu lắng thể hiện cảnh vật hiu hắt, buồn
tênh. Hình ảnh “Con thuyền xuôi m ái” là con thuyền không người lái, tưởng
chừng như bị nước cuôh đi. Nhưng không phải thế! Tiếng gọi “nước song song”
cho người đọc hình dung giữa thuyền và nước đang sánh đôi nhau, song song
nhau trên sông dài mà sẽ không bao giờ gặp nhau, giao hòa, đưa chúng ta liên
tưởng trong hồn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử cũng mang một nét buồn
như thế với hình ảnh: “Gió theo lối gió mây đường mây”, gợi người đọc hình
dung cảnh thiên nhiên tuy đẹp nhưng lại buồn.
3. Lời thơ 3: Tiếp đến, hình ảnh “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Tiếng
gọi “thuyền về”, ở đầu câu thấp thoáng một nỗi buồn khi nhìn thấy cảnh vật
chia ha. Hai tiếng “thuyền về” đưa chúng ta hình dung con thuyền không người
lái và không có một bóng người đang xuôi về đâu! đi đâu! nước nào có biết! có
hay! chỉ đế lại cho nước nỗi “sầu trăm ngả”, nỗi sầu vạn dặm, xa khơi.
Mở rộ n g: Trước hoàn cảnh đau thương của đất nước dưới ách thống trị của
thực dân phong kiên, đưa chúng ta nhìn về hình ảnh con thuyền kia, hàm ẩn là
con thuyền Tổ quô'c, con thuyền Đất nước mà Tổ quốc, Đất nước giờ này đang
chìm trong màn đêm nô lệ của ngoại bang thì hình bóng của Tổ quô"c, Đất nước
đâu còn nữa chỉ còn chăng là tiếng vọng của quá khứ, tiếng vọng của chiều dài
lịch sử chỉ còn trong tiềm thức, trong kí ức của mỗi người dân Việt. Và hình ảnh
“sầu trăm ngả” như thấp thoáng nỗi sầu của thi nhân trước nỗi buồn thời đại.
Lời thơ chính là tiếng lòng, tâm tư của Huy Cận. Quả thật: “Thơ Huy Cận chính
là tâm hồn Huy Cận”.
4. Lời thơ 4: Và hình ảnh còn lại “Củi một cành khô lạc mẩy dòng” là nét đẹp
hiện đại trong bút pháp của Huy Cận. Nhà thơ mượn hình ảnh hoàn toàn mới “củi
một cành kh ô” vừa trần trụi, tàn tạ cho người đọc hình dung một cành củi khô gầy
guộc từ rừng xuôi về như nói lên một kiếp đời thực vật mong manh bé nhỏ trước
trời rộng sông dài. Và hình ảnh “củi một cành kh ô” qua nét bút Huy Cận, nhà thơ
còn nghĩ về một kiếp người, đang sông trong cơ cực, lầm than nô lệ. Chứng tỏ Huy
Cận muốn nói lên nỗi niềm ưu tư của nhà thơ về sô phận con người, về cuộc đời và
người thi nhân cảm thấy lòng mình buồn hơn, đau đáu hơn khi chưa tìm được lối
ra, nẻo về, như lời bày tỏ của Huy Cận: “Đau dời có cứu dược đời đâu”. Quả thật:
“Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.

IIL PHẦN K ẾT THÚC


1. Về nghệ th u ật: Lời thơ giàu hình ảnh chọn lọc, giàu châ't suy tưởng, tính
triết lí, giọng thơ êm đềm, nhịp thơ đều đặn như nhịp đập của sóng.

67
2. v ề nội dung: Huy Cận đã khám khá hình ảnh thiên nhiên từ “sóng gợn”,
“thuyền về”, “nước lạ i”, “củi một cành k h ô ”... Nhà thơ vận dụng cái hay, cái đẹp,
từ thiên nhiên nhằm bày tỏ nỗi lòng của thi nhân, là mượn ngoại cảnh để nói
lên tâm cảnh, nói thay cho niềm ưư tư, khắc khoải trong tâm hồn Huy Cận. Quả
thật, “Tràng Giang” là tiếng lòng Huy Cận là nguồn cảm hứng để làm nên một
hồn thơ đẹp, bất tử với năm tháng.

Đế tuyển sinh: B ài thơ “T r à n g G ia n g ” củ a nhà th ơ Huy Cận trích


tron g tập thơ “Lửa thiêng” x u â t bản năm 1940 qua khổ thơ cuối
có đoạn viết:
“L ớ p lớ p m ây c a o đ ù n n ú i b ạ c
C h im n g h iê n g c á n h n h ỏ b ó n g c h iề u s a
L ò n g q u ê d ợ n d ợ n vời co n n ư ớc
K h ô n g k h ó i h o à n g h ô n củ n g n h ớ n h à ”.
(trích “Tràng Giang” -H u y Cận)
Anh (chị) phân tích khổ thơ trê n để tìm thấy nỗi lòng củ a thi
nhân trư ớc trời rộng sông dài.

ÌSĨững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Nhà thơ Đỗ Trung Quân ca ngợi quê hương: “Quê hương mỗi người chỉ một.
Như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ. S ẽ không lớn nỗi
thành người”. {“Quê Hương” - Đỗ Trung Quân)
2. Bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ (Trung Quôc) có viết: “Lưng trời sóng gợn
lòng sông thẳm. Mặt đất mây đùn cửa ải xa”, (trích “Thu hứng” - Đỗ Phủ)
3. Nhà thơ Chế Lan Viên trong bài “Thu”, tác giả mượn cánh chim để bày tỏ nỗi
lòng thi nhân: “Chao ôi! Mong nhớ ôi mong nhớ. Một cánh chim thu lạc cuối
ngàn”, (trích “Thu” - Chế Lan Viên)
4. Nhà thơ Xuân Diệu nhận định về bài thơ “Tràng Giang”-. “Tràng Giang là bài
thơ ca hát về non sông đất nước do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn
T ổ quốc”. (Xuân Diệu)
5. Nỗi nhớ nhà của Huy Cận là nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của ông; “Cái làng sơn
cước heo hút vùng Hương Sơn-Hà Tĩnh có dòng sông Thâm có núi Mồng Gà”.
6. Nhà thơ Huy Cận có nói: “Buồn Đất nước m à nặng tinh sông núi”, (trích
“Mai S au” - Huy Cận)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ môt mẹ thôi

68
Quê hương nếu ai không nhớ
S ẽ không lớn nỗi thành người”.
(trích “Quê hươnự' - Đỗ Trung Quân)
Quê hương! mãi mãi là tiếng gọi thân thương trong tiềm thức, kí ức của mỗi
con người, là nơi chôn nhau cắt rô"n, nơi chứa đựng bao dòng sữa ngọt ngào của
mẹ, lời ru của bà hòa cùng tiếng vọng của gió của núi của sông, mà mỗi lần đi
xa, không ai không khỏi nhớ về. Nỗi nhớ ấy, chúng ta liên tư ở n g khổ thơ cuôl
trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận trích trong tập “Lửa Thiêng” xuất bản
năm 1940, nhà thơ cũng bày tỏ nỗi lòng người thi nhân trước trời rộng sông dài,
là chạnh nhớ về quê nhà cùng tình yêu quê hương non nước được thể hiện với
đoạn thơ sau;
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không kh ói hoàng hôn cũng nhớ n h à”.
(Trích “ Tràng Gianự’ - Huy Cận).
II. PHẦN TRỌNG TÂM
1. Hai câu đầu: Nỗi lòng củ a Huy Cận trước trời rộn g sông dài.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều s a ”.
Ánh mắt của Huy Cận nhìn về bầu trời, một không gian thu lúc chiều xuông
và cất lên tiếng gọi: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Nhịp thơ 2/2/3, giọng thơ
trầm bổng toát lên cảnh chiều thu trên sông thật đẹp. Huy Cận mượn hình ảnh
“mây” nói lên vẻ đẹp không gian lúc chiều về. Với hình ảnh “lớp lớp mây cao”
trong Tràng Giang của Huy Cận là những áng mây không lữrìg lờ trôi, êm đềm
trôi như áng mây chiều trong hồn thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh với: “Chòm
mây trôi nhẹ giữa tầng khôn g” mà áng mây chiều của Huy Cận mang một dáng
vẻ khác, trạng thái khác. Với động từ gợi hình “đùn” Huy Cận mượn trong thơ
của Đỗ Phủ (Trung Quôh) với lời thơ; “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Từ “đùn” gỢi
người đọc nhìn thấy những áng mây chiều đang nhô lên, đùn lên, hình thành
những ngọn núi bạc trắng, toát lên một không gian thu trong sáng, huyền ảo,
xua tan sự u buồn, hoang vắng trước cảnh vật lúc chiều về như đem lại cho nhà
thơ một cảm giác êm dịu, sự thanh thản của tâm hồn, xua đi nỗi cô đơn, trông
vắng của thi nhân trước trời rộng, sông dài. Và ánh mắt Huy Cận nhìn thấy
giữa bầu trời thu, một cánh chim chiều với tiếng gọi; “Chim nghiêng cánh nhỏ
bóng chiều sa ”. Huy Cận mượn hình ảnh “cánh chim ” nói lên vẻ đẹp không gian
lúc chiều tà. Nhưng cánh chim trong thơ Huy Cận hoàn toàn khác với cánh
chim trong thơ xưa mà ca dao có viết: “Chim bay về núi tối rồi” trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du có ghi: “Chim hôm thoi thót về rừng” và trong thơ Bà
Huyện Thanh Quan với hình ảnh: “Ngàn mai gió cuốn chim bay m ỏi”. Nhưng

69
trong thơ Huy Cận, hình ảnh cánh chim hoàn toàn cách tân đổi mới. ơ đây
không phải là một đàn chim, một bầy chim trên đường bay về tổ về rừng tìm
nơi trú ẩn. Với Huy Cận, chỉ một cánh chim chiều, cánh chim lạc loài, bé nhỏ,
mong manh trước trời rộng sông dài, toát lên hai hình ảnh hoàn toàn đôi lập.
Giữa không gian bao la rộng lớn với trời rộng sông dài, lại xuất hiện một cánh
chim chiều lẻ loi, bé nhỏ càng tạo cho cảnh vật thêm buồn hơn, hiu hắt hơn,
mênh mông hơn. Từ gọi ''chim nghiêng” vừa hiện thực vừa lãng mạn gợi người
đọc hình dung cánh chim đang chở nặng cả bóng chiều, đang nghiêng mình chúi
xuông trên mặt nước, càng thấy cánh chim bé nhỏ hơn, mong manh hơn và hình
ảnh cánh chim hàm ẩn một vẻ đẹp khác. Phải chăng, cánh chim chiều kia,
tượng trưng cho hình bóng thi nhân, khi cánh chim chở nặng cả bóng chiều,
khác gì người thi nhân cũng đang chở nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê và nhớ cả tình
yêu non nước. Quả thật; “Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.
Liên hệ: Nhớ đến cánh chim chiều trong “Tràng Giang” của Huy Cận, chúng
ta lại liên tưởng cánh chim chiều trong hồn thơ “Thu” của Chế Lan Viên cũng
mang một cảm nhận, một hình ảnh như thế, qua lời thơ: “Chao ôi! mong nhớ ôi
mong nhớ. Một cánh chim thu lạc cuối ngàn”. Phải chăng, chính nguyên nhân
thời đại đã chi phối hồn thơ của thi nhân và để lại cho nền thơ ca Việt Nam
những hồn thơ bất hủ.
2. Hai câu còn lại: Nỗi nhớ nhà, ẩn chứa nỗi niềm về tình yêu quê
hương non nước trong tâm hồn Huy Cận.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ n h à”.
Huy Cận, ánh mắt thi nhân vẫn hướng về những con nước từ xa trên sông
chiều ấy. Với tiếng gọi: “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. Điệp từ láy gợi hình
“dợii dợn” là giây phút, nhà thơ nhìn những con sóng nước từ xa đang nhấp nhô,
tung tăng, chính là lúc con sóng tình dạt dào khơi nguồn trong tâm hồn Huy
Cận và người thi sĩ bật lên tiếng gọi “lòng quê”. Tiếng gọi “lòng qu ê” như đưa
Huy Cận tìm về kỉ niệm, về nơi chôn nhau cắt rốn của một thời thơ ấu với “Cái
làng sơn cước heo hút vùng Hương Sơn - Hà Tĩnh, có dòng sông Thâm, có núi
Mồng Gà” là quê hương Huy Cận và nỗi nhớ ấy, Huy Cận đã bật lên tiếng thở
dài: “Không khói hoàng hôn củng nhớ n hà”, vẫn nhịp thơ 2/2/3 trầm buồn, sâu
lắng, lời thơ này Huy Cận ảnh hưởng trong bài thơ “Hoàng hạc lâu ” của Thôi
Hiệu (một nhà thơ nỗi tiếng của Trung Quôc cách đây hơn năm trăm năm về
trước). Thôi Hiệu đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng trên sông lúc hoàng
hôn, Thôi Hiệu nhớ về quê nhà và viết lên hai câu thơ nổi tiếng: “N hật mộ
hương quan h à xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Tản Đà có dịch: “Quê
hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng a i”. Với Huy
Cận dù vay mượn thơ của Thôi Hiệu để nói lên nỗi nhớ nhà nhưng thi pháp Huy
Cận hoàn toàn cách tân đổi mới. Đặc biệt với từ phủ định “khôn g” ở đầu câu:

70
“Khống khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, chứng tỏ nỗi nhớ của Huy Cận dù không
nhìn thây khói sóng trên sông lúc hoàng hôn khi chiều tà nhưng nỗi nhớ nhà
vẫn chiếm lĩnh trong tâm hồn Huy Cận. Như vậy, Huy Cận không bị tác động từ
ngoại cảnh từ khói sóng trên sông lúc chiều tàn mà nỗi nhớ nhà của Huy Cận vẫn
thấm đầm trong tâm hồn thi sĩ lúc ấy, chứng tỏ, nỗi nhớ Huy Cận da diết hơn,
mãnh liệt hơn, cháy bỏng hơn so với nỗi nhớ của Thôi Hiệu. Đây là nét thơ mới
hiện đại làm nên giá trị, sức sống cho bài thơ “Tràng Giang” hơn nửa thế kỉ qua.
Mở r ộ n g : Tiếng gọi “nhớ nhà" ở cuô'i câu trong bài thơ “Tràng Giang” của
Huy Cận, ngoài nỗi nhớ về quê nhà về cái làng sơn cước heo hút vùng Hương
Sơn-Hà Tĩnh. Hai tiếng “nhớ nhà” còn hàm ẩn một nỗi nhớ khác, nỗi nhớ về
tình yêu quê hương non nước, tình yêu giang sơn Tổ quôc. Phải chăng, những
con sóng nước kia ẩn chứa nỗi lòng thầm kín về tình yêu quê hương đất nước
trong tâm hồn Huy Cận và nỗi nhớ ấy khơi nguồn đưa Huy Cận tìm đến với
cách mạng với nhân dân. Đúng như lời bày tỏ của Xuân Diệu về bài thơ Tràng
Giang như sau: “Tràng Giang là bài thơ ca hát về non sông Đất nước do đó dọn
đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”. (Xuân Diệu)

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Với thi pháp vừa cồ’ điển vừa hiện đại, nhịp thơ đều đặn,
sâu lắng, ngôn ngữ thơ giàu chất suy tưởng, giàu hình ảnh, giàu tính triết lí,
nhịp thơ 2/2/3 êm đềm.
2. v ể nội dung: Huy Cận khắc họa thành công bức tranh chiều thu trên
sông mang một vẻ đẹp nhưng thoáng buồn đó là nỗi buồn của người thi nhân
chưa tìm được lôi ra trước thời đại cũ, nỗi buồn về tình yêu quê hương non nước...

ĐÂY THÔN V Ĩ DẠ
HÀN MẶC TỬ

Đề tuyển sinh: Anh (chị) ỉàm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Anh/ chị trình bày hoàn cảnh ra đời cùng những ý chính trong
bài thơ “Đ áy th ô n V ĩ D ạ ” củ a thi nhân H àn M ặc Tử.
Câu 2: Anh/ chị phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ “Đây thôn Vĩ
Dạ” củ a thi nhân Hàn M ặc Tử để tìm lại cảnh đẹp thiên nhiên
và con người Vì Dạ m ột thời đáng nhớ.
“S a o a n h k h ô n g về c h ơ i th ô n Vĩ?
N h ìn n ắ n g h à n g c a u n ắ n g m ờ i lên
Vườn a i m ư ớt q u á x a n h n h ư n g ọ c
L á tr ú c c h e n g a n g m ặ t c h ữ đ iề n ”.
(Trích “Đày Thôn Vĩ Dạ" - Hàn Mặc Tử).

71
HƯỚNG DẪN
Câu 1: H oàn cản h ra đời và ý chính củ a bài thơ ‘‘^Đây th ô n V ĩ D ạ ”.
1. Hoàn cản h r a đời.
Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh tại nhà thương Quy Hòa (Quy
Nhơn), trước nỗi đau đớn của thân xác lẫn tâm hồn, Hàn Mặc Tử nhận được tấm
bưu ảnh của người thiếu nữ Vĩ Dạ thôn mang tên một loài hoa đẹp mà nhà thơ
thầm yêu trộm nhớ. Sau bức ảnh có ghi: “Mong Tử sớm binh phục đ ể về thăm Vĩ
Dạ” như là một tín hiệu vui, niềm hạnh phúc mơ hồ như sương khói, khơi gợi
trong lòng thi nhân nguồn cảm xúc dạt dào để viết lên “Đây thôn vĩ dạ”. Tác
phẩm trích trong tập “thơ Điên”, sau này đổi tên là Tập thơ “Đau thương” xuất
bản năm 1940.
2. Những ý chính củ a bài thơ.
Ý l: (4 câu đầu) Miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên và con người xứ Huế nơi vùng
quê Vĩ Dạ.
Ý2: (4 câu giữa) Miêu tả cảnh chiều buồn trên sông và thể hiện niềm khao
khát hạnh phúc mong manh huyền ảo trong tâm hồn nhà thơ.
Ý3: (4 câu cuôd) Thể hiện một tình yêu mơ hồ như sương khói đang len lỏi
trong tâm hồn thi nhân.
Câu 2: P h ân tích khổ thơ đầu tron g bài thơ “Dây th ô n V ĩ D ạ ” củ a thi
nhân H àn M ạc Tử.

hững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Vĩ Dạ thôn: Một thôn nằm ngoại ô thành phố Huế bên dòng sông Hương. Nơi
đây quanh năm cây côì xanh tươi bôn mùa, mỗi nhà có mỗi vườn toát lên sức
sông thiên nhiên vùng Vĩ Dạ thật tươi đẹp.
2. Nhà thơ Bích Khê đã từng ca ngợi Vĩ Dạ thôn: “Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn! Biếc
xanh cần trúc không buồn mà say”. (Bích Khê)
3. Nhà thơ Vũ Quần Phương bày tỏ về cái “nắng mới lên” trong hồn thơ “Đây
thôn Vĩ Dạ”: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên gợi lại một nỗi niềm về quê
hương, làng mạc đáng yêu đến thế.” (Vũ Quần Phương)
4. Cảm nhận hình ảnh “Nắng mới” trong hồn thơ của Lưu Trọng Lư; “Tôi nhớ
mẹ tôi thuở thiếu thời. Lúc người còn sống tôi lên mười. Mỗi lần nắng mới reo
ngoài nội. Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.” (Nắng mới - Lưu Trọng Lư)
5. Nhớ về màu xanh ngọc bích, ta nhớ lại bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu với
hình ảnh: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. (Xuân Diệu)
6. Ta lại nhớ về màu xanh ngọc bích trong bài kí “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân có viết: Khi mùa xuân về nước Sông Đà với “dòng xanh ngọc bích”.

72
7. “Trúc” thường gắn liền với hình ảnh người con gái qua ca dao: “Trúc xinh trúc
mọc đầu đình. Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh”. (Ca dao)
8. Ca dao Huế ca ngợi khuôn mặt chữ điền của người con gái Huế: “Mặt em
vuông tượng chữ điền. Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”. (Ca dao Huế)
9. Nhà thơ Hàn Mạc Tử trong bài thơ “Mùa xuân chín ” có viết: “Thì thẩm với
ai ngồi dưới trúc. Nghe ra ý nhị và thơ ngây", (trích “Mùa xuân chín" -
Hàn Mặc Tử)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!
B iếc xanh cần trúc không buồn m à say.”
(Bích Khê)
Hồn thơ của Bích Khê làm sông lại bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con
người Vĩ Dạ thật đáng yêu, đáng nhớ. Nếu ai đã một lần đến Huế, làm sao quên
được bức tranh quê hương trong “Đây thôn Vĩ D ạ” của thi nhân Hàn Mặc Tử
giữa cảnh vật và con người cùng hoà quyện vào nhau làm nên cái hồn Vĩ Dạ
thật đáng nhớ với khố thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
L á trúc che ngang m ặt chữ điền .”
(Trích “Đáy thôn Vĩ Dự' - Hàn Mặc Tử)
II. PHẨN TRỌNG TÂM
C ả n h đ ẹ p t h iê n n h iê n v à co n n g ư ời V i D ạ.
1. P hân tích 2 câu đẩu:
“S ao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên ”.
Nhắc đến Huế, làm sao quên được mảnh đất cô' đô, mảnh đất thiêng liêng cổ
kính, một thời vang bóng. Nhớ về Huế, chúng ta liên tưởng một vùng quê mang
tên Vĩ Dạ nằm ở ngoại ô thành phô' Huế, quanh năm cây trái xanh tươi bôn
mùa, mỗi nhà có mỗi vườn mang vẻ đẹp rất riêng rất Vĩ Dạ. Nhà thơ nhớ về
hoài niệm, nhớ cảnh cũ, người xưa với tiếng gọi đầu tiên: “Sao anh không về
chơi thôn Vĩ?”, nhịp thơ 1/3/3 rải đều, giọng thơ êm đềm, giàu cảm xúc thể hiện
nỗi niềm mong đợi của người con gái Vĩ Dạ đang hướng về người khách phương
xa với niềm mong ước đợi chờ. Với cụm từ nghi vấn “Sao anh không về?” lời hỏi
như là lời trách, lời giận, của người con gái Vĩ Dạ thôn, sao lâu rồi anh không về

73
thăm thôn Vĩ? Anh quên rồi sao! Lời trách móc giận hờn ấy nói lên niềm mong
đợi tha thiết người thân trở về là thế hiện tấm lòng người ở lại, vẫn mong nhớ
kẻ đi xa. Tiếng gọi “chơi thôn Vĩ” nghe có vẻ nặng nề so với từ “thăm thôn Vĩ”,
nó nhẹ nhàng, êm dịu hơn. Nhưng thật sự với từ gọi “chơi” thể hiện cách nói
chân chất, mộc mạc, không trau chuốt, nghĩ sao nói vậy trong lòng người con gái
ấy là nét đẹp chân quê, chân tình của con người Vĩ Dạ. Mạch cảm xúc trong tâm
hồn nhà thơ tiếp tục khơi dậy làm sông lại cảnh đẹp Vĩ Dạ với tiếng gọi: “Nhìn
nắng hàng can nắng mới lên ”, vần nhịp thơ 1/3/3 đều đặn, giọng thơ trầm bỗng,
giàu hình ảnh đưa chúng ta tìm về vẻ đẹp nơi vùng đất Vĩ Dạ thật đáng yêu.
Mỗi lần nhắc đến “nắng hàng cau” là chúng ta nhớ về hình ảnh quê hương trên
khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có cau, có trầu vẻ đẹp từ bao đời. Nhắc
đến “cau" là tượng trưng cho lễ hội, cưới xin, cúng giỗ là nét văn hóa phong tục
tập quán của người dân Việt. Nhưng hàng cau Vĩ Dạ có một vẻ đẹp riêng, mỗi
nhà đều có mồi vườn cau với những hàng cau thẳng tắp, thân cau cao vút, tán
cau xanh rờn, lá cau mượt mà vươn mình khoe sắc cùng ánh bình minh đang
lên, khơi gợi một sắc màu xanh lung linh tươi tắn, tràn đầy sức sông mà nhà
thơ Vũ Quần Phương từng ca ngợi: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, gợi lại
một nỗi niềm về quê hương làng mạc dáng yêu đến th ế”.
M ở r ộ n g : Nghĩ về cái “nấng mới lên" trong hồn thơ của Hàn Mặc Tử, ta lại
nhớ đến cái “Nắng mới” trong hồn thơ của Lưu Trọng Lư. Hai thi nhân đều cảm
nhận về một hình ảnh nhưng “nắng mới lên ” của Vĩ Dạ thôn là cảnh đẹp thiên
nhiên tràn đầy sức sông còn “Nấng mới" của Lưu Trọng Lư là đưa ta tìm về hoài
niệm, tìm về hình bóng người mẹ quê nghèo với chiếc áo nâu, bạc màu sương gió
là hình ảnh không bao giờ quên trong kí ức của mỗi con người qua những vần
thơ: “Tôi nhớ m ẹ tôi thuở thiếu thời. Lúc người còn sống tôi lên mười. Mỗi lần
nắng mới reo ngoái nội. Áo đỏ người dưa trước dậu phơi". (Nắng mới - Lưu
Trọng Lư).
2. Phân tích hai câu còn lại:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
L á trúc che ngang mặt chữ đ iền .”
Mạch cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ tiếp tục nhớ về kỉ niệm đẹp nơi vùng
què Vĩ Dạ. Ngoài cái “nắng mới lên ” chúng ta còn tìm thấy Vĩ Dạ tràn đầy sức
sông với hình ảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Hai tiếng “vườn a i” cất
lên như một lời gọi mơ hồ, bâng khuâng mà thực tế chính là “vườn em", vườn
của người con gái Vĩ Dạ thôn mà nhà thơ có lần đến nơi đó. Với cụm từ so sánh
“mướt quá xanh như ngọc” toát lên vẻ đẹp rất riêng, mỡ màng, tươi tắn, cây cỏ
hoa lá nơi đây quanh năm xanh tươi và khi đêm về vẫn còn đọng lại chút sương
74
mai nơi cành cây kẽ lá cùng hòa quyện với ánh nắng ban mai của mặt trời, toát
lên một sắc màu xanh mượt mà, long lanh như màu xanh ngọc bích vừa dân dã
vừa quý phái càng làm cho cảnh vật Vĩ Dạ thật đáng yêu, đáng nhớ.
N hấn m ạnh: Với hai tiếng “mướt quá” kết hợp với cụm từ so sánh “xanh
như ngọc” toát lên một không gian xanh tươi mượt mà, tràn đầy sức sông của
thiên nhiên và cuộc sông lao động cần mẫn của con người Vĩ Dạ thật đáng quý.
L iên h ệ: Nhớ về sắc màu “xanh như ngọc” ta lại liên tưởng trong hồn “Thơ
duyên” của Xuân Diệu và bài kí “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân cũng
mang một sắc màu xanh như thế nhưng mỗi hình ảnh là một cảm nhận riêng,
một vẻ đẹp riêng của người nghệ sĩ. Với Xuân Diệu ta bắt gặp hình ảnh: “Đổ trời
xanh ngọc qua muôn lá”. Với Nguyễn Tuân ta tìm thấy khi mùa xuân về nước
sông Đà với “dòng xanh ngọc bích”. Với Hàn Mặc Tử là: “Vườn ai mướt quá xanh
như ngọc”. Tất cả những hình ảnh ấy làm nên những vần thơ đẹp, tô đậm sự đa
dạng phong phú cho vườn hoa vàn học nghệ thuật Việt Nam. Và hình ảnh còn
lại “Lá trúc che ngang mặt chữ điển.” Lời thơ đưa ta tìm về cảnh đẹp của Vĩ Dạ
thôn không chỉ đẹp cảnh mà còn đẹp cả hình bóng con người. Nhớ về “trúc” là
hình ảnh quê hương tượng trưng về người thiếu nữ dịu dàng, thùy mị mà ca dao
từng thầm thì: “Trúc xinh trúc mọc. đầu dinh - Em xinh em đứng chỗ nào cũng
xinh.” Nhưng hình ảnh “trúc” trong hồn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, không đứng một
mình, đơn điệu mà hình ảnh trúc lại hoà quyện đan xen với vẻ đẹp con người, có
khuôn mặt chữ điền, đưa ta liên tưởng dáng vẻ người con gái Vĩ Dạ với nét đẹp
đoan trang, phúc hậu mà ca dao Huế từng thầm thì: “Mặt em vuông tượng chữ
điền. Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung". Chỉ một lời thơ: “Lá trúc che ngang
mặt chữ điền” toát lên bức tranh quê thật đẹp giữa thiên nhiên và con người như
làm sông lại cái hồn Vĩ dạ thấp thoáng đâu đây, từng làm đắm say bao tâm hồn
thi nhân và những ai đã một lần đến Huế. Quả thật: “Đã đôi lần đến với Huế
mộng mơ. Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt”. {Huế tình yêu của tôi - thơ Nguyễn
Thị Thanh Bình - nhạc Trương Tuyết Mai)

III. PHẦN KẾT


1. Về nghệ th u ật: “Đây thôn Vĩ Dạ” một bài thơ đặc sắc tiêu biểu của phong
trào Thơ mới. Với khố thơ đầu, nhịp thơ đều đặn, giọng thơ êm đềm, tha thiết,
hình ảnh cụ thể, tiêu biểu chọn lọc, giàu sức biểu cảm.
2. Về nội dung: Nhà thơ khắc họa bức tranh Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng của
thành phố Huế thật đẹp, vẻ đẹp giữa thiên nhiên và con người Vĩ Dạ thật đáng yêu,
đáng nhớ đâu dễ nào quên.
Không nơi đâu đẹp tuyệt vời.
Như thôn Vĩ Dạ, nghìn đời mến yêu.

75
Để tuyển sinh: B ài thơ “Đ ây th ô n V ĩ D ạ ” củ a thi nhân H àn M ặc Tử có
đoạn viết:
“G ió th e o lố i g ió m ây đ ư ờ n g m ây
D òn g n ư ớc b u ồ n th iu h o a b ắ p la y
T h u y ền a i đ ậ u b ến sô n g tr ă n g đ ó
C ó c h ở t r ă n g về k ịp tố i n ay?”
(Trích “Đây thôn Vĩ D ạ” - Hàn Mặc Tử)
Anh (chị) phân tích khổ thơ trê n để tìm thây thơ H àn M ạc Tử là
“th ơ tr ữ tìn h h ư ớ n g n ộ i”.

SEữnsr kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận có ghi: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả".
(Tràng Giang)
2. Nhà thơ Hồ Chí Minh có viết: “Núi ấp ôm mây, mây ấp núi”. (Hồ Chí Minh)
3. Thi hào Nguyễn Du có viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ”. {Truyện Kiều - Nguyễn Du)
4. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ có viết: “Gió trăng chở một thuyền đầy". (Nguyễn
Công Trứ)
5. Nhà thơ Hồ Chí Minh có viết: “Khuya về bát ngát trăng ngân dầy thuyền”.
{“Rằm tháng giên g” - Hồ Chí Minh).
6. Lời nhạc có ghi: “Đã đôi lần đến với H uế mộng mơ. Tôi ôm ấp một tình yêu
dịu ngọt”. {“H u ế - Tình yêu của tôi” - Thơ Nguyễn Thị Thanh Bình, nhạc
Trương Tuyết Mai).
7. Hàn Mặc Tử có viết: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió Đông về đ ể
lả lơi”. {“Bẽn lẽn ” - Hàn Mặc Tử).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Gió trăng chở một thuyền đầy”
(Nguyễn Công Trứ)
Tìm về hồn thơ xưa của thi nhân Nguyễn Công Trứ khắc họa cảnh đẹp thơ
mộng lung linh với gió trăng, thuyền trăng, sông trăng, ru hồn người thi nhân
đắm chìm trong mộng ảo trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên. Nét đẹp ấy
đưa chúng ta tìm về hồn thơ “Đây thôn Vĩ D ạ” của thi nhân Hàn Mặc Tử, trích
trong tập thơ “Đau thương” cũng mang một vẻ đẹp thơ mộng lung linh huyền ảo
như thế qua đoạn thơ sau:

76
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(Trích "Đây thôn Vĩ Dạ" - Hàn Mặc Tử)
Cần khám phá những vần thơ giàu hình ảnh, giàu chất suy tưởng qua nét bút
của Hàn Mặc Tử đế tìm thấy thơ Hàn Mặc Tử là: “Thơ trữ tinh hướng nội”.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Thơ Hàn M ặc Tử là “Thơ t r ữ tình h ư ớ n g nội”.
1. P hân tích 2 câu đầu: Nỗi lòng thi nhân trước cảnh v ậ t Vĩ Dạ khi
chiều xuông.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Với khố thơ thứ hai trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, thời điểm lúc này là chiều đã về
trên sông Hương. Tiếng gọi: “Gió theo lối gió, mây đường m ây”. Với nhịp thơ 4/3
trầm bổng, dìu dặt, toát lên một không gian vắng lặng,buồn. Hình ảnh mây và
gió chia lìa đôi ngã, mây về với mây, gió bay theo gió, cảnh vật u buồn quá.
Hình ảnh ấy, người đọc nhớ lại lời thơ; “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã" trong
hồn thơ “Tràng Giang” của Huy Cận cũng mang một nỗi buồn như thế khi nước
xa thuyền như mây xa gió.
Mở rộng: Phải chăng, hình ảnh gió mây chia lìa trong hồn thơ Vĩ Dạ nói lên
nỗi lòng thi nhân, khi nhà thơ cảm nhận về tình yêu và cuộc sống của chính mình
cũng chia ha khi người tình quay gót, cuộc sống thì cách li với thế giới bên ngoài
vì bệnh tật. Như vậy nhà thơ mượn ngoại cảnh đế bày tỏ tâm cảnh, thể hiện nỗi
lòng thi nhân đang hụt hẫng bế tắc trước cuộc đời. Phải chăng, thơ Hèm Mặc Tử
là “thơ trữ tinh hướng nội”. Và cảnh vật thiên nhiên giữa bầu trời Vĩ Dạ lúc ấy,
không tìm thấy hình bóng con người và dòng sông Hương lặng lờ trôi, trầm mặc
trôi như mang một nỗi u hoài qua nét bút: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Hình ảnh thiên nhiên nhân hóa độc đáo, nhài thơ thổi vào dòng sông Hương mang
một sinh thế có hồn, có cảm xúc, suy tư, trăn trở như một con người. Với tiếng gọi
“buồn thiu” là cách nói của con người xứ Huế, tiếng nói địa phương dân dã. Từ gọi
“buồn thiu” là nồi buồn thăm thẳm, dịu vợi, héo hắt cả tim gan, tè tái cả cõi lòng.
Phải chăng, “dòng nước buồn thiu" nói lên nỗi lòng thi nhân, khi tình yêu chia
lìa, cuộc sống cách ly vì bệnh tật, chỉ còn lại một nỗi niềm đau đáu, héo hắt cả
tâm hồn'người thi sì tài hoa bạc mệnh. Và hình ảnh “hoa bắp lay" cho chúng ta
hình dung “hoa bắp” là hình bóng quê hương, sản phẩm của quê hương từ bao đời.
Với động từ gợi hình “lay” thế hiện trạng, thái đong đưa, khe khẽ khi hoa bắp tiếp
cận với gió chiều, tạo nên cảnh chiều trên sông hiu hắt buồn như hòa cùng nỗi

77
buồn trống vắng của thi nhân. Với hai câu thơ đầu, ngoại cảnh là gió, mây, dòng
sông, hoa bắp và tâm cảnh là nỗi lòng người thi nhân trong niềm cô đơn, hụt
hẫng. Phải chăng, nhà thơ mượn ngoại cảnh nhằm bày tỏ tâm cảnh, nói lên nỗi
lòng mình, nỗi lòng thi nhân. Quả thật, thơ Hàn Mặc Tử là “Thơ trữ tình hướng
nội”. Đúng như lời bày tỏ của đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều: “Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
2. P h ân tích 2 câu thơ còn lại:
“Thuyền ai dậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cảnh chiều trên sông đã khép lại, đưa chúng ta tìm về cảnh đẹp của bến sông
trăng giữa đất trời Vĩ Dạ lúc đêm xuống thật đáng nhớ. Tiếng gọi “thuyền a i”,
tiếng gọi nghe như mơ hồ, bâng khuâng, xa vắng. Vậy “thuyền a i” là thuyền của
ai thế! con thuyền mồ côi, đơn lẻ nằm chơ vơ giữa bến sông trăng, sao mà hiu
hắt thế! lạnh lùng thế. Với tiếng gọi “thuyền a i” phải chăng, là “thuyền em ”
thuyền của người con gái Vĩ Dạ một thời nhà thơ thầm yêu trộm nhớ, mà con
thuyền em, không chở người mà lại chở trăng ư! Hai tiếng “trăng về” hàm ẩn
một hình ảnh khác, phải chăng, đó là “trăng an h ” hình bóng anh, nỗi lòng người
thi nhân đang khao khát mong đợi được “thuyền em ” đưa “trăng an h ” về kịp tôi
nay! Một lời yêu cầu tưởng chừng như bình thường nhưng trong lời nói ấy “có
chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện sự khao khát, tha thiết mong đợi, trong tâm
hồn thi nhân. Tiếng gọi “kịp tối nay” gợi cho người đọc bao suy nghĩ. Vậy “tổi
nay” là tôl nào? không! không tôi nào cả, chỉ có tôl nay thôi, đêm nay thôi và
xác định chỉ có tôì nay thôi. Tiếng gọi “tối nay” có khác gì như đêm thiên đường
hạnh phúc, đêm ngà ngọc của tình yêu đế “thuyền em ” cùng “trăng an h ” giao
hòa, quyện lẫn cho thỏa niềm mong đợi, niềm khao khát chút hạnh phúc mong
manh mà bấy lâu nay nhà thơ vẫn mong ước kiếm tìm dù đó là ảo ảnh, là tâm
tưởng nhưng mãi mãi là thứ nhu cầu tinh thần là châd xúc tác nhằm xoa dịu nỗi
lòng người thi nhân trước sự hụt hẫng, bế tắc giữa tình yêu và cuộc sông lúc bấy
giờ. Như vậy, nhà thơ đã mượn hình ảnh “thuyền trăng, sông trăng, bến trăng”
cùng hình ảnh “trăng về” là ngoại cảnh đế nói lên tâm cảnh, nỗi khát vọng của
nhà thơ trước cuộc đời. Quả thật, thơ Hàn Mặc Tử là “thơ trữ tình hướng nội”.

II. PHẦN KẾT THÚC


Với khố thơ trên là sự kết hợp những vần thơ, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ
vừa hiện thực, vừa lãng mạn, giàu chất suy tưởng là vẻ đẹp của ngoại cảnh như
ôm trọn một chất tình, nỗi lòng của thi nhân. Chứng tỏ thi pháp của Hàn Mặc
Tử, nhà thơ đã lấy ngoại cảnh bày tỏ tâm cảnh. Như vậy, thơ Hàn Mặc Tử là
“thơ trữ trinh hướng nội” mãi mãi làm nên sức sông giá trị cho hồn thơ
“Đây Thôn Vĩ D ạ” suôt bao nhiêu năm qua.

78
TƯ Ơ NG T ư
NGUYỄN BÍNH

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông


Một người chín nhớ mười mong ìnột người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng, cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp dò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
(trích Tập thơ “Ld bước sang ngang' năm 1940)

Đề tuyển sinh:
Câu 1: Anh/ chị có nhận x é t gì về thơ Nguyễn Bính?
Câu 2: Anh/ chị giải thích vì sao bài thơ “Tư ơng tư ’’ củ a nhà thơ
Nguyễn Bính m ang vẻ đẹp chân quê? _________________________

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Nhận x é t về thơ Nguyễn Bính.
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) làm thơ từ lúc 14-15 tuổi. Nổi tiếng với bài
thơ “Cổ hái mơ”. Năm 1937, ông được nhóm “Tự lực văn đoàn” trao giải thưởng
về tập thơ “Tâm hồn tôi”. Những tập thơ nổi tiếng của ông là “Lỡ bước sang
ngang”, “Hương cố nhân”, “Mây tầng”, ... Nói về thơ Nguyễn Bính là sự gắn kêt,
ảnh hưởng từ ca dao dân ca cùng những tinh hoa của văn học dân gian, vì thế
thơ Nguyễn Bính mang đậm m.àu sắc dân tộc, dễ đi vào lòng mọi người.
79
Đặc biệt, thơ Nguyễn Bính thuộc dòng “thơ mới” của phong trào thơ mới nhưng
thơ Nguyễn Bính ít chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây. Nguyễn Bính đã
thổi vào thơ mới một hồn thơ thâ'm đẫm tính dân tộc mang âm hưởng ca dao,
dân ca. Đọc thơ Nguyễn Bính như đưa ta tìm về cái hồn quê hương, cái hồn dân
tộc, vọng lại trong kí ức mỗi người mà ai đã từng yêu thơ của ông, đều khơi dậy
một tình quê, tình quê hương non nước tiêu biểu là bài thơ “Tương tiỉ’ trích
trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang" xuất bản năm 1940 là một trong những bài
thơ tình đặc sắc nồi tiếng của phong trào thơ mới, mang đậm chất dân gian và
tinh thần văn hóa của dân tộc.
Câu 2: Bài thơ “Tương tứ” của nhà thơ Nguyễn Bính mang vẻ đẹp chân quê.
Bài thơ “Tương tii" của Nguyễn Bính là một bài thơ tình đặc sắc mang đậm
tính dân gian là món ăn tinh thần của bao thế hệ trẻ khi nghĩ về tình yêu, tình
yêu lứa đôi với bao nhung nhớ, ước mơ, khao khát, đợi chờ, hi vọng. Tại sao
“Tương tiể' là một bài thơ mang vẻ đẹp chân quê? Nhắc đến “Tương tứ” trong
thơ Nguyễn Bính là nhớ về tình yêu đôi lứa tại một làng quê vùng đồng bằng
Bắc bộ ngày ấy, khi anh trai làng đem lòng yêu thương người con gái cùng làng
nhưng khác thôn với bao nỗi thương thầm, nhớ trộm, mong ước, đợi chờ được
gắn kết với nàng, dệt nên một hạnh phúc đơn sơ, mộc mạc, và “Tương tif được
lồng vào một không gian nghệ thuật thật dân dã với bao hình ảnh quê hương
làng mạc, thân thương, gần gũi thắm đẫm một hồn quê với thôn Đoài, thôn
Đông, bến đò, dòng sông, mái đình, hàng giầu, hàng cau, ... kết hợp với thể thơ
lục bát mang âm hưởng ca dao cùng ngôn ngữ, hình ảnh thơ mang đậm chất dân
dã, sử dụng những thành ngữ râ't quen thuộc, gần gũi tiếng nói của người dân
quê, nghĩ sao nói vậy,, không trau chuô4 nhưng rất chân tình như “chín nhớ
mười mong”, “có xa xôi mấy”, “mà tình xa xôi” cùng những lời hỏi, lời bày tỏ rất
thật, với hàng loạt những từ nghi vấn như “cớ sao”, “bảo rằng", ... Tất cả là nét
bút tài hoa của Nguyễn Bính cùng tấm lòng yêu quê hương tha thiết của ông đã
làm nên một hồn thơ bâ't hủ, mang đậm sắc thái nông thôn là vẻ đẹp chân quê
trong bài thơ “Tương tiể' của Nguyễn Bính. “Tương tứ” là một trong mười bài thơ
đặc sắc, tiêu biêu của phong trào thơ mới.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bài thơ ‘"Tương tư ” của nhà thơ
Nguyễn Bính (trích trong tập thơ “L ỡ bước sa n g n g a n g ” xuất bản
năm 1940) để làm sống lại một tình yêu, tình yêu đơn phương chân
thật, mộc m ạc trong tâm hồn chàng trai quê thôn Đoài ngày ấy.

ịE ữnsr kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Ca dao có ghi; “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi. Như đứng đống lửa như ngồi đống
rơm” (Ca dao) hay “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ. Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”.
(Ca dao)

80
2. Nỗi nhớ của chàng trai quê ngày xưa: “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều. Nhớ
người yếm thấm, d ãi diều thất lưng”. (Ca dao).
3. Nhà thơ xưa Nguyễn Công Trứ có viết: “Tương tư không biết cái làm sao.
Muốn vẽ m à chơi vẽ được nào... ”. (Nguyễn Công Trứ)
4. Nhờ thơ Xuân Diệu trong “Tương tư chiểu” có viết: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ
hình, anh nhớ ảnh. Anh nhó em, anh nhớ lắm em ơi!” hay “Hôm nay lạnh
mặt trời đi ngủ sớm. Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”, (trích “Tương tư
chiều” - Xuân Diệu)
5. Nhà thơ Hàn Mặc Tử có viết: “Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi
bỗng dại kh ờ ”. (Hàn Mặc Tử)
6. Nhà thơ Tản Đà có viết: “Mong ai mỏi m ắt chân trời. N hớ ai, đi đứng, ăn,
ngồi thẩn thớ”. (Tản Đà)
7. Nhà thơ Xuân Quỳnh có viết: “Những ngày không gặp nhau. Biển bạc đầu
thương nhớ. Những ngày không gặp nhau. Lòng thuyền đau rạn vỡ”. (“Sóng”
- Xuân Quỳnh).
8. Kinh thi Trung Quôc có ghi: “N hất nhật bất kiến như tam thu h ề ” ý nói; một
ngày không thấy nhau dài như ba năm.
9. Ca dao cồ Trung Quôh có ghi: “Chàng ở đầu sông Tương. Thiếp ở cuối sông
Tương. N hớ nhau m à không gặp. Cùng uống nước sông Tương”. (Ca dao cổ
Trung Quôc)
10. Lý Bạch (nhà thơ Trung Quôh) có viết: “Tương tư vàng lá rụng. Sương trắng
đẫm rêu xan h”. (Lý Bạch - Trung Quôh).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Tình yêu là vấn đề muôn thuở của con người qua mọi thời đại, là nguồn cảm
hứng của người nghệ sĩ trong sáng tác. Nói về tình yêu trong thơ Xuân Diệu là
mãnh liệt, cháy bỏng, dữ dội với: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi”, tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại trách hờn,
khắc khoải, bế tắc vởi: “Ai biết tình ai có đậm đ à ”, tình yêu trong thơ Xuân
Quỳnh thì “Dữ dội, dịu êm ”, với; “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”
nhưng nói về tình yêu trong thơ Nguyễn Bính lại mang một sắc thái riêng “chân
thật, mộc m ạc” thể hiện rất rõ trong bài thơ “Tương t i f trích trong tập thơ “Lỡ
bước sang ngang” xuất bản năm 1940 là một thi phẩm đặc sắc của phong trào
thơ mới. Chúng ta cần khám phá bài thơ “Tương tứ” của Nguyễn Bính để tìm
thấy một tình yêu đơn phương chân thật, mộc mạc trong tâm hồn chàng trai
quê thôn Đoài ngày ấy.

81
II, PHÂN TRỌNG TÂM
Q u á tr ìn h d iễ n h iê n tâ m t r ạ n g c ủ a c h à n g t r a i q u ê k h i đ ã yêu.
1. P h ân tích khổ thơ đầu (4 câu đầu): Nỗi nhớ mong củ a chàng tra i
quê khỉ đã yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
(Trích “ Tương tư’ - Nguyễn Bính)
Ngày xưa, biết bao chàng trai quê từng nhớ thương mong mỏi về hình ảnh
người mình yêu với lời thì thầm: “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều. Nhớ người
yếm thắm d ãi điều thắt lưng”. Chợt đưa chúng ta nhớ lại lời bày tỏ của chàng
trai quê cùng làng nhưng khác thôn trong hồn thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính
với lời tự sự chân thành tha thiết: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Một người
chín nhớ mười mong một người”. Tiếng gọi “thôn Đ oài”-, “thôn Đông” sao lại nhớ
nhau? Phải chăng, đây là lời bày tỏ hàm ẩn, giành cho chàng trai quê còn e dè,
nhút nhát, chưa mạnh dạn tỏ bày cùng người mình yêu, rồi lại mượn hình ảnh
làng mạc, quê hương cùng cách nói bóng, nói gió, ví von nhằm bộc lộ tâm sự
thầm kín của chính mình. Nhưng khi đã yêu, dù cho chàng trai quê hay chàng
trai thành thị cũng đều có chung nỗi mong, nỗi nhớ, niềm bâng khuâng, xao
xuyến, khắc khoải trong lòng mình như một quy luật tình cảm của con người khi
đã yêu. Với tiếng gọi: “Một người chín nhớ mười mong một người”. Nguyễn Bính,
nhà thơ đã vận dụng thành ngữ quen thuộc trong văn học dân gian “chín nhớ
mười mong” để nói lên nỗi lòng, tâm trạng của chàng trai quê đang nhớ, đang
mong, đang tương tư về người con gái quê, chung làng nhưng khác thôn, một
tình yêu thấm đẫm chân tình. Vì nói đến tình yêu, bao giờ cũng hiện hành nỗi
nhớ là quy luật tình cảm thiêng liêng của con người khi đã yêu, vì có yêu mới có
nhớ, càng yêu nhiều thì càng nhớ nhiều, mong nhiều rồi đưa đến tương tư. Với
thành ngữ “chín nhớ mười mong”, nỗi nhớ ấy, nói lên bằng con sô" cụ thể “chín
và mười”. Với hai con sô' ấy tưởng chừng nỗi nhớ của chàng trai quê đo được,
định lượng được. Nhưng đã là “nỗi nhớ”, “nỗi mong" là nỗi nhớ vô hình, trừu
tượng của tình yêu, vì thế giới của tình yêu là thế giới của sự cảm nhận bằng
trái tim, bằng cả tâm hồn, bằng một thứ ngôn ngữ tinh vi nhâ't, thì nỗi nhớ, nỗi
mong kia là nỗi nhớ vô cùng, vô hạn, vô tận, mênh mông sâu lắng, không thể
nào xác định được, định hình được về nỗi nhớ ấy. Ta hãy tìm về nỗi lòng tương
tư của nhà thơ xưa Nguyễn Công Trứ cũng từng bày tỏ như th ế với: “Tương tư
không biết cái làm sao”. Đến thi sĩ Tản Đà lại bộc bạch: “Mong ai mỏi mắt chân
trời. Nhớ ai, đi đứng, ăn, ngồi thẩn thớ". Rồi đến nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn
Mặc Tử cũng thổ lộ nỗi tương tư da diết đến dại khờ với tiếng thơ: “Người đi
một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại kh ờ ”. Tiếp đến Xuân Diệu nỗi

82
nhớ của tình yêu lại ngây ngất thẫn thờ với tiếng gọi: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ
hình, anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi”. Và Xuân Quỳnh cũng dạt
dào cháy bỏng với tiếng lòng thổn thức: “Những ngày không gặp nhau. Biển bạc
đầu thương nhớ. Những ngày không gặp nhau. Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Và: “Nếu
p h ải cách xa anh. Em chỉ còn bão tổ”. Như vậy, tình yêu và nỗi nhớ là hai mặt
của một vấn đề, là mẫu số chung cho những ai đã yêu, đang yêu và hết lòng cho
tình yêu ấy và chính nỗi nhớ là thước đo giá trị của tình yêu, thẩm định tình yêu.
Đặc biệt, cái hay trong câu thơ: “Một người chín nhớ mười mong một người”
của Nguyễn Bính. Với tiếng gọi “một người” ở đầu câu và “một người” ở cuôl câu
ôm trọn thành ngữ “chín nhớ mười mong” tuy đồng âm nhưng hoàn toàn khác
nghĩa. Hình ảnh “một người” ở đầu câu là chàng trai quê đang yêu là “tôi yêu
nàng” và hình ảnh “một người” ở cuối câu là cô gái quê thôn Đông mà chàng trai
thôn Đoài đang thương thầm nhớ trộm nhưng nào có biết. Quả thật, Nguyễn
Bính là thi sĩ của làng quê, của hương đồng cỏ nội với một trái tim thương yêu
chân chất, mộc mạc. Nhà thơ đã sử dụng những ngôn ngữ thật giản dị, chân
thật, gần gũi cuộc sông nông thôn Việt Nam làm nên những vần thơ thấm đẫm
tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa thật sâu lắng, đậm đà.
2. P h ân tích khổ thơ giữa (12 câu): Sự trá ch hờn, mong đợi củ a chàng
tra i quê khi đã yêu
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Bao giờ bến mới gặp đò


Hoa khuê các, bướm giang hổ gặp nhau”.
(Trích “ Tương tư' - Nguyễn Bính)
Chàng trai quê khi đã yêu, tự hỏi với lòng mình với tiếng gọi: “Hai thôn
chung lại một làng. Cớ san bên ấy chảng sang bên này?”. Lời hỏi, lời tự vấn của
chàng trai quê thể hiện nỗi băn khoăn thắc mắc. Tại sao? “tôi” ở thôn Đoài,
nàng ở thôn Đông, hai thôn cùng chung một làng, thì đâu có gì xa xôi, đâu có ^
cách trở “m à sao bên ấy chẳng sang bên này?”. Phải chăng, lời hỏi cũng là lời
trách hờn, vì sao nàng ở bên ấy “thôn Đông” tôi ở bên này “thôn Đ oài” khoảng
cách về không gian có rộng lớn gì đâu! khó khàn cách trở gì đâu! Mà tại sao bên
ấy “cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?” nàng vẫn sống thầm lặng, yên lặng như
chiếc bóng thế sao! Và chàng trai quê tiếp tục thắc mắc, băn khoăn rồi tự hỏi
lòng mình, nếu “bảo rằng cách trở đò giang” thì việc “không sang”; “chẳng sang”
đã đành đi, nhưng đằng này chỉ cách nhau có một cái đình ở đầu làng, thì có xa
gì mấy đâu, khó khăn cách trở ^ đâu mà “tình lại xa xôi” đến thế!. Hàng loạt
lời hỏi, tự vấn của chàng trai quê biểu hiện nỗi thắc mắc rất chân thật, chân
tình, nghĩ sao nói vậy là nói lên tình yêu của chàng trai quê thật sự đã yêu, gởi
trọn trái tim của mình cho người con gái ấy. Nhưng, tại sao cô gái làng thôn
83
Đông vẫn im lặng hững hờ? Phải chăng, đây là tình yêu đơn. phương, tình yêu
chỉ một phía của chàng trai đế rồi người con trai lại trách hờn, buồn giận về
người con gái ấy, tuy cùng chung một làng nhưng chưa cùng chung một lôl, một
lôi đi, một nẻo về và bỗng dưng chúng ta nhớ lại, bài ca dao xưa của Trung Quốc
cũng nói lên một nỗi niềm, tâm trạng như thế với lời thơ: “Chàng ở dầu sông
Tương. Thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau m à không gặp. Cùng uống nước
sông Tương" (ca dao xưa Trung Quôh). Rồi chàng trai tiếp tục bày tỏ: “Ngày qua
ngày lại qua ngày. L á xanh nhuộm d ã thành cây lá vàng”. Tiếng gọi “ngày” cất
lên đến ba lần liên tiếp kết hợp với chữ “qua" cho người đọc cảm thấy, bước đi
thời gian vẫn tiếp tục đi qua từ mùa xuân khi lá vẫn còn xanh mơn mởn nay đã
cuôl thu “cây lá vàng” sắc lá đã thay đồi, chuyển màu, thế mà “bên ấy chẳng
sang bên này” thì làm sao chàng trai quê kia, không mỏi mòn, mong nhớ, khắc
khoải, đợi trông, làm sao không tàn úa, héo hắt như sắc lá vàng thu. Chứng tỏ,
Nguyễn Bính đã vận dụng cách nói của dân gian là “mượn” sắc màu của cỏ cây
đế nói lên thời gian xa cách với bao nỗi nhớ, nỗi khắc khoải trong tâm hồn
chàng trai quê thôn Đoài ngày ấy, là thế hiện một tình yêu thắm thiết chán
tình. Vì có yêu mới có nhớ, có buồn, có trách, có giận, có mong, chính là thước
đo giá trị của tình yêu, thẩm định tình yêu trong tâm hồn chàng trai quê thôn
Đoài thuở ấy. Và tâm trạng diễn biến của chàng trai quê khi đã yêu, đi từ nỗi
nhớ, nỗi mong rồi lại trách móc, giận hờn nay lại chuyển sang “cầu mong",
“trông đợi" với lời tỏ bày chân tình tha thiết của chàng:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Với thể thơ lục bát mang âm hưởng ca dao sâu lắng, toát lên hai hình ảnh
“bến”, “đ ò” là thi ảnh rất quen thuộc trong ca dao Việt Nam, hàm ẩn một tình
yêu, một mối tình đôi lứa với bao chờ mong, hi vọng của những chàng trai, cô gái
khi đã yêu bằng lời thì thầm trong ca dao: “Thuyền về có nhớ bến chăng. Bến thì
một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Vậy lời hỏi: “bao giờ bến mới gặp đ ò” một lời
hỏi tưởng chừng như mơ hồ, xa xăm, xa xàm lắm nhưng chính lời hỏi ấy, chất
chứa bao hi vọng của chàng trai quê vì con đò có lênh đênh trôi nổi đến đâu,
phương trời nào thì cuối cùng cũng trở về bến cũ, về lại con đò xưa. Và tiếng gọi:
“Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”. Thoạt tiên người đọc tưởng chừng, vần
thơ trên hơi lạc điệu, xa lạ, vì toàn bài thơ nói lên nỗi lòng tương tư nhớ mong của
chàng trai thôn Đoài, nhớ về cô gái thôn Đông, mang đậm chất dân dã, chân châ't,
mộc mạc nhưng tại sao lại xuất hiện hình ảnh “Hoa khuê các” và “Bướm giang hồ"
gặp nhau? đế’ làm gì? ngụ ý gì? Phải chăng, Nguyễn Bính muôn đề cập, lồng vào
một tình yêu ngang trái đầy chất lâng mạn giữa cô gái khuê các (Hoa khuê các)
nơi chôn khuê phòng với trướng rũ màn che nhưng khi đã yêu thì dù chàng trai
phiêu bạt lãng tử nào đó như “Bướm giang hồ” cuôi cùng, họ vẫn đến với nhau, họ
vẫn vượt qua mọi rào cản, ranh giới để đến với yêu thương đến với một tình yêu
chân thành. Vậy, tình yêu của chàng trai thôn Đoài cũng thế! khi đã yêu với một
84
tình yêu chân thật, mộc mạc, không so bì hơn thiệt, không vụ lợi tính toán mà
tình yêu đến từ một trái tim để được đến với một trái tim thì họ vẫn hi vọng, vẫn
đợi chờ, mong ước sẽ có giây phút người ấy, người con gái thôn Đông sẽ hiểu được
nỗi lòng của chàng trai quê thôn Đoài và cảm nhận ở chàng trai ấy một tình yêu
chân thật, chân tình, chân quê, mộc mạc thì sẽ có sự cảm thông và cuôl cùng sẽ
được đến với nhau, bến sẽ gặp đò, hoa sẽ gặp bướm. Phải chăng, khi đã yêu, con
người có quyền hi vọng và chờ đợi ...
3. P hân tích khổ thơ cuôl (4 câu còn lại): ư ớc mơ m ột tình yêu dẹp,
một hạnh phúc đơn sơ.
“N hà em có một giàn giầu
N hà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
(Trích “ Tương tư’ - Nguyễn Bính)
Hình ảnh “giàn giẩu ”; “hàng cau” là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt
Nam là hình bóng quê hương từ bao đời. Hình ảnh trầu, cau tượng trưng cho nét
đẹp văn hóa của dân tộc là phong tục, tập quán của người dân Việt từ bao đời
mà ông cha ta thường nói: “Miếng trẩu là đầu câu chuyện" và hình ảnh trầu cau
còn biểu tượng cho tình yêu, hôn nhân, lễ hội, cúng giỗ, giao tiếp giữa cuộc sông
đời thường mà trong ca dao xưa ta vẫn còn nhớ: “Giúp em quan tám tiền treo.
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau” và trong truyện “Sự tích trầu cau” đã nói
lên tình yêu thủy chung gắn kết trong tình nghĩa vỢ chồng khi sông và chết vẫn
được ở bên nhau và bài thơ “Mời trầu” của nữ sĩ Xuân Hương cũng thể hiện hình
ảnh trầu cau, tượng trưng cho tình yêu, cho hôn nhân, khao khát một hạnh phúc
như lời tự sự của nữ sĩ: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi. Này của Xuân Hương
dã quệt rồi. Có p h ả i duyên nhau thì thắm lại. Đừng xanh như lá bạc như vôi”.
Như vậy, tiếng gọi: “N hà em có một giàn giầu. N hà tôi có một hàng cau liên
phòng” đưa chúng ta tìm thấy giữa “nhà em" và “nhà tôi” đều chỉ có “một hàng
giầiT và “một hàng cau”. Con sô" vẫn là “một”, anh cũng “một hàng cau” và em
cũng “một giàn giầu" vẫn còn lẻ loi, chiếc bóng. Anh vẫn ở thôn Đoài, em vẫn ở
thôn Đông, giữa anh và em vẫn là đôi nơi, vẫn là hai vùng trời thương nhớ, hai
phương trời cách biệt. Nhưng anh vẫn nhớ em, vẫn ước mơ về một tình yêu, một
hạnh phúc dù đó chỉ là ước mơ và mơ ước với tiếng thì thầm:
“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Hình ảnh “thôn Đ oài” nhớ “thôn Đông” là hình ảnh quê hương thôn xóm của
người dân quê ta từ bao đời, nhưng hình ảnh ấy, với nét bút tài hoa dung dị của
Nguyễn Bính, nhà thơ khắc họa một môi tình quê, tình yêu của anh, tình yêu
của chàng trai thôn Đoài ngày ấy vẫn mãi nhớ, mãi yêu chân thành tha thiết
người con gái thôn Đông chỉ cách một đầu đình dù đó là tình yêu đơn phương,
85
tình yêu từ một phía và chàng trai quê vẫn mơ ước, kiếm tìm một hạnh phúc đơn
sơ, chân thành với lời bày tỏ cuối cùng: "Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn
nào'?”. Kết thúc vẫn là thi ảnh: “Cau thôn Đoài nhớ giầu thôn Đông” mãi mãi là
ước vọng một tình yêu, một hạnh phúc, một cuộc sông lứa đôi giữa lòng què hương
non nước, là mơ ước một hạnh phúc sẽ nảy mầm, mơ ước rồi đây con thuyền tình
sẽ cập bến. Một ước mơ thật đẹp, chân thành, thấm đẫm tính nhân văn.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. Về nghệ thuật: Với thể thơ lục bát mang âm hưởng ca dao; ngôn ngữ thơ
giàu hình ảnh, giàu tính tự sự, giàu sức biểu cảm, hồn nhiên, dân dã, kết hợp
những biện pháp tu từ đặc sắc như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh; cách diễn đạt ví
von, nhẹ nhàng.
2. v ề nội dung: Bài thơ “Tương tứ ’ khắc họa một không gian nghệ thuật
thật đáng nhớ, một bức tranh quê thật đẹp, thơ mộng lồng vào một tình yêu,
tình yêu đơn phương của chàng trai quê với bao nhớ nhung, trách hờn, trông đợi
và mơ ước một hạnh phúc đơn sơ, chân thật, đời thường dù ước mơ ấy vẫn đang
còn ở phía trước ...

VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1945-1975

NGUYÊN ÁI QUÕC - Hồ Chí Minh


(1890-1969)

Để tuyên sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày sự nghiệp ván học của tá c giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh.
Câu 2: Trình bày quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của tác
giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Sự nghiệp văn học của tá c giả Nguyễn Ái Quô"c - Hồ Chí Minh.
Nhắc đến sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quôh - Hồ Chí Minh luôn luôn
gắn liền với con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự nghiệp văn học của
Người không chia ra nhiều thời kì mà cả một quá trình đấu tranh cách mạng từ
trong nước lẫn ngòai nước và có ba thể loại chính:

86
1. Văn chính luận; Những tác phẩm có giá trị từ nội dung đến nghệ thuật
nhằm tô' cáo hành động xảo trá của chính quyền thực dân, phong kiến đô'i với
nhân dân đồng thời kêu gọi tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân ta.
- Những tác phẩm viết bằng văn xuôi, ngôn ngữ Pháp mang tính chiến đấu
với bút danh Nguyễn Ái Quô'c được đăng trên báo “Nhân đ ạ o ”, “Người cùng k h ổ ”
trên đất Pháp.
- Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)
- Tuyên ngôn độc lập (1945)
- Lời kêu gọi toàn quôc kháng chiến (1946)
- Lời kêu gọi nhân dân chông Mỹ cứu nước
- Không có gì quý hơn độc lập tự do
- Bản di chúc.
2. Truyện và kí: Những tác phẩm văn xuôi, ngôn ngữ hiện đại, là sự kết hợp
giữa truyền thông và hiện đại với bút danh Nguyễn Ái Quô'c. Những tác phẩm
nhằm phơi bày, tố cáo bộ mặt lừa bịp xảo trá của chế độ thực dân cùng bè lũ bán
nước đồng thời ca ngợi tinh thần yêu nước đấu tranh của dân tộc ta. Những tác
phẩm tiêu biểu:
- “P ari”, “Vỉ h à n h ”, “Lời than vãn của bà Trưng T rắc”, “Những trò lố hay là
Vareìi và Phan B ội C hâu”, “Đồng tâm nhất trí”, “Con rù a”, “N hật k í chìm tàu”,
“Đời sống thợ thuyền”, “Vừa đi đường vừa k ể chuyện”, “Con người biết mùi hun
k h ó i”...
3. Thơ ca gồm 3 tập thơ:
а. Tập thơ N hật k í tro n g tù: Còn gọi là (Ngục trung nhật kí). Tác giả viết
trong nhà tù tại tỉnh Quảng Tây (Trung Quôc) dưới chính quyền Tưởng Giới
Thạch. Tập thơ gồm 134 bài được viết theo thể thơ tứ tuyệt. Nội dung nhằm
phơi bày sự thôi nát bất công của chế độ nhà tù dưới chính quyền Tưởng Giới
Thạch đồng thời khắc họa bức chân dung một người tù vĩ đại với một tâm hồn
lớn, một dũng khí lớn, một trí tuệ lớn.
б. Tập thơ Hồ C hí M inh: Xuât bản năm 1967 gồm có 86 bài.
c. Tập thơ c h ữ h á n : xuất bản 1990 gồm có 36 bài. Tập thơ là những bài ca
tuyên truyền cùng phác họa nhân vật trữ tình, chân dung tác giả với một tấm
lòng nặng tình yêu tố quô'c, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên cùng niềm
tin lạc quan cách mạng như những bài thơ “Cảnh khuya”, “Ca công nông”, “Ca
binh lín h”...

87
Câu 2 : Quan điểm sáng tá c và phong cá ch nghệ th u ật củ a tá c giả
Nguyễn Ái Quôc - Hồ Chí Minh.
A. Quan điểm sáng tá c của Nguyễn Ái QuôTc - Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ái Quôc - Hồ Chí Minh sáng tác vàn chương không nhằm đề cao “cái
tôi” hay tìm kiếm cái hư danh đôl với đời. Với tác giả, con đường sáng tác văn
học bao giờ cũng gắn liền với con đường đấu tranh cách mạng, giải phóng dân
tộc. Với tác giả, việc sáng tác thể hiện ba yêu cầu sau:
1. Văn học nhằm phục vụ cho cách mạng, chính trị, cho con đường đấu tranh
giải phóng đất nước. Vàn học như một phương tiện, công cụ, vũ khí chông ngoại
xâm. Trong quan niệm sáng tác của tác giả, văn học luôn luôn thể hiện tính
chiến đấu là chất thép, tính hiện đại trong thơ văn. Đúng như lời bày tỏ của Hồ
Chí Minh: “Nay ở trong thơ nên có thép. N hà thơ củng p h ả i biết xung phon g”.
Tác giả còn quan niệm rằng, một nhà vàn, một thi sĩ, một nghệ sĩ trên lĩnh vực
vàn hóa nghệ thuật cũng chính là người chiến sĩ đôl với dân tộc, đất nước như
lời bày tỏ của tác giả: “Văn hóa nghệ thuật cũng là mặt trận. Anh chị em là một
chiến sĩ trên m ặt trận ấy” (Hồ Chí Minh).
2. Với tác giả, văn học nhằm phục vụ cho mọi đôi tượng, mang tính “quảng
đại quần chúng” vì thế trong sáng tác, tác giả đưa ra những yêu cầu sau:
Viết lên vấn đề Nhằm mục đích gì?
Viết cho đôì tượng nào đọc?
Viết như thế nào?
3. Văn học phải thể hiện “tính chân thật”. Với tác giả tính chân thật là
nguồn gốc của văn chương. Người viết phải viết đúng, viết rõ, phải nêu lên mặt
tích cực, ưu điểm nhằm phát huy, đồng thời nêu lên mặt khuyết điểm, hạn chế
đế khắc phục.
Tránh lôl viết phô trương, dễ dãi, dài dòng, phải viết ngắn gọn, rõ ràng mang
tính chọn lọc nhằm đảm bảo sự giàu đẹp, trong sáng của tiếng Việt.
B. Phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Nhắc đến phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Ái Quô'c - Hồ Chí Minh
được thể hiện rất rõ qua ba thể loại trong sáng tác. Mỗi thể loại đều mang một
phong cách riêng, không lẫn vào tác giả nào khác.
v ề văn c h ín h lu ậ n :
- Mang đặc điểm cô't cách của văn chính luận hiện đại tiêu biểu cho giai
câp vô sản.
- Tư duy độc đáo sáng tạo.
- Lí luận gắn liền với thực tiễn.
- Giàu tri thức văn hóa.
- Giàu tính luận chiến.

88
về tru y ện v à k í:
- Lối kế chuyện chân thật và gần gũi.
- Chủ động sáng tạo.
- Giọng điệu châm biếm, tinh tế, sâu sắc.
- Giàu tính trí thức.
- Giàu tính chiến đấu.
v ề thơ ca:
- Ánh hưởng của thơ ca cổ Đông phương, tiêu biểu thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt,nhưng mang tinh thần hiện đại, hài hòa giữa chất tình và chất thép.
- Giàu tính uyên bác
- Giàu tính nhân dân
- Gợi nhiều hơn tả
- Vận dụng nhiều thế loại.

T U Y Ê N N G Ô N Đ Ộ C LẬP
Hồ Chí Minh

Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh ra dời B ản “T uyên n g ôn D ộc l ậ p ” của tác
giả Hồ Chí Minh.
Câu 2: P h ân tích B ản “T uyên n g ôn D ộc l ậ p ” củ a tá c giả Hồ Chí Minh,

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Hoàn cảnh ra đòtì Bản “Tuyên ngốn Đ ộc lậ p ” của tác giả Hồ Chí Minh.
Chiến tranh Thê giới lần Thứ hai kết thúc (1939-1945). Xuâ4 phát từ Đồng
minh (Mỹ-Anh-Liên Xô), đã ném hai quả bom nguyên tử xuông hai thành phô
của Nhật Nagasaki và Hiroshima. Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.
Chính thời điểm này tại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng của Hồ Chủ Tịch,
nhân dân ta cùng đứng lên cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật vào ngày 19-8
tại Hà Nội, 23-8 tại Huế và 25-8-1945 tại Sài Gòn- Chợ Lớn.
- Ngày 26-8-1945 từ chiến khu Việt Bắc, Trung ương Đảng và Nhà nước đã
trở về tiếp quản thủ đô Hà Nội.
- Ngày 28-8-1945 tại căn gác hai, sô nhà 48 phô" Hàng Ngang Hà Nội,
Hồ Chí Minh vinh dự thay mặt Đảng và Nhà nước soạn thảo bản Tuyên ngôn
Độc lập.
- Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, hàng vạn đồng bào thủ đô vớiioờ
bay phấp phới. Hồ Chủ tịch thay mặt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc bản
89
Tuyên ngôn Độc lập, khẳng định với nhân dân trong nước và thế giới rằng, nước
Việt Nam đã được tự do Độc lập, đạp đổ xích xiềng nô lệ của phát xít, thực dân
phong kiến, thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở ra một kỉ nguyên
mới từ nô lệ sang tự do. Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử quý
báu, một kiệt tác văn chương, một di sản văn hoá cho đời sau.
Câu 2: P h ân tích B ản “T uyên n g ôn Đ ộc l ậ p ” củ a Hồ Chí Minh.
ÌHỈữ n s kiến th ứ c c ầ n nắm :
1. Nhà thơ Tô’ Hữu có viết: “Tự do đã nở hoa hồng. Trên dòng máu đỏ trên đồng
Việt Nam”. (Tố Hữu)
2. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776) có ghi: “Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền binh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
dược; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”.
3. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791) có ghi: “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.
4. Hội nghị Tê-hê-răng ở Iran năm 1943 và Hội nghị Cựu Kim Sơn ở Mỹ năm
1945. Hai hội nghị này Đồng minh thừa nhận nguyên tắc bình đẳng của các
dân tộc.
5. Ngày 9-3-1945, Phát xít Nhật lật đổ chính quyền Pháp tại Việt Nam.
6. Giáo sư (Nhật) Shingo-Shibata có nói; “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí
Minh là ở chỗ, Người đã biết vận dụng quyền lợi con người đ ể phát triển
thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định
vận mệnh của mình”. (Giáo sư Shingo-Shibata).
7. Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập (1945) có ghi: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới dều sinh ra bình dẳng, dân tộc nào củng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do” (“Tuyên ngôn Độc lập” - Hồ Chí Minh).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“T ự do đã nở hoa hồng
Trên dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam”.
(Tố Hữu)
Tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, hàng vạn nhân dân thủ đô cùng cờ bay
phấp phới trong niềm hân hoan của cả dân tộc, đánh dấu một bước ngoặt của
lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khẳng định nền độc lập tự do
của dân tộc ta đã giành lại được từ tay phát xít Nhật mở ra một kỉ nguyên mới
từ nô lệ sang tự do. Để hiếu rõ ý nghĩa, giá trị của bản Tuyên ngôn, chúng ta lần
lượt phân tích.

90
II. PHÂN TRỌNG TÂM
G iá tr ị c ủ a b ả n Tuyên n gôn .
1. Khẳng định nền độc lập vừa mới giành đưỢc của dân tộc ta trước
nhân dân và thê giới.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của dân tộc ta, phần mở đầu, tác giả Hồ Chí Minh
đã đưa hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp như một cơ sở pháp lí để khẳng
định nền độc lập của dân tộc ta vừa mới giành được. Vì bản Tuyên ngôn của Mỹ
(1776) có viêt: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền dược sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp có viết: “Người ta sinh ra tự do bình đẳng
về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do bình dẳng về quyền lợi”. Bản Tuyên
ngôn của Mỹ và Pháp là hai bản Tuyên ngôn ưu việt, lâu đời nhất đồng thời
nước Mỹ và Pháp đều có liên quan đến tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Thông
qua hai bản tuyên ngôn đều nhằm đề cao quyền lợi của con người là quyền lợi
tôi thượng nhất và con người phải được sung sướng, tự do và hạnh phúc. Con
người ở đây không chỉ giới hạn của nước Mỹ và Pháp mà con người của cả nhân
lọai, toàn cầu, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ tôn giáo. Đặc biệt,
ngòi bút của tác giả Hồ Chí Minh từ việc đề cao quyền lợi con người để phát
triển thành quyền lợi của các dân tộc mà trong bản tuyên ngôn có viết: “Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do". Đây là một quan điểm độc đáo sáng tạo đầy
châ't trí tuệ của tác giả để khẳng định rằng, con người được sông tự do hạnh
phúc và sung sướng thì phải được sông trong một dân tộc độc lập bình đẳng có
chủ quyền. Vì thế, dân tộc Việt Nam hơn 80 năm qua đã liên tiếp đứng lên
tranh đâu chông lại thực dân, phát xít là đòi quyền độc lập bình đẳng của dân
tộc đã bị cướp đoạt và hôm nay từ cuộc Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt
Nam đã giành được tự do độc lập từ tay phát xít Nhật là giành lại sự độc lập
bình đẳng của dân tộc mình đế’ nhân dân Việt Nam được sông trong tự do hạnh
phúc và sung sướng như là một lẽ phải không ai có thể chôl cãi được. Đây là nét
dộc đáo sáng tạo của tác giả Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn để làm sáng
ngời nền độc lập của dân tộc ta vừa mới giành được như là một chân lí tất yếu.
Đúng như lời nhận định của giáo sư (Nhật) Shingo-Shibata đã nói: “Cống hiến
nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đã biết vận dụng quyền lợi con
người d ể phát triển thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy mọi dân tộc đều có
quyền tự quyết định vận mệnh của mình”.
2, Tô cáo tội ác, âm mưu đê hèn củ a thực dân Pháp hơn 80 năm qua:
Trong bản Tuyển ngôn Độc lập bằng lời văn hùng hồn, dẫn chứng cụ thể tiêu
biểu, chính xác đã nêu rõ về tội ác của thực dân Pháp hơn 80 năm qua trên đâ't
nước ta. Về mặt chính trị, chúng không cho nhân dân ta một thứ quyền tự do

91
dân chủ nào. Chúng thiết lập ba chế độ khác nhau Trung, Nam, Bắc nhằm ngăn
cản viộc thống nhất đâ"t nước đề tiếp tục cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học
với chính sách ngu dân. Chúng đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân ta trong
biển máu. Thâm độc hơn, chúng đã đưa rượu cồn và thuôc phiện vào nước ta để
làm suy nhược nòi giông.
Về kinh tế, chúng ra sức bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, chúng cướp
không ruộng đât, hầm mỏ, nguyên liệu đưa ra hàng trăm thứ thuế nhằm bần
cùng hóa dân cày và dân buôn. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên.
Chúng câu kết với phát xít Nhật gây ra nạn đói thảm khôh năm 1945 làm hơn
hai triệu đồng bào ta chết vì đói. Hàng loạt dẫn chứng tiêu biểu, đã phơi bày tội
ác của thực dân Pháp đôì với nhân dân ta hơn 80 năm qua và thử hỏi rằng đó là
chính sách gì? khai hóa văn minh, bảo hộ ưl không!. Chúng đã lợi dụng ngọn cờ
độc lập tự do bác ái để cướp nước ta và bóc lột đồng bào ta. Với ngòi bút sắc bén
của Hồ Chí Minh, tác giả vạch trần thủ đoạn lừa bịp xảo trá về chính sách thuộc
địa của chúng ở Đông Dương. Chứng tỏ bản Tuyên ngôn Độc lập là minh chứng
rõ ràng nhâ't, hùng hồn nhâ't nhằm tô' cáo tội ác của thực dân, phát xít. Thực
dân Pháp còn nêu lên ý đồ tái chiếm Đông Dương. Chúng nói: “Đông Dương là
đất hảo hộ của người Pháp mà Nhật chiếm đóng, nay Nhật dầu hàng thì Đông
Dương thuộc quyền của người Pháp". Đây là lời nói trắng trợn để cướp đoạt
xương máu của nhân dân ta đã giành lại tự do độc lập từ cuộc Cách Mạng mùa
thu lịch sử. Thực dân Pháp, chúng phải hiểu rằng từ năm 1940 Nhật xâm chiếm
Dông Dương đế làm bàn đạp đánh Đồng minh. Ngày, Nhật đảo chính Pháp (9-3-
1945), Pháp đầu hàng, từ đây nhân dân ta chịu sự đô hộ của phát xít Nhật,
không còn của thực dân Pháp nữa. Như vậy, ngày 19-8-1945 nhân dân cả nước
đã giành lại chính quyền không phải từ thực dân Pháp mà từ phát xít Nhật.
Điều đó chứng tỏ ràng, không có lí do nào, nguyên tắc nào, nước ta trở thành
thuộc địa của Pháp như lời rêu rao của chúng. Đây là những luận chứng rõ nét,
lí lẽ hùng hồn đanh thép tiếp tục vạch trần ý đồ xâli xa, đê hèn của thực dân
Pháp đối với nhân dân ta lúc bấy giờ.
3. Nêu cao tinh th ần dâu tran h b ất khuât và tính nhân đạo của dân
tộc ta.
Bản Tuyên ngôn Dộc lập còn nêu rõ tinh thần đấu tranh bâ't khuất của nhân
dân ta hơn 80 năm qua nhăm đánh đổ nền quân chủ chuyên chế, đập tan xiềng
xích nô lệ của bọn thực dân phát xít mà ngòi bút Hồ Chí Minh đã ghi rõ trong
bản Tuyên ngôn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Chỉ ,có “chín từ”
nhưng toát lên quá trình đâu tranh của nhân dân ta thật kiên cường bất khuât
đế giành lại tự do độc lập. Đây là nét son cửa lịch sử, niềm tự hào của dân tộc

92
trong sự nghiệp đấu tranh để giành lại chủ quyền cho đất nước. Bản Tuyên ngôn
Độc lập còn thế hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc ta râ"t rõ. Khi Nhật đảo
chính Pháp vào ngày 09-3-1945, Pháp đầu hàng, một sô" người Pháp được Việt
Minh giúp đỡ chạy trôn sang biên thùy đồng thời giúp một sô' người Pháp trôn
khỏi trại giam của Nhật và bảo toàn tài sản của họ, ngược lại, thực dân “Pháp”
hành động dã tâm đê hèn trước khi tháo chạy, chúng đã giết nô't một sô' tù
chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
4. Đưa r a luận chứng buộc Đồng minh thừa nhận nền độc lập của
dân tộc.
Bằng ngòi bút độc đáo và sáng tạo, tác giả nắm rõ tình hình diễn biến của
thế giới, Hồ Chí Minh đã đưa vào bản Tuyên ngôn với hai hội nghị ở Têhêran
(Iran - 1943) và hội nghị Cựu Kim Sơn (Mỹ - 1945). Thông qua hai hội nghị
này, Đồng minh (Anh - Mỹ - Liên Xô) thừa nhận nguyên tắc bình đẳng của các
dân tộc trên thê' giới và có nhiệm vụ bảo vệ hòa bình thì chính giờ phút này nhân
dân Việt Nam đã giành lại độc lập tự do là giành lại quyền bình đẳng của dân tộc
từ tay phát xít Nhật thì không có lí do gì Đồng minh không thừa nhận nền độc
lập tự do của dân tộc ta vừa mới giành được. Đây là một luận chứng cụ thể, là cơ
sở pháp lí đế buộc Đồng minh phải thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta.
5. Kêu gọi nhân dân ra sức bảo vệ nền độc lập vừa mới giành dưỢc.
Kết thúc bản Tuyên ngôn là lời bày tỏ sự quyết tâm của toàn thể nhân dân Việt
Nam như một lời thề đế bảo vệ nền độc lập tự do vừa mới giành được. Bản
Tuyên ngôn có ghi: “Toàn thề dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải dể giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đó là ý
chí, là khát vọng chính đáng đế bảo vệ hòa bình hạnh phúc cho cả dân tộc.
Đúng như lời nhận định của Hồ Chí Minh: “Thà hi sinh tât cả chứ không bao
giờ chịu mất nước, không bao giờ chịu làm nô lệ”.

III. PHẨN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Bản Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm văn chính luận
đặc sắc. Lời văn hùng hồn, rắn rỏi, đanh thép, lập luận chặt chẽ, mạch lạc, dẫn
chứng tiêu biểu với ngòi bút độc đáo sáng tạo, giàu tình trí tuệ cùng am hiếu
tình hình sâu rộng của tác giả.
2. v ề nội dung: Bản Tuyên ngôn nhằm thể hiện khát vọng độc lập tự do của
dân tộc ta, thế hiện tinh thần đấu tranh bất khuât nhằm bảo vệ tố quôc phát
huy truyền thông yêu nước của dân tộc từ đó vạch trần sự lừa bịp của thực dân
về chính sách khai hóa văn minh bảo hộ của chúng, thấy rõ ý chí khát vọng tự
do độc lập của dân tộc. Bản Tuyên ngôn là một văn kiện có giá trị lịch sử, một
kiệt tác văn chương, là niềm tự hào của dân tộc.
93
N G U Y Ễ N Đ ÌN H C H lỂ U
NGÔI SAO SÁNG TR O N G VĂN N G HỆ CỦA DÂN TỘ C
PHẠM VĂN ĐỔNG

Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh ra đời, ý chính và m ục đích củ a tá c
phẩm “N gu yễn D in h C h iểu n g ô i s a o s á n g tr o n g v ăn n g h ệ c ủ a
d â n t ộ c ” qua ngòi bút củ a Phạm Văn Đồng.
Câu 2: Giải thích tự a đề “N gu yễn Đ ìn h C h iểu n g ô i s a o s á n g tr o n g văn
n g h ệ c ủ a d â n t ộ c ” của tá c giả Phạm Văn Đồng,

Câu 1: Hoàn cảnh ra đòfi, ý chính và mục dích của tá c phẩm “Nguyễn Đình
Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộ c”.
1, Hoàn cản h ra dời:
Trong phần mở đầu của bài viết, tác giả Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: “ngôi
sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẻ phải sáng tỏ hơn
nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc”, nhâ't là trong lúc này. Đó là thời điểm
năm 1963, một thời điểm rất có ý nghĩa: Từ nàm 1954 đến 1960, Mỹ và chính
quyền Ngô Đình Diệm triển khai chính sách tố cộng, bức hại những người
kháng chiến cùng gia đình họ. Chúng lê máy chém khắp miền Nam (luật
10 -1959), bắt bớ, tàn sát đẫm máu phong trào cách mạng. Trước tình hình đó,
hàng loạt phong trào đấu tranh chông Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm của
nhân dân miền Nam nổi lên tiêu biểu là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre (quê
hương cụ Đồ Chiểu). Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, giúp cho ta hiểu
tại sao tác giả Phạm Văn Đồng viết bài vàn này vào tháng 7 - 1963 nhân dịp kỉ
niệm 75 năm ngày mất của cụ Nguyễn Đình Chiểu (tháng 7 - 1888).
2, Những ý chính củ a bài viết:
Ý l: N h ậ n x ét, đ á n h g i á về c u ộ c đ ờ i v à q u a n n iệ m s á n g t á c c ủ a
N gu yễn Đ ìn h C h iể u - n h à t h ơ y êu nước.
ơ phần này, tác giả Phạm Văn Đồng viết: “Người chiến sĩ Nguyễn Đình
Chiểu mà đời sống và hành động của ông là tấm gương anh dũng... cuộc đời và
thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ hi sinh, phấn đấu vì nghĩa
lớn”. Tác giả viết thêm: “Đối với Nguyễn Đình Chiểu, cầm bút viết văn là một
thiên chức”. Cái thiên chức của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn thông nhât với lẽ
làm người, ớ Nguyễn Đình Chiểu, văn với người chỉ là một. Cuộc đời và sự
nghiệp của ông đã hùng hồn chứng minh quan niệm đó.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
(Nguyễn Đình Chiểu)

94
Ý2: D á n h g i á về t h ơ v ăn y êu n ư ớc c ủ a N gu yễn Đ ìn h C h iểu - đ ặ c b iệ t
là b à i “V ăn tê n g h ĩa s ĩ c ầ n G iu ộ c ”.
Tác giả Phạm Văn Đồng ca ngợi: “Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu
đã làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng pháp oanh liệt và
bền bỉ của nhân dân Nam Bộ từ 1860 về sau, suốt hai mươi năm trời”. Tác giả đặc
biệt ca ngợi bài “Văn tế nghĩa nghĩa sĩ Cần Giuộc”, vì Nguyễn Đình Chiểu đã diễn
tả thật sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đôi với nghĩa sĩ vốn là nông
dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bổng chốc trở thành anh hùng cứu nước.
Ý3: Đ á n h g i á về t á c p h ẩ m “T ru yện L ụ c V ân T iê n ”
Tác giả Phạm Văn Đồng cho rằng “Truyện Lục Vân Tiên” được coi như truyện
Kiều của đồng bào Nam Bộ, được người người, nhà nhà yêu mến và truyền tụng.
Đôl với truyện Lục Vân Tiên, có người phê bình là lời văn chưa trau chuôt lắm.
Nhưng tác giả đã biện minh đầy thuyết phục: “...dẫu sao đôi chỗ sơ sót về văn
chương, không thế' làm giảm đi giá trị của bản trường ca thật là hấp dẫn từ đầu
đến cuối”.
3. Mục đích củ a bài viết:
Tác giả Phạm Văn Đồng viết lên tác phẩm “Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao
trong vân nghệ của dân tộc” nhằm mục đích:
- Ca ngợi tinh thần yêu nước của cụ Nguyễn Đình Chiểu cùng nhân dân Nam
Bộ trong buổi đầu chông quân xâm lược Pháp với một tinh thần bất khuất nhằm
phát huy truyền thôhg yêu nước của nhân dân ta, thổi vào một luồng gió mới
cho người dân Nam Bộ tiếp tục sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước.
- Tác giả viết lên tác phẩm này nhằm đánh tan cái nhìn lệch lạc, phiến diện
của một sô' người về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu. Qua đó
khẳng định chỗ đứng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đôl với nền vàn học của
dân tộc.
Câu 2: Giải thích tựa đề: “N gu yễn Đ ìn h C h iểu n g ô i s a o s á n g tr o n g văn
n g h ệ c ủ a d â n t ộ c ” củ a tá c giả Phạm Văn Đồng.
Tác giả Phạm Văn Đồng viết lên tác phẩm với tựa đề: “Nguyễn Đình Chiểu
ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Đất Nam Bộ, mỗi khi nhắc đến “Lục Vân Tiên” hay “Văn tế Nghĩa sĩ Cần
Giuộc”, ai ai cũng nhớ về cụ Đồ Chiểu, một nhà thơ lớn, một chiến sĩ yêu nước
trong buổi đầu chống quân xâm lược Pháp tiêu biểu tác phẩm “Văn tế Nghĩa sĩ
Cần Giuộc” đã đi vào lòng người, người dân Nam Bộ. - Nhưng có một sô' người,
họ có cái nhìn lệch lạc về thơ văn của cụ, họ cho rằng thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu không trau chuôt, bóng bảy, mượt mà. Họ chỉ biết đánh giá bề ngoài về
hình thức, nghệ thuật, mà quên đi vẻ đẹp từ bên trong của thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu. Tác giả Phạm Văn Đồng đã so sánh, ví von: “Thơ văn Nguyễn Đình

95
Chiểu không phải dẹp như cây lúa non uốn mình trong làn gió nhẹ mà nó mang
vẻ đẹp từ đống thóc mảy vàng”.
- Đồng thời có một sô" người, họ không thấy được tinh thần yêu nước của
Nguyễn Đình Chiểu qua thơ văn rồi có một cái nhìn lệch lạc thiếu khách quan,
đúng đắn. Để đánh tan sự lệch lạc, phiến diện của một sô' người trên, tác giả
Phạm Văn Đồng đã viết về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu có
một giá trị tư tưởng râ't lớn về tinh thần yêu nước, về tư tưởng đạo lí thể hiện
rất rõ trong tác phẩm “V ăn tế Nghĩa sĩ c ầ n Giuộc”, các bài “Hịch" và tác phẩm
“Lục Vân Tiên” nhằm khẳng định cụ Đồ Chiểu là một nhà thơ lớn, một chiến sĩ
yêu nước là ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Vì thế mà có tựa đề trên.

Để tuyến sinh: Anh (chị) phân tích tá c phẩm : “N g u y ễn Đ ìn h C h iểu


n g ô i s a o s á n g tr o n g v ă n n g h ệ c ủ a d ã n t ộ c ” củ a tá c giả Phạm
Văn Đồng để làm sáng tỏ Nguyễn Đình Chiểu là m ột nhà thơ
lớn, m ột ch iến sĩ yêu nước, m ột người con nặng tình với quê
hương đ ât nước.

ữnsr kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Cụ Nguyền Đình Chiểu tííng ca ngợi về đạo lí con người; “Trai thời trung hiếu làm
dầu. Gái thời tiết hạnh là câu trau mình". {Lite Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
2. Cụ Nguyễn Đình Chiểu từng ca ngợi tinh thần nghĩa hiệp của con người: “Nhớ
câu kiến nghĩa bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. (Lục Vân Tiên
- Nguyễn Đình Chiểu)
3. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện lòng yêu nước thương dân: “Hõi trang
dẹp loạn rày dâu váng. Nã đ ề dân đen mắc nạn này”. (Chạy Tây - Nguyễn
Đình Chiểu); hay: “Hoa cỏ bùi ngùi ngóng gió Đông. Chúa Xuân đâu hỡi có
hay không'?” (Xúc Cảnh - Nguyễn Đình Chiểu)
4. Nguyễn Đình Chiểu kêu gọi những bậc “quan chi phụ mẫu" của nhân dân hãy
nhìn rõ nỗi nhục mất nước mà đứng ra cứu nước, đừng thỏa hiệp đầu hàng.
“Bớ các quan ơi, chớ thấy chín trùng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ phôi
pha, cho rằng ba tinh giao hòa mà cái việc cừu thù dành lơ lãng!”. (Hịch)
“Bớ các làng ơi, chớ thấy Gò Công thất thủ mà trở mặt hại nhau, chớ nghe bảo
trên Bến Nghé phân cư mà đành lòng theo mọi”. (Hịch)
5. Năm 1862. Triều đình Tự Đức giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
Năm 1867. Triều đình Tự Đức tiếp tục giao ba tỉnh miền Tây cho Pháp.
6. Nguyễn Đình Chiểu phơi bày tội ác của thực dân Pháp đô'i với nhân dân Nam
Bộ: “Dau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

96
7. Ca ngợi tinh thần đấu tranh của nhân dân Nam Bộ: “Hỡi ôi! Súng giặc đất rền,
lòng dân trời tỏ. Mười năm công vỡ ruộng, chưa át còn danh nổi tợ phao, một
trận nghĩa đánh Tây tuy là mất nhưng tiếng vang như mỏ” (Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc).
8. Ca ngợi hành động dũng cảm quên mình của nhân dân Nam Bộ: “Kẻ đâm
ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma-ní hồn kinh; bọn hè trước, lủ ó
sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ". (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc).
9. Tô' Hữu từng ca ngợi về cái chết đẹp: “Có cái chết hóa thành bất tử” (Tô' Hữu)
10. Có lời nhận định về bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” như sau: “Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc một tượng đài nghệ thuật bất tử về người nghĩa sĩ vô danh
trong buổi đầu chống quân xâm lược Pháp”.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có cái chết hóa thành bất tử ’.
(Tố Hữu)
Tiếng thơ của Tô' Hữu, đưa chúng ta nhớ lại một nhà thơ lớn, một chiến sĩ
yêu nước trong buổi đầu chông quân xâm lược Pháp đó là Cụ Đồ Chiểu, một tên
gọi quen thuộc gần gũi kính yêu của người dân Nam Bộ măi mãi là tấm gương
sáng, một người con đem lại niềm tự hào cho dân tộc. Nhân kỉ niệm 75 năm
ngày mâ't của Cụ (1888-1963). Tác giả Phạm Văn Đồng, đã viết về Cụ với tác
phẩm “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” như thể
hiện tấm lòng ngưỡng mộ của người sau đôi với người trước và khẳng định vị trí
xứng đáng về Cụ Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của dân tộc, một chiến sĩ
yêu nước, một người con nặng tình với quê hương đất nước.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


“N gu yễn Đ ìn h C h iểu , n g ô i s a o s á n g tr o n g v ăn n g h ệ c ủ a d ã n t ộ c ”.
1. T ác giả Phạm Văn Đổng có cái nhìn mới m ẻ, đúng đắn, khoa học
về sự nghiệp văn chương củ a nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (1888-1963)
để bày tỏ tấm lòng của người sau đôi với người trước, tác giả Phạm Văn Đồng đã
viết lên tác phẩm: “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sáng trong văn nghệ của dân tộc”
đồng thời qua tác phẩm này, tác giả Phạm Văn Đồng có cái nhìn đúng đắn, mới
mẻ, khoa học về thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, nhằm đánh tan cái nhìn lệch
lạc, phiến diện, thiển cận, hẹp hòi của một sô' người nào đó đã nhận định về thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu. Với họ, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu: “không trau chuốt
bóng bảy, mượt mà về giá trị nghệ thuật”. Chứng tỏ, họ chỉ đặt nặng về hình
thức bên ngoài mà không thấy rõ thơ vàn Nguyễn Đình Chiểu có giá trị từ bên
trong đó là tình yêu nước nồng nàn của người dân Nam Bộ tiêu biểu qua bài

97
“Vđn tế nghĩa sĩ c ầ n Giuộc” cùng tư tưởng đạo lí đề cao nhân nghĩa qua tác
phẩm “Lục Vân Tiên”. Điều đó chứng tỏ rằng thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và
cuộc đời của ông như “một ngôi sao có ánh sáng khác thường” lung linh, tiềm ẩn
những vẻ đẹp từ bên trong mà muôn đánh giá, hiểu rõ về thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu, phải có một cái nhìn “chăm chú” phải nghiên cứu, đào sâu, tìm tòi và
phải đặt thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sáng tác trong tình huông nào, hoàn cảnh
nào thì mới thấy hết được giá trị tư tưởng, vẻ đẹp bên trong để có một cái nhìn
đúng đắn, đánh giá khách quan. Chứng tỏ, Cụ Nguyễn Đình Chiểu là một nhà
thơ lớn của dân tộc mà tác giả Phạm Văn Đồng đã so sánh, ví von: “thơ vân
Nguyễn Đình Chiểu không phải đẹp như cây lúa non uốn mình trong làn gió
nhẹ mà nó mang vẻ dẹp từ đống thóc mẫy vàng”.

2. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn của dân tộc.


a. T rư ớc tiê n c ầ n tìm h iể u về c u ộ c đ ờ i c ủ a N gu yễn Đ ìn h C h iểu .
- Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng của dân tộc, một người con hiếu
thảo nặng lòng với gia đình. Lúc ông đi thi hương tại Huế, nghe tin mẹ mất
đành bỏ cuộc thi về thọ tang mẹ. Trên đường về vì khóc thương mẹ đôi mắt của
ông đã mù lòa.
- Nguyễn Đình Chiểu sinh ra và lớn lên khi quân xâm lược Pháp xâm chiếm
nước ta. Bọn chúng biết ông là người có tài, ảnh hưởng nhân dân sâu rộng,
chúng mời ông ra hợp tác nhưng ông từ chòi với một quan niệm sông đẹp “thà
đui mà giữ đạo nhà". Sau đó ông mở trường dạy học, làm nghề bô'c thuôc và tư
vấn cho phong trào nghĩa quân của Trương Định.
b. T h ơ v ăn N gu yễn Đ ìn h C h iểu c a n g ợ i tin h th ầ n y êu n ư ớc c h ố n g
P h á p tiê u b iể u b à i “V ăn t ế n g h ĩa s ĩ c ầ n G iu ộ c ”.
- Bài “Văn T ế Nghĩa Sĩ cần Giuộc” là khúc ca bi tráng của người nông dân
Nam Bộ trong buổi đầu chông quân xâm lược Pháp, được thể hiện rất rõ qua
ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhằm ca ngợi tinh thần yêu nước của nhân
dân Nam Bộ mãi mãi sáng ngời trong lịch sử qua lời giới thiệu đầu tiên trong
tác phẩm: “Mười năm công vỡ ruộng chưa ắt còn danh nổi tợ phao. Một trận
nghĩa đánh Tây tuy là mất nhưng tiếng vang như mỏ”. (Văn tế nghĩa sĩ cần
Giuộc). Tác phẩm ca ngợi tinh thần chiến đấu ngoan cường của người nghĩa
quân với hình ảnh: “Kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho mã tà ma-ní hồn
kinh, bọn hè trước, lũ ó sau trối kệ tàu thiếc tàu dồng súng nổ". (Văn tế nghĩa sĩ
cần Giuộc). Và cho dù vũ khí thô sơ nhưng họ vẫn giết được giặc, phá hủy nhà
thờ với; “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi củng dốt xong nhà dạy dạo kia. Gươm
đeo dùng bằng lưỡi dao phay củng chém rơi dầu quan hai nọ”. (Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc) Chính tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của họ chỉ xảy ra
trong khoảnh khắc nhưng mãi mãi để lại tiếng thơm cho muôn đời.

98
- Tiếp tục tác phẩm đã phơi bày tội ác thực dân gây ra bao cảnh đau thương,
tang tóc cho nhân dân ta lúc ấy qua hình ảnh; “Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc
trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn
bóng xế dật dờ trước ngố”. (Văn tế nghĩa sĩ c ầ n Giuộc)
Nguyễn Đình Chiểu còn ca ngợi quan niệm sông và chết của người nghĩa
quân thật rõ ràng: “Sống làm chi với quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn dộc,
nghĩ lại thêm buồn. Thà thác mà đặng câu địch khái về theo tổ phụ cũng vinh”.
(Vàn tê nghĩa sĩ cần Giuộc)
N hận xét: Hàng loạt thơ văn trong bài “Văn tế nghĩa sĩ c ầ n Giuộc” càng
thấy rõ tinh thần yêu nước của nhân dân ta và tội ác của quân xâm lược Pháp là
biểu hiện tình yêu nước sâu sắc qua thơ văn, là giá trị tư tưởng nội dung trong
tác phẩm.
Mở rộ n g 1: Tác giả Phạm Văn Đồng đã tái hiện hoàn cảnh của đất nước lúc
ấy thật rõ nét, khi danh tướng Nguyễn Tri Phương thất thủ thành Gia Định.
Năm 1862, triều đình Tự Đức chia cắt ba tỉnh Miền Đông cho Pháp. Đến năm
1867, triều đình tiếp tục giao ba tỉnh Miền Tây cho Pháp. Cụ Đồ Chiểu nhìn
thấy cảnh nước mất nhà tan, đau lòng thương xót và dùng thơ văn viết lên
những bài Hịch nhằm kêu gọi những ai có trách nhiệm với đất nước, với nhân
dân hãy đừng thỏa hiệp đầu hàng mà đứng ra cứu nước, qua tiếng gọi não nùng
từ trái tim yêu nước của người chiến sĩ Nguyễn Đình Chiểu; “Bớ các quan ơi!
Chớ thấy chín trùng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ phôi phai, cho răng ba
tỉnh giao hòa mà cái việc cừu thù đành lơ lãng!” (Hịch) và Cụ Nguyễn Đình
Chiếu kêu gọi quan, rồi đến kêu gọi làng, kêu gọi nhân dân hãy bình tĩnh mà
nhìn rõ nỗi nhục mất nước để mà căm thù đứng lên giết giặc, đừng trở mặt hại
nhau rồi, theo giặc qua tiếng gọi não nùng của Nguyễn Đình Chiểu: “Bớ các làng
ơi! chớ thấy Gò Công thất thủ mà trở mặt hại nhau. Chớ nghe bảo trên Bến
Nghé phân cư mà đành lòng theo mọi”. (Hịch) Những lời kêu gọi ấy là tiếng nói
từ trái tim của Nguyễn Đình Chiểu với tấm lòng yêu nước thương dân vô cùng là
giá trị tư tưởng, nội dung sức sống cho bài Hịch trong thơ văn của ông.
Mở rộ n g 2: Ngoài bài “Văn tế nghĩa sĩ c ầ n Giuộc” cũng như những bài
“Ilịch” thơ vàn Nguyễn Đình Chiểu còn để lại những trang thơ phơi bày tội ác
quân cướp nước Pháp và kêu gọi những bậc sĩ phu đại diện cho triều đình,
những ai có trách nhiệm đôl với nhân dân, với đất nước hãy mau mau đứng lên
cứu nước, cứu nhân dân trước thảm họa xâm lăng của quân xâm lược Pháp. Với
lời thơ: “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng! Nỡ đ ể dân đen mắc nạn nàyĩ” (Chạy
Tây) hay: “Hoa cỏ bùi ngùi ngóng gió Đông. Chúa Xuân đâu hỡi có hay không?”
(Xúc cảnh). Những vần thơ biểu hiện nỗi niềm đau thương trong tâm hồn của
Nguyễn Đình Chiểu khi nhìn thấy đất nước chia cắt, nhân dân đọa đày lầm
than cơ cực rồi đưa ra lời kêu gọi, những ai có trách nhiệm với nước với dân hãy
mau mau ra cứu nước là biểu hiện tinh thần yêu nước sâu sắc trong thơ văn

99
Nguyễn Đình Chiểu là giá trị tư tưởng trong thơ văn của ông, có khác gi như
“một đống thóc mảy vàng” tìm ẩn, lung linh tình yêu quê hướng đất nước trong
thơ văn cụ Đồ Chiểu.
c. Thơ văn Nguyền Đình Chiểu ca ngợi đạo lí làm người qua tác phẩm
“Lục Vân Tiên”.
Ngoài thơ văn ca ngợi tình yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu còn có tác phẩm
“Lục Vân Tiên” như một tấm gương sáng, soi rọi tâm hồn mỗi người phải có một
lẽ sông đẹp, đúng như lời nhận định của cụ Nguyễn Đình Chiểu: “Trai thời trung
hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”. Thơ văn trong tác phẩm Lục
Vân Tiên còn ca ngợi tinh thần nghĩa hiệp của nam nhi, luôn luôn là lẽ sông
đẹp thế hiện đạo làm người là nhân cách sông đúng như lời bày tỏ của Cụ: “Nhớ
câu kiến nghĩa bất^ vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. {Lục Vân Tiên -
Nguyễn Đình Chiểu)
Nội dung thơ văn trong tác phẩm Lục Vân Tiên.
- Thơ văn trong tác phẩm Lục Vân Tiên nhằm ca ngợi về đạo lí làm người về
nhân cách sống về cách xử thê ở đời, tiêu biểu như nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều
Nguyệt Nga, Hớn Minh, Vương Tử Trực, ... những nhân vật ấy luôn luôn đề cao
“trọng nghĩa khinH tài” dù gặp phải đau khổ, gian nan nhưng họ vẫn phấn đấu,
vượt lên chính mình nhằm thực hiện lẽ sống đẹp: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng
mình” là giá trị tư tưởng, nét đẹp đạo lí làm nên sức sông cho thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu.
- Những nhân vật trong tác phẩm Lục Vân Tiên tưởng chừng như những
người bằng xương bằng thịt, đang sông giữa cuộc đời mà họ đang đôl diện, có kẻ
tô't người xấu, kẻ thiện người ác, kẻ tham lam bần tiện kể cả những điều bâ't
công phi lí của xã hội. Nhưng họ vẫn luôn luôn phấn đấu, “nghèo vẫn sạch, rách
vẫn thơm” và trước bạo lực uy quyền không cúi đầu khuất phục, không chùn bước
là thực hiện một lẽ sông đẹp là giá trị tư tưởng trong tác phẩm Lục Vân Tiên
của Cụ Nguyễn Đình Chiểu.
Hình thức thơ văn trong tác phẩm Lục Vân Tiên.
- Tác giả Phạm Văn Đồng đã cho rằng tác phẩm Lục Vân Tiên như “Truyện
Kiều miền Nam” lời gọi như thế mới thấy rõ tác phẩm Lục Vân Tiên đi sâu vào
lòng người và có giá trị rất lớn. Tác giả Phạm Vàn Đồng cho rằng; tác phẩm Lục
Vân Tiên như là một “chuyện kể, chuyện nói” bằng thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
mang ngôn ngữ chân chất, mộc mạc của người dân Nam Bộ. Với cụ Nguyễn Đình
Chiếu không muôn viết bóng bảy, trau chuôt, mượt mà mà viết nôm na, dễ hiểu,
dễ nhớ nhằm phố biến sâu rộng trong dân gian. Vì lúc ây trình độ dân trí của
người dân Nam Bộ rất thấp, họ chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” làm
gì có điều kiện đến trường đề có kiến thức văn hóa. Bên cạnh đó, cụ Nguyễn
Đình Chiểu sáng tác, tác phẩm này lúc ấy, đôi mắt bị mù, phải đọc lại cho người
khác chép, vì thế có phần sơ sót trong, văn chương, nhưng về mặt nội dung của

100
tác phẩm nhằm ca ngợi đạo lí, về nhân cách làm người, đi sâu vào lòng nhân
dân cùng lời văn hay, gọn gàng đậm châ't Nam Bộ đó là yếu tô' cơ bản làm nên
giá trị về hình thức trong tác phẩm Lục Vân Tiên. Chứng tỏ sự nghiệp văn
chương của Nguyễn Đình Chiểu có tác dụng rất lớn đôi với nhân dân.
3. Khẳng định vị trí và chỗ dứng của Nguyễn Đình Chiểu tron g nền
văn học Việt Nam.
Qua phần dẫn chứng về thơ văn yêu nước cùng thơ văn ca ngợi đạo lí con
người của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu qua hai tác phẩm lớn “Vdn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc” và “Lục Vân Tiên” đã chứng tỏ cho‘người đọc thấy rằng, Nguyễn
Đình Chiểu xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc là một chiến sĩ yêu nước trong
buổi đầu chông Pháp.

III. PHẦN K ẾT THÚC


Qua phần trình bày về cuộc đời và thơ vàn của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ
Cụ Nguyễn Đình Chiểu mãi măi là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.
Dù thơ văn của Cụ so với hoàn cảnh thời đại hôm nay, có những mặt không còn
phù hợp (mang tính phong kiến) nhưng cơ bản vẫn ca ngợi tình yêu nước, ca
ngợi đạo lí làm người, vẫn mang tầm vóc của thời đại, chứng tỏ, sự nghiệp vàn
chương của Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí xứng đáng trong nền văn học Việt
Nam. Cụ là một nhà thơ lớn của dân tộc, một người con nặng tình với quê hương
đất nước.

T À Y T IẼ N
Quang Dũng

Đề tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau:


Câu 1: Giới thiệu tá c giả và tá c phẩm,
Câu 2: Trình bày hoàn cảnh sáng tá c, ý chính và chủ đề bài thơ
"Tây T iến " c ủ a nhà thơ Quang Dũng. _________________

HƯỚNG DẨN
Câu 1: Giới thiệu về tá c giả và tá c phẩm.
1. v ề tác giả: Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng là nhớ yề một nghệ sĩ tài hoa.
Ông sinh năm 1921 tại Hà Tây, xuất thân trong một gia đình nho học. ông học
xong chương trình trung học. Năm 1947 ông trở thành đại đội trưởng của đoàn
quân Tây Tiến, ông sống bằng nhiều nghề, làm thơ, vẽ tranh, viết vãn, soạn nhạc.
Năm 1988 ông ra đi, để lại bao tiếc thương cho những người đã từng yêu thơ ông.
Năm 2001 ông được nhận giải thưởng văn học nghệ thuật của Nhà Nước.

101
2. v ề tá c phẩm : “Rừng biển quê hương”, “Mùa hoa gạo", “Đường lên Châu
Thuận”, “Rừng về xuôi”, “Nhà đồi", “Mây đầu ô”, “Gương mặt Hồ Tây"...
Câu 2: H oàn cản h sáng tá c, ý ch ín h và chủ đề b à i th ơ 'T'ăy Tiến".
1. Hoàn cản h sáng tác:
- Mùa xuân năm 1947, đoàn quân Tây Tiến được thành lập. Họ là những sinh
viên, học sinh, công nhân, trí thức của đất Hà Thành. Đoàn quân có nhiệm vụ bảo
vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào. Nhà thơ
Quang Dũng, người thanh niên tri thức đất Hà Thành trở thành người đại đội
trưởng của đoàn quân Tây Tiến, ông đã gắn bó cùng đoàn quân trong những năm
tháng gian khố chiến đấu từ đầu mùa xuân 1947 đến cuối năm 1948, đoàn quân
giải thế và thành lập thành trung đoàn 52. Quang Dũng rời xa đơn vị. Tại làng
Phù Lưu Chanh thuộc tỉnh Hà Đông bên cạnh con sông Đáy hiền hòa, nhà thơ
tìm về hoài niệm của một thời kháng chiến, nhớ lại cảnh đẹp Tây Bắc hùng vĩ thơ
mộng và nhớ về đồng đội trong những năm tháng gian khổ trong chiến đấu. Trước
giây phút ấy, cảm xúc của nhà thơ đã viết lên bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm
1957 Quang Dũng bỏ từ “nhớ" và lấy tựa đề “Tây Tiến” như là hình ảnh trung tâm
trong nỗi nhớ của nhà thơ. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” do nhà xuất bản
Hà Nội vào năm 1986.
2. Ý ch ín h củ a b à i thơ;
Bài thơ chia làm bôn ý:
Y l: từ “sông Mã xa rồi ... thơm nếp xôi”.
Nhà thơ bày tỏ nỗi nhớ về cảnh đẹp thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh đoàn
quân Tây Tiến của một thời gian khổ trong chiến đấu.
Ý2: Từ “Doanh trại hừng lên ... hoa dong dưa”.
Thể hiện niềm lạc quan yêu đời, hào hoa trong tâm hồn những người lính trẻ
và thể hiện tình quân dân thắm thiết.
Ý3: Từ “Tây Tiến đoàn binh ... khúc độc hành”.
Thể hiện nét đẹp bi tráng về hình ảnh người chiến binh Tây Tiến thật kiêu
hùng lẫn tự hào.
Ý4: Từ “Tây Tiến người đi ... chẳng về xuôi”.
Thế hiện khí phách hào hùng của những người chiến binh Tây Tiến một đi
không trở lại.
3. Chủ đề b à i thơ:
Ca ngợi chí can trường của người chiến binh trong đoàn quân Tây Tiến một
thời kháng chiến đầy gian khổ nhưng tự hào.

1 02
Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích đoạn thơ sau tron g bài thơ
"Tây T iến " củ a Quang Dũng dể tìm thấy cảnh đẹp th iên nhiên
hùng vĩ củ a Tây B ắ c và hình ảnh đoàn quân Tây Tiến tron g
gian khó nhưng vẫn kiêu hùng:
“S ô n g M ă x a r ồ i T ây T iến ơi!
N h ớ về rừ n g n ú i n h ớ c h ơ i vơi
S à i K h a o sư ơn g lấ p đ o à n q u â n m ỏ i
M ường L á t h o a về tr o n g đ ê m h ơ i
D ốc lê n k h ú c kh u ỷ u , d ố c t h ă m th ẳ m
H eo h ú t c ò n m ây sú n g n gử i trờ i
N g à n th ư ớ c lê n c a o n g à n th ư ớ c x u ố n g
N h à a i P h a L u ô n g m ư a x a k h ơ i ...
(Trích “Tày Tiến” - Quang Dũng)

ÌSỈững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “...Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương.
Khi ta ở chi là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. {Tiếng hát con tàu -
Chế Lan Viên)
2. Nhà thơ Tô" Hữu từng ca ngợi về hình ảnh núi rừng trong hồn thơ Việt Bắc:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng. Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng
thành lũy sắt dầy. Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. {Việt Bắc - Tô" Hữu)
3. Nhà thơ Xuân Diệu bày tỏ: “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” {Tương tư chiều
- Xuân Diệu).
4. Ca Dao Việt Nam từng nói về nỗi nhớ: “Ta về nhớ bạn chơi vơi”. (Ca dao)
5. Nhà thơ Tô" Hữu ca ngợi vẻ đẹp người lính: “Rất dẹp hình anh lúc nắng chiều.
Bóng dài trên đinh dốc cheo leo. Núi không đè nổi vai vươn tới. Lá ngụy
trang reo với gió đèo”. (Tô" Hữu)
6. Nhà thơ Quang Dũng nói lên sự gian khổ của người lính: “Chúng tôi hành
quăn bằng đôi chân thật sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn
rừng, ngủ rừng”. (Quang Dũng)
7. Nhà thơ Hồ Chí Minh ca ngợi nghị lực của người chiến sĩ: “Núi cao lên đến tận
cùng. Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. {Đi đường - Hồ Chí Minh).
8. Học giả Nguyễn Bá Học có nói: “Đường đi khó, không khó vi ngăn sông cách
núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học)
9. Có lời ca ngợi về cảnh đẹp và người lính: “Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Nhớ
về Tây Bắc nhớ người chiến binh”.

103
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“..Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
(trích “Tiếng hát con tàư - Chế Lan Viên)
Kí ức của một thời kháng chiến vẫn sống mãi trong lòng người ra đi bao tình
yêu và nỗi nhớ, nhớ cảnh lẫn nhớ người. Nỗi nhớ ấy cho chúng ta liên tưởng bài
thơ Tây Tiến của Quang Dũng, nhà thơ cũng mang một tâm trạng một nỗi nhớ
như thế với đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”


(Trích “Tây Tiến" - Quang Dũng)
Chúng ta cần đi sâu những vần thơ giàu sức biểu cảm, giàu ngôn ngữ hình tượng
qua nét bút tài hoa của Quang Dũng để tìm thấy cảnh đẹp Tây Bắc cùng hình ảnh
đoàn quân Tây Tiến đã in sâu trong kí ức nhà thơ một thời kháng chiến.

II. PHÂN TRỌNG TÂM


1. Cảnh đẹp thiên nhiên Tây B ắ c cùng hình ảnh đoàn quân Tây Tiến
kiêu hùng.
o. P h â n t íc h b ố n c â u d ầ u :
Sông Mã xa rồi Tây Tiên ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
(Trích “Tày Tiến" - Quang Dũng)
Cuôl năm 1948, Quang Dũng rời xa đơn vị, xa đoàn quân Tây Tiến (Sau khi
giải thể thành lập Trung đoàn 52). Tại Làng Phù Lưu Chanh thuộc tỉnh Hà
Đông bên dòng Sông Đáy hiền hòa, khơi gợi tâm hồn Quang Dũng nhớ về đồng
đội về chiến trường năm nào vẫn còn tươi rói để nhà thơ bật thành tiếng gọi
đầu tiên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Lời thơ hầu hết toàn vần bằng, nhịp thơ êm đềm, hình ảnh tiêu biểu, giàu
sức biểu cảm đưa người thi sĩ nhớ về cảnh đẹp thiên nhiên Tây Bắc với dòng
sông Mã hiền hòa chảy từ thượng Lào về đất Việt, dòng sông từng in bao dấu
chân của đoàn quân cùng nắng mưa dãi dầu và dòng sông từng mang lại cho
người lính dòng nước mát ngọt ngào tiếp sức cho đoàn quân trên đường chiến

104
đấu. Hai tiếng “xa rồi” có khác gì như tiếng thở dài, nuối tiếc về hình ảnh dòng
sông, dòng sông Mă giờ chỉ còn trong kỉ niệm, trong kí ức của người ra đi. Với
cụm từ cảm thán “Tây Tiến ơi!” khơi gợi trong tâm hồn nhà thơ nhớ về đồng
đội, những người lính năm nào cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi trong
chiến đấu. Đặc biệt từ “ơi” ở cuôl câu như tiếng ngân vang, ngân xa là tiếng
lòng, tâm trạng của nhà thơ mãi mãi khắc ghi tình đồng đội đâu dễ nào quên.
Tiếp đến lời thơ thứ hai, ta bắt gặp hình ảnh: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Mạch cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ là nhớ về hình ảnh núi rừng Tây Bắc năm
nào trong chiến đấu cũng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, là nơi
chôn bao xác quân thù cướp nước và hình ảnh núi rừng từng che mưa tránh
nắng trên đoạn đường hành quân gian khổ, có khác gì như người bạn đồng hành
trong chiến đấu mà hồn thơ Việt Bắc của Tố Hữu từng bày tỏ về hình ảnh ấy:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng. Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng
thành lũy sắt dày. Rừng che hộ đội rừng vây quân thù", và hình ảnh núi rừng
trong truyện ngắn “Rừng Xà Nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng từng
miêu tả vẻ đẹp như thế với thi ảnh: “Rừng Xà Nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra
che chở cho làng..”. Quả tỉiật, hình ảnh núi rừng Tây Bắc mãi mãi khắc sâu
trong tâm hồn nhà thơ báò‘kỉ niệm đẹp của một thời chiến đấu rồi khi ra đi, nỗi
nhớ ấy đã hiện về với tiếng gọi “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình,
không định vị, không nhìn thấy bằng ánh mắt bằng mọi giác quan mà nỗi nhớ
của Quang Dũng về núi rừng là nỗi nhớ bồn chồn bâng khuâng sâu lắng, thể
hiện tấm lòng của người thi sĩ nặng tình với quê hương Tây Bắc.
Mở rộ ng: Để hiểu rõ nỗi “nhớ chơi vơi” chúng ta lại bắt gặp trong thơ Xuân
Diệu cũng từng nói: “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” rồi trong ca dao cũng từỉig
nói: “Ta về nhớ bạn chơi vơi”. Phải chẳng, nỗi “nhớ chơi vơi” trong thơ Xuân Diệu,
hay trong ca dao là nỗi nhớ về một người, nỗi nhớ về tình riêng. Còn nỗi “nhớ
chơi vơi” trong thơ Quang Dũng là nỗi nhớ của tình chung, tình quê hương non
nước thấm đẫm trong tâm hồn người đại đội trưởng tài hoa một thời chiến đấu.
Rồi nhà thơ lại nhớ về đồng đội trên chặng đường hành quân gian khổ và bật
thành tiếng gọi: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Mường Lát hoa về trong
đêm hơi”. Hàng loạt địa danh ở Tây Bắc như “Sài Khao, Mường Lát, Mường
Hịch ...” nghe rất lạ tai, đây là vùng đất mà lúc ấy dấu chân người chưa tìm đến,
còn hoang sơ với rừng thiêng nước độc, bao thú dữ nhưng đoàn quân vẫn bước
tiếp rồi khi đến “Sài Khao” sương rừng, mây núi bao phủ cả cảnh vật, che lấp cả
đoàn quân trong trạng thái mệt mỏi, sau một chặng đường hành quân đầy vất
vả, gian khổ. Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” gợi cho chúng ta thấy rõ sự
chịu đựng của người lính trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên cùng thực tế khắc
nghiệt của chiến trường. Và khi đoàn quân đến địa danh “Mường Lát”, đêm đã
về, sương xuông nhưng người lính vẫn mở rộng tâm hồn, đón nhận vẻ đẹp thiên
nhiên với tiếng gọi: “Hoa về trong đêm hơi” một hình ảnh vừa hiện thực vừa

105
lãng mạn khơi gợi trong tâm hồn nhà thơ nhớ lại những giây phút đẹp, lúc
hương hoa rừng Tây Bắc lan tỏa với hương thơm ngào ngạt khi đêm về như
đang len lõi, thâm nhập trong tâm hồn người lính trẻ qua từng hơi thở, tạo nên
một cảm giác êm dịu với mùi hương rừng Tây Bắc, làm ấm lòng người chiến sĩ
sau một chặng đường hành quân vất va’ mãi mãi là vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn,
lạc quan, yêu đời trong tâm hồn người lính trẻ, là lẽ sống đẹp của tuổi hai mươi
thật tự hào. Đúng như lời bày tỏ của nhà thơ Huỳnh Vàn Nghệ: “Từ thuở mang
gươm đi giữ nước. Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long",
b. P h ả n tíc h b ố n c â u c ò n lạ i:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút còn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
(Trích “Tày Tiến"-Q uang Dũng)
Mạch cảm xúc trong hồn thơ Quang Dũng tiếp tục nhớ về đoàn quân trên
những chặng đường chiến đấu với hình ảnh: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm.
Heo hút còn mây, súng ngửi trời". Lời thơ gợi cho chúng ta hình dung địa bàn
hoạt động của đoàn quân Tây Tiến thật rộng, thật hùng vĩ, hiểm trở. Hàng loạt từ
láy gợi hình “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút" làm sống lại vùng đất chiến đấu
năm xưa của đoỀm quân Tây Tiến thật vô cùng khắc nghiệt, trước không gian bao
la choáng ngợp kì vĩ của đất trời. Nhưng đẹp thay, hình ảnh người lính không hề
nhỏ bé, hữư hạn, mong manh như cánh chim chiều lạc loài cô đơn trong hồn thơ
“Tràng Giang" của Huy Cận, mà chân dung người lính vào thời điểm ấy, có khác
gì như cánh chim đại bàng đang tung cánh giữa trời rộng núi cao, cho dù trước cái
uy lực kì bí của thiên nhiên, hùng vĩ của núi rừng nhưng bước chân của người lính
vẫn đi tới, vượt lên mọi hoàn cảnh khắc nghiệt để chinh phục thiên nhiên, làm
chủ hoàn cảnh với cụm từ nhân hóa độc đáo “súng ngửi trời” đã chứng minh được
điều ấy, đó là giây phút đầu súng của người lính như tiếp cận với trời cao. Quả
thật, đường đi khó nhưng không khó đối với người lính Tây Tiến và họ đã vượt
qua, đã chinh phục thiên nhiên là thể hiện thước đo lòng yêu nước, chí can trường
là lẻ sống đẹp của người trai thời kháng chiến chống Pháp mà trong thơ Tô Hữu
từng khắc họa vẻ đẹp ấy qua thi ảnh: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều. Bóng dài
trên đỉnh dốc cheo leo. Núi không đè nổi vai vươn tới. Lá ngụy trang reo với gió
đèo.” (Lên Tây Bắc - Tố Hữu)
Và hai câu thơ còn lại;
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
(Trích "Tây r/ê h"-Q u an g Dũng)
Quang Dũng tiếp tục nhớ lại những chặng đường hành quân gian khổ của
người lính, đã bật lên tiếng gọi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Với

106
nhịp thơ 2/2/3 rải đều cùng hình ảnh đôl lập “ngàn thước lên cao” đôl lập với
“ngàn thước xuống" toát lên một không gian choáng ngợp, hiểm trở, kì bí của
núi rừng Tây Bắc nơi chiến khu xưa. Hình ảnh “ngàn thước lên cao” đưa chúng
ta hình dung, khi đứng dưới chân núi, nhìn lên đỉnh núi cảm thấy cao chót vót,
hun hút, ngất ngưởng và hình ảnh “ngàn thước xuống” là giây phút đứng từ đỉnh
núi nhìn xuông dưới chân núi đâu đâu cũng là vực sâu, thung lũng, thăm thẳm,
dịu vợi cùng với những thú rừng hung dữ đang chực chờ. Nếu người lính không
tỉnh táo, thiếu kinh nghiệm trận mạc, sinh mạng của họ sẽ là “ngàn căn treo sợi
tóc”. Từ hình ảnh ấy, cho ta thấy rõ tinh thần chịu đựng gian khổ của người lính
trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên thật vô cùng. Đẹp thay, bước chân người
lính, họ đã vượt qua, đã chinh phục thiên nhiên, làm chủ hoàn cảnh và đón
nhận phần thưởng xứng đáng trước vẻ đẹp của đất trời Tây Bắc qua thi ảnh:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Lời thơ toàn vần bằng, hình ảnh vừa hiện
thực vừa lãng mạn gợi cho chúng ta tìm thấy, khi bước chân của người lính vượt
lên tất cả sự khắc nghiệt trước thực tại của chiến trường, ánh mắt của họ, hướng
về phía xa đế đón nhận cuộc sông êm đềm, yên bình của người dân bản Pha
Luông. Tiếng gọi “Nhà ai”, một tiếng gọi mơ hồ mênh mang trước cảnh đẹp của
đất trời Tây Bắc, chính là giây phút đưa tâm hồn người lính tìm thấy cuộc sông
âm áp của người dân bản cùng những ngôi nhà như đang bồng bềnh giữa sương
rừng mây núi, tạo cho họ niềm lạc quan, tin yêu vào cuộc sông, tin yêu vào sự
chiến thắng. Đó là lẽ sông đẹp của người chiến binh Tây Tiến “đâu cần thanh
niên có, đâu khó có thanh niên”.
Liên hệ: Từ hình ảnh này, chúng ta liên tưởng bài thơ “Đi đường” của tác giả
Hồ Chí Minh cũng mang vẻ đẹp về người chiến sĩ trên con đường cách mạng, dù
gian khổ, nguy khó nhưng họ vẫn vượt qua chinh phục thiên nhiên để đón nhận
bao vẻ đẹp của quê hương non nước trong niềm vui sướng của người lính khi hoàn
nhiệm vụ với lời thơ; “Núi cao lên đến tận cùng. Thu vào tẩm mắt muôn trùng
nước non". (Đi dường - Hồ Chí Minh).

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Đoạn thơ giàu hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu lời thơ giàu
sức biểu cảm, nhịp thơ êm đềm, cao vút kết hợp những biện pháp tu từ đặc sắc
như đôl lập, nhân hóa, so sánh...
2. v ề nội dung: Đoạn thơ khắc họa bức tranh thật đẹp của chiến trường Tây
Bắc năm xưa, thấy được thiên nhiên thật hùng vĩ, hiểm trở và thấy rõ sự chịu
đựng, gian khổ’ của người lính trong chiến đấu cùng niềm lạc quan yêu đời, yêu
cuộc sông trong tâm hồn người lính trẻ mãi mãi là lẽ sông đẹp của tuổi trẻ Việt
Nam thời ấy.

107
Đề tuyển sinh: P h ân tích đoạn thơ sau tron g bài thơ “T ăy T iế n ” của
nhà thơ Quang Dũng để tìm lại những hình ảnh đẹp củ a m ột thời
kháng chiến thâm đẫm trong tâm hổn thỉ nhân.
“..D o a n h t r ạ i bừ n g lê n h ộ i đ u ố c h o a
K ìa em x iê m á o tự h a o g iờ .
K h è n lê n m a n đ iệ u n à n g e ấ p ,
N h ạ c về V iên C h ă n x ây h ồ n t h ơ
N gư ời đ i C h â u M ộc c h iề u sư ơn g ấy
C ó th ấ y h ồ n la u n ẻ o h ến b ờ
C ó n h ớ d á n g n g ư ời tr ên đ ộ c m ộ c
T rô i d ò n g n ư ớc lũ h o a đ o n g đư a...”
(Trích “Tây T/ến” Quang Dũng)

ỊHĨững kiến thức cần nắm


1. Nguyễn Đình Thi có viết; “Có nơi đâu dẹp tuyệt vời. Như sông, như núi, như
người Việt Nam” {“Người chiến sĩ” - Nguyễn Đình Thi)
2. Cổ nhân có nói: “Thi trung hữu họa”, ý nói trong thơ có họa.
3. Tiếng gọi “hồn lau” trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng gợi ta nhớ lại hồn
thu và hồn lau là hai hình ảnh luôn luôn đan xen vào nhau để làm nên một
hồn thơ cổ điển được thể hiện rất rõ qua ngòi bút của Chế Lan Viên trong bài
thơ “Lau mùa thu”: “Ngàn lau cười trong nắng, Hồn của mùa thu về. Hồn mùa
thu đã đi, Ngàn lau xao xác trắng.” {“Lau Mùa Thu” - Chế Lan Viên)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
N hư sông, như núi, như người Việt Nam”
(trích “Người chiến s ĩ - Nguyễn Đình Thi)
Những vần thơ gợi cho chúng ta liên tưởng bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng, nhà thơ đã khắc họa cảnh đẹp thiên nhiên và hình ảnh người chiến binh
một thời kháng chiến thật đẹp, cùng vẻ đẹp của tình quân dân thắm thiết, mãi
mãi khắc sâu trong tâm hồn nhà thơ bao tình yêu và nỗi nhớ với đoạn thơ sau:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em Xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy.

108
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
(trích ‘Táy Tiến" - Quang Dũng)
II. PHẦN TRỌNG TÂM
1. Nhà thơ nhớ lại bao kỉ niệm đẹp củ a m ột thời kháng chiến,
a. P h â n tíc h b ố n c â u đ ầ u :
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kia em Xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
(Trích Táy T/ể'n“-Quang Dũng)
Mạch cảm xúc trong tâm hồn Quang Dũng vẫn nhớ về bao kỉ niệm của một
thời kháng chiến vừa mới đi qua. Nhà thơ từng là người đại đội trưởng của đoàn
quân Tây Tiến cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, khắc ghi bao kỉ niệm
cùng đoàn quân trong chiến đấu. Tiếng gọi “doanh trại” ta nghĩ ngay đến nơi
đóng quân của đơn vị Tây Tiến và giữa cuộc sông chiến đấu, họ vẫn yêu đời, lạc
quan. Họ tô chức những đêm lửa trại, đêm liên hoan văn nghệ tạo thêm sức
sôhg, niềm tin cho người lính, cho tình quân dân thắm thiết mà hình ảnh “hội
đuốc hoa” được thi vị hóa, trong trái tim của mỗi người lính, có khác gì như
“đêm hoa đăng”, đêm lễ hội. Lời thơ toát lên một sức sông. Với động từ gợi hình
“bừng” khơi dậy một ánh sáng mới, một niềm tin mới, tiếp sức cho người lính
trong chiến đấu là nét đẹp hào hoa lãng mạn trong tâm hồn người chiến binh
Tây Tiến thuở nào. Và tiếng gọi “kìa” là đại từ chỉ phương hướng, thể hiện sự
ngạc nhiên ngỡ ngàng trong ánh mắt của người lính trẻ trước sự hiện diện của
những thiếu nữ vùng cao, họ là những cô gái Thái, Lào... với nét đẹp mộc mạc
giữa thiên nhiên núi rừng nhưng đêm nay, họ lại I mang một dáng vẻ khác với
xiêm y lộng lẫy cùng bao sắc màu rực rỡ toát lên một nét đẹp rất riêng trước sự
ngỡ ngàng của bao chàng lính trẻ. Những giây phút tưng bừng của đêm lửa trại,
những chàng chiến binh như thả hồn cùnginhững cô gái vùng cao trong tiếng
khèn, tiếng nhạc hòa chung những vũ điệu độc đáo của các cô gái Thái - Lào
trong dáng vẻ e lệ, tình tứ, dịu dàng toát lên một không khí vui tươi rộn ràng
hết sức lãng mạn, đậm màu sắc dân tộc giữa núi rừng Tây Bắc càng tạo nên sự
hấp dẫn, cuốn hút của những chàng lính trẻ đất Hà thành. Đây là một bức tranh
thật đẹp, yêu kiều diễm lệ, càng tạo hương vị đậm đà của tình quân dân thắm
thiết. Phải có một tìrih cảm đẹp lãng mạn, yêu đời, tràn đầy sức sông trong tâm
hồn nhà thơ, Quang Dũng mới khắc họa một bức tranh sông động, giàu sức biểu
cảm đáng yêu và đẹp đến thế.

109
b. P h ả n tíc h b ố n c â u c ò n lạ i:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc.
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
(trích “Tây Tiến"- Quang Dũng)
Quang Dũng, nhà thơ tiếp tục tìm về bao hình ảnh đẹp ngày nào vẫn còn tươi
rói đâu đây, đó là bức tranh chiều sương trên cao nguyên Châu Mộc, đưa nhà thơ
nhớ lại hình ảnh đoàn quân đi, đoàn quân trên đường chiến đấu. Với tiếng gọi
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”, hình ảnh “người đi” gợi trong chúng ta
bao hình ảnh đẹp của những chàng trai đất Hà Thành. Khi tiếng gọi của núi
sông, khi lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa bầu trời Hà Nội, những chàng sinh
viên, học sinh, trí thức, họ đã bỏ lại sau lưng tất cả để “người ra di đầu không
ngoảnh lại” thật đẹp, thật tự hào. Hình ảnh “người đi” có khác gì hình ảnh
“chinh nhăn, chinh phu, tráng sĩ” ngày xưa trên đường ra trận. Đây là hình ảnh
“người đi” của một thời đại mới, thời kháng chiến oai hùng, vẫn trên đoạn
đường hành quân vùng đất Châu Mộc của tỉnh Sơn La, địa bàn hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến thật rộng, cho chúng ta thấy rõ sự gian khổ của người lính
thật vô cùng nhưng tâm hồn người chiến binh, họ không hờ hững trước vẻ đẹp
thiên nhiên mà trong ánh mắt họ, vẫn tìm thấy vẻ đẹp của non nước, tạo vật đế
nhà thơ bật thành tiếng gọi: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”, một lời thơ chứa
đựng bao tình yêu và nỗi nhớ, nhớ về quê hương Tây Bắc, núi rừng Tây Bắc, yêu
chiến khu xưa đế nhớ lại rất rõ những bông lau, cành lau hòa cùng với gió chiều
trên cao nguyên Châu Mộc và hai bên bờ, hoa lau lung lay nhè nhẹ giữa không
gian bao la im vắng của núi rừng, khơi gợi trong tâm hồn người lính trẻ cảm
nhận được cái hồn của tạo vật, cái “hồn lau” cùng hòa quyện với “hồn người” tạo
cho nhà thơ khám phá một thi ảnh đẹp sông động đến thế. Nói về hồn lau, hoa
lau, ta lại nhớ về thuở xa xưa Đinh Bộ Lĩnh đã từng lấy ngọn lau, hoa lau làm
cờ và trở thành ông vua dẹp loạn mười hai sứ quân, mãi mãi đi vào sử sách. Nhớ
về “hồn lau” chợt nhớ “hồn thu”, hai hình ảnh ấy cứ đan xen vào nhau làm nên
một hồn thơ cổ điển mà trong bài thơ: “Lau mùa thu”, nhà thơ Chế Lan Viên có
viết; “Ngàn lau cười trong nắng. Hồn của mùa thu về. Hồn mùa thu đã đi. Ngàn
lau xao xác trắng”. (Lau mùa thu - Chế Lan Viên). Nhà thơ nhớ cảnh rồi lại nhớ
người, cảnh và người như gắn kết vào nhau, làm nên một hồn thơ đẹp, một cảnh
sắc thiên nhiên gợi tình qua nét bút: “Có nhớ dáng người trên độc mộc. Trôi
dòng nước lủ hoa đong đưa”. Hàng loạt hình ảnh như sông lại trong tâm hồn
người thi nhân với con thuyền độc mộc mà người dân địa phương đẽo từ một cây
gỗ to dài là công trình nghệ thuật rất riêng, độc đáo của người dân Tây Bắc.
Tiếng gọi “có nhớ”, vậy nhớ ai? nhớ hình bóng ai? Phải chăng, đây là hình bóng
cô gái chèo đò đang lái con thuyền độc mộc với một dáng vẻ uyển chuyển, mềm

110
mại, thướt tha như dáng hoa xuôi theo dòng nước lũ, để đưa những người lính
qua sông và cũng có cách hiểu khác “dóng người” ở đây có thể là hình ảnh cô gái
giao liên dẫn đường với dáng vẻ tươi tắn như hoa rừng Tây Bắc. Những vần thơ
toát lên một bức tranh đẹp, sông động với “dáng người”, “dáng thuyền”, “dáng
hoa” mãi mãi khắc sâu trong tâm hồn nhà thơ một nỗi nhớ, nhớ cảnh lẫn nhớ
người, một vẻ đẹp thơ mộng đáng yêu thời kháng chiến chống Pháp. Và nhớ về
cánh “hoa đong đưa” trong gió chiều trên dòng nước lũ lại toát lên một vẻ đẹp
khác, gợi cho ta hình dung cánh hoa đong đưa ấy, có khác gì như người thiếu nữ
Sơn Cước của vùng đâd Châu Mộc với dáng vẻ uyển chuyển, mềm mại, thướt tha
giữa bầu trời bao la sông nước và hướng con thuyền xuôi dòng nước lũ đưa những
người lính qua sông như một tay lái “ra hoa” mãi mãi làm nên một vẻ đẹp đáng
yêu đáng nhớ đến thế.
IIL PHẦN K ẾT THÚC
1. v ề nghệ th u ật: Đoạn thơ giàu hình ảnh sinh động, vừa hiện thực vừa
lãng mạn, nhịp thơ nhẹ nhàng, êm đềm, giọng thơ lúc trầm, lúc bỗng.
2. v ề nội dung: Khắc họa một bức tranh đẹp về cuộc sôhg chiến đấu của
người lính thời kháng chiến, dù trong cuộc sông gian khổ, mất mát, hi sinh
nhưng tâm hồn người lính trẻ vẫn lạc quan yêu đời, hào hoa, lãng mạn. Qua đó,
mới thấy được cái tài, cái tâm của Quang Dũng đã làm nên một hồn thơ đẹp,
khó quên.

Để tuyển sinh: P h ân tích đoạn thơ sau tron g bài thơ T ây T iến của nhà
thơ Quang Dũng để tìm thấy n ét đẹp bi trán g về hình ảnh người
lính thời kháng chiến chống pháp.
“...Tây T iến đ o à n h ìn h k h ô n g m ọ c tó c
Q u ân x a n h m à u l á d ữ o a i h ù m
M ắt trừ n g g ử i m ộ n g q u a b iê n g iờ i
Đ êm m ơ H à N ộ i d á n g k iề u th ơ m
R ả i r á c b iê n cư ơn g m ồ v iễn x ứ
C h iế n trư ờ n g đ i c h ẳ n g t iế c đ ờ i x a n h
Á o b à o th a y c h iế u a n h về đ ấ t
S ô n g M ã g ầ m lê n k h ú c đ ộ c h à n h ...”
(trích ‘T á y 7/ến” -Q u a n g Dũng)

SU ững kiến thức cầ n nắm :


1. Nhà thơ Giang Nam ca ngợi đoàn quân Tây Tiến: “Tây Tiến biên cương mờ
lửa khói. Quân đi lớp lớp động cây rừng. Và bài thơ ấy, con người ấy. v ẫ n
sống muôn dời với núi sôìig.” (Giang Nam)

111
2. Nhà thơ Tô' Hữu từng nói lên sự chịu đựng của người lính với những cơn sô't
rét rừng quái ác: “Giọt giọt mồ hôi rơi. Trên má anh vàng nghệ. Anh vệ quốc
quân ơi! Sao mà yêu anh thêV’ (Tô' Hữu)
3. Nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ “Đồng Chí” cũng đề cập những cơn sô't rét
rừng đôi với người lính thật dữ dội: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. sốt
run người, vừng trán ướt mồ hôi”. (Chính Hữu)
4. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ “Nguyễn Đình Thi” từng nói về nỗi nhớ của
người lính lúc hành quân: “Những đêm dài hành quân nung nấu. Bỗng bồn
chồn nhớ mắt người yêu". (Nguyễn Đìníi Thi)
5. Bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu cCng nói về nỗi nhớ của người lính nông
dân: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. (Chính Hữu)
6. Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên từng nói về nổi nhớ của người lính: “Nhớ
người vợ trẻ, mòn chân bên cối gạo canh khuya”. (Hồng Nguyên)
7. Nhà thơ Quang Dũng từng bày tỏ về hình ảnh “Ảo bào thay chiếu” như sau: “Áo
bào thay chiếu là cách nói của người lính chúng tôi, nó mang tinh ưởc lệ của thơ
xưa trước đây nhằm động viên cho những đồng chí vừa ngã xuống giữa rừng.”
(Quang Dũng).
8. Nhà thơ Thanh Thảo từng bày tỏ về tuổi hai mươi như sau: “Tuổi hai mươi làm
sao không khỏi tiếc. Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”
(Thanh Thảo).
9. Nhà văn người Pháp Musset có nhận định: “Không có gì cao cả hơn một sự
đau đớn lớn.” (Musset)
10. Nhà phê bình Phong Lan nhận định về bài thơ Tây Tiến như sau: “Tây Tiến
một tượng đài nghệ thuật bất tử về người lính vô danh”. (Phong Lan)
11. Trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn có viết; “Hồn tử sĩ
gió ù ù thổi”. (Đặng Trần Côn)

HƯỚNG DẪN
I. PHẨN GIỚI THIỆU
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
v ẫ n sông muôn đời với núi sông”
(Giang Nam)
Âm vang hào hùng của một thời kháng chiến trong hồn thơ Giang Nam
nhằm ca ngợi đoàn quân Tây Tiến năm xưa đã từng bảo vệ biên giới Việt - Lào,
từng đem lại bao chiến thắng đáng nhớ, đáng khâm phục. Hình ảnh cao đẹp ấy
đưa chúng ta tìmilại qua nét bút tài hoa của nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ
Tậy Tiến, nhà thơ khắc họa hình ảnh người lính mang vẻ đẹp bi tráng thật khó
quên được thể hiện qua đoạn thơ:

112
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quăn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Ao bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(trích “ Tày Tiến"- Quang Dũng)
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Vẻ đ ẹ p b i tr á n g c ủ a n g ư ời c h iế n b in h Tây T iến .
1. Phân tích bôTn câu đầu:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
(trích “ Tây Tiến" - Quang Dũng)
Cuôl năm 1948, nhà thơ Quang Dũng, người đại đội trưởng của đoàn quân
Tây Tiến đã rời xa đơn vị. Tại làng Phù Lưu Chanh thuộc tỉnh Hà Đông, bên
dòng sông Đáy hiền hòa, nhà thơ nhớ về đơn vị, nhớ những tháng ngày chiến
đấu với bao nhiêu gian khố đã đi qua, khơi gợi nhà thơ bật lên tiếng gọi:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
Lời thơ toát lên hình ảnh sôhg động, hiện thực cùng nhịp thơ 2/2/3 rải đều,
giọng thơ trầm hùng, đưa tâm hồn người thi sĩ tìm về hoài niệm, về đồng đội,
tình chiến hữu từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Với cụm từ “đoàn binh
không mọc tóc” gợi cho người đọc chút bâng khuâng suy nghĩ. Lạ thật! Hình ảnh
người lính Tây Tiến là những chàng trai đất Hà Thành, những thanh niên, sinh
viên, học sinh, trí thức vì tiếng gọi của Tổ quôh, họ ra đi cứu nước với niềm kiêu
hãnh tự hào qua hình ảnh: “đầu không ngoảnh lại”, thật đẹp thật kiên quyết
trước giờ phút ra đi. Nhưng lúc này, hình ảnh người lính lại mang một diện mạo
khác, dáng vẻ khác. Với cụm từ gợi hình “đoàn binh không mọc tóc”, tại sao
đoàn binh không mọc tóc? họ đã cạo trọc hết ư! Đây là một hình ảnh hơi lạ, kì
dị nhưng đi tìm nguyên nhân đế hiểu rõ về diện mạo ấy, dáng vẻ ấy của những
chàng trai đất Hà Thành, đã cho chúng ta một suy nghĩ. Khi bước vào chiến
trường, trận mạc, người lính phải tiếp cận với rừng thiêng nước độc, núi non
hiểm trở, bệnh tật hoành hành, thuôc men lương thực trong cuộc sông chiến đấu
đều thiếu trước thực tế khắc nghiệt của chiến trường, làm cho tóc họ phải rụng,
đầu họ phải hói đi, không mọc tóc nổi. Chứng tỏ người lính đang chịu đựng sự

113
mất mát, hi sinh vì tình yêu Tổ quôc vì độc lập tự do cho đất nước vì tình hữu
nghị Việt - Lào. Họ phải dấn thân, đương đầu trước mọi gian khổ, là nét đẹp
giữa chất bi hòa chung với chất tráng trong tâm hồn người lính trẻ thật đáng
quý. Tiếp đến lời thơ thứ hai ta bắt gặp hình ảnh: “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm”. Với nhịp thơ 4/3 dồn dập, đặc biệt với thi ảnh: “Quân xanh màu lá” cho
chúng ta hình dung trên đường hành quân, bộ đồ của người lính đang chiến đấu
được ngụy trang bằng lá cây rừng nhằm che mắt địch là chiến thuật, một lôl
đánh du kích của quân đội ta từng làm nên bao chiến thắng mà trong thơ của Tô'
Hữu đã từng ca ngợi hình ảnh ấy với: “Lá ngụy trang reo với gió đèo”. Và hình
ảnh: “Quân xanh màu lá” đưa chúng ta hình dung, những khuôn mặt của người
lính xanh xao như màu lá cây rừng, xuất phát từ bệnh tật từ những cơn sốt rét
rừng quái ác, làm tiêu hao bao sinh lực trong cơ thể của người lính, càng thấy rõ
sự chịu đựng của người lính thật vô cùng. Nhưng đẹp thay, tuy diện mạo, dáng vẻ
của họ thể hiện chất “bỉ” nhưng tâm hồn của mỗi người lính vẫn toát lên một
dáng vẻ “dữ oai hùm”, là biểu hiện thái độ phẫn nộ căm hờn của họ qua ánh mắt,
qua cử chỉ đối với quân cướp nước (Pháp), là vẻ đẹp của chất “tráng”, là thước đo
lòng yêu nước, là lẽ sốhg đẹp của người lính Tây Tiến thật tự hào.
2, Với hai câu thơ tiếp
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
(trích “ Tây Tiến" - Quang Dũng)
Quang Dũng, tiếp tục nhớ về kỉ niệm đẹp của đồng đội trên đường ra trận với
hình ảnh: “Mất trừng gửi mộng qua biên giới”, vẫn nhịp thơ 2/2/3 rải đều cùng
tiếng gọi “mắt trừng” đã thể hiện trên khuôn mặt người lính sự phẫn nộ căm
hờn trong ánh mắt. Tiếng gọi “mất trừng” là ánh mắt căm thù, đến tột đỉnh như
muôn ăn tươi nuốt sông kẻ thù, tiêu diệt kẻ thù. Và cụm từ Hán Việt cổ “mộng
biên giới” thể hiện khát vọng, hoài bão trong mỗi trái tim người lính là phải
làm sao lấy xác quân thù làm nên những vòng hoa chiến thắng, lập nên bao
chiến công và biến chiến trường này, biên giới này thành mồ chôn quân cướp
nước (Pháp) và lấy xác quân thù nhằm xây đài tự do, độc lập, hạnh phúc cho
ngày sau. Mong ước ấy, khát vọng ấy, là biểu hiện của tình chung, tình yêu Tổ
quô'c đã thấm sâu trong mỗi trái tim người lính thật đẹp biết nhường nào! càng
đẹp hơn, ngoài vẻ đẹp của tình chung trong tâm hồn mỗi người lính và lúc đêm
về trên những chặng đường hành quân ngừng nghỉ, họ vẫn mơ về Hà Nội, nhớ
về quê nhà về gia đình với bao hình ảnh thật đẹp, nào mái trường, con đường,
góc phô' cùng hàng me, hàng sấu ẩn mình giữa lòng Hà Nội, mang lại trong lòng
người ra đi bao tình yêu và nỗi nhớ. Đặc biệt với tiếng gọi “dáng kiều thơm” như
là tiếng lòng thốt ra trong trái tim của người lính trẻ, khi nhớ về một bóng
hồng, một bóng giai nhân, một người con gái đẹp đất Hà Thành đã in sâu trong
tâm hồn họ lúc ra đi, một tình yêu, một nỗi nhớ là vẻ đẹp của tình riêng của

114
một góc tâm hồn là tình cảm thiêng liêng, thấm đẫm trong trái tim người lính
trẻ. Phải chăng, giữa “mộng” và “mơ” cùng hòa nhập trong tâm hồn người lính
là sự kết hợp, đan xen giữa tình chung và tình riêng, tạo thành một tình yêu
quê hương đất nước làm nên sức mạnh trong chiến đấu là lẻ sông đẹp của người
lính Tây Tiến thời kháng chiến.
3. P h ân tích bôn câu cuôTi:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Ao bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
(trích “ Tây Tiếii’ - Quang Dũng)
Quang Dũng tiếp tục khắc họa hình ảnh người lính nơi chiến trường thật đẹp,
giữa cái “bi” hòa chung với cái “tráng”, qua thi ảnh: “Rải rác biên cương mồ viễn
xứ”, vẫn nhịp thơ 2/2/3 trầm hùng, sâu lắng cùng với cụm từ Hán Việt cổ “mồ
viễn xứ"’ thể hiện hình ảnh những đồng đội, chiến hữu, họ đã nằm xuông bên
chân đèo, góc núi, chơ vơ nơi xứ lạ quê người, khơi gợi người đọc một cảm xúc,
niềm khâm phục trước sự hi sinh của người lính. Đẹp thay, dù người lính đang
đôi diện trước cái chết, nhìn thấy đồng đội đã hi sinh, tâm hồn người lính lúc
ấy, họ cũng bùi ngùi, thương tiếc, nhưng họ không hề khuất phục, bi lụy, buông
xuôi mà tâm hồn người lính vẫn toát lên lòng sục sôi căm hờn, họ đã biến đau
thương thành hành động dũng cảm quên mình với lời thơ: “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”. Lời thơ khẳng định dứt khoát, giọng thơ rắn rỏi hùng hồn có khác
gì như một lời thề: “Thà quyết tử để tổ quốc quyết sinh” là thể hiện ý chí kiên
quyết trong tâm hồn người lính vì Tổ quốc, họ sẵn sàng quên mình. Với họ, bước
ra chiến trường, đối diện với quân thù là phải chiến đấu, chấp nhận hi sinh để
làm nên chiến thắng dù cho quãng đời xanh là quãng đời tươi đẹp nhất của tuổi
trẻ, là ước mơ, tình yêu, hạnh phúc nhưng họ không tiếc, vì họ nghĩ rằng, quãng
đời xanh là quãng đời hữu hạn, nhỏ bé giữa lòng đất nước mà quãng đời dân tộc,
quê hương, Tổ quốc, mới là quãng đời rộng lớn, cao đẹp cho sự tồn vong của đất
nước thì họ phải biết hi sinh, hi sinh tình riêng để bảo vệ tình chung, là thước đo
lòng yêu nước, là bổn phận làm trai, trách nhiệm công dân của mỗi con người
đang sống giữa lòng đất nước vì “Đất Nước là máu xương của mình”.
Mở rộ ng: Để hiểu rõ thêm nét đẹp trong tâm hồn người lính và thấy được chí
can trường của người chiến binh qua tiếng gọi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Lời thơ có khác gì như một lời thề đối với non sông tổ quốc khi đất nước
cần, tuổi trẻ phải biết dấn thân, nhập cuộc, ra đi cứu nước vì họ hiểu rằng: “hạnh
phúc không chỉ đựng trong một tà áo đẹp” và hạnh phúc không chỉ: “một mái nhà
yên rủ bóng xuống tâm hồn” đó là thứ hạnh phúc trong thời bình, mọi người có
quyền được hưởng hạnh phúc riêng ấy. Nhưng trong lúc chiến tranh, thì phải biết
đem hạnh phúc riêng hòa nhập vào hạnh phúc chung, phải biết: “Làm sao được

115
tan ra” “giữa biển lớn tình yêu” và phải biết: “Cầm tay mọi ngiíời để Đất Nước vẹn
tròn to lớn” là vẻ đẹp tâm hồn của người lính thời kháng chiến.
4. Hai câu thơ còn lại:
“Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(trích “ Tây Tiến” - Quang Dũng)
Hình ảnh “áo bào thay chiếu" gợi cho chúng ta hình dung những người lính
đã nằm xuông nơi chiến trường, nơi biên giới Việt - Lào và được người dân địa
phương dành tặng cho mỗi người lính vừa nằm xuông một tấm chiếu để khâm
liệm và tâm chiếu ấy, Quang Dũng thi vỊ hóa như “chiếc áo bào” mà những
tráng sĩ ngày xưa lúc ra trận được khoác lên và khi họ nằm xuông, chiếc áo bào
ấy được đắp theo cùng hình hài của họ lúc trở về với đâ't. Hôm nay, những người
lính đă ngã xuông vì độc lập tự do cho Tổ quô'c. Với cái nhìn của Quang Dũng,
nhà thơ đã thi vị hóa “tấm chiếu ấy” có khác gì như “chiếc áo bào” đế làm nên
cái chết của người lính cũng đẹp cũng sang nhằm giảm đi bao thực tế khắc
nghiệt của chiến trường. Đúng như lời bày tỏ của tác giả: “Áo bào thay chiếu là
cách nói của người lính chúng tôi, nó mang tinh ước lệ của thơ xưa trước đây
nhằm động viên những đồng chí vữa ngã xuống giữa rừng”. Một thi ảnh vừa
hiện thực vừa lãng mạn toát lên cái chết của người lính thật cảm động lẫn khâm
phục. Và hình ảnh còn lại: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành" đưa chúng ta nhớ
đến bài kí “Người lái dò Sông Đà” của Nguyễn Tuân với hai tiếng: “rống lên" từ
thác nước của dòng Sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân biểu hiện sự hung bạo
của con Sông Đà là uy lực kì bí của thiên nhiên. Nhưng trong hồn thơ Tây Tiến
của Quang Dũng, chúng ta lại bắt gặp hình ảnh tượng thanh thật đẹp: “Sông Mã
gầm lên khúc dộc hành”. Với hai tiếng “gầm lên" là hình ảnh thiên nhiên được
nhân hóa từ thác nước của dòng Sông Mã như biểu hiện sự phẫn nộ, bức xúc,
căm hờn trong tâm thức của dòng sông khi nó mât đi những người bạn đồng
hành trong chiến đâh, tổ quô'c mâ't đi những người con ưu tú và hai tiếng “gầm
lên" có khác gì như phát súng đại bác rền vang giữa rừng đại ngàn Tây Bắc nơi
chiến khu xưa như khúc ca bi tráng, tiễn đưa người lính trở về với đất mẹ. Như
vậy, trước giờ phút cuôì cùng của người lính, họ không hề đơn độc, lẻ loi mà
hình hài của họ, linh hồn của họ được ôm trọn giữa lòng quê hương đất nước,
giữa lòng con Sông Mã với bao thương tiếc lẫn khâm phục vì anh đã sông và
chết cho quê hương này, đất nước này.
N hấn m ạnh: Sự ra đi của người lính, cái chết của họ không chỉ bảo vệ cho quê
hương đất nước, cho tự do độc lập của dân tộc mà họ còn mang một nghĩa vụ quô'c
tế, một nhiệm vụ cao cả là cùng bảo vệ biên giới của hai đất nước Việt - Lào. Như
vậy cái chết của họ càng cao đẹp hơn, khâm phục hơn vì: “Không có gi cao cả hơn
một sự đau đớn lớn". (Musset-Pháp)

116
III. PHẢN K ÊT THÚC
1. Nghệ th u ật: Đoạn thơ giàu hình ảnh chọn lọc, giàu sức biểu cảm, nhịp
thơ có lúc êm đềm, có khi dồn dập, sử dụng từ Hán Việt cổ thật khéo léo cùng
những biện pháp tu từ đặc sắc với nhân hóa, đôl lập, so sánh, ẩn dụ.
2. Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến trong đoàn
quân năm ấy vừa mang nét đẹp của bi cùng hòa với nét đẹp của tráng, mãi mãi là
lẻ sống đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời kháng chiến chốhg Pháp. Vì đất nước, họ
quên thân vì nhân dân, họ quên mình. Quả thật: “Tây Tiến, một tượng đài nghệ
thuật bất tử về người linh vô danh". (Nhà phê bình Phong Lan).

Đề tuyến sinh: B ài thơ Tây T iến củ a nhà thơ Quang Dũng trích tron g
tập thơ “M ây Đ ầ u Ô”. ớ phần cuôl bài thơ có đoạn viêt:
“T ây T iến n gư ời đ i k h ô n g h ẹ n ước
D ư ờn g lê n th ă m th ẳ m m ộ t c h ì a p h ô i
A i lê n T ây T iên m ù a x u â n ấy
H ồn về S ầ m N ứ a c h ẳ n g về x u ô i.”
(trích “T ây T iế n ” - Quang Dũng)
Anh (chị) phân tích đoạn thơ trê n để to á t lên lẻ sô'ng đẹp của
người chiến binh Tây Tiến thời kháng chiến chống Pháp._________

SEững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Bài thơ “Tống hiệt hành" của Thâm Tâm có viết: “Ly khách! ly khách! con
đường nhỏ. Chí lớn chưa về bàn tay không. Thì không bao giờ nói trở lại. Ba
năm mẹ già cũng đừng mong”. (Tổng Biệt Hành - Thâm Tâm)
2. Nhà thơ Tô' Hữu ca ngợi về cái chết, có viết: “Có cái chết hóa thành bất tử ’.
(Tô Hữu)
3. Lời người xưa có viết: “Nhất khứ bất phục hoàn". Ý nói, một đi không trở lại.
4. Lời cố nhân có nói; “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi". Ý nói, xưa nay khi bước
ra chiến trường không ai nói câu trở lại bao giờ.
5. Nhà văn Pháp -Musset ca ngợi về sự hi sinh: “Không có gì cao cả hơn một sự
đau đớn lớn”. (Musset)
6. Lời người xưa có nói: “Thác là thể phách, còn là tinh anh” Ý nói, cái chết đối
với tổ quốc mãi mãi là cái chết đi vào cõi vĩnh hằng.
7) Triết gia Enghel có nói: “Không có máu và nước mắt của các dân tộc thì
không thể nào làm nên lịch sử". (Enghel).
8. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp. Một
mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” (trích “Người đi tìm hình của Nước” —
Chế Lan Viên).
117
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Ly khách! Ly khách! con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong. ”
(trích “Tống biệt hành" - Thâm Tâm)
- Âm vang hào hùng trong hồn thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm toát lên
ý chí cương quyết dứt khoát của người ra đi, xây dựng cơ đồ thật đẹp biết bao.
Nét đẹp ấy, chúng ta liên tưởng khổ thơ cuôi trong bài thơ “Tây Tiến” của
Quang Dũng trích trong tập thơ “Mây Đầu 0 ” cũng toát lên vẻ đẹp kiêu hùng
như thế:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
(trích “Tây Tiến - Quang Dũng)
- Chúng ta cần đi sâu những vần thơ giàu sức biểu cảm, giàu hình ảnh chọn
lọc qua nét bút tài hoa của Quang Dũng để tìm thấy lẻ sống đẹp của người chiến
binh thời kháng chiến chông Pháp.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


L ẻ số n g đ ẹ p c ủ a n gư ời c h iê n b ỉn h th ờ i k h á n g c h iê n .
1. Phân tích hai câu đầu:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.”
(trích ‘Tây Tiến" - Quang Dũng)
Quang Dũng, nhà thơ vẫn nhớ về đồng đội, những chiến hữư đã từng xông pha
nơi chiến trường, mãi mãi in sâu trong tâm hồn nhà thơ, bao hình ảnh đáng nhớ
với tiếng gọi: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”. Nhịp thơ 2/2/3 trầm hùng, dứt
khoát, giàu sức biểu cảm, toát lên ý chí cương quyết của người ra đi. Hình ảnh
“người đi” đưa người đọc liên tưởng những chàng trai đất Hà Thành, họ là những
sinh viên, học sinh, công nhân, trí thức, khi tiếng gọi của núi sông, lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, họ đã nhận thức trách nhiệm công dân của tuổi trẻ Việt
Nam lúc ấy cần phải làm gì khi tổ quốc réo gọi và họ đã bỏ lại sau lưng bao kỉ
niệm đẹp của quãng đời tuổi trẻ với mái trường, con đường, góc phố, gia đình, bạn
bè, sẵn sàng gia nhập vào đoàn quân Tây Tiến để thực hiện chí làm trai là thước
đo lòng yêu nước trong mỗi trái tim người lính. Với cụm từ phủ định “không hẹn
ước” nói lên ý chí cương quyết, dứt khoát của người ra đi. Với họ, ra đi cứư nước là
118
phải bước vào chiến trường, trận mạc thì làm sao nói câu trở lại bao giờ! Vì họ
hiểu rằng, chiến trường là nơi trực diện chiến đấu với quân thù thì phải chịu đựng
mọi gian khổ, mất mát, hi sinh và khi đôl diện với quân thù thì giữa sự sông và
cái chết là lẽ thường tình, đó là một quan niệm sống đẹp là thể hiện lòng yêu
nước thấm đẫm trong mỗi trái tim của người lính trẻ.
L iên h ệ: Lời người xưa từng nói, ra đi cứu nước, bước vào trận mạc có bao giờ
nghỉ đến ngày trở lại với tiếng gọi: “Nhất khứ bất phục hoàn” ý nói, một đi
không trở lại hay: “Cổ lai chinh chiến ki nhân hồi”. Ý nói, xưa nay bước vào
trận mạc có ai nói câu trở lại bao giờ. Mạch cảm xúc trong tâm hồn Quang Dũng
tiếp tục nghĩ về đồng đội, lúc ra đi với lời thơ: “Đường lên thăm thẳm một chia
phôi”. Lời thơ toát lên con đường ra chiến trận của người lính thật vô cùng gian
khổ. Tiếng gọi “Đường lên thăm thẳm” gợi cho ta hình dung địa bàn hoạt động
chiến đấu của đoàn quân thật rộng, thật hiểm trở giữa núi rừng đại ngàn Tây
Bắc, mà người lính đang đôì diện với một không gian choáng ngợp trước sự
hùng vĩ của thiên nhiên, cùng thực tế khắc nghiệt của chiến trường. Họ càng đi,
càng thấy xa dịu vợi, thàm thẳm, cho người đọc hình dung, con đường chiến đấu
quả là con đường gian khổ, con đường hi sinh chính là lẻ sống đẹp của người
chiến binh Tây Tiến ngày ấy. Đúng như lời bày tỏ của Quang Dũng: “Chúng tôi
hành quăn bằng đôi chân thật sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn
rừng, ngủ rừng”. (Quang Dũng)
2. Phân tích hai (2) câu cuối:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
(trích “Tây Tiến" - Quang Dũng)
Tiếng gọi “Ai” ở đầu câu là đại từ phiếm chỉ giả định, một tiếng gọi mơ hồ, khơi
gợi trong lòng người đọc hình ảnh những chàng trai ra đi cứu nước ngày ấy thật
đẹp, thật tự hào, vì họ đã nhận thức trách nhiệm công dân của chính mình đối với
Đất nước. Khi non sông réo gọi, khi tổ quốc cần, họ phải làm gì để thực hiện chí
nam nhi. Và mùa xuân nàm ấy, mùa xuân năm 1947, họ đã gia nhập đoàn quân Tây
Tiến, bỏ lại sau lưng bao kỉ niệm đẹp của một quãng đời trai trế, để trở thành người
lính, hình thành tình chiến hữu nhằm bảo vệ biên giới Việt-Lào, đánh tiêu hao
quân đội Pháp ở thượng Lào là nhiệm vụ cao cả của người trai thời ly loạn. Vì họ
hiếu rằng: “Đất nước là máu xưcmg của mình. Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết
hóa thân cho dáng hình xứ sở. Làm nên Đất Nước muôn đời”. Và lời thơ còn lại:
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, vẫn nhịp thơ 2/2/3 trầm hùng, xúc động, cho
người đọc hình dung, những chàng trai ra đi cúu nước đã bỏ lại nơi chiến trường,
hình hài cùng linh hồn của họ. Hình ảnh “Hồn về sầm Nứa” nghe thật buồn quá, bi
quá, nói lên cái chết của người lính đang nằm rải rác bên chân đèo góc núi, linh hồn
họ còn vương vấn trên cành cây ngọn cỏ nơi biên giới Việt-Lào. Với hai tiếng “Sầm
Níta” là một tỉnh của đất bạn Lào, chứng tỏ sự hi sinh của người lính không chỉ bảo

119
vệ cho quê hưcrng đất nước mà còn bảo vệ cho đất bạn, cho tình hữu nghị Việt-Lào.
Họ thể hiện nghĩa vụ cao cả mang tinh thần quốc tế thật đáng khâm phục. Và tiếng
gọi “chẳng về xuôi” là tiếng lòng, tiếng nói dứt khoát, cương quyết của người ra đi
sẵn sàng hi sinh nơi chiến trận, mong giành lại độc lập tự do cho quê hướng đất
nước cho tình hũu nghị Việt-Lào. Quả thật, cái chết của người lính cùng lời thề của
họ năm xưa, mãi mãi đi vào lòng ngưèíi, đi vào vàn học nghệ thuật là lẻ sống đẹp
của tuổi trẻ Việt Nam thời kháng chiến. Hình ảnh của họ khác ^ như những vì sao
sáng ngời giữa bầu trời trên quê hương đất bạn. Quả thật, “Không có gì cao cả hơn
một sự đau đơn lớn”.

II. PHẦN K Ế T BÀ I
1. Nghệ th u ật: Đoạn thơ giàu hình ảnh chọn lọc, giàu sức biểu cảm, nhịp
thơ trầm hùng, giọng thơ rắn rỏi, dứt khoát...
2. Nội dung: Đoạn thơ khắc họa chân dung người chiến binh Tây Tiến trên
đường ra trận vào mùa xuân năm ấy (1947) mãi mãi như một lời thề: “Thà quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh” là lẻ sông đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Pháp.

V IỆ T B Ắ C
T ố HỮU

Đề tuyển sình: Anh (chị) làm rõ h a i câu sau đây:


Câu 1: Anh (Chị) trìn h bày về sự nghiệp văn học của nhà thơ Tô Hữu.
Câu 2: Anh (Chị) trìn h bày phong cá ch nghệ th u ậ t th ơ Tô Hữu.

HƯỚNG DẨN
Câu 1: Sự nghiệp v ăn họ c củ a nhà th ơ Tô" Hữu.
Tô Hữu (1920-2002) là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng
Việt Nam. Các chặng đường thơ của Tô" Hữu luôn luôn gắn bó và phản ánh chân
thật, những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều
thắng lợi vinh quang của dân tộc. Con đường thơ có thể chia làm năm chặng
đường. Mỗi chặng đường phản ánh từng giai đoạn đi lên của cách mạng, thể hiện
qua các tập thơ:
1. C hặng 1: Tập th ơ “T ừ ấy” (1937-1946): Là chặng đường đầu tiên trong
cuộc đời của Tô" Hữu. Nhà thơ đón nhận ánh sáng cách mạng, đánh dâu bước
trưởng thành của người thanh niên khi đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt
Nam. “Từ ấy” là niềm hân hoan của một tâm hồn trẻ đang “Băn khoăn đi kiếm
lẽ yêu đời” và bước phát triển của hồn thơ Tô" Hữu. Tập thơ gồm ba phần:
“Máu lửa”\“Xiềng xích”; “Giải phóng”.

120
2. Chặng 2: Tập thơ “V iệt B ắ c ” (1947 - 1954): Là bản hùng ca của cuộc
kháng chiến chông Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và
thắng lợi của dân tộc. Tập thơ thể hiện thành công hình ảnh và tâm tư của
quần chúng, nhân dân kháng chiến. Tập thơ kết tinh những tình cảm lớn của
con người Việt Nam và thống nhất mọi tình cảm là lòng yêu nước. Với những
tác phẩm tiêu biểu: “Việt bắc”; “Phá đường”; “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”...
3. Chặng 3: Tập thơ “Gió lộ n g ” (1955 - 1961): Cảm hứng lớn lao của tập
thơ này là ca ngợi cuộc sông mới ở miền Bắc lúc bấy giờ. Đất nước đau với nỗi
đau chia cắt, tình cảm thiết tha sâu nặng với miền Nam ruột thịt và môì quan
hệ gắn bó với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Với những tác phẩm tiêu biểu:
“Trên miền Bắc mùa xuân”;”Đường sang nước bạn”;”Bài ca mùa xuân năm
1961”;”Quê mẹ”;”Mẹ Tơm”...
4. Chặng 4: Tập thơ “R a t r ậ n ” (1962 - 1971) và tập thơ “M áu v à h o a ”
(1972 - 1977): Hai tập thơ này được xem như bản anh hùng thời chông Mỹ. Tập
thơ “Ra Trận” là bản hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng ngời” và tập
thơ “Máu và hoa”, máu tượng trưng cho chặng đường đầy gian khổ, hi sinh; hoa
biểu tượng niềm tự hào của niềm vinh quang chiến thắng. Với những tác phẩm
tiêu biểu: “Bác ơi”;”Theo chân Bác”;”Nước non nghìn dặm”...
5. Chặng 5: Tập thơ “M ột tiế n g d ờ n ” (1992) và tập thơ “T a với t a ”
(1999): Là hai tập thơ đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tô Hữu. Nhà
thơ tìm đến những trải nghiệm mang tính phố’ quát về cuộc đời và con người.
Thơ Tô" Hữu tin vào lí tưởng và con đường cách mạng, tin vào chữ nhân luôn
luôn tỏa sáng ở mỗi hồn người.
Câ u 2 : Phong cá ch nghệ th u ật thơ Tô" Hữu.
Phong cách nghệ thuật thơ Tô Hữu mang một phong cách riêng không lẫn
vào những nhà thơ khác, được thể hiện với những đặc điểm sau:
1. Thơ Tô" Hữu mang khuynh hướng “trữ tinh chính trị”. Thơ của ông luôn ca
ngợi Đảng, lãnh tụ, người lính, nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quôc.
2. Thơ Tô" Hữu kết hợp giữa “cái tôi trữ tình” cùng “cái tôi của người chiến sĩ”
đế hướng tới “cái ta của cộng đồng của nhân dân”.
3. Thơ Tô" Hữu mang đậm “khuynh hướng sử thi”. Thơ của ông phản ánh từng
giai đoạn lịch sử trong mỗi tập thơ như: “Từ Ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra
trận”, “Máu và hoa”.
4. Thơ Tô" Hữu mang giọng điệu tâm tình, ngọt ngào đầy châ"t Huê".
5. Thơ Tô" Hữu thể hiện tính dân tộc. Thơ của ông về nội dung ca ngợi quê
hương đất nước, con người, mượn quá khứ để nói lên hiện tại. về mặt hình thức,
thơ của ông sử dụng thể thơ lục bát và thể thơ bảy chữ là thể thơ dân tộc.
6. Thơ Tô" Hữu diễn đạt tự nhiên, nhịp thơ liền mạch.
121
7. Thơ Tô’ Hữu thường là lời kêu gọi, nhắn nhủ, động viên người lính và nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quôc đúng như lời bày tỏ của tác giả
“Thơ là tiếng nói đồng tình, đồng ý, tiếng nói đồng chí”.
8. Thơ Tô' Hữu mang nặng tính truyền thô'ng vì thơ của ông ít khám phá, vận
dụng dòng thơ ca hiện đại.

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Anh (chị) trìn h bày hoàn cảnh ra đời, giá trị nghệ th u ật và
những ý chính tron g bài thơ Việt B ắc củ a Tô' Hữu.
Câu 2: B ài thơ “Việt B ắ c ” của nhà thơ Tô Hữu có đoạn viết:
Ta về m ình có n h ớ ta
Ta về ta n h ớ n h ữ n g hoa cù n g người
R ừ n g x a n h hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao n ắ n g ánh, dao g à i thắt lư n g
Ngày x u â n m ơ n ở trắ n g rừ n g
N h ớ người dan nón chuốt từng sỢi g ia n g
Ve k êu rừ n g p h á ch đ ổ vàng
N h ớ cô em g á i hái m ăng một m ình
R ừ n g thu tră n g rọi hòa bình
N h ớ ai tiếng hát ân tinh thủy c h u n g ”.
(Trích “Việt B ắ c ” - T ố Hữu)
Anh (chị) phân tích đoạn thơ trê n dể làm sáng tỏ cảnh đẹp thiên
nhiên và hình ảnh con người Việt B ắ c mãi m ãi in sâu tron g tâm hồn
người r a đi củ a m ột thời kháng chiến.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Trình bày hoàn cảnh ra đời, giá trị nghệ th u ật và những ý chính
củ a bài thơ “Việt B ắ c”.
1. Hoàn cảnh ra đời: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) hiệp định
Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Đây là thời điểm, Trung
ương Đảng, Nhà Nước từ chiến khu Việt Bắc sắp trở về thủ đô Hà Nội nhận
nhiệm vụ mới trước lịch sử. Trước giờ phút lên đường, nỗi lòng người ra đi, ở đây
là cán bộ, chiến sĩ, những người đã gắn chặt với quê hương Việt Bắc qua bap
năm kháng chiến, với bao tình sâu nghĩa nặng giữa người ở lại và kẻ ra đi. Cảm
xúc bồi hồi, lưu luyến thực sự khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ, Tô' Hữu đã viết
lên bài thơ Việt Bắc vào tháng 10-1954. Bài thơ được in trong “Tập thơ Việt
Bắc”, một tác phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chông Pháp.

122
2. Giá trị nghệ th u ật: Nói đến nghệ thuật trong bài thơ Việt Bắc là nói đến
nét bút đặc sắc của nhà thơ Tô' Hữu đã làm nên giá trị cho tác phẩm, đặc biệt
với thể thơ lục bát mang âm hưởng ca dao, nặng tính dân tộc, giọng thơ trữ tình
êm đềm.
Với tiếng gọi “Ta” và “Mình” lê(.hai đại từ nhân xưng qua hình thức đôl đáp,
toát lên tình yêu kháng chiến thật đẹp-giữa người ở lại và kẻ ra đi, giữa nhân
dân Việt Bắc và những người con cách mạng đậm đà nghĩa tình. Nhà thơ sử
dụng hàng loạt điệp từ “Nhớ” càng thấy rõ nỗi lòng lưu luyến giữa kẻ ở và người
đi cùng các biện pháp ẩn dụ, so sánh và hình ảnh tiêu biểu mãi mãi là khúc hát
án tình cho cuộc tiễn đưa. Bài thơ Việt Bắc toát lên vẻ đẹp thiên nhiên và con
người thật đáng yêu, đáng nhớ với câu thơ sáu chữ miêu tả cảnh đẹp thiên
nhiên kết hợp với câu thơ tám chữ là miêu tả vẻ đẹp con người cùng hòa quyện
và đan xen vào nhau có khác gì một bức tranh tứ bình thật sông động của quê
hương Việt Bắc.
3. Những ý chính của bài thơ Việt B ắc: Thể hiện những ý chính sau:
Ý 1: Nhà thơ khắc họa trước giờ phút lên đường, nỗi lòng của người ở lại và
kẻ ra đi với bao tình sâu nghĩa nặng của một thời kháng chiến qua hình thức
đôl đáp “Ta và Mình”.
Minh họa thơ: “Mình về mình có nhớ ta. Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng" (Nỗi lòng người ở lại) và “Ta với mình, mình với ta. Lòng ta sau trước
mặn mà đinh ninh”. (Nỗi lòng người ra đi)
Ý 2: Nhà thơ ca ngợi tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trong kháng chiến.
Minh họa thơ: “Thiứmg nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm sề nửa, chăn sui đắp cùng”
Ỳ 3: Nhà thơ ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc của một
thời kháng chiến chông Pháp.
Minh họa thơ: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
Ý 4: Nhà thơ ca ngợi tinh thần chiến đâu dũng cảm của quân và dân ta
trong kháng chiến.
Minh họa thơ'. “Quân đi điệp điệp trùng trùng. Anh sao đầu súng bạn cùng mũ
nang. Dân công đỗ đuốc từng đoàn. Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.”
Ý 5: Nhà thơ ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh là linh hồn cuộc kháng chiến.
Minh họa thơ', “ỡ đâu u ám quân thù. Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi.”
Ý 6: Nhà thơ ca ngợi quê hương Việt Bắc là cái nôi của cách mạng đã làm
nên chiến thắng, xây dựng nền cộng hoà.
Minh họa thơ: “ơ đâu đau đớn giống nòi. Trông về Việt Bấc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên. Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà...”
(Trích Việt Bắc - Tô Hữu)

123
Câu 2: P h â n t í c h đ o ạ n t h ơ “V iệ t B ắ c ” t ừ “T a về ... th ủ y c h u n g ”.

1. Nhà thơ Nguyễn Du trong tác phẩm truyện Kiều từng ca ngợi về bức tranh tứ
bình có viết: “Sen tàn cúc lại nở hoa. s ầ u dài ngày ngắn Đông đà sang
Xuân."(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
2. Nỗi nhớ của người ra đi thời kháng chiến trong hồn thơ “Tiếng hát con tàu"
của Chế Lan Viên có viết: “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ. Nơi nào
qua lòng lại chẳng yêu thương. Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hoá
tâm hồn", (trích “Tiếng hát con tàu" - Chế Lan Viên)
3. Lời ca dao đã từng gọi hai tiếng “Ta - Mình"'. “Mình về có nhớ ta chăng. Ta
về ta nhớ hàm răng mình cười.” (Ca dao)
4. Hình ảnh mCia thu trong truyện Kiều là biểu tượng cho mùa thu chia li:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào. Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”
(trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
5. Bài thơ "Cảnh khuya" của tác giả Hồ Chí Minh khắc hoạ vẽ đẹp của vầng trăng
thu: "Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa", (trích Cảnh khuya - Hồ Chí Minh.)
6. Bài thơ "Theo chân Bác" của Tô' Hữu có viết: ô i sáng xuân nay, xuân 41
(1941). Trắng rừng biên giới nở hoa mơ. (Theo chân Bác - Tô' Hữu)
7. Bài thơ "Lên Tây Bác" khắc họa hình ảnh người chiến sĩ hiên ngang bất
khuất: "Rất dẹp hình anh lúc nắng chiều. Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo.
Núi không dè nối vai vươn tới. Lá ngụy trang reo với gió đèo“. (Lên Tây Bấc
- Tô' Hữu)
8. Nhà phê bình Hoài Thanh có nhận định về hình ảnh thiên nhiên trong bài
thơ Việt Bắc như sau: "Những vần thơ ?niêu tả hình ảnh thiên nhiên trong
bài thơ Việt Bắc của Tô Hữu có thề sánh với bất cứ hình ảnh thiên nhiên nào
trong thơ cổ điển". (Hoài Thanh).
9. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận định về nhà thơ Tô Hữu: "Tố Hữu là nhà thơ
của tình thương mến". (Hoài Thanh)
10. Hình ảnh "Ánh trăng mùa thu"irong thơ ca lãng mạn của nhà thơ Lưu
Trọng Lư trong bài "Tiếng Thu" có viết: "Em không nghe mùa thu. Dưới
trăng mờ thổn thức". (Tiếng thu - Lưu Trọng Lưu) và ánh tràng thu trong thơ
Xuân Diệu có ghi: "Thinh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ". (Đây mùa thu tới
- Xuân Diệu).
11. Có lời bày tỏ rằng: "Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Quê hương Việt Bắc nghìn
dời mến yêu".

124
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
... "Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"...
(trích "Tiếng Hát Con Tàu" - Chế Lan Viên).
Kí ức hào hùng của một thời kháng chiến mãi mãi đọng lại trong lòng người
ra đi bao tình yêu và nỗi nhớ, nhớ cảnh lẫn nhớ người. Nỗi nhớ ấy, đưa chúng ta
liên tưởng về hồn thơ Việt Bắc của Tô' Hữu cũng thể hiện nỗi lòng người ra đi
mãi mãi khắc sâu hình bóng người ở lại cùng bao cảnh đẹp nơi quê hương Việt
Bắc của một thời kháng chiến đâu dễ nào quên, qua đoạn thơ sau:
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Dèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người dan nón, chuốt từng sợi giang
Vc kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rưng thu trăng rọi hòa binh
Nhớ ai tiêng hát ân tinh thuỷ chung".
(Trích "Việt Bắc" - Tố Hữu)
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Nỗi lòng người ra di n h ớ về h ìn h ảnh thiên n h iên v à con người Việt Bắc.
1. Phân tích hai câu đầu:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người".
Tiếng gọi "Ta và Minh" trong lời thơ đầu mang âm hưởng ca dao sâu sắc. Với
hai đại từ nhân xưng "Ta và Minh " trong ca dao là thể hiện tình yêu đôi lứa,
tình riêng, nỗi niềm riêng. Nhưng tiếng gọi "Ta và Minh” trong hồn thơ Việt
Bắc tuy cùng âm nhưng khác nghĩa. Tiếng gọi "Ta" ở đây là người ra đi, người
cán bộ, những anh lính cụ Hồ suô't mười lăm năm trong kháng chiến, còn tiếng
gọi "Minh" là người ở lại, người dân Việt Bắc cần cù lao động, một lòng với cách
mạng với kháng chiên. Như vậy, hai tiếng "Ta và Minh" trong thơ Tô' Hữu thế
hiện môi tình kháng chiến từng "thương nhau chia củ sắn lùi", từng "bát cơm sẻ
nữa chăn sui dắp cùng". Tiê'p đến với cụm từ nghi vấn "minh có nhớ ta" chính là

125
tiếng lòng, lời thầm thì réo gọi trong tâm hồn người ra đi với người ở lại, không
biết họ còn nhớ đến người ra đi chăng! Nhưng người ra đi e sợ với không gian
xa cách, thời gian biến đổi, kẻ ở lại có còn nhớ đến người ra đi hay không? Chỉ
một lời thơ là biểu hiện một tấm lòng đến với những tấm lòng, thấm đẫm tình
yêu thương, gắn bó, thắm thiết trong lòng người ra đi đôi với người ở lại, mãi
mãi là vẻ đẹp đạo lí là tình thủy chung trong kháng chiến. Rồi người ra đi
khẳng định với lòng mình: "Ta về ta nhớ những hoa cùng người". Lời tỏ bày của
người ra đi là tiếng nói dứt khoát dù xa quê hương Việt Bắc, cái nôi của cách
mạng của kháng chiến, là chiến khu xưa từng chôn vùi bao xác quân thù và giờ
phút này, người ra đi vẫn khắc sâu bao kỉ niệm dẹp với cảnh cũ, người xưa vẫn
còn tươi rói để bật lên tiếng gọi: "Ta về ta nhớ những hoa cùng người". Tiếng
gọi ”/ỉoa“là hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng cảnh đẹp thiên nhiên bốn mùa Việt
Bắc, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng và tiếng gọi "người" là người dân Việt Bắc
cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết yêu thương trong chiến đấu,
họ là những người cần cù lao động với nắng mưa dãi dầu nhằm phục vụ cho cuộc
sông cho cuộc kháng chiến. Và ngày trở về, kẻ ra đi làm sao quên được hình ảnh
người ở lại đó là vẻ đẹp đạo lí, thể hiện tình người là "uống nước nhớ nguồn",
"ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Như vậy, nhà thơ bày tỏ nỗi lòng mình cũng là nỗi
lòng của bao kẻ ra đi mãi mãi khắc sâu về quê hương Việt Bắc, tình người Việt
Bắc là thể hiện tấm lòng của nhà thơ, người chiến sĩ vẫn thấm đẫm nghĩa tình
Việt Bắc. Quả thật, "Tố Hữu là nhà thơ của tình thương mến".
2. Phân tích tám câu còn lại:
P h ă n tíc h c â u 3 v à 4; C ả n h v ậ t v à co n n gư ời V iệt B ắ c lú c Đ ô n g về.
"Rừng xanh hoa chuối đỗ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."
(trích "Việt B ả c " - lố Hữu)
- Người ra đi nhớ về cảnh đẹp thiên nhiên Việt Bắc trong những năm kháng
chiến như làm sôhg lại trong kí ức của nhà thơ với tiếng gọi: "Rừng xanh hoa
chuối dỏ tươi". Quả thật, lúc Đông về trên quê hương Việt Bắc tưởng chừng như
ảm đạm, u buồn, cây rừng trụi lá nhưng không phải thế! Hình ảnh "Rừng xanh"
toát lên sức sông bạt ngàn của núi rừng, sức sôhg mãnh liệt của thiên nhiên kết
hợp hình ảnh "hoa chuối đỏ tươi" toát lên một không gian tươi tắn, rực rỡ tràn
đầy sắc màu. Tiếp đến là câu thơ tám chữ, thấp thoáng hình bóng con người với
thi ảnh; "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Lời thơ toát lên cảnh đẹp thiên
nhiên và hình bóng con người Việt Bắc trên đường lao động. Tiếng gọi "đèo cao"
chứng tỏ con đường bước vào nương rẫy, không dễ dàng chút nào, họ phải vượt
đèo, bàng dôh để bước vào nương rẫy là thể hiện tình yêu lao động cần cù, chịu
thương chịu khó của con người Việt Bắc thật đáng quý. Với cụm từ gợi hình "dao

12 6
gài thắt lưng” cho chúng ta hình dung, hình ảnh người dân Việt Bắc trên đường
lao động với con dao là dụng cụ thô sơ quen thuộc luôn luôn được giắt bên lưng
cùng bàn tay và sức lực để làm ra sản phẩm lúa ngô, khoai sắn, là thể hiện sự
cần cù lao động của người dân Việt Bắc thật đáng nhớ. Như vậy cảnh cũng đẹp
mà người cũng đẹp, giữa cái đẹp của thiên nhiên cùng hòa quyện cái đẹp của con
người vẫn in sâu trong tâm hồn người ra đi bao tình yêu và nỗi nhớ.
P hăn tích câu 5 và 6: C ảnh vật và con người Việt B ắ c lúc X uân về.
"Ngày Xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi giang."
(trích "Việt B ắ c"- Tố Hữu)
Hình ảnh mùa Xuân Việt Bắc đã sông lại trong kí ức của người ra đi mang
một vẻ đẹp rất riêng, rất Việt Bắc. Tại sao ta lại nói như thế? Khi mỗi độ Xuân
về trên khắp mọi miền đất nước tiêu biểu là Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Đà Lạt...
đâu đâu ta cũng bắt gặp những cánh mai vàng nở rộ đón Chúa Xuân sang cùng
những cành đào đua nhau khoe sắc thắm như đang mỉm cười khi mùa xuân đến.
Nhưng mùa Xuân Việt Bắc lại có những cánh hoa mơ "hoa mơ nở trắng rừng" là
vẻ đẹp của Việt Bắc khi mùa xuân lại về, với màu trắng hoa mơ toát lên một
không gian xuân thật đẹp, thuần khiết, trong lành giữa bầu trời Việt Bắc thời
kháng chiến mà Tô" Hữu từng ca ngợi: "ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt (1941).
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ". Và màu trắng hoa mơ, chúng ta lại liên tưởng,
cái màu trắng ấy tượng trưng cho tấm lòng trong sáng, chân chất của người dân
Việt Bắc trong cuộc sông kháng chiến. Kết hợp với câu lục là câu bát, hiện rõ hình
bóng con người với tiếng gọi: "Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi giang". Điệp từ
"nhớ" lặp lại nhiều lần cho người đọc thấy rõ nỗi lòng người ra đi, người cán bộ
mãi mãi in sâu hình bóng người dân Việt Bắc của một thời kháng chiến đâu dễ
nào quên. Hình ảnh "người đan nón" đưa chúng ta nghĩ về một ngành nghề thủ
công ở Việt Bắc. Với động từ gợi hình "chuốt" thể hiện đôi bàn tay khéo léo của
người thợ thủ công, làm sao chuốt từng sợi giang thật mỏng, thật nhẵn, thật bóng
làm nên chiếc nón có giá trị thẩm mỹ là thể hiện tính chịu thương, chịu khó, cùng
sự khéo léo, cần mẫn của con người Việt Bắc thật đáng quý.
Mở rộ n g: Hình ảnh "đan nón" chúng ta chợt nghĩ, ngoài việc đan nón phục vụ
cho cuộc sông của người dân Việt Bắc và những chiếc nón ấy còn dành tặng cho
những cán bộ để che mưa, che nắng trên những đoạn đường hành quân vất vả,
gợi cho người đọc thấy được, tình quân dân gắn kết, thắm thiết nồng nàn.
P hân tích câ u 7 và 8: C ảnh vật và con người Việt B ắ c lúc H è về.
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
(trích "Việt B á c"- Tố Hữu)

127
Lúc hè sang, chúng ta đón nhận một âm vang rất quen thuộc với hai tiếng
"ve kêu" đưa ta liên tưởng những chú ve sầu đang kêu rả rích giữa khu rừng
phách bạt ngàn với hoa phách, lá phách như trỗi dậy khúc nhạc rừng, gợi cho
chúng ta nhớ lại một thời cắp sách. Và hình ảnh "rừng phách đổ vàng" là vẻ
đẹp râ't riêng của Việt Bắc lúc hè sang. Khi hè về, hoa phách, lá phách lại hoán
chuyến thành một sắc vàng và mỗi khi có luồng gió mạnh thổi qua, cả hoa và lá
phách đều rơi rụng tràn ngập khắp cánh rừng tưởng chừng như mùa thu đang
thay lá. Và lời thơ tám chữ: "Nhớ cô eni gái hái măng một mình” thấp thoáng
hình bóng con người, người con gái miền sơn cước đang hái măng giữa khu rừng
vắng cùng tiếng ve kêu rả rích, nhịp nhàng toát lên vẻ đẹp thơ mộng tràn đầy
sức sống. Và trước không gian bao la rộng lớn của núi rừng, hình ảnh người con
gái miền núi thật nhỏ bé, hữu hạn. Nhưng đẹp thay, hình ảnh con người không
chìm khuất, ẩn mình trong thiên nhiên, mà họ đang làm chủ hoàn cảnh, chinh
phục thiên nhiên với tiếng gọi "hái măng", một thi ảnh sống động thể hiện râ"t
rõ vẻ đẹp ấy. Nghĩ về hình ảnh "hái măng”, người đọc hình dung đôi bàn tay
khéo léo, dịu dàng của người con gái miền núi đang hái từng búp măng giữa khu
rừng vắng, toát lên sự chịu thương chịu khó, cần mẫn của họ trước cuộc sống. Và
những búp mãng kia sẽ làm nên những bữa cơm thân mật thắm tình quân dân
thắm thiết trên từng chặng đường kháng chiến. Cách sử dụng từ "hái măng" của
Tố Hữu tuy không đúng, sát với thực tế mà sử dụng từ gọi "bẻ măng" thì mới
đúng với thực tế. Nhưng, nếu sử dụng từ "bẻ măng" sẽ làm cho lời thơ nặng nề,
thô thiến mât đi chất nữ tính, bức tranh thiếu sức thuyết phục vì thế, nhà thơ
dùng từ "hái măng" nhằm tạo nên bức tranh vừa đẹp vừa sông động, giàu nữ
tính làm nên một thi ảnh đẹp, nhẹ nhàng.
Phăn tích cău 9 và 10: C ảnh vật và con người Việt B ắc lúc T hu về.
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhó ai tiếng hát ân tình thủy chung.
(trích "Việt Sắc" - Tố Hữu)
Bức tranh mùa thu trên quê hương Việt Bắc giữa lòng cuộc kháng chiến, đưa
chúng ta bắt gặp hình ảnh "rừng thu", "trăng thu" cùng giao hòa làm nên bức
tranh thu thật đẹp thơ mộng tràn đầy ánh sáng của thiên nhiên, ánh sáng của
cách mạng, thật sự đã trở về. Đặc biệt với cụm từ nhân hóa "trăng rọi hòa binh"
đưa người đọc hình dung, ánh sáng thiên nhiên, ánh sáng của vầng trăng thu
cùng ánh sáng của những vì sao trên bầu trời Việt Bắc lúc ấy được hòa nhập
cùng ánh sáng cách mạng, ánh sáng của niềm tin, niềm tin kháng chiến tạo
thành một thứ ánh sáng mới, ánh sáng kì diệu sẽ xua tan bóng đêm tăm tôì nô
lệ, sẽ quét sạch bóng quân thù thực dân cướp nước trên quê hương ta để ngày tự
do độc lập sẽ đến gần, hòa bình sẽ lập lại là niềm tin yêu khát vọng của mọi
người dân Việt.
128
Mở rộ n g: Nhớ về ánh tràng thu trong hồn thơ lãng mạn. Chúng ta bắt gặp
hình ảnh; "Dưới trăng mờ thổn thức" trong "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư và
hình ảnh: "Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ" trong "Đây mùa thu tới" của
Xuân Diệu thế hiện ánh trăng buồn, ánh trăng sầu, ánh trăng chia ly, dang dở
nên trăng thu phải "thổn thức" phải "ngẩn ngơ". Phải chăng, hoàn cảnh lúc ấy,
đất nước ta đang chìm sâu trong bóng đêm nô lệ của thực dân phong kiến vì.
ihế\"người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nhưng ánh trăng thu trong hồn thơ
cách mạng, hồn thơ kháng chiến là hình ảnh "trăng rọi hòa bình" toát lên một
ánh sáng mới, ánh sáng cách mạng, ánh sáng của niềm tin lạc quan trong
kháng chiến, đất nước sẽ thanh bình. Phải chăng, "chính nguyên nhân thời đại
đã chi phối hồn thơ của thi nhân". Và lời thơ còn lại, với câu tám chữ vẫn thấp
thoáng hình bóng con người qua tiếng gọi: "Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy
chung", vẫn điệp từ "nhớ" láy lại nhiều lần càng thấy rõ tình yêu thương thắm
thiết trong lòng người ra đi với người ở lại thật sâu sắc nồng nàn. Tiếng gọi
"nhớ ai" với đại từ phiếm chỉ "ai" được cất lên, vang lên như tiếng lòng của thi
nhân khắc sâu hình bóng người ở lại và tiếng gọi "nhớ ai“, một tiếng gọi mơ
hồ bâng khuâng, xao xuyến trong lòng người đi và tiếng gọi ấy (nhớ ai) khơi
dậy trong lòng người ra đi, vẫn nhớ về hình ảnh người ở lại, người dân Việt
Bắc cần cù lao động, chịu thương chịu khó cùng tấm lòng thủy chung với cách
mạng với kháng chiến, cùng: "thương nhau chia củ sẩn lùi", cùng: "miếng cơm
chấm muối mối thù nặng vai" là thể hiện tấm lòng của người ở lại vẫn thủy
chung sâu sắc tình yêu kháng chiến là khúc hát ân tình là tình cảm dạt dào
của người ở lại vẫn nằm trọn trong kí ức của người ra đi. Quả thật: "Nơi nào
qua lòng lại chẳng yêu thương, Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hóa
tâm hồn". (Chế Lan Viên)

III. PHẦN K Ế T
1. về nghệ th u ậ t: Đoạn thơ giàu hình ảnh tiêu biểu, chọn lọc kết hợp thể
thơ lục bát mang âm hưởng ca dao, lời thơ giàu sức biểu cảm, đặc biệt với hai
tiếng "ta, mình" cùng điệp từ "nhớ".
2. về nội dung: Nhà thơ khắc họa bức tranh quê hương Việt Bắc thời kháng
chiến, toát lên vẻ đẹp thiên nhiên bôh mùa ở Việt Bắc, mỗi mùa mang một vẻ
đẹp rất riêng và hình ảnh con người Việt Bắc cần cù, chịu thương, chịu khó
trong cuộc sông mãi mãi đọng lại trong tâm hồn người ra đi bao tình yêu nỗi
nhớ, nhớ cảnh lẫn nhớ người để nhà thơ viết lên những vần thơ đẹp. Phải
chăng, "Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Quê hương Việt Bắc nghìn đời mến yêu".

129
Để tuyển sinh: A nh (chị) làm rõ h ai c â u sau đây:
C âu 1: Anh (ch ị) v ậ n d ụn g th ơ v ă n tiê u b iểu tro n g b à i th ơ “Việt B ắ c ”
c ủ a n h à th ơ T ố H ữu đ ể làm sán g tỏ hình th ứ c đối dáp giữa
“M ình và Ta" giữ a người ở lại và kẻ r a đi.
C âu 2: B à i th ơ “Việt B ắ c ” c ủ a n h à th ơ T ố Hữu có đ o ạn v iế t:
“N h ữ n g đ ư ờ n g Việt B ắc của ta
Đ êm đêm rầm rập n h ư là đất ru n g
Quăn đi điệp điệp trù n g trù n g
Ả nh sao đầ u sú n g bạn cù n g mủ n a n g
D ân cô n g đỏ đuốc từ n g đoàn
B ước ch â n nát đá m uôn tàn lửa bay
N g h ìn đêm thăm thẳm sương dày
Đ èn p h a bật sá n g n h ư ngày mai lê n ”
(tríc h "Việt Bắc" - Tô" Hữu)
Anh (ch ị) p h â n tíc h đ o ạn th ơ tr ê n đ ể tìm lại khí t h ế h ào h ùn g
c ủ a q u ân v à d ân ta tr ê n dường r a tr ậ n th ời k h án g ch iến
ch ô n g P h á p . ____________________________________

HƯỚNG DẪN
Câu 1: T h ơ v ă n tiê u b iểu q u a hình th ứ c đôl đáp giữ a người ở lại v à kẻ
r a đi tro n g b ài th ơ V iệt B ắ c c ủ a Tô" Hữu.
1. H ình th ứ c đô"i đ áp 1:
- Người ở lại bày tỏ nỗi lòng với kẻ ra đi, bao tình yêu thương gắn bó bằng
những lời dặn dò tha thiết thể hiện qua những vần thơ:
"Mình uề minh có nhớ ta
Mười lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
(trích "Việt Bắc" - Tố Hữu)
- Người ra đi khắc sâu hình bóng người ở lại, những con người Việt Bắc cần cù
chịu thương chịu khó trong cuộc sống và trong kháng chiến qua những vần thơ:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Băng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gi hôm nay.
(trích "Việt Bắc" - Tố Hữu)

130
2. H ình th ứ c đôi đ áp 2:
- Người ở lại luôn luôn nhắc nhở dặn dò người ra đi mãi mãi khắc ghi bao kỉ
niệm đẹp của một thời kháng chiến qua những vần thơ:
"Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chắm muối mối thù nặng vai."
(trích "Việt B ắ c "- Tố Hữu)
- Người ra đi luôn luôn khẳng định với lòng mình, giữa mình và ta, giữa ta và
mình đã hình thành một tình yêu kháng chiến không bao giờ quên qua lời thơ:
"Ta với mình mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu."
(trích 'Việt Bắc" - Tố Hữu)

Câu 2: P h â n tíc h đ oạn th ơ V iệt B ắ c từ: "Những đ ư ờ n g Việt Bắc... ngày


mai lên"
ÌSỈữncr kiến th ứ c cầ n nắm :
1. Bài thơ Đâ"t nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết: "Súng nổ rung trời
giận dữ. Người lên như nước vỡ bờ. Nước Việt Nam từ máu lửa. Rũ bùn đứng
dậy sáng loà. " (Trích Đất Nước - Nguyễn Đình Thi)
2. Bài thơ “Hoan hô Chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu có viết: “Của ta trời đất đêm
ngày. Núi kia đồi nọ sông này của tá”. {Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
3. Ca dao Việt Nam có ghi: “Đố ai biết lúa mấy cây. Biết sông mấy khúc, biết
mây mấy tầng?” (Ca dao)
4. Thành ngữ Việt Nam có viết: “Chân cứng đá mềm” từ đó Tô" Hữu vận dụng
thành ngữ này để nói lên “Bước chân nát đá”.
5. Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: “Thà hi sinh tất cả chứ không bao giờ chịu mất
nước, không bao giờ chịu làm nô lệ”. (Hồ Chí Minh)
6. Ca dao Việt Nam từng đề cao về tình yêu lao động: “Trông cho chân cứng đá
mềm. Trời yên bể lặng mới nguôi tấm lòng.” (Ca dao). Từ đó nhà thơ Tố Hữu
đã mượn thành ngữ “Chân cứng đá mềm” nhằm nói lên “Bước chân nát đá”
đế thấy rõ sức mạnh của con người sẽ chinh phục tất cả.
7. Có lời nói rằng: “Đâu có giặc là ta cứ đi”

131
8. Bài “Đất Nước" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Biết trồng tre mà
đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu". (Trích “Đất Nước” -
Nguyễn Khoa Điềm).
9. Bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ có viết: “Bác thương
đoàn dân công. Đêm nay ngủ ngoài rừng. Rải lá cây làm chiếu. Manh áo phủ
làm chăn." (Trích “Đêm nay Bác không ngủ” - Minh Huệ)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
“Súng nổ rung trời giận dữ,
Người lên như nước võ bờ.
Nước Việt Nam từ máu lửa,
Rủ bùn đứng dậy sáng loà.”
(trích “Đất nướd’ - Nguyễn Đình Thi)
Khí thế hào hìing của quân và dân ta nơi chiến trường thật dũng cảm bâ't
khuất, đã làm nên chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu. Niềm tự hào ấy,
chúng ta liên tưởng hồn thơ Việt Bắc của Tô" Hiĩu, nhà thơ cũng khắc họa khí
thế hào hùng, bâ"t khuất của quân và dân ta trên đường ra trận thật đáng khâm
phục tự hào, thể hiện qua đoạn thơ sau:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao dầu súng bạn cùng mũ nang
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
(trích "Việt Bắc" - Tố Hữu)
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Khí thê hào h ù n g của quân và dân ta trên đường ra trận.
1. P h â n tíc h c â u 1 v à 2:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.”
(trích ''Việt Bắc" - Tố Hữu)
Với thể thơ lục bát, nhịp thơ dồn dập, giọng thơ rắn rỏi, hùng hồn cùng lời
thơ khẳng định, toát lên tinh thần làm chủ của cách mạng của kháng chiến của

132
quân dân ta giữa bầu trời Việt Bắc, của những con đường Việt Bắc. Với hình ảnh
đầu tiên ta bắt gặp: “Những dường Việt Bác của ta”. Tiếng gọi “của ta” là tiếng
nói dứt khoát của quân dân ta với tinh thần làm chủ trước khí thế sục sôi rực
lửa của chiến trường. Có được tiếng gọi “của ta” phải đánh đổi biết bao sinh
mạng, xương máu, mồ hôi nước mắt của người dân Việt trên mảnh đâ't này là
thê hiện tình yêu nước của quân dân ta trong kháng chiến, gợi cho chúng ta nhớ
lại hồn thơ của Tô Hữu cũng từng nói lên tiếng nói ấy: “Cửa ta trời đất đêm
ngày. Núi kia đồi nọ sông này của ta”. Nôl tiếp là hình ảnh; “Đêm đêm rầm rập
như là đất rung”. Với từ láy tượng thanh “rầm rập” kết hợp hình ảnh so sánh
“như là đất rung” vừa hiện thực vừa cường điệu, thể hiện khí thế hào hùng của
quân và dân ta trên đường ra trận, tạo nên sự vang dội rộng khắp, làm cho trời
phải xoay, đất phải rung, phải chuyến càng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc
của quân và dân ta lên đến cao độ, làm cho quân thù phải khiếp sợ hồn xiêu lạc
phách, là thể hiện tình yêu nước nồng nàn của dân tộc. Sức mạnh ấy có khác gì
như sức mạnh của Thánh Gióng của Phù Đổng từng nhổ tre bên đường đánh tan
quân giặc Ân. Chỉ có những con người bất khuất, một dân tộc hào hùng thì mới
dám đôì đầu trước một tên thực dân hung hãn, hùng mạnh trong tinh thần sục
sôi căm hờn như thế.
2. P h â n tíc h c â u 3 đ ến c â u 6:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Anh sao đẩu súng bạn cùng mũ nang.
Dán công đỏ đuốc từng đoàn.
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.”
(trích "Việt Bắc" - Tố Hữu)
Hình ảnh “quân đi”, cho chúng ta hình dung anh lính cụ Hồ, những chàng vệ
quô'c quân trên đường ra trận thật hiên ngang. Quả thật, khi Tổ Quôh cần, non
sông réo gọi, họ đã đáp lời sông núi, ra đi cứu nước với một tinh thần tự nguyện
của tuổi trẻ Việt Nam thời ấy. Họ đã bỏ lại sau lưng bao kỉ niệm đẹp của quãng
đời tươi trẻ, hóa thân thành những chinh nhân, những tráng sĩ, những ly khách
của ngày xưa thật đẹp tự hào. Với cụm từ láy “điệp điệp trùng trùng” vừa hiện
thực vừa lãng mạn, đưa chúng ta hình dung đoàn quân Việt Nam trên đường ra
trận thật vô số kể, không thể đếm được, định lượng được, càng thấy rõ lòng căm
thù giặc, tinh thần yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ Việt Nam thật bất khuất tự
hào mãi mãi tiếp nôi vẻ đẹp của Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung... từng
làm nên bao chiến công lẫy lừng trong lịch sử. Tiếng gọi “điệp điệp trùng trùng”
chúng ta lại nhớ đến ca dao Việt Nam có nói: “Đố ai biết lúa mấy cây. Biết sông
mấy khúc, biết mây mấy tầng”. Vậy đô' ai biết được bước chân của đoàn quân
Việt Nam trên đường ra trận vào thời điểm ấy có bao nhiêu không? đếm được

133
không? không! Vì, “điệp điệp trùng trùng” thì vô sô" kể, vô lượng, vô biên làm
sao đếm cho xuể, chính xác được, càng thấy rõ tinh thần yêu nước nồng nàn của
tuổi trẻ Việt Nam thời ấy thật tự hào. Họ không hố' thẹn với ông cha ta ngày
trước đã từng làm nên bao chiến thắng trước quân thù phương Bắc. Và hình
ảnh: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nang” toát lên hai hình ảnh vừa hiện thực
vừa lãng mạn. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng” đưa chúng ta hình dung vào thời
điểm ấy là ban đêm, những vì sao trên bầu trời Việt Bắc đang chiếu rọi, tỏa
sáng trên từng đầu súng, báng súng của người lính, phản quang một sắc màu rực
rỡ như xua tan bóng đêm dày đặc giữa chiến trường và hình ảnh “bạn cùng mủ
nang” vừa tượng trưng vừa ẩn dụ, chúng ta lại hình dung trên từng chiếc nón
của người lính đều có gắn một ngôi sao đó là quô"c huy của quân đội Việt Nam
biểu tượng ánh sáng của cách mạng, ánh sáng của niềm tin trong chiến thắng.
Từ hai hình ảnh ấy, khơi dậy trong chúng ta một cảm nhận, phải chăng, ánh
sáng của thiên nhiên, ánh sáng từ những vì sao trên bầu trời Việt Bắc lúc ấy
cùng hòa quyện, nôl kết với ánh sáng cách mạng, ánh sáng từ những ngôi sao
trên từng chiếc mũ người lính tạo thành một thứ ánh sáng mới, ánh sáng kì dịu,
tổng hợp sẽ giúp cho người lính nhìn rõ quân thù sẵn sàng chiến đấu, tiêu diệt.
Ngoài vẻ đẹp của đoàn quân trên đường ra trận, nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của bao
chiến sĩ vô danh thầm lặng giữa cuộc sống đời thường với lời thơ:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đả, muôn tàn lửa bay”
Tiếng gọi “dân công” cho chúng ta nhớ lại hình ảnh những người dân đang
làm công tác ở chiến trường, họ có nhiệm vụ chuyển tải lương thực, thuôc men,
đạn dược, vũ khí, quân trang, quân dụng nhằm hỗ trợ cho tiền tuyến. Họ là
những chiến sĩ thầm lặng vô danh, luôn luôn tạo thêm sức mạnh, hậu thuẫn cho
người lính trong chiến đấu. Và hình ảnh “đỏ đuốc từng đoàn” toát lên một khí
thế sục sôi, hừng hực của bao lớp người dân công trên đường ra tiền tuyến và
trên cánh tay của họ, mỗi người cầm một ngọn đuốc sáng, với hàng hàng lớp lớp
nôi nhau, làm sáng rực cả bầu trời Việt Bắc và ánh sáng từ ngọn đuô"c của đoàn
dân công, sẽ giúp cho người lính nhìn rõ quân thù, sào huyệt của chúng mà
chiến đấu quyết liệt, dũng cảm, quên mình là vẻ đẹp về tinh thần đâu tranh bất
khuất của nhân dân ta trong kháng chiến. Và thi ảnh: “bước chân nát đá, muôn
tàn lửa bay” kết hợp biện pháp tượng trưng và ẩn dụ toát lên một nét đẹp mới.
Tiếng gọi: “bước chân nát đá”, Tố Hữu mượn thành ngữ: “chân cứng đá
mềm”,trong văn học dân gian để thấy rõ bước chân của nhân dân ta đi đến đâu
sẽ tạo một sức mạnh vũ bão, làm cho đá phải nát, phải mềm, quân thù phải run
sợ, khiếp sợ trước khí thế sục sôi rực lửa đầy nhiệt huyết của một dân tộc trên
đường ra trận để thấy rõ: “Nước chúng ta, nước những người chưa bao giờ khuất”
sẵn sàng tiếp nối truyền thống yêu nước của ông cha ta như Lê Lợi, Quang Trung,

134
Trần Hưng Đạo, Bà Trưng, Bà Triệu... từng làm nên bao chiến thắng oai hùng và
cụm từ “muôn tàn lửa bay” càng thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường, bất
khuất của quân và dân ta đã làm nên chiến thắng kiêu hãnh tự hào.
N hấn m ạ n h: Hàng loạt phụ âm “đ” từ câu ba đến câu sáu là một nét độc
đáo, sáng tạo của Tô' Hữu. Với hàng loạt từ “đi” “điệp điệp”, “đoàn”, “đuốc”, “đỏ”
cùng với hai tiếng “nát đá” toát lên khí thế hào hùng, quả cảm của quân và dân
ta trên đường ra trận thật bất khuất kiên cường của một dân tộc anh hùng “thà
hi sinh tất cả chứ không bao giờ chịu mất nước, không bao giờ chịu làm nô lệ”.
3. P h â n tíc h c â u 7 v à 8:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Tiếng gọi “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” vừa tượng trưng vừa ẩn dụ cho
chúng ta tìm thấy những năm đầu của cuộc kháng chiến, quân và dân ta còn gặp
nhiều khó khăn thiếu thôn từ lương thực, thuôc men, đạn dược kể cả phương
tiện di chuyển, phải dùng sức người. Với tinh thần chịu đựng trường kì kháng
chiến của quân và dân ta “biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà
không sợ dài lâu” và cũng từ trong cuộc kháng chiến, từng bước vững mạnh,
càng tin yêu vào cách mạng và hiện tại trong chiến đấu được trang bị bằng vũ
khí tô'i tân hơn, thay cho sức người, càng đem lại niềm tin vào một ngày mai
huy hoàng tươi sáng với hình ảnh cuô'i: “đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Tiếng gọi “đèn pha bật sáng”, chúng ta hình dung đây là đoàn xe cơ giới, đoàn
xe kéo pháo trên đường ra trận với ánh sáng hiện đại của cơ giới kết hợp ánh
sáng cách mạng, ánh sáng của niềm tin cùng tinh thần yêu nước nồng nàn của
một dân tộc, sẽ chiến đấu quyết liệt hơn, dũng cảm hơn, quên mình hơn để làm
nên chiến thắng với hình ảnh so sánh “như ngày mai lên” thể hiện niềm hi
vọng, tin yêu một ngày mai huy hoàng trong chiến thắng. Quả thật ngày 7-5-
1954, chiến thắng Điện Biên làm chấn động cả địa cầu, lương tâm của thời đại
là thể hiện tinh thần yêu nước, bất khuất của nhân dân ta trong kháng chiến
mãi mãi là niềm tự hào về một dân tộc anh hùng.

IIL PHÂN K Ẽ T THÚC


1. v ề n gh ệ th u ậ t: Với thể thơ lục bát, giàu tính dân tộc, nhịp thơ dồn dập,
lời thơ rắn rỏi dứt khoát, trầm hùng kết hợp những hình ảnh tiêu biểu hiện thực
cùng với phụ âm “đ ” đặc sắc.
2. v ề nội dung: Nhà thơ đã khắc hoạ thành công bức tranh hoành tráng
trên đường ra trận của quân và dân ta thời kháng chiến chốhg Pháp với khí thế
sục sôi bất khuất hào hùng của một dân tộc. Quả thật, “Có nơi đâu đẹp tuyệt vời.
Như sông như núi như người Việt Nam” (Nguyễn Đình Thi).

135
Đế tuyển sinh: A nh (ch ị) g iải th ích vì sao n h à th ơ Tô H ữu v iế t lê n h ai
c â u th ơ sau tríc h tro n g b ài th ơ “Việt B ắ c” c ủ a ch ín h tá c g iả?
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê h ư ơ n g cá ch m ạng d ự n g n ên cộ n g h ò a ”.
(tríc h "Việt B ắ c "- Tô Hữu)

HƯỚNG DẨN
“Mười lăm năm ấy ai quên.
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”.
(trích “ Việt Bắtí' - Tố Hữu)
Hai câu thơ trên của Tô Hữu xuất phát từ suy nghĩ của chính tác giả. Tiếng
gọi: “Mười lăm năm ấy ai quên” đưa chúng ta nhớ về một giai đoạn lịch sử đã
qua. Năm 1940 cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, nhân dân ta đứng lên chống phát xít
Nhật tiếp tục trường kì kháng chiến chốhg Pháp đuổi Nhật. Ngày 7-5-1954,
Chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, mở ra cho dân tộc ta một kỉ nguyên
mới từ nô lệ sang tự do. Quá trình đấu tranh ấy suôd mười lăm trong gian khổ
của một dân tộc, một dân tộc gánh chịu nhiều đau thương nhưng anh hùng thì
đâu dễ nào quên. Và lời thơ thứ hai; “Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”
cho chúng ta một suy nghĩ. Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Ái Quôc ra đi
tìm đường cứu nước, suô't bao nhiêu năm bôn ba tại xứ người, Bác đã tìm được
Luận cương Lênin, mở ra con đường đấu tranh giải phóng cho dân tộc. Và nàm
1941, Bác trở về Tổ quôh và chọn Pắc Pó làm căn cứ địa cách mạng, cái nôi của
cách mạng. Cũng từ nơi này, Bác thành lập “Mặt trận Việt Minh” tiếp tục cuộc
kháng chiến chông Pháp cho đến ngày thành công với chiến thắng Điện Biên
Phủ. Như vậy quê hương cách mạng chính là quê hương Việt Bắc cũng từ quê
hương này đã hình thành cuộc trường kì kháng chiến của dân tộc cùng “thương
nhau chia củ sắn lùi” cùng “bát cơm sẻ nữa chăn sui dấp cùng” cùng “miếng cơm
chấm muối mối thù nặng vai”. Kết thúc là chiến thắng Điện Biên đem lại vẻ
vang cho dân tộc. Từ chiến thắng ấy, hiệp định Gơnève (Thụy Sĩ) ra đời vào
tháng 07-1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, thiết lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đúng như lời thơ Tô" Hữu trong
bài thơ “Việt Bắc”:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”.
(trích "Việt B ắ c " - lố Hữu)

136
ĐẤT NƯỚC
Trích trường ca “MẶ T ĐƯỜNG KHÁ T VỌNG” của nhà thơ
NGUYỄN KHOA ĐIỂM

Để tuyển sinh: A nh (ch ị) làm rõ h ai câ u sau dây;


C âu 1: A nh (ch ị) trìn h bày h o àn cả n h r a đời, ý n gh ĩa nội dung v à ch ủ
đề b ài “Đất N ư ớ c” tríc h “T rư ờ n g ca Mặt đ ư ờn g khát vọng” củ a
n h à th ơ N guyễn K hoa Điềm .
C âu 2: Anh (ch ị) giải th ích tự a dề Đ ât Nước tríc h trư ờ n g c a
_______ “Mặt đ ư ờ n g khát vọng” củ a n h ả th ơ N guyễn K hoa Điểm .

HƯỚNG DẪN
Câu 1: H oàn c ả n h r a đời, ý n gh ĩa nội dung v à ch ủ đề b ài “Đất N ư ớ c”
củ a n h à th ơ N guyễn K hoa Điềm .
1. H oàn cả n h r a dơi:
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ của các nhà thơ trong thời kì chông Mỹ cứu
nước (Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo...) trong
thơ của lớp nhà thơ này nổi bật lên “sự tự ý thức của tuổi trẻ” về vai trò trách
nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân
dân qua những trải nghiệm của mình.
Đất Nước được trích từ chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” sáng
tác năm 1971 tại chiên khu Trị Thiên, in lần đầu năm 1974, viết'về sự thức tỉnh
của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm ở miền Nam về non sông đất nước, về sứ
mệnh của thế hệ mình và kêu gọi xuôhg đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc
chiến đâu chông Mỹ xâm lược.
2. Ý n gh ĩa nội dung:
Bài Đất Nước trích “Trường ca mặt đường khát vọng” thuộc chương V của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm gồm 4 ý chính:
Ý 1; Đâ4 Nước là sự kết hợp từ những giá trị vật chất hữu hình như miếng
trầu, cây tre, búi tóc, gừng cay, muôi mặn cùng những giá trị tinh thần vô hình
như truyện cố tích trầu cau, Thánh Gióng, ca dao...
Ý 2: Đất Nước là sự kết hợp từ yếu tô" không gian như đất đai, lãnh thổ, địa lí
và yếu tô' thời gian như lịch sử, cội nguồn của dân tộc.
Ý 3: Đâ't Nước kết hợp từ yếu tô' của nhân dân từ những con người đã làm
nên lịch sử, đâ't nước.
ý 4: Lời kêu gọi của tác giả đôl với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm ở miền
Nam vào thời điểm ấy, hãy nhận thức trách nhiệm công dân của chính mình đôl
với đất nước để đứng lên cứu nước.

137
Chủ d ề: Khẳng định, hình ảnh Đất Nước là máu thịt của mỗi con người. Khi
Đất Nước đau thương trong khói lửa chiến tranh, tuổi trẻ Việt Nam phải xác
định bổn phận trách nhiệm của chính mình đứng lên cứu nước để: “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai" (Tô" Hữu).
Câu 2: Giải th ích tự a đề Đ ất Nước trích trưòfng c a “Mặt đường khát vọng”
củ a n h à th ơ N guyễn K h oa Điềm .
Nhìn về thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chông Pháp, làm sao chúng ta
quên được hình ảnh Đâ"t Nước trong hồn thơ Tây Tiến của Quang Dũng với
những chàng trai khi núi sông réo gọi, họ bỏ lại sau lưng bao kỉ niệm đẹp để
bước vào cuộc kháng chiến, bảo vệ biên cương. Họ châ'p nhận gian khổ, hi sinh
đế gìn giữ đất nước với hình ảnh: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc. Quân
xanh màu lá dữ oai hùm” măi mãi là hình ảnh của Đất Nước đáng tự hào.
Hồn thơ Việt Bắc của Tô" Hữu, hình ảnh Đâ"t Nước thể hiện tinh thần
đoàn kết yêu thương trong kháng chiến của các dân tộc Kinh, Thượng một
nhà, ngược xuôi một lòng cùng đoàn kết gắn bó chịu đựng mọi gian khổ để
làm nên chiến thắng với hình ảnh; “Thương nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm
sẻ nữa chăn sui đắp cùng”.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, cảm nhận về hình ảnh Đất Nước là một cái
nhìn rất mới nhưng gần gũi, quen thuộc, thân thương từng thấm vào máu thịt
của mỗi con người, mỗi gia đình để làm nên Đất Nước. Với nhà thơ, Đất Nước là
sự kết hợp những giá trị vật chất hữu hình (miếng trầu, cây tre, búi tóc, gừng
cay muô"i mặn, cái kèo cái cột, hạt gạo) cùng những giá trị tinh thần vô hình (cổ
tích trầu cau, Thánh Gióng, ca dao). Và hình ảnh Đất Nước qua sự cảm nhận
của nhà thơ là sự kết hợp yếu tô" không gian (đất đai, lãnh thổ, địa lí) cùng yếu
tô" thời gian (chiều dài lịch sử, cội nguồn dân tộc) như hình ảnh Lạc Long Quân,
Âu Cơ, ngày Giỗ tổ Hùng Vương mãi mãi là hình ảnh Đất Nước. Và hình ảnh
Đất là những danh lam thắng cảnh như Hòn Vọng Phu, Hòn Trông Mái, Núi
Bút, Non Nghiên... xuất phát từ con người, và hình ảnh Đất Nước với bôn nghìn
năm thuở trước, lớp lớp bao chàng trai cô gái, cần cù làm lụng nhưng khi có giặc:
“Người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con, ngày giặc đến nhà
thì đàn bà cũng đánh, nhiều người đã trở thành anh hùng". Và hình ảnh Đất
Nước là những con người bình dị, họ là ông cha ta, là những tiên linh xưa đã sáng
tạo ra giá trị vật chất như hạt lúa, hòn than, con cúi, đắp đập be bờ và sáng tạo ra
giá trị tinh thần như “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, “gánh theo tên xã,
tên làng trong mỗi chuyến di dân” hình thành ngôn ngữ Việt, quê hương Việt. Tất
cả xuất phát từ con người từ nhân dân đã làm nên Đất Nước.

13 8
Đê' tuyển sinh:
B ài “Đất N ư ớ c” trong chương V trích trường ca “Mặt D ường Khát
V ọng” củ a nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có đoạn viết:
“Khi ta lớn lên Đất N ước đ ã có rồi
Dất N ước có tro n g n h ữ n g cái “ngày xử a ngày x ư a ”...
mẹ th ường hay k ể
Đất N ước bắt đầ u với m iến g trầu bây g iờ bà ăn
Dất N ước lớn lên khi d â n m ình biết trồng tre m à đ á n h g iặ c
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ th ương n h au b ằ n g g ừ n g cay muối m ặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạ o p h ả i một n ắ n g hai sương xay, giã, giầ n , sàng
Dất N ước có tù ngày đó...
(trích "Đất Nước" - Nguyễn Khoa Điềm)
Anh (chị) phân tích đoạn thơ trê n để làm sáng tỏ hình ảnh Đất
Nước qua sự cảm nhận củ a tá c giả.

ịSỈững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Hình ảnh Đất Nước trong hồn thơ Việt Bắc của Tô" HíỊíU: “Thương nhau chia
củ sán lùi. Bát cơm sẻ nữa, chân sui đắp cùng”. (Tô" Hữu)
2. Hình ảnh Đất Nước trong hồn thơ Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn
binh không mọc tóc. Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. (Quang Dũng)
3. Nhà thơ Thép Mới từng nói về giá trị của cây tre Việt Nam: “Tre xung phong
vào xe tăng, đại bác, tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa
chín”. (Thép Mới)
4. Ca dao Việt Nam từng nói: “Anh ơi, chua ngọt đã từng. Gừng cay muối mặn
xin đừng phụ nhau”. (Ca dao) Hay “Tay bưng chén muối đĩa gừng. Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau.”
5. Tục ngữ có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. (Tục ngữ)
6. Ca dao Việt Nam có viết: “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang. Bao nhiêu tấc đất, đất
vàng bấy nhiêu”. (Ca dao)
7. Truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân phơi bày thủ đoạn thâm độc
của phát xít Nhật bắt người nông dân nhổ cây lúa trồng cây đay. Hậu quả
năm 1945 (Ât Dậu) hơn hai triệu đồng bào ta chết vì đói.

139
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
Đất Nước là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ qua mọi thời đại, là đề
tài muôn thuở của thi nhân. Làm sao chúng ta quên được hình ảnh Đất Nước
trong hồn thơ Tây Tiến của Quang Dũng tiêu biểu những chàng trai ra đi cứu
nước, sẵn sàng hi sinh, chịu đựng mọi gian khổ để giành lại tự do độc lập cho
dân tộc. Nhớ về hình ảnh Đất Nước trong hồn thơ Việt Bắc của Tô" Hữu thể hiện
tinh thần đoàn kết của dân tộc với Kinh, Thượng một nhà, ngược xuôi một lòng
cùng hướng về cuộc kháng chiến đề làm nên chiến thắng với hình ảnh: “Thương
nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm sẻ nữa chăn sui đắp cùng”. Hôm nay chúng ta lại
tìm về hình ảnh Đất Nước trong hồn thơ của Nguyễn Khoa Điềm thuộc chương
V trích trường ca “Mặt đường khát vọng” với một cảm nhận râ't mới, một cái
nhìn mới về hình ảnh Đất Nước qua đoạn thơ sau:
“Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó...”


(trích "Đất Nước" - Nguyễn Khoa Điềm)
Hãy đi sâu từ những vần thơ giàu tính tự sự, giàu hình ảnh tiêu biểu để thấy
rõ hình ảnh Đất Nước qua sự cảm nhận của thi nhân.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Dất N ước là s ự kết hỢp n h ữ n g g iá trị vật chất h ữ u h ìn h cù n g n h ữ n g
g iá trị tinh thần vô hình, (cảm n h ận 1)
1. H ình ản h m iến g trầ u : Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về hình
ảnh Đất Nước không phải là những cái gì xa xôi, rộng lớn mà những hình ảnh
râ"t quen thuộc, gần gũi trong cuộc sông con người, ăn sâu vào máu thịt của mỗi
người, mỗi gia đình từ bao đời nay. Với tiếng gọi: “Đất Nước bắt dầu với miếng
trầu bây giờ bà ăn”. Hình ảnh miếng trầu, một vật thể nhỏ bé, gần gũi trong
cuộc sông của mỗi gia đình mà lời người xưa từng nói: “Miếng trẩu là đầu câu
chuyện”, ngoài việc giao tiếp từ miếng trầu, hình ảnh ấy tượng trưng cho cúng
giỗ, lễ hội, hôn nhân là phong tục tập quán của nhân dân ta, làm nên nét đẹp
văn hóa của dân tộc, tô đậm sự giàu đẹp cho Đất Nước. Từ hình ảnh miếng trầu
ngoài giá trị hữu hình, ta liên tưởng đến truyện cổ tích “Trầu Cau” nhằm ca
ngợi tình huynh đệ, nghĩa anh em và lòng thủy chung trong tình nghĩa vỢ chồng
là nét đẹp đạo lí Việt Nam cũng là nét đẹp văn hóa cho Đất Nước.
2. H ình ả n h c â y t r e : Với tiếng gọi: “Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy”,
chúng ta liên tưởng lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm với thi ảnh: “Đất Nước lớn
lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, quả thật, cây tre là hình ảnh
quen thuộc, gần gũi trong cuộc sôhg của người dần quê Việt Nam. Nói về cây tre
chúng ta lại nhớ đến lũy tre làng, bao bọc cả thôn xóm, ôm ấp một tình quê. Tre

140
từng che mưa, chắn nắng trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chông đỡ từ làn
tên mũi đạn của quân thù như “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
Nói đến tre là dụng cụ thô sơ gắn chặt vào đời sống của người dân quê Việt Nam
từ cái rổ, cái rá, cái lờ bắt cá ... là dụng cụ thiết thực cho đời sống con người và nói
đến cây tre qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cây tre có khác gì
như một chàng dũng sĩ, một chiến sĩ đồng hành trong chiến đấu: “Tre xung phong
vào xe tăng đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.
Quả thật, dân tộc ta từng vận dụng cây tre tiếp tục trường kì kháng chiến chống
xâm lăng vì: “Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài
lâu”. Và nói đến cây tre, ngoài vẻ đẹp hữu hình, cây tre còn mang nét đẹp vô
hình, đưa chúng ta liên tưởng về truyền thuyết Thánh Gióng từng nhổ tre bên
đường đánh tan quân giặc Ân, biểu tượng sức mạnh quật cường của một dân tộc
không bao giờ khuất phục, không bao giờ chịu mất nước, chịu làm nô lệ.
3. H ình ản h bú i tó c: Tiếng gọi: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” vẫn là hình ảnh
thân thương, quen thuộc, gần gũi trong đời sôhg, phong cách của người phụ nữ
Việt Nam, người mẹ Việt Nam làm nên nét duyên dáng Việt Nam, nét đẹp văn
hóa Việt nam. Nói đến “búi tóc” là nói về phong tục của người Âu Lạc thuở xa
xưa và cho đến hôm nay, hình ảnh ấy, búi tóc ấy vẫn ăn sâu vào tâm hồn và đời
sông của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt nam. Nói đến “búi tóc” mà
người đời thường gọi là “búi tóc củ hành” tượng trưng vẻ đẹp về công, dung,
ngôn, hạnh và lòng thủy chung của người vỢ đã có chồng là nét đẹp truyền
thông, đạo lí làm nên nét đẹp văn hóa cho Đâ't Nước.
4. Hình ảnh gừng cay muối mặn: Tiếng gọi: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn” thế hiện một vẻ đẹp như thấm sâu vào máu thịt của con người. Nhớ
đến gừng đến muối là những vật thể, những gia vị, không bao giờ thiếu trong mỗi
bữa ăn của gia đình Việt, nó mang lại hương vị đậm đà về đời sống ẩm thực của
nhân dân ta từ bao đời. Nói đến “gừng” nghìn đời vẫn cay, nói đến “muối” bao đời
vẫn mặn là nguyên lí bất biến không bao giờ thay đổi cũng là quy luật tự nhiên của
sự vật của tạo hóa. Từ vẻ đẹp ấy, nhà thơ muốn nói đến quy luật tình cảm của con
người ở đây là, ông bà, cha mẹ, vỢ chồng sẽ không bao giờ thay đổi, là thể hiện lòng
thủy chung làm nền tảng vững chắc cho hạnh phúc gia đình, phát triển xã hội đem
lại sự giàu đẹp cho Đất Nước mà ca dao Việt Nam, đã từng dặn dò nhắc nhở: “Tay
bưng chén muối đĩa gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” hay “Anh ơi,
chua ngọt đã từng, Gừng cay muối mặn xin đừng phụ nhau”.
5. H ình ản h c á i kèo, cá i cộ t: Tiếp đến với tiếng gọi: “cái kèo, cái cột thành
tên”. Phải chăng, “cái kèo, cái cột” cũng thành tên Đất Nước ư! Lời thơ đưa ta
quay về cuộc sông thời kì nguyên sơ, ông cha ta chưa ý thức về cuộc sông cộng
đồng, về môi trường, gia đình, ông cha ta đã sôhg như những kẻ du mục rày đây
mai đó. Rồi theo bước đi của thời gian, ý thức con người phát triển, khi biết con
chim có cái tổ, con người phải có mái nhà để che mưa tránh nắng, an cư lạc

141
nghiệp rồi ông cha ta đi đến tận rừng sâu, núi cao tìm những loại gỗ tô"t, mang
về đẽo, gọt, đặt cho cái tên riêng “cái kèo, cái cột” chính là điểm tựa chỗ dựa
vững chắc của một mái nhà hình thành một gia đình hướng đến đời sông cộng
đồng xây dựng Đất Nước.
6. H ình ảnh h ạ t gạo: Hình ảnh còn lại chúng ta bắt gặp trong hồn thơ Đất
Nước của Nguyễn Khoa Điềm với tiếng gọi: “Hạt gạo phải một nắng hai sương,
xay, giã, giần, sàng”. Lời thơ miêu tả một hình ảnh tiêu biểu, cụ thể rất quen
thuộc, ăn sâu trong máu thịt của mỗi con người đó là hạt gạo, đưa chúng ta nghĩ
ngay đến cây lúa là hình bóng của quê hương, vì dân tộc ta từ bao đời nay vẫn là
nền “nông nghiệp lúa nước”. Cây lúa là đặc sản chính của quê hương, cái hồn
của dân tộc mà lời người xưa có nói: “Có thực mới vực được dạo”. Vậy “thực" ở
đây là gì? là hạt gạo là mạch sông hơi thở máu thịt của mỗi con người. Chính ca
dao Việt nam từng thầm thì nhắc nhở: “Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang. Bao nhiêu
tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” hay: “Ai ơi, bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt
đáng cay muôn phần” càng gợi cho chúng ta thấy rõ, giá trị của hạt gạo trong
đời sông con người thật vô cùng đáng quý. Đặc biệt, hàng loạt động từ mạnh gợi
hình “xay, giã, giần, sàng” đưa chúng ta liên tưởng hạt gạo trong quá trình thao
tác của con người, nó phải trải qua nhiều công đoạn khi: “Gạo đem vào giã bao
đau đớn. Gạo giã xong rồi trắng tựa bông” đó chính là mạch sông, hơi thở của
nhân dân ta, dân tộc ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước và thấy được sự lao
động cần cù của người nông dân Việt Nam chịu thương, chịu khó góp phần đem
lại sự vững mạnh cho Đất Nước.
Mở rộ n g: Để thấy rõ tầm quan trọng của hạt gạo đôi với con người và cả một
dân tộc. Ta làm sao quên được nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử Việt Nam
năm 1945 (Ầt Dậu) từ Quảng Trị đến Lạng Sơn hơn hai triệu đồng bào ta chết
vì đói. Hậu quả thảm khôh ấy của dân tộc, là do thủ đoạn thâm độc của bọn
Phát xít Nhật, chúng bắt người nông dân nhổ cây lúa trồng cây đay, cuôl cùng là
nạn đói đã giết chết hơn hai triệu con người Việt Nam trong đau đớn, căm hận,
ngậm ngùi đôi với bọn phát xít và thấy rõ giá trị quan trọng đáng quý của hạt
gạo đôl với dân tộc thật vô cùng.
III. PHẦN K Ế T BÀI
1. v ề nghệ th u ậ t: Đoạn thơ giàu tính tự sự, giàu chất suy tưởng với những
hình ảnh tiêu biểu chọn lọc, nhịp thơ liền mạch kết hợp những biện pháp tu từ,
đặc sắc (ẩn dụ, so sánh, tượng trưng).
2. v ề nội dung: Nhà thơ khắc họa hình tượng của Đất Nước là sự kết hợp
hài hòa từ những giá trị vật chất hữu hình, gần gũi, quen thuộc hòa cùng những
giá trị tinh thần vô hình mãi mãi ăn sâu trong máu thịt của mỗi người dân Việt.
Quả thật, hình ảnh Đất Nước râ't gần gũi, thân thương, gắn kết trong mỗi con
người của chúng ta, từ đó chúng ta phải ra sức yêu thương, giữ gìn, bảo vệ những
tài sản quý báu ấy vì nó đã làm nên Đất Nước.

142
Đề tuyển sinh:
B à i “Đất N ư ớ c” T rích trường ca “Mặt d ư ờn g khát vọng” củ a nhà thơ
Nguyễn K hoa Đ iềm có đoạn v iết:
“Đất là nơi an h đ ến trư ở n g
N ước là nơi em tắm
Đất N ước là nơi ch ú n g ta hò h ẹn
Đất N ước là nơi em đ á n h rơi ch iếc khăn trong nỗi n h ớ thầm
Đất N ước là nơi “con chim p h ư ợ n g hoàng bay về hòn núi b ạ c”
N ước là nơi “con cá n g ư ô ng m óng nước biển k h ơ i”
Thời gia n d ằ n g đ ẳ n g
K hông g ia n m ênh m ông
Dất N ước là nơi dâ n m ình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
N ước là nơi R ồn g ở
L ạ c L ong Quăn và Âu Cơ
Dẻ ra đ ồ n g bào ta trong bọc trứ n g
N h ữ n g ai đ ã khuất
N h ữ n g ai bây g iờ
Yêu n h au và sinh con đ ẻ cái
G ánh vác p h ầ n người đi trước đế lại
D ặn dò con ch á u chuyện mai sau
H ằ n g năm ăn đâ u làm đâu
C ủ ng biết cú i đầu n h ớ ngày giỗ Tổ...”
(trích “Đất N ư ớ c” - N guyễn K hoa Điềm)
Anh (chị) p h ân tích đoạn th ơ trê n để làm sáng tỏ hìn h ản h Đ ất
Nước qua sự cảm n h ận củ a tá c giả. ________________________

ịS Ĩ ững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng Đât Nước chúng ta là: “Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”.
2. Lời ca dao Huế có ghi: “Chim ham trái chín ăn xa. Giật mình nhớ gốc cây đa
lại về” (ca dao Huế).
3. Ca dao Việt Nam từng nói: “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn” (ca dao).
4. Có lời nhận định rằng: “Đất Nước không chỉ là cái hữu hình với đất đai, cột
mốc, biên giới đã chia mà có cả sự cảm thụ tâm hồn”.
5. Bài thơ “Nhớ con sông quê hương” cửa Tế Hanh có viết: “Hỡi con sông đã tắm
cả đời tôi. Tôi nhớ mãi mối tình mới mề”. (Nhớ con sông quê hương -
Tế Hanh).
143
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
Chúng ta vẫn thường nghe nói, Đất Nước ta là: “Rừng vàng, biển bạc, đất phì
nhiêu". Đó là gia tài của mẹ, một không gian quý báu bao la rộng lớn đem lại sự
giàu đẹp cho Đất Nước, niềm tự hào của dân tộc.
Hôm nay, chúng ta lại tìm về hình ảnh Đất Nước trích trường ca “Mặt đường
khát vọng” thuộc chương V của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác giả có một cảm
nhận mới, một cái nhìn mới về hình ảnh Đất Nước. Đất Nước là sự kết hợp yếu
tô' không gian với đất đai, lãnh thổ địa lí cùng yếu tô' thời gian với chiều dài lịch
sử, cội nguồn dân tộc được thế hiện qua doạn thơ sau:
...“Đất là nơi anh đết trường

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ...”


(trích "Dất Nước"- Nguyễn Khoa Điềm)
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Cảm n h ậ n về Đất N ước của tác g iả qua đoạn thơ trên, (cảm n h ậ n 2)
1. Đ ất Nước kết hỢp từ yếu tố không gian với d ất đai, địa lí, lãnh thổ:
а. H ình ả nh 1: Với nghệ thuật “chiết tự" đưa chúng ta hình dung hình ảnh
Đất Nước thế hiện với hai không gian riêng biệt, hai vùng trời thương nhớ gắn
chặt vào đời sông của con người. Nghĩ về “Đất" là nơi chôn nhau cắt rô'n, chứa
đựng bao dòng sữa ngọt ngào của mẹ, tiếng ru của bà, lời gọi của gió, tiếng vọng
của núi của sông cùng hòa quyện giữa lòng Đâ't Nước. Nghĩ về “Đất” chúng ta
liên tưởng ngày hai buổi đến trường, một thời cắp sách để tìm về chân trời kiến
thức, định hướng cho tương lai. Nghĩ về “Đất” chúng ta hình dung một cõi đi về,
là nơi trú ngụ cuô'i cùng của một đời người với “áo bào thay chiếu anh về đất”.
Nghĩ về “Nước” chúng ta nhớ lại cái giếng nước trước sân nhà, nơi sân đình, mái
trường, từng cho chúng ta bao dòng nước ngọt ngào, nuôi dưỡng tâm hồn ta và gọt
rửa tâm hồn ta thêm trong sáng dịu hiền. Nghĩ về “Nước” chúng ta lại nhớ bờ ao,
con rạch, dòng sông từng đem lại đời sống thiên nhiên tươi tô't, mang lại cuộc
sống ấm no hạnh phúc cho con người. Và nhớ về “Nước" chúng ta liên tưởng về
dòng sông, dòng sông tuổi thơ, dòng sông kí ức để lại trong chúng ta bao kỉ niệm
khó phai mờ và đưa ta tìm về hình ảnh: “Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi. Tôi nhớ
mãi mối tình mới mẻ”. Quả thật, hai tiếng “Đất và Nước" là biểu tượng của Đất
Nước của một dân tộc đã ăn sâu trong máu thịt của mỗi con người.
б. H ình ản h 2: Tiếng gọi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” đưa chúng ta hình
dung “Đất” là một không gian tươi xanh ươm mầm cho tình yêu tuổi trẻ. Chúng
ta còn nhớ lời thơ của Hàn Mạc Tử trong “Mùa xuân chín” có viết: “Thì thầm
với ai ngồi dưới trúc” gợi lại bao kỉ niệm đẹp của tình yêu đôi lứa để nhà thơ bật
thành tiếng gọi: “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
đưa chúng ta chợt nghĩ lời thì thầm của ca dao: “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi
144
xuống đất”. Quả thật, hình ảnh “Đất và Nước” để lại bao kỉ niệm đẹp về tình
yêu đôi lứa trong cuộc sông con người.
c. H ình ản h 3: Nghĩ về “Đất và Nước” chúng ta lại nghỉ một vùng trời cao
rộng, một không gian mênh mông, choáng ngợp chứa đựng muôn loài chim thú,
núi non hùng vĩ cùng bao danh lam thắng cảnh đem lại sự đa dạng phong phú
cho vẻ đẹp của Đất Nước. Tiếng gọi “Đất là nơi chim về" gợi trong lòng người
đọc hình dung lời ca dao Huê có nói: “Chim ham trái chín ăn xa. Giật mình nhớ
gốc cây đa lại về” chứng tỏ chim có tổ, có rừng, có núi thì con người cũng thế dù
đi đâu ở đâu ở phương trời nào, nghìn trùng xa cách nào, ai ai cũng nhớ về quê
cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn mà lời ca dao từng thầm thì: “Ta về ta tắm ao
ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
d. H ình ản h 4: Nghĩ về “Đất” về “Nước” nhà thơ đã bật thành tiếng gọi:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” đưa chúng ta hình dung Đất Nước chúng ta
có một địa lí, một lãnh thổ rộng lớn từ Ái Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, hình
cong chữ s ôm trọn cả ba miền Trung, Nam, Bắc với Huế, Sài Gòn, Hà Nội
xuyên suốt chiều dài của Đất Nước cùng năm mươi bô'n dân tộc anh em, Kinh,
Thượng một nhà, ngược xuôi một lòng đều hướng về một cội nguồn và cùng lớn
lên giữa lòng Đất Nước. Phải chăng, Đất Nước là biểu tượng của một dân tộc vì
Đất Nước là máu xương của mỗi con người.
2. Đ ất N ước k ế t hỢp từ yếu tô thời gian với ch iều dài lịch sử, cội
nguồn d ân tộ c:
а. H ình ản h 1: Đ ât N ước từ đ âu m à có?
Lời thơ tự sự: “Lạc Long Quân và Ảu Cơ đẻ ra đồng báo ta trong bọc trứng” gợi
cho chúng ta tìm về chiều dài lịch sử, cội nguồn dân tộc để mỗi chúng ta tự tìm
hiểu, đất nước từ đâu mà có? từ đâu mà hiện hữư cho đến ngày hôm nay? Phải
chăng, huyền thoại, truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ là cha là mẹ của dân
tộc Việt, chúng ta là con rồng cháu lạc và để hiểu rõ cây có cội, nước có nguồn thì
dân tộc ta, Đất Nước ta cũng phải có cội nguồn như thế để mỗi chúng ta có quyền
tự hào, ta là con cháu Rồng Tiên, con cháu Lạc Hồng càng tạo thêm cho chúng ta
niềm tin yêu, sức mạnh để củng cố, ra sức giữ ^ n , bảo vệ Đất Nước.
б. H ình ảnh 2: Đ ất N ước do ai g â y dựng?
Tiếng gọi: “Hằng năm ăn đâu làm đâu. Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Lời thơ đưa chúng ta tìm về chiều dài lịch sử, công lao xây dựng của ông cha ta
thuở trước. Hình ảnh “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” là biểu hiện tấm lòng biết ơn của
người sau, lớp con cháu của nhiều thế hệ sau, bày tỏ lòng ngưỡng mộ, cung kính
ngày giỗ Tổ là ngày 10-3 Âm lịch hằng năm, ngày giỗ của các vị vua Hùng, có
công xây dựng đắp bồi cho Đất Nước, để Đất Nước có ngày hôm nay là sự bày tỏ
của lớp sau biết “uống nước nhớ nguồn” biết “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là vẻ đẹp
của đạo lí, làm nên sự giàu đẹp cho Đất Nước, đúng như lời nói của Hồ Chủ tịch:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải ra sức giữ lấy nước”.

145
III. PHÂN K ẾT BÀI
1. v ề nghệ th u ật: Đoạn thơ giàu tính tự sự, giàu hình ảnh tiêu biểu, tượng
trưng, giàu chất suy tưởng kết hợp với biện pháp tu từ sâu sắc cùng ca dao Huế
mang sắc thái rất riêng.
2. v ề nội dung; Đoạn thơ khắc họa hình ảnh Đất Nước kết hợp từ yếu tô'
không gian với đất đai, địa lí, lãnh thổ cùng yếu tô' thời gian với chiều dài lịch
sử, cội nguồn dân tộc đã thấm sâu vào máu thịt của mỗi người con Đất Việt từ
bao đời. Quả thật: “..Đất Nước là máu xương của mình. Phải biết gắn bó và san
sẻ. Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Làm nên Đất Nước muôn đời...” là
nhiệm vụ của mỗi chúng ta hôm nay.

Đê tuyển sinh:
Anh (chị) phân tích đoạn thơ sau trong bài “Đ ấ t N ư ớ c” trích
trường ca “M ặt đ ư ờ n g k h á t v ọ n g ” củ a nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
để làm sáng tỏ hình ảnh “Đ ấ t N ước c ủ a n h â n d â n ” qua cảm nhận
củ a chính tá c giả.
“N h ữ n g n gư ời vỢ n h ớ c h ồ n g c ò n g ó p c h o Đ ấ t N ước
n h ữ n g n ú i V ọn g P h u
C ặ p vỢ c h ồ n g y êu n h a u g ó p n ên h ò n T rố n g M ái
G ót n g ự a c ủ a T h á n h G ió n g đ i q u a cò n tr ă m a o đ ầ m đ ế lạ i
C h ín m ư ơi c h ín co n v oi g ó p m ìn h d ự n g đ ấ t T ổ H ù n g V ương

Ôi n h ữ n g d ò n g s ô n g b ắ t n ư ớc từ d â u
M à k h i về Đ ấ t N ư ớc m ìn h t h ì b ắ t lê n c â u h á t
N gư ời đ ế n h á t k h i c h è o đ ò , k é o th u y ền vượt t h á c
G ợi tr ă m m à u tr ên tr ă m d á n g sô n g x u ô i”.
(trích “Đ ấ t N ư ớ c” - Nguyễn Khoa Điềm)

ÌHỈững kiến thức cầ n nắm :


1. Văn hào Nga M.Gorki có nói: “Con người, vinh quang thay, cao đẹp thay vì
hai tiếng ấy đã làm nên lịch sử”. (M.Gorki)
2. Nhà cách mạng Phan Bội Châu có nói: “Dân là Dân Nước, Nước là Nước Dân”
(Phan Bội Châu).
3. Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi có ghi; “Nhân dân bốn cõi là nhà. Dựng
cần trúc ngọn cờ phấp phới”. (Nguyễn Trãi)
4. Triết gia Enghel có nói; “Không có máu và nước mát của các dân tộc thi
không thể nào làm nên lịch sủ”. (Enghel)

146
5. Nhà thơ Thanh Thảo từng ca ngợi về nhân dân; “Và cứ thế nhân dân cao
vòi vọi. Hơn cả những vi sao, cô độc giữa trời”. (Thanh Thảo)
6. Có nhận định rằng; “Đất Nước không chỉ tượng trưng cho những bậc vua
chúa, danh nhăn mà Đất Nước còn tượng trưng những đám dân nghèo không
tên không tuổi”.
7. Có nhận định rằng; “Anh hùng, danh nhân, vua chúa, triều dại đến lúc phải
kết thúc. Nhưng hai tiếng nhân dân vẫn mãi mãi trường tồn”.
8. Nhà thơ Trần Vàng Sao từng bày tỏ tấm lòng của mình với Đất Nước: “Tôi yêu
Đất Nước này chân thật. Như căn nhà nhỏ có mẹ của tôi”. (Trần Vàng Sao)
9. Những dẫn chứng về lịch sử để thấy rõ yếu tố nhân dân đã làm nên Đất Nước:
a. Phong trào Lam Sơn của Lê Lợi làm nên “Bình Ngô Đại Cáo”.
b. Phong trào Tây Sơn của Nguyễn Huệ làm nên chiến thắng Đông Đa.
c. Cuộc kháng chiến chông Pháp của nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ. (07-05-1945)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Con người, vinh quang thay, cao đẹp thay vi hai tiếng ấy đã làm nên lịch sử”
(M.Gorki)
Lời nhận định của văn hào Nga M.Gorki, chứng tỏ yếu tô" con người xuất phát
từ nhân dân là yếu tô" quan trọng, quyết định hình thành lịch sử, đất nước. Ý
nghĩa cao đẹp â"y, chúng ta nhớ lại phần cuô'i bài Đất Nước (Trích trường ca
“Mặt đường khát vọng”) của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng mang một ý nghĩa
như thế. Với nhà thơ: “Đất Nước của nhân dân” từ nhân dân mà hình thành từ
nhân dân mà làm nên Đâ"t Nước, được thể hiện qua đoạn thơ sau:
“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu.
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
(trích “Dất Nướd' - Nguyễn Khoa Điềm)

II. PHẦN TRỌNG TÂM


C ảm n h ậ n về Đ ấ t N ước q u a đ o ạ n t h ơ trên , (c ả m n h ậ n 3)
* Đất Nước hóa th ân từ nhân dân, từ những con người bình dị.
H ìn h ả n h 1: Đ ât nước hóa th ân từ nhân dân.
Ngược về chiều dài của Đâ"t Nước với bao danh lam thắng cảnh, kì tích như
núi Vọng Phu, hòn Trông Mái, núi Bút, non Nghiên... sừng sững giữa lòng Đất

147
Nước tô đậm sự giàu đẹp cho Đất Nước. Tất cả đều xuâ't phát từ nhân dân từ
những con người bằng xương bằng thịt bằng vẻ đẹp tâm hồn, họ đã hóa thân
thành vẻ đẹp cho Đất Nước. Hình ảnh núi Vọng Phu đưa chúng ta liên tưởng
những người vỢ, khi chồng ra đi chinh chiến, họ nhớ thương, chờ đợi mỏi mòn
rồi lâu ngày ôm con hóa đá. Hình ảnh hòn Trông Mái ở sầm Sơn tượng trưng
cho lòng thủy chung, tình nghĩa vỢ chồng, phu thê quyết trọn đời sông chết bên
nhau và hình ảnh núi Bút, non Nghiên ở vùng đất Quảng Ngãi tượng trưng
những học trò nghèo đô't lá thay đèn, dùi mài sử sách làm rạng danh cho Đất
Nước là những người con hiếu học. Tất cả những hình ảnh đều xuất phát từ con
người, hóa thân từ con người từ nhân dân làm nên vẻ đẹp cho Đất Nước. Quả
thật: “Ôi, Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã
hóa núi sông ta..”.
H ìn h ả n h 2: Đất nước từ những con người bình dị.
Với tiếng gọi: “Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen,
bà Điểm, ...” Hàng loạt tên gọi “ô n g Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Họ là
những người dân lành, chân chất nhưng có tấm lòng tự nguyện, biết vun xới,
đắp bồi cho quê hương, làng mạc thêm tươi đẹp bằng cả công sức, tài lực và họ
mong sao cho quê hương thêm trù phú, ấm no, hạnh phúc là niềm vui, mong ước
của chính họ. Để nhớ về họ, lớp sau, người sau lại lấy tên của “họ” đặt cho tên
đường, tên cầu, tên núi, tên chợ ... như cầu ông Đô'c, ông Trang, núi Bà Đen, chợ
Bà Điểm ... Quả thật: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một
dáng hììih, một ao ước, một lối sổng ông cha”. Ngày nay giữa lòng thành phố
của chúng ta, có chợ Bà Hoa tại ngã tư Bảy Hiền, có những con đường Nguyễn
Văn Trỗi, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, ... ngôi chợ ấy, những con đường
ấy đã khắc tên của “họ” như bày tỏ lòng biết ơn của người sau đôi với người
trước vì “họ” từng góp sức xây dựng cho quê hương, ra sức bảo vệ cho Đâ't Nước
và tên của “họ” vẫn sôhg giữa lòng Đất Nước. “Đất Nước của nhân dân”.
H ìn h ả n h 3: Đ ất Nước với bao lớp người đi trước tron g x â y dựng và
bảo vệ.
Với tiếng gọi; “Em ơi em. Hãy nhìn rất xa. Vào bốn nghìn năm Đất Nước.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp. Con gái con trai bằng tuổi chúng ta”.
Hàng loạt hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng, nhịp thơ dồn dập, kết hợp những vần
thơ tự sự gợi cho chúng ta hình dung về chiều dài lịch sử của Đất Nước bắt
nguồn từ nhân dân từ bao thế hệ đi trước. Họ là ông cha ta, là các tiên linh xưa,
lúc yên bình, họ cần cù làm lụng “toan lo nghèo khó” bên mảnh ruộng thửa
vườn, bờ ao con rạch làm cho cuộc sông trù phú, tươi đẹp, ấm no. Nhưng: “Khi có
giặc người con trai ra trận. Người con gái trở về nuôi cái cùng con. Ngày giặc
đến nhà thì đàn bà củng đánh. Nhiều người dã trở thành anh hùng”. (Trích -
Đất Nước). Hàng loạt hình ảnh liệt kê dồn dập, diễn đạt tự nhiên đưa chúng ta
tìm lại hình ảnh của ông cha ta ngày xưa. Họ đã đem vật lực, tài lực, tâm lực

148
cùng xương máu đế xây dựng và bảo vệ cho Đất Nước này. Họ là ai? Họ chính là
nhân dân, những con người bình thường giữa cuộc sống để làm nên những điều
phi thường, hình thành Đâ't Nước, đúng như lời nhận định của triết gia Enghel:
“Không có máu và nước mắt của các dân tộc thì không thể nào làm nên lịch sử”.
Phải chàng, các dân tộc ở đây chính là tiếng gọi “Họ”, “Họ đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Để làm sáng tỏ hình ánh Đất Nước, lịch sử của một dân tộc oai hùng đều phải
xuất phát từ nhân dân, đưa chúng ta nhớ lại phong trào Lam Sơn của Lê Lợi,
nhân dân ta cùng nằm gai nếm mật, chịu bao nhiêu gian khổ, suô't mười năm
chống quân Minh, và nhân dân ta “biết trồng tre đợi ngày thành gậy”. “Đi trả
thù mà không sợ dài lâu” cuối cùng đã làm nên “Bình Ngô Đại Cáo”. Quả thật:
“Nhân dân bôn cõi là nhà. Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”. Nhớ về phong
trào Tây Sơn của Nguyễn Huệ, làm sao ta quên được hình ảnh người nông dân
áo vải chân đất dưới ngọn cờ đào cùng hội tụ, kết hợp làm nên chiến thắng
Đông Đa, chiến thắng lẫy lững của lịch sử, là niềm tự hào của dân tộc. Và cuộc
kháng chiến chông Pháp kéo dài suô't mười làm năm với bao gian khổ, hi sinh
mất mác nhưng thật hào hùng của quân và dân ta với hình ảnh; “Quân đi điệp
điệp trùng trùng” cùng “Dân công đỏ đuốc từng đoàn” đã làm nên chiến thắng
Điện Biên chấn động địa cầu. Quả thật, có Dân mới có Nước từ nhân dân mà
hình thành Đất Nước. “Đất Nước của nhân dân”.
H ình ản h 4: Đất N ước từ những con ngưòí sáng tạo ra giá trị vật chât và giá
trị tinh thần.
Hàng loạt những vần thơ tự sự: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Họ
chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con củi. Họ truyền giọng điệu mình
cho con tập nói. Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân. Họ đắp
đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái. Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm.
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Hàng loạt tiếng gọi “Họ” là đại từ nhân xưng
được láy lại nhiều lần, cho chúng ta hình dung, tiếng gọi “Họ” là hình ảnh con
người, hình ảnh của nhân dân của mọi thành phần trong xã hội, họ đã làm chủ
hoàn cảnh, chinh phục thiên nhiên, sáng tạo ra những giá trị vật chất lẫn giá
trị tinh thần. Hàng loạt những động từ mạnh gợi hình như “giữ”, “truyền”,
“chuyền”, “gánh”, “đắp”, “be”... là thể hiện hình ảnh của con người, họ đã sáng
tạo ra hạt lúa, hòn than, con cúi đem lại mạch sông, hơi thở, cuộc sông cho
chúng ta đến ngày hôm nay. Và họ để lại tiếng nói, giọng điệu từ đời này sang
đời khác thành thứ ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ cho thế hệ mai sau. Càng đẹp hơn,
khi: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù, thì vùng lên đánh bại”. Họ
là những người bằng xương bằng thịt là ông cha ta ngày trước là nhân dân tiêp
tục kế thừa từ đời này sang đời khác trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Quả
thật: “Đất Nước của nhân dân”. Vì nhân dân hình thành Đất Nước. Đúng như
lời nhận định của văn hào Nga M.Gorki: “Con người, vinh quang thay, cao đẹp
thay vì hai tiếng ấy đã làm nên lịch sử”.
149
N hấn m ạ n h: Nếu ai, dù là “anh hùng, danh nhân, Vua chúa, triều dại” rồi
theo bước đi của thời gian đến lúc phải chấm dứt, kết thúc nhưng hai tiếng
“Nhân Dân” vẫn mãi mãi trường tồn bất diệt như lời tỏ bày của nhà thơ Thanh
Thảo: “Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi. Hơn cả những vi sao cô độc giữa trời”.
(Thanh Thảo)

III. PHẦN K ẾT BÀI


1. v ề nghệ thuật: Đoạn thơ giàu tính tự sự, kết hợp những hình ảnh tiêu biểu
chọn lọc nhịp thơ dồn dập, mượn quá khứ để nói về hiện tại, đặc biệt với điệp từ,
đại nhân xưng “Họ” ...
2. v ề nội dung; Nhà thơ khắc họa hình tượng Đất Nước thật giàu đẹp, đa
dạng, phong phú, hóa thân từ nhân dân từ những con người bình dị cùng với bao
thế hệ từ đời này sang đời khác, cùng sáng tạo giá trị vật chất, giá trị tinh thần, tô
đậm sự giàu đẹp cho Đất Nước. Quả thật, Đất Nước xuất phát từ nhân dân từ nhân
dân mà hình thành từ nhân dân làm nên Đất Nước. “Đất Nước của nhăn dân”, ôi!
“Nhân dân" cao đẹp thay! Vì hai tiếng “Nhăn dân” đã làm nên Đất Nước.

Đề tuyển sinh:
Cảm nhận về hình ảnh Đất Nước trong hồn thơ “Đất N ước”. Trích
trường ca “Mặt đường khát vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

ÌS Ỉ ững kiến thức cầ n nắm :


1. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết: “Súng nổ rung trời giận dữ. Người lên như
nước vỡ bờ. Nước Việt Nam từ máu lửa. Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, (trích
Đâ't Nước - Nguyễn Đình Thi)
2. Hồ Chủ Tịch có nói: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải
ra sức giữ lấy nước”. (Hồ Chí Minh)
3. Nhà thơ Tô' Hữu có viết: “Lẽ nào vay không trả. sống là cho đâu nhận chỉ
riêng mình”. (Tô' Hữu)
4. Có ý kiến rằng: “Đất nước không chỉ là cái hữu hình với đất đai, cột mốc,
ranh giới, đã chia mà có cả sự cảm thụ tâm hồn”. (Thanh Thảo)
5. Có ý kiến rằng: “Đất nước không chỉ là lâu đài nguy nga tráng lệ, núi non
hùng vĩ, mà Đất Nước là những con người bình dị, chân chất giữa cuộc sống
đời thường”.
6. Nhà thơ Trần Vàng Sao nghĩ về Đất Nước có viết: “Tôi yêu Đất Nước này
chân thật. Như cân nhà nhỏ có mẹ của tôi”. (Trần Vàng Sao)
7. Nhà thơ Thanh Thảo nghĩ về nhân dân có viết: “Vò cứ thế nhân dân cao vòi
vọi. Hơn cả những vì sao cô độc giữa trời”. (Thanh Thảo)

150
8. Trong “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi có ghi: “Nhân dân bốn cõi là
nhà. Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”. (Nguyễn Trãi)
9. Nhà cách mạng yêu nước Phan Bội Châu nghĩ về dân về nước có nhận định:
“Dân là Dân Nước. Nước là Nước Dân”. (Phan Bội Châu)
10. Ván hào nga M.Gorki có nhận định: “Con người, vinh quang thay, cao đẹp
thay vì hai tiếng ấy đã làm nên lịch sử”. (M.Gorki)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”
(trích "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh Đất Nước trong hồn thơ của Nguyễn Đình Thi là sức mạnh của một
dân tộc đã làm nên chiến thắng, làm nên lịch sử giành lại tự do độc lập cho Đất
Nước. Hôm nay chúng ta lại tìm về hồn thơ Đất Nước, trích Trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là đưa chúng ta tìm về cội nguồn về lịch sử, về
sự giàu đẹp của Đất Nước. Với nhà thơ, Đất Nước là di sản tinh thần vàn hóa, giá
trị vật chất, ý niệm không gian và thời gian cùng chiều dài lịch sử và Đất Nước
này là “Đất Nước của nhân dân” của ca dao, thần thoại. Chúng ta hãy tìm lại vẻ
dẹp của Đất Nước qua sự cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

11. PHẦN TRỌNG TÂM


1. Đât nước k ết hỢp những giá trị vật ch ất và tinh thần.
Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước là di sản tinh thần văn hóa quý báu: “Đất
Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Lạ nhỉ! “Miếng trầu” là một hình
ảnh nhỏ bé rất quen thuộc giữa cuộc sống đời thường lại là hình ảnh của Đất
Nước ư! Chúng ta làm sao quên được lời người xưa từng nói: “Miếng trầu là đầu
câu chuyện”. Phải chăng, miếng trầu tượng trưng cho lễ hội, hôn nhân, cúng giỗ,
giao tiếp trong cuộc sôhg hằng ngày, đã ăn sâu vào đời sông của người dân Việt,
hình thành nét văn hóa Việt là vẻ đẹp của Đất Nước. Và: “Đất nước lớn lên khi
dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, Tre là hình ảnh quen thuộc, gần gũi từ
bao đời của người dân quê ta. Nhớ về “Tre” đưa ta tìm về truyền thuyết Thánh
Gióng ngày xưa. nhố tre đánh tan quân giặc Ân, là thể hiện tinh thần quật khởi
của dàn tộc ta trước ngoại xâm. Tre còn “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở
cho làng" ôm ấp thôn làng, tạo nên cái hồn quê hương, cái hồn dân tộc. Tre còn
là môi trường sinh thái là vũ khí thô sơ để chống giặc, giết giặc trong hai cuộc
kháng chiến vừa qua. Không dừng lại ở đó, Đất Nước còn là hình ảnh: “Tóc mẹ
thì bới sau đầu. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Hình ảnh búi

151
tóc là phong tục của người Âu Lạc cho đến hôm nay vẫn còn ăn sâu trong tâm
hồn người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam, làm nên nét duyên dáng Việt
Nam, nét đẹp văn hóa Việt Nam mãi mãi là vẻ đẹp của Đất Nước. Và hình ảnh:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” lời thơ như lời tự sự, mang âm
hưởng ca dao với lời thì thầm: “Tay bưng chén muối đĩa gừng. Gừng cay muối
mặn xin đừng quên nhau” là thể hiện tấm lòng thủy chung trong tình nghĩa vỢ
chồng, phu thê là nét đẹp đạo lí là vẻ đẹp của Đất Nước. Đất Nước còn thể hiện
những hình ảnh rất cụ thể: “Cái kèo, cái cột thành tên. Hạt gạo phải một nắng
hai sương, xay, giã, giần, sàng. Đất Nước có từ ngày đó...”. Hình ảnh cái kèo, cái
cột đưa chúng ta liên tưởng đó là điểm tựa, chổ đứng của một mái nhà, của một
gia đình vì có an cư mới lạc nghiệp mới tạo sự gắn bó để cùng bảo vệ, gìn giữ
cho sự phát triển Đất Nước. Và hình ảnh hạt gạo là cái hồn quê hương, cái hồn
của dân tộc là mạch sống là hơi thở giúp chúng ta lớn lên và trưởng thành theo
chiều dài cùng Đất Nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quôh.

2. Đât Nước k ết hỢp yếu tô" không gian và thời gian.


Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về Đất Nước còn mang một hình ảnh khác
rộng lớn hơn đó là đất đai, lãnh thổ, địa lí là một không gian bao la chứa đựng
muôn loài chim thú, núi sông hùng vĩ, ôm trọn cả ba miền Trung, Nam, Bắc -
Huế; Sài Gòn; Hà Nội mãi mãi là vẻ đẹp của Đất Nước. Nhà thơ tiếp tục tìm lại
hình ảnh Đất Nước với ý niệm thời gian để chúng ta liên tưởng về cội nguồn, về
lịch sử dân tộc để tự hào chúng ta là con Rồng cháu Lạc với tiếng gọi: “Lạc Long
Quân và Ầu Cơ. Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”. Lời thơ như đưa chúng ta
tìm về truyền thuyết, huyền thoại “Lạc Long Quân và Ảu Cờ” tạo cho chúng ta
một niềm tin giúp chúng ta hiểu rõ, chúng ta từ đâu mà có. Và chúng ta tự hỏi
rằng, Đất Nước này do ai gây dựng? Câu hỏi, đưa ta tìm về chiều dài lịch sử để
thấy được công lao của tổ tiên, của các tiên linh xưa là những vị vua Hùng đã có
công rất lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước như lời tự sự đậm màu sắc
sử thi: “Hằng năm ăn đâu làm đâu. Cũng biết cuối dầu nhớ ngày giỗ tổ” là ngày
10-3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ tổ Hùng Vương, các con cháu hội tụ về các
đền Hùng như bày tỏ tâ"m lòng ngưỡng mộ biết ơn sâu sắc của người sau, lớp sau
đối với người trước với tổ tiên là thể hiện vẻ đẹp đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn”.
Đúng như lời bày tỏ của Hồ Chủ tịch: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác
cháu ta phải ra sức giữ lấy nước.”
3 . Đất N ư ớc hình thành từ nhân dân
Viết về Đất Nước, nhà thơ nêu bật hình tượng Đất Nước là những hình ảnh
quen thuộc, gần gũi giữa lòng quê hương, dân tộc đó là hình bóng con người.
Chính con người đã làm nên huyền thoại, truyền thuyết, tạo nên vẻ đẹp cho quê
hương như núi Vọng Phu, hòn Trông Mái, núi Bút non Nghiên là vẻ đẹp của Đất
Nước từ bao đời nay. Tất cả hình ảnh ấy xuất phát từ con người từ nhân dân mà
hóa thân làm nên vẻ đẹp cho Đất Nước. Và: “Những người dân nào đã góp tên

152
ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm... ô i Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu
ta cũng thấy. Những cuộc dời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Hàng
loạt những tên gọi ông Đô'c, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm là những con người
bình thường..., họ đang sông giữa cuộc sôhg đời thường nhưng họ đã góp phần
làm đẹp cho quê hương và khi họ trở về với ẩất, người sau nhớ về họ, lấy tên họ
đặt thành tên cầu, tên đường, tên chợ, tên núi, tên sông làm nên vẻ đẹp cho Đất
Nước là biết “Uống nước nhớ nguồn” là thể hiện nét đẹp đạo lí. Nhà thơ tiếp tục
khơi dậy hình ảnh Đất Nước xuất phát từ con người từ bao lớp trước qua nhiều
thê hệ, họ đã xây dựng bảo vệ Đất Nước với lời gọi: “Em ơi em, Hãy nhìn rất xa.
Vào bốn nghìn năm Đất Nước. Năm tháng nào cũng người người lớp lớp. Con
gái con trai bằng tuổi chúng ta”. Hàng loạt hình ảnh cụ thể, tiêu biểu thông qua
những lời thơ tự sự như đưa chúng ta tìm thấy công lao xây dựng đắp bồi của
ông cha ta ngày trước đế làm đẹp cho Đất Nước thật tự hào. Và khi Đất Nước
yên bình, “họ cần cù làm lụng”, “cui cút làm ăn”;” toan lo nghèo khó” ra sức bồi
đắp, dựng xây cho quê hương, làng mạc đem lại sự tươi đẹp, yên bình cho Đất
Nước. Và: “Khi có giặc người con trai ra trận. Người con gái trở về nuôi cái cùng
con. Ngày giặc đến nhà thì đàn bà củng đánh. Nhiều người đã trở thành anh
hùng”. Hàng loạt hình ảnh được minh họa qua lời thơ trên, Nguyễn Khoa Điềm
đưa chúng ta nhìn rõ hình ảnh Đất Nước vẫn là con người với bao thế hệ lớp
trước, họ luôn luôn phát huy truyền thông yêu nước của ông cha ta trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Dù: “Họ đã sống và chết. Giản dị và bình
tầm. Không ai nhớ mặt dặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Với đại từ nhân
xưng “Họ” là biểu tượng cho bao lớp người đi trước, họ chính là ông cha của
chúng ta là tố tiên của ta và cũng chính là nhân dân hình thành nên Đất Nước.
Quả thật, “Đất Nước không chỉ tượng trưng cho những bậc vua chúa danh nhân
mà Đất Nước còn tượng trưng cho bao lớp người không tên không tuổi”. Phải
chăng, Đất Nước không chỉ là lâu đài nguy nga tráng lệ, núi non hùng vĩ mà
Đất Nước còn là những con người bình dị chân chất giữa cuộc sôhg đời thường.
Nhà thơ tiếp tục khắc họa vẻ đẹp con người từ nhân dân hình thành nên Đât
Nước. Với nhà thơ, yếu tô" con người là yếu tô" quyết định trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Đâ"t Nước. Nếu không có con người thì không có nhân dân,
không có chiến thắng Bạch Đằng, Đông Đa, Điện Biên và chiến dịch Hồ Chí
Minh đại thắng vào mùa xuân nàm 1975. Như vậy con người mới sáng tạo ra
lịch sử, sáng tạo ra những giá trị vật châ't lẫn tinh thần tô đậm cho sự giàu đẹp
của Đất Nước được thế với những vần thơ tiêu biểu: “Họ giữ và truyền cho ta hạt
lúa ta trồng. Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi. Họ truyền
giọng điệu minh cho con tập nói. Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi
chuyến di dân..”, vẫn là tiếng gọi “Họ” là hình bóng con người là nhân dân đã
sáng tạo ra những giá trị vật chất hữu hình cùng những giá trị tinh thần vô
hình, nuôi dưỡng tâm hồn người dân Việt, dân tộc Việt lớn dần theo chiều dài
cùng Đất Nước. Tiếng gọi “Họ”, thật đẹp quá, thật vẻ vang quá, và còn biết bao

153
hình ảnh đã đi vào lịch sử làm nên những trang sử vàng từ hai tiếng nhân dân
đã làm nên Đất Nước. Đúng như lời nhận định của văn hào Nga M. Gorki: “Con
người, vinh quang thay, cao đẹp thay ui hai tiếng ẩy đã làm nên lịch sử”.

III. PHẦN K ẾT THÚC


“Đất Nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là
một bài thơ trữ tình chính luận. Hàng loạt những hình ảnh cụ thể, tiêu biểu,
sinh động, giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng vừa hiện thực vừa lâng mạn,
đưa chúng ta tìm về cội nguồn, tìm về chiều dài lịch sử, giúp cho chúng ta có
nhận thức đúng về hình ảnh Đât Nước. Đất Nước là sự kết hợp những giá trị vật
chất hữu hình cùng những giá trị tinh thần vô hình, Đất Nước là ý niệm về
không gian về thời gian về đất đại lãnh thố về chiều dài lịch sử, cội nguồn dân
tộc và hình ảnh Đâ't Nước là của nhân dân của ca dao thần thoại. Như vậy, Đất
Nước là máu thịt của mỗi con người. Chúng ta phải làm gì để giữ gìn, bảo vệ Đất
Nước? “Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Và:
“Chúng ta đừng hồi rằng, Đất Nước phải làm gì cho chúng ta mà chúng ta phải
tự hỏi rằng, chúng ta phải làm gì cho Đất Nước?”

SÓNG
Xuân Quỳnh

Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tá c, ý nghĩa nội dung và chủ dề bài
thơ “S ó n g ” củ a nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “S ón g ” qua bài thơ cùng tên của nữ sĩ
Xuân Quỳnh.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Hoàn cảnh sáng tá c, ý nghĩa nội dung và chủ đề bài thơ “S ó n g ”
của nữ sĩ Xuân Quỳnh,
1. Hoàn cảnh sáng tá c:
- Xuân Qu5mh xuất thân từ diễn viên múa nhưng chị cũng sáng tác thơ, ca ngợi
quê hương, đất nước con người đặc biệt viết về thơ tình, tình yêu của em, tình yêu
trong tâm hồn người phụ nữ như “Thuyền và Biển”; “Nói cùng anh”; “Thư tình cuối
mùn thu” ...
- Tháng 12-1967, nhân chuyến đi công tác tại bãi biển Diêm Điền, nhà thơ nhìn
con sóng nước dạt dào khơi gợi trong lòng chị con sóng tình được thi vỊ hóa như một
nhân vật trữ tình, tình yêu của em, tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Trước
nguồn cảm hứng ấy, chị đã viết lên bài “Sóng” gồm chín khổ thơ, thể thơ ngũ ngôn.
Bài “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” xuất bản năm 1968.
154
2. Ý n g h ĩ a n ộ i d u n g :
Ý l: Thế hiện trạng thái của Sóng, hàm ẩn nói về trạng thái trong tình yêu
của em. (Dữ dội và dịu êm. ôn ào và lặng lẽ)
Ý2: Nêu lên cội nguồn của Sóng, hàm ẩn nói về cội nguồn trong tình yêu của
em. (Sóng bắt đầu từ gió ... Khi nào ta yêu nhau).
Ý3: Thế’ hiện nổi nhớ của Sóng, hàm ẩn nói về nỗi nhớ trong tình yêu của
em. (Ôi con sóng nhớ bờ ... Cả trong mơ còn thức).
Ý4: Thế hiện lòng thủy chung trong tình yêu của em. (Dẫu xuôi về phương
Bắc ... Hướng về anh một phương).
Ý5: Thế hiện nghị lực của Sóng lại liên tưởng về nghị lực trong tình yêu của
em. (ơ ngoài kia đại dương... Dù muôn vời cách trở).
Ý6: ước vọng một tình yêu vĩnh hằng. (Cuộc đời tuy dài thế... Đế ngàn năm
còn vỗ).
C hủ d ề : Bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh sáng tác khi Đê quôc Mỹ mở rộng leo
thang chiến tranh tại Việt Nam, Nhà thơ muôn viết về tình yêu của em, tình
yêu trong tâm hồn người phụ nữ phải “ỉàni sao được tan ra” là phải biết đem
tình riêng hòa nhập vào tình chung thì tình yêu ấy mới vĩnh hằng bất tử.
Câu 2: Giải thích tựa đề “S ó n g ”.
Nữ sĩ Xuân Quỳnh đứng trước bãi biến Diêm Điền. Chị nhìn con sóng nước
nhấp nhô, tung tăn khơi dậy trong lòng nhà thơ nguồn cảm xúc, nhằm bày tỏ
nỗi lòng khi đã yêu đó là tình yêu của em. Tại sao Xuân Quỳnh lại mượn hình
tượng sóng để nói về tình yêu của em? chúng ta vẫn còn nhớ lời ca dao thầm thì:
“Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy nhiêu”. Hình ảnh sóng trong ca dao tượng
trưng cho nỗi lòng của em, tình yêu thương của người con gái với bao nhớ nhung,
tha thiêt, mong đợi về tình yêu của chính mình. Với Xuân Quỳnh, sóng được thi
vị hóa như một nhân vật trữ tình, hình ảnh của em, tình yêu của em, cũng có
nhiều trạng thái, cung bậc như trạng thái của sóng vậy. Sóng có lúc dữ dội ồn
ào, có khi dịu êm lặng lẽ thì trong tình yêu của em cũng có lúc mãnh liệt cháy
bỏng nhớ nhung tha thiết, có lúc lại ngoảnh mặt làm ngơ giận hờn, trách móc.
Với Xuân Quỳnh, hình ảnh sóng là em và bờ chính là anh. Xuất phát từ những
suy nghĩ ấy, chị đã mượn hình tượng “Sóng” để nói về tình yêu của em.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bài thơ “S ó n g ” trích trong Tập
“H o a d ọ c c h iế n h à o ” của nữ sĩ Xuân Quỳnh để làm sáng tỏ về
quan niệm tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ.

ÍSỈững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Ca dao Việt Nam từng thầm thì: “Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy
nhiêu”. (Ca dao)

155
2. Nỗi nhớ trong ca dao xưa: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi. Như đứng đống lửa, như
ngồi đống rơm” hay “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ. Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai”.
(Ca dao)
3. Lbi ngạn ngữ phuhng Tầy có nói: “Vắng anh là vắng tất cả”. (Ngạn ngữ phương Tầy)
4. Xuân Quỳnh tìíng viết về nỗi nhớ: “Những ngày không gặp nhau. Biển bạc đầu
thương nhớ. Những ngày không gặp nhau. Lòng thuyền đau rạn vơ”. {“Thuyền và
Biển” - Xuân Quỳnh)
5. Tha thiết hơn, cháy bỏng hơn về nỗi nhớ. Xuân Quỳnh đã thôT lên: “Nếu phải
cách xa anh. Em chỉ còn bão tổ”. (“Thuyền và Biển” - Xuân Quỳnh)
6. Nỗi nhớ của Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh. Anh
nhớ em, anh nhớ lắm em ơi” hay “Hôm nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm. Anh
nhớ em, em hỡi anh nhớ em”. (“Tương tư chiều” - Xuân Diệu)
7. Nỗi nhớ của thi nhân Hàn Mặc Tử: “Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa
hồn tôi bỗng dại khờ”. (Hàn Mặc Tử)
8. Nỗi nhớ trong bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính: “Gió mưa là bệnh của
giời. Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng". (“Tương Tứ” - Nguyễn Bính)
9. Ca dao Việt Nam từng ca ngợi về lòng thủy chung qua hình ảnh ẩn dụ;
“Thuyền về có nhớ bến chăng. Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” hay
“Anh ơi! Chua ngọt đã từng. Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. (Ca dao)
10. Thi hào Nga (Ximônốp) trong bài thơ “Đợi anh về” có viết: “Dù gió mưa dầm dề.
Ngày có dài lê thê. Anh ơi, em vẫn đợi. Anh ơi, em vẫn chd’. (Ximônốp)
11. Lời ca dao từng nói về sức mạnh trong tình yêu sẽ vượt qua tất cả: “Yêu
nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua”.
(Ca dao)
12. Bài thơ “Thương thầm” của nữ sĩ Phan Thị Thanh Nhàn từng bày tỏ: “Hương
bưởi thơm nói hộ tình yêu”. (“Thương Thầm” —Phan Thị Thanh Nhàn)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy nhiêu”
(Ca dao)
Ngày xưa hình ảnh của “Sóng” được thi vị hóa, hình tượng hóa như nỗi lòng
của người con gái với niềm nhớ mong tha thiết khi đã yêu, và hết lòng cho tình
yêu ấy. Đứng trước bãi biển Diêm Điền, nữ sĩ Xuân Quỳnh nhìn con sóng nước,
nhấp nhô, tung tăn, chị lại liên tưởng con sóng tình dạt dào trong tâm hồn
người phụ nữ khi đã yêu. Trước giây phút ấy, Xuân Quỳnh viết lên bài thơ
“Sóng”, trích trong tập “Hoa dọc chiến hào” xuất bản năm 1968. Qua hồn thơ
“Sóng”, chúng ta cần đi sâu để làm sáng tỏ quan niệm về tình yêu trong tâm
hồn người phụ nữ.

15 6
II. PHÂN TRỌNG TÂM
Q uan n iệm v ề tìn h y êu tr o n g tă m h ồ n n gư ời p h ụ n ữ q u a b à i t h ơ “S ó n g ”.
1. Tình yêu m ang vẻ đẹp tru yền thống.
a. T ìn h y êu h iệ n h ìn h n ỗ i n h ở :
Nói về tình yêu là vâ'n đề muôn thuở của con người qua mọi thời đại, luôn
luôn diễn biến theo nhịp đập của trái tim dù thời nào, xưa hay nay vẫn thế. Nói
đến tình yêu hiện hình nỗi nhớ là quy luật tình cảm của con người khi đã yêu.
Lời ca dao từng thầm thì: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi. Như đứng đống lửa như ngồi
đống rơm" hay: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ. Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Nỗi
nhớ ấy nữ sĩ Xuân Quỳnh tiếp tục kế thừa để nói về nỗi nhớ trong tình yêu của
em qua hồn thơ “Sóng”. Lời thì thầm: “ôi con sóng nhớ bờ. Ngày đêm không
ngủ được. Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã mượn
nỗi nhớ về “Bờ”, “Sóng nhớ Bờ”. Phải chăng, “Bờ” là anh mà “Sóng” là em, một
nỗi nhớ da diết của một tình yêu thiên nhiên thấm đẫm. Vậy nỗi nhớ trong tình
yêu của em thì sao? Với thể thơ năm chữ, nhịp nhàng, êm đềm, giàu sức biểu
cảm cùng với tiếng gọi: “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức” như lời tự
sự, bày tỏ nỗi lòng về tình yêu của em, khi đã yêu hết lòng cho tình yêu ấy, cho
nỗi nhớ ây. Nỗi nhớ không chỉ là ngày và đêm, chiếm cả không gian và thời
gian mà trong cả giấc ngủ, em vẫn mơ, vẫn tỉnh thức nhớ về anh. Phải chăng,
anh là tất cả, “Vắng anh như vắng tất cả” ở trong em. Nỗi nhớ ấy sâu đậm,
nồng nàn không định hình, định lượng, định vị là thước đo giá trị tình yêu,
thấm định tình yêu của em mà có lần Xuân Quỳnh đã tự bạch về nỗi nhớ ấy với
tiếng gọi: “Nếu phải cách xa anh. Em chỉ còn bão tổ”. Như vậy, nỗi nhớ trong
tình yêu của em qua hồn thơ “Sóng” là sự kế thừa từ nỗi nhớ trong ca dao về
tình yêu xưa và nay cũng mang một nỗi nhớ như thế, mãi mãi là vẻ đẹp truyền
thông trong tình yêu của em, tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ.
M ở r ộ n g : Nói về nỗi nhớ trong tình yêu, tình yêu của em là nỗi nhớ không
thể nhìn thấy bằng giác quan mà chỉ cảm nhận nỗi nhớ ấy bằng trái tim bằng
cả tâm hồn vì nỗi nhớ là vô hình, sâu thẳm, diệu vỢi, mông lung và ngay cả
trong tình yêu của anh, tình yêu trong tâm hồn người con trai cũng thế. Ta hãy
tìm về nổi nhớ của các thi nhân khi nói về tình yêu cũng hiện hình nỗi nhớ. Với
Xuân Diệu từng nói: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh. Anh nhớ em,
anh nhớ lắm em ơi” hay “Hôm nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm. Anh nhớ em, em
hỡi, anh nhớ em!”, với Nguyễn Bính lại viết: “Gió mưa là bệnh của giời. Tương
tư là bệnh của tôi yêu nàng.”, với Hàn Mặc Tử đã thốt lên: “Người đi một nửa
hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” và ngay trong ca dao xưa cũng từng
thầm thì với tiếng gọi: “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều. Nhớ người yêm thẩm
dãi điểu thắt lưng”. Quả thật, tình yêu hiện hình nỗi nhớ là quy luật tình cảm
thiêng liêng nhất của con người khi đã yêu dù thời đại nào cũng thế.

157
6. Tình yêu th ể h iện lò n g th ủ y chung:
Lời ca dao từng nói: ""Thuyền về có nhớ bến chăng. Bến thì một dạ khăng
khăng đợi thuyền” và lời người xưa từng nói: "‘Anh ơi, chua ngọt đã từng. Gừng
cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Tất cả là những lời dặn dò về lòng thủy
chung trong tình nghĩa vỢ chồng trong tình yêu đôi lứa là nét đẹp đạo lí truyền
thông nhằm xây dựng nền tảng hạnh phúc gia đình, phát triển xã hội tô't đẹp.
Với Xuân Quỳnh, chị tiếp tục thề hiện vẻ đẹp ấy trong tình yêu của em qua lời
bày tỏ; ""Dầu xuôi về phương Bắc. Dẫu ngược về phương Nam. Nơi nào em cũng
nghi. Hướng về anh một phương”, vẫn nhịp thơ năm chữ đều đặn, lời thơ khẳng
định dứt khoát kết hợp những điệp ngữ "'Dẫu xuôi về” “Dầu ngược về” láy lại ở
đầu câu là lời bày tỏ chân thành dù cho không gian xa cách, thời gian biến đổi
nhưng tình yêu của em chỉ hướng về anh, anh là đôi tượng duy nhất khắc ghi
trong em. Tiếng gọi “Nơi nào” ở đầu câu, càng thấy rõ dù ở đâu, phương trời nào,
góc bế nào dù cho cuộc đời nhiều phương, nhiều hướng nhưng tình yêu của em,
tấm lòng em, chỉ có một phương thôi đó là phương anh, anh là duy nhất, anh là
tất cả là bệ phóng là điểm tựa chỗ dựa tinh thần vững chắc gìn giữ, bảo vệ tình
yêu của em, tình yêu của chúng ta. Lời bày tỏ của nữ sĩ Xuân Quỳnh thể hiện
tâ'm lòng người phụ nữ đang yêu hết lòng cho tình yêu ấy. Dù xa mặt nhưng
không cách lòng mãi mãi là vẻ đẹp về quan niệm tình yêu trong tâm hồn của
người phụ nữ.
L iên h ệ: Nghĩ về lòng thủy chung của người phụ nữ Việt Nam là vẻ đẹp của
mọi thời đại, mang tính toàn cầu mà nhà thơ Ximônốp (Nga) trong bài “Đợi anh
về” cũng nói lên lòng chung thủy của người phụ nữ Nga, vẫn một lòng chờ đợi
anh khi chiến thắng trở về với lời thơ giàu sức biểu cảm: “Dù gió mưa dầm dề.
Ngày có dài lê thê. Anh ơi, em vẫn đợi. Anh ơi, em vẫn chờ”. (“Đợi Anh về" -
Ximỗnốp).
c. Tình yêu th ể h iện một n gh ị lực:
Khám phá vẻ đẹp tình yêu trong hồn thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh tiếp tục mượn
hình tượng của “Sóng” để nói về nghị lực trong tình yêu của em qua lời thơ: “ớ
ngoài kicGdại dương. Trăm nghìn con sóng đó. Con nào chẳng tới bờ. Dù muôn
vời cách trở”. Với nhịp thơ đều đặn, trầm bồng kết hợp hình ảnh ẩn dụ nói lên
vẻ đẹp của sóng dù không gian nghìn trùng xa cách, có lúc phong ba bão táp,
cách trở đôi nơi nhưng sóng vẫn vượt qua mọi sự khắc nghiệt của tạo hóa để tìm
đến bờ, yêu thương bờ, là thế hiện nghị lực của sóng, ơ đây không chỉ một con
sóng mà hàng trăm, hàng nghìn con sóng khác cũng đều mang đặc tính, phẩm
chất như thế, Khi sóng tìm đến bờ, Xuân Quỳnh muôn nói là em muôn tìm đến
anh, hướng về anh dù em đang đôl mặt bao rào cản của gia đình, định kiến xã
hội nhưng không vì thế mà em buông xuôi phó mặc đế tình yêu tan vỡ. Với
Xuân Quỳnh: “dù muôn vời cách trơ”, người phụ nữ phải bình tĩnh, lập trường
vững chắc, với một niềm tin đế vượt lên sự nghiệt ngã dù: “Đường di khó, không

158
khó vì ngăn sông cách núi” mà quan trọng phải có sức mạnh của tinh thần,
của ý chí để vượt qua tìm đến bến bờ hạnh phúc đó là nghị lực sông, sức sông
bền vững trong tâm hồn người phụ nữ vì: “ở đời này, không có con đường
cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu phải có sức mạnh đ ể hước qua
những ranh giới ẩy”.
2. T ình yêu m ang vẻ đẹp h iệ n đại:
a. ư ớc vọng một tình yêu vĩnh hằng.
Quan niệm tình yêu ở phần cuôl bài thơ “Sóng” mang một cái nhìn hoàn toàn
mới, hiện đại so với quan niệm của người phụ nữ xưa về tình yêu. Với Xuân
Quỳnh, ước vọng của nhà thơ về tình yêu của em, tình yêu của chúng ta, làm sao
bất tử vĩnh hằng. Đây là ước vọng chính đáng của người phụ nữ trước xu thế
phát triển của thời đại. Với lời tỏ bày: “Làm sao được tan ra. Thành trăm con
sóng nhỏ. Giữa biển lớn tinh yêu. Để ngàn năm còn vỗ”. Tiếng gọi: “Làm sao
được tan ra”, một hình ảnh hàm ẩn ý nghĩa thật đẹp về tình yêu. Với Xuân
Quỳnh, tình yêu của em chỉ là tình yêu cá nhân, vị kỉ, chật hẹp, tầm thường, tình
yêu ấy chỉ phù hợp với lôl sống ngày xưa đô'i với người phụ nữ. Nhưng thời đại
hôm nay, hình ảnh người phụ nữ cũng phải biết vươn xa, vươn cao, hướng về
một tình yêu vị tha, tình yêu cho một cuộc sông rộng lớn hơn, nhân bản hơn,
chính là lúc phải biết hòa nhập: “Làm sao được tan ra”, “Giữa biển lớn tình
yêu”, giữa biển lớn cuộc đời. Phải biết kết nôl thành tình yêu cộng đồng, tình
yêu nhân dân, tình yêu quê hương Đất nước. Phải biết: “Cầm tay mọi người”. Để:
“Đất Nước vẹn tròn to lớn” là đem tình riêng hòa nhập với tình chung, hình
thành một tình yêu rộng lớn đó là tình yêu quê hương, đất nước là tình yêu vĩnh
hằng bâ't tử với năm tháng.
b. N h ấ n m ạ n h: Ta nên hiểu rằng dù là anh hùng, danh nhân, vua chúa hay
triều đại đến một lúc nào đó cũng phải kết thúc. Nhưng tiếng gọi “Nhăn dân”,
“Quê hương”, “Đất nước”, mãi mãi là tiếng gọi bất tử trường tồn. Đây là một
quan niệm mới, hoàn toàn đúng đắn làm nên sức sông giá trị cho bài thơ “Sóng”
gần nửa thế kỉ qua.

III. PHẢN K Ế T THÚC


1. Về nghệ th u ậ t: “Sóng" là bài thơ tình đặc sắc trong thơ ca hiện đại Việt
Nam. Với thể thơ năm chữ, nhịp thơ có lúc êm đềm, dồn dập, giàu tính tự sự,
giàu sức biểu cảm, kết hợp với những biện pháp nhân hóa, ẩn dụ đặc sắc....
2. Về nội dung: “Sóng” đã khắc họa một hình tượng đẹp về quan niệm tình
yêu, tình yêu của em, tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ vừa hòa quyện giữa
vẻ đẹp truyền thông và hiện đại giữa tình riêng và tình chung mãi mãi là nét
đẹp của tình yêu ngát hương, vĩnh hằng.

159
Đế tuyển sinh: Q ua h ai khổ cu ô l tro n g b ài th ơ “S ó n g ” c ủ a n ữ sĩ X u ân
Q uỳnh có đ o ạn v iết:
“Cuộc đời tuy dài thê
Năm th án g vẫn đi qua
N h ư biển kia dẫu rộ n g
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


T hà n h trăm con sóng nhỏ
G iữa biển lớn tình yêu
D ể n gà n năm còn vỗ”.
(tríc h “S ó n g ” - X u â n Q uỳnh)
A nh (ch ị) p h â n tíc h h ai khổ th ơ tr ê n đ ể làm sá n g tỏ ư ớc vọng
m ột tìn h y êu n g á t hương, vĩnh h ằn g tro n g tâ m h ồn người p hụ nữ.

IBÍững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Ông hoàng của thơ tình Việt Nam - Xuân Diệu từng bày tỏ: “Yêu là chết
trong lòng một ít”. (Xuân Diệu)
2. Xuân Quỳnh từng bày tỏ về tình yêu chỉ là hữu hạn: “Em đâu dám nghĩ
tinh yêu là vĩnh viễn. Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”. (Nói cùng anh -
Xuân Quỳnh)
3. Quan niệm về cuộc đời trong triết lí nhà Phật có nói: “Cuộc đời là vô thường”',
“Cuộc đời là quá trình Sinh, Lão, Bệnh, Tử". (Quan niệm Phật giáo)
4. Quan niệm về một đời người của Thiên chúa giáo: “Con người từ cát bụi rồi
trở về với cát bụi. Nấm mồ là nơi trú ngụ cuối cùng của một đời người”.
(Quan niệm Thiên Chúa giáo)
5. Nguyễn Khoa Điềm từng nói về sự hòa hỢp giữa tình riêng và tình chung:
“Khi hai đứa cầm tay. Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm. Khi
chúng ta cầm tay mọi người. Đất Nước vẹn tròn to lớn”. {“Đất Nước” —
Nguyễn Khoa Điềm)
6. Quan niệm về cuộc đời trong thơ xưa. Cao Bá Quát có nói: “Ba vạn sáu nghìn
ngày là mấy". Ý nói, một trăm năm đôl với con người cũng chẳng là bao, hay
“Xử thế nhược đại mộng”. Ý nói, cuộc đời như giấc mộng lớn.
7. Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói về hạnh phúc riêng; “Hạnh phúc dựng trong
một tà áo đẹp. Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”. (“Người đi tìm hình
của Nước” - Chế Lan Viên”.

160
8. Bài thơ “Theo chân Bác” của Tô" Hữu có viết: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. {“Theo chân Bác” - Tô' Hữu)
9. Ca dao Việt Nam có nói: “Thân em như tấm lụa đào. Phất phơ giữa chợ biết
vào tay ai”. (Ca dao)
10. Thi hào Nguyễn Du từng nói lên sô' phận đau thương của người phụ nữ xưa:
“Đau đớn thay phận đàn bà. Lời ràng bạc mệnh cũng là lời chung”. (Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
Lưu ý: Cần phải xác định rõ bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh sáng tác vào
thời điểm nào thì việc phân tích về ước vọng một tình yêu vĩnh hằng, tình yêu
ngát hương trong tâm hồn người phụ nữ mới chính xác. Bài thơ “Sóng” ra đời
khi Đê' quô'c Mỹ mở rộng, leo thang chiến tranh tại Việt Nam.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
“Yêu là chết trong lòng một ít”
(Xuân Diệu)
Xuân Diệu, Ông hoàng của thơ tình Việt Nam từng bày tỏ: “Yêu là chết trong
lòng một ít”. Lời tự sự của Xuân Diệu biểu hiện quan niệm về tình yêu nhuôm
màu đau thương bi quan, bế tắc trước cuộc đời. Với nữ sĩ Xuân Quỳnh lại có một
quan niệm mới về tình yêu, tình yêu là sự sông là khát vọng, ước vọng một tình
yêu vĩnh hằng ngát hương được thể hiện qua hai đoạn thơ cuô'i trong bài thơ
“Sóng" của nữ sĩ;
“Cuộc dời tuy dài thế ... Để ngàn năm còn vỗ”.
(trích "Sóng” - Xuân Quỳnh).
11. PHẦN TRỌNG TÂM
ư ớc vọng một tình yêu vĩnh h ằ n g tro n g tâm hồn người p h ụ nữ.
1. P h â n tích khổ đầu: Q uan niệm về cu ộc đời cùng sự v ậ t là hữu hạn.
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biền kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa. ”
(trích "Sóng' - Xuân Quỳnh)
Quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh, ngoài vẻ đẹp truyền thông là nỗi
nhớ, lòng thủy chung và nghị lực. Xuân Quỳnh, nữ sĩ còn có một ước vọng thật
đẹp về tình yêu của em, tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ làm sao bất tử
vĩnh hằng. Chị đã bày tỏ: “Cuộc đời tuy dài thế. Năm tháng vẫn đi qua. Như
biển kia dẫu rộng. Mây vẫn bay về xa”, vẫn thể thơ năm chữ, nhịp thơ đều đặn,
ví von, kết hợp biện pháp ẩn dụ nhằm nói về một đời người, về một sự vật qua
đó nhà thơ muôn bày tỏ ước vọng tình yêu, một tình yêu vĩnh hằng. Tiếng gọi:

161
“Cuộc đời” là nói về một đời người, cho dù cuộc đời có đến trăm năm cũng là dài,
nhưng khi đôi diện với năm tháng, thời gian thì cuộc đời con người ngắn lại,
hẹp lại chỉ là sự hữu hạn vì mỗi mùa xuân đi qua lại thêm một tuổi, con người sẽ
già đi như quan niệm của Phật giáo: “Cuộc đời là vô thường”, cuộc đời là một
quá trình “Sinh, Lão, Bệnh, T ử ' và quan niệm Nho giáo đã nói; “Ba vạn sáu
nghìn ngày là mấy” hay “Xử thế nhược đại mộng”, ý nói một trăm năm của một
đời người cũng chẳng là bao và cuộc đời như giấc mộng lớn. Quan niệm Thiên
chúa giáo cũng nói: “Con người từ cát bụi rồi trở về với cát bụi, nấm mồ là nơi
trú ngụ cuối cùng của một đời người”. Những quan niệm trên, chứng tỏ một đời
người, cuôl cùng là sự kết thúc, đi đến cái chết rồi sẽ đi vào lãng quên thì tình
yêu cũng đâu còn nữa đúng như lời bày tỏ của Xuân Quỳnh: “Em đâu dám nghĩ
tình yêu là vĩnh viễn. Hôm nay yêu mai có thể xa rồi” {"Nói Cùng Anh" - Xuân
Quỳnh). Tiếp đến Xuân Quỳnh lại nói về sự vật cũng chỉ là hữu hạn trước không
gian bao la của vũ trụ vô cùng dù cho biển có rộng, mênh mông, sâu thẳm, đại
dương có bao la nghìn trùng nhưng cuôl cùng mây cũng bay qua, vượt xa, vượt
lên sự giới hạn ấy. Chứng tỏ, cuộc đời và sự vật đều hữu hạn trước thời gian và
không gian dù cho biển có rộng thế nào, sông có sâu thế nào nhưng theo bước đi
của thời gian, không gian, biển và sông cũng chỉ là giới hạn. Như vậy cuộc đời
người cùng sự vật chỉ là sự hữu hạn mà thôi.

2. P h â n tíc h k h ổ cu ô l: ư ớ c vọng m ộ t tìn h y êu vĩnh h ằn g


“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đế ngàn năm còn vỗ”.
(trích “Sóng” - Xuân Quỳnh)
Nhà thơ Xuân Quỳnh lo sợ về tình yêu của em rồi cũng sẽ mất, sẽ đi vào lãng
quên cùng năm tháng giữa cuộc đời. Nhà thơ lại bày tỏ một ước vọng thật chính
đáng, mới mẻ đó là lẽ sôhg đẹp về quan niệm tình yêu trong tâm hồn người phụ
nữ của thời đại hôm nay. Với tiếng gọi: “Làm sao được tan ra. Thành trăm con
sóng nhỏ”. Những vần thơ hàm ẩn một ý nghĩa thật đẹp, nói về ước vọng tình
yêu của em, tình yêu muôn thuở. Xuân Quỳnh vẫn mượn hình tượng của sóng
nhằm ví von con sóng vỗ muôn đời trước không gian bao la, thời gian bất tận
thì con sóng ấy không giữ nguyên thể trạng của nó mà phải biết “phân thăn”,
thành những con sóng nhỏ li ti khác, hòa vào lòng đại dương, hòa vào biển lớn,
lúc ấy sóng mãi mãi vỗ bất tận muôn đời. Như vậy, ước vọng một tình yêu vĩnh
hằng từ trong trái tim em cũng thế! Tình yêu của em chỉ là tình yêu cá nhân, vị
kỉ, hạn hẹp, chật chội giữa cuộc sông đời thường. Với hỉ, nộ, ái, ố trong cái vòng
lẩn quẩn vị kỉ của tình yêu. Muốh tình yêu ấy vĩnh hằng, tình yêu ấy ngát
hương thì tình yêu của em không chỉ: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo dẹp” và

162
“Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” mà phải biết: “Làm sao được tan ra”.
Chỉ một lời thơ ngắn gọn, khẳng định, dứt khoát nhưng nói lên một lẻ sông đẹp,
một quan niệm về tình yêu thật đẹp vì: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
là lúc tình yêu của em phải biết hòa nhập, phải biết tan ra cùng với tình yêu cộng
đồng, tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân đất nước. Với hai tiếng “tan ra” mang
một ý nghĩa thật đẹp, “tan ra” có nghĩa là dấn thân nhập cuộc, hòa vào lòng biển
lớn, biển lớn của cuộc đời, biển lớn của tình yêu, tình yêu nhân dân, đất nước thì
tình yêu của em mới là tình yêu bất tử vĩnh hằng. Đây là một ý niệm thật đẹp, mới
mẻ về quan niệm tình yêu của người phụ nữ trong hồn thơ “Sóng”.
Mở rộ n g: Bài thơ “Sóng” sáng tác vào năm 1967, đây là thời kì Đế quôc Mỹ
mở rộng leo thang chiến tranh tại Việt Nam, gây bao cảnh đau thương cho quê
hương đất nước. Trước hoàn cảnh ây, vai trò của người phụ nữ không còn sông
như thời đại phong kiến là “trọng nam khmh nữ”, xem thân phận người phụ nữ
rẻ rúng, bọt bèo như lời ca dao từng bày tỏ: “Thân em như tấm lụa đào. Phất
phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Và đại thi hào Nguyễn Du cũng từng xót xa cho sô"
phận người phụ nữ xưa với tiếng lòng thi nhân: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Hình ảnh, vai trò người phụ nữ của thời đại
trước cũng chỉ biết nội trợ, vun xén cho gia đình, cho yên bề gia thất, chỉ biết lo
cho chồng con, cho giang sơn nhà chồng với bổn phận “tề gia nội trợ” và hình
ảnh người phụ nữ ví von như hình ảnh: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” trong
thơ Trần Tế Xương hay trong thơ Nguyễn Công Trứ cũng nói lên như thế với
hình ảnh: “Thân cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Với
thời đại hôm nay, vai trò của người phụ nữ có một tầm quan trọng xứng đáng,
bình đẳng như nam giới trong xây dựng và bảo vệ tổ quô"c. Hiện nay trước hoàn
cảnh đau thương của đất nước, trước sự tàn phá của chiến tranh do đế quôc Mỹ
gây ra thì vai trò người phụ nữ phải biết: “Làm sao được tan ra” để cùng nắm
tay mọi người, nôi vòng tay lớn, hình thành tình yêu đồng bào, tình yêu quê
hương, nhân dân đâ"t nước. Và tình yêu của em phải hướng về phía trước, nhận
thức rõ trách nhiệm của chính mình cần phải làm gì cho đất nước lúc ấy. Ý
nghĩa lời bày tỏ; “Làm sao dược tan ra” của Xuân Quỳnh, chính là lúc tình yêu
của em từ nhận thức phải biến thành hành động là: “Phải biết gắn bó và san sẻ.
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”\hình thành “những cuộc chia ly màu
đỏ" từ sân ga, sân trường ... sắn sàng bước vào cuộc chiến đấu, chính là lúc, tình
yêu của em hòa cùng tình yêu cộng dồng, tình yêu quê hương, tổ quôc để “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Thực hiện được điều
ấy bằng hành động cụ thể, quyết tâm của chính mình và biết quên mình thì
tình yêu của em là vĩnh hằng, bất tử. Đây là lẽ sông đẹp về quan niệm tình yêu,
tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ qua bài thơ “Sóng” mãi mãi là sức sông,
giá trị cho thi phẩm.

163
III. PHÂN K Ẽ T THÚC
1. v ề nghệ th u ậ t: Với thể thơ năm chữ (ngũ ngôn) giàu tính tự sự, giàu sức
biểu cảm, giàu tính triết lí, giàu chất suy tưởng, kết hợp những biện pháp tu từ
đặc sắc (nhân hóa, ẩn dụ, ...).
2. v ề nội dung: Đoạn thơ thể hiện ước vọng một tình yêu thật đẹp, thật mới
mẻ trong tâm hồn người phụ nữ khi đã yêu. Ngoài tình yêu riêng, mang vẻ đẹp
truyền thông lại thêm một ước vọng, một tình yêu bất tử, vĩnh hằng là lẽ sông
đẹp, vẻ đẹp của tình yêu chung trong tâm hồn người phụ nữ. Phải chàng, tình
yêu là sự kết hợp giữa cái riêng và cái chung giữa bản thân và cộng đồng, quê
hương và đất nước mãi mãi là tình yêu bất tử vĩnh hằng.

T IẾ N G H Á T C O N T À U
CHẾ LAN VIÊN

Để tuyển sinh:
C âu 1: G iải th íc h ý n g h ĩa tự a đề b ài th ơ “T iến g hát con tà u ” c ủ a
n h à th ơ C hê L a n V iên.
C âu 2: T rìn h b à y n ội d u n g b ài th ơ “T iến g hát con tà u ” c ủ a n h à th ơ
C hê L a n V iên.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Ý n g h ĩa tự a dề b ài th ơ “T iến g hát con tà u ” c ủ a n h à th ơ
C h ế L a n V iên.
Chiến thắng Điện Biên Phủ (07-05-1954) miền Bắc hoàn toàn giải phóng, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước bước vào một bước ngoặt mới trong xây dựng và
phát triển.
Năm 1960-1965, miền Bắc thực hiện kế hoạch năm nàm lần thứ nhất, nhăm
xây dựng và phát triển kinh tế, vàn hóa xã hội. Chủ trương của Đảng và Nhà
nước hình thành một phong trào rộng lớn nhằm động viên, kêu gọi tuổi trẻ lên
đường, đi đến mọi miền xa xôi của tổ quôh, về lại chiến trường xưa là về lại Tây
Bắc để: “Bàn tay ta làm nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” ra sức
xây dựng Tây Bắc và ước mơ biến Tây Bắc thành “Hòn ngọc ngày mai của Tổ
quốc”. Nhà thơ Chế Lan Viên với bao nghĩa tình đối với vùng đất và đồng bào
Tây Bắc của một thời kháng chiến vẫn còn đó. Trước giây phút sung sướng để
được trở về, được nhìn thấy Tây Bắc hồi sinh, Tây Bắc sẽ thay da đổi thịt và
nguồn cảm hứng của nhà thơ khơi dậy, ông đã viết lên bài thơ “Tiếng hát con
tàu” vào thời gian này. Bài thơ in trong tập thơ “Ảnh sáng và phù sa” của chính
tác giả. Vậy, tựa đề “Tiếng hát con tàu” có ý nghĩa gì? Hình ảnh con tàu trong

164
bài thơ hàm ẩn, biểu tượng cho những cuộc lên đường đi đến những vùng đất xa xôi
của Tổ quốc, ra sức xây dựng, hàn gắn vết thương của chiến tranh, làm cho nơi đâu
“ữấí cũng nở hoa, trời mỗi ngày lại sáng”. Nhà thơ viết tựa đề ''Tiếng hát con tàu”
là nói lên niềm khao khát đi tới vùng đất Tây Bắc, vùng đất anh hùng của năm nào
để tuổi trẻ, sức trẻ ra sức xây dựng và phát triển cho Tây Bắc đẹp giàu, đó là ý
nghĩa, tựa đề bềd thơ “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế Lan Viên.
Câu 2: Nội d u n g b ài th ơ “T iến g hát con tàu” củ a n h à th ơ C h ế L a n V iên,
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” thể hiện một hình tượng đẹp khi con tàu cất lên
tiếng hát. Một hình ảnh nhân hóa kết hợp biện pháp ẩn dụ, cho chúng ta liên
tưởng, hình dung con tàu đang đưa những đoàn người trai trẻ đầy tâm huyết,
đầy sức sông lên đường, đến những vùng trời xa xôi của Tổ quô"c với: “Bàn tay ta
làm nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” nhằm xây dựng phát triển
đất nước, làm cho mọi vùng đất, sẽ đâm hoa kết trái, bầu trời của Tổ quốc mỗi
ngày một sáng lạn. Những đoàn người đang lên đường đi xây dựng kiến thiết
quê hương, chứng tỏ, họ đã nhận thức trách nhiện công dân của chính mình đôl
với đất nước. Họ đã vượt ra cuộc đời hạn hẹp, quẩn quanh để đến với cuộc sông
mới, cuộc sốhg rộng lớn, ở đây là cuộc sông của nhân dân, vì: “Đất nước mênh
mông, đời anh nhỏ hẹp”, đất nước đang cần những bàn tay, những khối óc đầy
nhiệt huyết, sẵn sàng đem sức trẻ, xây dựng, kiến thiết, phát triển cho đất nước
đẹp giàu. Vì “Đất nước là máu xương của mình. Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải
biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Làm nên Đất Nước muôn đời”. (Nguyễn
Khoa Điềm). Thực hiện được điều ấy, là thể hiện lòng yêu nước, thước đo lòng
yêu nước. Quả thật, con tàu đến với Tây Bắc là trở về với cội nguồn, trở về với
nhân dân, hiện hình cho hạnh phúc, và đến với Tây Bắc là cũng trở về với bản
làng, góc núi, trở về chiến trường năm xưa nơi: “Xứ thiêng liêng rừng núi đã
anh hùng. Nơi máu rõ, tâm hồn ta thấm đất” là được trở về, gặp lại những con
người năm xưa, con người đầy nghĩa tình, sâu nặng và dũng cảm trong cuộc sông
và chiến đấu vì họ đã từng: “Thương nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm sẻ nửa, chăn
sui đắp cùng” và họ đã từng: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Họ là
những anh du kích, thằng em liên lạc, bà Mế “Lửa hồng soi tóc bạc” từng nuôi
giấu cán bộ mà: “Trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Phổi chăng, được trở về Tây
Bắc là trở về với mái nhà xưa, trở về với nhân dân “N hư nai về suối cũ” “Như
đứa trễ thơ đói lòng gặp sữa” như “Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. Và
khi con tàu đã câ't lên tiếng hát cũng chính là tiếng lòng của mỗi người trong
chúng ta đang sông giữa lòng đâ't nước, đã nhận thức trách nhiệm công dân của
chính mình là khi Tổ quốc cần, khi non sông réo gọi, tuổi trẻ phải lên đường
xây dựng, kiến thiết cho quê hương đâ't nước, là nhiệm vụ cao quý của mỗi con
người. Như vậy, khi Tố quô"c réo gọi cũng chính là lúc trong lòng của tuổi trẻ réo
gọi, tự nguyện lên đường, bỏ lại sau lưng bao kỉ niệm đẹp của cuộc đời hữu hạn,
nhỏ bé tầm thường đế bước vào cuộc đời rộng lớn hơn, mênh mông hơn, là được

165
đến những vùng trời xa xôi của Tổ quô'c, đang cần bàn tay, khôi óc của tuổi trẻ
để kiến thiết, xây dựng cho đất nước đẹp giàu là nhiệm vụ cao quý của mỗi
người con đang sông giữa lòng đâl nước. Như vậy, Đất nước, Tổ quôc réo gọi
cũng là sự réo gọi từ lòng ta, tâm hồn ta, trái tim ta. Tất cả, họ đang chờ đón
ngày ta trở về. ớ đây với bao con người thân thương trong kháng chiến ngày
nào, họ là Mẹ, là Mế, bà Mẹ nuôi quân, là người anh du kích, là thằng em liên
lạc, là cô em gái Tây Bắc với: “Vdt xôi nuôi quân, em giấu giữa rừng”. Tất cả
đều đang mong đợi với: “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ” và khát vọng
đi tới cứ thúc giục trong lòng ta cũng chính là sự thúc giục trong lòng của tác
giả, qua lời thơ:
“Tàu hãy vỗ giùm ta, đôi cánh vội
Mắt ta thèm, mái ngói đỏ trăm ga”
(trích "Tiếng hát con tàu" - Chế Lan Viên).
Phải chăng, đến với Tây Bắc là được trở về với cội nguồn, về với nhân dân về
với đạo lí là tìm về với chính mình, khẳng định mình để cuộc sống có ý nghĩa
như lời nói của cố tông thông Hoa Kì - John. Kennedy: “Các bạn đừng hỏi rằng,
Tổ quốc phải làm gì cho các bạn mà các bạn phải tự hỏi rằng, các bạn đã làm gì
cho Tổ quốc hay chưa?'. Quả thật, lời nói, của cô" tông thông Hoa Kì - John
Kennedy cũng là ý nghĩa nội dung bài thơ “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế
Lan Viên.

Đề tuyên sinh: Anh (chị) phân tích khổ thơ Đề từ tron g bài thơ
“T iến g hát con tà u ” củ a nhà thơ C hế Lan Viên để tìm thấy tâm tư
của tá c giả trư ơc hoàn cảnh đổi mới củ a Đ ất nước.
“Tây B ắ c ư? Có riê n g g ì Tây B ắc
Khi lòng ta đ ã hóa n h ữ n g con tàu
Khỉ T ổ quốc bôn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, c h ứ còn đ â u ”.
(Trích “T iến g hát con tà u ” - Chê L an Viên)

iS Ỉ ững kiến thức c ầ n nắm :


1. Lời “Đề T ừ ' trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận có viết: “Bâng khuâng
trời rộng nhớ sông dài”. (Huy Cận)
2. Lời “Đề Từ” trong bài thơ “Đàn ghita của Lor-ca”, nhà thơ Thanh Thảo có
viết: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. (Thanh Thảo)
3. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “Tâm hồn tôi khỉ Tổ quốc soi vào. Thấy ngàn
núi trăm sông diễm lệ”. (Chim lượn trăm vòng - Chế Lan Viên)
4. Nhà thơ Tô" Hữu có viết: “Lẽ nào vay mà không trả. Sống là cho đâu chỉ nhận
riêng mình.” (Tô" Hũfu)
166
5. Nữ sĩ Xuân Quỳnh có viết: “Làm sao được tan ra. Thành trăm con sóng nhỏ.
Giữa biển lớn tình yêu. Để ngàn năm còn vố”. (Sóng —Xuân Quỳnh)
6. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Khi hai đứa cầm tay. Đất Nước trong
chúng ta hài hòa, nồng thắm. Khi chúng ta cầm tay mọi người. Đất Nước vẹn
tròn to lớn” (Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
7. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “ô i tổ quốc, ta yêu như máu thịt. Như mẹ cha
ta như vợ như chồng, ôi, Tổ quốc nếu cần ta chết. Cho mỗi ngôi nhà, ngọn
núi, con sông”. (Sao chiến thắng —Chế Lan Viên)
8. Nhà thơ Tô" Hữu có viết: “Đảng cho ta sáng mắt, sáng lòng”. (Tô" Hữu)
9. Có ý kiến rằng: ““Lời Đề Từ” trong bài “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế
Lan Viên như “một tuyên ngôn nghệ thuật” của chính tác giả”.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
(Trích “Tràng Giang’ - Huy Cận)
Lời Đề Từ trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là nỗi niềm, tâm tư của
thi nhân trước trời rộng sông dài và lời Đề Từ trong bài thơ “Đàn ghita của Lor-
ca” qua ngòi bút Thanh Thảo có ghi: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là
niềm khát vọng chính đáng của Lor-ca trước giờ phút cuô"i cùng. Phải chăng, mỗi
lời Đề Từ trong mỗi bài thơ là tâm trạng, nỗi niềm, ước vọng của người thi sĩ,
hay nhân vật trữ tình trong tác phẩm đưa chúng ta nhớ đến bài thơ “Tiếng hát
con tàu” của Chê" Lan Viên với khổ thơ Đề Từ có viết:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.
(Trích “Tiếng hát con tàư' - Chế Lan Viên)
Chúng ta cần phân tích khổ thơ trên để tìm thấy tâm tư, ước vọng của người
thi sĩ trước hoàn cảnh đổi mới của Đất nước.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
N hà thơ tìm thấy h ư ờ n g đi đ ú n g đắ n đ ể k h ẳ n g đ ịn h ch ín h m ình.
“Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chê" Lan Viên đã cất lên tiếng hát.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bác
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.
(Trích “Tiếng hát con tàư’ - Chế Lan Viên)

167
Những vần thơ giàu ngôn ngữ hình tượng, giàu sức biểu cảm kết hợp những
lời hỏi toát lên ước vọng của thi nhân khi giao cảm với cuộc đời, cuộc đời rộng
lớn, cuộc đời của nhân dân của Tổ quôh trên con đường xây dựng và phát triển
Đất nước. Nhà thơ nghĩ về Tây Bắc, hướng về Tây Bắc là tìm về vùng đất thiêng
liêng của Tổ quôh, tìm lại; “Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng. Nơi máu rỏ
tâm hồn ta thấm đất” nơi chiến trường xưa từng chôn bao xác quân thù cướp
nước (Pháp) trên vùng đất thiêng liêng này. Tây Bắc là biểu tượng cho hồn quê
hương đâ't nước, là niềm tự hào dân dân tộc trong những năm kháng chiến đã
làm nên chiến thắng Điện Biên. Tây Bắc ơi! một thời bom đạn với bao đau
thương mâ’t mát lẫn tự hào và cũng nơi này, nhà thơ đã từng gắn bó, yêu thương
cuộc sông của người dân bản Tây Bắc với bao hình ảnh đâu dễ nào quên với lời
thơ: “Con nhớ em con thằng em liên lạc” “Con nhó anh con người anh du kích”,
“Con nhớ Mế lửa hồng soi tóc bạc” và con nhớ người em gái Tây Bắc với: “Vắt
xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”.
Tây Bắc, hiện nay trên đường xây dựng và phát triển nhằm hàn gắn vết
thương của chiến tranh, hậu quả của cuộc chiến tranh do thực dân Pháp đế lại,
làm sao cho Tây Bắc thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu là nhiệm vụ của mỗi
chúng ta, là bày tỗ tấm lòng đền ơn đáp nghĩa: “Uống nước nhớ nguồn”. Nhưng
không chỉ riêng gì Tầy Bắc, dành riêng cho Tây Bắc mà ở đâu, vùng đất nào
trên khắp mọi miền của Tổ quô'c còn nghèo nàn lạc hậu, ở đó cũng là Tây Bắc,
là hình ảnh của Tố quốc của Đất nước, ta cần ra sức xây dựng và phát triển
bằng lời bày tỏ rất chân tình thắm thiết với tiếng gọi; “Tây Bắc ư? Có riêng gì
Tây Bác”. Thi nhân tiếp tục bày tỏ với tiếng thơ: “Khi lòng ta dã hóa những con
tàu”. Lời thơ giàu hình tượng tiêu biểu, tượng trưng, hàm ẩn nỗi lòng của thi
nhân trước hoàn cảnh Đất nước, mình phải làm gì? Phải sông như thế nào? Để
thực hiện chức năng của người thi sĩ, người nghệ sĩ đôl với Tổ quôc, đất nước.
Phải chăng, lúc này nhà thơ đã thoát ra khỏi cuộc đời tầm thường nhỏ hẹp, vị
kỉ, cá nhân, không còn: “Khép cửa phòng văn hì hục viết” của một thời đại cũ đã
qua và cũng không còn là hình ảnh cô đơn lạc loài, mong manh, bé nhỏ như:
“Một cánh chim thu lạc cuối ngàn" của thời đại trước. Giờ đây nhà thơ đã bước
qua “Thung lũng đau thương” đế tìm đến “Ánh sáng và phù sa” tìm đến cánh
đồng vui trước mìia gặt mới. Như vậy, “Lòng ta" ở đây chính là tấm lòng người
thi sĩ đã hóa thân thành những con tàu, đoàn tàu đưa bao lớp trẻ lên đường, đến
những vùng xa xôi của Tổ quô'c còn nghèo nàn lạc hậu tiêu biểu là Tây Bắc để ra
sức xây dựng, phát triển cho Tây Bắc đẹp giàu, làm sao biến Tây Bắc thành
“Hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc”. Và đến với Tây Bắc là trở về cội nguồn, trở
về đạo lí, trở về “Mẹ yêu thương” và cũng là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của
người nghệ sĩ, là cơ hội đế khơi nguồn mọi sáng tạo cho người thi sĩ trong sáng
tác vì “Tây Bấc ơi, người là mẹ của hồn thớ”. Quả thật, tiếng gọi: “Khi lòng ta
dã hóa những con tàu” cũng là lúc đưa người thi sĩ về đúng thiên chức cửa mình
trước cuộc sông vì nhiệm vụ của người nghệ sĩ, thi sĩ phải gắn bó với cuộc sông,

168
tha thiết với cuộc sông để khơi nguồn cho sáng tạo vì không có cuộc sông, sẽ
không có nghệ thuật. Vậy cuộc sông và nghệ thuật phải gắn kết như môi với
răng như hình với bóng nhằm thực hiện nhiệm vụ cao quý của một nhà thơ chân
chính. Vậy: “Khi lòng ta đã hóa những con tàứ' là giây phút của ý thức, của trách
nhiệm công dân, trách nhiệm của một người nghệ sĩ đã thực sự trở về với chính
mình để nhìn rõ mình, soi rọi tâm hồn mình, thấy rõ mình hơn để biến nhận
thức thành hành động thiết thực: “Làm sao được tan ra. Thành trăm con sóng
nhỏ. Giữa biển lớn tình yêu” biển lớn của cuộc đời và phải biết: “Cầm tay mọi
người” để “Đất nước vẹn tròn to lớn”. Đó là chức năng của người nghệ sĩ làm đẹp
cho cuộc sống, khác nào như con ong luôn luôn đem hương thơm mật ngọt đến cho
đời như lời bày tỏ của tác giả trong “Ảnh sáng và phù sa” với lời thơ; “Tâm hồn tôi
khi tổ quốc soi vào. Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ”. (Chế Lan Viên)
Và hai câu thơ còn lại của Đề Từ:
“Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát.
Tâm hồn ta là Tây Bấc chứ còn đâu.”
(trích “Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên)
Bài thơ “Tiêng hát con tàu” ra đời trong hoàn cảnh cả nước lên đường đi xây
dựng cho quê hương đổi mới sau những năm dài chiến tranh và đói nghèo. Với
kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1960-1965) đã vạch ra một định hướng mới,
rộng lớn, nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội giàu đẹp vàn minh đó là lúc: “Khi Tổ
quốc bốn bề lên tiếng hát”. Chứng tỏ đâu đâu trên khắp mọi miền Đất nước,
cũng thấy được lời kêu gọi của Tổ quôh, của Đảng, của Nhà nước, làm sao phải
hình thành nhiều đoàn tàu, phải hóa thân thành nhiều con tàu, hướng đến
nhiều sân ga để cùng nhau lên đường, đến mọi vùng trời xa xôi của Tổ quôc, sẵn
sàng đem sức trẻ với bầu nhiệt huyết nóng bỏng, sôi sục để bước vào trận tuyến
mới, ra sức xây dựng cho Đất nước đẹp giàu là nhiệm vụ của toàn dân, là chức
năng của người thi sĩ, phải biết đón nhận, nắm bắt, phải dấn thân, nhập cuộc
cùng lên đường để tâm hồn rộng mở, thâm nhập vào cuộc sông thực tế, và từ
trong thực tế cuộc sông, sẽ là nguồn cảm hứng vô tận, sáng tạo cho nghệ thuật,
góp phần mang lại bộ mặt mới cho Tổ quôc, cho Đất nước. Và lời thơ cuôi: “Tâm
hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”, lời thơ là lời bày tỏ khẳng định, dứt khoát,
chân thành trong tâm hồn thi nhân. Tiếng gọi “Tâm hồn ta” chính là tâm hồn
của nhà thơ, tầm hồn của người nghệ sĩ đã tự gắn kết cuộc đời mình, tâm hồn
mình cùng hòa nhập vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Như vậy, chính Tây
Bắc đã giúp cho nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến, chính Tây Bắc là
điểm tựa là bệ phóng giúp cho nhà thơ nhận thức rõ chính mình hơn và cũng
chính Tây Bắc đã khơi nguồn cho nhà thơ sáng tạo nghệ thuật, tìm đến nghệ
thuật từ trong cuộc sông để làm nên những vần thơ, trang thơ bất hủ cho đời với
lời tự bạch chân thành: “Tây Bấc ơi! người là mẹ của hồn thớ”. Hồn thơ Chế Lan
Viên, một thời đáng nhớ từ trong kháng chiến. Như vậy, Tây Bắc, là hình hài

169
của Tồ quô'c là mảnh hồn thiêng liêng của Đất nước, về lại Tây Bắc, yêu thương
Tây Bắc cũng là về lại với Tổ quốc, yêu Tổ quốc là về với chính mình là tình
cảm sâu nặng của nhà thơ mãi mãi thấm đượm tình yêu Đất nước như lời bày tỏ
chân thành của tác giả trong bài thơ “Sao chiến thắng” với những vần thơ sâu
lắng, thấm đẫm tính nhân văn.
“Oi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Õi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông”.
{“Sao Chiến Thắng’ - Chế Lan Viên)
II. PHẦN K ẾT THÚC
1. về nghệ th u ật: Đoạn thơ giàu hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng, khái quát,
giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng, giàu tính triết lí, nhịp thơ hùng hồn,
khẳng định dứt khoát cùng những biện pháp tu từ đặc sắc.
2. về nội dung: Khổ thơ “Đề T ữ ’ thể hiện khát vọng lên đường và niềm tự
hào của nhà thơ nguyện đem tài năng, tâm huyết đế hiến dâng và sáng tạo vì sự
giàu đẹp cho Đất nước vì hạnh phúc của nhân dân. “Tiếng Hát Con Tàu” mãi
mãi vẫn thắp lên trong tâm hồn mọi người một tình yêu Tổ quôh.

Để tuyển sinh: B ài thơ “T iến g hát con tàu” của nhà thơ C hế L an Viên
có đoạn viết:
“... N h ớ bản sương giă n g, n h ớ đèo mây p h ủ
Ncứ nào qua lòng lại ch ẳ n g yêu thương?
K hi ta ở ch i là nơi đất ở
Khỉ ta đi đất đ ã hóa tâm hồn!
A nh bỗng n h ớ em n h ư d ô ng về n h ớ rét
Tình yêu ta n h ư cá n h k iến hoa vàng
N h ư xu â n đ ến chim rừ n g lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê h ư ơ n g ...”
(trích “T iến g hát con tà u ” - C hế L an Viên)
Anh (chị) phân tích đoạn thơ trê n để tìm thấy bao kỉ niệm m ãi mãi
in sâu tron g tâm hồn nhà thơ m ột thời kháng chiến.

|JÌJững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Nhà thơ Tô" Hữu có viết: “Nhớ gì như nhớ người yêu. Trăng lên đồi núi nắng
chiều lưng nương. Nhớ từng bản khói cùng sương. Sớm khuya bếp lửa, người
thương đi về”. (Trích “Việt Bắc” - Tô Hữu)

170
2. Ca dao Việt Nam có ghi: “Đến đáy thì ở lại đáy. Bao giờ bén rễ xanh cây mới
về”. (Ca dao)
3. Nhà thơ Tô" Hữu có viết: “Ta về minh có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng
người", (trích “Việt Bắc” - Tô" Hữu)
4. Ca dao Việt Nam có ghi: “Thương nhau thương cả lối đi. Ghét nhau ghét cả
tông chi họ hàng”. (Ca dao)
5. Có ý kiến rằng; “Tình yêu hiện hình nỗi nhớ là qui luật tình cảm thiêng liêng
của con người". (Lời nhận định)
6. Tục ngữ có ghi: “Uống nước nhớ nguồn”', “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
1. Thiền sư Thích Nhâ't Hạnh có nói; “Quê hương không chỉ là nơi chôn rau cắt
rốn mà ở đâu mang lại cho ta hơi thở, cuộc sống, tình yêu thương thì nơi đó
cũng là quê hương” (Thiền sư Thích Nhất Hạnh).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đồi núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”.
(trích “ Việt Bắd’ - Tố Hữu).
Những vần thơ của Tô" Hữu trong hồn thơ Việt Bắc, thể hiện nỗi lòng người
ra đi vẫn nặng tình với quá khứ với bao kỉ niệm đẹp của một thời kháng chiến.
Những tình cảm đáng nhớ ấy, đưa chúng ta nghĩ về bài thơ “Tiếng hát con tàu”
của nhà thơ Chê" Lan Viên cũng thế hiện bao nỗi nhớ về chiến khu xưa, cảnh cũ
người xưa trên vùng đất Tây Bắc, một thời bom đạn, mãi mãi in sâu trong tâm
hồn thi nhân qua đoạn thơ sau:
“... Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương ...”
(trích “ Tiếng hát con tàư' - Chế Lan Viên)

171
II. PHẨN TRỌNG TÂM
Bao nỗi n h ớ thấm dẫm trong tăm hồn thi n h ãn một thời k h á n g chiến.
1. Ph ân tích bôn câu đầu: Nhà thơ nhớ về cảnh v ậ t Tây B ắ c m ột thời
kháng chiến.
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta di đất đã hóa tâm hồn!”
(trích “ Tiếng hát con tàư - Chế Lan Viên)
Nhà thơ Chế Lan Viên từ “Điêu tàn” đã tìm được “Ánh sáng và phù sa”, mở
ra cho thi nhân một bước ngoặt mới trong cuộc đời thơ và cuộc đời của người thi
sĩ trước thời đại mới. Nhà thơ lại nhớ về một thời kháng chiến, suô't bao nhiêu
năm dài được sông trong lòng nhân dân, giữa lòng quê hương Đất nước. Bước
chân của nhà thơ đã đi qua nhiều miền Đất nước từ Việt Bắc, Tây Bắc,... đã để
lại trong lòng thi nhân bao kỉ niệm đẹp, bao tình yêu và nỗi nhớ, được tái hiện
trong kí ức của thi nhân như những thước phim quay chậm, đưa người thi sĩ bật
thành tiếng gọi;
“... Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?”
Nỗi nhớ đầu tiên của thi nhân là những bản làng với cuộc sống thầm lặng,
cần cù của người dân Tây Bắc chìm khuất giữa núi rừng rồi nhớ những con đèo
thoải dôh, hòa cùng những áng mây bao phủ như ôm ấp một tình yêu quê hương
non nước giữa đâ't trời. Hình ảnh “Bản sương giăng” kết hợp với “Đèo mây phủ”,
gợi lại cảnh núi rừng mịt mù, xa xôi cách trở trước cái hùng vĩ của thiên nhiên.
Đặc biệt từ “Nhớ” ở đầu câu và giữa câu, thế hiện một tình yêu tha thiết bồi hồi
trong tâm hồn người thi nhân đang nhớ về Tây Bắc, gợi cho chúng ta liên tưởng
về Việt Bắc trong hồn thơ Tô’ Hữu cũng mang một nỗi nhớ như thế với lời thơ:
“Nhớ gi như nhớ người yêu. Trăng lên đồi núi nắng chiều lưng nương”. Phải có
một tình yêu thiên nhiên thâm đẫm trong tâm hồn thi nhân thì mới có những
vần thơ giàu sức biểu cảm, sâu lắng đến thế. Rồi, nhà thơ tự hỏi và khẳng định
với lòng mình: “Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?”. Quả thật, bao năm
tháng trong kháng chiến trên vùng đất Tây Bắc ngày ấy, vẫn mãi mãi in sâu
bao kỉ niệm trong lòng người ra đi, đâu dễ nào quên với những bản làng mờ
trong sương, những đèo cao dô’c núi với mây chiều bao phủ, những ngả đường
hành quân với bao vất vả gian khổ, nắng mưa dãi dầu vẫn in sâu trong lòng
người đi đầy ắp bao kỉ niệm của một thời kháng chiến, là thứ nhu cầu tinh thần
làm cho đời sông nội tâm của nhà thơ thêm phong phú chính là chất liệu cho sự
sáng tạo nghệ thuật là thiên chức của người nghệ sĩ chân chính. Và hai câu thơ

172
tiếp trong “Tiếng hát con tàu” đã thắp sáng tâm hồn nhà thơ một suy nghĩ thật
đẹp, giàu chất suy tưởng, giàu tính triết lí thể hiện đạo lí của con người qua
tiếng thơ:
“Khi ta ở chi là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!”.
Tiếng gọi: “Khi ta ở” và “Khi ta đi” chứng tỏ nhà thơ đã từng sông và gắn bó
với quê hương Tây Bắc một khoảng thời gian dài. Dù “Khi ta ở" hay “Khi ta đi”,
hoàn cảnh đã đổi thay, quá khứ và hiện tại đã khác rồi nhưng tâm hồn nhà thơ
vẫn không bao giờ thay đổi, mãi mãi vấn vương trong lòng người ra đi bao tình
yêu và nỗi nhớ, chính là lúc: “Đất đã hóa tâm hồn" hình thành bao kỉ niệm. Phải
chăng, đó là đạo lí của con người là thước đo giá trị nhân cách con người. Chúng
ta vẫn thường hiểu rằng, nếu là kẻ “Ăn xổi ở thi”, vô tâm, vô tình, vô nghĩa thì đôl
với họ “Đi là hết" “Đi là mất” là không còn nhớ gì về nơi vùng đất họ đã ở. Và họ
sẽ dửng dưng lạnh lùng vô cảm trước cuộc sôhg đã qua. Như vậy, chỉ có sống bằng
cái tình, cái nghĩa, cái tâm “Nơi đất thì khi xa cách dù không gian thay đổi,
thời gian đổi thay nhưng lòng người ra đi vẫn nhớ về, hồi tưởng về cảnh cũ người
xưa chính là đạo lí của con người, biết: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”.
Với nhà thơ, Tây Bắc là chiến trường xưa, là mồ chôn bao quân thù cướp nước
(Pháp), mà bao năm qua trong kháng chiến, nhà thơ cùng gắn bó trong cuộc
sông và chiến đấu, đầy ắp bao kỉ niệm thì hỏi rằng: “Đi là mắt, là hết được hay
sao\”. Như vậy, “Đất đã hóa tâm hồn” là tiếng gọi của trái tim của lương tâm của
đạo lí mãi mãi là nét đẹp muôn thuở của người nghệ sĩ chân chính, là đạo lí
sống của con người qua mọi thời đại.
2. Phân tích bốn câu còn lại: Nhà thơ nhớ về con người Tây B ắc một thời
kháng chiến.
“..Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương ...”
(trích “ Tiếng hát con tàư' - Chế Lan Viên)
Mạch cảm xúc trong hồn thơ Chê Lan Viên có sự chuyển biến về một cảm
nhận mới, một ý tưởng mới đó là suy nghĩ giữa “Tinh yêu” và “Đất lạ" giàu chất
suy tưởng, tính triết lí với tiếng gọi:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng”
Tình yêu bao giờ cũng hiện hình nỗi nhớ với nhiều xúc cảm nhiều cung bậc là
quy luật tình cảm thiêng liêng nhất, đẹp nhâ't của con người khi đã yêu. Càng

173
yêu lại càng nhớ và yêu nhiều, nhớ nhiều, da diết nhiều và được thi vị hóa, so
sánh như mùa đông về lại nhớ đến cái rét, buô"t lạnh, lạnh đến thấu xương. Nếu
mùa Đông không có cảm giác lạnh buốt, rét buô"t thì đâu phải mùa Đông, nó trở
nên vô duyên lạc lõng. Vậy tình yêu! Tình yêu của anh bao giờ cũng nhớ về em
vì em là biếu tượng là đôl tượng cho tình yêu của anh. Không có sự hiện hữu của
em trong tâm hồn anh thì làm gì có tình yêu trong anh. Lời thơ: “Anh bỗng nhớ
em như đông về nhớ rét” là thế hiện sự gắn kết yêu thương giữa hai trái tim,
hai tâm hồn cùng đồng cảm đang hướng về nhau là quy luật tình cảm thiêng
liêng đẹp nhất của con người. Và nói đến “cánh kiến” là một sản phẩm của núi
rừng là chât kết dính, còn “hoa vàng” là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp thơ
mộng êm ái nhằm nói lên một tình yêu thiên nhiên thắm thiết nồng nàn. Rồi
nhà thơ nói đến “Mùa xuân”, mùa xuân là mùa của tình yêu, tình yêu đôi lứa,
tràn đầy sức sống với muôn hoa đua nở, cây lá đâm chồi nảy lộc, chim rừng thay
lông khoe sắc để đón chào mùa xuân, mùa của kết đôi, kết bầy trong niềm vui
hạnh phúc của tạo vật và con người đã in sâu trong tâm hồn người ra đi cũng
chính là tâm hồn thi nhân đế’ làm nên những vần thơ bất hủ cho đời. Và lời thơ
còn lại: “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương” toát lên ý thơ mới, một cảm nhận
mới, một cái nhìn mới giàu chất suy tưởng, giàu tính triết lí. Phải chàng khi ta
sông trên vùng đât nào đó dù cho nơi ấy không phải là nơi chôn nhau cắt rô"n,
không phải là nơi có những người thân yêu ruột thịt của ta đang sông, không
phải là nơi ta lớn lên với bao kỉ niệm của một thời thơ ấu, nhưng mảnh đất ấy,
vùng đất ấy vẫn là “đất lành chim dậu” đã đem lại cho ta hơi thở, cho ta sự
sông, cho ta một tình yêu chân thật, hạnh phúc thì nơi ấy vẫn là quê hương.
Đúng như lời bày tỏ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nói: “Quê hương không
chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn mà ở đâu mang lại cho ta hơi thở, cuộc sống, tinh
yêu thương thì nơi ấy cũng là quê hương.” (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) Như vậy,
“Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương” như một chân lí sông đẹp của mọi thời đại,
nó vượt cả không gian, thời gian, bờ cõi và giới hạn. Vì ở đâu có tình yêu, có
lòng nhân ái, thấm đầm tính nhân văn thì nơi ấy cũng là què hương. Nó không
còn hạn hẹp, gò bó trong cái nhìn cũ; “Quê hương mỗi người chỉ một” nữa rồi.

II. PHẦN KẾT THÚC


1. Về nghệ th u ật: Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp rất văn chương, giàu chất suy
tưởng, giàu tính triêt lí, đậm chất trí tuệ, ngôn ngữ giàu hình tượng, giọng thơ
tha thiết đằm thắm.
2. Về nội dung: Thể hiện cái tình, cái nghĩa, sông có trước, có sau của con
người là nét đẹp đạo lí, vẻ đẹp của nhân cách từ đó thấy được tấm lòng người thi
sĩ vẫn nặng tình với quê hương Tây Bắc một thời kháng chiến.

174
N G U YÊN TUÂN
B À I K Í “N G Ư Ờ I L Á I Đ Ò S Ô N G ĐÀ

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày sự nghiệp văn học củ a nhà văn Nguyễn Tuân.
Cảu 2; Nêu lẽn phong cá ch nghệ th u ật của nhá văn Nguyễn Tuân.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Sự nghiệp văn học củ a Nguyễn Tuân.
Chia làm 2 thời kì:
1. Thời kì trư ớc 1945:
- Văn Nguyễn Tuân trong thời kì này xây dựng ba đề tài rõ nét với
“Chủ nghĩa xê dịch”, “Vang bóng một thời” và “Đời sống sa đọa”.
а. Chủ n g h ĩa xê d ịch : Nguyễn Tuân có một quan niệm sáng tác thật rõ. Với
ông nhà văn cần phải đi thật nhiều trên khắp mọi miền đất nước để khám phá,
tạo những nguồn cảm hứng mới nhằm đem lại sự hấp dẫn lôi cuô"n cho người
đọc, tránh lôl viết sáo mòn, đơn điệu, bằng phàng, tiêu biểu với những tác
phẩm: “Một chuyến đi”; “Thiếu quê hương ...”
б. Vang hóng một thời: Thời kì này sức mạnh của đồng tiền được trọng dụng,
đời sống cơ khí đề cao, giá trị đạo đức bị xói mòn, con người trở nên sống thực
dụng, đề cao giá trị vật chất. Vì thế, Nguyễn Tuân muốn quay về với quá khứ,
sống lại những hoỀũ niệm đẹp nhằm đề cao giá trị đạo đức, nhân cách con người
tiêu biểu như thú chơi chữ, đánh cờ là những thú chơi thanh cao, tao nhã, lịch lãm
của con người, tiêu biểu là tập truyện “Vang bóng một thời”.
c. Dời sống sa đọa: Thời kì này Nguyễn Tuân đôi diện cuộc sông thật, khi
sức mạnh của đồng tiền, dục vọng tầm thường của con người thật sự đã chiếm
lĩnh trong đời sông xã hội, làm cho con người chỉ biết sông hưởng thụ, ăn chơi,
nghiện ngập với thuôc phiện, với những ả đào làm cho đời sông sa đọa, tiêu biểu
là tác phẩm “Chiếc lư đồng mắt cua” thể hiện rõ lôi sông như thế.
2. Thời kì sau 1945:
- Thời kì này Nguyễn Tuân tiếp tục viết, vẫn chủ trương đi thật nhiều trên
khắp mọi miền đât nước đế khám phá, tạo những nguồn cảm hứng mới, ca ngợi
về quê hương, đất nước, con người qua hai cuộc kháng chiến chông Pháp và
chông Mỹ, với những tác phẩm như: “Tình chiến dịch"; “Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi”; “Đường vui” ...
- Thời kì Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân vẫn trực tiếp
thâm nhập vào đời sông thực tế, đến những vùng trời xa xôi của tổ quôh đế tìm

175
kiếm, viết lên những tác phẩm có giá trị nhăm ca ngợi con người mới cùng vẻ
đẹp hùng vĩ của thiên nhiên như Tập tùy bút “Sông Đà”\“Kí Nguyễn Tuân”...
Câu 2: Phong cách nghệ th u ật củ a Nguyễn Tuân.
Chia làm 2 thời kì:
A. Thời kì trư ớc năm 1945:
1. Thời kì này hình thành trong con người Nguyễn Tuân một cá tính đặc biệt
gọi là “Ngông”, nó đã chi phôi trong cách nhìn và sáng tác của Nguyễn Tuân.
Ông nhìn đời với cái nhìn mỉa mai khirih bạc khi sức mạnhđồng tiền và dục
vọng tầm thường của con người đã làm cho giá trị đạo đứcmất dần, từ đó văn
của Nguyễn Tuân thể hiện sự “Sâu cay, ì hình bạc”.
2. Văn Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp và cái thật.
3. Vãn Nguyễn Tuân quay về với hoài niệm để tìm lại những vẻ đẹp nhân
cách, vẻ đẹp thiên lương cùng những thú chơi tao nhã như thú chơi chữ, đánh
cờ... đế viết lên tập truyện “Vang bóng một thời”.
4. Văn Nguyễn Tuân có lôi viết tự do, phóng khoáng từ đó ông đã xây dựng
thế loại “Tùy bút” là một phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân.
5. Văn Nguyễn Tuân vừa cổ kính đỉnh đạc vừa trẻ trung hiện đại.
B. Sau Thời kì sau năm 1945:
1. Vàn Nguyễn Tuần kết hợp giữa quá khứ, hiện tại và tương lai nhằm ca
ngợi vẻ đẹp quê hương, đất nước, con người trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2. Văn Nguyễn Tuân luôn tôn trọng cái đẹp và cái thật. Với ông “Văn phải là
người” vì thế những sự vật, hình ảnh hay nhân vật trong sáng tác của ông, luôn
luôn thế hiện hai phương diện “Vân hóa và thẩm mỹ”.
3. Văn Nguyễn Tuân có một cái nhìn rất mới về hình ảnh người nghệ sĩ. Với
ông, người nghệ sĩ, ngoài vẻ đẹp tài năng, diện mạo nhưng với Nguyễn Tuân,
nhìn người nghệ sĩ là một người biết công hiến cho xã hội, đóng góp nhiều cho
cuộc sông tiêu biểu là hình ảnh “Người lái đò Sông Đà” như một nghệ sĩ với
“Tay lái ra hoa”.
4. Văn Nguyễn Tuân vẫn tiếp tục viết theo lôi tự do và phóng khoáng hình
thành Tập tùy bút “Sông Đà” là một thể loại kí rất riêng của ông.
5. Văn Nguyễn Tuân có một kho từ vựng phong phú, ngôn ngữ tạo hình độc
đáo, am hiểu nhiều lĩnh vực như điện ảnh, hội họa, ván học, triết học ...
c . Mặt hạn chế:
- Vãn Nguyễn Tuân có lôl viết tự do, phóng khoáng dễ tạo nên sự ngẫu hứng,
đột biến làm cho người đọc khó theo dõi.
- Văn Nguyễn Tuân hơi phô trương về kiến thức, về tư liệu, tạo cảm giác
nặng nề cho người đọc.

1 76
Đế tuyển sinh: Anh (Chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tá c, ý nghĩa nội dung và chủ đề bài
kí “N gười lái đò S ô n g Đ à ” của nhà văn Nguyễn Tuân.
Câu 2: Anh (chị) phân tích hình tưỢng con Sông Đà qua bài kí
________ “N gười lái đò S ô ng Đ à ” củ a nhà văn Nguyễn Tuân.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Nêu lên hoàn cảnh sáng tá c, ý nghĩa nội dung và chủ đề bài kí
“N gười lái đò S ô n g D à ”.
1. Hoàn cảnh sáng tá c:
- Từ 1958-1960, trong giai đoạn này miền Bắc ra sức xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng và Nhà nước kêu gọi nhân dân hãy đến những vùng trời xa xôi của tổ
quôh, xây dựng và kiến thiết đất nước, làm cho đất nước giàu đẹp như tác phẩm
“Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, “Lên Tây Bắc” của Lưu Trùng Dương,
“Con gái Hưng Yên đi mở đường Tây Bắc” của Huy Cận.
- Năm 1958, Nguyễn Tuân tham gia cùng với anh em bộ đội, thanh niên
xung phong, công nhân cầu đường về lại Tây Bắc, ra sức kiến thiết và xây dựng.
Nguyễn Tuân thâm nhập vào cuộc sông thực tế ở Tây Bắc. Trước cảnh đẹp thiên
nhiên hùng vĩ và con người Tây Bắc cần mẫn trong lao động, đã tạo cho ông
nguồn cảm hứng viết lên bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Bài kí được in trong tập
“Tùy bút Sông Đà” xuất bản 1960.
2. Y nghĩa nội dung: Thể hiện hai ý chính:
Ý 1: Ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ qua hình ảnh con Sông Đà,
Ý 2: Ca ngợi sự cần cù, khéo léo, giàu kinh nghiệm trong cuộc sông lao động
của người dân Tây Bắc qua hình ảnh “Người lái đò Sông Đà”.
Chủ đ ề: Tác giả miêu tả sự hùng vĩ của thiên nhiên qua hình ảnh con Sông
Đà nhằm toát lên chủ nghĩa anh hùng lao động trong xây dựng của nhân dân
Tây Bắc thông qua hình ảnh “Người lái đò Sông Đà”.
Câu 2: Phân tích hình tưọtag con Sông Đà qua bài kí “Người lái đò sông Đà”.
ÌSỈ ững kiến th ứ c cầ n nắm :
1. Bài thơ “Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh có viết: “Quê hương tôi có con
sông xanh biếc. Nước gương trong soi tóc những hàng tre”. (Tế Hanh)
2. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng cầm có viết: “Sông Đuống trôi đi.
Một dòng lấp lánh. Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường ki”.
(Hoàng Cầm)
3. Ca dao Tây Bấc có ghi: “Đường lên Mường Lễ bao xa. Trăm bảy cái thác, trăm
ba cái ghềnh”. (Ca dao Tây Bắc)

177
4. Nhà thơ Tản Đà ca ngợi về con Sông Đà: “Dãi Sông Đà bọt nước lênh bênh.
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình". (Tản Đà)
5. Nhà thơ Nguyễn Quang Bích nói về con Sông Đà: “Chúng thủy giai đông tẩu.
Đà Giang độc bắc lưu”. Ý nói, những con sông hầu hết chảy về hướng đông
riêng con sông Đà lại xuôi dòng về hướng bắc.
6. Học giả Nguyễn Bá Học từng nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông
cách núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học)
7. Ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước và con sông Đà Tây Bắc qua lời bày tỏ:
“Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Như sông như núi như dòng Đà Giang".
8. Có lời rằng: “Sông Đà ơi! mãi mãi là mảnh hồn thiêng liêng của Tổ quốc”.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre”.
(trích "Nhớ con sông quê hương"- Tế Hanh)
- Nhớ về hình ảnh con sông quê, làm sao chúng ta quên được hồn thơ “Nhớ
con sông quê hương” của Tế Hanh mãi mãi in sâu trong kí ức của mỗi con người,
và bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, gợi thương
gợi nhớ về con sông Hương, quanh năm với màu xanh biêng biếc giữa lòng cô’ đô
Huế.
- Hôm nay, chúng ta tìm về hình ảnh con sông Đà trong bài kí “Người lái đò
Sông Dà" của Nguyễn Tuân, trích trong Tập tùy bút “Sông Đà” xuâ’t bản năm
1960 đã để lại trong lòng người đọc hình tượng con Sông Đà mang nhiều vẻ đẹp
đáng nhớ.

II. PHÂN TRỌNG TÂM


H ình tượng con S ô n g Đ à qu a nét bút N guyễn Tuân.
1. Vẻ dẹp 1: Con sông Đà thơ mộng trữ tình đáng yêu.
a. Vẻ đẹp củ a d ò n g sông: Nhớ về hình ảnh con Sông Đà, xuất phát từ vùng
đất Vân Nam bên Trung Quôc xuôi về đất Việt, hòa với dòng sông Hồng đất
Bắc, đem lại phù sa cho đời sông thiên nhiên xanh tươi, cuộc sôhg con người ấm
no, hạnh phúc từ bao đời nay. Hình ảnh con Sông Đà, với cái nhìn của nhà thơ
Nguyễn Quang Bích mang một vẻ đẹp rất riêng, không lẫn vào các dòng sông
khác, với tiếng gọi: “Chúng thủy giai đông tẩu. Đà Giang độc bắc lưu”. Nhưng
cái nhìn của Nguyễn Tuân về hình ảnh con Sông Đà, Nguyễn Tuân đã thổi vào
dòng Sông Đà như một sinh thể có hồn, mang dáng vẻ như người thiếu nữ miền
sơn cước với hình ảnh: “Con Sông Đà, tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đẩu tóc, chăn tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa

178
gạo tháng hai”. Với hình ảnh nhân hóa kết hợp ngôn ngữ tạo hình độc đáo, với
tiếng gọi “tuôn dài" được láy lại ở đầu câu gợi cho chúng ta tìm thấy dòng sông
như một áng tóc, một làn tóc, một suối tóc của người thiếu nữ vùng cao Tây Bắc
đang thướt tha, mượt mà giữa đất trời Tây Bắc lúc vào xuân, cùng với hoa ban,
hoa gạo ẩn mình, lung linh giữa dòng sông xanh ấy, toát lên vẻ đẹp thơ mộng,
trữ tình, đáng yêu, đáng nhớ của dòng sông.
6. Vẻ d ẹp củ a bờ sông: Nguyễn Tuân với nét bút độc đáo, tác giả đã mượn
bước đi của thời gian, chiều dài của lịch sử đế nói lên vẻ đẹp của không gian,
mượn quá khứ để nói về hiện tại với hình ảnh: “Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Với hình ảnh so sánh
độc đáo kết hợp hai tiếng “hoang dại" chúng ta hình dung về thời kì hoang sơ, xa lơ
xa lắc, khi dấu chân người chưa tìm đến, nơi đây thật hoang vắng đìu hiu lạnh lùng
và tiếng gọi “hồn nhiên” đưa người đọc tìm về những truyện cổ tích xưa mang nét
đẹp thuần khiết, trong sáng, dịu hiền gợi cho người đọc hình dung bờ sông Đà là
môi trường thiên nhiên của đất trời Tây Bắc thật trong lành, tĩnh tại.
c. Vẻ đẹp củ a nước sông: Nhớ về dòng sông Tiền, sông Hậu trên vùng đất
phương Nam, chúng ta bắt gặp sắc màu của dòng sông ấy, quanh năm đỏ nặng
phù sa. Ngược về vùng đất miền Trung, cô" đô Huế, người đọc tìm thấy sắc màu
xanh biêng biếc, tĩnh lặng, của dòng sông Hương quanh năm vẫn thế. Nhưng
sắc màu của con Sông Đà lại mang một dáng vẻ rất riêng, nó biến đổi theo từng
mùa, theo bước đi của thời gian. Khi mùa xuân về, nước Sông Đà với “Dòng xanh
ngọc bích" một màu xanh vừa dân dã vừa quý phái như màu xanh mơn mởn của
lá cây rừng đang đâm chồi nẩy lộc, gợi cho ta nhớ về màu xanh ngọc bích ấy
trong hồn thơ “Đây thôn Vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử cũng mang một sắc màu đáng
yêu như thế với tiếng gọi: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” rồi khi mùa thu
trở lại, “nước Sông Đa lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vl rượu bữa”. Một
lôi so sánh độc đáo với cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, tác giả miêu tả sắc
màu của dòng sông Đà mang một vẻ đẹp rất riêng, đáng nhớ.
d. Vẻ đ ẹp củ a lòng sông: Nguyễn Tuân tiếp tục thổi vào lòng sông Đà như
một sinh thế có hồn, nó biết vui, biết buồn, với thi ảnh “Dòng sông quãng này,
lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi, để lại trên thượng nguồn Tây
Bắc”. Với hình ảnh nhân hóa, so sánh cho chúng ta hình dung lòng sông như
lòng người cũng biết buồn khi nó nhớ về đồng đội, bạn bè, ở đây là những thác
đá, hòn đá còn nằm ở thượng nguồn Tây Bắc, nơi xa xôi kia và lòng sông, có lúc
vui khi được nhìn: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, Chuồn chuồn, bươm bướm trên
sông Đà. Chao ôi! trông con sông vui như thấy nắng dòn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”, và con sông còn biêt “lắng nghe những
giọng nói êm êm cứa người xuôi”. Với hình ảnh nhân hóa, sáng tạo của Nguyễn
Tuân, đưa người đọc hình dung con Sông Đà mang tâm trạng, cảm xúc của một
con người, để cùng lắng nghe ngôn ngữ, giọng nói của người Kinh, những người

179
đi xây dựng cho vùng đâh Tây Bắc đẹp giàu, họ là những anh bộ đội, thanh niên
xung phong, những công nhân cầu đường kế cả tác giả. Tất cả cùng đến với Tây
Bấc, ra sức xây dựng cho Tây Bắc. Phải chăng, lòng con sông Đà có cảm nhận
được như thế là thể hiện tình yêu cộng đồng, tình yêu quê hương non nước.

đ. Vẻ đ ẹp củ a cả n h sông:
* Vẻ đẹp tĩnh lặng: Hình ảnh: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lý, dời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Với nét bút
so sánh, nhân hóa, tác giả mượn bước đi của thời gian, chiều dài của lịch sử từ
các triều đại Lí, Trần, Lê, quãng sông ấy vẫn “lặng tờ”, im lìm, tĩnh tại và cho
đến hôm nay quãng sông này cũng mang dáng vẻ đìu hiu, hoang vắng, lặng tờ
như thế. Chứng tỏ, bước đi của thời gian có biến đổi, đổi thay nhưng vẻ đẹp của
không gian vẫn không hề thay đổi là nét miêu tả độc đáo của Nguyễn Tuân.
* Vẻ dẹp sinh động: Với hình ảnh: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô, nhú
lên mấy lá ngô non dầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi dầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm”. Với đoạn văn miêu tả thật tinh tế, giàu hình ảnh sông động, đưa người
đọc hình dung cảnh vật sông Đà tràn đầy sức sông trước vẻ đẹp của thiên nhiên
và thấp thoáng hình bóng con người. Chứng tỏ Tây Bắc đã hồi sinh, Tây Bắc đã
thay da đổi thịt, ươm mầm cho sự sông. Tất cả xuất phát từ tình yêu lao động
cần mẫn của con người, bàn tay của con người. Quả thật: “Bàn tay ta làm nên tất
cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. (Hoàng Trung Thông)
Mở rộ n g: Có ai ngờ rằng, chính mảnh đất này là chiến trường năm nào,
từng chôn bao xác quân thù cướp nước (Pháp), nơi đây cũng là “Xứ thiêng liêng
rừng núi dã anh hùng” nhưng với tình yêu lao động cần cù, chịu thương, chịu
khó của người dân Tây Bắc cùng sự góp sức của nhân dân cả nước, Tây Bắc đã
hồi sinh, Tây Bắc đã thay da đổi thịt, Tây Bắc đã nở hoa, trời Tây Bắc mỗi ngày
mỗi sáng là thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta trong xây
dựng, bảo vệ đất nước.

2. Vẻ dẹp 2: Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo đáng sỢ.


a. Tăm đ ịa độc ác củ a con S ô ng Dà: Ca dao Tây Bắc thường nói: “Đường
lên Mường Lễ bao xa. Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” đưa chúng ta hình
dung giữa lòng con sông Đà lắm thác nhiều ghềnh, là chướng ngại vật tạo sự
khó khăn, làm cản trở sự giao lưu của người dân Tây Bắc. Nói đến lòng con sông
Đà có những tầng đá xếp chồng lên nhau như “Trùng vi thạch trận” có thể xé
nát thuyền, có khoảng sông hẹp lại như cái vếu hầu cùng những cái hút nước
như giếng bê tông, là những lực cản thật nguy lúóm đôi với con người, “Có
những thuyền đã bị cái hút, nó hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dim và đi ngầm dưới lòng sông đến mười phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷu sông dưới”. Với đoạn văn miêu tả đầy kịch tính kết hợp hình ảnh nhân

1 80
hóa sáng tạo, Nguyễn Tuân đã hình tượng hóa những cái hút nước kia là một
chướng ngại vật đầy nguy hiểm, đáng sợ đôi với con người mà người lái đò
không kinh nghiệm, tỉnh táo, thiếu bản lĩnh thì sinh mạng của họ là ngàn cân
treo sợi tóc.
6. S ự h u n g bạo củ a thác đ á S ô ng Đà: Nguyễn Tuân khám phá những tản
đá vô hồn như một tên hung hãn, thô bạo, luôn luôn chực chờ, mai phục, đánh
lén, đe dọa sinh mạng con người, với hình ảnh: “Đá ở đáy từ nghìn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện... nhô
vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy đ ể vồ lấy thuyền”. Hàng
loạt động từ mạnh gợi hình “nhổm”, “vồ”... chứng tỏ những hòn đá, tản đá kia
khác gì như những tên tiểu lại hèn mọn đang chực chờ đánh lén, hay những tên
đô vật hung hãn, đang ra sức tâ'n công người lái đò không một chút thương tiếc
nhưng trách gì thác sông Đà đó là sự hùng vĩ, hiểm trở của thiên nhiên, là công
trình nghệ thuật của tạo hóa.
c. S ự h u n g bạo củ a tháo nước S ô ng Đà: Nguyễn Tuân tiếp tục khám phá
sự hung bạo thật tàn nhẫn từ thác nước sông Đà đôì với người lá đò cũng thật
đáng sợ. Với đoạn văn miêu tả đầy kịch tính: “Mặt nước, hò la vang dậy quanh
mình, ùa vào mà bè gãy cán chèo ... Sóng nước như thế quân liều mạng vào sát
nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả
thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông đò, đòi lật
ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Hàng loạt động từ
mạnh gợi hình với “hò la”, “ùa vào”, “bẻ gảy”, ”đá trái”, “thúc gối”, “đội”, “túm
lấy”, “lật ngửa” ... chứng tỏ thác nước sông Đà đang ở thế thượng phong, chủ
động, đang ra sức uy hiếp, tấn công, tiêu diệt người lái đò thật hung hãn, đáng
sợ. Nhưng trách gì sự hung bạo của thác nước ấy vì đó là uy lực kì bí của thiên
nhiên, sự hùng vĩ của thiên nhiên là công trình nghệ nghệ thuật của tạo hóa đã
ưu đãi giành cho quê hương Tây Bắc cũng là vẻ đẹp của Đất nước.
d. Ảm vang g h ê rỢn củ a con sông Đà:
Chỉ tiết 1: Ầm thanh hãi hùng dáng sợ: Nhớ về Tây Bắc, ngoài thác nước con
sông Đà, đưa người đọc hình dung về thác nước của dòng sông Mã với lời gọi:
“Sông Mã gầm lên khúc dộc hành” trong hồn thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Hai tiếng “Gầm lên” từ thác nước của dòng sông Mã, như biểu hiện sự phẫn nộ,
bức xúc, căm hờn trong tâm thức của dòng sông đôì với quân cướp nước (Pháp) vì
chúng cướp đi những người con yêu của tồ quô"c, những người bạn đồng hành
cùng với dòng sông trong kháng chiến. Nhưng với thác nước con sông Đà, nó
mang một âm thanh hãi hùng, đáng sợ, hung bạo hơn với hình ảnh: “Nó rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa”. Với thi ảnh nhân hóa kết hợp biện pháp so sánh qua nét bút
Nguyễn Tuần, người đọc thấy rõ, thác nước của con sông Đà như xé tan sự yên
lặng của núi rừng Tây Bắc. Với tiếng gọi “rống lên” là một âm thanh thật ghê

181
sỢ, hãi hùng, kinh hoàng, nhưng thực sự đó là âm thanh từ thác nước của dòng
sông, là uy lực kì bí của thiên nhiên, là công trình nghệ thuật của tạo hóa cũng
là vẻ đẹp của quê hương Đất nước.
Chi tiết 2: Ảm thanh như tiếng vọng của con người: Nguyễn Tuân cảm nhận
thật tinh tế về thác nước sông Đà như tiếng vọng của con người, có cảm xúc, có
nỗi niềm, tâm trạng giữa cuộc đời. Với hàng loạt hình ảnh tượng thanh có lúc
“Tiếng nước thác nghe như là oán trách g í” rồi lại như là “Van xin”, rồi lại như
là “Khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo”. Hàng loạt tiếng gọi từ tâm thức của
lòng sông, gợi người đọc hình dung, phải chăng đó là tiếng vọng của quá khứ,
tiếng vọng của ông cha ta từ một cõi đi về, để nhớ lại những cuộc thủy chiến
trên sông đối với quân thù phương Bắc, có lúc thành, có lúc bại trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tồ' quôh, mãi mãi là tiếng vọng của lịch sử vừa đau thương
vừa anh hùng.
III. PHẦN K ẾT THÚC
1. v ề nghệ th u ật: Sử dụng ngôn ngữ tạo hình độc đáo, xây dựng những tình
huống đầy kịch tính, sống động, hình ảnh tiêu biểu chọn lọc kết hợp biện pháp
nhân hóa, so sánh, giàu tính tự sự.
2. v ề nội dung; Khắc họa hình ảnh con sông Đà vừa thơ mộng, trữ tình
đáng yêu vừa hùng vĩ, hung bạo đáng sợ là cái nhìn của người nghệ sĩ trước vẻ
đẹp thiên nhiên, là công trình nghệ thuật của tạo hóa mãi mãi là vẻ đẹp của quê
hương Đất nước. Quả thật: “Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Như sông như núi như
dòng Đà Giang”.

Để tuyển sinh: Anh (Chị) phân tích hình ảnh “N gười lái đò sô n g Đ à ”
trong bài kí cùng tên củ a nhà văn Nguyễn Tuân để tìm thấy vẻ
đẹp củ a ông lái đò. _____________________________

Ị3Ỉững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Ca dao Tây Bắc có nói: “Đường lên Mường Lễ bao xa. Trăm bảy cái thác, trăm
ba cái ghềnh”. (Ca dao Tây Bắc)
2. Học giả Nguyễn Bá Học có nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách
núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học)
3. Nhà thơ Hồ Chí Minh có viết: “Sống ở trên đời người cũng vậy. Gian nan rèn
luyện mới thành công”. (Hồ Chí Minh)
4. Tục ngữ Việt Nam có nói; “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. (Tục ngữ)
5. Nguyễn Tuân nhìn tình yêu lao động của ông lái đò như một thứ vàng mười
như củ khoai nâu có khác gì như “Tấm huân chương lao động siêu hạng”.
6. Có lời bày tỏ: “Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Như sông như núi như dòng
Đà giang”.

1 82
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”.
(Ca dao Tây Bắc)
Lời bày tỏ của người dân Tây Bắc cho chúng ta hình dung, sự hiểm trở, khắc
nghiệt giữa lòng con sông Đà, tạo sự giao lưu qua lại giữa con người với con
người quả là khó khăn. Nhưng đẹp thay, hình ảnh người lái đò đã thực sự làm chủ
hoàn cảnh, làm chủ bản thân đã chinh phục thiên nhiên, vượt qua bao thác ghềnh
nguy hiểm đưa con thuyền về bến đậu suốt mười năm trên sông nước Đà Giang, mãi
mãi là vẻ đẹp đáng quý của ông lái đò trong bài kí “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân trích trong tập tùy bút “Sông Đà” xuất bản năm 1960.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ đ ẹ p c ủ a ô n g lá i đ ò.
A. Vẻ đẹp tâm hồn: N ă n g đ ộ n g ; k in h n g h iệ m ; d iê u lu y ện ; t à i trí.
1. Sự năng động củ a ông lái dò: Nguyễn Tuân đi sâu vào đời sống nội tâm
của nhân vật qua hình ảnh ông lái đò, khơi gợi cho ta thấy rõ cá tính mạnh mẽ,
xông xáo, năng động từ suy nghĩ của ông lái đò trên sông nước, ông nói: “Chạv
thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ dại tay, dại chân và buồn ngủ”.
Hàng loạt từ ngữ gợi cảm như “dại tay, dại chân, buồn ngủ” chứng tỏ người lái
đò luôn luôn thích dòng sông có thác ghềnh, có sự mạnh mẽ của thiên nhiên
nhằm tạo sự vận động năng động, cho cơ thế con người cũng là điều lí thú đôl
với ông lái đò trên sông nước suô't bao nhiêu năm qua.
2. Sự kỉnh nghiệm củ a ông lái đò: Nguyễn Tuân, khám phá kinh nghiệm
của ông lái đò trên sông nước suô't mười năm. Với đoạn văn miêu tả, giàu tính
sáng tạo qua hình ảnh: “Con sông Đà như một bản trường thiên anh hùng ca mà
ông lái đò nắm bát tất cả những dấu chấm than, chấm câu kể cả những đoạn
xuống dòng”. Với lôd so sánh rất văn chương độc đáo của Nguyễn Tuân, tác giả
thi vị hóa hình ảnh giữa lòng con sông Đà với bao trùng vi thạch trận, những
cái hút nước như giếng bê tông, những cái yết hầu cùng với thần đá, thần sông,
cửa sinh, cửa tử ... được ví von như những dấu chấm than, chấm câu, những đoạn
xuông dòng là cách miêu tả hàm ẩn của tác giả, tạo cho người đọc hình dung,
giữa lòng con sông Đà với bao chướng ngại vật, hiểm trở nhưng ông lái đò đã
nắm bắt bằng sự trải nghiệm của chính bản thân đó cũng là kinh nghiệm giúp
ông chinh phục dòng sông dễ dàng, suô't mười năm trên sông nước.
3. Sự điêu luyện củ a ông lái đò: Chúng ta hiểu rằng, giữa ông lái đò và
người lái xe, giữa vận tải đường sông và vận tải đường bộ hoàn toàn khác hẳn.
Với ông lái đò chỉ có một con thuyền và một mái chèo, không có phanh chân,
phanh tay thắng trước, thắng sau, kính chiếu hậu như chiếc xe vận tải đường bộ.

183
Nhưng đẹp thay, chỉ một con thuyền, một mái chèo, ông lái đò đã chinh phục
được lòng sông, vượt qua bao thác ghềnh hiểm trở, chứng tỏ ngày nào ông lái đò,
người cũng “dựng đứng lên, luôn tay, luôn chân, luôn mắt, luôn gân kể cả luôn
tim nữa”. Hàng loạt các động tác liệt kê, càng thấy rõ ông lái đò điều khiển trên
sông nước bằng mọi giác quan kết hợp cả con người của ông là thể hiện sự điêu
luyện của ông lái đò như một “nghệ sĩ với tay lái ra hoa”.
4. Sự tài trí, dũng cảm củ a ông lái đò:
Tình h u ốn g 1: Nguyễn Tuân khắc họa một đoạn văn miêu tả đầy kịch tính
giữa thiên nhiên, và con người đang chiến đấu trên sông, ớ đây là thác nước
Sông Đà đang chiến đấu quyết liệt cùng ông lái đò với hình ảnh: “Mặt nước hò
la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẽ gãy cán chèo... Có lúc chúng đội cả
thuyền lên, nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Hàng loạt động từ mạnh gợi
hình, Nguyễn Tuân đã thổi vào thác nước mang diện mạo như một tên đô vật
hung hãn, đang ở th ế thượng phong, chủ động, với những động tác: “Hò la, ùa
vào, bẻ gãy, đội thuyền, túm lấy, lật ngửa..” chứng tỏ thác nước sông Đà đang ra
sức uy hiếp tấn công người lái đò không một chút thương tiếc. Nhưng đẹp thay,
hình ảnh ông lái đò lúc ấy dù thác nước hung bạo kia ra sức uy hiếp tấn công
đánh vào chỗ hiểm (hạ bộ) của ông “nhưng ông cố nén vết thương và hai chân
vẫn kẹp chặt lấy cuốn lái, mặt méo bệch đi” vì chúng “đánh vào chổ hiểm”. Và
lúc ấy, ông lái đò vẫn bình tĩnh, nắm rõ binh pháp của thần sông, thần đá để
vượt qua và “vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngán gọn tỉnh táo của người cầm \ái”
trên cái thuyền sáu bơi chèo là biểu hiện sự dũng cảm, tài trí kinh nghiệm cùng
sự lao động cật lực, lòng yêu nghề của ông lái đo, đã thực sự làm chủ bản thân,
làm chủ hoàn cảnh, xoay ngược thế cờ từ yếu sang mạnh từ thụ động sang chủ
động đã chinh phục thiên nhiên để giành lấy những cái thác từ tay nó về lại tay
mình là giành lại quyền sống là vẻ đẹp tài trí, dũng cảm của ông lái đò.
Tình huống 2: Nguyễn Tuân tiếp tục khám phá sự dũng cảm, tài trí của ông lái
đò trước sự hung dữ của thác nước thông qua hai hình ảnh hoàn toàn đối lập, đầy
kịch tính: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đả". Nguyễn Tuân
đã thổi vào thác nước sông Đà hung hãn, dữ tợn có khác gì như loài hùm, loài beo
loài thú hung dữ của núi rừng Tây Bắc kết hợp với cụm từ tượng thanh “hồng hộc, tể
mạnh” trên sông đá cho chúng ta hình dung sự hung bạo, dữ tợn của thác đá, đang
ra sức chực chờ, uy hiếp tấn công người lái đò, nhưng với kinh nghiệm, bản lĩnh
dũng cảm của ông lái đò, ông đã chiến đấu với bọn chúng thật oanh liệt qua hình
ảnh: “Ồng lái đò nắm chặt lấy được cải bờm sóng đúng luồn rồi ông đò ghì cương
lái, bám chặt lấy luồng nước đúng mà, phóng nhanh vào cửa sinh”, tiếp đến ông lại
“đề, sấn lên, mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Và con thuyền của ông lái đò lúc ấy
“như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” vượt qua bao thác ghềnh hiểm trở,

184
hung hãn chinh phục thiên nhiên, đưa con thuyền về bến đậu, “Sông nước lại thanh
binh”. Hàng loạt động từ mạnh gcíi hình: “Nám chặt, ghì cương, phóng nhanh, đè
sấn, chặt đôi..” là những động tác đầy kinh nghiệm, tài trí, dũng cảm của ông lái đò
đã làm chủ hoàn cảnh, chinh phục sông nước, chiến thắng được thiên nhiên là vẻ
đẹp tâm hồn, vẻ đẹp về sự lao động quên mình và đã giúp cho ông lái đò giành lấy
sự sống từ thác nước hung hãn kia cũng là vẻ đẹp về chủ nghĩa anh hùng lao động
trong xây dựng của người dân Tây Bắc. Quả thật, đường đi khó với bao thác ghềnh
hiểm trở nhưng với ông lái đò không ngại núi e sông là nghị lực sống thật đáng quý,
đáng nhớ về ông lái đò Lai Châu.

B, Vẻ đẹp diện mạo:


1. Vẻ dẹp cường trán g : Xuất phát từ cuộc sống lao động của ông lái đò, suô"t
mười năm trên sông nước Đà Giang đem lại cho ông một thân hình vạm vỡ,
cường tráng, dù ông lái đò đã gần bảy mươi tuổi rồi, cái tuổi gần đất xa trời
nhưng ông có một diện mạo, dáng vẻ đặc biệt với hình ảnh: “Cái đầu quắc
thước, thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Hàng loạt từ ngữ gợi
hình: “Gọn quánh, chất sừng, chất mun” toát lên một sắc vóc, diện mạo của ông
lái đò tràn đầy sinh lực, cường tráng. Càng đẹp hơn, dù không còn cầm mái chèo
đã lâu, nhưng tấm ngực của ông vẫn còn dồ lên như một củ khoai nâu mà
Nguyễn Tuân ví von đó là “Huân chương lao động siêu hạng” dành cho ông lái
đò là vẻ đẹp biểu tượng về chủ nghĩa anh hùng lao động trong sự nghiệp xây
dựng Tây Bắc.
2. Vẻ đẹp trẻ trung: Xuất phát từ tình yêu lao động, suốt mười năm trên sông
nước và hiện giờ ông lái đò đang ở cái tuổi gần đất xa trời (gần bảy mươi tuổi)
nhưng ông vẫn toát lên một vẻ đẹp trẻ trung thật hiếm thấy với hình ảnh: “Nếu cái
dầu của ông lải đò bịt đi và hai tay giơ cao lên, người ta vẫn ngỡ rằng như đang
nhìn thấy một chàng trai trẻ đang ở ngoài bến chính bờ sông” lại là hình ảnh ông
lái đò. Phải chăng, sự lao động quên mình và lòng yêu nghề đã tạo cho ông một vẻ
dẹp trẻ trung như thế.

III. PHẦN K ẾT BÀI


1. Nghệ th u ật: Với ngôn ngữ tạo hình độc đáo, tình huôhg đầy kịch tính, kết
hợp biện pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ thật khéo léo ...
2. Nội dung: Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình ảnh ông lái đò vừa
năng động, giàu kinh nghiệm cùng tài trí dũng cảm kết hợp lòng yêu nghề, yêu
lao động, toát lên vẻ đẹp đáng quý từ diện mạo đến tâm hồn của ông lái đò, là
thế hiện chủ nghĩa anh hùng lao động trong thời kì xây dựng Tây Bắc như lời
bày tỏ: “Không nơi dâu đẹp tuyệt vời. Như sông như núi như người đò xưa”.

185
v ợ CHỐNG A PHỦ
TÔ HOÀI

Đế tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung tá c phẩm
“Vợ c h ồ n g A P h ủ ” của nhà văn Tô Hoài.
Câu 2: Anh (chị) đã học trong chương trình Văn 12 về tá c phẩm
“Vợ c h ồ n g A P h ủ ” củ a nhà văn Tô Hoài. Anh (chị) nêu lên
những phẩm ch ấ t đẹp (vẻ đẹp tâm hồn) của người phụ nữ
Tây B ắc thông qua nhân vật Mị.________________________________

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
1. Hoàn cảnh sáng tá c: Năm 1952, nhà văn Tô Hoài cùng tham gia với anh
em bộ đội nhằm mục đích giải phóng Tây Bắc. Suốt tám tháng ròng rã, Tô Hoài
đã thâm nhập cuộc sông thực tế của họ, ở đây là các dân tộc thiểu sô' người
ITMông, người Mường, người Mèo, người Thái... Tác giả thấy rõ cuộc sông cơ cực
đọa đày của người dân nghèo dưới chế độ thực dân phong kiến Tây Bắc thông
qua nhân vật Mị và A Phủ. Cảm xúc trước nỗi đau của họ, tác giả viết lên tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm này được giải nhâ't của Hội Văn nghệ Việt
Nam năm 1954-1955 trích trong tập truyện “Tđy Bắc” xuất bản năm 1953.
2. Ý chính tron g tá c phẩm:
Tác phẩm có hai giai đoạn và ba ý chính.
Giai doạii 1: Nhà văn miêu tả cuộc sông cơ cực, đọa đày, tủi nhục của Mị và A
Phủ trong gia đình thông lí Pá Tra ở làng Hồng Ngài.
Giai đoạn 2: Nhà văn thể hiện tinh thần đâu tranh phản kháng của MỊ và A
Phủ, họ đã trôn khỏi làng Hồng Ngài và tìm đến khu du kích Phiềng Sa trở
thành vợ chồng. Sau đó giác ngộ cách mạng, họ trở thành những người du kích
tích cực cùng nhân dân Tây Bắc đứng lên giành lại cuộc đời.
3. Ý nghĩa nội dung;
Ý ỉ: Nêu lên cuộc sông đọa đày, cơ cực, tủi nhục của MỊ và A Phủ trong gia
đình thông lí Pá Tra.
Ý2: Tố cáo hành động dã man của cha con thông lí Pá Tra đối với Mị và A Phủ.
Ý3: Biêu hiện tinh thần phản kháng của Mị và A Phủ đôl với cha con thông
lí Pá Tra. Họ đã trôn thoát tìm đến khu du kích Phiềng Sa. Họ trở nên vỢ
chồng, cùng giác ngộ cách mạng và đứng lên với nhân dân Tây Bắc đế giải
phóng Tây Bắc giành lại cuộc đời.

18 6
Câu 2. Những phẩm ch â t đẹp tron g tâm hồn người phụ nữ thông qua
nhân v ật Mị.

1. Đại thi hào Nguyễn Du từng thốt lên số phận người phụ nữ dưới chế độ phong
kiến; “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung”.
(Truyện Kiều —Nguyễn Du)
'n ___

2. Lời ca dao xưa từng nói lên sô' phận rẻ rúng của người phụ nữ: “Thăn em như
tấm lụa đào. Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai". (Ca dao)
3. Tô Hữu có viết: “...Chúng muốn biến ta thành ô nhục. Ta làm sen thơm ngát
giữa dầm". (Tô Hữu)
4. Nhà văn Nguyễn Khải có nói: “ơ đời này không có con đường cùng chi có những
ranh giới, điều cốt yếu phải có S IỈC mạnh để bước qua những ranh giới ấy".
(Nguyễn Khải)
5. Có ý kiến rằng: “Tình thương là thước đo giá trị, nhân cách của con người".
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Đaư đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
(trích “ Truyện Kiềư - Nguyễn Du)
Lời than thở thông thiết của đại thi hào Nguyễn Du về sô' phận đau thương
của người phụ nữ dưới chê độ phong kiến ngày xưa thật là niềm xót xa, thương
cảm cho sô phận con người. Nỗi đau ấy, đưa chúng ta liên tưởng tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài, tác giả với những tháng ngày sông trên
vùng đất Tây Bắc, ông đã chứng kiến nỗi đọa đày, tủi nhục của người phụ nữ
vùng cao thông qua nhân vật MỊ thật đáng thương. Nhưng với sức sông tiềm
tàng, tinh thần phản kháng của Mị, đã vượt lên sô' phận nghiệt ngã đế tìm lại
cuộc đời và tìm thấy hạnh phúc là vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất đáng quý của Mị.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ dẹp tâm hồn củ a Mị. (Những phẩm ch â t đẹp của MỊ)
1. Vẻ đẹp 1: Mị ý thức về nhân phẩm và thể hiện đạo làm con.
a. Mị ỷ thức về n h â n p h ẩ m :
Nhắc đến MỊ ta nghĩ ngay đến người thiếu nữ trẻ đẹp vùng cao Tây Bắc, có
tài thổi sáo và thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mỗi lần nghe tiếng sáo của Mị,
trai làng “dứng nhẵn đầy buồng vách" và MỊ có một tình yêu trong sáng. Nghiệt
ngã thay! Mị lại rơi vào bi kịch từ “món nợ hôn nhân" của bô' mẹ Mị ngày trước,
họ đã mượn gia đình thông lí một sô' tiền làm đám cưới, nhưng giờ này mẹ MỊ
đã qua đời, bô' Mị đã già, món nợ vẫn còn, rồi lãi mẹ đẻ lãi con, mỗi năm phải

187
nộp một nương ngô cho nhà thông lí. Tên thông lí Pá Tra đã gặp bô' Mị và đưa
ra “ìĩión nợ hôn nhân" của bô' mẹ Mị ngày trước nhằm biến Mị thành “Con dâu
gạt nợ" bằng tiếng nói hông hách của tên thông lí, hắn nói: “Cho tao đứa con gái
mày về làm dâu, tao xóa hết nợ cho". Lời nói của thông lí là kẻ dựa vào sức
mạnh đồng tiền, thê' lực muốn biến MỊ trở thành thứ hàng hóa mua bán, đổi
chác trong hôn nhân. Mị cảm nhận được lời nói của tên thông lí, cảm thấy nhân
phẩm Mị bị chà đạp. Lúc ấy Mị dõng dạc nói với bô' rằng: “Con nay đã biết cuốc
nương, làm ngô, con phải làm nương ngô, giả nợ thay cho bố. Bô đừng bán con
cho nhà giàu". Tô Hoài, thâm nhập vào đời sông nội tâm của nhân vật để nói
lên suy nghĩ của Mị, qua đó ta thấy được lòng tự trọng của Mị rất cao, nhân
phẩm của Mị đặt lên trên tâ't cả, Mị sẵn sàng đem sức lao động làm ra sản
phẩm, lấy tiền trả nợ cho thô'ng lí nhằm bảo vệ nhân phẩm của chính mình là
vẻ đẹp tâm hồn, phẩm châ't đáng quý của người phụ nữ.
b. Mị th ể h iện dạo làm con: Cuô'i cùng Mị cũng trở thành “Con dâu gạt nợ"
của nhà thống lí. A Sử và đám tay sai của hắn đã bắt Mị giữa đêm khuya và đưa
Mị về trình ma nhà thô'ng lí. Từ đó, đêm nào Mị cũng khóc và khóc nhiều tháng
như thế. Hình ảnh của Mị lúc này “lùi lãi như con rùa nuôi trong xó cửa", lúc
nào “Mặt Mị cũng cúi xuống, không còn nghĩ ngợi gì nữa”. Mị làm việc quần
quật ngày lẫn đêm, nào giặt đay, xe đay, hái củi, bẻ bắp... Chứng tỏ cha con
thống lí bóc lột sức lao động của Mị thật tàn nhẫn và chỗ ở của MỊ có khác gì
như một chuồng nhô't thú, chật hẹp, tô'i tàm, chỉ có một ô cửa sổ vuông bằng bàn
tay lúc nào MỊ cũng không xác định được bước đi của thời gian cùng vẻ đẹp của
không gian, MỊ chỉ nhìn thấy ngoài kia “trăng trắng, không biết sương hay là
nắng". MỊ nhìn thân phận đọa đày, tủi nhục, muốn đi tìm cái chết bằng “Nắm lá
ngón". Rồi MỊ trôn về nhà trình bô', lạy bô' đế đi chết. Nhưng Mị nghe được
tiếng nói của bô': “Mày về lạy chào tao d ể mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ
tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương
ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Lời nói
của bô đã dội vào tâm thức của Mị rồi Mị tự suy nghĩ, độc thoại: “MỊ chết thì bố
Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”. Tiếng nói của Mị là thể hiện ý thức
về bổn phận, trách nhiệm làm con và nếu Mị chết, bô Mị sẽ khổ nhiều. Mị nhận
thức rõ điều ấy và MỊ đã hành động “Ném nắm lá ngón xuống đất”. Đây là hành
động dũng cảm đã hủy diệt khát vọng tự do của MỊ dù đó là cái chết nhưng với
Mị, chết là sự giải thoát là tìm đến sự tự do của chính mình. Rồi “Mị tiếp tục trở
lại nhà thống lí" làm thân trâu ngựa đế bô' Mị được thanh thản trong những
năm tháng còn lại của cuộc đời ông, là thể hiện sự hi sinh của MỊ là phẩm chất
đáng quý trong tâm hồn MỊ dù Mị sông trong cái ác, cái xấu xa, lọc lừa trong gia
đình thông lí nhưng tâm hồn Mị vẫn trong sáng như cánh sen trong bùn “Gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
18 8
2. Vẻ đẹp 2: MỊ khao kh át tự do.
Mị lặng lẽ trở lại nhà thông lí tiếp tục làm thân trâu ngựa để bô" Mị yên lòng
trong những năm tháng còn lại của cuộc đời ông. MỊ chấp nhận sông trong cái
khổ, sông trong câm lặng tưởng chừng như là một kẻ vô hồn và Mị tự suy nghĩ:
“Mị sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Đây là dòng suy nghĩ thật đáng
thương cho sô' phận người phụ nữ rơi vào những bi kịch đau đớn từ thân xác lẫn
tâm hồn. Rồi làng Hồng Ngài ăn tết, gia đình thông lí cũng ăn tết. Lúc này bâ't
chợt bên tai Mị lại vọng về tiếng sáo, tiếng sáo cứ lững lờ, chập chờn bên tai Mị
và trong giây phút ấy, tâm hồn Mị khơi dậy niềm khát vọng tự do. MỊ muô'n đi
chơi, muôn theo cùng tiếng sáo và Mị tự độc thoại: “Mị trẻ lấm, Mị vẫn còn trẻ,
Mị muốn đi chơi”. Dòng suy nghĩ của Mị thể hiện tinh thần phản kháng chông
lại cường quyền và thần quyền. Một hình ảnh đáng nhớ là lúc Mị uô'ng rượu, Mị
uô'ng ừng ực từng bát. Cách uô'ng rượu của MỊ như biểu hiện sự phẩn nộ của ý
thức, sự nổi loạn của tâm hồn và những giọt rượu trong từng bát có khác gì như
những giọt nước mắt đang trào dâng, chảy ngược vào trong tim Mị với bao nhiêu
tủi buồn, xót xa cho sô phận và Mị lại suy nghĩ tiếp: “Bao nhiêu người có chồng
cũng đi chơi Têt. Huông gì A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở
với nhau!”. Đây là dòng suy nghĩ rất thật rất chân tình từ trong tâm thức của
MỊ, chứng tỏ Mị muôn chôi bỏ thực tại, chông lại sự ràng buộc của thần quyền,
của cường quyền đế được tự do tìm lại chính mình. Đây chính là cuộc vượt ngục
tinh thần lần thứ nhất của Mị cho chúng ta càng thấy rõ sức sông tiềm tàng
trong tâm hồn Mị đế vượt lên sô' phận nghiệt ngã của chính mình là phẩm chất
đáng quý của MỊ. Nhưng râ't tiếc, khát vọng tự do chính đáng của Mị bị dập tắt.
A Sử trói đứng Mị vào cột nhà, tóc Mị hắn quấn vào cột, dây thắt lưng của hắn
trói hai tay MỊ lại và những giọt nước mắt của Mị chảy xuông miệng, xuông cổ,
Mị không lau được. Đẹp thay, dù Mị bị trói đứng trong đau đớn của thân xác lẫn
tâm hồn nhưng Mị vẫn tưởng chừng, mình không hề bị trói và bên tai của Mị
vẫn lửng lờ tiếng sáo hòa cùng với hơi rượu lan tỏa và Mị nhớ đến tiếng gọi của
bạn tình: “Anh ném pao. Em không bắt. Em không yêu quả pao rơi rồi”. Càng
cho ta thấy rõ khát vọng tự do của Mị thật mãnh liệt là vẻ đẹp đáng quý trong
tâm hồn của người phụ nữ thật đáng thương.
3. Vẻ đẹp 3: Mị dũng cảm quên mình để cứu người (A Phủ)
Đêm đêm, Mị dậy thật sớm, nhóm bếp lửa như đế sưởi ấm tâm hồn và thân
xác của Mị. Ngọn lửa đôi với Mị giờ này khác gì như người bạn cùng chia sẻ nỗi
đau của Mị và cũng từ ngọn lửa ấy đã thắp sáng trong tâm hồn Mị một tình
người, một tình thương vì chính ngọn lửa ấy, ánh mắt MỊ mới nhìn rõ A Phủ,
người thanh niên bị trói đứng mấy đêm ngày vì để mất bò của thông lí. Mị nhìn:
“một dòng nước mắt lập lánh của A Phủ bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”,
Mị càng xót thương và nghĩ đến hành động tàn bạo dã man của thông lí vì hắn
đă xem giá trị một con bò hơn sinh mạng một con người, rồi Mị tự độc thoại:
“Chúng nó thật độc ác quá. Cơ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết
189
dau, chết đói, chết rét, phải chết ... Người kia việc gi mà phải chết thế!”. Hàng
loạt những dòng suy nghĩ của Mị biểu hiện tình yêu thương, lòng nhân ái trong
tâm hồn Mị, đã khơi dậy và Mị quên đi nỗi đau của chính mình mà lại nghĩ đến
nỗi đau của người khác, của A Phủ. Càng xúc động hơn, lòng MỊ thương cảm
hơn, khi nhìn những dòng nước mắt của A Phủ, MỊ lại chạnh nghĩ dòng nước
mắt của chính MỊ, lúc A Sử trói đứng Mị vào cột nhà. Khi ấy, “nước mắt của Mị
chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau di được”. Phải chăng, nỗi đau đã
chạm đến nỗi đau, khơi gợi trong lòng Mị một quyết định dứt khoát, làm sao
phải cứu con người đang bị trói ấy “A Phủ” và Mị tự nhủ rằng, nếu bố con thông
lí biết “Mị cởi trói cho A Phủ”, chúng sẽ “trói Mị thay vào đấy, Mị chết trên cái
cộc ấy”. Nhưng trong tình cảnh này “Mị không sợ". Đây là dòng suy nghĩ thật
táo bạo, dũng cảm chứa đựng tình yêu thương trong tâm hồn Mị đôi với những
người cùng khố thật sâu đậm dù MỊ phải chấp nhận hi sinh, MỊ cũng sẵn sàng
đế cứu người, là hành động dũng cảm, thể hiện tấm lòng cao quý trong tâm hồn
Mị biết nhường nào. Đẹp thay! Dù Mị sông trong cái ác, sống trong bạo lực thần
quyền của gia đình thông lí, nhưng tâm hồn Mị vẫn sáng ngời lòng yêu thương
nhân ái và hình ảnh Mị có khác gì như một vì sao rực sáng giữa đêm đen, một
cánh sen trong bùn: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ể nghệ th u ật: Tác giả đi sầu vào đời sống nội tâm nhân vật, xây dựng
những tình huôhg đầy kịch tính, sống động, ngôn ngữ gần gũi với nhân dân, kết
cấu cốt truyện hợp lí lôgic, lời thoại của nhân vật rất thật.
2. v ề nội dung: Tác giả khắc họa thành công nhân vật Mị, điển hình cho
người phụ nữ nghèo ở Tây Bắc dưới chế độ thực dân phong kiến thuở trước. Đẹp
thay! với sức sôhg tiềm tàng, ý thức về thân phận và lòng yêu thương đôd với
cha mẹ, mọi người đã thắp sáng trong tâm hồn MỊ những phẩm chất đẹp mãi
mãi là hình tượng nghệ thuật khó quên là sức sông, giá trị cho tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ” hơn nửa thế kỉ qua.

Để tuyển sinh: Anh (chị) dã học và tìm hiểu tá c phẩm “V ợ c h ồ n g


A P h ủ ” củ a nhà văn Tô Hoài. Thông qua tá c phẩm , hãy nêu
lên s ố phận đau thương của người dân nghèo Tây B ắ c thông
qua nhân v ật A Phủ.

ỊHỈữns kiến thức cần nắm:


1. Đại thi hào Nguyễn Du thương xót cho số phận một kiếp người nghèo khổ qua
lời thơ; “Thương thay cũng một kiếp người”. (Nguyễn Du)
2. Lời người xưa có nói: “Thương người như thể thương thân” hay “Một con ngựa
đau cả tàu bỏ cỏ”; “Lá lành đùm lá rách”. (Tục ngữ)

19 0
3. Có ý kiến rằng:”/íể náo quay lưng trước nỗi đau khổ của kẻ khác chỉ là một
thử quái vật".
4. Có ý kiến rằng;” Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người,
thước đo giá trị con người”. (Lời nhận định)
5. Lời ca dao có nói: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải
thương nhau cùng”. (Ca dao)
6. Nhà văn Nguyễn Khải có nói: “ơ đời này không có con đường cùng, chỉ có những
ranh giới, điều cốt yếu, phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ẩy”.
(Nguyễn Khải)
7. Có lời bày tỏ rằng: “Nhân vật A phu trong truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ” của
nhà văn Tô Hoài lá con người sống có trước có sau, có tình có nghĩa.”
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Thương thay cũng một kiếp người.”
(Nguyễn Du)
Nguyễn Du, một trái tim nhân đạo lớn, từng xót thương cho sô’ phận Thúy
Kiều và xót thương những mảnh đời cơ cực, nghèo khổ dưới chế độ phong kiến thuở
trước, đưa chúng ta nhớ đến nhà vàn Tô Hoài trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
cũng biểu hiện sự đồng cảm xót thương cho sô’ phận người dân nghèo Tây Bắc
dưới chê’ độ thực dân phong kiến. Chúng ta, cần đi sâu vào nội dung tác phẩm
đế tìm thấy sô phận đau thương của người dân nghèo Tây Bắc thông qua nhân
vật A Phủ.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Sô p h ậ n đau thương củ a A Phủ.
1. A Phủ m ột thanh niên khỏe m ạnh, cường trán g , thông minh, nhạy
bén, có tài nhưng không th ể cưới đưỢc vỢ; A Phủ là nhân vật thứ hai
xuyên suôt truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Nói đến A Phủ, anh là người làng
Háng Bla, do căn bệnh dịch đậu mùa tại làng đã cướp đi cha mẹ và anh em của
A Phủ. A Phủ trở thành kẻ mồ côi. Có kẻ lợi dụng, họ đã bán A Phủ cho người
Thái ở vùng thấp đế đổi lây thóc. Cuôi cùng, A Phủ vẫn trôn lên vùng cao. Vì
tính A Phủ thích tự do, phóng khoáng hơi ngang bướng, muôn được sống với núi
rừng rồi A Phủ lưu lạc tại làng Hồng Ngài. Theo bước đi của thời gian, A Phủ
trở nên một thanh niên khỏe mạnh, cường tráng, thông minh, có tài: “Anh cày
rất giỏi, săn bò tót rất bạo, chạy nhanh như ngựa và anh biết đục cuốc, đúc lưỡi
cày”. Một người như A Phủ với tài năng và khỏe mạnh như thế, nhiều người
trong làng thầm thì: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong
nhà chắng mấy lúc mà giàu”. Nói thì nói vậy, cho vui thôi, nhưng với A Phủ làm
gì cưới được vợ vì A Phủ; “Không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”.
Chứng tỏ, tục lệ cưới xin ở Tây Bắc dựa vào sức mạnh của đồng tiền, tư thê’ của
191
gia đình cùng giá trị vật chất thì mới nói chuyện hôn nhân, cưới xin. Chứng tỏ
tục lệ cưới xin ở Tây Bắc lúc ấy lạc hậu, ấu trĩ có khác gì như sợi dây oan nghiệt
trói chặt và cướp đi bao ước mơ, hạnh phúc chính đáng của con người mà A Phủ
chính là nạn nhân.
2. A Phủ thực hiện lẽ công bằng (đánh A Sử) lại trở thành kẻ ở đợ
trừ nỢ nhà Thô"ng lí: A Sử, con trai tên Thôhg lí, hắn ỷ mình là con của quan
có thế lực, có tiền bạc muôn làm gì tùy thích. Hắn cùng lũ bạn tiếp tục đến gây
sự, phá phách cuộc chơi của thanh niên làng Hồng Ngài để chứng tỏ mình là kẻ
anh chị, có quyền tác oai tác quái lên kẻ khác. Lúc ấy, trai làng Hồng Ngài và
các làng khác sợ đụng đến con quan, liên lụy bản thân và chỉ có A Phủ, một
thanh niên có tính tự do phóng khoáng, không muôn kẻ nào phá đám cuộc chơi
của người khác. Lúc ấy, A Phủ “c/iạy vụt ra tay ném con quay rất to vào mặt A
Sử... nắm cái vòng cổ kéo dập đầu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. A Phủ đánh A
Sử nhằm dằn mặt, muôh cho hắn một bài học để chừa thói hông hách, ngang
tàng, nhưng A Sử là con của Thông lí, hơn nữa “Phép vua thua lệ làng”, cuôl
cùng A Phủ bị trói như trói lợn rồi đưa về nhà Thôhg lí, mở cuộc xử kiện và A
Phủ trở thành kẻ tội phạm. Bất công thay, cuộc xử kiện diễn ra, A Phủ bị đánh
đập tàn nhẫn, mặt sưng lên, mí mắt chảy máu. Dù bị đánh nhưng A Phủ “chỉ im
như một tượng đá”, càng thấy rõ hành động tàn bạo dã man của bọn thông trị ở
Tây Bắc lúc ấy và có ai ngờ rằng, người thực hiện lẽ công bằng đem lại quyền
lợi cho kẻ khác lại trở thành kẻ tội phạm, kẻ bị cáo, còn tên Thông lí Pá Tra là
cha của A Sử kẻ gây rôl trật tự, chà đạp lên tự do của người khác, lại ngồi ghế
quan tòa để xử kiện. Trước hành động trái ngược như thế, thì hỏi rằng luật pháp
và công lí đã bảo vệ cho ai? Cho người dân nghèo thâp cổ bé miệng ư! Không,
cuộc xử kiện nhằm phơi bày bộ mặt của bọn thông trị ở Tây Bắc ngang nhiên
chà đạp lên nhân phẩm con người, tước đoạt quyền làm người, phủ nhận cả công
lí và pháp luật, cuôd cùng A Phủ phải bồi thường một trăm đồng bạc. A Phủ phải
vay nỢ Thông lí một trăm đồng để giải quyết. Từ đây A Phủ là con nợ của Thông
lí, A Phủ trở thành kẻ ở đợ trong gia đình Thống lí để trừ nợ, là số phận đau
thương nghiệt ngã của A Phủ.
3. A Phủ đề m ất bò của Thông lí và bị trói đứng cho đến ch ết: A Phủ,
từ đây trở thành kẻ ở dợ, tên nô lệ trong nhà Thông lí để trừ món nợ nghiệt
ngã từ cuộc xử kiện. A Phủ làm quần quật biết bao công việc, nào: “Đốt rừng, cày
nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa..”. Công việc quần
quật nặng nhọc, A Phủ nhiều lúc đã quên mất làng Hồng Ngài, anh không còn
nhận biết bước đi của thời gian, chỉ biết làm việc phục vụ cho gia đình Thông lí.
Không may cho A Phủ, một hôm anh mải mê đi “bẫy nhím” để hổ rừng ăn mất
một con bò của Thông IL Cuôl cùng tên Thông lí trói đứng A Phủ và dùng mây
rừng quấn chặt vào người A Phủ từ chân đến vai vào một cây cột trong góc nhà
cho đến chết. Đây là hành động tàn bạo dã man hơn cả thời trung cổ và có ai
ngờ rằng, một con người như A Phủ đã dô'c hết sức lực mồ hôi của một thanh
19 2
niên cường tráng nhằm đem lại quyền lợi, của cải, vật châ't cho gia đình Thông
lí, nhưng vì sơ suất đế hồ rừng ăn mất bò mà A Phủ bị trói đứng cho đến chết.
Chứng tỏ tên Thông lí, hắn đã xem giá trị vật chât một con bò hơn sinh mạng
một con người mà người đó là A Phủ thì tên Thông lí đâu còn mang tính người,
hắn chỉ là mặt người nhưng dạ thú. Càng thấy rõ bộ mặt tàn ác của hắn, hắn đã
nói với A Phủ rằng: “Tao trói dứng mày cho đến bao giờ chúng nó bắt được hổ.
Nêu không bắt dược hồ, tao sẽ cho mày chết dứng ở chỗ ấy". Lời nói của Thống
lí, lộ nguyên hình, bộ mặt ghê tởm, gian ác của hắn đôl với người dân nghèo,
chân chất như A Phủ. “Thương thay cũng một kiếp người” đang sông dưới chế độ
thực dân phong kiến ở Tây Bắc thuở ấy.

II. PHẦN KẾT THÚC


Tô Hoài với tài năng, tâ"m lòng cùng vô'n sông. Tác giả đã khắc họa thành
công nhân vật A Phủ, điển hình cho người dân nghèo Tây Bắc, phải chịu đựng
bao đọa đày bất công, áp bức của bọn thông trị ở đây là cha con Thông lí Pá
Tra. Bọn chúng được sự dung dưỡng của thực dân đế ra sức hoành hành, tác oai,
tác quái lên nỗi đau của người dân nghèo Tây Bắc, gợi cho chúng ta, lòng căm
thù sâu sắc với bọn thực dân phong kiến Tây Bắc vì bọn chúng cướp đi bao hạnh
phúc chính đáng của con người, chà đạp lên nhân phẩm con người một cách
trắng trợn. Đế thực hiện lẽ công bằng, được sông trong tự do, chúng ta phải thể
hiện tinh thần đấu tranh để giành lại cuộc đời vì “Hạnh phúc là đấu tranh".

Để tuyển sinh; Anh (chị) phân tích tá c phẩm c h ồ n g A P h ủ ” của


nhà văn Tô Hoài để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo tron g tá c phẩm.

ữns kiến thức cần nắm:


1. Có ý kiến rằng; “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa
con người”.
2. Có ý kiến rằng: “Tình thương là thitóc đo giá trị nhân cách con người".
3. Nhà văn Nguyễn Khải có viết: “ơ đời này không có con dường cùng, chỉ có những
ranh giới, diều cốt yếu phải có sitc mạnh dể bước qua những ranh giới ấy”.
4. Lời ca dao có nói; “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", (trích Ca dao)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Trong chương trình văn học 12, giai đoạn 1945 đến 1975. Chúng ta đã học và
tìm hiếu những tác phẩm như “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân\ “Vợ chồng A
Phũ" của nhà vàn Tô Hoài. Mỗi tác giả đều đứng về những người bị áp bức,
những con người nghèo khố cùng đồng cảm, xót thương cho sô' phận của họ. Qua
đó tô cáo tội ác của giai cấp thống trị đồng thời nhà văn đi sâu vào đời sông nội
tâm nhân vật đế thấy được phẩm chất tô't đẹp của họ và hướng cho họ tìm đến
193
một cuộc sô'ng mới hạnh phúc dưới ánh sáng cách mạng. Quả thật, tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài đã viết lên những vấn đề ấy là thể hiện giá
trị nhân đạo sâu sắc.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Giá trị n h â n đạo trong tác p h ẩ m “Vợ ch ồ n g A P h ủ ”
1. Nhân đạo 1: Nhà văn đồng cảm xó t thương cho Mị và A Phủ qua
đó tô cáo tội ác củ a cha con Thôhg lí P á T ra.
a. D ồng cảm xót thương cho Mị.
Chi tiết 1: MỊ, người con gái trẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc, có tài thổi sáo và
thổi lá cũng hay như thổi sáo. MỊ có một tình yêu đẹp, trong sáng, đúng ra MỊ
có quyền được hưởng hạnh phúc. Đau đớn thay! Mị lại rơi vào bi kịch của gia
đình vì “Món nợ hôn nhân” của bô" mẹ Mị ngày trước, cuôì cùng MỊ trở thành
“Con dâu gạt nợ” của gia đình Thông lí. Chứng tỏ, cuộc hôn nhân chỉ là sự mua
bán, đổi chác không tình yêu, không đạo lí và Mị trở thành món hàng của Thống
Lí, chứng tỏ cha con Thống lí chà đạp lên nhân phẩm của Mị thật trắng trợn. Viết
lên được điều ấy, là thể hiện tấm lòng của nhà văn đối với con người cùng khổ,
thân cô, thế cô nhằm phơi bày tội ác bọn thông trị tay sai ở Tây Bắc điển hình là
cha con Thống lí Pá Tra là thế hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
Chi tiết 2: Nhà vàn đã khắc họa hình ảnh Mị từ khi làm dâu nhà Thông lí.
Lúc nào: “Mị cũng cúi xuống”, mặt buồn rười rượi, “lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Hằng ngày, Mị làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm hơn cả con
trâu con ngựa trong nhà Thông lí, nào: “Quay sợi, dệt vải, thái cỏ ngựa, chẻ củi,
xuống suối cõng nước lên ...” và nào: “giặt đay, xe đay, hái củi, hẻ bắp”. Chứng tỏ,
cha con Thông lí bóc lột tận xương tủy sức lao động của Mị, biến Mị trở thành
một thứ công cụ đắc lực phục vụ cho gia đình chúng. Viết lên những vấn đề ấy
bằng những trang văn thấm đẫm tình người là thể hiện tâ'm lòng của nhà vàn
nặng tình với giai cấp cùng khố qua đó nhằm tô" cáo bọn thông trị tay sai điển
hình là cha con thông lí là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
Chi tiết 3: Mị muôn đi chơi xuân khi làng Hồng Ngài ăn tết cũng là chuyện
bình thường của những người phụ nữ đã có chồng. Đau đớn thay! ước vọng được đi
chơi của Mị bị dập tắt bằng hành động tàn bạo, khủng bố, dã man của A Sử, hắn
trói đứng Mị vào cột nhà bằng thúng sợi đay, tóc Mị, hắn quấn vào cột, dây thắt
lưng của hắn trói hai tay của Mị lại. MỊ không còn nhúc nhích, cựa quậy và
“những giọt nước mát của MỊ chảy xuống miệng xuống cổ không biết lau đi dược”.
Tô Hoài miêu tả ước vọng chính đáng của Mị và phơi bày hành động tàn bạo, dã
man của A Sử, chứng tỏ nhà văn luôn luôn đứng về kẻ bị áp bức nhằm tô" cáo tội
ác cha con Thống Lí là thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm.

194
ố. D ồn g c ả m x ó t thưctng c h o A Phủ.
Chi tiêt 1: Nhắc đến A Phủ, chúng ta nghĩ ngay anh là một thanh niên khỏe
mạnh, cường tráng, thông minh, có tài: “Anh biết đục cuốc, đúc lưỡi cày, cày rất
giỏi, chạy nhanh như ngựa, săn hò tót rất bạo". Một người như A Phủ phải được
trọng dụng, phải được hạnh phúc. Oái ăm thay! A Phủ không cưới được vỢ vì “A
Phủ không có bô' niẹ, không có ruộng, không có bạc”, chứng tỏ tục lệ cưới xin ở
Tây Bắc lúc ấy thật ấu trĩ, lạc hậu, khắc nghiệt, có khác gì như sợi dây oan
nghiệt trói chặt bao ước mơ hạnh phúc chính đáng của con người. Tô Hoài viết
lên điều ấy là đứng về giai câ'p bị áp bức nhằm tô’ cáo bọn thông trị Tây Bắc,
điển hình là cha con Thông lí được bọn thực dân dung túng để ra sức hà hiếp
dân nghèo là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
Chi tiết 2: A Phủ, một người thích sông tự do, phóng khoáng, dám tranh đấu
đế bảo vệ quyền lợi cho kẻ khác điển hình là A Phủ đánh A Sử, con trai Thông
lí vì hắn đến gây rô'i trật tự, phá cuộc chơi của thanh niên Hồng Ngài,. A Phủ
đánh A Sử nhằm dạy cho hắn một bài học về sự hông hách cậy thế cậy quyền.
Bất công thay, cuối cùng A Phủ bị trói như trói lợn, bị đánh đập tàn nhẫn trong
cuộc xử kiện, sau cùng A Phủ trở thành kẻ tội phạm, kẻ bị cáo, phải bồi thường
một trăm đồng bạc và kết thúc A Phủ phải đi ở dợ để trừ nợ cho Thông lí. Vậy
công lí, luật pháp đã bảo vệ cho ai? cho giai cấp nào? Tất cả chỉ dành cho bọn
ăn trên ngồi trước, kẻ có thế lực, có uy quyền và sức mạnh của đồng tiền. Bọn
chúng đã chà đạp trắng trợn lên nhân phẩm con người. Tô Hoài thương cám kẻ
nghèo khố bị áp bức, tác giả đứng về phía họ để viết lên nhằm tô’ cáo hành động
tàn bạo, dã man của cha con Thông lí như là tiếng kêu “Hãy cứu lấy con người”,
người dân nghèo Tây Bắc lúc ấy là thế hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
Chi tiêt 3: A Phủ, vì mãi mê “bẫy nhún” anh để hố rừng ăn mất một con bò
của Thông lí rồi A Phủ bị “trói đứng vào một cây cột trong góc nhà bằng dây
mây quấn từ chân dến vai”, là hành động tàn bạo, dã man của Thô’ng lí, hấn đã
xem giá trị vật châ’t một con bò hơn sinh mạng của một con người thì hỏi rằng,
có hành động nào dã man, tàn bạo hơn như vậy không? Và luật pháp, công lí ở
đâu đế bảo vệ cho người dân nghèo cô thê’ trước tình cảnh ấy? Ta hãy nghe tiếng
nói hống hách, tàn ác của tên Thông lí đôi với A Phủ, hắn nói: “Tao trói đứng
mày ở chỗ kia, chừng nào chúng nó hắt được hổ tao mới tha mày khỏi chết. Nếu
không hát dược hổ mày dứng chết ở đấy”. Qua đoạn văn miêu tả của Tô Hoài,
chứng tỏ nhà văn đã thâm nhập vào đời sông thực tế của người dân Tây Bắc,
hiểu được nỗi đau tận cùng của người dân nghèo để viết lên, nhằm tô’ cáo hành
động dã man của tên Thống lí gợi người đọc niềm xót thương cho kẻ nghèo khổ
cô thế, và căm phẫn trước tội ác của Thông lí qua những trang văn lay động
lòng người, là thế hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.

195
B. Nhân đạo 2: Nhà văn nêu lên những phẩm ch ấ t đẹp củ a Mị
và A P h ủ và hướng cho họ tìm đến cu ộ c sô"ng mới dưới án h sáng
cá ch m ạng.
1. Phẩm ch ấ t đẹp củ a Mị.
Chi tiết 1: MỊ ý thức về n h ãn p h ẩ m và th ể h iện đạo làm con.
- Mị ý thức về nhân phẩm: MỊ hiểu được “Món nợ hôn nhân” của bố mẹ MỊ,
buộc MỊ trở thành “Con dâu gạt nợ” cho nhà Thông lí qua câu nói hôhg hách của
hắn với bô" MỊ: “Cho tao đứa con gái mày về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”.
Qua lời nói của tên Thông Lí, Mị cảm thấy nhân phẩm của mình bị chà đạp và
lòng tự trọng của Mị đã khơi dậy và MỊ trả lời với bô rằng: “Con nay đã biết
cuốc nicơng, làm ngô, con phải làm nương ngô giã nợ thay cho bố. Bô đừng bán
con cho nhà giàu”. Tiếng nói của Mị là tiếng nói của ý thức nhằm bảo vệ nhân
phẩm của chính mình là vẻ đẹp tâm hồn của Mị.
~ Mị thể hiện đạo làm con: Mị quyết định và hành động: “ném nắm lá ngón
xuống đất” là hành động dũng cảm, Mị đành trở lại nhà thông lí tiếp tục hi sinh
làm thân trâu ngựa đế bô Mị thanh thản yên lòng cho những năm tháng còn lại
của cuộc đời ông, vì Mị nghĩ rằng: “Mị chết, thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần
bây giờ nữa”. Dòng suy nghĩ, của Mị thế hiện một người con hiếu thảo dù sông
trong cơ cực, đọa đày, tủi nhục nhưng MỊ vẫn thể hiện đạo làm con, Mị có khác
gì như một đóa sen trong bùn: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Chi tiết 2: Mị thể h iện khát vọng tự do:
- Mị khao khát được đi chơi xuân là để được sông đúng như một con người
như bao nhiêu người phụ nữ đã có chồng ở làng Hồng Ngài. Mị nói; “Mị trẻ lắm,
Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”' là tiếng nói của ý thức từ trong tâm hồn Mị,
tiếng nói ấy biểu hiện khát vọng tự do, thế hiện' tinh thần đấu tranh chông lại
cường quyền và thần quyền, chứng tỏ Mị có một ý tưởng sông đẹp, thể hiện một
khát vọng tự do là vẻ đẹp của nhân cách trong tâm hồn MỊ.
Chi tiết 3: Mị h à n h dộng, d ũ n g cảm đế cứ u ngưỉríẨ.ộA Phủ).
Dù MỊ sông trong cơ cực, đọa đày đau khố từ thân xác đến tâm hồn nhưng MỊ
vẫn không dửng dưng trước nỗi đau kẻ khác, nỗi đau của những người đồng cảnh
ngộ. Tình huông cảm động nhất; “lúc lé mắt trông sang....\Mị nhìn dòng nước
mắt lấp lánh của A Phủ bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. MỊ lại nghĩ về
dòng nước mắt của mình năm trước mà A Sử đã trói đứng Mị, lúc ấy: “nước mắt
chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. MỊ nghĩ mình rồi lại
thương người và Mị quyết định cứu A Phủ bằng con idao nhỏ cắt lúa dù MỊ biết
rằng, cứu A Phủ thì “bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị sẽ cởi trói cho A Phủ” thì “Cha
con Thống lí sẽ trói Mị thay vào đấy” và “Mị phải chết trên cái cọc ấy ”, nhưng
“Mị củng không thấy sợ”, đây là dòng suy nghĩ táo bạo, dũng cảm -quên mình đê
cứu người của Mị là phẩm chất’đáng ca ngợi.
196
2. Phẩm ch ất dẹp củ a A Phủ:
Chi tiết 1: A P hủ thực h iện lẽ cô n g bằng.
A Phủ dù không còn cha mẹ, anh em, tứ cô vô thân nhưng A Phủ có một quan
niệm sông đẹp. Hành động của A Phủ đánh A Sử là hành động dũng cảm, táo
bạo nhằm thực hiện lẽ công bằng cho mọi người là vẻ đẹp đáng quý của A Phủ.
Chi tiết 2: A P hủ th ể h iện tỉnh thần p h ả n kháng.
Lúc A Phủ bị trói đứng bằng dây mây, quấn từ chân đến vai, thân thế của A
Phủ đều bầm tím rồi khi đêm xuông: “A Phủ đã dùng răng, nhai đứt dây mây”
đế tìm cách trôA thoát là thế hiện tinh thần phản kháng, cùng khát vọng tự do
của A Phủ là vẻ đẹp đáng ca ngợi.
Chi tiết 3: Thế h iện con người sống có trước có sau.
Cuộc chạy trôn của A Phủ đầy kịch tính. Lúc A Phủ vừa trốn thoát cũng
chính là giây phút, niềm khát vọng tự do của Mị khơi dậy rồi Mị vùng chạy theo
A Phủ cùng với tiếng nói của Mị trong đêm tôl: “A Phủ cho tôi đi. ơ dây thì chết
mất”. A Phủ nhìn lại rồi bật lên tiếng gọi: “Đi với tôi”. Chỉ có ba từ ngắn gọn
“Đi với tôi" nhưng chứa đựng một tấm lòng nhân hậu, sông có trước có sau, có
tình có nghĩa của A Phủ là phẩm chất đạo đức đáng quý của A Phủ. í ;..
3. Nhà văn hướng nhân v ật tìm đến m ột cuộc sông mới hạnh phúc
dưới ánh sáng cá ch mạng.
Kết thúc côt truyện, nhà văn định hướng cho những con người cùng khố như
MỊ, A Phủ tìm một lôl thoát đó là hành động dũng cảm của Mị đã cứu A Phủ, là
bước ngoặt đem lại một kết thúc có hậu, tô't đẹp. Mị cứu A Phủ, chính là giây
phút, khoảnh khắc quý báu nhất đã giúp cho Mị tự cứu cuộc đời mình, giải thoát
cho mình trôn khỏi nhà Thông lí, khỏi làng Hồng Ngài. Và hai con người ấy, họ
đã đến với nhau và tìm đến khu du kích Phiềng Sa, họ trở nên vỢ chồng và tiếp
cận được ánh sáng cách mạng từ cán bộ A Châu và họ trở thành những người du
kích tích cực cùng nhân dân Tây Bắc đứng lên dưới ngọn cờ cách mạng để giải
phóng Tây Bắc và giải phóng cho chính cuộc đời họ và số phận họ đã đổi thay. Họ
đã đi từ trong bóng tối, tìm ra ánh sáng, từ đau khổ tìm thấy hạnh phúc từ nô lệ
tìm thấy tự do để bước sang một cuộc sông mới tốt đẹp dưới ánh sáng cách mạng.
Phải chăng, muốn tìm đến hạnh phúc, thay đổi số phận chúng ta phải biết đoàn
kết, tạo thành sức mạnh để cùng đấu tranh dưới ngọn cờ cách mạng, đó là tấm
lòng của nhà văn luôn luôn tha thiết cuộc sống con người được sống tốt đẹp, được
sống hạnh phúc là thế hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Côt truyện phản ánh cuộc sông thực tế của người dân Tây
Bắc rất thật. Với ngôn ngữ giàu tính nhân dân, tình huôAg truyện sống động,
giàu kịch tính, đi sâu vào đời sông nội tâm của nhân vật, lời thoại của nhân vật
.^hân thật gần gũi.
197
2. v ề nội dung: “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm đặc sắc viết về đề tài
miền núi ở phía Bắc trong giai đoạn văn học 1945-1955. Tác phẩm nêu bật
những vấn đề của con người. Nhà văn luôn luôn đứng về những người cùng khổ,
bị áp bức để cùng đồng cảm thương xót họ qua đó tô' cáo bọn thông trị, tay sai ở
Tây Bắc ngày ấy và nêu lên những phẩm chất đẹp của họ, hướng cho họ một
hướng đi đúng đắn dưới ánh sáng cách mạng đế’ cùng đâu tranh giành lại cuộc
đời, giành lại quyền con người. Tâ't cả những vấn đề ấy, được viết lên bằng
những trang văn thấm đẫm tình người là thể hiện giá trị nhân đạo trong tác
phẩm. Quả thật: “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài là “một tác phẩm văn
học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”.

VỢ N H Ặ T
KIM LÂN

Đề tuyến sình: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tá c; ý nghĩa nội dung và chủ đề
tru yện ngắn “Vợ n h ặ t ” của nhà văn Kim Lân.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “Vợ n h ặ t ” trong tác phẩm cùng tên
của nhà văn Kim Lân.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Hoàn cảnh sáng tá c, ý nghĩa nội dung và chủ đề tru yện ngắn
“Vợ n h ặ t ”.
1. Hoàn cảnh sáng tá c:
Năm 1940, Pháp rước Nhật vào đất nước ta. Từ đây nhân dân ta phải chịu một
cổ nhiều tròng với thực dân, phát xít, phong kiến. Thực dân Pháp ra sức bóc lột
người dân bằng thuế, phát xít Nhật bắt người nông dân nhổ cây lúa trồng cây đay.
Cuối cùng nhân dân ta rơi vào nạn đói vô cùng khủng khiếp nhất trong lịch sử năm
1945 (mùa xuân năm Ât Dậu) từ Quảng Trị đến Lạng Sơn hơn hai triệu đồng bào ta
chết vì đói.
Kim Lân sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh này. Trước nỗi đau thương của dân tộc,
ông đã viết lên tiểu thuyết “Xóm ngụ cứ ’, sau đó bị thất lạc bản thảo. Nàm 1954 hòa
bình được lặp lại, tác giả tiếp tục dựa vào tiểu thuyết “Xóm ngụ cừ” để xây dựng truyện
ngắn với tựa đề “Vợ nhặt”. Tác phẩm này được in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản
năm 1962.
2. Ý nghĩa nội dung: Có hai ý chính.
Ý 1: Nhà văn thương xót nhân dân lao động nghèo, họ phải chết vì đói, qua
đó tô' cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói này.

198
Y 2: Nhà văn ca ngợi những phẩm chất đẹp của người dân lao động nghèo.
Họ biêt đùm bọc yêu thương trước nạn đói và hướng cho họ, tìm đến ánh sáng
cách mạng để sô" phận của họ thay đổi tô"t đẹp.
3. Chủ đề: Tác giả Kim Lân đã từng phát biểu khi nói về truyện “Vợ
Nhặt”:”... Khi đói người ta thường nghĩ đến cái chết.”Nhưng theo tôi, khi viết “Vợ
Nhặt” là khi đói, người ta không nghĩ đến sự chết mà chỉ nghĩ đến sự sông. Dù
trong cảnh khốn cùng, người ta vẫn khao khát sô'ng...sống cho ra người”. Trong
khi nạn đói đe dọa tính mạng mọi người thì Tràng “Nhặt” được vỢ, tạo nên một
mái ấm gia đình. Chính mái ấm hạnh phúc gia đình là nguồn năng lượng tinh
thần, là chất xúc tác giúp cho người ta có sức mạnh vượt lên cái chết. Sự cưu
mang đùm bọc nhau trong những ngày đói, giúp con người ta, có đủ nghị lực
vượt lên sự khắc nghiệt của hoàn cảnh và hi vọng một cuộc sông tô"t đẹp hơn mà
cách mạng mang đến.
Câu 2. Giải thích tựa đề “V ợ N h ặ t ”:
Tựa đề “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, truyện đã thu hút sự chú ý của mọi
người. Tên truyện “Vợ nhặt” vừa gợi cười vì ở đời làm sao có chuyện “Vợ nhặt”! Vợ
không phải do cưới hỏi theo tục lệ truyền thông mà là vỢ theo không về, vừa gợi
lên nỗi đau xót cho sự đói rách, nghèo khổ, làm cho con người trở nên rẻ rúng, vỢ
mà chỉ như đồ vật, nhặt từ ngoài đường mang về, thật xót xa, thương cảm, bùi
ngùi qua đó tô" cáo tội ác của thực dân, phát xít trên đất nước ta lúc bấy giờ.

Để tuyến sinh: Anh (chị) phân tích quá trình diễn biến tâm trạn g
người mẹ nghèo b ất ngờ trước hạnh phúc củ a con, thông qua
nhân v ật bà cụ Tứ, để làm sáng tỏ hình ảnh “Đ ằ n g s a u tấ m á o v á
c ủ a n g ư ời m ẹ n g h è o l à m ột tấ m lò n g v à n g ”.

ịS Ỉ ững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Cô nhạc sĩ Y Vân ca ngợi tấm lòng người mẹ: “Lòng mẹ bao la như biển Thái
Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”, (trích ”Lòng mẹ”
- Y Vân)
2. Lời người xưa có nói: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông củng cạn”.
(Lời nhận định)
3. Lời người xưa có nói: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. (Lời người xưa)
4. Có lời nhận định rằng: “Đằng sau tấm áo vá của người mẹ nghèo là một tấm
lòng vàng". (Lời nhận định)
5. Triết gia Nayrac (người Áo) đã nói: "Niềm vui là hương thơm của cuộc đời,
làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ.” (Nayrac)
6. Có lời bày tỏ rằng:” Mất mẹ là mất cả bầu trời”. (Lời nhận định)

199
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Binh dạt dào
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”.
(trích “Lòng mẹ" - Y Vân)
Mẹ! mãi mãi là tiếng gọi thiêng liêng trong tiềm thức của mỗi con người. Mẹ
là dòng sữa ngọt ngào, lời ru â'm áp, là bầu trời sưởi ấm hơi thở cho con. “Mất
mẹ là mất cả bầu trời”. Hôm nay để tìm thấy tấm lòng người mẹ, tấm lòng cao
quý, kính yêu đưa chúng ta nhớ đến truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà vàn Kim
Lân, in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Nhà văn khắc họa hình
ảnh người mẹ nghèo thông qua nhân vật bà cụ Tứ cũng thật đẹp. Chúng ta cần
phân tích đế làm sáng tỏ hình ảnh: “Đằng sau tấm áo vá của người mẹ nghèo là
một tấm lòng vàng.”
II. PHẦN TRỌNG TÂM
T ăm tr ạ n g d iễ n h iế n c ủ a n g ư ời m ẹ n g h è o trư ớ c h ạ n h p h ú c b ấ t n g ờ
c ủ a co n th ô n g q u a n h â n v ậ t b à cụ Tứ.
1. Tâm trạn g 1: B à ngạc nhiên lẫn vui mừng.
a. N g ạ c n h iê n : Tràng chỉ có hai lần đưa thóc của liên đoàn lên tỉnh rồi gặp
một người phụ nữ ở cửa kho, cùng những câu nói đùa và lòng tô"t bụng của
Tràng, không ngờ anh được vỢ. Khi Tràng đưa Thị về nhà giới thiệu với mẹ “Thị
vẫn ngồi mớm ở mép giường”, hai tay khư khư ôm chặt cái thúng con như một cô
dâu mới. Bà cụ Tứ đi chơi ở xóm về, bâ't ngờ trong đôi mắt kèm nhèm của bà, đã
phát hiện có “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình
thế kia”, rồi lại chào bà bằng “u?”. Bà tự hỏi: “Ai thế nhi'? Sao lại chào mình
bằng 11?”. Từ ngạc nhiên này đến ngỡ ngàng khác, người mẹ chưa rõ cớ sự
nhưng khi Tràng cất lên tiếng nói; “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!
Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... chẳng qua nó cũng là cái sô cả...”. Từ
lời nói thật của Tràng, người mẹ mới hiếu rõ cớ sự. À! người đàn bà kia chính là
vỢ của con trai mình, là dâu của mình. Từ sự ngạc nhiên, bàng hoàng, người mẹ
không phản đôi, không nói cạnh nói khóe trước sự hiện diện của người phụ nữ
ấy mà người mẹ biếu hiện sự bao dung, nhân ái khi nghĩ về người phụ nữ kia
thật đáng thương vì bà nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người
ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Đây là dòng suy nghĩ
rất thật râ't tử tế của bà cụ Tứ.
b. Vui m ừ n g: Từ ngạc nhiên, chuyến qua sự vui mừng trong lòng người mẹ
trước hạnh phúc mới của con mà bà không ngờ đến. Rồi người mẹ cất lên tiếng
nói: “ư, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà
xưng mình bằng “ơ ” và gọi bằng hai tiếng “Các con", chính là giây phút thiêng
liêng cùng tiếng nói vui sướng nhất khi người mẹ xác lập cuộc hôn nhân của con
trai mình với niềm hoan hỉ trong lòng. Với tiếng gọi “U cũng mừng lòng” thô't

200
ra từ trái tim người mẹ, thật sự, bà đã vui khi nhìn thấy cuộc sông mới của con
đã hiện hình, dù nạn đói hoành hành và cái chết đe dọa đôl với con người trong
xóm ngụ cư nhưng tấm lòng người mẹ vẫn mở rộng, đồng cảm, chia sẽ, yêu
thương trước hạnh phúc mới của con là phẩm châ't đẹp trong tâm hồn người mẹ.
2. Tâm trạ n g 2: B à tủ i p hận lẫ n lo âu.
' a. Tủi p h ậ n : Đối diện trước hạnh phúc, cuộc sông mới của con, người mẹ
chang có gì cho con kế cả vài mâm cơm ra mắt xóm giềng cũng chẳng có. Trước
giây phút ấy, người mẹ tủi phận, trách hờn cho sô’ kiếp của riêng mình với lời
độc thoại: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làni nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì ... Trong kẻ
mát kèm nhèm của bà lại rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Nhà văn đi sâu vào đời
sông nội tâm nhân vật, hiểu rõ nỗi lòng người mẹ nghèo chẳng có gì cho con
trước việc xây dựng một hạnh phúc gia đình mà người mẹ chỉ có trái tim, tấm
lòng yêu thương các con mà thôi.
6. Lo âu: Xóm ngụ cư vẫn tiếp tục với tiếng trông thúc thuế, dồn dập. “Đàn
quạ trên tưng cây gạo ngoài bãi chợ bay vù lên như những dám mây đen, gào
lên từng hồi thê thiết”, đêm đêm “có tiếng hờ khóc vẳng đến từ phía những nhà
có người chết đói”. Đó là những âm thanh lo sợ, hãi hùng đang đe dọa cuộc sông,
sinh mạng con người trong xóm ngụ cư, thì người mẹ nào lại không lo âu trước
cuộc sông của các con, không biết rồi đây sẽ ra sao? Chúng nó, có vượt qua nạn
đói này không? Những suy nghĩ ấy cứ hiện rõ trong tâm trí người mẹ và niềm xúc
động của bà, bà đã thốt lên cùng với các con: “Năm nay thì đói to đấy! Chúng mày
lấy nhau lúc này u thương quá..”. Chỉ có ba từ giàu sức biểu cảm “U thương quá”
thôt lên từ trái tim người mẹ và “nước mắt của bà cứ chảy xuống ròng ròng” như
bày tỏ tấm lòng yêu thương lo lắng của bà đối với các con trước cái đói cái chết
đang đe dọa nhưng người mẹ đành bất lực, chỉ biết đau đáu trong lòng và cầu
mong cho con hãy sống hòa thuận vượt qua “được cái tao đoạn này”.
3. Tâm trạ n g 3: B à ch ia sẽ trư ớc cuộc sống mới củ a con.
Tình h u ống 1: B à tạo không k h í ấm áp cho g ia dinh. Trong niềm vui xôn
xao của người mẹ trước cuộc sống mới của con, bà thốt lên những lời dặn dò như
nguồn động viên tiếp sức cho các con trước cuộc sông khó khăn này, bà nóì\“Nhà
ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà
ông giời cho khá... Biết thế nào liỡ con, ai giàu ba họ ai khó ba đời?”. Qua đoạn
văn miêu tả thật sinh động, hiện thực, nhà văn đã hiểu rõ được nội tâm của nhân
vật, thấy được tấm lòng người mẹ đầy ắp tình yêu thương con, rồi bà đã vận đụng
lời nói của người xưa và bằng sự trải nghiệm của chính mình để dặn dò các con.
Phải chăng, những lời dặn dò quý báu ấy của bà là thứ nhu cầu tinh thần là tài
sản vô hình quý báu mà người mẹ đã chuyển tải lại cho con. Và bà mong sao: “cốt
làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi” vì bà hiểu rằng: “Thuận vợ thuận
chồng tát biển Đông cũng cạn", tất cả sẽ vượt lên số phận khắc nghiệt trước cuộc

201
sống tiếp đến với lời đề nghị của bà thật có ý nghĩa. Bà nói: “Có dầu đấy à! ư! hãy
thắp lên một tí cho sáng sủá". Lời đề nghị của người mẹ trong giờ phút này, mang
một ý nghĩa thật đẹp dù biết rằng dầu rất quý nhưng bà vẫn muốn thắp lên để ánh
sáng từ hai hào dầu ấy sẽ xua tan bóng đêm tăm tối, nghèo khổ của gia đình bà
suốt bao nhiêu năm qua và hi vọng một cuộc sống mới tốt đẹp. Bà cũng rất tâm lí,
hiểu được cuộc sông hạnh phúc của vỢ chồng cần phải có một không gian riêng rồi
bà đề nghị với Tràng: “Khi nào không có việc hãy tìm ít nứa, đan tấm phên rồi
ngăn ra mày ạ”. Hàng loạt những lời nói của người mẹ giàu kinh nghiệm, từng trải
trước cuộc sống như là một thứ nhu cầu tinh thần quý báu cho con, là nguồn động
viên tạo cho các con niềm tin yêu vào cuộc sống, chính là tấm lòng người mẹ.
Tình h u ốn g 2: B à ch ia sẻ trước h ạ nh p h ú c mới củ a con. Bà dậy thật
sớm, bà cùng người dâu quét dọn nhà cửa, sân vườn tạo nên một không khí
quang đãng, sáng sủa trong gia đình, tiếp đến bà chuẩn bị thật chu đáo bữa ăn
sáng như là buổi ra mắt dâu con. Bữa ăn rất đạm bạc, chỉ có nồi cháo loãng,
lỏng bỏng, một lùm rau chuôi thái rôi, một đĩa muôi và một nồi chè nâu bằng
cám mà bà khen “ngon đáo để cờ". Bữa ăn, tuy đạm bạc nhưng lại chứa đựng cả
tình yêu thương từ tấm lòng của người mẹ. Bà luôn luôn gieo cho các con hãy tin yêu
vào cuộc sống và trong bữa ăn, bà lão nói: “toàn chuyện vui”, “chuyện sung sướng về
sau này", bà còn đưa ra lời đề nghị rất thực tế là bảo với Tràng khi nào có tiền mua
đôi gà về nuôi tạo nguồn thu nhập thêm trong gia đình. Bà tiếp tục gieo vào lòng
các con niềm tin vào cuộc sống, vững tin trước cuộc sống sẽ đem lại sự tốt đẹp.
Chứng tỏ rằng, khi người mẹ bất ngờ trước hạnh phúc của con, khi biết con có một
gia đình, bà cụ Tứ không có gì cho con về giá trị vật chất, về tài sản nhưng bà đã
cho con bằng tất cả tinh yêu thương chân thành từ trái tim người mẹ qua nhũhg cử
chỉ, lời nói, hành động của bà, có khác gì như một thứ tài sản vô hình quý báu, là
thứ nhu cầu tinh thần sẽ là chất xúc tác, nguồn động viên cho các con của bà vững
tin trước cuộc sống để vượt qua mọi khó khăn trước mặt.

III. PHẨN K Ê T THÚC


1. v ề nghệ thuật: Tác giả khắc họa thành công nhân vật bà cụ Tứ, đi sâu vào
đời sống nội tâm nhân vật; sử dụng ngôn ngữ gần gũi của người dân lao động, xây
dựng những tình huống đầy kịch tính, hợp lí, logic, lời thoại của nhân vật rất
thật, chân tình.
2. v ề nội dụng: “Vợ ìihặt” nêu lên hình ảnh người mẹ nghèo trước nạn đói,
dù cho cái đói, cái chết luôn luôn đe dọa cuộc sống, sinh mạng của con người.
Nhưng đẹp thay, bà mẹ nghèo khi đôl diện trước hạnh phúc của con đã hiện
hình, người mẹ trải rộng cả tấm lòng mình, cùng đồng cảm, yêu thương, chia sẻ
với các con bằng những lời nói, cử chỉ, hành động thật chân tình, yêu thương
hết lòng là tấm lòng bao la cao quý của người mẹ. Đúng như lời nhận định;
“Đằng sau tấm áo vá của người mẹ nghèo là một tấm lòng vàng". Hình ảnh bà
cụ Tứ mang vẻ đẹp đáng quý như thế.

202
Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích nhân vật T ràng trong tru y ện ngắn
“Vợ n h ặ t ” củ a nhà văn Kim Lân để làm sáng tỏ ý kiên: “Đằng sau
hình ảnh người thanh niên thô kệch, xấu tra i củ a xóm ngụ cư lại
có m ột cách sông đẹp”. ______________

|JB ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Bần cùng sinh đạo tặc". (Tục ngữ)
2. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sông cao nhất con người. Kẻ nào
quay lưng trước nỗi đau người khác chỉ là thứ quái vật". (Lời nhận định)
3. Lời người xưa có nói; “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. (Tục ngữ)
4. Lời nhận định của Marx có ghi: “Hạnh phúc là đấu tranh”. (Marx)
5. Những từ ngữ cần nắm:
- “Rích bố cu”: Tiền nhiều
- “Cũng chợn”: Thế’ hiện sự lo nghĩ về cuộc sôhg khó khăn trước mặt.
- “Chậc! Kệl”: Thể hiện chút lo nghĩ nhưng cuôl cùng bằng lòng đón nhận.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Bần cùng sinh đạo tặc”.
(Lời người xưa)
Nhưng đẹp thay! trước cái bần cùng ấy, con người vẫn số^ng, vẫn toát lên cách
sông đẹp, “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Cách sông đẹp ấy đưa chúng
ta nghĩ đến nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân
trích trong tập “Con chó xấu xi” xuất bản năm 1962 cũng thể hiện một cách
sôhg đẹp như thế.
Cần đi sâu từ hoàn cảnh cuộc sông của nhân vật Tràng trong tác phẩm để
tìm thấy: “Đàng sau hình ảnh người thanh niên thô kệch xấu trai của xóm ngụ
cư lại có một cách sông đẹp”.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Cách sống đ ẹp củ a n h ản vật Tràng.
1. Vẻ đẹp 1: T ràng thể hiện tình người sâu sắc.
a. v ề g ia cả n h : Tràng, một thanh niên nghèo, xấu trai, thô kệch, làm nghề
kéo xe mướn, sôhg trong xóm ngụ cư. “Ngày nào có việc thì mới có cái ăn, ngày
nào không việc, mẹ con cùng chịu đói”, Tài sản trong nhà chẳng có gì cả ngoài
càn nhà tranh đứng rúm ró trong đám cỏ dại, một vài quần áo đã rách và hai
ang nước đã khô bên gốc ổi.

203
b. v ề ngoại cả n h : Xóm ngụ cư cùng chung sô phận trước nạn đói, “...không
buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây
nằm còng queo bên đường” và “người chết như ngả rạ” cùng tiếng hờ khóc của
những gia đình có người chết kết hợp tiếng trông thúc thuế dồn dập với bao lo
sợ hãi hùng trước cuộc sông của người dân xóm ngụ cư.
c. v ề cách sống dẹp của Tràng: Trước tình huông như thế, lúc Tràng chuyển
thóc của liên đoàn lên tỉnh, tình cờ anh gặp người phụ nữ, chỉ có hai lần trao đổi
vu vơ qua loa. Tràng không hiểu gì về gia cảnh của Thị nhưng khi đối diện với
Thị, thấy Thị xác xơ đói rách quá. Lúc ấy, Tràng tự nguyện dành cho Thị bốn bát
bánh đúc trước cơn đói là thế hiện tấm lòng tốt của Tràng vì anh biết chia sẻ
trước nỗi khố của người khác, mặc dù Tràng cũng nghèo không hơn gì họ nhưng
qua đó mới thấy được một tấm lòng đến với một tấm lòng, tấm lòng cùng đồng
cảm và chia sẻ là cách sống đẹp của Tràng.
2. Vẻ đẹp 2: T ràng khao khát m ột mái âm gia đình.
а. C hi tiết 1: Tràng chuyến thóc của liên đoàn lên tỉnh, tình cờ Tràng gặp
một người phụ nữ, chỉ có hai lần trao đối vu vơ “tầm phơ tầm phào đâu có hai
bận”. Tràng không biết gì về gia cảnh của người ấy nhưng từ câu nói đùa của
Tràng đã đưa anh đến một tình huống phân vân, khó xử lúc ban đầu. Tràng nói:
“Này nói đùa, chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về", ngờ đâu
câu nói đùa của Tràng, người phụ nữ ấy lại hành động thật. Lúc đầu Tràng cũng
“chạn”, biểu hiện sự lo lắng trước cuộc sống mà cái đói, cái chết đang rình rập,
đe dọa. Tràng nghĩ, nếu Thị theo mình về thì lấy gì mà nuôi, lấy gì cùng chia sẻ
trước cơn khó khăn đói khố này, rồi suy nghĩ ấy lại tan biến, và một cảm nhận,
một suy nghĩ mới ở Tràng chợt đến, và Tràng quyết định, đón nhận người phụ
nữ kia theo mình cùng về với hai tiếng thầm thì “chậc; kệ!". Chỉ có hai từ ngắn
gọn “chậc! kệ!” đã nói lên một quyết định táo bạo, một hành động dũng cảm của
Tràng và cuôl cùng Tràng đã mở rộng đôi cánh tay đón nhận người phụ nữ kia
theo Tràng cùng về là thề hiện niềm khao khát một mái ấm gia đình mà bao
năm qua vẫn nằm sâu trong tiềm thức của Tràng và giờ phút này niềm khao
khát ấy mới thật sự khơi dậy. Phải chăng, niềm khao khát hạnh phúc đơn sơ,
khao khát về một mái gia đình của Tràng, chính là lúc, anh đã vượt lên sự khắc
nghiệt của hoàn cảnh khó khăn, vượt lên trên cả cái đói, cái chết để được có một
mái ấm gia đình, là thế hiện một sức sông mãnh liệt, một nghị lực sống của
Tràng cũng là cách sông đẹp trong tâm hồn anh.
б. C hi tiết 2: Trên đường Tràng đưa Thị về nhà vào một buổi chiều, niềm vui
sướng thật sự dã khơi dậy trong lòng Tràng từ ánh mắt, cử chỉ, dáng vẻ. Tràng
đi bên Thị, vẻ mặt của Tràng “phán phở khác thường ” có lúc Tràng “tủm tim
cười nụ một mình” và trong đôi mắt của Tràng lại “sáng lên lấp lánh”. Chứng
tỏ, nhà văn đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, thấy rõ niềm hạnh phúc đơn
204
sơ thật sự đã khơi dậy trong lòng Tràng để cùng hướng về một mái ấm gia đình,
xây dựng một cuộc sông mới thì trên đường đưa Thị về nhà Tràng mới vui mới
hớn hở đến thế. Quả thật; “Niềm vui là hương thơm của cuộc dời, làm thay đổi
cả máu huyết và trí tuệ” ồ Tràng lúc ấy.
c. Chi tiết 3: Sau đêm tân hôn, Tràng cảm thấy trong người “ém ái lửng lơ
như người vừa trong giấc mơ đi ra”, chứng tỏ, Tràng cảm nhận một hạnh phúc
thực sự đã đến với chính mình. Và trong suy nghĩ của Tràng, anh bỗng dưng
“thương yêu gán bó với căn nhà của anh lạ lủng”. Với anh, căn nhà sẽ là “cái tồ
ấm che mưa che nắng... anh cùng vợ sinh con đẻ cái ở dấy” và anh cảm thấy
“bây giờ anh nên người, có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Những
dòng suy nghĩ của Tràng, biểu hiện niềm khao khát một mái gia đình thật sự,
một ước mơ chính đáng của con người khi đã trưởng thành là thế’ hiện cách sông
đẹp của Tràng.
3. Vẻ đẹp 3: T ràn g tin yêu vào ánh sáng cách m ạng sẽ đổi đời.
Đôi diện trước cái đói, cái chết luôn luôn đe dọa, rình rập những người trong
xóm ngụ cư. Tràng hiểu rõ điều ấy nhưng không vì “cái khó bó cái khôn” mà từ
trong đau thương đói nghèo, Tràng vẫn nắm được những thông tin mang tính
thời sự nóng bỏng đó là tin tức về cách mạng, con đường đấu tranh để giải thoát
đỏi nghèo và Tràng hiếu được “Việt Minh đã phá kho thóc của Nhật đ ể chia cho
người đói” là một hành động đúng đắn và anh chợt nghĩ: “cảnh những người
nghèo đói ầm ầm kéo nhau di trên đê Sộp. iĐằng trước có lá cờ đỏ to lắm” là
biểu tượng cho con đường đấu tranh giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ cách mạng
và “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” là biểu
' hiện niềm tin yêu hi vọng vào con đường đấu tranh của cách mạng của Đảng và
trong suy nghĩ của Tràng, rồi đây nhân dân lao khổ sẽ cùng đứng lên đấu tranh
giành lại cuộc đời mình, cuộc đời của dân tộc là suy nghĩ hoàn toàn đúng đắn
của Tràng trước hoàn cảnh của đất nước là thế hiện một ý tưởng đẹp trong tâm
hồn Tràng.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. v ề nghệ th u ật. Tác giả đi sâu vào đời sông nội tầm nhân vật, xây dựng
tình huông sông động, chân thật, kịch tính, ngôn ngữ gần gũi với nhân dân, lời
thoại của nhân vật vất thật.
2. v ề nội dung. Nhà văn khắc họa thiành công nhân -vật Tràng, một con
người ở ngoài đời nhưng bước vào tác phẩm là hình tượng nghệ thuật sông, rất
thật, rất người giúp cho ta thấy rõ: “Đằng sau hình ảnh người thanh niên thô
kệch, xấu trai của xóm ngụ cư lại có một cách sống đẹp”. Tràng là người thanh
niên mang vẻ đẹp như thế.

205
Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích hình ảnh “N gười vỢ n h ặ t” trong
tá c phẩm “Vợ n h ặ t” trích tron g tập “Con chó xấu x í ” x u â t bản
năm 1962 củ a nhà văn Kim Lân để thây rõ “Đằng sau cá i khuôn
m ặt lưỡi cày xám xịt của người “Vợ n h ặ t” là th ân phận đáng
thương cùng những vẻ đẹp đáng quý của Thị”.

ịS Ỉ ững kiến th ứ c cầ n nắm .


1. Đại thi hào Nguyễn Du từng thô"t lên trước sô" phận đau thương của người phụ
nữ: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Nguyễn Du).
2. Có lời nhận định rằng: “ơ đời này không có con đường cùng, chỉ có những
ranh giới, diều cốt yếu phải có sức mạnh đ ể bước qưa những ranh giới ấy”.
(Nguyễn Khầi)
3. Có ý kiến rằng: “Vượt lên sự khắc nghiệt cua sô phận đ ể được sống được tồn
tại là nghị lực sống là phẩm chất đáng quý của con người”. (Lời nhận định)
4. Lời tục ngữ có nói: “Nghèo cho sạch, rách cho tham”. (Tục ngữ)
5. Lời tục ngữ có nói: “Bần cùng sinh đạo tặc”. (Tục ngữ)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Dau dán thay phận đàn bà
Lời ràng bạc mệnh cũng là lời chung”.
(trích “ Truyện Kiềư - Nguyễn Du)
Lời thơ thống thiêt của đại thi hào Nguyễn Du trước sô phận đau thương của
người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thuở trước, đưa chúng ta nhớ lại truyện
ngắn “Vợ nhặt" trích trong tập “Con chó xấu xí” xuâ"t bản năm 1962 của nhà văn
Kim Lân, tác giả khắc họa hình ảnh người phụ nữ vùng đồng bằng Bắc Bộ, đang
đôi diện trước cái đói, cái chết. Nhưng đẹp thay, người phụ nữ ấy đã vượt lên sự
nghiệt ngã của sô phận đế được sông, được tồn tại. Quả thật; “Đằng sau cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt của người “Vợ nhặt” là thân phận đáng thương cùng
những vẻ đẹp dáng quý của Thị”.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


1. Thân phận đáng thương của người vỢ nhặt.
a. Hoàn cả n h làm biến d ạ n g diện mạo củ a người vỢ nhặt: Nạn đói năm
1945 cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Lạng Sơn. Chính nạn
đói ấy, làm biến dạng biết bao nhiêu con người mà hình ảnh người vỢ nhặt thế
hiện rất rõ. “Thị” là một người phụ nữ nông thôn mạnh mẽ, đảm đang nhưng
cũng từ nạn đói, hình ảnh của Thị đã biến dạng, thay đối khác thường. Lần đầu

206
tiên Tràng gặp Thị, diện mạo của Thị khác, nhưng lần thứ hai Tràng lại gặp
Thị, Tràng không nhận ra, với “cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai
con mát", thân hình “Thị gầy sộp hẳn đi" và “áo quần tả tơi như tổ đỉa”. Chứng
tỏ, Thị đang đói. Chính hoàn cảnh cuộc sông, làm thay đổi diện mạo, dáng vẻ
con người, càng thấy rõ tội ác của thực dân, phát xít chúng đã gây ra thảm cảnh
đau thương trên đất nước ta lúc bấy giờ.
6. H o à n c ả n h là m th a y đ ổ i tín h c á c h c ủ a n g ư ời “V ợ n h ặ t ”: Ai ai cũng
thừa nhận rằng, người phụ nữ nông thôn Việt Nam trên khắp mọi miền đất
nước, luôn luôn chịu thương chịu khó, chân chất, mộc mạc, rụt rè. Nhưng hình
ảnh người “Vợ nhặt" qua ngòi bút của Kim Lân trước nạn đói, đã làm tính cách
của Thị hoàn toàn thay đối, biến chất. Làm sao ta quên được từ câu nói đùa của
Tràng: “Muôn ăn cơm tráng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh ni! V"

Quả thật, đó là câu nói đùa mà Thị biết rõ điều ấy. Nhưng lúc ấy Thị “cong cớn,
ton ton chạy ra” rồi Thị “liếc mắt cười tít" và gọi Tràng là “nhà tôi ơi”. Chứng tỏ
hành động, cử chỉ, lời nói của Thị đã phá vỡ hoàn toàn tính cách của người phụ
nữ nông thôn là rụt rè, ngại ngùng trước một môi trường xa lạ. Với Thị, thông
qua tình huông trên trở thành kẻ thô lỗ, sỗ sàng, trơ trẽn trước một người đàn
ông lạ, càng cho ta thấy rõ trước cái đói làm cho con người Thị thay đổi, biến
thái từ diện mạo đến tính cách là sô' phận đáng thương cho Thị.
2. Vẻ đẹp đáng quý của người “V ợ n h ặ t ”
* N gư ời vỢ n h ặ t c h ấ p n h ậ n m ọ i th ị p h i c ủ a n g ư ời đ ờ i d ể d ư ợ c sốn g.
Hai tiêng “Vợ nhặt" qua ngòi bút của Kim Lân, chứng tỏ người phụ nữ kia đã
theo không Tràng về làm vợ. Cho dù Thị không biết gia cảnh của Tràng thế nào?
cuộc sống ra sao? mà Thị chỉ biết đế' được sống, được tồn tại thì cần phải có hành
động mạnh mẽ, táo bạo, chấp nhận mọi thị phi của người đời kể cả nhểm phẩm bị
xem thường, và sản sàng theo không về làm vỢ, nhưng nghĩ cho thật kĩ, mới thấy
được bên trong con người của Thị, có một sức sống tiềm tàng, một khát vọng sống
chính đáng là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ đáng thương.
* N gư ời vỢ n h ặ t n h a n h c h ó n g th íc h n g h i trư ớc c u ộ c s ố n g m ới.
- Mặc dầu Thị biêt rằng mình theo không về làm vỢ, một người không hề
quen biết, không hiểu gì về họ, nhưng lạ thay, Thị lại sớm thích nghi trước cuộc
sông mới, hoàn cảnh mới đó là lúc trên đường Tràng đưa Thị về nhà từ một con
người “chỏng lỏn", “chao chát" nhưng rồi Thị cũng thấy “e thẹn", có lúc “ngượng
nghịu" kể cả “chân nọ bước díu cả chân kia" là biểu hiện tâm trạng rất thật như
một cô dâu mới về nhà chồng. Và sau đêm đầu tiên của Thị, Thị dậy thật sớm
cùng bà cụ Tứ, quét dọn vườn tược, nhà cửa. Thị nghe tiếng chồi kêu sàn sạt trên
sân khơi gợi trong lòng Thị một âm vang xôn xao trước cuộc sông mới. Thị kín
đầy cả hai ang nước, đống rác giữa sân đã dọn sạch, tạo nên một không khí quang
đãng cho gia đình rồi Thị lặng lẽ vào bếp, dọn bữa ăn sáng. Hàng loạt cử chỉ,
hành động của Thị trong tình huống này dưới ánh mắt của Tràng, Thị “là người

207
dàn bà hiền hậu, đúng mực”. Và một điều đáng ghi nhận dù Thị là người phụ nữ
nông thôn chân lấm tay bùn, ít học, đối diện trước cái đói, cái chết đang đe dọa
rình rập dù cho “cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ còn thấy hai con mắt" của
Thị nhưng không vì thế mà Thị buông xuôi, phó mặc cho con tạo xoay vần, mà
Thị cũng hiểu biết, theo dõi về thời cuộc về cách mạng. Thị hiểu, “người ta còn
phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói” ở Thái Nguyên và Bắc Giang,
chứng tỏ Thị có một cái nhìn đúng đắn về Việt Minh, nó mang tính thời sự đã
gieo vào mẹ con Tràng một niềm tin, một luồng sinh khí mới về cách mạng.

III. PHẨN KẾT THÚC


1. v ề nghệ thuật: Tác giả đi sâu \ào đời sông nội tâm của nhân vật, xây
dựng những tình huông sông động, hiện thực, kịch tính, lời thoại của nhân vật
•râ't thật, tạo sự hâ'p dẫn lôi cuôn cho người đọc.
2. v ề nội dung: Tác giả khắc họa thành công hình ảnh người “Vợ nhặt” như
là nhân chứng sông của thời đại từ nạn đói năm 1945. Qua đó thấy rõ tội ác của
thực dân, phát xít đôl với dân tộc ta và toát lên sô' phận đáng thương của người
phụ nữ cùng những vẻ đẹp đáng quý, dù họ đôi diện trước cái đói, cái chết nhưng
với sức sống tiềm tàng, Thị vượt lên số phận nghiệt ngã của chính mình để được
sông, được tồn tại. Quả thật: “Đằng sau cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt của
người “Vợ nhặt” là thân phận đáng thương cùng những vẻ đẹp đáng quý của
Thị” góp phần làm nên giá trị cho tác phẩm.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích truyện ngắn “Vợ iTihăt” củ a nhà
văn Kim L ân trích tron g tập “C on c h ó x ấ u x í ” x u â t bản năm 1962
đề làm sáng tỏ giá trị nhân đạo trong tá c phẩm.

S i ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có lời nhận định rằng: “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân
đạo hóa con người”. (Lời nhận định)
2. Có ý kiến rằng: “Quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác chi là một thứ quái vật”.
3. Có nhận định rằng: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống mạnh mẽ”.
(Nietzsche - Triết gia Đức).
4. Năm 1940 thực dân Pháp mở cửa nước ta rước Nhật vào, từ đây nhân dân ta
phải rơi vào một cồ hai tròng thực dân và phát >xít. Với thực dân, chúng đưa
ra nhiều thứ thuế, tăng thuế còn phát xít Nhật bắt người nông dân nhổ cây
lúa trồng cây đay, cuô'i cùng hậu quả thảm khô'c nhất trong lịch sử Việt Nam
là nạn đói năm 1945 hơn hai triệu đồng bào ta phải chết vì đói.
5. Lời nói của bà cụ Tứ như là lời tô' cáo thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây
ra nạn đói vào năm 1945 cho dân tộc'ta. Bà nói: “Đằng thì nó bắt giồng đay,
đằng thì nó bắt dóng thuế. Giời đất này không chác đã sống qua được dâu
các con ạ...”.
208
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, trích trong tập “Con chó
xấu xí” xuất bản 1962, tác giả khắc họa bức tranh nông thôn vùng đồng bằng
Bắc Bộ trong những ngày đói tiêu biểu là “Xóm ngụ c ứ ’, qua đó thấy được tấm
lòng của tác giả, thương xót những người dân lành vô tội phải chết tức, chết tưởi
vì cái đói và thấy được âm mưu thâm độc của Thực dân, Phát xít, đồng thời nhà
văn ca ngợi phẩm chất đẹp của những người lao động nghèo trước cái đói và
hướng cho họ hãy tin yêu vào cuộc sông, tin yêu vào cách mạng để số phận thay
đối tôt đẹp. Tâ't cả viết lên thành những trang văn thấm đẫm tình người, làm
lay động lòng người, chứng tỏ truyện ngắn “Vợ nhặt” thể hiện giá trị nhân đạo
trong tác phẩm.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


1. Nhân dạo 1: Nhà văn đồng cảm thương xó t sô" phận đau thưchig
của người dân nghèo trư ớc nạn đói. Qua đó tố cáo tội ác củ a Thực dân
và P h át xít.
а. N hà văn th ươ n g xót trước nỗi đau riên g : Với tựa đề “Vợ nhặt” mang
một ý nghĩa thật sâu sắc đôì với tác phẩm. Từ xưa đến nay, chưa có ai nghe hai
tiếng “Vợ nhặt” bao giờ, nhưng đó là sự thật. Tiếng gọi “Vợ nhặt” xuất phát từ
nạn đói năm 1945, thấy được thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, nhân phẩm bị
xem thường vì họ theo không về làm vợ. Qua đó tô' cáo tội ác của bọn thực dân
và phát xít, chúng đã gây ra nạn đói và biết bao sô' phận người phụ nữ rơi vào
tình cảnh đáng thương như thế. Viết lên được điều â'y là thể hiện tinh thần
nhân đạo của tác phẩm.
б. N hà văn th ương xót trước nỗi đau ch u n g : Nạn đói vào mùa xuân năm
1945 đã tràn vào “Xóm ngụ cứ”. “Những gia đình từ những vùng Nam Định,
Thái Bình đội chiêu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Và “Người chết như ngả rạ, không
buổi sáng nào người trong làng đi chợ, di làm đồng không gặp ba bôn cái thây
nằm còng queo bên đường”: Kể làm sao cho xiết. Thê lương hơn, “Tiếng quạ trên
mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi tha thiêt” kết hợp tiêng trông
thúc thuê' dồn dập cùng tiếng hờ khóc của những gia đình có người chết. Nhà
văn miêu tả những hình ảnh ấy, những âm thanh ấy trên từng trang vàn càng
gợi cho người đọc niềm xót thương vô hạn cho đồng bào ta trước nạn đói qua đó
tô' cáo tội ác thủ đoạn đê hèn của bọn thông trị thực dân và phát xít trên đất
nước ta ngày ấy là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.

209
2. Nhân đạo 2; Nhà văn ca ngọí phẩm chất đẹp của những ngưètì lao
động nghèo.
a. Phẩm chất củ a bà cụ Tứ: Tấm lòng rộ n g m ở củ a người mẹ.
- Trước nạn đói quay quắt, cái chết luôn luôn rình rập trong xóm ngụ cư,
trong đó có gia đình bà cụ Tứ. Đẹp thay, khi người mẹ biết rõ hạnh phúc của con
đã hiện hình, gia đình thêm một thành viên mới là thêm một miệng ăn, một
nỗi lo. Với bao nhiêu khó khăn trước mắt, nhưng người mẹ, sẵn lòng đón nhận
người phụ nữ kia bằng tình yêu thương rộng mở, bà không hề xem thường, rẻ
rúng, miệt thị, nói cạnh nói khóe mà bà đồng cảm, hiểu rõ hoàn cảnh người phụ
nữ và thực sự quý mến họ qua lời nói chân tình của bà. Bà nói: “Người ta có gặp
bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới
có vợ được”. Rồi người mẹ vui vẻ xác lập cuộc hồn nhân của con trai và cùng chia
sẻ trước cuộc sông mới của con bằng những lời nói yêu thương cùng hành động
cụ thể nhằm vun xới cho hạnh phúc của con. Như vậy dù đôì diện trước cái đói,
cái chết, luôn luôn đe dọa rình rập nhưng bà vẫn thắp sáng lên tình yêu thương
đôi với các con là phẩm chất đáng quý của người mẹ.
b. Phẩm chất của Tràng: Tràng tốt bụng, khao khát hạnh p h ú c và tin yêu
cách mạng.
- Tràng, với nghề kéo xe mướn, “ngày nào có việc thì mới có cái ăn, ngày nào
không việc, mẹ con cùng chịu đói”. Nhưng đẹp thay, khi Tràng đôl diện trước
nỗi khổ của người khác, anh không quay lưng phó mặc, Tràng tự nguyện dành
cho Thị bốn bát bánh đúc đế' vượt qua cái đói, chứng tỏ Tràng là người tô't bụng,
dù anh đang đôl diện trước cái đói, cái chết nhưng Tràng đón nhận người phụ
nữ kia về làm vỢ. Lúc đầu Tràng cũng “chạn” chứng tỏ anh lo lắng, không dám
nhưng cuôi cùng Tràng đón nhận với hai tiếng “chậc! kệ!” là biểu hiện hành
động dũng cảm của Tràng vì anh đã vượt lên cái đói, cái chết, khao khát một
mái ấm gia đình, Tràng nhận thức được bổn phận và trách nhiệm đôi với gia
đình với vỢ con sau này và Tràng tin yêu vào cuộc sông, tin yêu vào cách
mạng sẽ thay đổi sô' phận những người nghèo khổ và “Trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” là phẩm châ't đáng quý trong
tâm hồn Tràng.
3. Phẩm châ't củ a người “Vợ n h ặ t”: Thị khao kh át đưỢc sông và
nhanh chóng hòa nhập trước cuộc sô'ng mới.
Thị chính là hình ảnh người “Vợ nhặt”, Thị sẵn sàng chấp nhận mọi thị phi của
người đời, hạ thấp mình để mưu cầu sự sông, có nghĩa là Thị theo không về với
Tràng, đúng như tựa đề “Vợ nhặt”. Chứng tỏ, Thị có một sức sông tiềm tàng để
vượt lên số phận nghiệt ngã của chính mình là phẩm chất đẹp của Thị, và Thị
nhanh chóng thích nghi trước cuộc sông mới. Thị không còn cái “chao chát,
chỏng lỏn” mà trở thành một “người đàn bà hiền hậu, đúng mực” dưới ánh mắt
của Tràng lúc này. Đặc biệt Thị cũng nắm bắt thông tin về tình hình thời sự về

210
cách mạng. Thị đã giúp mẹ con bà cụ Tứ hiểu được ai đã phá kho thóc của Nhật
đế chia cho người đói. Chứng tỏ, con người của Thị dù trước “cói khó không bó
cái khôn” là phẩm chất đẹp của Thị.
3. Nhân đạo 3: Nhà văn định hướng cho người dân lao động nghèo
tin yêu vào cách m ạng sẽ đổi đời.
C hi tiế t 1: T in y êu v à o c u ộ c số n g
Nhà văn đã gieo vào những người lao động nghèo hãy tin yêu vào cuộc sông
qua câu nói của bà cụ Tứ: “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?” và
trong bữa ăn sáng, bà cụ Tứ nói: “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về
sau này” như tiếp sức thêm cho các con hãy vững tin vào cuộc sông.
C hi tiế t 2: T in y êu v à o c á c h m ạ n g
Trong bữa ăn sáng, mọi người cũng bàn chuyện Việt Minh cướp kho thóc của
Nhật chia cho người đói, đó là dự báo, tín hiệu vui, đang nhen nhóm trong lòng
người dân lao động nghèo, thắp lên tâm hồn họ một niềm tin về cách mạng và
“Trong óc Tràng vẫn thấy dám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” là biểu
tượng cho ánh sáng cách mạng đã thổi vào tâm hồn người dân lao động nghèo,
phải biết yêu ai và căm thù ai để cùng đứng lên đấu tranh giành lại cuộc đời, là
định hướng đúng đắn của nhà văn, giúp cho người dân nghèo thay đổi sô' phận,
tìm được cuộc sông mới ấm no, là thể hiện tinh thần nhân đạo của tác phẩm.

III. PHẦN K ẾT THÚC


Với tấm lòng, tài năng cùng vốn sống của nhà văn. Kim Lân khắc họa thành
công bức tranh nông thôn trong những ngày đói tại vùng đồng bằng Bắc bộ điển
hình là xóm ngụ cư, rất hiện thực, sống động giàu sức biểu cảm. Tác phẩm nêu lên
vấn đề của con người, con người nghèo khổ bị áp bức, bóc lột, nhà văn đứng về
phía họ để cùng đồng cảm, thương xót, nhằm phơi bày tội ác thực dân, phát
xít đồng thời ca ngợi phẩm châ't đẹp của những người lao động nghèo và hướng
họ tìm đến một cuộc sông mới từ ánh sáng cách mạng để sô' phận của họ thay
đổi theo chiều hướng tô't. Tâ't cả, viết lên bằng những trang văn làm lay động
lòng người là thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm. Quả thật,
truyện ngắn: “Vợ nhặt” là một “tác phẩm văn học chân chính có khả năng
nhân đạo hóa con người”.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích hướng giải quyết về số phận con
người thông qua hai tá c phẩm “ Vợ C h ồ n g A P h ủ ” củ a nhà văn
Tô Hoài và “ Vợ N h ặ t ” củ a nhà văn Kim Lân.____________________

ỊHĨững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có nhận định rằng “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo
hóa con người”. (Lời nhận định)

211
2. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người, là
thước đo giá trị nhân cách con người”. (Lời nhận định)
3. Có ý kiến rằng: “Chi Phèo tự sát, kết liễu cuộc đời mình là một lối thoát, là
sự giải thoát cho số phận của người nông dân lúc bấy giờ”. (Lời nhận định)
4. Có ý kiến rằng: “Số phận con người thông qua hai tác phẩm “Vợ Chồng A
Phủ” của Tô Hoài uà “Vợ Nhặt” của Kim Lân là hướng giải quyết thể hiện
tính nhân văn sâu sắc”. (Lời nhận định)
5. Một tín hiệu vui trong truyện ngắn “Vợ Nhặt” để tìm thấy con đường đâh
tranh của cách mạng đã khơi dậy qua lời nói của người vỢ nhặt: “Trên mạn
Thái Nguyên, Bác Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa dâu. Người ta
còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy” (Trích “Vợ Nhặt”).

HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
Đọc tác phẩm “Chí Phèo” của nhà vàn Nam Cao, hướng giải quyết của tác giả
là Chí Phèo tự sát, kết liễu cuộc đời mình như tìm đến sự giải thoát, tìm lại
hình ảnh người nông dân của ngày trước với những ước mơ rất nông dân rất Chí
Phèo là hướng giải quyết hợp lí, hợp với quy luật của xã hội. Chúng ta cần tìm
hiểu thông qua hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ Nhặt” của
Kim Lân, hướng giải quyết về sô phận con người ở phần kết thúc của mỗi nhà
văn có hợp lí hay không?

n . PHẦN TRỌNG TÂM


H ướng giả i quyết về sô p h ậ n con người thông qu a hai tác p h ẩ m trên.
T ác giả cùng hướng con người nghèo khổ tìm dến ánh sáng cách
mạng để sô phận củ a họ thay dổi.
Hướng giải quyết về số phận con người thông qua hai tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ”
và “Vợ Nhặt” của hai nhà văn Tô Hoài và Kim Lân nhìn về hướng giải quyết của
hai tác phẩm hoàn toàn giông nhau nhưng về hoàn cảnh, tình huông xảy ra lại
khác nhau. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và truyện ngắn “Vợ
Nhặt” của Kim Lân, kết thúc câu chuyện, mỗi nhà văn đều hướng cho con người
tìm đến ánh sáng cách mạng, ánh sáng ấy, sẽ thối vào tâm hồn người dân lao
động nghèo một nhận thức mới, một cái nhìn mới. Với họ muôn giải thoát cuộc đời
mình là phải thay đổi hoàn cảnh xã hội, phải đập tan xiềng xích nô lệ dưới ách
thông trị của thực dân Phát xít thì sô" phận con người mới đổi thay. Để thực hiện
sự đối đời, số phận thay đổi theo chiều hướng tôt đẹp cho con người, không có con
đường nào khác là “con đường cách mạng” nhân dân cùng đứng lên đấu tranh đế
giải phóng cuộc đời mình, giải phóng dân tộc mình được tự do độc lập thì số phận
con người mới đổi thay, cuộc sống con người sẽ hướng đến tốt đẹp. Hai tác phẩm
trên đều hướng con người đến mục đích tốt đẹp như thế.

212
- vể íó c p h ẩ m “Vợ ch ồ n g A P h ủ ”. Từ khi Mị cứu A Phủ bằng con dao nhỏ
cắt lúa cũng chính là lúc Mị tự cứu cuộc đời mình, rồi hai con người ấy cùng chạy
trôn, tìm đến khu du kích Phiềng Sa, họ trở thành vỢ chồng. A Phủ được người
cán bộ A Châu khai tâm, khai trí và giác ngộ cách mạng trở thành người tiểu đội
trưởng du kích. Sau đó Mị dần dần nhận thức, giác ngộ cách mạng và hai con
người ấy trở thành những người du kích tích cực kết hợp cùng nhân dân Tây Bắc
đứng lên iđấu tranh giành ilại cuộc đời. Tây Bắc đã được giải phóng, số phận của
họ đã thay đổi từ nô lệ bước sang tự do từ bóng tôl tìm đến ánh sáng từ đau khổ
tìm đến hạnh phúc. Hướng giải quyết của tác giả hoàn toàn hợp lí phù hợp qui
luật phát triển của thời đại, hợp với ước vọng của con người, lấp lánh tính nhân
văn là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
- vể tác p h ẩ m “Vợ N h ặ t”. Đọc truyện ngắn “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim
Lân hướng giải quyết của tác giả cũng hướng cho con người, những người lao
động nghèo khố- sẽ tìm thấy ánh sáng cách mạng, con đường đấu tranh cách
mạng sẽ thay đổi sô" phận cuộc đời của họ. Hình ảnh tiêu biểu nhất là bữa ăn
sáng trong gia đình bà Cụ Tứ, ngoài kia tiếng trông thúc thuế dồn dập, liên hồi.
Từ tiếng trông thúc thuế, đã đem lại tin vui cho Tràng và bà cụ Tứ thông qua lời
thông báo của người Vợ nhặt. Thị nói: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu dóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật,
chia cho người đói nữa đấy”. Lời nói của Thị là một tín hiệu, một dự báo đã giúp
cho Tràng nhận thức, hiểu được, “người ta còn phá cả kho thóc của Nhật” đó là
ai? và Tràng hiểu đó là Việt Minh. Trước dự báo ấy, khơi dậy trong tâm hồn
Tràng kế cả bà cụ Tứ đều có một cái nhìn mới, một suy nghĩ mới đó là Việt
Minh là những người cộng sản, họ đã đứng lên đấu tranh để giành lại tự do độc
lập cho dân tộc, đem lại sự ấm no hạnh phúc cho nhân dân và sô" phận con
người phải được thay đổi. Từ đó trong suy nghĩ của Tràng hiện rõ.’ “cảnh những
người đói ầm ẩm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”, và kết
thúc câu chuyện vẫn là hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy dám người đói và lá
cờ đỏ bay phấp phới:.”. Những hình ảnh ấy là tín hiệu vui, lạc quan, tin tưởng
vào cách mạng. Chính ánh sáng cách mạng đã thổi vào và thắp lên trong tâm
hồn người lao động nghèo một ánh sáng mới, một niềm tin mới, một hi vọng
mới và họ sẽ cùng dứng lên với nhân dân với mọi thành phần lao khổ áp bức
cùng đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân phát xít, phong kiên để giành lại tự
do độc lập cho dân tộc, mang lại cuộc sống tô"t đẹp no ấm cho con người, sô" phận
con người thay đổi, đó là hướng giải quyết đúng đắn phù hợp trước xu thế phát
triển của thời (ỉại thông qua hai tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài và
“Vợ Nhặt” của Kim Lân, là nét đẹp lấp lánh tính nhân văn, thể hiện tinh thần
nhân đạo làm nên giá trị cho hai tác phẩm.

213
III. PHÂN K ẼT THÚC
Qua phần trình bày trên, chứng tỏ hướng giải quyêt về sô' phận con người của
hai nhà văn Tô Hoài và Kim Lân thông qua hai tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” và
“Vợ Nhặt” đều thế hiện tính tích cực. Hướng giải quyết của mỗi nhà văn đều
định hướng cho con người, phải có một cái nhìn đúng đắn, đâu là kẻ thù, đâu là
dân tộc, đâu là kẻ thông trị bóc lột dân lành và đâu là quê hương là đất nước
nhằm giúp cho nhân dân lao động nghèo hiểu rõ về cuộc sông về sô' phận của họ
dưới ách thông trị của thực dân phát xít đế họ vững tin, hướng về cách mạng
cùng đứng lên đấu tranh dưới ngọn cờ cách mạng với sự lãnh đạo của Đảng để
giành lại tự do độc lập cho dân tộc, giành lại cuộc đời mình và sô' phận con
người sẽ đổi thay theo chiều hướng tô't đẹp. Đó là hướng giải quyết hợp lí, hợp
với xu thê phát triển của thời đại mang lại cho hai tác phẩm có giá trị, sức sông
suô't bao nhiêu năm qua.

RỪNG XÀ NU
NGUYỄN TRUNG THÀNH

Đề tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung tru yện ngắn
“R ừ n g X à N u ” củ a nhà văn Nguyễn Trung Thành.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “R ù n g X à N u ” tron g tru y ện ngắn
cùng tên củ a nhà vàn Nguyễn Trung Thành.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Trình bày hoàn cảnh sáng tá c, ý nghĩa nội dung tru y ện ngắn
“R ù n g X à N u ”.
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1962, Nguyễn Trung Thành vào công tác trên vùng đâ't Tây Nguyên.
Năm 1965 Đê' quô'c Mỹ mở rộng leo thang chiến tranh tại Việt Nam. Trước bom
đạn của Đê' quô'c và chính quyền Sài gòn cũ đã ra sức tàn phá thiên nhiên và
đàn áp, khủng bô' cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên. Trước cảnh đau
thương ấy, tác giả viết lên truyện ngắn “Rừng Xà Nu” năm 1965, trích trong tập
truyện “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” xuất bản năm 1969.
2. Ý nghĩa nội dung:
Ý 1: Tô' cáo tội ác của Đê' quô'c Mĩ cùng chính quyền Sài gòn cũ trên vùng đất
Tây Nguyên thời chông Mỹ.
Ý 2: Ca ngợi tinh thần chiến đấu của người dân Tây Nguyên tiêu biểu là dân
làng Xôman. Qua đó tô cáo tội ác của đê quôc và chính quyền Sài gòn cũ.

214
Câu 2. Giải thích tự a đề “R ừ n g x à n u ”.
Tựa đề 'Rừng Xà N u” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Trung Thành,
xuât phát từ những suy nghĩ sau. Nói đến cây Xà Nu là nói đến sức sông thiên
nhiên của núi rừng Tây Nguyên. Cây Xà Nu là một loại cây sông mạnh mẽ, gắn
liền với đời sông người dân Tây Nguyên, có giá trị thực tế rất cao như lửa xà nu
trong mỗi bếp, khói xà nu hình thành những tấm bảng đen để người dân Tây
Nguyên học cái chữ, đuôc xà nu thắp sáng giữa rừng đêm giúp người dân Xôman
mài giáo giết giặc và nhựa xà nu là nguồn lợi kinh tế đôì với người dân Tây
Nguyên. Sức sông của cây xà nu thật mãnh liệt, bền vững thiết thực như sức
sông của người dân Tây Nguyên từ bao đời nay. Đúng như lời nhận định của tác
giả: “Tôi yêu say mê cây xá nu từ ngày ấy, không có cây nào đẹp, đúng về vóc
dáng về sức mạnh và phẩm chất của con người Tây Nguyên như cây xà nu cả”
(Nguyễn Trung Thành). Chính những nguyên nhân ấy, tác giả đã chọn “Rừng xà
nu” cho tựa đề của tác phẩm.

Đề tuyển sinh: Anh (chị) phân tích hình tưỢng cây x à nu trong
tru yện ngắn “R ừ n g x à n u ” của nhà văn Nguyễn Trung Thành
trích tron g tập “T rên q u ê h ư ơ n g n h ữ n g a n h h ù n g Đ iện N g ọ c ”
xu ât bản năm 1969.

iSỈững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Nhà thơ Tô" Hữu có viết: “Giặc về giặc chiếm đau xương máu. Đau cả lòng
sôỉig đau cỏ cây”, (trích “Quê mẹ” - Tô" Hữu)
2. Nhà thơ Hoàng cầm có viết: “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp. Giặc kéo
lên ngùn ngụt lửa hung tàn”, (trích “Bên kia Sông Đuống” - Hoàng cầm)
3. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết; “ôi những cánh đồng quê chảy máu. Dây
thép gai đâm nát trời chiều” (trích “Đất Nước” - Nguyễn Đình Thi).
4. Nhà thơ Vũ Cao có viết: “Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới. Ngõ chùa cháy
dỏ những thân cau”. (trích “Núi Đôi” —Vũ Cao)
5. Có lời ca ngợi rằng: “Không nơi dâu đẹp tuyệt vời. Như rừng như núi như
người Tầy Nguyên”. (Lời nhận định)
6. Nguyễn Trung Thành có bày tỏ: “Tôi yêu say mê cây xà nu từ ngày ấy. Không
có cây nào dẹp, đúng về vóc dáng, về sức mạnh và phẩm chất của con người
Tây Nguyên như cây xà nu cả”. (Nguyễn Trung Thành)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông đau cỏ cây”.
(trích “Quê Mẹ" - Tố Hữu)

215
Chiến tranh là một tội ác, chính bom đạn của kẻ thù ra sức tàn phá bao
thành quả lao động của con người, sức sống của thiên nhiên, hủy diệt cuộc sông
của bao người dân lành vô tội. Đọc truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn
Nguyễn Trung Thành, trích trong tập “Trên Quê hương những anh hùng Điện
Ngọc”, xuất bản năm 1969. Tác giả khắc họa hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu
cũng oằn mình chịu bao đau thương trước bom đạn của Đế quốc. Lạ thay, cây xà
nu, rừng xà nu vẫn vươn mình trổi dậy, sừng sững tiếp nôl dưới ánh nắng ban
mai của mặt trời như một hình tượng nghệ thuật khó quên.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


H ình tượng cây x à nu.
1. Cây x à nu đau thương tron g bom đạn.
- Năm 1965, Đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam, chúng mở rộng cuộc chiến
tranh và dập tắt các phong trào đâu tranh cách mạng trên mảnh đất Tây
Nguyên. Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu cùng chịu chung sô phận từ bom đạn
của kẻ thù với hình ảnh; “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không
bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một
trận bão. ơ chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh
nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu
lớn”. Với đoạn văn miêu tả thật sông động, nhà văn đã thổi vào cây xà nu, rừng
xà nu như một sinh thể có hồn, mang dáng vẻ của một con người, một tập thể
đang chịu đựng trước sự tàn phá do bom đạn của đế quốc. Đặc biệt, với nghệ
thuật tăng cấp “cả rừng xà nu không có cây nào không bị thương” chứng tỏ, bom
đạn của Đế quốc, chúng ra sức hủy diệt sức sông của thiên nhiên, môi trường
sông của con người với chính sách “dốt sạch, quét sạch, giết sạch”. Và hình ảnh
“nhựa ứa ra tràn trề... và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, một hình ảnh
nhân hóa độc đáo, chứng tỏ nhựa xà nu chính là hơi thở, mạch sông là máu thịt
của con người Tây Nguyên đang chịu đựng sự đau thương tàn khôb trước bom
đạn của Đế quôb, càng khơi dậy lòng căm thù sâu sắc của người dân Tây Nguyên
đôì với quân giặc thật vô cùng.
- Hình ảnh cây xà nu tiếp tục khắc họa với nét bút độc đáo của Nguyễn
Trung Thành, tác giả đã thổi vào cây xà nu mang dáng vẻ như con người đang
hứng chịu trước bom đạn tàn khôb của Đế quô'c qua hình ảnh thật xúc động: “Có
những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm
đôi. Ỡ những cây dó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành
được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Với ngôn ngữ tạo hình độc
đáo, tác giả khắc họa hình ảnh cây xà nu con đang vươn mình tràn đầy sức sông
nhưng bom đạn của kẻ thù ra sức hủy diệt, những cây con không đủ sức đề
kháng, vết thương cứ loét mãi ra rồi cây chết, càng gợi cho người đọc thấy rõ sức
sôhg thiên nhiên bị hủy diệt cũng là sự hủy diệt cả hơi thở của người dân Tây

216
Nguyên, càng cho chúng ta thấy rõ bom đạn tội ác của Đế quôh trong chiến
tranh Việt Nam thật vô cùng tàn bạo.
2. Cây x à nu vươn mình trổi dậy.
H ình ản h 1: Rừng xà nu nằm cạnh con nước lớn ngang tầm đạn đại bác của
giặc, mỗi ngày đều chịu sự tàn phá khô'c liệt do bom đạn của kẻ thù, nhưng cây
xà nu vẫn vươn mình trổi dậy, đón nhận ánh sáng của mặt trời, toát lên một sức
sông mãnh liệt, hiên ngang, bất khuất như tinh thần bất khuât của người dân
Tây Nguyên trước kẻ thù, với hình ảnh: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có
bôn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mủi tên lao thẳng lên bầu
trời'. Bằng nghệ thuật tăng cấp, kết hợp biện pháp nhân hóa, so sánh cho
chúng ta hình dung, trước sự tàn phá do bom đạn của Đế quô"c nhưng không thể
nào hủy diệt sức sông của cây xà nu, khi một cây ngã gục lại nhiều cây khác trồi
lên, nhú lên “ngọn xanh rờn", chứng tỏ sức sông tiềm tàng của cây xà nu thật
mãnh liệt và hình ảnh “hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời" có khác gì
như mũi tên của những chàng dũng sĩ Tây Nguyên đang hướng về phía kẻ thù
đê chiến đấu nhằm tiêu diệt cũng là vẻ đẹp về tinh thần bất khuất của người
dân Xôman thời chống Mỹ.
H ình ản h 2: Đẹp thay, sức sống của cây rừng xà nu vẫn hiên ngang, ngạo
nghễ thách thức trước bom đạn kẻ thù với hình ảnh nhân hóa độc đáo, sáng tạo
qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành: “Có những cây vượt lên được cao hơn
đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn
dại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trển một
thăn thể cường tráng". Qua đoạn văn miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn, tác giả
khắc họa hình ảnh cây xà nu mang một sức sống tiềm tàng, bất diệt. Nó có sức đề
kháng rất mãnh liệt trước bom đạn tối tân của đế quốc, toát lên một dáng vẻ mạnh
mẽ cường tráng, ngạo nghễ, cho chúng ta liên tưởng tinh thần bất khuất của người
dân Xôman dù đối diện trước bom đạn cùng hành động tàn bạo, khủng bố, dã man
của kẻ thù, nhưng không thể nào dập tắt ngọn lửa đấu tranh của họ, họ vẫn bất
khuất kiên cường dưới ngọn cờ cách mạng. Đúng như lời nói cụ Mết: “Chúng nó đã
cầm súng, mình phải cầm giáo!..., Đảng còn, núi nước này còn".
3. Cây x à nu sừng sững tiếp nôi.
H ình ảnh 1: Nói đến, bom đạn của Đế quô"c là vũ khí tôl tân, mà rừng xà nu
lại nằm ngay trong tầm đạn đại bác của giặc. Trước sự tàn phá của kẻ thù nhằm
hủy diệt sức sôhg thiên nhiên và cuộc sống con người Tây Nguyên, chúng ra sức
tàn phá, đàn áp, khủng bô' nhằm dập tắt cuộc đấu tranh của nhân dân Tây
Nguyên tiêu biểu là dân làng XôMan. Nhưng lạ thay, đã bao năm qua, cây xà nu,
rừng xà nu vẫn sinh sôi nảy lộc, vươn mình khoe sắc dưới ánh sáng mặt trời, rừng
Xà nu vẫn “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng". Một hình ảnh so
sánh nhân hóa độc đáo, toát lên vẻ đẹp giữa thiên nhiên và con người Tây Nguyên
thật kiên cường bất khuất.

217
H ình ảnh 2\ Nhà văn tiếp tục khám phá sức sông của cây xà nu, rừng xà nu
thật mãnh liệt bền vững đó là hình ảnh khi Tnú trở về thăm làng sau ba năm
tham gia lực lượng vũ trang chiến đấu. Tnú gặp lại đồi xà nu, rừng xà nu như
gặp lại cô nhân cùng đồng hành trong chiến đấu với hình ảnh: “Đứng trên đồi xà
nu ấy trông ra xa. Đến hết tầm mắt củng không thấy gì khác ngoài những đồi xà
nu nối tiếp chạy đến chân trời". Với nghệ thuật nhân hóa, tăng cấp, tác giả thổi
vào cây xà nu có một sức sông bất diệt, nó vượt lên sự khắc nghiệt do bom đạn của
Đế quốc, nó vẫn đứng sừng sững kiên cường giữa vùng đất Tây Nguyên anh dũng
là vẻ đẹp về tinh thần đấu tranh bất khuất bền bỉ của người dân Tây Nguyên thời
chống Mỹ.
H ình ảnh 3: Đi sâu từ nội dung của tác phẩm, người đọc càng tìm thấy sức
sông bất diệt của cây xà nu, một loài cây đáng quý dù bom đạn tàn phá, cày nát
dồi xà nu, rừng xà nu nhưng qua lời nói khẳng định của cụ Mết: “Không có cây
gì mạnh bằng cáy xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết
rừng xà nu này”. Lời nói dứt khoát khẳng định của cụ Mết càng cho ta thấy rõ
sức sông mãnh liệt bền vững của cây xà nu thật vô cùng, cũng là sức sông kiên
cường, bất khuất của người dân Tây Nguyên qua hai thời kì đấu tranh chống
Pháp và chông Mỹ. Đúng như lời bày tỏ của tác giả: “Tôi yêu say mê cây xà nu
từ ngày ấy. Không có cây nào đẹp, đúng về vóc dáng về sức mạnh và phẩm chất
của con người Tây Nguyên như cây xà nu cả” (Nguyễn Trung Thành).
II. PHẦN KẾT BÀI
1. Nghệ th u ật: Truyện ngắn “Rừng xà nu" mang đậm màu sắc sử thi. Với
ngôn ngữ tạo hình độc đáo kết hợp biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, so sánh tăng
cấp, hình ảnh miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn.
2. Nội dung: Tác phẩm đã khắc họa thành công hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu
như một hình tượng nghệ thuật thật đẹp vừa đau thưcmg vừa anh hùng như tinh
thần đấu tranh bất khuất của người dân Tây Nguyên thời chống Mỹ. Quả thật: “Cỏ
nơi dâu đẹp tuyệt vời. Như rừng như núi như người Tâỷ Nguyên”.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích nhân v ật Tnú tron g tru yện ngắn
“R ừ n g xà n u ” của nhà văn Nguyễn tru n g Thành trích trong tập
“T rên quê h ư ơ n g n h ữ n g anh h ù n g D iện N gọ c” x u ấ t bản năm 1969
để thấy đưỢc tinh th ần đâu tran h b ât khuât củ a tuổi trẻ Việt
Nam thời chông Mỹ.

ỊĨỊĨ ững kiến th ứ c cầ n


nắm :
1. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “Con nhớ em con thằng em liên lạc. Rừng thưa
em băng, rừng rậm em chờ. Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc.
Mười năm tròn chưa mất một phong thif. (trích “Tiếng Hát Con Tàu" -
Chế Lan Viên).
218
2. Nhà thơ Tô Hữu có viết: "‘'Chúng muốn đốt ta thành tro bụi. Ta hóa vàng
nhân phẩm lương tâm. Chúng muốn biến ta thành ô nhục. Ta làm sen thơm
ngát giữa đầm”, (trích “Máu và Hoa” - Tô’ Hữu).
3. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết: “Xiểng xích chúng bay không khóa được.
Trời đầy chim và đất đầy hoa. Súng đạn chúng bay không bán được. Lòng
dân ta yêu nước thương nhà”, (trích “Đất Nước” - Nguyễn Đình Thi)
4. Lời người xưa có ghi: “Uy vũ bất nâng khuất”. (Lời người xưa)
5. Nhà văn Musset có viết: “Không có gi cao cả hơn một sự đau đớn lớn”. (Musset)
6. Nhà thơ Nguyễn Klioa Điềm có ghi: “Đất Nước là máu xương của mình. Phải
biêt gắn bó và san sẻ. Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Làm nên Đất
Nước muôn đời”, (trích “Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm).
7. Bài thơ Quê Hương của nhà thơ Giang Nam có viết: “Xưa yêu quê hương vi có
chim có bướm. Có những ngày trốn học bị đòn roi. Nay yêu quê hương vì
trong từng nấm đất. Có một phần xương thịt của em tôi”, (trích “Quê Hương”
- Giang Nam)

HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rưng thưa em băng rừng rậm em chờ
Sáng bản Na chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn chưa mất một phong thư.
(trích “ Tiếng Hát Con Tàư' - Chế Lan Viên)
Am vang hào hùng của một thời kháng chiến chống Pháp, khắc họa hình ảnh
một chú bé liên lạc với tinh thần trách nhiệm cao, nặng tình với cách mạng, quê
hương đất nước. Hình ảnh ấy đưa chúng ta liên tưởng truyện ngắn “Rừng Xà Nu”
trích trong tập truyện “Trên quê hiùơng những anh hùng Điện Ngọc” xuất bản năm
1969 của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng đế lại trong lòng người đọc, một hình
ảnh khó quên đó là nhân vật Tnú, một chú bé liên lạc, một chiến sĩ du kích trẻ kiên
cường, một người con nặng tình với quê hương, đất nước mãi mãi là vẻ đẹp về tinh
thần đấu tranh buất khuất tuồi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ dẹp củ a Tnú tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam thời ch ố n g Mỹ.
1. Tnú nh iệt tình, kinh nghiệm, nhạy bén, nghiêm túc.
a. N hiệt tình: Nhớ về Tnú là nhớ đến người con của làng Xôman. Anh người
Strá, “Đời anh khổ nhưng bụng anh sạch như nước suối làng ta”. Tnú từng đi ba
ngày đường, tìm đến núi Ngọc Linh chọn những “đá trắng làm phấn" mang về

219
cho dân làng Xôman học cái chữ. Tnú trở thành một chú bé liên lạc cùng với
Mai. Tuy còn nhỏ nhưng Tnú luôn luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao.
Anh nói: “Để cán bộ ngủ một mình ngoài rừng một đêm, bụng dạ không yên
được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy”. Thông qua hành động và lời nói của
Tnú thể hiện sự nhiệt tình của anh đôl với quê hương và cách mạng.
b. K in h n g h iệ m : Trên đường chuyển thư, bị địch bao vây, Tnú biết “xé rừng
mà đi” lọt tâ't cả các vòng vây nhằm bảo toàn cơ sở cách mạng. Đặc biệt lúc qua
sông, qua thác, Tnú chọn chồ thác mạnh mà bơi nhằm tránh sự dòm ngó của
địch, Tnú như con cá kình lướt trên sóng nước. Tâ"t cả xuất phát từ những kinh
nghiệm quý báu của Tnú nhằm chu toàn trách nhiệm.
c. N h ạ y b é n : Lúc Tnú chuyên thư của anh Quyết gửi về huyện, phải qua một
cái thác của con sông Đắc Năng. Tnú định vượt thác, địch phát hiện rồi chỉa
súng vào tai anh, ngay lúc ấy, Tnú liền nuốt cái thư vào bụng là cách giải quyết
tình huông thông minh, nhạy bén nhằm bảo toàn cơ sở cách mạng.
d. N g h iêm tú c: Khi Tnú về thăm làng, chỉ có một đêm theo đúng giấy nghỉ
phép của đơn vị cấp và anh thực hiện đúng nguyên tắc theo giấy phép đã cấp là
thế hiện tính nghiêm túc của một người lính trẻ (pháp bất vị thân).
2. Tnú kiên cường, bât khuất trưởc kẻ thù.
T ìn h h u ốn g 1: L ú c b ị g iặ c b ắ t Tnú vẫn đ ặ t tìn h ch u n g lê n trên tấ t cả,
Tnú, chứng kiến vỢ con bị bọn giặc bắt và tra tấn. Tnú nhìn thấy nỗi đau
thương của vỢ con, anh không kiềm chế, nên mât bình tĩnh, nhảy xổ vào bọn
giặc rồi hét lên một tiếng lớn “Tnú đây”. Nhưng lúc ây Tnú chỉ có hai bàn tay
không thì làm sao chông cự, làm sao trứng chọi với đá và Tnú bị bắt sông. Bọn
giặc trói chặt Tnú, ném vào nhà ưng. Trước nỗi đau đớn từ thân xác đến tâm
hồn của Tnú, nhưng lạ thay, Tnú đã quên đi nỗi đau của riêng mình, và ngay lúc
đó, Tnú nghĩ đến nỗi lo chung, nghĩ về cuộc tranh đấu của dân làng Xôman rồi
đây sẽ ra sao? ai là người lãnh đạo dân làng Xôman chống giặc?. Lúc ấy, Tnú tự
độc thoại: “Đứa con chết rồi, Mai chác củng chết rồi, Tnú cũng sắp chết... Ai sẽ
là cán bộ lãnh đạo dân làng Xôman đánh giặc? Cụ Mết đã già. Được;còn có bọn
thanh niên. Rồi con Dít sẽ lớn lên, con bé ấy vững hơn cả chị nó. Không sao... chỉ
tiếc là Tnú không sống được tới ngày cầm vũ khí dứng dậy với dân làng”. Nhà
văn đi sâu vào đời sông nội tâm của nhân vật, những góc khuất sâu thẳm trong
tâm hồn Tnú, gợi cho chúng ta thấy rõ, Tnú là người con nặng tình với cách
mạng với quê hương đất nước vì anh đã đặt tình chung lên trên tất cả.
T ìn h h u ố n g 2: Tnú, lú c g i ặ c t r a tấ n v ân th ế h iệ n tỉn h th ầ n b ấ t k h u ấ t
k iê n cư ờ n g c ủ a n g ư ời c h iế n sĩ.
Bọn giặc dưới sự hướng dẫn của thằng Dục, chúng tẩm nhựa xà nu vào giẻ,
quấn lên mười đầu ngón tay Tnú, rồi châm lửa đô"t. Đây là thủ đoạn thâm độc

220
r

của giặc nhằm ra sức uy hiếp, khủng bô' tinh thần của Tnú và dân làng Xôman,
hãy nhìn Tnú mà tiếp tục còn cầm giáo, cầm mác chông lại bọn chúng hay
không? Khi mười đầu ngón tay Tnú như mười ngọn đuô'c sông. Lạ thay, “Tnú
không thèm kêu van" trước hành động dã man của kẻ thù, vì Tnú nhớ lời anh
Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van” trước bạo lực của kẻ thù, chứng
tỏ Tnú chịu đựng sự đau đớn của thân xác, vượt lên chính mình, làm chủ bản
thân là vẻ đẹp kiên cường, bất khuât trước kẻ thù, vẻ đẹp của “uy vũ bất năng
khuất”. Đặc biệt, nhà văn đã đi sâu vào thê giới nội tâm của Tnú để miêu tả,
giúp cho người đọc thấy rõ lúc ấy Tnú dường như không cảm thấy nóng ở mười
đầu ngón tay, nóng ở mọi giác quan mà Tnú cảm thấy nóng, “Anh nghe lửa cháy
trong lồng ngực, cháy ở bụng” là thế hiện lòng căm thù giặc sâu sắc lên đến
đỉnh điểm của Tnú và thấy được sự kiên cường, quả cảm của Tnú trước hành
động tàn bạo dã man của kẻ thù là thước đo lòng yêu nước trong trái tim của
anh thật sâu đậm. Quả thật: “không có gi cao cả hơn một sự đau đớn lớn”.
(Musset)
L iên hệ: Hình ảnh Tnú bị giặc đốt ở mười đầu ngón tay nhưng Tnú vẫn chịu
đựng, kiên cường vẫn “Uy vũ bất năng khuất” gợi cho chúng ta liên tưởng tập
thơ “Máu và hoa” của Tô' ílữu cũng toát lên vẻ đẹp kiên cường bất khuất như thê'
với những lời thơ “Chúng muốn dốt ta thành tro bụi. Ta hóa vàng nhân phẩm
lương tâm. Chúng muốn biến ta thành ô nhục. Ta làm sen thơm ngát giữa đầm”.
(trích “Máu và Hoa” - Tô' Hữu).
3. Tnú nặng tình với quê hương đât nước.
a. Tnú tiếp tục ch iến d ấ u : Tnú, hai bàn tay của anh giờ này, mỗi ngón mất
đi một đô't nhưng anh không trở thành kẻ tàn phế, Tnú vẫn tiếp tục đăng kí gia
nhập lực lượng vũ trang giải phóng quân. Anh đã biến nỗi đau thương của gia
đình của quê hương thành hành động dũng cảm chiến đấu quên mình giết giặc
đề’ trả thù nhà đền nợ nước vì Tnú nghĩ rằng, mảnh đâ't này, quê hương làng
Xôman này đã chôn chặt biêt bao người dân lành vô tội và mảnh đâ't đã ôm trọn
hình hài của vỢ con anh. Vậy anh phải biến nỗi đau thương thành hành động
căm hờn trong chiến đâ'u là thể hiện lí tưởng sô'ng đẹp “Sống là cho đâu chỉ
nhận riêng minh”.
b. Tnú với h ìn h bóng cây xà nu: Ba năm qua, Tnú tham gia lực lượng vũ
trang giải phóng quân. Khi anh trở về thăm làng, chỉ có một đêm theo giấy
phép của đơn vị câ'p và niềm sung sướng tràn ngập khi Tnú nhìn thấy cây xà nu,
đồi xà nu, rừng xà nu vẫn vươn mình trỗi dậy đón nhận ánh sáng của mặt trời.
Và lúc Tnú trở về đơn vị “Tnú nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì
221
khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời’\ Phải chăng, hình
ảnh cây xà nu, rừng xà nu mãi mãi là người bạn đồng hành trong cuộc sông
chiến đấu của Tnú là hình bóng quê hương là máu thịt cùng hòa quyện trong
tâm hồn Tnú, tạo cho Tnú thêm sức mạnh trong chiến đấu.
c. Tnú với ăm vang hoài n iệm củ a q u ê h ư ơ n g : Tnú, trên đường về
thăm làng, âm vang tiếng chày khơi dậy trong lòng Tnú, đưa anh trở về hoài
niệm của ngày xưa. Với Tnú, tiếng chày gắn chặt với anh từng ngày theo
chiều dài cùng với quê hương, bản làng, tiếng chày đã thấm vào máu thịt
trong tâm hồn anh từ bao giờ. Trong giây phút ây, Tnú gợi nhớ: “Tiếng chày
của những cô gái Strá của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai của Dít. Từ khi lọt
lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi”. Với đoạn văn miêu tả sông động,
hiện thực giàu sức biểu cảm, chứng tỏ nhà văn đi sâu vào đời sông nội tâm
của Tnú, thấy được tâm hồn Tnú, một người con nặng tình với quê hương bản
làng, sông có trước có sau, có tình có nghĩa là sông có đạo lí, biết uô'ng nước
mà không quên nguồn.
L iên h ệ: Âm vang tiếng chày, đưa chúng Ị;a nhớ về hồn thơ “Việt Bắc” của Tố
Hữu, khi những người cán bộ trở về xuôi, về lại thủ đô Hà Nội, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ. Người ra đi cũng nhớ về tiếng chày nơi quê hương Việt Bắc, âm
thanh ấy từng nuôi dưỡng những người con cách mạng trong kháng chiến để
làm nên lịch sử với nỗi nhớ: “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều. Chày đêm nện cối
đều đều suối xa”, (trích “Việt Bắc” - Tô Hữu)

II. PHẦN K Ế T THÚC


1. Về nghệ thuật: Đậm đà màu sắc sử thi, xây dựng tình huông đầy kịch
tính, ngôn ngữ gần gũi với nhân dân, di sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, lời
thoại nhân vật rất thật.
2. Về nội dung; Tác phẩm khắc họa thành công hình ảnh Tnú, một nhân vật
có thật ở ngoài đời khi bước vào tác phẩm như một hình tượng nghệ thuật sống,
nhân chứng của một giai đoạn lịch sử, chứng tỏ hình ảnh Tnú, một người con
nặng tình với gia đình, với quê hương, với cách mạng và hình ảnh Tnú tiêu biểu
cho tinh thần đấu tranh bất khuất của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Quả
thật: “Đất nước là máu xiứmg cửa mình. Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết hóa
thân cho dáng hình sứ sở. Làm nên đất nước muôn đời”. Tnú, anh là con người
mang vẻ đẹp như thế.

222
N H Ữ N G Đ Ứ A C O N T R O N G G IA Đ ÌN H
NGUYỄN THI

Đế tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tá c và chủ đề tru y ện ngắn “Những
đứa con tron g gia đình” củ a nhà văn Nguyễn Thi.
Câu 2: Anh (chị) vận dụng kiến thức dă học tron g tá c phẩm “Những
đứa con tron g gia đình” củ a nhà văn Nguyễn Thi để làm sáng
tỏ vẻ đẹp củ a tuổi trẻ đ ất Phương Nam thời chông Mỹ thông
qua nhân v ật Việt.

Câu 1 : Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề truyện ngắn “N hữ n g đ ứ a co n tron g


g ia đ ìn h ”.
1. Hoàn cảnh sáng tá c
Năm 1965 Mỹ đưa quân vào miền Nam Việt Nam, hình thành hai cuộc chiến
tranh “Chiến tranh cục bộ ở miền Ụam” và “Chiến tranh phá hoại ở miền Bắc".
Nguyễn Thi được chuyến công táựlvào phía Nam. Tác giả nhìn thấy quê hương
tràn ngập máu lửa, biết bao người dân lành vô tội đã nằm xuôhg. Qua đó thấy
được tinh thần đâh tranh bất khuất của người dân Nam Bộ, tác giả viết lên
truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình". Đây là câu chuyện có thật tại Bến
Tre, trong một gia đình có truyền thôhg yêu nước. Từ đó tác giả xây dựng nên
tác phẩm vào tháng 02-1966.
2. Chủ đề: Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn
Nguyễn Thi nhằm tô cáo tội ác của Đê quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt
Nam, chúng gây bao đau thương tang tóc cho người dân Việt qua đó ca ngợi tinh
thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Nam Bộ thời chông Mỹ.
Câu 2: P h ân tích vẻ đẹp củ a nhân vật Việt.
ÌSỈững kiến th ứ c cẩ n nắm :
1. Bài “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Mai này con ta lớn
lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa”, (trích “Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
2. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Đất nước là máu xương của
mình. Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở.
Làm nên Đất Nước muôn đời”, (trích “Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
3. Nhà thơ Tô Hữu có viết: “Gươm nào chia được dòng Bến Hải. Lửa nào thiêu
được dãy Trường Sơn. Căm hờn lại giục căm hờn. Máu kêu trả máu đầu van
trả đầu”. (Tô" Hữu)

223
4. Cô' tổng thông Hoa Kì - John Kennedy có nói: “Các bạn đừng hỏi rằng tổ
quốc phải làm gì cho các bạn mà các bạn phải tự hỏi rằng, các bạn đã làm gì
cho tổ quốc?”. (Cô' tổng thô'ng hoa Kì - John Kennedy)
5. Nhà văn Musset (Pháp) có nói): “Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”
(Musset - Pháp)
6. Lời cồ nhân có nói: “Uy vũ bất năng khuất”. Ý nói, trước bạo lực không hề
khuất phục. (Lời người xưa)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa”.
(trích “Đấí Nướd' - Nguyễn Khoa Điềm)
Quả thật, hoài bão và ước vọng của bậc làm cha làm mẹ, bao giờ cũng mong
nuôi con khôn lớn, và khi con bước vào đời, phải đem hết năng lực, tâm huyết,
trí tuệ góp phần xây dựng cho quê hương đất nước để cuộc sô'ng có ý nghĩa. Nét
đẹp ấy, chúng ta liên tưởng truyện ngắn “Những dứa con trong gia đình” của
nhà văn Nguyễn Thi, tác giả khắc họa hìríl' ảnh Việt, một người con vùng đồng
bằng Nam Bộ, cũng nặng tình với gia đình, hương đất nước, trở thành người
chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, yêu thương đồng đội là vẻ đẹp trong tâm hồn Việt,
vẻ đẹp của tuổi trẻ đâ't phương Nam thời chông Mỹ.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ đ e p c ủ a tu ổi trẻ đ ấ t P h ư ơ n g N am th òn g q u a n h â n vật V iệt
1. Vẻ đẹp 1: Việt hồn nhiên, thơ ngây, tinh nghịch.
Việt lớn lên từ một gia đình có truyền thông yêu nước tại Bến Tre. Hình ảnh
đầu tiên đế lại cho người đọc thấy rõ Việt, là một chàng trai mới lớn, rất hồn
nhiên, thơ ngây, tinh nghịch. Dù bước vào quân ngũ, tiếp nhận cây súng còn
thơm mùi gỗ mới cùng chiếc lưỡi lê nhưng Việt vẫn không quên mang theo bên
mình “chiếc ná thun” dùng để bắn chim của những ngày còn sông tại quê nhà.
Khi vào đơn vị Việt giấu đồng đội là Việt không có chị vì “anh sợ mất chị”
nhưng thực sự Việt có một người chị, có tên là Quyết Chiến. Lúc bị thương ở
chiến trường, lạc đơn vị, đồng đội. Anh không sợ chết mà lại “sợ ma, sợ con ma
cụt đầu”. Việt lúc nào cũng muôn dành phần thắng về phần mình như mỗi lần
đi bắt ếch, nhái ngoài đồng với chị Chiến kể cả việc bắn tàu chiến của Mỹ trên
sông Định Thủy: Việt lúc nào cũng dành phần hơn. Và trước giờ phút lên đường
nhập ngũ của hai chị em, chị Chiến bàn với Việt những vấn đề của gia đình cần
phải thu xếp như thê nào trước lúc ra đi. Lúc ấy, Việt chỉ biết “ừ ờ” cho qua
chuyện, rồi dùng bàn tay úp con đom đóm lại và ngủ quên lúc nào không biết.

224
2 . V ẻ đ ẹ p 2 : V i ệ t y ê u t h ư ơ n g g i a đ ìn h t h ắ m t h i ế t .
a. Việt yêu th ương chị C hiến: Với Việt, chị Chiến là chỗ dựa tinh thần có
khác gì hình ảnh người mẹ, thay mẹ đế lo và nuôi hai em. Một hình ảnh xúc
động nhất, thấy rõ tấm lòng yêu thương của Việt đôl với chị, chính là lúc, hai
chị em khiêng bàn thờ mẹ sang gởi nhà chú Năm. Việt đi trước, chị Chiến theo
sau nhưng Việt nghe rất rõ hai tiếng “bịch, bịch” ở phía sau lưng Việt, chính là
âm thanh từ bước đi của chị khơi gợi cho Việt cảm nhận bước đi của chị mình,
giờ này nặng nề, mệt mỏi, trước bao lo toan vất vả cho gia đình. Chính âm
thanh â'y Việt nghe rất rõ như tiếng lòng của mình đôl với chị.
b. Việt yêu quỷ ch ú N ăm : Với Việt, từ khi cha bị giặc Tây chặt đầu, hình ảnh
chú Năm là chỗ dựa tinh thần vững chắc đôl với Việt. Việt rất quý chú, vì chú
Năm thường giành phần thắng về cho Việt nếu mỗi lần hai chị em tranh giành
nhau trong việc bắt ếch, nhái tại quê nhà. Một hình ảnh đáng nhớ nhất của Việt
về chú Năm là mỗi lần chú Năm kể chuyện về gia đình về những trận đánh trên
mặt đất, chú Năm thường đưa “tiếng hò” của chú trong lúc kể chuyện. Với Việt,
tiếng hò của chú Năm như là tiếng vọng của hồn thiêng sông núi, tiếng vọng của
những người thân trong gia đình đã khuất vì chiến tranh và tiếng hò ấy đối với
Việt như “một hiệu lệnh “lời nhắn nhủ tha thiết” hay như “một lời thề dữ dội”,
ăn sâu trong máu thịt của Việt, khơi gợi trong tâm hồn Việt một tình yêu quê
hương đất nước.
c. Việt yêu thương, n h ớ về m ẹ: Mẹ Việt được gọi là Má Tư Năng từ khi
chồng bị giặc Tây chặt đầu, bà tất bật ngược xuôi, ngày ngày “lặn lội thân cò khi
quãng vắng”, đi từ cánh đồng này sang bưng biền nọ làm thuê làm mướn để
mang về thúng lúa, mớ tép nuôi các con. Hình ảnh ấy đã khắc sâu trong tâm
hồn Việt và trước giờ phút lên đường nhập ngũ, hai chị em làm mâm cơm cúng
mẹ như bày tỏ tấm lòng yêu thương của Việt về mẹ. Và đêm cuối cùng, trước giờ
phút lên đường nhập ngũ, Việt nhìn những con đom đóm lập lòe từ rặng bần bay
trên nóc nhà, Việt liên tưởng những con đom đóm kia là hình bóng của mẹ, mẹ
đã về chứng kiến trước giờ phút hai chị em lên đường. Việt còn hình dung giờ
này biết đâu mẹ đang ngồi dựa vào những thúng lúa cầm nón quạt như cùng
chia sẽ niềm vui khi thấy các con trưởng thành. Phải có một tình yêu thương mẹ
sâu sắc, thì tâm hồn Việt mới khơi dậy những dòng suy nghĩ liên tưởng về mẹ
đẹp như thế. Xúc động nhất, lúc Việt bị thương nặng tại rừng cao su trong lần ra
quân đầu tiên. Việt ngất đi, lúc tỉnh lúc mê, nhưng Việt vẫn hồi tưởng về quá
khứ khi còn mẹ. Việt nhớ lại; “mẹ xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy rồi lấy
xoong cơm đi làm đồng đ ể ở dưới xuồng lên cho Việt ăn”. Hàng loạt những dòng
suy nghĩ liên tưởng của Việt về mẹ đều xuất phát từ tình yêu thương sâu sắc của
Việt đôl với mẹ là những thước phim quay chậm về tình mẹ, tình mẫu tử thiêng
liêng vẫn in sâu trong tâm hồn Việt thật đáng nhớ.

225
3. V ẻ đ ẹ p 3 : V i ệ t , m ộ t n g ư ờ i c o n n ặ n g tì n h v ớ i q u ê h ư ơ n g đ ấ t n ư ớ c
а. C h i tiế t 1: V iệt k h a o k h á t d ư ợ c c ẩ m súng.
Việt nhận thức rằng, nỗi đau riêng của gia đình khi cha bị giặc Tây chặt đầu,
mẹ bị bom đạn pháo kích của Mỹ sát hại, ông nội Việt bị Tây bắn chết hòa cùng
nỗi đau chung khi quê hương đất nước rơi vào tình trạng đau thương vì chiến
tranh (chiến tranh cục bộ tại miền Nam) do Đế quôh Mĩ gây ra. Nỗi đau riêng
hòa cùng nỗi đau chung, khi Việt nhìn lại những người thân trong gia đình bị kẻ
thù sát hại cùng đồng bào ruột thịt tại quê nhà. Từ nỗi đau ấy, tạo cho Việt lòng
căm thù giặc sâu sắc. Việt muôn biến nỗi đau thương thành hành động căm hờn
giết giặc, và Việt khao khát được cầm súng, được trả thù nhà đền nợ nước, vì
quê hương này, mảnh đất này đã ôm trọn hình hài xương thịt bao người thân
yêu trong gia đình Việt cùng những người dân lành vô tội. Nhưng chị Chiến
không muôn cho Việt nhập ngũ vì Việt chưa đến tuổi hơn nữa chị Chiến không
muôn em mình sớm bước vào con đường gian khố nhưng Việt không đồng tình,
Việt phản kháng lại chị mình bằng lời nói dõng dạc dứt khoát, Việt nói: “Bộ
mình chị biết đi trả thù à?”. Lúc ấy dưới chân Việt có trái dừa rụng, Việt đá
mạnh xuống mương cái đùng như biểu hiện sự bày tỏ là không đồng tình của
Việt đôl với ý định của chị. Chứng tỏ lời nói và hành động của Việt lúc ấy biểu
hiện khát vọng được nhập ngũ, được cầm súng để đi trả thù là thước đo lòng yêu
nước trong tâm hồn Việt thật đáng quý.
б. C hi tiế t 2: V iệt k iê n cư ờng, g a n d ạ lú c b ị th ư ơ n g :
- Tình huống a: Việt ra quân trận đầu tiên tại rừng cao su. Anh là một xạ
thủ có nhiệm vụ phá tàu chiến của địch trên sông Định Thủy tại Bến Tre. Việt
phá hủy một chiếc xe bọc thép của Mỹ, lúc ấy, anh bị thương nặng rồi lạc đơn
vỊ, đồng đội ba ngày ba đêm. Trong tình huôAg này, anh cảm thấy như tê dại và
không biết máu hay nước chảy khắp cả người, chỗ thì “ướt sũng”, chỗ thì “dẻo
quẹo”, chỗ thì “khô cứng”. Hàng loạt hình ảnh cụ thể, liệt kê, sông động chứng
tỏ Việt đang chịu đựng sự đau đớn của thân xác đến tột cùng nhưng Việt “không
hề kêu van”, là nét đẹp kiên cường dũng cảm của người chiến sĩ trẻ.
- Tình huống b: Lúc Việt bị thương, lạc đơn vị nhưng khi nghe được tiếng
súng của đồng đội, “Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước” hướng
theo tiếng súng như tìm về trận đánh cùng với đồng đội. Cuôl cùng đơn vị đã
tìm gặp Việt trong tình trạng anh kiệt sức nhưng vẫn thấy ngón tay cái của anh
nhúc nhích, đạn đã lên nòng đang hướng về phía kẻ thù. Chứng tỏ dù sự đau
đớn tận cùng của thân xác nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu với
quân thù. Quả thật: “không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn” là vẻ đẹp của
người chiến sĩ trẻ gan dạ, kiên cường mang tên Việt.
L iê n h ệ : Hình ảnh của Việt lúc bị thương ở chiến trường, chúng ta lại liên
tưởng hình ảnh Tnú trên vùng đất Tây nguyên trong truyện ngắn “Rừng xà nu”
của Nguyễn Trung Thành. Lúc Tnú bị giặc tra tấn bằng hành động tàn bạo, dã

226
man, chúng đã tẩm nhựa xà nu vào giẻ, quấn vào mười ngón tay của Tnú rồi đô"t
lên nhưng Tnú vẫn “không hề kêu van”, sẵn sàng chịu đựng sự đau đớn của thân
xác, như vậy giữa hai hình ảnh Việt và Tnú, tuy khác nhau về hoàn cảnh về
tình huông xảy ra trước quân thù, nhưng đều có chung tinh thần đấu tranh kiên
cường, bât khuất, gan dạ trước kẻ thù với một tư thế “Uy uũ bất năng khuất”
mãi mãi là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ đâ't phương Nam thời chông Mỹ.
4. Vẻ đẹp 4: Việt gắn ch ặ t với tình đồng đội.
Việt xem đơn vị như là một gia đình, đồng đội là những người thân yêu ruột
thịt của Việt. Lúc bị thương, Việt xác định rõ được tiếng súng của đồng đội, anh
bò hướng về tiếng súng. Đôi với Việt, tiếng súng đã đem lại sự sống cho anh
trong tình huôhg nguy kịch nhát. Đặc biệt lúc bị thương Việt vẫn nhớ rất rõ nụ
cười, cái nheo mắt của anh Công cùng cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh, người
tiểu đội trưởng mà Việt xem như là người anh ruột của mình.

II. PHẦN K ẾT THÚC


1. Về nghệ thuật: Mang đậm màu sắc sử thi, ngôn ngữ gần gũi với nhân dân, đi
sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, dòng hồi tưởng của nhân vật rất thật, giàu sức
biêu cảm,
2. v ề nội dung: Nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật Việt, người
thanh niên trẻ, người chiến sĩ trẻ giữa vùng sông nước đất phương Nam, đã đi
vào tác phẩm như một hình tượng nghệ thuật sôhg, một người con nặng tình với
gia đình, một người chiến sĩ nặng lòng với quê hương đất nước với đồng đội, đơn
vỊ mãi mãi là vẻ đẹp của tuổi trẻ đât phương Nam thời chông Mỹ thông qua
nhân vật Việt vì anh “Đã mang đất nước di xa”.

Đề tuyển sinh: Atdi (chị) vận dụng kiến thức văn học trong chương trình
văn 12 thông qua truyện ngắn “N hững đ ứ a con tron g g ia d in h ” của
nhà văn Nguyễn Thi đế tìm thây vẻ đẹp củ a người con gái dất
phương Nam thời chông Mỹ thông qua nhân v ật Chiến.

Những kiến thức cần nắm:


1. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của
minh. Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết hóa thăn cho dáng hình xứ sở.
Làm nên Đất Nước muôn đời”, (trích “Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
2. Tác phẩm “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi thông qua nhân vật chị ú t
Tịch đã nói: “Còn cái lai quần cũng đánh”, (trích “Người Mẹ cầm Súng -
Nguyền Thi)
3. Nhà thơ Tô’ Hữu trong tập thơ “Theo chân Bác” có viết: “Xẻ dọc Trường Sơn
đi cưu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, (trích “Theo Chân Bác” -
Tố Hữu)

227
4. Ca dao từng thì thầm: “Thân em như tấm lụa đào. Phất phơ giữa chợ biết vào
tay ai'". (Ca dao)
5. Đại thi hào Nguyễn Du từng xót thương sô' phận người phụ nữ dưới thời
phong kiến: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời ràng bạc mệnh cũng là lời
chung”, (trích “Truyện Kiều" - Nguyễn Du)
6. Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam hi sinh vì Đất nước.
- Thời xưa có Bà Trưng, Bà Triệu, Huyền Trân Công Chúa...
- Thời nay có Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Trần Thị Lý..., cùng những
cô gái ngã ba Đồng Lộc ở Hà Tĩnh, những cô giao liên ở Quảng Ngãi, những
cô gái ở Nam Hà.
7. Người phụ nữ miền Nam được phong tặng tám chữ vàng: “Anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Truyện ngắn “Rừng xà nu” trích trong tập truyện “Trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc" của nhà văn Nguyễn Trung Thành xuất bản năm 1969.
Tác giả khắc họa hình ảnh Mai, Dít là hai chị em lớn lên trong hoàn cảnh đau
thương của chiến tranh trên vùng đất Tây Nguyên thời chông Mỹ. Họ trở thành
những người chiến sĩ một lòng với cách mạng với quê hương đất nước. Nét đẹp
ấy chúng ta nhớ về truyện ngắn “Những đứa con trong gia đinh” của nhà văn
Nguyễn Thi ra đời năm 1966 khắc họa hình ảnh người con gái của vùng đất Bến
Tre cũng mang nặng tình yêu gia đình, tình yêu quê hương đất nước, mãi mãi là
một hình tượng đẹp về người con gái đất phương Nam thời chông Mỹ thông qua
nhân vật Chiến.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ đẹp củ a n h â n vật Chiến.
1. Vẻ đẹp 1: Chiến - Một người chị m ẫu mực củ a gia đình.
Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” khắc họa hai nhân vật trung
tâm cũng là hai chị em ruột. Chị là Quyết Chiến, em có tên là Việt xuất thân
trong gia đình có truyền thông yêu nước. Nhắc đến chị Chiến là một người con
gái mẫu mực, đảm đang, tháo vát, hết lòng yêu thương các em khi cha mẹ qua
đời. Nhớ về chị, một người con gái có tính kiên nhẫn, chị vẫn ngồi đánh vần
từng chữ trong cuô'n số của gia đình nhằm củng cố niềm tin niỂm tự hào về
truyền thông gia đình đến nỗi chị quên cả ăn, quên cả trời chạng vạng. Nhớ về
chị Chiến, một người con gái năng động, nhanh nhẹn, sắp xếp những công việc
trong gia đình thật hợp lí trước khi lên đường nhập ngũ. Chị luôn luôn bàn bạc
với em (Việt) về chuyện nhà cửa giao cho ai? Năm công ruộng phân phát cho ai?
Hai công mía thì giao cho chú Năm đến mùa thu hoạch để làm đám giỗ cho ba

228
mẹ, bàn thờ mẹ và đứa em út dự định sang gửi nhà chú Năm. Việc sắp xếp và lo
toan của chị cho gia đình thật hợp lí, chứng tỏ chị là người con gái đảm đang,
tháo vát đúng như lời khen của chú Năm: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thi
việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Đặc biệt, chị luôn
luôn nhường nhịn em (Việt) về việc bắt ếch nhái kể cả bắn tàu chiến trên sông
Định Thủy nhằm tạo cho em niềm vui và tạo không khí ấm cúng thuận hòa trong
gia đình.
2. Vẻ đẹp 2: Chiến - Một người con nặng tình vói quê hưofng đất nước.
а. C hi tiế t 1: C h ị t h ể h iệ n lò n g c ă m th ù g iặ c s â u sắ c.
Xuất phát từ nỗi đau của gia đình khi ông nội và cha bị giặc giết hại, mẹ
cũng do đạn của kẻ thù sát hại và quê hương ngập đầy máu lửa. Xuất phát từ nỗi
đau riêng hòa cùng nỗi đau chung, chị Chiến đã biến nỗi đau thương thành hành
động căm hờn đôi với quân giặc bằng lời nói dõng dạc dứt khoát trước giờ phút
lên đường nhập ngũ. Chị nói: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con
gái ra đi, thì tao chi có một câu: nếu giặc còn thì tao mất vậy à!”. Nhà văn đã đi
sâu và đời sông nội tầm nhân vật, nêu lên lời nói dõng dạc, dứt khoát của chị
Chiến là toát lên lòng căm thù sâu sắc của chị đôd với quân giặc là thước đo lòng
yêu nước, vẻ đẹp tâm hồn của người con gái đất phương nam thời chông Mỹ, gợi
người đọc nhớ về tác phẩm “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi thông qua
nhân vật chị ú t Tịch cũng thế hiện lời nói căm hờn như thế: “Còn cái lai quần
cũng đánh”.
M ở r ộ n g : Hình ảnh chị Chiến là tiếp nôl tinh thần yêu nước của người phụ
nữ Việt Nam từ xưa qua hình ảnh bà Trưng, bà Triệu cũng là nỗi đau của tình
riêng khi chồng là Thi Sách bị quân phương Bắc sát hại, nước Nam bị quân thù
giàv xéo rồi hai bà đã đứng lèn làm cuộc khởi nghĩa chông ngoại xâm. Và qua
hai thời kì chông Pháp đến chông Mỹ, hình ảnh chị Nguyễn Thị Minh Khai, Võ
Thị Sáu, Trần Thị Lí,.., họ đã hi sinh quên mình cho hai cuộc kháng chiến vừa
qua, tiếp đến là những cô gái ngã ba Đồng Lộc ở Hà Tĩnh, những người phụ nữ
giao liên ở Quảng Ngãi, những cô gái ở Hà Nam,... là những nét son thật đẹp về
tinh thần bất khuâd của người người phụ nữ Việt Nam chông ngoại xâm.
б. C hỉ tiế t 2: C h ị - m ộ t c h iế n s ĩ g a n d ạ d ầ y n ữ tín h .
Tại chiến trường, chị Chiến là “một trợ pháo” đắc lực cho đồng đội, lắp đạn
cho đồng đội nhằm phá hủy, tiêu diệt những chiếc xe bọc thép của Mỹ trên sông
Định Thủy với một tinh thần gan dạ, dũng cảm là thước đo lòng yêu nước, thẩm
định tình yêu nước trong tâm hồn chị. Và khi bước vào quân ngũ, trở thành
người chiến sĩ nhưng trong ba lô của chị vẫn không quên mang theo bên mình
chiếc gương tròn loại bỏ túi là vật kỉ niệm của người con gái nông thôn vẫn còn
thích làm dáng.

229
III. PHÂN K ẼT THÚC
1. v ề nghệ th u ật: Đậm màu sắc sử thi; ngôn ngữ giàu tính nhân dân Nam
bộ; xây dựng tình huông hấp dẫn, kịch tính, đi sâu vào đời sôhg nhân vật, lời
thoại nhân vật rất thật.
2. Về nội dung: Nhà văn khắc họa hình ảnh chị Chiến, người con gái đât
phương Nam tại Bến Tre đã đi vào tác phẩm văn học như một hình tượng nghệ
thuật sông, một người con nặng tình với gia đình, một người chiến sĩ nặng lòng
với quê hương tồ’ quô'c mãi mãi là vẻ đẹp trong tâm hồn của chị của tuổi trẻ Việt
Nam thời chông Mỹ. Và hình ảnh chị Chiến xứng đáng được phong tặng tám
chữ vàng của Đảng và Nhà nước dành cho người phụ nữ miền Nam thời chông
Mỹ: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

VÃN HỌC THỜI KÌ 1975 - 2

Đế tuyển sinh: Anh (chị) nêu lên nguyên nhân hình thành, sự thành
tựu cùng m ặt tích cực và m ặt hạn chê của văn học trong giai
đoạn 1975 đến h ết thê kĩ XX.

HƯỚNG DẪN
1. Nguyên nhân hình thành: Giai đoạn văn học Việt Nam từ 1975 đến hết
thế kỉ XX xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Tháng 4-1975, Đất nước hoàn toàn giải phóng thông nhất hai miền Nam
Bắc. Tiếp tục xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
- Năm 1975 đến 1985, Đất nước rơi vào sự khó khăn nhiều mặt đặc biệt về
kinh tế do hậu quả của cuộc chiến tranh đế lại.
- Năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ 6 ra đời, đánh dâu một bước ngoặt mới, đó
là công cuộc đối mới cùa Đất nước khi tiếp cận nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phù hợp cho hoàn cảnh của Đất nước trước xu thế
phát triển của thời đại. Nền văn hóa việt nam cũng đổi mới. Vãn hóa dân tộc có
cơ hội tiếp cận với nền văn hóa toàn cầu, đón nhận những tinh hoa của thế giới
của nhân loại để có cái nhìn mới, tư duy mới theo hướng phát triển của Đất nước
của toàn cầu, tiêu biếu về văn hóa, báo chí, phương tiện truyền thông đều có sự đổi
mới phát triển mạnh mẽ. Đây là nguyên nhân hình thành nền văn học Việt Nam
từ giai đoạn 1975 đến hết năm 2000.

230
2. Sự thành tựu:
a. v ề văn x u ô i: Văn xuôi Việt Nam có hướng phát triển mạnh mẽ. Nhà văn
đi sâu vào đời sông nội tâm của nhân vật, số phận con người kể cả đời sông tâm
linh được phản ánh rõ nét. Tiêu biểu về truyện ngắn có: Mùa lá rụng trong vườn
của Ma Văn Kháng; Bến Què của Nguyễn Minh Châu; Thời xa vắng của Lê Lựu.
Về tiểu thuyết, xây dựng những tác phẩm có giá trị về nghệ thuật lẫn tư tưởng
như: Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Tướng về hưu của Nguyễn
Huy Thiệp; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ...
b. v ề t h ơ c a : Từ 1975 đến 1985: Thơ ca không tạo sự thuyết phục cho
người đọc vì cuộc sông còn nhiều khó khăn. Đến năm 1986 bước đột phá của
thơ ca bắt đầu đổi mới, gây tiếng vang trên thi đàn Việt Nam đem lại sự
ngưỡng mộ cho người yêu thơ. Tiêu biểu như, nhà thơ Thanh Thảo, Xuân
Quỳnh, Nguyễn Duy, Chê Lan Viên... cùng với những tác phẩm: Các bản di
cảo thơ của Chế Lan Viên; Những trường ca đã gầy tiếng vang rất lớn trên
thi đàn như: N hững người đi tới biển của Thanh Thảo; Đường về thành phố
của Hữu Thịnh.
c. v ề k í : Sau 1975 viết về thế loại kí có nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
mang phong cách độc đáo, giàu tính trí tuệ, giàu tính nhân văn.
d. v ề p h ó n g sự đ iề u t r a : Được nhìn rõ sự thật, giàu tính hiện thực, tiêu
biểu là phóng sự của Trần Khắc, Phùng Gia Lộc...
đ. v ề k ị c h n ó i: Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ là một kịch tác gia tài hoa
trong giai đoạn văn học này, ông đã thổi vào nền kịch nói Việt Nam một luồng
gió mới, đi sâu vào đời sô7ig nội tâm của nhân vật, sô" phận con người thật sông
động, hiện thực đã gây một tiếng vang rất lớn trong nước lẫn ngoài nước đặc
biệt tại Pháp.
e. v ề l í lu ậ n p h ê b ìn h v ăn h ọ c : Có sự đổi mới về phương pháp tiếp cận đôi
tượng, chú trọng chức năng vàn học, đề cao tính nhân văn.
3. M ặt tích cực và hạn chế:
a. M ặt tíc h cự c: Kích thích tài năng sáng tạo. Phát triển cái tôi cá nhân. Đi
sâu vào đời sông nội tâm của nhân vật, sô" phận của con người tạo cho văn học
có một cái nhìn mới, tư duy mới về hiện thực cuộc sô"ng.
b. Mặt hạn chê": Một sô nhà văn, nhà báo vì lợi nhuận, họ chạy theo thị
hiếu của một sô" người đọc, một bộ phận công chúng nào đó biến tác phẩm trở
thành một thứ hàng hóa mang nội dung thiếu lành mạnh, biểu hiện quá đà.

231
Đ À N G H I T A C Ủ A L O R -C A
THANH THẢO

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tá c cùng chủ đề bài thơ “Đ àn g h i ta
củ a L or-ca” qua ngòi bút Thanh Thảo.
Câu 2: Anh (chị) giải thích lời đề từ: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với
cây đ à n ” trong bài thơ “Đàn gh i ta của Lor-ca” qua ngòi bút
Thanh Thảo.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Hoàn cảnh sáng tá c và chủ đề bài thơ “D àn G hitar củ a Lor-ca”.
1. Hoàn cảnh sáng tá c:
Lor-ca, một nhà thơ nổi tiếng của đất nước Tây Ban Nha, ông mang nặng
tình yêu quê hương đất nước. Lor-ca muốn cách tân về nghệ thuật, đổi mới về
chính trị, đem lại luồng gió mới về tự do, công bằng cho đất nước Tây Ban Nha,
cho nền vàn học nghệ thuật nước nhà. Trước khát vọng chính đáng của Lor-ca,
bọn phát xít Phrăng-cô muôh duy trì chế độ lạc hậu, độc tài. Chúng đã dập tắt
tinh thần dấu tranh của Lor-ca, giở thủ đoạn hèn mọn giết Lor-ca rồi quăng xác
xuông giếng sâu. Thanh Thảo ngưỡng mộ một tài năng, một nghệ sĩ khát vọng
vì tự do, công lí, cuôl cùng phải đón nhận một cái chết. Tác giả viết lên bài thơ
“Đàn ghi ta của Lor-ca” như biểu hiện một tấm lòng đôl với người nghệ sĩ nặng
tình yêu đất nước. Bài thơ được đăng trong tập “Khối vuông ru-bích” xuất bản
năm 1985.
2. Chủ để: Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” nhằm ca ngợi cái chết bi
tráng của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca và bày tỏ lòng ngưỡng mộ thương
tiếc của tác giả.
Câu 2. Giải thích lơi dề từ cũng là lơi di chúc của Lor-ca: “Khi tôi chết hãy
chôn tôi với cây d à n ”.
Lời di chúc của Lor-ca “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là lời đề từ
trong bài thơ “Đàn ghi ta cửa Lor-ca" qua ngòi bút của Thanh Thảo xuất
phát từ hai ý sau:
Ỷ 1: Với Lor-ca, cây đàn ghi ta là biểu tượng cho con đường nghệ thuật của
ông, là hơi thở, mạch sông gắn liền với ông trên con đường ấy như hình với
bóng. Vi thế, Lor-ca lúc còn sông hay lúc chết đều muôn cây đàn vẫn ở bên
mình. Và lời di chúc của Lor-ca: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” còn có ý
nghĩa, cây đàn ghi ta tiêu biểu, tượng trưng vẻ đẹp của đất nước Tây Ban Nha
mà người ta còn gọi là Tây Ban cầm, mãi mãi là hình bóng của đất nước Tây

232
Ban Nha trong trái tim ông. Vì lẽ ấy, Lor-ca lúc còn sông cũng như lúc chết vẫn
mong ước hình bóng của quê hương đất nước vẫn nằm trọn bên ông.
ý 2: Với Lor-ca, con đường nghệ thuật phái luôn đối mới, cách tân, thăng hoa,
sáng tạo nhằm phù hợp trước xu thế phát triển của thời đại của đất nước. Chứng
tỏ Lor-ca có một suy nghĩ thật dũng cảm, mới mẻ đầy tính nhân văn. Lor-ca
nghĩ rằng, con đường nghệ thuật của mình đến lúc phải cạn kiệt, lạc hậu, phải
biết khép lại, chôn lâ'p đế’ lớp sau đi tới. Đúng như lời bày tỏ của Lor-ca: “Phải
biết chôn nghệ thuật của ông đ ể được đi tới”. Đây là một quan niệm đúng đắn,
tiến bộ phù hợp cho sự phát triển của đất nước. Chứng tỏ Lor-ca có một cái tầm
và cái tâm cao quý.

Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bài thơ “D àn g h i t a c ủ a L o r - c a ”


qua ngòi bút Thanh Thảo để làm sáng tỏ vẻ đẹp của người nghệ
sĩ tài hoa, người chiến sĩ vì khát vọng tự do cho đ ất nước Tây
B an Nha.

Sĩỉ ữnsf kiến th ứ c c ầ n nắm:|


1. Nhà thơ Tô' Hữu từng ca ngợi cái chô't đã đi vào vĩnh hằng: “Có cái chết hóa
thành bất ti'(”. (Tô Hữu)
2. Nhà văn Pháp Musset cũng bày tỏ về cái chết đẹp: “Không có gì cao cả hơn
một sự đau đớn lớn”. (Musset - Pháp)
3. Lời cổ nhân từng đề cao vẻ đẹp bất khuât với lời nói: “Uy vã bất năng khuất”.
Ý nói: trước bạo lực không hề cúi đầu. (Lời người xưa)
4. Lời cố’ nhân nói về cái chết đẹp mãi mãi đi vào lòng người: “Thác là thể
phách, còn là tinh anh”. (Lời người xưa)
5. Nhà thơ Tô' Hữu từng ca ngợi vẻ đẹp bâ't khuât trước bạo lực uy quyền:
“Chúng muốn dốt ta thành tro bụi. Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm.
Chúng muốn biến ta thành ô nhục. Ta làm S C ĨI thơm ngát giữa đầm”, (trích
“Máu và Hoa” - Tô Hữu)
6. Có lời nhận định về bài thơ “Đàn glìi ta của Lor-ca” như sau.‘ “Đàn ghi ta của
Lor-ca” như tượng dài nghệ thuật bất tứ về người nghệ sĩ tài hoa, người chiên
sĩ vì khát vọng tự do công li cho đất nước Tây Ban Nha”. (Lời nhận định)

HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có cái chết hóa thành bất tiT.
(Tố Hữu).
Quả thật, một cái chết đẹp vì hạnh phúc cộng đồng vì khát vọng tự do cho
đâ't nước. Cái chê't ấy mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử với năm tháng. Nghĩ

233
về cái chết cao đẹp ấy, chúng ta lại nhớ bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-cá” qua ngòi
bút Thanh Thảo trích trong tập “Khối vuông ru-bích" iuất bản năm 1985, nhà
thơ khắc họa hình tượng Lor-ca, một người con của đất nước Tây Ban Nha,
người nghệ sĩ tài hoa, người chiến sĩ vì khát vọng tự do, công lí cho đất nước
mãi mãi đế’ lại cho đời cho vàn học nghệ thuật những vẻ đẹp khó quên.

II. PHÂN TRỌNG TÂM


1. Vẻ đẹp 1 (sáu câu thơ đầu): L or-ca một người con nặng tình với
đất nước.
Nhớ về Lor-ca là nhớ về một nghệ sĩ tài hoa, một chiến sĩ vì khát vọng tự do
công lí, ước vọng của Lor-ca làm sao đất nước Tây Ban Nha đối mới về con
đường chính trị và cách tân nghệ thuật, phù hợp trước xu thế phát triển của
thời đại. Đây là khát vọng hoài bão chính đáng, có một cái tầm và cái tâm thật
sáng ngời của Lor-ca, mong đất nước Tây Ban Nha đối mới phát triển giàu đẹp.
Nhưng Lor-ca, đứng trước bọn phát xít Phrăng-cô bạo tàn, bảo thủ. Chúng muôn
dập tắt ngọn lửa đấu tranh của Lor-ca, bằng hành động đê hèn tàn bạo, chúng
đã sát hại Lor-ca vào ngày 19-8-1936 rồi quăng Lor-ca xuông giếng sâu. Thanh
Tháo thương tiếc người nghệ sĩ tài hoa, người chiến sĩ nặng lòng với đất nước,
tác giả vièt lên những vần thơ đầu tiên với tiếng gọi: “Tây Ban Nha. Áo choàng
đỏ gắt. Li-la li-la li-la”. Với thề thơ tự do, giàu nhạc tính, hình ảnh tiêu biểu,
tượng trưng, cho chúng ta hình dung “áo choàng dỏ gắt" là hình ảnh những
chàng dũng sĩ với chiếc áo choàng đỏ thắm chuẩn bị ra đâu trường, chiến đâu
với những chú bò tót, là nét đẹp văn hóa của đâ't nước Tây Ban Nha. Nhưng
hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” với nét thơ của Thanh Thảo không phải là những
chàng dũng sĩ chuẩn bị chiến đâh với các chú bò tót mà ở đây là công dân Lor-
ca, người nghệ sĩ tài hoa, người chiến sĩ dũng cảm đang đôi đầu với bọn phát xít
bạo tàn Phrăng-cô của đất nước Tây Ban Nha lúc ấy. Với Lor-ca, ông mong làm
sao cách tân về nghệ thuật, đổi mới về chính trị, đế đất nước Tây Ban Nha
mang bộ mặt mới phù hợp trước xu thế phát triển của thời đại. Nhưng xót xa
thay! Lor-ca vẫn “di lang thang về miền đơn độc", chứng tỏ con đường đấu tranh
của Lor-ca chỉ một mình một ngựa cùng “với vầng trăng chếnh choáng. Trên yên
ngựa mỏi mòn". Hàng loạt từ láy gợi cảm, “đơn độc”, “chếnh choáng", “mỏi mòn”
cho người đọc tìm thấy con đường đấu tranh của Lor-ca chưa tìm được lôì ra như
“những tiếng dàn bọt nước” đã vỡ tan ra và Lorca vẫn mang tâm trạng khắc
khoải, ưu tư, đau đáu. Cuôl cùng Lor-ca phải đón nhận cái chết. Tại sao Lor-ca
phải chịu cái chết oan khuất như thế? Vì Lor-ca nhìn thấy đất nước lạc hậu về
nghệ thuật, con đường chính trị độc tài bảo thủ, chủ nghĩa phát xít cần phải đổi
mới, phải thay đổi đế đem lại sự phát triển tôd đẹp cho đất nước Tây Ban Nha
là khát vọng chính đáng là hành động dũng cảm thế hiện cái tầm, cái tâm cao

234
quý của Lor-ca. Dù Lor-ca chết trước họng súng bạo tàn của bọn phát xít Phăng-
Cô nhưng đó là cái chết đẹp, cái chết đế mang lại sự đổi mới cho đất nước Tây
Ban Nha. Quả thật, '"Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”. Lor-ca là chân
dung mang vẻ đẹp như thế.
L iên h ệ: Nhớ về cái chết của Lor-ca, chúng ta lại liên tưởng đến cái chết của
ông Huân Cao, một nhà thơ lớn mang tên Cao Bá Quát, ông làm quan dưới
triều Tự Đức, ông đã đứng về phía nhân dân, ở đây là người nông dân để đòi lại
sự công bằng, quyền lợi cho người nông dân, nhưng cuôl cùng ông phải đón nhận
cái chết. Giữa người nghệ sĩ Lor-ca và ông Huấn Cao đều có một nhân cách sống
cao đẹp.
2. Vẻ đẹp 2 (mười hai câu thơ giữa): L or-ca trước cái ch ết bi tráng.
Lor-ca trên đường ra bãi bắn là giờ phút ông đang trực diện với cái chết, đôd
đầu với bọn phát xít bạo tàn Phràng-cô. Chứng tỏ Lor-ca đang đứng trước uy
quyền, bạo lực. Với hai hình ảnh hoàn toàn đôì lập giữa cái chính nghĩa đang
đôi mặt trước cái phi nghĩa. Nhưng đẹp thay! chân dung của Lor-ca trên đường
ra bãi bắn, Lor-ca vẫn “hát nghêu ngao" toát lên hình ảnh tượng thanh độc đáo,
giàu sức biếu cảm cho chúng ta thấy rõ thái độ ung dung, tự tại của Lor-ca trước
giờ phút cuôd cùng của cuộc đời. Chứng tỏ, trước cái chết, Lor-ca, ông vẫn không
hề lo sợ, khuất phục, Lor-ca vẫn thế hiện một tư thế, một tâm thế thanh thản,
đỉnh đạc là biếu hiện của ý chí thép, tinh thần thép của Lor-ca là vẻ đẹp của
“Uy vũ bất năng khuất”.
L iên hệ: Hình ảnh Lor-ca trước giờ phút cuôd cùng, người đọc nhớ lại hình
ảnh ông Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân cũng
mang một vẻ đẹp như thế. Chúng ta còn nhớ, khi ông Huấn Cao nhận được tin
từ “phiến trát" của triều đình, do thầy thư lại báo rằng, ngày mai ông Huấn Cao
cùng năm đồng chí giải về Kinh hành quyết. Trước giây phút ấy, ông vẫn “mỉm
cười” là thế hiện thái độ ung dung, thanh thản, tự tại sẵn sàng đón nhận cái
chết như là sự giải thoát. Thanh Thảo tiếp tục khắc họa chân dung của Lor-ca
trên đường ra bãi bắn vẫn toát lên một nét đẹp tự tại của Lor-ca. Với hình ảnh
so sánh giàu chất suy tưởng “chàng di như người mộng du”, chứng tỏ Thanh
Thảo đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, cảm nhận trên đường ra bãi
bắn, dù Lor-ca đang đôd diện cái chết, cái chết gần kề nhưng Lor-ca như cô' quên
tât cả và không bận lòng với tất cả, lúc ấy,Lor-ca chỉ biết hướng về một thế giới
khác, thế giới tâm linh, thế giới của sự bình yên, hạnh phúc cho con người. Hình
ảnh “áo choàng bê bết dỏ” chính là giây phút Lor-ca ngã gục trước họng súng
bạo tàn của bọn phát xít Phrăng-Cò. Chúng muôn dập tắt ngọn lửa đấu tranh
của Lor-ca, càng thây rõ hành động đê hèn của bọn Phát xít. Quả thật, máu của
Lor-ca đố xuông chính là dòng máu anh hùng bất khuât của người chiến sĩ vì tự

235
do công lí như "'tiếng ghi ta ròng ròng niáu chảy' có khác gì như những giọt nước
mắl của hàng triệu con người khóc thương cho Lor-ca phải đón nhận một cái
chết, cái chết oan khuất, nhưng đó là cái chết đọp. Vì Lor-ca chết đế mong đất
nước Tây Ban Nha được đối mới, được cách tân trước xu thế phát triển của thời
đại. Và hàng loạt hình ảnh tượng thanh với: "Tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái
ấy. Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy. Tiêng ghi ta tròn bọt nước vở tan. Tiếng ghi
ta ròng ròng máu cháy" là những giai điệu quê hương là bầu trời của tình yêu,
thật sự đã thâm vào máu thịt của Lor-ca, linh hồn của Lorca. Hình tượng của
Lor-ca là vẻ đẹp của lòng yêu quê hương đất nước Tây Ban Nha, nét đẹp ấy,
chúng ta liên tưởng lời thơ của Tô Hừu có viêt: “Chúng muốn dốt ta thành tro
bụi. Ta hóa vàng nhân phấni lương tám. Chúng muốn biến ta thành ô nhục. Ta
làm sen thơm ngát giữa đầm", (trích “Máu Và Hoa” — Tô Hữu) Quả thật, chân
dung của Lor-ca, hình tượng Lor-ca cũng mang vẻ đẹp cao quý như thế.
3. Vẻ đẹp 3 (Mười ba câu thơ cuôi): L or-ca b ât tử cùng tiếng đàn.
а. T hương tiếc Lor-ca: Lor-ca đã nằm xuông đê lại bao thương tiếc cho mọi
người, cho những ai yêu tự do công lí, cho sự giàu đẹp của đất nước. Và chân
dung của Lor-ca được tạc thành tượng, đặt tại Quảng trường Santa-Ana, thủ đô
Tây Ban Nha là bày tỏ lòng tiê'c thương, ngưỡng mộ của nhân dân Tây Ban Nha,
của những ai yêu tự do công lí. Lor-ca đã nằm xuông nhưng không chi người đời
thương tiếc Lor-ca mà tạo vật, đất trời cũng thương tiếc cho Lor-ca. Thi ảnh;
“Giọt nước mắt vầng trăng. Long lanh trong đáy giếng". Là hình ảnh nhân hóa
độc đáo, sáng tạo gợi cho chúng ta tìm thấy, tràng khóc cho người, trăng đồ lộ
cho người, người nghệ sĩ tài hoa, người chiến sĩ nặng tình với đất nước, càng
thấy rõ cái chê't của Lor-ca đã thấm sâu vào lòng người cùng tạo vật. Thật đáng
khâm phục.
б. L orca bất tử: Tiếng gọi; “Đường chỉ tay dã đứt" nói lên cuộc đời ngắn
ngủi của Lor-ca, cái chét đã cướp đi quảng đời thanh xuân tràn đầy sức sông của
Lor-ca. Dù cho thân xác của Lor-ca không còn nữa nhưng hình ảnh của Lor-ca
ciìng tiếng đàn của ông vẫn ngân vang, ngân xa giữa lòng đất nước Tây Ban
Nha. Với tiêng gọi: “Tiếng dàn như cồ mọc hoang" một hình ảnh so sánh vừa
hiện thực vừa lãng mạn đưa chúng ta tìm thấy, tiêng đàn như một loài cỏ dại, cỏ
hoang mà nói đến cỏ hoang, cỏ dại, tuy khiêm nhường nhưng có một sức sông
bất diệt như sức sông của Lor-ca. Dù hình ảnh Lor-ca, tiếng đàn của Lor-ca
không còn nữa nhưng ngọn cờ đấu tranh cho tự do công lí của Lorca vẫn tiếp
nôì, kế thừa và tiếng đàn của Lor-ca, hình ảnh của ông có thế vượt cả mọi biên
giới, vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn vì ở đâu có đâu tranh cho tự do công lí, cho
công bằng dân chủ cho sự giàu đẹp của đất nước thì ở đó có hình bóng Lor-ca,
tiếng đàn Lor-ca. Quả thật, “Có cái chết hóa thành bất tit’, Lor-ca là con người
có cái chết đẹp như thế.

236
III. PHÂN K ẾT BÀI
1. Về nghệ th u ật: Với thể thơ tự do, giàu nhạc tính, giàu sức biểu cảm kết
hợp biện pháp tượng trưng, hình ảnh tiêu biểu, hòa hợp giữa siêu thực và hiện
thực, giữa bi ca và tráng ca.
2. v ề nội dung: Bài thơ đã khắc họa hình tượng Lor-ca như một tượng đài
nghệ thuật bất tử về người nghệ sĩ tài hoa, người chiến sĩ vì khát vọng tự do,
công lí vì sự giàu đẹp cho đâ't nước Tây Ban Nha.

AI Đ À Đ Ặ T T È N C H O D Ò N G S Õ N G ?
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

Đề tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Anh (chị) nêu lên phong cách nghệ th u ật củ a H oàng Phủ
Ngọc Tư ờng thông qua thê loại kí của tá c giả.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “Ai d ã d ặ t tên c h o d ò n g sôn g ? ”
tron g bài kí cùng tên củ a nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Phong cách nghệ th u ật của Hoàng Phủ Ngọc Tường thông qua
thể loại kí đưỢc th ể hiện với những đặc điểm sau:
1. Với tác giả, cần phải tạo nguồn cảm hứng mới, phong phú đa dạng nhằm
đem lại sự hấp dẫn cho người đọc, nhà văn phải đi thật nhiều trên khắp mọi
miền đất nước trong chiến tranh hay hòa bình, đế khám phá những nguồn cảm
hứng mới trong sáng tác.
2. Thê loại kí, quan sát chính xác, tinh tế, giàu chất suy tư, trữ tình sâu lắng.
3. Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên tại Huế. ông đã chọn quê hương
là vùng đất cô đô Huê như đời sông tinh thần, tạo nên nguồn cảm hứng cho tác
giả trong sáng tác.
4. Thể loại kí luôn luôn đi sâu vào cái đẹp của vùng đất cô đô Huê từ vẻ đẹp
địa lí, lịch sử, văn hóa và đời sông tâm linh.
5. Thế loại kí, văn phong đầy chất thơ, tính trí tuệ cao, uyên bác.
6. Thế loại kí là nguồn mạch, ca ngợi niềm tự hào về quê hương đất nước con
người cùng tinh hoa của dân tộc.
Câu 2: Giải thích tựa đề “Ai đ ã đ ặ t tên c h o d ò n g sôn g ? ”
- Tựa đề “Ai đã dặt tên cho dòng sông?”' Qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc
Tường có hai cách diễn đạt.

237
1. Tựa để “Ai đã đặt tên cho d ò ng sông?”: Là một câu hỏi tu từ, tưởng
chừng như câu hỏi trời, hỏi đâ't mơ hổ, mông lung không có lời giải đáp. Nhưng
cũng từ câu hỏi ây qua ngòi bút của tác giả, đã nêu lên những vẻ đẹp của dòng
sông Hương từ góc nhìn địa lí, lịch sử, văn hóa và đời sông tâm linh.
2. Với tự a dề “Ai d ã dặt tên cho d ò n g sô n g?”: Còn đậm chât huyền
thoại. Tương truyền rằng, người dân sông hai bên bờ sông tha thiết gắn bó với
dòng sông quê hương của mình, rồi họ đi tìm hơn một trăm loài hoa thơm, sau
đó, lấy nước sông ấy, đem nâh toát lên mùi thơm ngào ngạt rồi họ đổ nước ấy
xuông dòng sông và gọi là dòng sông thơm, hay còn gọi là Sông Hương như
chính tựa đề.

Đề tuyến sinh: Anh (chị) phân tích vẻ đẹp con sông Hương qua góc
nhìn củ a nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tron g bài kí “Ai đ ã đặt
tên cho dòng sông?”.

ịS Ĩ ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Nhà thơ Tế Hanh từng ca ngợi hình ảnh con sông quê: “Hỡi con sông đã tẩm
cả đời tôi. Tôi nhớ mãi mối tình mới mẻ” {“Nhớ Con Sông Quê Hương” -
Tế Hanh).
2. Nhà thơ Tô' Hữu từng ca ngợi hình ảnh con sông Hương của một thời thơ â'u:
“Hương Giang ơi! Dòng sông êm. Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
(Tô' Hữu).
3. Nhà thơ Cao Bá Quát từng ca ngợi con sông Hương: “Trường Giang như kiếm
lập thiên thanh”, ý nói: vẻ đẹp dòng sông Hương thật uy nghi lẫm liệt như
thanh kiếm giữa bầu trời xanh.
4. Nhà thơ Tản Đà từng ca ngợi vẻ đẹp con sông Hương: “Dòng sông tráng, lá
cây xanh” (Tản Đà).
5. Nhà thơ Thu Bồn từng ca ngợi dáng vẻ con sông Hương cũng mang tâm
trạng: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên
Huế rất sâu” (Thu Bồn).
6. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn con sông Hương cũng thể hiện nỗi niềm,
tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến trước giờ phút chia li: “Còn non, còn nước,
còn dài. Còn về, còn nhớ ...” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
7. Thi nhân Hàn Mặc Tử từng ca ngợi vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương: “Dòng
nước buồn thiu hoa bắp lay”. Thi nhân tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp lung linh
huyền ảo của dòng sông Hương như dòng sông tràng. Với hình ảnh: “Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó?”, (trích “Đây Thôn Vĩ Dạ” - Hàn Mặc Tử).

238
8. Có lời bày tỏ rằng: ''Không nơi đâu dẹp tuyệt vời. Sông Hương, Núi Ngự nghìn
dời nicn yêu" hay ''Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Sông Uươìig, Núi Ngự giữa lòng
cố dô".
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
‘‘Hỡi con sông đã tấm cả đời tôi
Tôi nhớ mãi môi tình mới mẻ”.
(trích “Nhở Con Sông Quê hương” - Tế Hanh)
Quả thật, mỗi người chúng ta, ai ai cũng có dòng sông quê hương, dòng sông tự
tình, dòng sông hoài niệm, dòng sông đê thương đế nhớ trong tiềm thức của mỗi
con người, mãi mãi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người lớn dần theo chiều dài cùng quê
hương đất nước. Hôm nay, đưa chúng ta tìm về hình ảnh dòng sông Hương nơi cố
đô Huê trong bài kí “Ai đã dặt tên cho dòng sông?” qua ngòi bút tài hoa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, đế tìm lại những vẻ đẹp về hình ảnh dòng sông Hương
qua cách nhìn của tác giả.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ đẹp con sông H ương qu a cách n hìn củ a tác giả.
1. Vẻ đẹp của sông Hương qua góc nhìn địa lí.
a. S ô ng H ư ơ n g g iữ a thượng nguồn: Bài Kí “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân khắc họa hình ảnh con sông Đà vừa thơ mộng trữ tĩnh đáng yêu,
vừa hCmg vĩ, hung bạo đáng sợ, mãi mãi là vẻ đẹp do công trình nghệ thuật của
tạo hóa, tô đậm sự phong phú giàu đẹp cho đất nước. Bài Kí “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”. Với nét bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Sông Hương lại mang một
diện mạo, một dáng vẻ, một cá tính, một trạng thái rất riêng giữa thượng
nguồn. Dòng sông có lúc mang vẻ đẹp “hùng vĩ” như một bản trường ca giữa
rừng Trường Sơn, có lúc “rầm rộ” giữa bóng cây đại ngàn, có lúc lại “mãnh liệt”
vượt qua những thác ghềnh, có lúc “cuộn xoáy” như những cơn lôh với một trạng
thái mạnh mẽ đầy cá tính. Ngoài diện mạo, trạng thái ấy, dòng sông Hương còn
mang dáng vẻ dịu dàng, say đắm, phóng khoáng, man dại như người thiếu nữ
Di-gan diễm kiều của đâd nước Tây Ban Nha. Phải có một cái nhìn tinh tế, sâu
lắng tha thiết với dòng sông Hương thì tác giả mới phác họa những vẻ đẹp đáng
yêu, râd riêng đến thế.
b. S ô ng H ương xuôi về d ồ ng bằng: Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả đã thổi
vào dòng sông Hương như một sinh thể có hồn, mang diện mạo, dáng vẻ của
một con người trong tư thế hoàn toàn chủ động trước khi xuôi về đồng bằng với
thi ảnh nhân hóa độc đáo: “Nó đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong

239
những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” và xuôi dòng. Dòng sông lúc này lại
mang một dáng vẻ khác “dòng sông uốn minh theo những đường cong thật
mềm... dòng sông mềm như tấm lụa” và “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế” chảy ra các lăng tẩm của các vua triều Nguyễn đang chìm sâu trong giấc
ngủ nghìn năm giữa rừng thông u tịch và dòng sông lại hòa nhịp cùng với “tiếng
chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà". Hàng loạt hình ảnh giàu sức biểu cảm, giàu châ't suy tưởng,
đậm chất Huế, toát lên cảnh đẹp vừa thơ mộng trữ tình vừa thiêng liêng cố kính
như đưa chúng ta tìm về thế giới của tâm linh, tìm lại những di tích xưa của một
thời vang bóng.
c. Sông H ương chảy vào thành pì ,ố H uế: Dòng sông xuôi về thành phô
Huế, mảnh đất yêu dấu của cố đô. Đẹp thay, dòng sông lúc này “trôi đi chậm, thật
chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh” như đế tìm kiếm, ngắm nhìn trọn
vẹn thành phố yêu dấu đã nằm sâu trong tâm thức của dòng sông tự bao giờ. Rồi
con sông rộ lên một niềm vui, khi “nó đã nlùn thấy chiếc cầu trắng của thành phố
in ngần trên nền trời” đó là cầu Tràng Tiền sáu vài, mười hai nhịp, là vẻ đẹp tiêu
biểu của thành phô Huế và mỗi nhịp cầu như từng nhịp đập, hơi thở của người dân
cô đô Huê và mỗi nhịp cầu được thi vị hóa như “một vành trăng non” nghiêng
mình soi bóng trên dòng sông xanh biêng biếc, trầm mặc như nhớ thương ai!, đợi
chờ ai! toát lên nét đẹp rất riêng của Huế và gợi cho chúng ta liên tưởng dòng
sông Đà trong bài Kí “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà cũng
thế hiện một niềm vui khi nhìn thấy chuồn chuồn, bươm bướm bay lượn trên sông
và dòng sông cũng rộ lên một niềm vui với tiếng gọi: “Chao ôi, trông con sông vui
như thấy nắng dòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
d. Sông H ương xuôi về cồn H ến: Dòng sông Hương tiếp tục xuôi về cồn Hến.
Nơi đây “quanh năm mơ màng trong sương khói” toát lên một không gian đầy
sương kliói Huế, hòa với một màu xanh biếc, màu xanh của tre của trúc của những
vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ như cùng hòa quyện với dòng sông Hương, toát lên
cảnh đẹp thơ mộng tràn đầy sức sống của thiên nhiên và tình yêu lao động của con
người Vĩ Dạ. Rồi dòng sông về với biển cả về lại với cội nguồn. Nhưng lạ thay, dòng
sông lại quay gót, “nó đột ngột đổi dòng, ré ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại
thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh” như đế ngắm nhìn vẻ đẹp của thành
phố Huế yêu dấu lần cuối cùng trước giờ phút chia tay. Ngòi bút của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, nhà văn đã thổi vào dòng sồng như một nhân vật trữ tình như người
con xứ Huê mang “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” và dòng
sông Hương khác gì hình ảnh nàng Kiều mà thành phố Huế là bóng hình Kim
Trọng mà trước giờ phút chia tay, nàng Kiều cũng quay gót trở lại để tìm gặp chàng
Kim nói lên lời thề ước. Một hình ảnh thơ mộng gợi tình và dòng sông Hương được

240
thi vỊ hóa như tỄun trạng người con gái xứ Huế trước giờ phút chia ly cũng bận lòng
lưu luyến mà thành phố Huế như người tình trong mộng, người bạn tri âm, tri kỉ đã
ăn sâu, nằm trọn trong tâm thức của dòng sông. Rồi dòng sông lại thầm thì, độc
thoại: “Còn non còn nước còn dài. Còn về còn nhớ ...” Vậy, dòng sông nhớ ai? Phải
chăng, dòng sông nhớ về thành phô Huế yêu dấu như người tình tha thiết cùng gắn
bó với dòng sông, là thể hiện một chút lãng mạn kín đáo trong tình yêu và dòng
sông Hưcmg như người con xứ Huế “lãng mạn mà chung tình”. Một hình ảnh độc
đáo, qua cách miêu tả của tác giả để lại cho đời những trang văn đầy chất thơ.
2. Vẻ đẹp của sông Hương với góc nhìn lịch sử:
Hình ảnh dòng sông Hương với cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường không còn
là cô gái Digan dịu dàng, say đắm của đất nước Tây Ban Nha, không còn là hình
ảnh người mẹ phù sa đầy trí tuệ, sông Hương cũng không phải là dòng đời xuôi
ngược mà sông Hương còn là nhân chứng của lịch sử, dòng sông là những trang sử
vẻ vang vừa đau thương vừa anh hùng của dân tộc trong thời đại dựng nước và giữ
nước. Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa ta tìm về chiều dài lịch sử, bắt gặp dòng sông
Hương “là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng” là tấm lá
chắn bảo vệ biên cương. Đến thời kì trung đại, dòng sông Hương từng “chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của dân tộc Đại Việt”. Đến thế kỉ thứ XVIII
dòng sông Hương từng chứng kiến những chiến công hiển hách lẫy lừng của người
anh hùng Nguyễn Huệ và dòng sông từng “soi bóng kinh thành Phú Xuân” biểu
tượng cho niềm tự hào của đại đế Quang Trung. Đến thế kỉ thứ XIX, dòng sông
từng gắn liền với bao cuộc khởi nghĩa đẫm máu của dân tộc tiếp đến là cuộc cách
mạng tháng Tám. Và dòng sông Hương cùng những di sản văn hóa của Huế đã
oằn mình chịu đựng trước bao nhiêu bom đạn của Đế quốc Mỹ vào mùa xuân Mậu
Thân năm 1968 mà thành phố “Huế đã nhận những lời chia buồn sâu sắc nhất
của thế giới về sự tàn phá mà Đế quốc Mỹ đã chụp lèn những di sản văn hóa của
nó” trong chiến tranh tại Việt Nam.
Mở rộ n g: Nhớ về dòng sông Hương là nhớ đến những dòng sông của đất nước
từng là nhân chứng của lịch sử, đưa chúng ta nhớ về dòng sông Gianh trong thời
kì Trịnh - Nguyễn phân tranh và dòng sông Bến Hải trong thời kì chông Mỹ
cứu nước. Quả thật, mỗi hình ảnh của dòng sông là mỗi nhân chứng trong từng
giai đoạn lịch sử vừa đau thương lẫn tự hào.
3. Vẻ đẹp củ a sông Hương qua góc nhìn văn hóa;
a. D òng sông của âm n h ạ c: Phải có một cảm nhận tinh tế, óc trừu tượng
phong phú sâu sắc, giàu tính trí tuệ, am hiểu nhiều lĩnh vực, Hoàng Phủ Ngọc
Tường mới khắc họa cho người đọc tìm thấy sông Hương là dòng sông của âm
nhạc. Với những âm thanh từ tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga rền mặt
nước, tiếng mái chèo khua nước giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền.
241
Hàng loạt những âm thanh ấy tạo nên những giai điệu, âm điệu, làn điệu để hình
thành ”toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế”. Cũng từ giữa dòng nước sông Hương,
đêm đêm cất lên những điệu hò vừa bồi hồi, xao xuyến vừa êm đềm, bâng
khuâng lắng đọng hình thành những làn điệu dân ca Huế trữ tình ngọt ngào
làm ru lòng người, ru lòng bao du khách, ai đã từng đến Huế. Và dòng sông
Hương được hình tượng hóa “như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”,
toát lên cảnh đẹp thơ mộng, gợi tình, say đắm như ru lòng người vào thế giới
âm nhạc cung đình Huế. Đặc biệt, tại thành phố Huế, đại thi hào Nguyễn Du
từng sông nơi này (Huế), nhà thơ từng nghe âm thanh của làn nước, những điệu
hò, những câu hát dân gian tạo nên nguồn cảm hứng để nhà thơ viết lên những
trang thơ thấm đẫm nhạc cung đình. Phải có một cái nhìn tinh tế, bao quát,
kiến thức rộng, tha thiết với dòng sông quê hương, thì tác giả mới để lại cho đời
những trang văn thật đẹp, giàu chất thơ về hình ảnh dòng sông Hương đáng
yêu, đáng nhớ đến thế.
b. D òng sông củ a thơ ca: Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn vẻ đẹp của dòng
sông Hương là nguồn cảm hứng đôì với người thi sĩ qua từng thời đại, làm nên
những hồn thơ bất hủ cho đời và mang lại sự phong phú cho thơ ca Việt Nam.
Chúng ta vẫn còn nhớ, nhà thơ Cao Bá Quát dưới triều đại Tự Đức vào cuôì thế
kỉ thứ XVIII từng nhìn dòng sông Hương mang vẻ đẹp vừa hoành tráng hùng vĩ,
vừa hiên ngang lẫm liệt giữa bầu trời xanh với thi ảnh: “Trường Giang như
kiếm lập thiên thanh”. Nhà thơ Tản Đà nhìn dòng sông Hương toát lên một
không gian đầy sương khói Huế hòa quyện với màu xanh biêng biếc tràn đầy sức
sống thiên nhiên cùng hòa quyện sức sông của con người với hình ảnh: “Dòng
sông trắng, lá cây xanh”. Đến nhà thơ Thu Bồn của vùng đất Quảng Nam nhìn
dòng sông Hương như mang một tâm trạng, một nỗi niềm, lưu luyến vấn vương
với thi ảnh: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên
Huế rất sâu”. Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nhìn con sông Hương như
một nhân vật trữ tình, người con xứ Huế cũng mang “nỗi vương vấn cả một chút
lẳng lơ kín đáo của tình yêu” qua lời thì thầm: “Còn non còn nước còn dài. Còn
về còn nhớ ...”. Lời thơ đứt quăng với ba dấu chấm lửng ở cuôì câu (...) gợi lên một
nỗi niềm, một tâm trạng vấn vương của người con xứ Huế cũng “là tấm lòng
người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Liên hệ: Làm sao chúng ta quên được nhà thơ Tố Hữu, một người con sinh ra
và lớn lên giữa lòng thành phố Huế, cũng yêu Huế, yêu dòng sông quê hương mà
hình ảnh dòng sông Hương đã in sâu trong tâm hồn nhà thơ với lời bày tỏ tha
thiết của thi nhân: “Hương Giang ơi! Dòng sông êm. Quả tim ta vẫn ngày đêm tự
tình”. Rồi nhớ về Hàn Mặc Tử trong “Đây Thôn Vĩ Dạ” chúng ta bắt gặp dòng
sông Hương chính là dòng sông trăng, lung linh huyền ảo với: “Thuyền ai đậu
bến sông trâng đó”? Và dòng sông Hương qua cái nhìn của thi nhân, lại trầm

242
r
mặc u hoài như nhớ thương ai! đợi chờ ai! với lời thơ giàu sức biểu cảm sâu lắng
với thi ánh: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay". Quả thật, hình ảnh con sông
Hương là công trình nghệ thuật của tạo hóa đã dành riêng cho Huế, mãi mãi là
hình tượng nghệ thuật là nguồn cảm hứng của người thi sĩ qua nhiều thời đại đã
làm nên những trang thơ bất hủ cho đời cho nền thơ ca Việt Nam.
III. PHẦN K ẾT THÚC
1. v ề nghệ th u ật: Với cái nhìn tinh tế, sâu lắng, giàu trí tuệ, giàu chất suy
tưởng, am hiểu nhiều lĩnh vực qua nét bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường
cùng tấm lòng yêu quê hương, yêu dòng sông Hương tha thiết của nhà văn.
2. v ề nội dung: Tác giả, khắc họa hình ảnh con sông Hương, một hình
ảnh nghệ thuật thật đẹp từ vẻ đẹp địa lí, lịch sử, văn hóa như làm sôhg lại
hình ảnh dòng sông Hương của thành phô' Huế của vùng đâ't miền Trung, đất
cày lên sỏi đá nhưng cô' đô Huế, cô' đô của một thời vang bóng đã có dòng sông
thật đẹp, thật thơ mộng, trữ tình càng tô đậm sự giàu đẹp cho Huê' cho Đâ't
nước. Quả thật: “Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Sông Hương núi Ngự nghìn đời
mến yêu".

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


NGUYỄN MINH CHÂU

Đề tuyển sinh: Anh (chị) hãy ỉàm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Trình bày sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Câu 2: Nêu lên quan điểm sáng tá c của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Sự nghiệp văn học củ a nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Trước năm 1975, nhà văn Nguyễn Minh Chầu “thuộc trong số những nhà văn
mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc).
Văn học cách mạng trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu, chủ yếu đi sâu vào chủ
nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trong chiến đấu với kẻ thù cùng môi
quan hệ với đồng đội, đồng chí, đồng bào....
Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi đầu, tiên phong trong công
cuộc đổi mới văn học. Nhà văn luôn trăn trở trước cuộc sông, sô' phận con người,
đời tư thê' sự. Ông đã xây dựng nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí,
thiếu nhi, tiểu luận phê bình văn học.

243
- về tru yện ngắn: “Bến quê”; “Cỏ lau”; “Những vùng trời khác nhau”;
“Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ...”
- v ề tiểu thuyết: “Chiếc thuyền ngoài xa"; “Dấu chân người lính"; “Những
người từ trong rừng ra”; “Mảnh đất tình yêu”; “Miền cháy ...”.
- v ề kí: “Núi rừng yên tĩnh”.
- v ề thiếu nhi: “Đảo đá kì lạ”; “Tháng ngày lưu lạc”.
- về tiểu luận phê bình văn học: “Người viết trẻ và Cánh rừng già”;
“Trang giấy trước đèn”; “Nhà văn Nguyễn Công Hoan”.
Câu 2. Quan điểm sáng tá c của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nhắc đến nhà văn Nguyễn Minh Châu là người cầm bút đầu tiên cho con
đường đồi mới văn học sau năm 1975. ông có một cái nhìn mới, một tư duy mới,
luôn luôn đi sâu vào đời tư thế sự, sô" phận, đời sông của con người để viết lên
những trang văn, những tác phẩm có giá trị. Với ông, người nghệ sĩ, người cầm
bút trong sáng tác cần phải nắm rõ những yêu cầu sau:
1. Nhà văn phải đi sâu vào đời sông nội tâm, sô" phận con người. Phải biết
khám phá, chọn lọc, sáng tạo để tìm ra những hạt ngọc quý, chính là vẻ đẹp
tâm hồn của nhán vật, làm cho đời sông nội tâm nhân vật phong phú, hấp dẫn,
thuyết phục người đọc.
2. Với ông, nhà văn phải luôn luôn tha thiết với cuộc sông, yêu thương con
người, chân tình sâu sắc thì mới có nguồn cảm hứng trong sáng tác để viết lên
những trang văn thấm đẫm tình người. Với ông, văn học không nhằm phục vụ
thuần túy cho nghệ thuật mà văn học phải phục vụ cho con người và cuộc sông,
là văn học vị nhân sinh.
3. Với ông, nhà văn luôn luôn đề cao “tính chân thật” trong sáng tác, tính
chân thật là cái gô"c của văn chương. Với ông, nghệ thuật luôn luôn ca ngợi cái
đẹp nhưng phải dựa trên cái thật, tính chân thật nhằm phản ánh cuộc sông
thật, đi sâu vào sô" phận con người thật. Thực hiện được như thế mới tạo nên
nguồn cảm hứng hấp dẫn, thuyết phục người đọc.
4. Với ông, giữa văn học nghệ thuật và cuộc sông thực tại phải có mô"i quan
hệ chặt chẽ với nhau. Nghệ thuật phải biết ca ngợi cái đẹp nhưng không trừu
tượng, mơ hồ, mĩ lệ hóa trước hiện thực cuộc sông, tô hồng cuộc sô"ng. Như vậy
nhà văn cần phải nắm rõ giữa hai lĩnh vực nghệ thuật và cuộc sông không thế
nào lẫn lộn với nhau. Đây là quan điểm mới, tiến bộ trong sáng tác của một nhà
văn chân chính.

244
Đề tuyển sinh: Anh (chị) hãy ỉàm rõ hai câu sau đây:
Câu 1; Trình b ày hoàn cảnh sáng tá c và chủ đề tá c phẩm “Chiếc
thuyền ngoài x a ” củ a nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “C hiếc thuyền ngoài x a ” tron g tác
phẩm cùn g tên của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Câu 1. Hoàn cảnh sáng tá c và chủ dề tá c phẩm “Chiếc thuyền ngoài x a ”.


1. Hoàn cản h sáng tá c: Trước công cuộc đổi mới của văn học sau năm 1975,
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên phong, đi đầu cho con đường đổi mới ấy.
Ồng luôn luôn trăn trở trước cuộc sông, số phận con người, đời tư thế sự để xây
dựng những nhân vật nhằm phản ánh cuộc sôhg, nỗi trăn trở của con người,
đồng thời nêu lên cái nhìn mới giữa văn học và nghệ thuật phải có môì quan hệ
chặt chẽ, phải biết ca ngợi cái đẹp nhưng phải dựa trên cái thật. Tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời vào năm 1983 xuẩt phát từ những nguyên nhân
â'y, tác phẩm in trong tập truyện cùng tên xuâ"t bản năm 1987.
2. Chủ đề: Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã thế’ hiện tình yêu tha thiết đôd với những cảnh đời, những thân phận
trớ trêu của con người trước cuộc sốhg và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của
mình về nghệ thuật. Với Nguyễn Minh Châu, nghệ thuật chân chính phải luôn
luôn gắn liền với cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sỹ không thể nhìn đời một
cách đơn giản, mà cần phải nhìn nhận cuộc sốhg và con người một cách đa diện,
nhiều chiều.
Câu 2. Giải thích tự a đề “C hiếc thuyền ngoài x a ”:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu xây dựng tựa đề “Chiếc thuyền ngoài xa”, tuy chỉ
có bôh từ ngắn gọn, nhưng thể hiện một hình ảnh đẹp, nói lên hai ý nghĩa;
Ý 1: “Chiếc thuyền ngoài xa” nếu nhìn về phương diện nghệ thuật là một bức
ảnh đẹp về một gia đình hàng chài đánh cá thu trên đường về, giữa lớp sương
mù trước ánh bình minh của mặt trời chiếu lại, tạo nên một vẻ đẹp toàn bích,
hiếm thấy đôi với người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
Ý 2: Và hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” nhìn về phương diện cuộc đời là
nêu lên nạn bạo hành của một gia đình hàng chài cùng những bi kịch tinh thần
đau đớn của người vỢ hàng chài xuất phát từ cuộc sông khó khăn, con cái nheo
nhóc, tù túng trêni con thuyền chật chội, qua đó nói lên chức năng của người cầm
bút, phải có trách nhiệm đối với công chúng, phải dùng nghệ thuật nhằm xây
dựng cái đẹpi nhưng phải dựa trên cái thật, con người thật đê thấy được sô phận
con người mà có hướng giải quyết tốt đẹp đó cũng chính là ý nghĩa của tựa đề
“Chiếc thuyền ngoài xa”.

245
Để tuyển sinh: Anh (Chị) v ận dụng kiến th ứ c v ăn h ọc lớp 12 thông
qua tá c phẩm “C h iếc thuyền n go ài x a ” củ a nhà v ă n N guyễn
Minh C hâu đ ể làm sán g tỏ vẻ đẹp tâm hồn củ a người phụ nữ
h àn g ch ài.

SEững kiến thức cầ n nắm :


1. Nhạc phẩm “Lòng mẹ” của ccí nhạc sĩ Y Vân có ghi: “Lòng mẹ bao la như biển
Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”, (trích
“Lòng Mẹ" - Y Vân)
2. Có lời nhận định về hình ảnh người phụ nữ hàng chài như sau: “Đàng sau
tấm áo bạc phếch rách rưới của người phụ nữ hàng chài là một tấm lòng
vàng". (Lời nhận định)
3. Có lời nhận định rằng: “Không có gì cao cả hơn một sự hi sinh thầm lặng”.
(Lời nhận định)
4. Lời người xưa có nói: “Chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn”. (Lời người xưa)
5. Có lời nhận định: “Tình thương là thước đo giá trị nhân cách của con người".
(Lời nhận định)
6. Nhà thơ Tô" Hữu có viết: “Lẽ nào vay mà không trả. Sống là cho đâu chỉ nhận
riêng mình”. (Tô" Hữu)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Không có gi cao cả hơn một sự hi sinh thầm lặng”
(Lời nhận định)
Quả thật, sự hi sinh bao giờ cũng thế hiện nhân cách cao đẹp, sẵn sàng chấp
nhận mọi mất mát từ nỗi đau của thân xác đến nỗi khổ của tâm hồn để được sống
cho con, vì con. Sự hi sinh cao quý ấy, chúng ta nghĩ đến tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của nhà vàn Nguyễn Minh Châu, khắc họa thành công hình ảnh người
phụ nữ hàng chài, phải chịu bao đau đớn và nhẫn nhục nhăm thực hiện thiên chức
của người mẹ cùng tấm lòng bao dung của người vợ là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ
nữ hàng chài.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ đẹp tâm hồn củ a người p h ụ n ữ h à n g chài.
1. Tấm lòng cao quý củ a người mẹ
a. Chi tiết 1: N gười mẹ cam chịu, n h ẫn n h ụ c đế được nuôi con.
Đọc “Chiếc thuyền ngoài xa”, hình ảnh người phụ nữ hàng chài đọng lại trong
chúng ta niềm xót thương lẫn cảm phục. Chị là người phụ nữ sông bên chiếc

246
thuyền với nghề lưới vó. Chị ngoài bốn mươi tuổi, thân hình to lớn, thô kệch mặt
lại rỗ. Chị phải lòng với một anh chàng làm nghề đánh cá. Từ đây hình thành
một gia đình hàng chài. Theo bước đi của thời gian, chị có gần cả chục đứa con,
chiếc thuyền lại chật hẹp, cuộc sống trở nên tù túng, nheo nhóc, cơ cực. Từ đây
hình thành nạn bạo hành trong gia đình mà chị là người phải gánh chịu. Vì sao?
Lão chồng, lúc nào hắn cảm thấy khổ quá do áp lực công việc và cuộc sống đè
nặng trên đôi vai của hắn, hắn lại lôi chị ra đánh, đánh trên thuyền, đánh cả lúc
vào bờ thật tàn nhẫn. Xót thương, mỗi lần hắn đánh chị, hắn sử dụng một chiếc
thắt lưng thật lớn của quân đội Sài Gòn cũ, rồi đánh tới tấp trên tấm lưng với
chiếc áo rách, bạc phếch của chị. Vừa đánh, hắn vừa thở hồng hộc, hai hàm ràng
nghiến ken két rồi chửi: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ”. Trước hành động tàn bạo dã man của chồng, nhưng chị “không hề kêu
một tiếng” cũng “không chống trả” cũng “không tìm cách chạy trốn”. Phải chăng,
chị không có tinh thần phản kháng ư? Không, vì chị nghĩ rằng trước tình huống
ấy, chị kêu than đế làm gì? được gì? chống trả trước một người chồng bạo lực,
hung dữ càng thêm khổ thân mà thôi và chạy trôn thì chạy đi đâu? làm gì? lấy gì
đế nuôi con? Tất cả hành động ấy đều không mang tính khả thi, và chị chấp nhận
cam chịu, nhẫn nhục, đau đớn thân xác lẫn tâm hồn để được sống gần con, được
nuôi con là tấm lòng cao quý của người mẹ. Quả thật: “Đằng sau tấm lưng áo bạc
phếch và rách rưới của người phụ nữ hàng chài là một tấm lòng vàng”.
b. Chi tiết 2: N gười mẹ k h ôn g m uốn các con bị tổn thương.
Với chị, khi nhìn thấy các con mình đã lớn, ý thức cá nhân của chúng phát triển.
Chị lo sợ, khi chúng nhìn thấy nạn bạo lực trong gia đình khi bố mắng chửi mẹ,
thô lỗ cộc cằn cùng hành động tàn bạo vũ phu của bô" đối với mẹ. Chị sợ tâm hồn
các con bị tổn thương, vẩn đục và hằn sâu trong suy nghĩ của chúng, lòng căm thù
bố, hận bô" và có thể đưa đến những hậu quả khó lường và chị đưa ra lời đề nghị
với lão chồng, chị nói: “các con đã lớn dừng đánh tôi trên thuyền, mà hãy đưa tôi
lên bờ mà đánh”. Lời nói của chị sao xót xa quá, đau đớn từ trái tim của người mẹ.
Chúng ta chưa bao giờ thấy một người phụ nữ nào, người vỢ nào lại đề nghị với
chồng như chị hàng chài. Nhưng đi sâu vào hoàn cảnh của chị, càng thấy rõ niềm
xót xa, trăn trở, lo lắng từ trái tim người mẹ là có lí, vì chị lo sợ sẽ tác động đến
tâm hồn trong sáng của các con khi ngày ngày, chúng nó đối diện với nạn bạo
hành cứ xảy ra trong gia đình. Phải chăng, lời đề nghị của chị tưởng chừng nhân
phẩm bị chà đạp, nhục mạ, bất lực, bế tắc trước cuộc sống nhưng nếu xét cho cùng
mới thấy hết được, đó là suy nghĩ đúng đắn sâu sắc từ tấm lòng của người mẹ,
muốn bảo vệ các con mình không bị tổn thương về tâm hồn. Quả thật, đó là tấm
lòng bao la cao quý của người mẹ luôn luôn biết quên mình vì các con, là vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ hàng chài.

247
c. C h i t iế t 3: N g ư ờ i m ẹ k h ẳ n g đ ịn h t r á c h n h iệ m v à b ổ n p h ậ n c ủ a
b ả n th â n .
Đôl diện trước tòa án, chị đưa ra lời cầu xin tưởng chừng như vô lí nhưng nếu
xét cho cùng trong tâm hồn người mẹ là hoàn toàn hợp lí. Chị van xin trước tòa:
“Con lạy quý tòa..., Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nó”. Lời van xin của chị xuất phát từ trái tim người mẹ, vì chị hiểu
rằng trên con thuyền lưới vó, không thể nào, không có sự hiện diện của một
người đàn ông, họ là chỗ dựa đê chông đỡ vì nghề lưới vó thật lam lũ khó nhọc
và chị nói: “Các chú đâu có phải là người làm ân..., cho nên các chú đâu có hiểu
được cái việc của người làm ăn lam lủ khó nhọc..”. Và chị nhấn mạnh, trên
chiếc thuyền ấy, có khi gặp phong ba bão tô', khắc nghiệt của thiên nhiên thì
một mình người đàn bà trên thuyền làm sao chông chọi nổi để được bám với
nghề, sông với nghề để nuôi con, là thể hiện ý thức trách nhiệm, bổn phận của
người mẹ rất cao. Cũng trước tòa án, chị đưa ra một suy nghĩ, nhằm nói lên bổn
phận của người mẹ sống bằng nghề lưới vó, cần phải làm gì và trách nhiệm
người mẹ phải hiểu thế nào để được gắn bó với nghề mà nuôi con. Chị nói: “ông
trời sinh ra người đàn bà là đ ể đẻ con rồi nuôi con cho dến khi khôn lớn cho
nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con, chứ
không thể sống cho mình như ở trên đất dược”. Nhà văn đi sâu vào đời sống nội
tâm nhân vật, hiểu được nỗi lòng, chiều sâu từ trái tim người mẹ là phải có bổn
phận và trách nhiệm là phải sông như thê nào để thực hiện thiên chức của
người mẹ thì việc hi sinh cho con cũng là lẽ thường tình. Lời người xưa từng nói:
“chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn” và không có niềm vui nào bằng, khi người mẹ
lo cho các con được ăn no, được mặc ấm, được sông đầy đủ. Quả thật: “Lòng mẹ
bao la như biển Thái Binh dạt dào. Tinh mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt
ngào”. Phải chăng, người phụ nữ hàng chài là người mẹ mang vẻ đẹp như thế.
2. Tấm lòng bao dung của người vỢ
a. C hi tiế t 1: T rư ớc t ò a á n c h ị m ượn q u á k h ứ đ ể b ả o vệ c h o ch ồ n g .
Đứng trước tòa án, chị nói; “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính
nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Thông qua lời nói của người
phụ nữ hàng chài trước tòa, chị muôn quay về quá khứ, để xác định chồng chị
không có tính vũ phu mà bản tính là rât hiền lành nhưng xuất phát từ cuộc
sông khó khăn, con cái nheo nhóc, chiếc thuyền chật hẹp, tù túng cùng sự lam lũ
và khó nhọc trong nghề đã đè nặng trên đôi vai của người chồng, một áp lực quá
lớn rồi phát sinh sự cáu gắt, cộc cằn, thô lỗ kể cả hành động thô bạo như một
cách giải quyết do sự ức chế trước cuộc sông. Chị nói lên được điều đó trước tòa
nhằm bênh vực cho chồng là thể hiện tấm lòng bao dung của người vỢ.
b. C hi tiế t 2: T rư ớc t ò a án , c h ị m ượn h iệ n t ạ i đ ế b ê n h vực c h o ch ồ n g .
Đứng trước tòa, chị không hề nói xấu chồng mà đưa ra cuộc sống hiện tại của gia
đình chị đang sống trên thuyền, nhằm chứng tỏ cho tòa biết rằng, không phải lúc

248
nào người chồng cũng tàn bạo, vũ phu mà có lúc không khí trên thuyền cũng vui
vẻ, đầm ấm. Chị nói: “Vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ” là nói lên sự bao dung nhân ái từ tấm lòng
người vỢ.
c. Chi tiết 3: Trước tòa án, chị cũng tự trách mình đ ể bênh vực cho chồng.
Trước tòa án, chị mạnh dạn nêu lên mặt hạn chế của chính bản thân, chị tự
trách mình là đẻ nhiều con mà thuyền lại chật. Chị nói: “Giá tôi để ít đi” hoặc
“chúng tôi sấm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Với chị cũng là nguyên nhân,
tạo nên cuộc sông tù túng, nheo nhóc làm cho người chồng đâm ra bực dọc, cộc
cằn, cáu gắt dẫn đến hành động thô bạo, chứng tỏ lời nói của chị là lời tự trách
chính bản thân mình nhằm bênh vực cho chồng là thể hiện tấm lòng bao dung
của người vợ.

III. PHẦN K ẾT THÚC


1. về nghệ thuật: Xây dựng thành công tính cách nhân vật, sử dụng ngôn ngữ
gần gũi với nhân dân, Kây dựng những tình huống hợp lí, chân thật đầy kịch tính,
đi sâu vào đời sông nội lâm nhân vật kết hợp những lời thoại rất thật.
2. Về nội dung: Tác giả khấc họa hình ảnh người phụ nữ hàng chài từ trong
cuộc sống đời thường, chị đã bước vào tác phẩm như một hình tượng nghệ thuật
sông, cho dù hoàn cảnh khó khăn, đói khổ, nheo nhóc, đau đớn từ thân xác lẫn
tâm hồn nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục để làm tròn bồn phận trách nhiệm
của người mẹ, cùng tấm lòng bao dung của người vợ là vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ hàng chài. Quả thật; “Đàng sau tấm lưng áo bạc phếch rách rưới của
người phụ nữ hàng chài là một tấm lòng vàng”.

Đề tuyển sinh: Anh (chị) hăy làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Trước nạn bạo hành trong gia đình hàng chài qua tá c phẩm
“C hiếc thuyền ngoài x a ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Anh
(chị) cầ n đưa r a hướng giải quyết nào để kh ắc phục?
Câu 2: Anh (chị) phân tích cách nhìn của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng giữa
“con thuyền nghệ thuật” và “con thuyền cuộc đời” trong tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài x a ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Hướng giải quyết nhằm khắc phục nạn bạo lực trong gia đinh
hàng chài.
1. về m ặt chính quyền: Phải có sự giáo dục, cảm hóa 1. :à biệni pháp
mạnh đôi với người chồng vũ phu.

249
2. Về m ặt tò a án: Không chỉ đưa ra những lời khuyên là đủ, không thể dựa
vào những gì đã học từ sách vở để giải quyết mà phải nhìn rõ thực tế cuộc sôhg
để có chính sách đúng đắn, hợp lí nhằm nâng cao đời sông người dân chài thì
nạn bạo hành, cái ác sẽ dần dần bớt đi.
3. về những m ặt khác: cần phổ biến sâu rộng về kế hoạch hóa gia đình
trong tồ phụ nữ, đoàn thể, trên báo đài, ca ngợi tình yêu gia đình, lòng nhân ái,
tình nghĩa vỢ chồng, con cái. Vận dụng lời dạy của người xưa về đạo lí làm
người, nhân cách làm người nhằm vun xới hạnh phúc gia đình như qua những
lời nói của dân gian: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” ...

Câu 2: Phân tích cách nhìn của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng giữa “Con
thuyền nghệ th u ậ t” và “Con thu yền cu ộc d ờ i” trong tác phẩm
C h iếc Thuyền N g o ài Xa.

ịS Ỉ ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Trong sáng tác có quan niệm: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, (văn học lâng mạn)
2. Trong sáng tác có quan niệm: “Nghệ thuật vị nhân sinh”, (văn học hiện thực)
3. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có viết: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người
thế ấy cũng phi anh hùng”. (Trích “Lục Vân Tiên” - Nguyễn Đình Chiểu)
4. Có ý kiên rằng: “Tình thương là thước đo giá trị nhân cách con người”.
5. Có ý kiến rằng: “Người nghệ sĩ như con ong luôn luôn biết đem hương thơm
mật ngọt đến cho đời”. (Lời nhận định)
6. Truyện ngắn “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao có ghi: “Nghệ thuật là tiếng
kêu của kiếp lầm than”. T rích “Đời Thừa” - Nam Cao)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Đọc và tìm hiểu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu khi trang sách khép lại, chúng ta vẫn nhớ rất rõ người nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng luôn luôn biết yêu cái đẹp, trân quý cái đẹp, sẵn sàng đón nhận những khó
khăn, vất vả để khám phá cái đep. Đứng trước cuộc sông, nhiếp ảnh Phùng cũng
tha thiết, gần gũi và gắn bó, yêu thương con người, những sô" phận nghèo khổ, bất
hạnh. Chúng ta cần đi sâu từ tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn
Nguyễn Minh Châu để làm sáng tỏ cách nhìn của nhiếp ảnh Phùng về con thuyền
nghệ thuật và con thuyền cuộc đời.
250
II. PHÂN TRỌNG TÂM
Cách n h ìn củ a n h iếp ảnh P h ù n g về con thuyền n g h ệ thuật và con
thuyền cuộc dời.
1. C ách nhìn 1: Con thuyền nghệ th u ật nhìn từ bên ngoài là thơ
mộng, toàn bích
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, công tác đến vùng biển miền Trung để tìm kiếm
một bức ảnh mang chủ đề “Thuyền và biển” nhằm thực hiện bộ lịch cho năm sau.
Anh đến vùng biển miền Trung nơi mà nhiếp ảnh Phùng từng chiến đấu trong
thời chông Mỹ, anh gặp lại người bạn cũ giờ này là chánh án Đẩu. Những ngày
lặn lội đế khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên giữa lòng biển khơi, tình cờ anh chụp
được, bấm máy ngay một bức ảnh tuyệt đẹp về một chiếc thuyền đánh cá thu trên
đường trở về giữa màn sương mù, hòa cùng ánh bình minh vừa ló dạng, pha chút
màu hồng hồng thật lung linh, huyền ảo qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Minh
Châu “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có
pha dôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn
trê con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng
mặt vào òờ”. Với đoạn văn miêu tả giàu hình ảnh sông động trên một chiếc
thuyền giữa màn sương sớm, khơi gợi trong lòng người nghệ sĩ niềm sung sướng
về nghề nghiệp khi khám phá được một hình ảnh đẹp, rất đẹp, hiếm thấy. Với
anh chưa có bức hình tuyệt đẹp nào như thế và cả một đời gắn bó với nghề, anh
chưa chắc tìm ra bức ảnh như thế và trong lòng anh cảm nhận như mình vừa
khám phá thấy “cái chân lí của sự toàn diện” và “cái khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”. Lúc ấy, anh cảm thấy “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn
anh” vì anh là con người biết yêu cái đẹp và trân quý cái đẹp.
2. C ách nhìn 2: Con thuyền cuộc đời nhìn từ bên tron g là đau khổ,
bê tắc.
Khi con thuyền tiến vào bờ, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bàng hoàng ngơ ngác
trước nạn bạo hành của gia đình hàng chài. Anh nhìn thấy cảnh chồng đánh vỢ
tàn bạo, vũ phu, đứa con trai đánh trả lại bô để bênh vực cho mẹ và anh đã
đứng về phía kẻ bị hành hung nhằm bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ đáng
thương kia. Anh đánh trả lại lão hàng chài và bị thương. Hành động của nhiếp
ảnh Phùng là hành động dũng cảm, yêu thương con người và tha thiết với cuộc
sống, anh biết đau xót trước nỗi đau kẻ khác. Từ đây, nhiếp ảnh Phùng có một
cái nhìn đúng đắn giữa nghệ thuật và cuộc đời không thế nào có sự tương quan
thôAg nhất. Với anh, con thuyền nghệ thuật là thơ mộng và toàn bích thật
nhưng đó là mơ hồ, ảo ảnh mà con thuyền cuộc đời mới là con thuyền của cuộc
sông, chứa đựng những con người đang đau khổ, cam chịu, nhẫn nhục, bức xúc.

251
Như vậy giữa nghệ thuật và cuộc đời là hai lĩnh vực khác nhưng có môi quan hệ
tất yếu mà người nghệ sĩ cần phải đi sâu tìm tòi, khám phá, không thể dùng mĩ
lệ hóa nhằm hiện thực cuộc sông, tô hồng cho cuộc sống khi cuộc sông không
phải là thế mà “Nghệ thuật là tiếng kêu của kiếp lầni than”.
3. Nhận x é t về cái nhìn của nghệ sĩ Phùng
Nghệ sĩ Phùng nhìn con thuyền nghệ thuật tuyệt đẹp, toàn bích sẽ góp phần
cho bộ lịch năm sau nhưng đó chỉ là bức ảnh nghệ thuật, bức ảnh nghệ thuật
chết vì nó vô tri vô giác, vô cảm, vô hồn mà con thuyền cuộc đời mới là bức
tranh của cuộc sôhg vì nó có hơi thở, nó chứa đựng những con người bằng xương
bằng thịt, con người thật đang đau khổ, bế tắc, ray rứt, bất lực trước cuộc sông.
Điều đó cho chúng ta thấy rõ cách nhìn của nhiếp ảnh Phùng hoàn toàn đúng
đắn của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh chân chính. Với anh, nghệ thuật là phục
vụ cho cái đẹp, thăng hoa cái đẹp và nghệ thuật phải dựa vào cái thật, cuộc sông
thật nhằm phục vụ con người, cuộc sống của con người là “nghệ thuật vị nhân
sinh”. Đó là chức năng của người cầm bút, người nghệ sĩ chân chính là quan
điếm sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

III. PHẦN K ẾT THÚC


“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như một luồng gió
mới, thổi vào nền văn học Việt Nam giai đoạn 1975-2000. Thông qua cái nhìn
của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, giữa nghệ thuật và cuộc đời cần phải có một cái
nhìn đúng đắn để giúp cho người nghệ sĩ, người cầm bút có một nhận thức đúng
trong sáng tác, nhà vàn phải đi sâu, thâm nhập vào đời sông con người, phải
hiểu rõ sô phận con người để có một cái nhìn đúng đắn giữa nghệ thuật và cuộc
sống là hai lĩnh vực khác nhau, phải thể hiện tính khách quan trong sáng tác
thì mới xây dựng những tác phẩm có giá trị.

Đế tuyển sinh: Giá trị nhân đạo trong tá c phẩm “Chiếc thuyền ngoài
x a ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

ịS Ỉ ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có lời nhận định: “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhún đạo
hóa con người”. (Lời nhận định)
2. Có nhận định rằng; “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người
là thước do giá trị nhân cách con người”. (Lời nhận định)
3. Lời người xưa có nói: “Thương người như thể thương thân”. (Tục ngữ)
4. Quan niệm của Phật giáo có nói: “Lấy ăn báo oán, oán ấy tiêu tan. Lấy oán
báo oán, oán ấy chồng chất”. Ý nói, lấy tình thương xóa bỏ oán thù thì oán
thù tiêu tan. Nếu lấy oán thù mà đối trả lại oán thù thì oán thù chồng chất.

252
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Chầu, toát
lên bức tranh đời sông của người dân chài vùng biển miền Trung sau giải phóng,
thấy được sô phận đau thương của người phụ nữ hàng chài. Nhà văn đồng cảm
thương xót sô' phận người phụ nữ trước nạn bạo hành trong gia đình nhằm lên
án hành động tàn bạo, vũ phu của người chồng. Qua đó, ca ngợi những phẩm
chất đẹp về người phụ nữ hàng chài, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu và
nhà văn nêu lên ước vọng làm sao cuộc sống người dân hàng chài được nâng cao,
nạn bạo hành trong gia đình không còn đất sống. Viết lên những vấn đề ấy
bằng những trang văn làm lay động lòng người là thể hiện giá trị nhân đạo
trong tác phẩm.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Giá trị nhãn đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài x a ”.
1. Nhân dạo 1: Nhà văn thương xó t cho sô phận người phụ nữ hàng
chài nhằm lên án nạn bạo hành tron g gia đình.
а. Chi tiết lĩ Đọc và tìm hiểu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” qua ngòi bút
của Nguyễn Minh Châu, toát lên một bức tranh đời sống về một gia đình hàng
chài tại vùng biển miền Trung sau giải phóng. Tác giả khắc họa, hình ảnh người
phụ nữ phải gánh chịu tất cả những nỗi đau thương, cơ cực, bế tắc của gia đình.
Người phụ nữ hàng chài vừa là người vỢ, vừa là người mẹ, sô'ng bằng nghề lưới vó
thật lam lũ, khó nhọc, nuôi một đàn con gần chục đứa trên chiếc thuyền chật hẹp,
tù túng, là gánh nặng trên đôi vai của chị với bao khố cực biết nhường nào. Ngoài
nỗi lo toan ấy, chị còn nghĩ một nỗi đau khác, nỗi sợ khác, không biết lúc nào lão
chồng, hắn thấy khổ quá, bức bách, hắn lôi chị ra đánh, đánh trên thuyền, đánh
cả trên bờ, đè nặng cả về tâm lí cùng nỗi đau thân xác lẫn nỗi đau trong tâm hồn
của chị. Nhà văn viết lên được điều ấy, chứng tỏ, tác giả tha thiết với cuộc sống,
yêu thương con người, đi sâu vào nỗi đau của con người là thể hiện tinh thần nhân
đạo trong tác phẩm.
б. Chi tiết 2: Bên cạnh đó, tác giả mạnh dạn, viết lèn nạn bạo hành trong
gia đình nhằm phơi bày hiện tượng tiêu cực, mặt xấu của xã hội, khi cái ác đã
hiện hình trong cuộc sông nhằm mục đích cảnh báo hãy cứu lấy con người, khi
nhân phẩm của người phụ nữ bị xem thường, chà đạp. Như vậy, về mặt chính
quyền, đoàn thể cần phải vào cuộc, hiểu rõ đời sông của người dân chài, để tìm
ra những biện pháp, chính sách hỢp lí, đúng đắn nhằm nâng cao đời sông của
họ đế nạn bạo hành trong gia đình không còn đất sông, cái ác không còn hiện
hình là thế hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.

253
2. Nhân đạo 2: Nhà văn ca ngợi những phẩm ch ấ t đẹp củ a người phụ
nữ hàng chài, nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu.
a. Phẩm ch ấ t củ a người p h ụ n ữ h à n g chài
* Tấm lòng bao la của người mẹ: Trước cuộc sông với bao áp lực đè nặng
trên đôi vai của người phụ nữ hàng chài, nhưng chị không hề than thở, trách
hờn cho sô" phận. Và một điều xót thương, đau đớn khác là mỗi lần lão chồng,
hấn thấy khổ quá, lập tức lôi chị ra đánh “cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
một trận nặng" bằng những hành động tàn bạo dã man cùng lời nói, cử chỉ cộc
cằn thô lỗ thiếu văn hóa của hắn nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục “không
hề kêu một tiếng cũng “không chống trả” và cũng “không tìm cách chạy trốn”
mà chỉ biết đứng lặng yên cùng những dòng nước mắt tủi buồn cho sô" phận mà
chị cô" nuô"t vào trong, trong tim mình và tiếp tục chịu đựng để được bám với
nghề, được nuôi con là hành động cao quý, là lòng hi sinh từ tấm lòng người
mẹ. Quả thật: “không có gì cao cả hơn một sự hi sinh thầm lặng”, của người
phụ nữ hàng chài.
* Tấm lòng bao dung của người vợ: Tòa án huyện mời chị lên để có hướng
giải quyết. Lúc chị đô"i diện với tòa án, tòa án khuyên chị là nên ly hôn lão
chồng vũ phu tàn bạo kia để cuộc đời chị bớt khổ. Nhưng với chị: “Đoạn trường
ai có qua cầu mới hay” và chỉ có chị mới hiểu được nỗi bức xúc của chồng, chỉ có
chị mới hiểu được nỗi đau khổ, lam lũ, khó nhọc của chồng. Trước tòa án, chị
không hề nói xấu chồng, hận chồng mà chị luôn luôn bênh vực cho chồng với
tiếng nói chân thành, tha thiết trước tòa án. Chị nói như van xin: “Con lạy quý
tòa... Quý tòa bắt tội con củng được, phạt tù con củng được, đừng bắt con bỏ nó”
và chị nói trước tòa: “Lão chồng tôi khi ẩy là một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” và chị cũng nêu lên cuộc sông của
gia đình trên thuyền “có lúc vợ chồng, con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”
và chị mạnh dạn tự trách mình: “giá mà đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sẩm được một
chiếc thuyền rộng hơn” thì cuộc sông sẽ khác hẳn. Hàng loạt những vấn đề chị
nêu ra hoàn toàn đúng với thực tê", có cơ sở nhằm bênh vực cho chồng, là thể
hiện tấm lòng bao dung, nhân ái của người vỢ hàng chài. Chị biết lấy “ân báo
oán” theo quan niệm của Phật giáo là phẩm chất đẹp, vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ hàng chài.
b. Phẩm chất củ a n h iếp ả n h P h ù n g:
* Phẩm chất 1: Anh đứng về kẻ bị áp bức.
Nhiếp ảnh Phùng đến vùng biển miền Trung nhằm tìm một bức ảnh đẹp,
mang chủ đề “Thuyền và Biển” để chuẩn bị cho bộ lịch năm sau. Với anh

254
không có liên hệ bà con họ hàng gì với gia đình người phụ nữ hàng chài nhưng
khi anh chứng kiến cảnh tượng lão chồng đánh vỢ tàn bạo, dã man. Anh đã
đứng về phía bị áp bức để chông trả lại nhằm bảo vệ nhân phẩm của người
phụ nữ là hành động dũng cảm vì anh biết yêu thương con người, bảo vệ
quyền lợi con người khi họ bị áp bức lằ phẩm châ't đẹp của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng.
* Phẩm chất 2: Anh có cái nhìn đúng đắn giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Nhiếp ảnh Phùng có một quan điểm đúng đắn giữa nghệ thuật và cuộc sông.
Với anh, nghệ thuật luôn luôn đề cao cái đẹp, biết yêu cái đẹp nhưng phải dựa
trên cái thật thì cái đẹp mới có giá trị. Như vậy chức năng của người nghệ sĩ
phải đi sâu vào đời sông con người, tha thiết với cuộc sông, phải yêu thương con
người từ sự rung động trong trái tim mình thì người nghệ sĩ mới khám phá được
đời sống nội tâm của nhân vật, thấy rõ sô" phận của con người một cách sâu sắc
cụ thể, từ đó mới tạo nên nguồn cảm hứng trung thực của người cầm bút, người
nghệ sĩ để xây dựng tác phẩm có giá trị là chức năng của một nhà ván, một
nghệ sĩ chân chính.
c. Phẩm ch ấ t củ a ch á n h án Đẩu.
* Phẩm chất 1: Anh thể hiện một cái tâm trong sáng.
Chánh án Đẩu, đại diện về mặt chính quyền, tòa án, pháp luật nhằm thực
thi công lí. Chánh án Đẩu đả đứng về kẻ bị áp bức nhằm bảo vệ quyền lợi
cho người phụ nữ. Anh khuyên người đàn bà đau khổ kia hãy li hôn với
chồng, một người chồng tàn bạo, dã man để có một lôi thoát, một cuộc sông
tô"t, đó là suy nghĩ của một người có cái tâm. Đặc biệt chánh án Đẩu không
đưa ra hướng giải quyết máy móc, áp đặt. Anh đã hiểu ra rằng, những lí
thuyết về pháp luật từ sách vở đã học, khi áp dụng vào cuộc sông thực tế có
nhiều vấn đề không phù hợp. Chánh án Đẩu hiểu rõ sự việc ấy và đồng tình
về ý nguyện của người phụ nữ vì trên chiếc thuyền lưới vó kia không thể
không có người đàn ông, dù tàn bạo dã man. Đây là cái nhìn mới, không
mang tính áp đặt, không đứng về mặt chính quyền, tòa án để giải quyết một
cách máy móc.
* Phẩm chất 2: Anh có một cái nhìn đúng đắn phù hợp với thực tế.
Chánh án Đẩu đứng trên cán cân công lí để xét xử. Với anh, về mặt tòa án,
chính quyền không chỉ đưa ra lời khuyên dựa vào lí thuyết là đủ, không chỉ cảm
hóa và giáo dục là đủ mà phải tìm ra một phương án tốt nhất, chính sách hợp lí
nhất, là làm sao nâng cao đời sống của người dân chài thì nạn bạo lực trong gia
đình từng bước sẽ khắc phục, cái ác không còn đất sống.

255
3. Nhân đạo 3: Nhà văn ưóte vọng cuộc sống của ngưòỉ dân hàng chài đưọte
nâng cao.
а. Chi tiết 1: Nguyễn Minh Châu, nhà văn tiên phong đi đầu cho nền văn
học đổi mới ở Việt Nam sau 1975. Tác giả mạnh dạn nêu lên những hiện tượng
xâh tiêu cực của xã hội, ở đây là nạn bạo lực trong gia đình, chà đạp trắng trợn
lên nhân phẩm con người, người phụ nữ hàng chài đáng thương. Tác giả viết lên
được điều ấy, như là lời cảnh báo “hãy cứu lấy con người” hãy “tôn trọng nhăn
phẩm con người" trước nạn bạo lực hoành hành trong gia đình tại vùng biển
miền Trung sau giải phóng mà người phụ nữ phải gánh chịu để từ đó chính
quyền đoàn thế phải vào cuộc, tìm ra hướng giải quyết đúng đắn, khả thi nhằm
nâng cao đời sôhg người dân chài để con người được sông tô"t, xây dựng một gia
đình lành mạnh, một xã hội tô't đẹp là tấm lòng tha thiết của nhà văn trước
cuộc sông là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
б. Chi tiết 2: Nhà văn chỉ nêu lên vài hình ảnh thật đơn giản, bình dị trong
cuộc sông của người dân chài, ước vọng của họ: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn
con, chúng nó được ăn no” và ước sao “vợ chồng con cái sống được hòa thuận vui
vẻ” là những mong ước gần gũi, chân thật của con người dân chài cũng là ước
vọng chính đáng của nhà văn luôn luôn mong ước con người được sống trong yên
vui, ấm no hạnh phúc. Nêu lên được những vân đề ấy bằng những trang văn
thấm đẫm tình người là thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc làm nên giá trị sức
sông cho tác phẩm.

III. PHẦN K Ế T THÚC


1. v ề nghệ th u ậ t: Nguyễn Minh Châu đã thổi vào tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” một luồng sinh khí mới sau 1975. Xây dựng tình huông truyện hấp
dẫn, lôi cuô’n, đi sâu vào đời sôhg nội tâm của nhân vật, ngôn ngữ giàu tính
nhân dân.
2. v ể nội dung: Tác phẩm khắc họa bức tranh đời sôhg, của một gia đình
hàng chài tại vùng biển miền Trung sau giải phóng. Với bao nỗi cơ cực niềm xót
xa vẫn đè nặng lân đời sông người dân chài và mong ước của tác giả làm sao đời
sôhg của họ được nâng cao về giá trị vật chất và giá trị tinh thần để nạn bạo
hành trong gia đình không còn đất sông, từng bước xây dựng một gia đình lành
mạnh, một xã hội tôt đẹp. Tất cả được viết lên bằng những trang văn lay động
lòng người là thể hiện giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

256
H Ổ N T R Ư Ơ N G B A , D A H À N G T H ỊT
Lưu QUANG VŨ

Để tuyển sinh: A nh (ch ị) làm rõ h ai c â u sau đ ây:


C âu 1: A nh (ch ị) n êu lên h o àn cả n h sán g t á c cù n g ch ủ đề k ịch b ản
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” củ a nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
C âu 2: Anh (chị) giải th ích ý nghĩa tựa đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
tro n g kịch bản cùng tên củ a nhà viết kịch Lvtu Quang Vũ.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. N êu lên h o à n cả n h sán g tá c cù n g ch ủ đề k ịch b ả n “Hồn T rư ơ ng
Ba, d a h à n g th ịt”.
1. H oàn c ả n h sá n g tá c :
Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ dựa
vào truyện cổ tích dân gian mang tính chất huyền thoại của Việt Nam. Với tựa
đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cùng những nhân vật cũ như Nam Tào, Bắc
Đẩu là những quan nhà trời thiếu tinh thần trách nhiệm đã gạch tên Trương Ba
ở hạ giới. Trương Ba phải chết oan. Vừa lúc ấy Đế Thích cũng là quan nhà trời
nhằm sửa sai, muôn cho hồn Trương Ba sông lại, Đế Thích lấy xác anh hàng
thịt vừa mới chết nhập vào hồn Trương để cho Trương Ba được sông nhằm nói
lên “vấn đề tái sinh”.
Lưu Quang Vũ cũng chọn tựa đề này, cùng những nhân vật củ của truyện.
Nhưng ở phần cuôì của kịch bản, Lưư Quang Vũ đã có một cái nhìn mới, một tư
duy mới là hồn người này nhưng lại là xác người kia là không hợp lí, trái với quy
luật tự nhiên của tạo hóa, đưa đến nỗi đau của con người chính là nỗi đau của
nhân vật Hồn Trương Ba. Đó là quan niệm đúng đắn của tác giả để viết lên kịch
bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” vào năm 1981. Đến 1984 mới được công diễn
trong nước và năm 1987 được công diễn tại Pháp, đã gây một tiếng vang rất lớn
với kiều bào, thổi vào nền kịch nói Việt Nam một luồng sinh khí mới thấm đẫm
tính nhân văn.
2. C hủ đ ề: Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” như một luồng gió mới
thối vào nền kịch nói Việt Nam sau năm 1975. Tác giả viết lên kịch bản này
nhằm đề cao “cái tôi, cái chủ thể” là quyền sông chính đáng của con người
phải được tôn trọng, bảo vệ, không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người
biến chất, tha hóa đánh mât chính mình và hình thành một xã hội không
lành mạnh tô4 đẹp.

257
Câu 2. Ý n gh ĩa tự a đề
Tựa đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” theo truyện cổ tích dân gian chỉ đề
cập những quan nhà trời, ở đây là Nam Tào, Bắc Đẩu thiếu tinh thần trách
nhiệm, tắc trách trong nhiệm vụ của mình, họ đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới,
Trương Ba chết oan. Đế Thích cũng là quan nhà trời, muôn sửa sai, lại nhập hồn
Trương Ba vào xác anh hàng thịt vừa mới chết đế Trương Ba được sông lại.
Truyện cố tích nhằm đề cập đến “Vấn dề tái sinh”. Nhưng nhà viết kịch Lưu
Quang Vũ vẫn dựa vào nội dung, tựa đề, nhân vật như trên nhưng ở PHÂN KÊT
THÚC, tác giả không đề cập đến vấn đề tái sinh mà muôn nêu lên một vấn đề
lớn, ở đây là nỗi đau của con người, bi kịch thương tâm đau đớn của con người
khi hồn người này lại nhập vào xác người kia, mà hai thực thế hoàn toàn đối
lập, trái ngược nhưng lại xác lập trong một con người. Với tác giả tựa đề mang
hai ý nghĩa;
* Ý nghĩa xã hội:
Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, viết lên nhằm phê phán một xă hội
đan xen giữa cái thiện và cái ác, cái chân và cái giả từ đó hình thành sự dôì trá,
ngụy tạo, đánh mất chính mình đưa đến một xã hội không lành mạnh tô't đẹp.
* Ỷ nghĩa nhân văn:
Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nhằm
đề cao cái tôi, cái chủ thể cũng là quyền sống chính đáng của con người phải
được tôn trọng và bảo vệ không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người biến
chất, tha hóa đánh mất chính mình.

Đề tuyển sinh: A nh (chị) làm rõ h ai câ u sau đây:


C âu 1: K ịch b ản “Hồn T rư ơ ng Ba, da h à n g th ịt” có bao n h iêu p h ân
d o ạn v à n êu lên ý n gh ĩa m ỗi p h ân đoạn.
C âu 2: Đ ọc v à tìm h iểu k ịch b ản “Hồn T rư ơ ng Ba, d a h à n g thịt” củ a
tá c giả Lứ u Q uang Vũ. Anh (chị) p h ân tíc h n h ân v ậ t Hồn
T rư ơn g B a th ôn g qua k ịch b ản d ể làm sá n g tỏ bi k ịch tinh
th ầ n đ au đớn cù n g k h á t vọng ch ín h d án g c ủ a n h ân v ậ t H ồn
T rư ơn g B a .

HƯỚNG DẨN
Câu 1. K ịch b ản “Hồn T rư ơ ng Ba, da h à n g thịt” có bao n h iêu p h ân
đ oạn ? Và n êu lên ý n gh ĩa m ỗi p h ân đoạn.
Kịch bản gồm ba phân đoạn

I 258
- P hân đoạn 1: Nêu lên những quan nhà trời Nam Tào và Bắc Đẩu tắc
trách thiếu tinh thần trách nhiệm đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới. Trương Ba
chết oan. Sau đó Đế Thích cũng là người đại diện quan nhà trời, tìm cách sửa
sai đế’ Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết, Trương Ba
sông lại nhưng hồn người này mà xác người kia.
- P h â n đ o ạ n 2: Khi Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt, ai này
tưởng chừng cuộc sông của Trương Ba ổn định với gia đình, xã hội nhưng khi
hồn Trương Ba nhập vào xác tên hàng thịt chứng tỏ hồn người này lại nhập
vào xác người kia hoàn toàn trái ngược quy luật của tạo hóa. Hồn Trương Ba
dần dần tha hóa biến chất, không còn là chính mình nữa. Đây là nỗi đau
đớn dày vò, day dứt của Trương Ba. Sau đó Hồn Trương Ba lột xác để cùng
đôì thoại với tên hàng thịt mong tìm con đường giải thoát. Nhưng cuôì cùng
bâ't lực và bế tắc.
- P h á n đ o ạ n 3: Hồn Trương Ba vẫn day dứt, bức xúc trước nỗi đau của
chính mình cùng nỗi đau của gia đình. Cuôi cùng Hồn Trương Ba, thắp ba
nén nhang van vái Đế Thích hây đôi diện để nghe khát vọng chính đáng của
Trương Ba. Dù Đế Thích tiếp tục sửa sai cho Hồn Trương Ba nhập vào xác
thằng cu Tị là bạn của cháu nội gái Trương Ba (là con chị Lụa cạnh hàng
xóm), suy nghĩ cuôi cùng của Hồn Trương Ba quyết liệt đòi phải chết để tìm
lại con người cửa chính mình và yêu cầu Đế Thích xin cho xác anh hàng thịt
và cu Tị được sông lại.
Câu 2. P h â n tíc h bi k ịch tin h th ầ n đau đớn cù n g k h á t vọn g ch ín h đ án g
c ủ a H ồn T rư ơn g B a.

ịSỈ ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Triết gia người Đức - Nietzsche có nói: “Anh phải trở về cải gì của chính anh”.
(Nietzsche)
2. Lời người xưa có nói: “ớ bầu thì tròn, ở ống thì dài” hay “Gần mực thì đen,
gần đèn thì sáng”. (Lời người xưa)
3. Lời cổ nhân có nói: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”. (Lời người xưa)
4. Kịch bản: “Người trong cõi nhớ” của tác giả Lưu Quang Vũ có nói: “Chúng tôi
là những người dã chết. Nhưng những người còn sống vẫn nhớ đến. Như vậy,
chúng tôi vẫn còn dược sống”. (Lưu Quang Vũ)
5. Có ý kiến rằng: “Hoàn cảnh làm thay đổi biến dạng tính cách của con người”
(Lời nhận định)

259
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
“Anh phải trở về cái gì của chính anh”
(Nietzsche - triết gia người Đức)
- Lời nói của Nietzsche là tiếng nói, phải sông như chính anh, thật sự là của
anh, của chính mình để hướng con người đến sự hoàn thiện. Tiếng nói ấy, chúng
ta nghĩ đến kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang
Vũ, thông qua nhân vật Hồn Trương Ba cũng bật lên tiếng gọi, lời tha thiết khẩn
cầu để tìm lại chính mình “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Chỉ một lời nói ngắn
gọn nhưng toát lên cả một nỗi niềm, là bi kịch tinh thần đau đớn cùng khát vọng
chính đáng của chính nhân vật Hồn Trương Ba.

II. PHÂN TRỌNG TÂM


1. B ỉ k ịch tỉn h th ầ n đ au đớn củ a n h ân v ậ t h ổn T rư ơn g B a.
o. Bi kịch 1. N hân vật Hồn Trương B a trước nỗi đau đớn của chính mình:
Từ khi Đế Thích sửa sai, nhập hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt, tưởng
rằng cho Trương Ba được sông lại bình thường bên cuộc sông gia đình và những
người xung quanh. Nhưng một con người mà kết hợp hai thực thể hoàn toàn trái
ngược nhau đôì lập nhau. Với Trương Ba là người làm vườn, yêu thiên nhiên, yêu
gia đình, đánh cờ giỏi, hòa nhã với mọi người lại kết hợp vào xác tên hàng thịt,
một tên đồ tể giết lợn, thô lỗ, cộc cằn, ham rượu, ham đàn bà. Giữa hai thực thể
trái ngược, nghịch lí với nhau dần dần làm cho Hồn Trương Ba tha hóa, biến
chất vì hoàn cảnh hình thành tính cách, làm thay đổi biến dạng tính cách của
con người như lời người xưa từng nói “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hay “Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhưng ở đây là hồn người này lại nhập với xác
người kia thì hoàn toàn đi ngược lại quy luật tự nhiên của tạo hóa, một sự áp đặt
tùy tiện, máy móc đã xem thường con người, thực thể chính đáng của con người.
Nếu được làm một con người thì “Hồn nào xác nấy”, không thể lẫn lộn được.
Cuối cùng Hồn Trương Ba biến chất một cách thảm hại, đau đớn, xót xa được
thể hiện rất rõ.
- Về hành động: Trương Ba không còn đánh cờ hay nữa, trí tuệ không còn
minh mẫn, sáng suô"t. Trương Ba lại phá hoại cây côì: “ông làm gãy tiệt cái chồi
non... chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn “ông làm hỏng
mất cái diều đẹp mà thằng cu Tị rất quý”, “ông làm gãy cả nan rách cả giấy” kê
cả “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”.
- Về cách sống: Tính cách sông của Trương Ba không cồn hiền hậu, vui vẻ, tốt
lành với những người trong gia đình kể cả với mọi người xung quanh. Trương Ba

260
trở nên thô lỗ cộc cằn, lại ham vợ anh hàng thịt, lúc đứng cạnh vợ anh hàng thịt
“tay chăn run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động đến cách sốhg của
Hồn Trương Ba hoàn toàn biến chất, tha hóa đó là nỗi đau của Hồn Trương Ba và
Hồn Trương Ba hiểu rằng, “cái tôi” của mình ngày trước, của người làm vườn là
tượng trưng cho cái đẹp nhưng hôm nay, con người ấy lại hòa nhập vào xác anh
hàng thịt mà anh hàng thịt tượng biểu hiện sự thô lỗ, cộc cằn, huíig bạo, ham dục
vọng thì làm sao con người không tha hóa, biến chất. Chính Hồn Trương Ba thốt
lên rằng: “Không thể bên trong một đằng, bển ngoài một nẻo được. Tôi muốn được
là tôi toàn vẹn”. Lời nói của Hồn Trương Ba biểu hiện nỗi đau đớn day dứt, dày vò
khi con người của mình ngày trước hoàn toàn bị đánh mất, rồi Hồn Trương Ba
quyết liệt bày tỏ với một thái độ dứt khoát. Trương Ba nói: “Không! Không! Tôi
không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải’của tôi này lắm
rồi, chán lấm rồi!. Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ
muốn rời xa mi ngay tức khắc”. Bằng lời nói chân tình của Hồn Trương Ba thốt ra
là biểu hiện nỗi chán chường, ghê tởm trước thân xác của anh hàng thịt, lại gắn
kết vào cái hồn của mình thì còn đâu là hình ảnh của Trương Ba ngày trước, một
người làm vườn yêu thiên nhiên, yêu mọi người rồi Trương Ba lại thốt lên “Nếu
cái hồn của ta có hình thù riêng”, ta sẽ “tách ra khỏi cái xác này dù chỉ một lát”.
Qua những lời nói, suy nghĩ của nhân vật Hồn Trương Ba, chứng tỏ nhà viết kịch
Lưu Quang Vũ đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, hiểu rõ nỗi đau đớn của Hồn
Trương Ba khi một con người lại kết hợp hai thực thể hoàn toàn đối lập là đi
ngược lại quy luật tự nhiên của tạo hóa, quy luật đạo đức, là bi kịch tinh thần đau
đớn thứ nhất của Hồn Trương Ba.
b. Bi k ịch 2. N h â n vật H ồn T rư ơ n g B a đau đớn k h i g ia đ ìn h x a lạ,
n g h i n g ờ và xem thường. Hồn Trương Ba trước nỗi đau đớn của chính mình
hòa cùng nỗi đau đớn của gia đình. Tất cả những người thân trong nhà từ vỢ,
con trai cả, cháu nội gái và người con dâu ai ai cũng xa lạ, nghi ngờ và xem
thường ông, vì họ không còn tìm thấy hình ảnh của ông Trương Ba làm vườn
ngày xưa mà đôì diện là một con người cộc cằn, thô lỗ, ham đàn bà. Khi, Hồn
Trương Ba gần vỢ tên hàng thịt, “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”, biểu
hiện sự ham muôn khơi dậy và “sự hiền hậu, vui vẻ, tốt lành” ngày xưa của
ông Trương Ba đâu còn nữa, đến nỗi vỢ ông, khi nhìn thấy chồng trước tình
cảnh như thế, người vỢ lại vừa thương vừa giận vừa ghen và muôn xa lánh
Trương Ba ngay tức khắc. Rồi bà vỢ nói; “ô n g đâu còn là ông, đâu còn là ông
Trương Ba làm vườn ngày xưa” rồi vỢ Trương Ba nói: “Có lẽ tôi phải đi... đi cấy
thuê, làm mướn, ở đâu cũng được..., đi biệt... Đ ể ông được thảnh thơi... với cô vợ
hàng thịt... Còn hơn là thê' này...”. Những dòng suy nghĩ của vỢ Trương Ba là
nỗi đau từ trong tâm hồn người vợ, khi biết chồng đâu còn là con người của

261
ngày xưa, yêu thương kính mến của ngày xưa. Với người con trai cả, trước kia
đều vâng lời nghe theo ý kiến của Trương Ba nhưng hôm nay “anh đã quyết
định, dứt khoát sẽ bán khu vườn đ ể có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt”
dù Hồn Trương Ba không châ'p nhận. Và hình ảnh người cháu nội gái cũng
không thừa nhận ông nội của mình và lên án ông ấy thô bạo, tàn nhẫn, dẫm
nát cây côì trong vườn, phá hư cái diều của cu Tị rồi phẫn nộ thô't lên: ^Ông
xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể cút đi!" rồi lại nói tiếp: “Nếu ông nội tôi
hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”.
N hận xét: Hàng loạt những dòng suy nghĩ từ những người thân trong gia
đình Hồn Trương Ba, ai ai cũng đều nghi ngờ, xa lạ, xem thường, họ không còn
quý mến, kính trọng, yêu thương một ông Trương Ba làm vườn như ngày xưa.
Như vậy, khi hai thực thể giữa người làm vườn biểu tượng cho cái đẹp lại xác
nhập vào cái xác tên đồ tể biểu tượng cho cái xấu, cái ác chứng tỏ con người
Trương Ba không còn nguyên vẹn, toàn vẹn của ngày xưa với “hồn nào xác nấy".
Chỉ còn người con dâu của Trương Ba có sự cảm thông, hiểu rõ nỗi đau khố của
bô’ chồng nhưng trong thâm tâm của người con dâu vẫn nghi ngờ con người
Trương Ba hiện nay. Người con dâu nói: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chl có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau
đớn thấy ... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch
lạc, nhòa mờ dẩn đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa".
Lời tự bạch của người con dâu rất thật, cảm thông được nỗi khổ của bô’ chồng
khi đánh mất những gì tô’t đẹp của ngày xưa của sự hiền hậu, vui vẻ, tô’t lành
đâu còn nữa, rồi người con dâu lại nói: “Thầy ơi! làm sao, làm sao giữ dược thầy
ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con ngày xưa”. Hàng loạt
những suy nghĩ của người con dâu thấy rõ sự tha hóa, biến châ’t của Hồn Trương
Ba mỗi ngày mỗi rõ và làm sao tìm lại những gì tô’t đẹp của ông Trương Ba ngày
xưa, đó là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba từ phía gia đình là bị kịch tinh thần
đau đớn thứ hai của Hồn Trương Ba.
2. K h át vọn g ch ín h đ án h c ủ a H ồn T rư ơn g B a :
Hồn Trương Ba luôn luôn ray rứt dằn vặt với suy nghĩ “Không thể bên trong
một dằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn dược là tôi toàn vẹn” đó là khát
vọng chính đáng của Hồn Trương Ba là “hồn nào xác ấy” Rồi Hồn Trương Ba
mời Đê’ Thích về để tỏ bày. Hồn Trương Ba yêu cầu Đê’ Thích trả xác anh hàng
thịt lại và cho Trương Ba được chết vì Hồn Trương Ba nghĩ rằng: “Tôi đã chết
rồi, hãy để tôi chết hẳn”. Nhưng ý đồ của Đê Thích vẫn muôn Hồn Trương Ba
sông đế tiếp tục có người đánh cờ, có người khen mình là một tiên cờ “và người
trên trời dưới đất mới biết Đế Thích cao cờ như thê nào”“, rồi Đê Thích đề nghị

262
nhập hồn Trương Ba vào xác thằng cu Tị (con chị Lụa), bạn cháu gái của Hồn
Trương Ba vừa mới chết. Nhưng hướng giải quyết thứ hai của Đế Thích đưa ra
cũng là cách giải quyết bế tắc không khả thi vẫn đi ngược lại với quy luật của
tạo hóa. Với Hồn Trương Ba thì hồn nào phải xác nấy và yêu cầu Đế Thích cho
cu Tị, cho anh hàng thịt được sông, về với gia đình và trả lại cho Hồn Trương
Ba cái chết. Chỉ có cái chết, chết hẳn của Hồn Trương Ba thì Trương Ba mới tìm
lại chính mình”, muôn được là tôi toàn vẹn”. Rồi Trương Ba bộc lộ những suy
nghĩ râ’t chân tình, lí lẽ rất hợp lí, hợp với quy luật tự nhiên để thấy rõ khát
vọng của Hồn Trương Ba là chính đáng. Hồn Trương Ba nói: “Sống nhờ vào đồ
đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi sống
nhờ anh hàng thịt, ỏ ng chi nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế
nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời nói của Hồn Trương Ba càng thấy được sự tắc
trách của các quan nhà trời, càng sửa càng sai, càng làm cho con người rơi vào
sự đau khổ, bức xúc, bế tắc, đánh mất chính mình. Qua đó mới thấy rõ khát
vọng của Hồn Trương Ba để tìm lại sự sông trong cái chết là khát vọng chính
đáng của con người, không ai có thể phủ nhận được. Và suy nghĩ của Hồn
Trương Ba, dù Hồn Trương Ba không còn trên cõi đời này nhưng với bản chất
hiền hậu, vui vẻ, tô't lành của ông Trương Ba ngày xưa vẫn mãi mãi sông trong
lòng mọi người, trong tình yêu thương gia đình thì Hồn Trương Ba vẫn sông
mãi, sông trong nỗi nhớ của mọi người. Đúng như lời bày tỏ của tác giả trong
kịch bản “Người trong cõi nhớ” có nói: “Chúng tôi là những người đã chết.
Nhưng những người còn sông vẫn nhớ đến. Như vậy chúng tôi vẫn còn được
sống”. Đó mới là khát vọng chính đáng của Hồn Trương Ba cũng là khát vọng
chính đáng của con người.

m . PHẦN K ẾT THÚC
1. Về nghệ th u ậ t: Kịch bản xây dựng những tình huông đầy kịch tính, lời
thoại của các nhân vật thật sông động, chân thật, đi sâu vào đời sôhg nội tâm
nhân vật.
2. v ề nội dung: Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã thổi vào nền kịch nói Việt
Nam sau năm 1975 một luồng gió mới. Kịch bản nói lên sô" phận của con người
và mượn chuyện xưa để nói chuyện hôm nay, gợi cho chúng ta thấy rõ, con người
cần phải được tôn trọng, được bảo vệ và họ được sông hạnh phúc, hướng đến
cuộc sông tôt đẹp với gia đình và hình thành một xã hội công bằng, văn minh,
dân chủ, tiến bộ.

263
Đề tuyển sinh: Anh (ch ị) làm rõ c á c câ u sau đ ây:
C âu 1: T ại sao tiê n c ờ Đ ế T h ích k hông m uôn ch o H ồn T rư ơn g B a c h ế t
h ẳn ?
C âu 2: T iên cờ Đ ế T h ích tiếp tụ c cho H ồn T rư ơn g B a n h ập v ào x á c cu
Tị (co n ch ị L ụ a) có hỢp với quy lu ậ t đạo đức, lẽ tự n h iên đối
với co n người h ay không?
C âu 3: P h ầ n k ế t th ú c, n h à v iế t k ịch Lihi Q uang Vũ đ â ch o H ồn
T rư ơn g B a c h ế t h ẳn . N hư v ậy hướng g iải q u y ết c ủ a tá c giả,
có hỢp với lẽ tự nh iên , hỢp với quy lu ậ t đạo đức đối với con
người h a y khôn g?

HƯỚNG DẪN
Câu 1: T ạ i sa o tiê n c ờ Đê T h ích k h ô n g m u ô n ch o H ổn T rư ơ n g B a
ch ết hẳn?
Tiên cờ Đế Thích không muôn cho Hồn Trương Ba chết hẳn vì Hồn Trương
Ba là người yêu thích đánh cờ, đánh cờ giỏi, sẵn sàng đọ cờ với Đế Thích. Chứng
tỏ sự hiện diện của hồn Trương Ba thì mới có tiên cờ Đế Thích, Đế Thích mới
được trên trời dưới đất biết đến là một tên cao cờ đúng như ý nghĩ của Đế Thích
“Ông là lẽ tồn tại của tôi”. Như vậy Đế Thích cho hồn Trương Ba được sông
không vì lòng yêu thương người hạ giới mà nhằm mục đích để cho “cái tôi” của
Đế Thích tồn tại, cái danh của Đế Thích được mọi người biết đến và cố tình chà
đạp lên nỗi đau đớn của hồn Trương Ba. Quả thật, Đế Thích là một con người
sống tàn nhẫn, sông ác để hắn được tồn tại, tên của hắn được mọi người biết
đến. Chứng tỏ Đế Thích là một người thủ đoạn, một kẻ giả nhân, giả nghĩa, phi
đạo đức đáng lên án.
Câu 2: T iên c ờ Đ ế T h ích ch o H ồn T rư ơn g B a n h ập v ào x á c c u Tị có hỢp
với quy lu ậ t đ ạo đức, lẽ tự n h iên đôi với co n người h ay không?
Tiên cờ Đế Thích lại sửa sai bằng cách tiếp tục cho Hồn Trương Ba nhập vào
xác cu Tị (con chị Lụa) vẫn là hướng giải quyết tiếp tục rơi vào sự bế tắc đôl với
con người Trương Ba vì hồn của một ông già gần sáu mươi tuổi lại nhập vào xác
thằng bé mới lên mười tuổi, “còn đang tuổi ăn tuổi lớn, chạy nhảy vô tứ ’ thì sẽ
hình thành một con người dị biệt, già không ra già, trẻ không ra trẻ đưa đến
tình trạng sôhg dở, chết dở thì làm sao đem lại quyền lợi đích thực, hạnh phúc
cho con người Trương Ba là không hợp với qui luật đạo đức, lẽ tự nhiên đôi với
con người. Chỉ có hướng giải quyết như yêu cầu khát vọng của Hồn Trương Ba
là; “làm cho cu Tị sống lại, còn tôi cứ đ ể tôi chết hẳn” là nguyện vọng, khát
vọng rất chính đáng của Hồn Trương Ba, hoàn toàn phù hợp với lẽ tự nhiên, hợp

264
với quy luật đạo đức, đúng như lời nói cuôì cùng của Hồn Trương Ba: “Tồi không
muôn nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi hãy đ ể tôi chết hẳn".
Câu 3: L ư u Q uang Vũ ch o H ồn T rư ơn g B a c h ế t h ẳ n có hỢp với lẽ tự
n h iê n , hỢp v ớ i q u y lu ậ t đ ạ o đ ứ c d ố i v ớ i c o n n g ư ờ i h a y k h ô n g ?
Cuôl kịch bản, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ có hướng giải quyết cho Hồn
Trương Ba chết hẳn, là phù hợp với lẽ tự nhiên với quy luật đạo đức của con
người. Vì một con người đúng nghĩa theo quy luật của tạo hóa, hợp với lẻ tự
nhiên là sự kết hợp giữa hai thực thể hồn và xác là một, “hồn nào xác nấy”,
không thể lẫn lộn “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”. Khi một người làm
vườn yêu thiên nhiên, yêu gia đình, quý mến mọi người lại kết hợp với thân xác
của một tên đồ tể chỉ biết ngày ngày giết lợn, sông ác, thô lỗ, cộc cằn, sông theo
bản năng, dục vọng. Nếu hai thực thể đối nghịch như vậy mà kết hợp trong một
con người thì làm sao trở thành một người tô't, chỉ hình thành kẻ dôl trá, sông
ngụy tạo đánh mất chính mình, gia đình xa lạ, nghi ngờ, xem thường và người
đời xa lánh. Sông như vậy còn gì để sông, ý nghĩa cho cuộc sông và chỉ có cái
chết mới tìm về con người đích thực của Hồn Trương Ba, mới tìm lại hình ảnh
nhà làm vườn, yêu thiên nhiên, có thú đánh cờ, “hiền hậu, vui vẻ, tốt lành” với
mọi người ngày xưa. Như vậy Lưu Quang Vũ chọn cách giải quyết cho Hồn
Trương Ba chết hẳn là đúng với nguyện vọng của nhân vật là khát vọng chính
đáng của con người như lời nói của Trương Ba: “Tôi không muốn nhập vào hình
thù ai nữa cả!, Tôi đã chết rồi, hãy đ ể tôi chết hẳn”. Với Hồn Trương Ba, chỉ có
cái chết mới là sự giải thoát để tìm lại chính mình, tìm lại con người đích thực
của mình để được mọi người yêu thương, gia đình yêu thương đó chính là cách
sông đẹp, dù cho Hồn Trương Ba không còn hiện hữu trên cõi đời này nhưng
hình ảnh của Hồn Trương Ba vẫn sông mãi trong lòng mọi người với bao kỉ
niệm đẹp của ngày xưa là khát vọng chính đáng của Hồn Trương Ba đúng như
nguyện vọng của ông: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là “hồn nào xác nấy”.
Chứng tỏ hướng giải quyết của tác giả để cho hồn Trương Ba chết hẳn hoàn toàn
hợp lí, hợp với lẽ tự nhiên, hợp quy luật đạo đức con người, lấp lánh tính nhân
văn, làm nên sức sông giá trị của kịch bản suốt bao nhiêu năm qua.

Để tuyển sinh: A nh (ch ị) p h â n tíc h k ịc h b ả n “H ồ n T rư ơ n g Ba, da


h à n g t h ịt” c ủ a n h à v iế t k ịch Lư u Q uang Vũ đ ể làm sá n g tỏ giá
tr ị n h ân đạo c ủ a k ịch bản .

ỊSĨững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Đại thi hào Nguyễn Du từng thương xót cho sô" phận con người qua lời thơ:
“Thương thay cũng một kiếp người”. (Nguyễn Du)

265
2. Có ý kiến: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể được sống mạnh mẽ” (Nietszche).
3. Có nhận định rằng: Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết
kịch Lưu Quang Vũ thế hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc. (Lời nhận định)
4. Có lời nhận định: “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo
hóa con người”. (Lời nhận định)
5. Có ý kiến: “Một tác phẩm có giá trị nhân đạo nhằm ca tụng tình thương, lòng
bác ái, sự công bằng. Nó làm cho người gần người hơn”. (Nam Cao)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU
Sau năm 1975, nền kịch nói Việt Nam mang lại một luồng gió mới, một sinh
khí mới, tiêu biểu là kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch
Lưu Quang Vũ. Kịch bản nêu lên một vấn đề lớn về sô' phận con người, ở đây là
nhân vật Hồn Trương Ba. Lưư Quang Vũ đồng cảm và xót xa trước nỗi đau đớn
của Hồn Trương Ba khi đánh mâ't chính mình qua đó lên án những quan nhà
trời thiếu trách nhiệm, vô tâm, háo danh, đồng thời ca ngợi những phẩm chất
đẹp của Hồn Trương Ba và tác giả có hướng giải quyết đế cho Hồn Trương Ba
chết hẳn là sự giải thoát. Tất cả những vấn đề ấy viết lên thành những trang
văn, những lời thoại thấm đẫm tình người, làm lay động lòng người là thể hiện
giá trị nhân đạo sâu sắc trong kịch bản.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Giá trị n h ă n đạo trong kịch bản “Hồn T rư ơ ng Ba, d a h à n g th ịt”.
1. N hân đ ạo 1: T á c giả thư ơng x ó t ch o sô” p h ận H ồn T rư ơn g B a đã
đánh m ât ch ín h m ình q u a đó lên á n nhữ ng q u an n h à trờ i.
Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” theo truyện cổ tích dân gian đậm
chất huyền thoại, nêu lên “vấn đề tái sinh”. Với Lưu Quang Vũ, ông đã thổi vào
kịch bản ở phần cuô”i cô”t truyện một luồng gió mới, một cái nhìn mới là đi sâu
vào sô” phận của con người, nỗi đau của con người khi bị các quan nhà trời, tấc
trách và háo danh đã biến nhân vật hồn Trương Ba tự đánh mâ't chính mình.
Với tác giả, không thể đồng tình theo hướng giải quyết hồn người này lại nhập
vào xác người kia với hai thực thể hoàn toàn đô”i lập. Với Hồn Trương Ba là biểu
tượng cho cái đẹp, cái thiện lại kết hợp thân xác anh hàng thịt tượng trưng cho
cái ác, cái xấu thì làm sao gắn kết trong một con người để họ sông thanh thản
với gia đình với mọi người. Đây là sự gán ghép trái với quy luật tự nhiên, trái
với quy luật đạo đức và kết thúc Hồn Trương Ba đón nhận sự đau đớn của chính
bản thân, sự xa lạ, xem thường, nghi ngờ từ phía gia đình và mọi người xa lánh.
Lưu Quang Vũ đồng cảm và thương xót cho nhân vật Hồn Trương Ba, tác giả đi

266
sâu vào đời sông nội tâm của nhân vật đế thấy rõ nỗi đau đớn của nhân vật.
Tiêng thôt lên của Hồn Trương Ba cũng là tiếng lòng của nhà văn qua lời nói
thống thiết: “Tôi không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn". Phải có sự đồng cảm xót xa đôl với nhân vật, tác giả
mới thấy được nỗi đau thăm thắm trong tâm hồn Trương Ba đế nói lên ước vọng
sâu kín của con người, ở đây là hồn Trương Ba, là thể hiện tinh thần nhân đạo
sâu sắc của kịch bản.
2. Nhân đạo 2: T ác giả ca ngợi phẩm ch ấ t đẹp của Hồn Trương Ba.
a. P hẩm chất 1: Tinh thần p h ả n k h á n g củ a Hồn T rư ơ ng B a:
Hồn Trương Ba cảm thấy nỗi đau đớn của chính 'mình khi con người thật bị
đánh mất, giữa cái xấu cái tô't lẫn lộn, cái thiện cái ác đan xen, rồi gia đình
nghi ngờ, xem thường, xa lạ, mọi người xa lánh. Hồn Trương Ba nhận thức rõ
điều ấy và không muôn tiếp tục sống cuộc sống lay lắt, sông dở, chết dở. Hồn
Trương Ba quyết tìm gặp Đê Thích đế nói lên khát vọng đích thực của chính
mình là đòi lại quyền làm người, đòi lại quyền sông của con người, ước vọng của
Hồn Trương Ba là muôn tìm đến cái chết và chỉ có cái chết mới trả lại con người
đích thực của Hồn Trương Ba, là được trở về một nhà làm vườn, yêu thiên
nhiên, yêu gia đình, yêu mọi người thì dù cho Hồn Trương Ba có chết, cũng là
cái chết đẹp, là sự giải thoát thế hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh đòi lại
quyền làm người của Hồn Trương Ba thật đáng ca ngợi. Với khát vọng: “Tôi
muốn dược là tôi toàn vẹn". Tiếng nói của ỉlồn Trương Ba là nguyện vọng chính
đáng của con người, sông đúng với tư cách của một con người là một phẩm chất
đẹp. Đồng thời Hồn Trương Ba quyết liệt tìm đến cái chết khi đôì diện với Đế
Thích. Hồn Trương Ba nói: “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã
chết rồi hãy d ể tôi chết hẳn”. Và Hồn Trương Ba quả quyết; “Nếu ông không
giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông, hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc dó thì hồn tôi
chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất...”. Những lời nói phản kháng quyết liệt
của Hồn Trương Ba khi đôì diện với Đế Thích càng thấy rõ sức sông tiềm tàng
trong con người của Hồn Trương Ba thật mãnh liệt để tìm lại chính mình, đòi
quyền làm người của mình đã bị các quan nhà trời tước đoạt là phẩm chất đẹp
của nhân vật.
b. P hẩm chất 2: Hồn T rư ơ ng B a yêu thương con người sâu sắc.
Một phẩm chất đẹp khác của Hồn Trương Ba là xin Đế Thích hãy trả lại sự
sông cho anh hàng thịt và cu Tị, dù Hồn Trương Ba hiểu rằng, thân xác của tên
hàng thịt từng ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba. Hắn đã làm cho

267
Hồn Trương Ba đau đớn, ray rứt, dày vò. Nhưng nguyện vọng của Hồn Trương
Ba vẫn xin cho tên hàng thịt được sông, được trở về với gia đình, vợ con là thể
hiện một tấm lòng nhân ái của Hồn Trương Ba biết lấy ân báo oán, xóa bỏ thù
hận trong quá khứ, đồng thời Hồn Trương Ba cũng hiểu rõ nỗi đau của người vỢ
khi mất chồng và nỗi đau của người mẹ khi mất con, từ đó Hồn Trương Ba vẫn
tha thiết yêu cầu Đê Thích trả lại sự sông cho họ, cho anh hàng thịt và cu TỊ, là
thê hiện tấm lòng yêu thương con người sâu sắc của Hồn Trương Ba, là phẩm
chất đáng quý.
3. Nhân đạo 3: T ác giả hướng cho Hồn Trương B a tìm đến sự giải thoát.
Kết thúc kịch bản, tác giả Lưu Quang Vũ quyết định cho Hồn Trương Ba chết
hẳn là hướng giải quyết hợp với lẽ tự nhiên, hợp với qui luật đạo đức. Chỉ có cái
chết của Trương Ba thì mới trả lại con người đích thực của Trương Ba “'hồn nào
xác nấy”. Cái đẹp phải được gắn liền với cái đẹp, cái thật phải thể hiện đúng cái
thật. Giữa tâm hồn và thân xác tuy hai mà một, tuy một mà hai. Hai thực thể
ấy bất di bất dịch, bất khả phân trong một con người, thì mới đem lại giá trị
đúng đắn của một con người. Đúng như nguyện vọng của Hồn Trương Ba: “Tôi
không nhập vào hình thù ai nữa. Tôi đã chết rồi, hãy đ ể tôi chết hẳn!” và chỉ có
cái chết của Hồn Trương Ba mới tìm lại con người đích thực của ông ngày xưa,
một nhà làm vườn ham thích đánh cờ, yêu thiên nhiên, yêu gia đình, yêu mọi
người mãi mãi là hoài niệm đẹp, sẽ đi vào lòng mọi người, cho dù ông Trương Ba
không còn trên cõi đời này nữa, nhưng hình ảnh của ông Trương Ba, kỉ niệm
đẹp của ông Trương Ba ngày xưa, mãi mãi sống trong hoài nhớ của mọi người.
Như vậy, hướng giải quyết của Lưu Quang Vũ cho Hồn Trương Ba chết hẳn là
hoàn toàn hợp lí, hợp với lẽ tự nhiên, với quy luật đạo đức, lấp lánh tính nhân
văn, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của kịch bản.

III. PHẦN K Ế T THÚC


1. về nghệ th u ậ t: Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” xây dựng những
tình huông đầy kịch tính; lời thoại của nhân vật chân thật, sinh động, lôi cuôh,
đi sâu vào đời sông nội tâm của mỗi nhân vật.
2. v ề nội dung: Kịch bản nêu bật vấn đề của con người. Nó như một thông
điệp nhằm gởi đến những ai có trách nhiệm đối với con người, phải luôn luôn
tôn trọng quyền làm người, quyền sông của con người và làm sao đem lại cuộc
sôhg hạnh phúc cho con người là thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc cũng là
giá trị của kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” suô't bao nhiêu năm qua.

268
M Ộ T NGƯỜI HÀ NỘI
NGUYỄN KHẢI

Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:


Câu 1: Anh (chị) giải thích ý nghĩa tựa đề “Một người H à N ộ i” trong
tá c phẩm cùng tên củ a nhà văn Nguyễn Khải.
Câu 2: Anh (chị) phân tích vẻ đẹp về nhân v ậ t bà Hiền tron g tác
phẩm “Một người H à N ộ i” củ a nhà văn Nguyễn Khải.______________

HƯỚNG DẪN
Câu 1: Ý nghĩa tựa đề “Một người H à N ội”.
Truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải hoàn thành năm
1990. Truyện được in trong tập “Hà Nội trong mắt tôi” xuất bản năm 1995. Tựa
đề “Một người Hà Nội” qua ngòi bút của Nguyễn Khải đã khắc họa nhân vật gôc
người Hà Nội “Bà Hiền”. Bà cũng như những người Hà Nội bình thường khác, bà
Hiền đã cùng Hà Nội cùng đất nước trải qua nhiều sự thăng trầm biến độntg
nhưng bà vẫn giữ được cái cô't cách, cái phong thái cùng nét đẹp văn hóa của
người Hà Nội. Bà sông “thẳng thắn, chân thành, giàu lòng tự trọng”, thích nghi
với mọi hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được phẩm giá của chính mình là phẩm chất
đẹp của con người Hà Nội, con người của đất nước cũng là ý nghĩa của tựa đề tác
phẩm “Một người Hà Nội” qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Khải.
Câu 2: P h ân tích vẻ đẹp về nhân v ật bà Hiền tron g tá c phẩm
"Một người H à N ộ i” củ a nhà văn Nguyễn Khải.

iSỈững kiến th ứ c cẩ n nắm .


1. Vẻ đẹp tâm hồn thông qua nhân vật bà Hiền:
Vẻ đẹp 1: Bà Hiền trong cách suy nghĩ: về hôn nhân, về gia đình, về sinh
con và nuôi dạy con cái, về trách nhiệm đôl với đất nước.
Vẻ đẹp 2: Bà Hiền trong cách ứng xử: Luôn luôn “tự tin, bản lĩnh; nhạy bén
trong mọi tình huống; bao dung, khéo léo, tinh tề" trước cuộc sôhg.
2. Lời cố nhân; “ôn cố nhi tri tân" (ý nói: Sống trong hiện tại, tiếp cận với cái
mới nhưng vẫn giữ được cái cũ, cái tinh hoa xưa).
3. Lời cổ nhân: “Hòa nhi bất đồng” (ý nói: Hòa nhập và thích nghi vào cuộc sống
nhưng không hòa tan, hòa đồng, vẫn giữ cái phong cách của mình).
4. Lời dân gian có nói: “Gió chiều nào theo chiều đó”.
5. Lời người xưa: “Ăn xem nồi ngồi xem hướng”.
269
6. Nietzsche (Triết gia Đức) có nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh".
(Nietzsche)
7. Musset (nhà văn Pháp) có nói: “Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn".
(Musset)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Gió chiều nào theo chiều đó”.
(Lời dân gian)
Lời nói của dân gian ngụ ý nói lên cách sông xu thời, theo thời, tự đánh mất
chính mình. Cách sống ấy đưa chúng ta nghĩ về truyện ngắn “Một người Hà
Nội" của nhà văn Nguyễn Khải thông qua nhân vật bà Hiền, dù trải qua bao
nhiêu sự thăng trầm thay đổi do hoàn cảnh của đất nước nhưng bà Hiền vẫn giữ
được cái côt cách, cái phong thái của chính mình trước cuộc sống cũng là nét văn
hóa của người Hà Nội là vẻ đẹp tâm hồn của bà Hiền trong truyện ngắn “Một
người Hà Nội” trích trong tập truyện “Hà Nội trong mắt tôi” của nhà văn Nguyễn
Khải, xuất bản năm 1995.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Vẻ dẹp tâm hồn thông qu a n h ản vật B à H iền.
1. Vẻ đẹp 1: Bà Hiển quan niệm về hôn nhân, gia đình, sinh con, nuôi
dạy con cái và trá ch nhiệm đôi với đ ất nước.
а. Về quan niệm hôn n h ã n : Bà Hiền là một người phụ nữ “xinh đẹp, thông
minh". Bà yêu văn chương, nghệ thuật. Thời con gái, bà giao tiếp nhiều anh chị
em văn nghệ sĩ nhưng bà không chạy theo những tình cảm nhất thời. Bà đã
chọn người bạn trăm năm là một ông giáo dạy cấp tiểu học, hiền lành, chăm chỉ
làm cho “cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Phải chàng, sự ngạc nhiên và bàng hoàng
của người Hà Nội xuât phát là do thói đời, họ nghĩ một người như bà Hiền phải
chọn một người chồng có tầm cỡ, vai vế của xã hội. Nhưng với suy nghĩ của bà
Hiền hoàn toàn khác với họ. Bà không ham danh vọng, so sánh hơn thiệt. Với
bà, ông giáo tiểu học là mẫu người mô phạm, phù hợp với quan niệm sông của
bà về một gia đình. Bà sông có trách nhiệm của người vỢ, người mẹ luôn luôn
đặt lên trên mọi thú vui khác đôi với người phụ nữ.
б. vể quan niệm g ia d in h : Bà Hiền luôn luôn là người chủ động, trước mọi
tình huông. Bà hiếu rõ vai trò quan trọng của một người vợ, một người mẹ trong
gia đình như một nội tướng, phải là người quán xuyến mọi việc trong gia đình,
phải biết “tề gia nội trợ”.

270
c. v ề quan niệm sinh con và nuôi dạy con cá i: Bà không tin vào quan
niệm “trời sinh voi, sính cỏ” mà bà quan niệm, con cái phải được nuôi dạy chu
đáo đế chúng “có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào người khác”, về cách
dạy con cái, Bà dạy từ cái nhỏ đến cái lớn nhất như chuyện: “cách ngồi ăn, cách
cầm bát, cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Bà xem
đấy là nét “Văn hóa sống, văn hóa người" là nét vàn hóa của người Hà Nội. Bà
luôn luôn nhắc nhở và dặn dò với con cháu rằng: “Chúng mày là người Hà Nội
thì cách đi dứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông
tuồng”. Sông phải “biết tự trọng, biết xấu hổ".
c. v ề trách n hiệm dối với đất nước: Với bà Hiền, bà luôn luôn đặt lòng tự
trọng rất cao. Với bà, lòng tự trọng không cho phép con người sông hèn nhát,
ích kỉ tiêu biếu là việc cho con trai đi chiến đấu qua lời hỏi của nhân vật tôi (tác
giả) hỏi bà rằng: “Cô bằng lòng cho em di chiến đấu chứ\”. Bà Hiền trả lời rất
chân thật: “Tao đau đớn mà bàng lòng, vi tao không muốn, nó sống bám vào sự
hì sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Sau đó Bà Hiền cũng chấp
nhận cho người con trai thứ hai của bà tiếp tục nôl gót theo bước chân của người
anh. Bà nói rất chí tình, sâu sắc: “...Bảo nó tìm đường sống d ể các bạn nó phải
chết, cũng là một cách giết chết nó". Rồi bà nói tiếp: “Tao củng muốn dược sống
bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hám
gì”. Với dòng suy nghĩ của bà Hiền, luôn luôn đặt “lòng tự trọng” là điều quan
trọng nhất đôi với con người. Với bà, nếu “con người đánh mất lòng tự trọng thì
chỉ còn cái chết, cái chết tâm hồn”. Và trong suy nghĩ của bà Hiền: “Để con ra đi
chiến đấu thật là một quyết định khó khăn nhưng hợp lí”. Chứng tỏ con người
Bà Hiền, luôn luôn thiết tha nặng tình với đất nước, bà biết đặt tình chung lên
trên tâ't cả dù phải châ"p nhận sự hi sinh và đau đớn. Quả thật, với bà; “không có
gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn".
2. Vẻ dẹp 2. B à Hiền trong cách cách ứng xử tự tin, bản lĩnh, nhạy
bén, bao dung, khéo léo.
a. T ự tin, bản lĩnh: Trước những thay đồi diễn ra trong xã hội, Bà Hiền vẫn
chứng tỏ một con người bản lĩnh, thông minh, nhạy bén, bà “luôn luôn dám là
mình” dù tiếp cận với chê độ mới nhưng bà vẫn giữ phong cách sôhg, tính cách
sông là của chính mình, không phải gió chiều nào theo chiều ấy. Bà nói với nét
tự tin bản lĩnh: “Tao có một bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản nhưng
lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”.
b. Nhạy bén trước mọi tình huống: Bà Hiền có một hướng giải quyết nhạy
bén và hợp lí trước hoàn cảnh đối mới của đất nước. Vào năm 1956 bà quyết

271
định bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn, mới ở kháng chiến về, để
tránh sự dòm ngó, soi mói của người khác không có lợi cho bà.
c. vẫ n g i ữ n ếp sống đ ẹp : Bà Hiền luôn giữ gìn những nét đặc trưng trong
đời sống của người Hà Nội, “mỗi tháng bà đều tổ chức một bữa ăn bạn bè gồm
các cựu công dân Hà Nội những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kì”. Bà
luôn luôn thể hiện một phong thái lịch lãm, sang trọng của người Hà Thành như
“Cách trang trí phòng khách”, những bữa ăn của gia đình đều toát lên vẻ “cổ
kính, quý phái và óc thẩm mỹ” mà suô"t mấy chục năm qua vẫn không thay đổi,
vẫn luôn luôn giữ được cái hồn của Hà Nội, một thời đáng yêu đáng nhớ.
d. Bao d ung, khéo léo, tinh tế: 1 rước hoàn cảnh thay đổi của đất nước,
cùng với nền kinh tế thị trường hoàn toàn mới, cuộc sông biến đổi từng ngày,
một sô" người Hà Nội đã thay đổi cách sông, biến chất vì giá trị vật chất và sức
mạnh của đồng tiền được đề cao, khiến những người từng yêu Hà Nội buồn lòng,
thất vọng nhưng với bà Hiền, bà có một thái độ bao dung, khéo léo, tinh tế. Bà
nói: “Hà Nội thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi”. Chứng tỏ
bà không so sánh, phê phán mà biết hòa mình thích nghi với cuộc sông Hà Nội
theo từng bước đi của Đâ"t nước là thế hiện cách ứng xử khéo léo, tế nhị của bà
Hiền là vẻ đẹp tâm hồn của bà mà tác giả ví von gọi bà Hiền là “một hạt bụi
vàng” của đất kinh kì ngày ấy.
Mở rộ n g: Nói đến “hạt bụi” chúng ta nghĩ đến sự bé nhỏ, tầm thường và
chẳng có giá trị gì, nhưng ở đây là “hạt bụi vàng” thì dù râ"t nhỏ bé, khiêm
nhường nhưng lại có một giá trị thiết thực cho cuộc sông. Nếu nhiều hạt bụi
vàng hợp lại sẽ thành “Những ánh vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phô Hà Nội
và đất kinh kì chói sáng những ánh vàng” thì cuộc sông đẹp biết bao.

III. PHẦN K Ế T THÚC


1. v ề nghệ th u ật: Với giọng điệu trần thuật. Nghệ thuật xây dựng tính cách
nhân vật thật sinh động, lôi cuô"n, đi sâu vào nội tâm nhân vật, lời thoại rất
chân thật.
2. v ề nội dung: Tác giả khắc họa nhân vật Bà Hiền là một người Hà Nội
bình thường, nhưng ở bà đã thắm đẫm bao tinh hoa tô"t đẹp trong bản chất của
người Hà Nội và giữ được bản sắc văn hóa Hà Nội, mãi mãi là vẻ đẹp tâm hồn
của bà Hiền, là giá trị sức sông cho tác phẩm.

272
tA€t

NGHI LUẬN XÃ HỘI

NGHỊ LUẬN V Ề T ư TƯỞNG ĐẠO LÍ

Đế tuyen sinh: Anh (chị) hiểu th ế nào là “lẽ s ố n g đ ẹ p ”?

ÌSỈ ữnsr kiến th ứ c c ầ n nắm:


1. Tố Hữu có viết: “Lẽ nào vay mà không trả. s ố n g là cho đâu chỉ nhận riêng
mình”. (Tô HCỈU)
2. Thanh Thảo có viêt: ""Tuổi hai mươi làm sao không khỏi tiếc. Nhưng ai củng
tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”. (Thanh Thảo)
3. Chế Lan Viên có viết: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo dẹp. Một mái nhà
yên rủ bóng xuống tâm hồn”. (Chê Lan Viên)
4. Xuân Quỳnh có viết: “Làm sao được tan ra... Giữa biển lớn tình yêu”. (Xuân Quỳnh).
5. Ca dao Việt Nam có ghi: “Nhiễu diều phủ lấy giá gương. Người trong một
nước phải thương nhau cùng” hay “Bầu ơi thương lấy Bí cùng. Tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”. (Ca dao)
6. Người thanh niên tiêu biểu của Thành phô" Hồ Chí Minh năm 2007 mang tên
Nguyễn Hữu Ân là người thanh niên có lẽ sông đẹp.
7. Chị Hướng Dương cụt cả đôi chân nhưng chị vẫn sông có ích cho đời, gieo cho
những em mù lòa niềm tin yêu hi vọng.
8. Nghệ sĩ Thê Vinh cụt cả hai tay nhưng anh vẫn thực hiện chức năng của
người nghệ sĩ, vừa thối Harmonica vừa đánh đàn ghita và thành lập những
trung tầm nuôi dạy trẻ em khuyết tật và hoàn tất văn bằng cử nhân kinh tế
tại Thành phô Hồ Chí Minh.
9. Nick-Vujicic thế hiện: “nghị lực sống” và “sống không giới hạn”. Một tấm
gương sáng đẹp cho cả toàn cầu.

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI: (theo lối gián tiếp)
“Sống là cho đâu nhận chỉ riêng mình”
(Tố Hữu)

273
Đó là một quan niệm sông có lí tưởng, một lẽ sông đẹp, sông phải biết
công hiến, hướng về cái chung về cộng đồng, về quê hương đâ't nước đó là ý
nghĩa của cuộc sông là lẽ sông đẹp. Để làm sáng tỏ về lẻ sông đẹp, chúng ta
cần giải thích qua trang viết sau.

II. PHẢN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần hiểu thê nào là lẽ sô'ng đẹp?: Sông đẹp hay lẽ sông
đẹp là cuộc sông phải có ý nghĩa đối với bản thân, với cộng đồng quê hương, đất
nước. Để thực hiện lí tưởng về lẽ sôhg đẹp là vâ'n đề trăn trở của nhân loại từ
xưa đến nay. Sống đẹp là sông có mục đích cao quý, sông có lí tưởng phải biết
cống hiến và hi sinh, không thể sông ích kỉ cho riêng mình. Sống đẹp là sôhg có
văn hóa, sông giàu lòng yêu thương nhân ái vị tha, biết tương trợ lẫn nhau, “/á
lành đùm lá rách", phải biết sông vì cộng đồng, phải biết bảo vệ môi trường,
phải biết đau trước nỗi đau của người khác, đó là lẽ sông đẹp. Việc hiến máu
nhân đạo là thế hiện một ý niệm sông đẹp. Sông đẹp khi mỗi người phải biết
chia sẻ, phấn đấu làm cho xã hội tốt đẹp, công bằng nhưng muôn làm được điều
ấy phải có lòng dũng cảm, chân thật, khiêm tôn. Sông đẹp về mặt nhận thức
chưa đủ, có tình cảm, có tư tưởng cũng chưa đủ mà phải thể hiện bằng hành
động từ thực tế trải nghiệm lẽ sông đẹp, là lẽ sông của người có văn hóa.
2. Dần chứng để làm sáng tỏ lẽ sông đẹp:
Hình ảnh người thanh niên tiêu biếu của Thành phô' Hồ Chí Minh, anh
Nguyễn Hữu Ân, anh đã thực hiện một cách sông đẹp, dù nhà nghèo tại vùng
đất khô cằn Quảng Trị, anh đã nuôi mẹ (bệnh ung thư) không quản ngại xa xôi,
khi mẹ qua đời anh vẫn thực hiện lời mẹ dặn phải tiếp tục nuôi người mẹ nuôi
cũng mắc bệnh ung thư, anh vẫn làm tốt trách nhiệm và hoàn thành luận án tô't
nghiệp tại trường Đại học mở Bán công Thành phô' Hồ Chí Minh. Hiện nay anh
đang trợ giúp những em khuyết tật, thất học, lang thang. Chị Hướng Dương dù
cụt cả đôi chân nhưng chị có một nghị lực sông thật phi thường, chị làm những
điều có ích cho cộng đồng đem lại cho những em mù lòa niềm hi vọng trước cuộc
sông. Nghệ sĩ Thê' Vinh dù cụt cả đôi tay nhưng anh vẫn cô' công rèn luyện trở
thành một nghệ sĩ có ích cho đời. Anh tô't nghiệp đại học kinh tê' Thành phô' Hồ
Chí Minh. Hiện nay anh mở những trung tâm dạy nghề hỗ trợ những em khuyết
tật có điều kiện để bước vào đời. Và hình ảnh Nick-Vujicic (người úc), anh mất
cả đôi cánh tay và đôi chân nhưng anh đã làm những điều phi thường. Anh trở
thành nhà thuyết giảng hùng biện, có sức thuyết phục cả toàn cầu.
Hàng loạt những tấm gương sáng tiêu biểu, họ đã thực hiện một lẽ sống đẹp
dù hoàn cảnh khắc nghiệt của bản thân, nhưng họ đã vượt lên sự nghiệt ngã về
số phận làm chủ hoàn cảnh để hướng đến cuộc sống vì cộng đồng, vì mọi người
là những tấm gương sáng cho đời.

274
3. Liên hệ bản th ân hướng để đến lẽ sô"ng đẹp:
Phải biết đâu tranh với chính bản thân, loại bỏ dần những nhỏ nhen ích kỉ
tầm thường, không chỉ biết “hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp. Một mái nhà
yên rủ bóng xuống tăm hồn”. Tránh lôl sông vô cảm lạnh lùng, hèn nhát, phản
bội lại quá khứ, bạn bè, tổ quô'c, sống lười biếng, ỷ lại. Phải biết đấu tranh
những ai có tư tưởng, hành động xấu và có một sô' quan điểm sông cần phải phê
phán đó là lô'i sô'ng thực dụng, chạy theo vật chất, tiền tài, danh vọng, địa vị và
xem nhẹ nhân cách thậm chí sông lừa dôi với cha mẹ, anh chị em, đồng đội,
người thân. Phải phê phán, lên án những kẻ sô'ng với đôi mắt ráo hoảnh của
phường ích kỉ, sông thiếu tình người, thiếu văn hóa, chà đạp lên người khác.

III. PHẦN KẾT BÀI


“Lẽ sống đẹp” là lẽ sông đúng đắn, hợp với quy luật đạo đức nhân cách sông
của con người qua mọi thời đại. cần soi rọi bản thân mình, làm sao từng bước
hoàn thiện về nhận thức và hành động nhằm thực hiện lẽ sô'ng đẹp để cuộc sô'ng
có ý nghĩa...

Để tuyển sinh: H ọc giả Nguyễn B á Học trong bài “Lời khuyên học trò ”
có ghi: “Đ ư ờ n g đi khó, k h ôn g khó vì n gă n sông cá ch n ú ỉ m à ch ỉ
khó vì lòng n gạ i núi e sô n g”. (Nguyễn B á Học)
Anh (chị) giải thích ý kiến trê n từ dó nêu lên suy nghĩ về bản
th ân củ a anh chị trư ớc cuộc sống hiện nay.

ịSỈ ững kiến thức cầ n nắm :


1. Tác giả Hồ Chí Minh có nói: “Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển. Quyết chí át làm nên”. (Hồ Chí Minh)
2. Tác giả Hồ Chí Minh có viết: “Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi
cao trập trùng”. {“Đi đường” - Hồ Chí Minh).
3. Lời người xưa có ghi: “Có chí thì nên” hay “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
(Tục ngữ)
4. Nhà yêu nước Phan Bội Châu có nói: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả.
Anh hùng hào kiệt có hơn ai”. (Phan Bội Châu)
5. Nhà vàn Nguyễn Khải có nói: “ở đời này không có con đường cùng, chỉ có
những ranh giới, điều cốt yếu phải có sức mạnh đ ể bước qua những ranh giới
ấy”. (Nguyễn Khải)
6. Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký đôi bàn tay bị cụt nhưng vẫn rèn luyện, khổ luyện
và học tập trở thành người kĩ sư tâm hồn, nhà giáo ưu tú.

275
7. Nghệ sĩ Thế Vinh hai bàn tay không còn nhưng bằng sự tập luyện khổ luyện
cuối cùng anh đàn ghi ta rất hay, thổi Harmonica giỏi và tốt nghiệp đại học
kinh tế tại Thành phô" Hồ Chí Minh và mở trung tâm dạy nghề cho những
trẻ em bất hạnh.
8. Anh Nick-Vujicic mất cả hai cánh tay và đôi chân nhưng anh đã vượt lên số
phận nghiệt ngã của chính mình và trở thành nhà thuyết giảng hùng biện, có
sức thuyết phục cả toàn cầu.

HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý:
I. PHẦN m ở BÀI; (theo lôi gián tiếp)
- Sử dụng một lời nhận định hay ý kiến nào đó có liên quan đến nội dung
đề bài.
- Tiếp đến giới thiệu đề bài và viết câu chuyên ý.
II. PHẦN THÂN BÀI:
1. Trước tiên giải thích cụm từ "đường đi khó" là thê nào?
2. Tiếp đến giải thích "không khó vì ngăn sông cách núi" có ý nghĩa ra sao?
Và giải thích "mà chỉ khó ui lòng người ngại núi e sông" có ý nghĩa gì? (vận
dụng lí lẽ kết hợp dẫn chứng để làm sáng tỏ).
3. Liên hệ bản thân.
III. PHẦN KẾT BÀI:
- Khẳng định giá trị của đề bài.

B. PHẦN THựC HÀNH:


I. PHẦN MỞ BÀI
"Không có việc gi khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên".
(Hồ Chí Minh)
- Lời dặn dò của Hồ Chí Minh đôi với thanh niên Việt Nam nhằm đề cao ý
chí và nghị lực của con người sẽ quyết định sự thành công trên con đường đời. Ý
nghĩa ấy, chúng ta nghĩ về bài "Lời khuyên học trò" của học giả Nguyễn Bá Học
cũng mang nội dung như thế với lời nói: "Đường di khó, không khó vì ngăn sông
cách núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông". (Nguyễn Bá Học).
- Chúng ta cần giải thích ý kiến trên, đế thấy rõ con đường thành công cần
phải dựa vào yếu tô' gì? Từ ý kiến ấy, chúng ta có suy nghĩ gì về bản thân trước
cuộc sông hiện nay?

276
II. PHẢN THẨN BÀI
Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích "đường đi khó" có ý nghĩa như thê nào?
Hiểu về hai từ "đường đi" cho ta hình dung đây là con đường mưu sinh, con
đường lập nghiệp, còn đường đạt đến mục đích, hoài bão của bản thân cho tương
lai. ớ đây có thể là con đường học vấn, con đường xây dựng sự nghiệp hay con
đường để mưu cầu hạnh phúc...
Nghĩ về con đường đi để đạt được mục đích đem lại hiệu quả cho bản thân,
gia đình và xã hội không phải là con đường bằng phăng, trơn tru tiến bước mà
phải đi qua những đoạn đường khó khăn, gian khổ với bao hiểm nguy, trắc trở
từ bên ngoài. Lý Bạch (Trung Quôh) từng gọi đó là "Hành lộ nan", con đường
gian khổ đế tìm đến vinh quang. Quả thật: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng
cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai". Chính con đường gian khổ ấy thì phải có
"Gian nan rèn luyện mới thành công" mới khẳng định giá trị, thước đo nhân
cách con người.
2. Để hiểu rõ hơn ý kiến này, ta cần giải thích tiếp câu nói "Đường đi
khó k h ông khó vì n gă n sông cá ch núi, mà ch ỉ khó vi lòng người ngại
núi e sông" có ý nghĩa r a sao?
Nói đến "ngăn sông cách núi" là nói đến sự trở ngại, hiểm nguy trên con đường
mình đang đi do sự khắc nghiệt của thiên nhiên do yếu tô" khách quan. Nhưng
đây là yếu tô' phụ, nhất thời, tạm thời trong một thời điểm nào đó "mà chỉ khó
vì lòng người ngại núi e sông” mới là yếu tô' quan trọng, quyết định sự thành bại
của mỗi chúng ta, đó là yếu tô' con người, yếu tô' chủ quan xuất phát từ nội lực,
thực lực của mỗi con người. Đó là ý chí, sự quyết tâm bằng sức mạnh tinh thần,
sức mạnh nội lực để làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh thì mới vượt qua,
chinh phục trước mọi khó khăn, hiểm nguy như lời người xưa từng nói "có chí
thì nên" hay "có công mài sắt có ngày nên kim".
N hấn m ạnh: Nếu con đường đi gian nan hiểm nguy như thế, chúng ta không
có yếu tô' nội lực, không có ý chí, nghị lực thì không có sự quyết tâm, sẽ chùn
bước đưa đến thâ't bại, nản lòng. Ngược lại, dù con đường đi có khó khăn cách
trở nhưng với một người có ý chí, nghị lực, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để họ
tự tin, vượt qua mọi gian khó. Với họ "thất bại là mẹ thành công", thất bại
nhằm rút ra những kinh nghiệm, "thua keo này bày keo khác". Nếu không có ý
chí và nghị lực, "lòng người dễ ngại núi e sông" và khi thất bại dễ đâm ra chán
nản, buông xuôi phó mặc, tự ti, đánh mất chính mình. Chúng ta phải hiểu rằng:
"ở đời này không có đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu, phải có
sức mạnh đ ể bước qua những ranh giới ấy". (Nguyễn Khải)
Dẩn ch ứ n g : Hàng loạt những dẫn chứng từ văn học lẫn cuộc sống chúng ta
thấy rõ ý chí, nghị lực "không ngại núi e sông" là yếu tô' quan trọng quyết định sự

277
thành công. Ta quên sao được hình ảnh người chiến binh thời chông Pháp, dù
trong cuộc sông và chiến đấu với bao sự khắc nghiệt của thiên nhiên của chiến
trường, nhưng người lính vẫn đối đầu, làm chủ hoàn cảnh, làm chủ bản thân và họ
đã chinh phục thiên nhiên để tìm thấy "súng ngửi trời". Tiếp đến nhà giáo ưư tú
Nguyễn Ngọc Ký, hiện sốhg tại Thành phố Hồ Chí Minh dù đôi tay không còn
nguyên vẹn nhưng với sự khổ luyện, tôi luyện, ông đã trở thành người kĩ sư tâm
hồn, nhà giáo ưu tú, đại biểu của Thành phố Hồ Chí Minh. Nghệ sĩ Thế Vinh đói
bàn tay không còn nguyên vẹn, không cảm thấy mình là kẻ tàn phế, anh đã khổ
luyện bằng cả ý chí, nghị lực trở thành người nghệ sĩ vừa đánh đàn hay vừa thổi
Harmonica giỏi, tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế, và mở trung tâm dạy nghề
cho những trẻ em khuyết tật... Tất cả là những tấm gương sáng biểu tượng cho ý
chí và nghị lực để đạt đến thành công. Và một hình ảnh mới nhất, anh Nick-
Vujicic (người Úc) vừa sang Việt Nam. Anh không có đôi cánh tay và cả đôi chân
nhưng với "nghị lực sống", "sống không giới hạn". Anh đã trở thành nhà diễn
thuyết tài ba đầy sức thuyết phục cả thế giới về tấm gương nghị lực sống của anh.
3. L iên hệ b ả n th ân : Bản thân em hiện nay, là một học sinh, chuẩn bị bước
vào ngưỡng cửa đại học. Con đường em đang đi là con đường học vân, phải kinh
qua nhiều khó khăn vì kiến thức là vô hạn mà mỗi chúng ta là sự hữu hạn.
Chúng ta phải ra sức phấn đâu học tập, học ở nhà trường, giảng đường chưa đủ,
còn phải học ở bạn bè và học cả những kinh nghiệm sống ở bên ngoài vì "đì một
ngày đàng học một sàng khôn". Chúng ta không bằng lòng những gì mà mình
đang có, mà phải "học, học nữa, học mãi" phải biến kiến thức ở nhà trường,
giảng đường thành những "tri thức sông" để khi bước vào đời sẽ ứng dụng vào
cuộc sông, không chủ quan, kiêu ngạo, bằng lòng, không tự ti, mà phải luôn luôn
tự tin học hỏi những tinh hoa của nhân loại, nền khoa học kĩ thuật hiện đại của
thế giới, phải biết cập nhật hóa những thông tin để tránh sự tụt hậu. Thực hiện
được những điều ấy là chúng ta đã thực sự làm chủ bản thân, vượt lên hoàn
cảnh khó khăn để đạt đến mục đích cho sự thành công. Nếu gặp thất bại, phải
bình tĩnh, nhìn lại con đường mình đã đi, công việc mình đã làm để rút tỉa kinh
nghiệm cho bản thân và khi bước vào con đường mới, băng niềm tin yêu ở phía
trước với tất cả ý chí, nghị lực của bản thân thì sự thành công sẽ mỉm cười với
chính mình đó là thành quả xứng đáng là thước đo giá trị nhân cách con người.

III. PHẦN K Ế T BÀI


Ý kiến của học giả Nguyễn Bá Học "Đường đi khó... ngại núi e sông" là lời nói
quý báu cho mọi người, mọi thời đại vì ý chí và nghị lực là sức mạnh tinh thần,
là sức mạnh nội lực mà ai ai cũng cần phải có, đó là yếu tô" quan trọng quyết
định sự thành công trên con đường đời của chúng ta. Phải chăng; "Hạnh phúc
hiện hình trong hi sinh và gian khổ".

278
Đề tuyển sinh: Anh (chị) giải thích ý kiến sau đây:
“Ẵn đ ể n u ô i người. H ọ c đ ể n u ô i đ ờ i”.

ịgĩrững kiến thức cầ n nắm :


1. Người xưa có nói: “Ấn đ ể sống không phải sống để ăn". (Lời nhận định)
2. Lời cồ nhân có nói: “Đì một ngày đàng học một sàn khôn”. (Lời người xưa)
3. Thành ngữ Việt Nam có nói: “Liệu cơm gắp mắm”. (Tục ngữ)
4. Lênin có nói: “Học, học nữa, học mãi”. (Lê nin)
5. Lời người xưa có nói: “Miếng ăn là miếng tồi tàn. Mất đi một miếng lộn gan
lên đầu”. (Lời người xưa)
6. Tục ngữ có nói: “Ăn xem nồi, ngồi xem hướng”. (Tục ngữ)
7. Có ý kiến rằng: “Làm người phải như con ong luôn luôn đem hương thơm mật
ngọt đến cho đời”. (Lời nhận định)

HƯỚNG DẪN
I. PHẨN MỞ BÀI
Con người từ xưa đến nay, để tồn tại, khẳng định chỗ đứng của mình trước
cuộc sông, vâh đề cơ bản là cần phải ăn, cần phải học. Đúng như ý kiến: "Ăn đê
nuôi người, học đ ể nuôi đời". Chúng ta cần giải thích ý kiến trên để làm sáng tỏ
ý nghĩa, giá trị của đề bài.

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần phải hiểu rõ hai từ "Ăn v à học" có ý nghĩa gì?
Với từ "Ăn" là hình ảnh bắt gặp mỗi ngày trong đời sống. Ăn, ta nghĩ đến nhu
cầu vật chất, ở đây là cơm, thịt, cá, rau, hoa quả, v.v... đưa từ miệng vào để nuôi cơ
thể, tạo nên mạch sống, hơi thở giúp con người tồn tại đúng như lời nói "Ăn để
sống". Và nghĩ về chữ "học" ta nghĩ đến nhu cầu tinh thần, giúp con người tìm kiếm
kiến thức, phát huy trí tuệ từ nhà trường, giảng đường hay đời sống bên ngoài.
2. Vậy "Ăn d ế n u ô i n g ư ời v à h ọ c đ ể n u ô i đời" có ý nghĩa như thê nào?
Nói đến "ăn d ể nuôi người" trước tiên ta cần hiểu rõ ăn cái gì? Và ăn như thê
nào? Ăn cái gì phù hợp cho từng hoàn cảnh gia đình, bản thân và hợp khẩu vị.
Nếu kinh tế gia đình khá giả ta chọn món ăn ngon và bổ để phát huy cơ thể, trí
tuệ. Nếu gia đình thuộc kinh tê trung bình, chúng ta chọn món ăn gì hợp với túi
tiền, hợp với khẩu vị, vì không phải "sống để mà ân" thỏa mãn nhu cầu bản
thân. Ta tránh việc ham ăn, ăn uôhg bừa bãi sẽ bội thực, trúng thực gây hậu quả
xâu. Việc ăn cũng phải có nghệ thuật, nét đẹp văn hóa. Ăn, phải từ tôh, thanh
thản, phải nhai thật kĩ đê dễ tiêu hóa, đem lại một cơ thế khỏe mạnh, không ăn
279
vội vàng mất đi nét đẹp trong đời sống ẩm thực. Thực hiện từng bước như thế,
sẽ tạo cho mình một cơ thể tráng kiện, một tinh thần minh mẫn. Vậy "Học để
nuôi dời” có ý nghĩa gì? Trước tiên ta cần phải học cái Và học như thế nào
để nuôi đời? Nói đến việc học, con đường học vấn là một kiến thức vô tận, đa
dạng, phong phú, mỗi người chúng ta có một quyết định đúng đắn để chọn cho
mình một ngành nghề nào phù hợp với năng lực, thị hiếu, năng khiếu cùng sự
đam mê thì việc học, mới đem đến hiệu quả để ứng dụng vào cuộc sông sau khi
rời ghế nhà trường, giảng đường. Phải xác định năng lực, sở trường, sở đoản của
mình thuộc về lãnh vực "khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội", ngành nào phù
hợp về năng lực, năng khiếu thì mới quyết định. Điển hình việc tư vâ'n mùa thi
mỗi năm do Báo Thanh Niên tổ chức là một bằng chứng cụ thể, hướng người học
sinh chuẩn bị bước vào con đường Đại học, họ phải chọn cho mình, học ngành
học gì phù hợp từ đó mới phát huy năng lực, óc sáng tạo và khi ứng dụng vào
cuộc sông sẽ có hiệu quả đem lại giá trị cho bản thân, gia đình, xã hội để cuộc
sông có ý nghĩa đó là "Học đ ể nuôi đời".
3. Bên cạnh dó chúng ta phải nắm rõ học như thê nào dể có k ết quả
cao nhất?
Không thế học theo lôi từ chương, chạy theo bằng cấp, thành tích, học vì sĩ
diện thì việc học sẽ tạo nên những kiến thức chết, những trí thức chết, kĩ năng
chết. Và khi bước vào đời sẽ hụt hẫng kiến thức, không áp dụng vào cuộc sôhg
thực tế, không mang lại hiệu quả, chứng tỏ việc học trở thành vô nghĩa.
Mở rộng: Hiện nay, đất nước bước vào công cuộc đổi mới, ứng dụng vào nền kinh
tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải mang tính cạnh tranh cao đế’
khẳng định chỗ đứng của mình thì chúng ta cần phải học, nghiên cứu thật nhiều.
Nói như Lênin: "Học, học nữa, học mãi " học thầy chưa đủ còn phải học ở bạn bè,
học từ cuộc sống mà lời người xưa có nói: "Đi một ngày đàng học một sàn khôn" hay
"học thầy không tày học bạn". Thực hiện được như thế, chúng ta mới tự tin khẳng
định chỗ đứng của mình trong xã hội. Quả thật, kiến thức thì vô tận mà suy nghĩ
của mỗi chúng ta là hữu hạn, không thể tự thỏa mãn bằng lòng ở chính mình để rồi
tự cao, tự đại mà phải biết cầu tiến, cầu thị, phải học hỏi, đón nhận những kiến thức
mới, những tinh hoa của nhân loại, của nền khoa học hiện đại, từng bước củng cố
kiến thức cho bản thân đó là những yếu tố cơ bản nhàm thực hiện phương châm
"Học để nuôi đời". Cần lưu ý, đây là tiếng nói của tuổi trẻ chuẩn bị bước vào đời,
làm sao, việc học ở nhà trường, giảng đường phải có một định hướng đúng đắn, một
chiến lược lâu dài, tránh đặt nặng về kiến thức, nhồi nhét kiến thức mà cần phát
huy sự sáng tạo cho bản thân, phải thực hành, thực tập cho thật nhiều, chọn nơi
thực tập tốt, học hỏi kinh nghiệm, từng bước tạo cho mỗi chúng ta có một kiến thức
vững vàng, một năng lực nhất định, một kĩ năng sống tốt, khẳng định chỗ đứng
trước cuộc sống, làm sao "như những con ong biết đem hương thơm mật ngọt đến
cho đời là học đ ể nuôi đời".

280
III. P H Ả N K Ẽ T B À I
Đề bài trên: "Ăn để nuôi người, học đ ể nuôi đời" là bài học vô cùng quý báu
cho mọi người, mọi thời đại. Đề bài như một chân lí sông mà mỗi chúng ta cần
phải nắm rõ, ăn cái gì để nuôi người, và học cái gì để nuôi đời, để phát huy năng
lực tô't nhất nhằm ứng dụng vào cuộc sông, tự tin trước cuộc sông để đem lại
hiệu quả nhất định cho bản thân, gia đình và xã hội, để cuộc sông có ý nghĩa.

Để tuyển sinh: Đứng trước nhiều ngả đường, nhiều định hướng. Để
chọn m ột hướng đi đúng dắn cho tương lai, bạn dựa vào yếu tôí^
nội lực hay yếu tố ngoại lực? Hây viết m ột bài văn ngắn, nêu lên
suy nghĩ củ a bạn về câu hỏi trên .

ÌSỈửng kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng: “Không ai có thể chọn cho mình một hướng đi đúng đắn cho
tương lai, bằng chính bản thân mình”. (Lời nhận định)
2. Có ý kiến rằng; “Phải có tính tự chủ mới đem lại quyết định đúng đắn thành
công cho chinh mình”. (Lời nhận định)
3. Khiếm khuyết lớn nhất của một đời người là “kém hiểu biết”.
4. Lời người xưa có nói: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
5. Có ý kiến: “Biết mình chưa đủ mà phải biết lắng nghe ỷ kiến của người khác
mới dem lại sự thành công”. (Lời nhận định)
6. Tôn Tử có nói: “Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng”. (Tôn Tử)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI:
Đứng trước nhiều ngả đường, nhiều hướng đi giữa cuộc đời. Để chọn cho mình
một hướng đi đúng đắn, một ngành nghề thích hợp cho bản thân trong tương lai,
đem lại sự thành công tốt đẹp, một sự nghiệp vững vàng. Ta phải biết kết hợp hai
yếu tố nội lực và ngoại lực. Với bài viết này sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa, giá trị của đề
bài trên.

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Đứng trước nhiều ngả đường, nhiều định hướng. Để chọn cho mình
một hướng đi đúng đắn cho tương lai, phải dựa vào yêu tô "nội lực" hay
"ngoại lực"?
Đối diện trước cuộc sông và trong môl quan hệ của xã hội có nhiều hướng đi,
nhiều ngả đường, ớ đây là những ngành nghề nhằm đem lại sự phát triển, cho

281
xã hội như ngành sư phạm, ngành luật, ngành y, bách khoa, kĩ thuật, kinh tế...
hay nghề thợ tiện, điêu khắc, hội họa... mỗi chúng ta cần phải hiểu rõ về năng
lực, năng khiếu, thị hiếu và lòng đam mê của chính mình để chọn cho mình một
hướng đi đúng đắn trong tương lai, nhằm phát huy năng lực, tính sáng tạo để
ứng dụng có hiệu quả trong công việc, đem lại giá trị cho bản thân, gia đình và
xã hội. Chúng ta phải biết kết hợp hai yếu tô" "nội lực" và "ngoại lực".
Vậy, yếu tố nội lực là g ì? Yếu tô" nội lực là yếu tô" bên trong, còn gọi là yếu
tô" tự thân của mỗi người ở đây là thực lực, năng lực, trí tuệ, năng khiếu, tính tự
chủ, sự quyết đoán, để có quyết định đúng đắn cho hướng đi trong tương lai.
Yêu tố ngoại lực là g ì? Yếu tô" ngoại lực là yếu tô" bên ngoài, yếu tô khách
quan, từ quan hệ của gia đình, xã hội mà chúng ta cần phải nắm bắt, tham
khảo, cầu thị để có một quyết định, một sự lựa chọn đúng đắn cho hướng đi
trong tương lai.
2. Như vậy yếu tô nội lực và yếu tô ngoại lực, yếu tô" nào quan trọng
quyết định cho hướng đi đúng đắn của mình trong tương lai?
Đứng trước nhiều ngả đường nhiều hướng đi, đế chọn cho mình một hướng đi
đúng đắn phù hợp với năng lực, năng khiếu nhằm đem lại những thành quả tôt
đẹp, sự nghiệp trong tương lai, mỗi chúng ta phải dựa vào hai yếu tô" "nội lực và
ngoại lực". Nhưng yếu tô' nội lực là yếu tô' quyết định cho sự chọn lựa của mình
vì sự chọn lựa nào cũng dựa vào năng lực, năng khiếu, lòng dam mê của mỗi
chúng ta đôi với ngành học hay một nghề nào đó. Nó phải tùy thuộc vào năng
lực và trí tuệ của mỗi chúng ta, đồng thời phải thế hiện tính tự chủ, sự quyết
đoán đúng đắn và hợp lí dựa vào chính bản thân. Bên cạnh đó, cần phải có yếu
tô' ngoại lực, nhằm tham khảo, bố sung cho sự lựa chọn, quyết định hướng đi của
mình vì yếu tô" nội lực dễ dẫn đến tính chủ quan, sự tự tin thái quá, tính cô"
chấp, kiêu ngạo dễ đem lại thất bại cho việc chọn lựa sau này. Như vậy, mỗi
chúng ta phải biết lắng nghe, cầu thị, tiếp thị đón nhận từ yếu tô" bên ngoài, ơ
đây là gia đình như ý kiến của ông bà, cha mẹ, anh em là những người đi trước,
họ có những kinh nghiệm cùng sự kết hợp môi quan hệ của xã hội kể cả những ý
kiến đóng góp của bạn bè, thầy cô, những chuyên gia tư vấn sẽ là những ý kiến
tô't, góp phần đem lại sự quyết định, lựa chọn hướng đi đúng đắn cho bản thân
chúng ta. Chúng ta nên nhớ rằng; "khiếm khuyết lớn nhất của một đời người là
kém hiểu biết", biết mình chưa đủ mà phải học hỏi, lắng nghe ý kiến người
khác, như vậy đế có hướng đi đúng đắn, chọn được ngành nghề thích hợp trong
tương lai, cho sự nghiệp hạnh phúc sau này, mỗi chúng ta phải dựa vào hai yếu
tô' cơ bản nội lực và ngoại lực, thực lực và tha lực, chủ quan và khách quan
nhưng quyết định quan trọng trong hướng đi của chính bản thân vẫn là yếu tô"
nội lực vì "không ai quyết định đúng đán cho tương lai của mình bằng chính
bản thân mình".

282
III. P H Ả N K Ẽ T B À I
Qua phần giải thích trên, chúng ta có một cái nhìn đúng đắn cho việc lựa
chọn hướng đi, hay nói rõ hơn là ngành nghề phải phù hợp với năng lực, năng
khiếu, đó là việc lựa chọn hướng đi đúng đắn cho tương lai và phải dựa vào hai
yếu tô" nội lực và ngoại lực (chủ quan và khách quan). Câu hỏi này áp dụng cho
mọi người, mọi thời đại, giúp cho mỗi chúng ta, phải nhìn rõ bản thân mình,
nhìn rõ về năng lực, thực lực, thị hiếu, năng khiếu của mình để có một quyết
định đúng đắn cho hướng đi trong tương lai nhằm đem lại sự thành công, mang
lại giá trị cho bản thân cho cộng đồng và xã hội để cuộc sông có ý nghĩa.

Đế tuyển sinh: Anh (chị) hãy giải thích lời hỏi sau dây: “T ạ i s a o con
n g ư ời c ầ n p h ả i số n g k h iê m tốn ? ”

ÌSỈữnsf kiến thức cần nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”. Ý nói: đừng vỗ ngực
xưng tên ta giỏi mà còn có kẻ giỏi hơn ta để trị ta. (Lời người xưa)
2. Lời người xưa có nói: “Biết mình, biết người trăm trận trăm thắng.” (Tôn Tử).
3. Lê-Nin có nói: “Học, học nữa, học mãi.” (Lê nin)
4. Lời người xưa có nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.” (Lời người xưa)
5. Có ý kiến rằng: “Sống khiêm tốn luôn luôn đón nhận sự thân thiện quý mến
của mọi người. (Lời nhận định)
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.”
(Lời cổ nhân)
Quả thật, ai ai cũng nghĩ rằng, cuộc đời là một trường tranh đâu không ngừng,
là một chân trời kiến thức rộng mở mà con người chỉ là sự hữu hạn nhỏ bé giữa
cuộc đời và vũ trụ này. Vì thế, chúng ta cần phải sông khiêm tô"n, học hỏi kinh
nghiệm người đi trước đế mang lại những hiệu quả nhất định đúng như đề bài
đã nêu: “Tại sao con người cần phải sống khiêm tốn?". Chúng ta, lần lượt giải
thích ý kiến trên đế’ làm sáng tỏ ý nghĩa và khẳng định giá trị của đề bài.

II. PHẦN THÂN BÀI:


Những bước cần thực hiện:
1. Cần giải thích từ ngữ “khiêm tô"n” là th ế nào?; Nói đến khiêm tôn, ta
lại nghĩ ngay đến sự hoà nhã, từ tô"n là một đức tính tô"t, phẩm chất đẹp của con
người. Nói đến khiêm tôn là không tự kiêu, tự đại, không đề cao cái tôi của
mình dù “chiến thắng vẫn không kiêu, thất bại vẫn không nản.”

283
2. Luận điểm 1: Tại sao con người cần phải sô”ng khiêm tô"n?: Ta không
thể phủ nhận cuộc đời này là một trường đời, con người cần phải tranh đấu không
ngừng đê tồn tại, hiện hữu. Xã hội hiện nay, với nền kinh tế thị trường, luôn luôn
mang tính cạnh tranh cao, quyết liệt dù tài nghệ của cá nhân có xuất sắc đến đâu
nhưng cũng chỉ là một cá thể, một giọt nước bé nhỏ giữa lòng đại dương, một hạt
cát giữa sa mạc vì sự hiểu biết của một cá nhân dù cao rộng đến đâu cũng là sự
giới hạn đúng như lời người xưa từng nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị.”. Ý nói
đừng vỗ ngực xưng tên, mình là người tài giỏi hơn thiên hạ mà trong cuộc đời này
vẫn có người tài giỏi hơn ta, thì sự hiểu biết, tài giỏi của ta, chỉ mang tính cá
nhân, hạn hẹp nhỏ bé giữa biển lớn của cuộc đời. Chỉ có chân trời kiến thức của
con người, của nhân loại mới vô cùng, vô tận vì thế ta không thể bằng lòng với
chính mình mà phải biết cầu tiến, học hỏi, “Học, học nữa, học mãi.” Và càng đi
càng khám phá cái mới cái hay như lời cố nhân có nói; “Đi một ngày đàng, học
một sàng khôn”. Vì thế chúng ta cần phải sống khiêm tôh.
3. Luận điểm 2: Vậy sống khiêm tốn là sống như th ế nào?: Dù ở vỊ trí nào
trong xã hội như tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư, bác sĩ, kĩ sư, văn sĩ, hoạ sĩ... Mỗi cá nhân
phải xác định mình là một công dân của Đất nước, thì phải luôn luôn tôn trọng
pháp luật và thực thi pháp luật, không thế’ nghĩ rằng mình là một tài nàng của đất
nước, một ngôi sao trong một lãnh vực nào đó như ngôi sao bóng đá, ngôi sao âm
nhạc, ngôi sao điện ảnh mà tự kiêu, tự đại, tự vỗ ngực xưng tên, muốn làm ông
trời con tung hoành ngang dọc mà ngược lại, chúng ta phải biết sống khiêm tốn,
biết kính trên nhường dưới, biết tôn trọng mọi người, phải biết cầu thị, tránh sự
khinh thị. Con người càng sống khiêm tốn, chứng tỏ mình là người biết ứng xử, là
người có văn hoá được mọi người quý mến yêu thương. Vì “sống khiêm tốn luôn luôn
dán nhận sự thân thiện, quỷ mến của mọi ngiiời”. Nếu càng học cao, hiếu rộng thì
càng sống khiêm tốn đó là con người văn minh, con người có văn hóa. Càng sống
khiêm tốn càng chứng tỏ mình là người không khinh địch, không xem thường đối
phương, luôn luôn tỉnh táo đế thấy rõ kẻ hở của địch mà khai thác, chinh phục
mang lại chiến thắng vì: “Biết mình, biết 'người trăm trận trăm thắng.”

III. PHẦN K ẾT BÀI


Câu hỏi: “Tại sao con người cần phải sống khiêm tốn?” như một bài học vô
cùng quý báu cho mọi người, mọi thời đại. Chính lời hỏi này là lời ràn dạy, nhắc
nhở mọi người luôn luôn ý thức rằng, mỗi cá nhân chỉ là hạt cát trong sa mạc,
giọt nước giữa lòng đại dương, giữa biển lớn của cuộc đời của nhân loại. Mỗi
chúng ta cần phải biết sông khiêm tôh vì khiêm tốn là một một phẩm chất đạo
đức, một đức tính tô't của con người. Thực hiện được điều ấy không chỉ một lúc,
một thời mà cả một cuộc đời đế được thăng hoa, chắp cánh, cuộc sôhg có ý
nghĩa. Đúng như lời ngạn ngữ phương Tây có nói: “Con ơi! lúc con sinh ra đời
mọi người đều cười nhưng riêng con thì khóc. Nhưng con phải sống như thê nào
để khi nằm xuống, mọi người đều khóc nhưng riêng con thì mỉm cười.”

284
Để tuyển sinh: Anh (chị) giải thích lời nhận định sau đây: “T ìn h
th ư ơ n g là h ạ n h p h ú c c ủ a co n n g ư ờ i.”

ỊSĨững kiến thức cần nắm:


1. Có ý kiến: ''Cuộc dời này không có gi đẹp hơn hằng tinh yêu thương giữa con
người và con người”. (Lời nhận định)
2. Có ý kiến: “Tình thiửyng là thước do giá trị nhân cách con ngiứn”. (Lời nhận định)
3. Có lời nhận định rằng: “Tình thương là một ý niệm trừu tượng, là nguyên tác
sống cao nhất của con người, là một lể sống dẹp”. (Lời nhận định)
4. Quan niệm về tình yêu thương, lời người xưa có nói:
“Thiiơng nguời như thể thương thân”] “Lá lành đùm lá rách.”] “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng.” ; “Bầu ơi thương
lấy bí cùng. Tuy rằng khác giông nhưng chung một giàn.” (Lời người xưa)
5. Những tấm gương sáng, sông vì cộng đồng;
- Người thanh niên Nguyễn Hữu Ân với chiếc bánh thời gian của mình, anh
đã dành hết thời gian cho bệnh nhân ung bướu tại Thành phô" Hồ Chí Minh.
- Nghệ sĩ Thế Vinh dù hai tay đều cụt nhưng anh đã có một lẽ sông đẹp, anh
mở trung tâm dạy nghề cho những trẻ em khuyết tật.
6. Có ý kiến rằng: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau khổ của kẻ khác, chi là một
thứ quái vật.” (Lời nhận định)
7. Nhà tỉ phú Hàn Quốc Kim Woo Choong có nói: “Khi bạn sống vì mọi người thi
thế giới sẽ trở nên tươi sáng, ấm áp và hạnh phúc hơn. Cuộc đời khi đó, trở
nên đáng sống và tươi đẹp hơn” (Kim Woo Choong).
8. Nhà tỉ phú Hàn Quô"c Kim Woo Choong có nhận định: “Bất cứ thanh niên nào
dửng dưng với người khác và chi nghĩ đến sự thoải mái, sung sướng cho riêng
mình đều rất đáng khinh”. (Tỉ phú Hàn Quôc Kim Woo Choong).
9. Tô Hữu có viết: “Lẽ nào vay mà không trả. sống là cho đâu chỉ nhận riêng
mình”. (Tô Hữu).

HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI:
- Vận dụng một lời thơ hay một nhận định có nội dung phù hợp với đề bài
đã cho.
- Sau đó giới thiệu đề bài và viết câu chuyến ý.
II. PHẦN THÂN BÀI:
1. Trước tiên giải thích từ ngữ “tình thương là gì? và hạnh phúc là gi?”.

285
2. Tiếp đến dựa vào đề bài để đưa ra những luận điểm cần giải thích.
Luận điểm 1: Tại sao tình thương đem lại hạnh phúc cho con người?
Luận điểm 2: Tình thương cá nhân (vị kỉ) có mang lại hạnh phúc cho con
người hay không? (kết hợp lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ đề bài)
Liên hệ thực tế hiện nay như: mái ấm tình thương, ngôi nhà mơ ước, lớp học
tình thương, chiến dịch mùa hè xanh...

III. PHẦN KẾT BÀI


- Khẳng định giá trị đề bài là một chân lí, một triết lí sông đẹp.
- Rút ra bài học cho bản thân, phát huy lòng nhân ái.

B. PHẦN THựC HÀNH


I. PHẦN MỞ BÀI:
Có ý kiến rằng: “Cuộc đời này không có gì đẹp hơn bằng tình yêu thương giữa
con người và con người". Ý kiến ấy, toát lên một ý nghĩa sống đẹp nhằm ca ngợi về
tình thương, lòng nhân ái. Chính tình yêu thương sẽ mang lại cho con người, gia
đình, cộng đồng niềm ấm áp, hạnh phúc tươi đẹp, thăng hoa làm cho cuộc sống có ý
nghĩa. Đúng như lời nhận định: “Tình thương là hạnh phúc của con người.”

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần phải tìm hiểu tình thưctng là gì?: Tình thương là một
khái niệm trừu tượng, nó mang ý nghĩa thật cao đẹp, sáng ngời cả tâm hồn, làm
cho đời sông nội tâm phong phú. Tình thương là thể hiện sự gắn bó giữa con
người và con người, giữa con người và cộng đồng, quê hương, đất nước. Tình
thương làm nên vẻ đẹp, thăng hoa cho cuộc sông.
Sau đó cần tìm hiểu hạnh p h ú c là gì?: Hạnh phúc là sự sung sướng, toại
nguyện và hạnh phúc chỉ tìm thấy trong tình yêu thương được thể hiện qua hành
động giữa kẻ cho và người nhận, bằng tấm lòng, không đắn đo, không vụ lợi, mưư
cầu, tính toán.
2. Dựa vào đề bài để bàn luận mở rộng đưa r a luận điểm giải thích:
a. L u ậ n điểm 1: Tình th ư ơ n g đem lại h ạ n h p h ú c cho con n gư ờ i có ý
n g h ĩa n h ư t h ế nào?: Tình thương là phẩm chất cao quý, thiêng liêng của mỗi
con người mà lời người xưa từng nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Con người
khi sinh ra đều mang tính thiện, có lòng yêu thương trong máu thịt mỗi con
người. Khi tình yêu thương thể hiện, ta phải biết bảo vệ, giữ ^ n phát huy để
sống tốt hơn, đẹp và hoàn thiện hơn. Lúc ấy ta cảm nhận hạnh phúc đã đến
với chính mình. Ngược lại nếu cuộc sông của mỗi con người không biết yêu
thương, không biết làm cho “cái tôi” hoàn thiện, họ có thể hành động những

286
điều ác, phi đạo đức nhằm thoả mãn lòng ích kỉ, sự đô" kị chính là lúc tâm hồn
và nhân cách bị hủy hoại. Lúc ấy ta chỉ là một thứ quái vật vì ta đã quay lưng
trước nỗi đau của kẻ khác.
6. L u ậ n đ iể m 2: T in h thư ơ n g c á n h ă n c ó đ e m lạ i h ạ n h p h ú c c h o con
n gư ời h a y k h ô n g ? : Nhắc đến tình thương cho riêng bản thân là tình thương vị
kỉ là hạnh phúc cá nhân là thứ hạnh phúc tầm thường chỉ biết: “Hạnh phúc
đựng trong một tà áo đẹp, một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” thì chưa
phải là lẻ sông đẹp là hạnh phúc thật sự. Để có hạnh phúc thật sự, phải biết
hoà nhập, phải “làm sao được tan ra”, mở rộng tấm lòng mình gắn kết với mọi
người, cộng đồng, quê hương ăất nước. Phải biết: “Thương người như thể thương
thân”-, “lá lành đùm lá rách”-, “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một
nước phải thương nhau cùng” hay “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
giông nhau nhưng chung một giàn.” Và khi tổ quô"c cần, chúng ta phải biết hi
sinh. Sông và thực hiện được như thê là sống có tình thương là sông đẹp.
N h ấ n m ạ n h : Tình thương phải được thể hiện bằng hành động, bằng tất cả
tấm lòng và trái tim mà không thể nói suông bằng lời nói hoa mỹ như một thứ
giáo điều để mị kẻ khác, gieo vào lòng kẻ khác một niềm tin ảo, đó là thứ tình
thương hoang tưởng, tình thương dôl trá, ngụy tạo.
D ẩn ch ứ n g :
- Về gia đình: Mỗi người là một thành viên trong gia đình từ ông bà, cha mẹ, anh
chị em như một sợi dây liên kết trong tình ruột thịt máu mủ thì phải biết yêu thương,
giúp đỡ lẫn nhau, đem lại sự ổn định cho cuộc sống gia đình là niềm hạnh phúc của
mỗi người.
- Về cộng đồng-. Cộng đồng xã hội là một tế bào của đất nước, đất nước là
máu xương của mỗi người, ai ai cũng phải có tình yêu thương cộng đồng “lá lành
đùm lá rách” hay lúc thiên tai dịch bệnh chính là lúc tình thương cần được phát
huy để con người gần người hơn. Tiêu biểu là người thanh niên của Thành phô'
Hồ Chí Minh Nguyễn Hữu Ân, anh đã chia chiếc bánh thời gian của mình thật
hợp lí nhằm phục vụ những bệnh nhân ung bướu tại Thành phô' Hồ Chí Minh,
anh đã đến với họ bằng tâm lòng tự nguyện để cùng chia sẻ nỗi đau của họ là
hạnh phúc của chính anh cũng là hạnh phúc của những người bệnh. Chiến dịch
mùa hè xanh của học sinh sinh viên, thành phô', họ tự nguyện đến những vùng
sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn tăm tô'i để cùng chia sẽ với cộng đồng, họ đã
thắp lên ánh sáng của tình thương, làm môi trường tươi đẹp bằng những hành
động thiết thực như đắp sửa lại những con đường, sửa lại những chiếc cầu, đem
ánh sáng cho những em nhỏ không có điều kiện đến trường. Tất cả đều xuất
phát từ tình thương bằng hành động cụ thể là ươm mầm cho hạnh phúc con
người. Ngược lại: “Những kẻ nào dửng dưng với người khác và chỉ nghĩ đến sự
thoải mái sưng sướng cho riêng mình đều rất đáng khinh”. (Tỉ phú Hàn Quô'c
Kim Woo Choong)

287
- về thực tế hiện nay: Đế’ làm sáng tỏ ý nghĩa tình thương bằng những hành
động thiết thực của xã hội hiện nay, chúng ta tìm thấy những mái ấm tình
thương được thiết lập giúp cho những người già yếu, cô đơn, không nơi nương
tựa. Các lớp học tình thương giúp những em nhỏ mồ côi, thất học, lang thang
tìm thây ánh sáng văn hoá và chương trình “ngôi nhà mơ ước", “Vượt lên chính
mình” nhằm giúp đỡ những gia đình còn nhiều khó khàn là hành động cụ thể,
thiết thực của những nhà hảo tâm, mạnh thường quân của các doanh nghiệp,
công ty cùng chia sẻ trước bao khó khăn của xã hội là những hành động đẹp,
đem lại ý nghĩa cho cuộc sông là nguồn hạnh phúc cho mọi người cho cáy đời
mãi xanh tươi là thực hiện lẽ sông đẹp “sống là cho đâu chi nhận riêng mình”.

III. PHẦN KẾT BÀI


Lời nhận định trên là bài học quý báu cho chúng ta trước cuộc sông, giúp cho
đời sống nội tâm thêm phong phú, cuộc sông có ý nghĩa, nhằm xây dựng một xã
hội tôt đẹp. Lời nhận định trên: “Tình thương là hạnh phúc của con người” như
một chân lí, một triết lí sông cho mọi người, mọi thời đại. Đúng như lời nhận
định của nhà tỉ phú Hàn Quô'c Kim Woo Choong: “Khi bạn sống uì mọi người thì
thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn, ấm áp và hạnh phúc hơn. Cuộc đời khi đó trở
nên đáng sống ưà tươi đẹp hơn”. (Kim Woo Choong).

Đế tuyển sinh: “P hê p h á n thái độ thờ ơ g h ẻ lạnh đối với con người


củ n g quan trọ n g và cần thiết n h ư ca ngợi lòng vị tha, tinh đoàn
k ết”. (Anhy ch ị) suy nghĩ th ê nào về ý k iến trê n ?

ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có lời rằng: “hàng xóm cháy nhà, vẫn bình chân như vại”. (Lời nhận định)
2. Tục ngữ có câu: “Đèn nhà ai nấy sáng". (Tục ngữ)
3. Có ý kiến rằng: “Cuộc đời này không có gi đẹp hơn bằng tỉnh yêu thương giữa
con người và con người”. (Lời nhận định)
4. Triết gia Marx có nhận định: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau khổ của kẻ
khác như là một thư qiưii vật”. (Marx).
5. Có ý kiến rằng; “Kẻ mạnh phải biết nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”.
(Nam Cao)
6. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, là thước đo giá
trị con người”.
7. Lời người xưa có nói: “Lá lành đùm lá rách” và “Thương người như thể
thương thân"
8. Có ý kiến rằng: “Kẻ nào dửng dưng trước nỗi đau của ngiứn khác và chí nghĩ đến
sự thỏa mẫn, sung sướìig cho riêng mình đều rất đáng khinh". (Lời nhận định)

288
9. Tô Hũu có viết: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hũu).
10. Ca dao có nói: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương
nhau cùng” (Ca dao).

HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI
- Giới thiệu một ý kiến hay một lời nhận định có liên quan ý nghĩa của đề bài
đã cho.
- Giới thiệu đề bềii và viết câu chuyển ý (nếu cần).
11. PHẦN THÂN BÀI:
Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích những từ ngữ khó của đề bài như “thờ ơ, ghẻ lạnh,
lòng vị tha, tình đoàn kết” có ý nghĩa như thế nào?
2. Tiếp đến dựa vào đề bài, đưa ra những luận điểm để giải thích.
Luận điểm 1: Tại sao ca ngợi lòng vỊ tha và tình đoàn kết là quan trọng, là
cần thiết?
Luận điểm 2: Tại sao phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đôl với con người
cũng quan trọng và cần thiết?
- Sau đó đánh giá chung hai luận điểm đã giải thích.
III. PHẦN KẾT BÀI
- Khẳng định giá trị của đề bài.
- Rút ra bài học cho bản thân.

B. PHẦN THựC HÀNH


“Thương người như thể thương thân”
(Tục ngữ)
I. PHẦN MỞ BÀI
Đế xây dựng con người mới, nếp sống văn hóa mới, hình thành một xã hội tốt
đẹp, mỗi người phải biết yêu thương đùm bọc, thể hiện tình đoàn kết, tránh lôl
sông thờ ơ, lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của người khác. Vì thế có ý kiến
rằng: “Phê phán thái độ thờ ơ ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và
cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết”. Chúng ta, cần giải thích ý kiến
trên đế làm sáng tỏ.
II. PHẦN THÂN BÀI
Những bước cần thực hiện:

289
1. T rư ớc tiê n p h ải làm sán g tỏ nhữ ng từ ngữ “th ờ ơ, gh ẻ lạn h , lòng vỊ
th a, tìn h đ o àn k ế t” là th ế n ào?: Nhắc đến hai tiếng “thờ ớ” là biểu hiện sự
lạnh nhạt, không quan tâm đến người khác, không hề có một chút tình cảm nào
về người khác. Nói đến “ghẻ lạnh” là biểu hiện sự lạnh lùng, vô cảm quay lưng
trước nỗi đau kẻ khác. Và nghĩ đến hai từ “vỊ tha” là thể hiện lòng yêu thương
chăm lo đến lợi ích của người khác, có thể hi sinh lợi ích cá nhân vì kẻ khác và
“tình đoàn kết" là kết thành một khôi thông nhất như một sợi dây liên kết tạo
thêm sức mạnh vì mục đích chung cho con người. Qua việc giải thích những từ
ngữ vừa nêu trên, ta hiểu rằng, thái độ thờ ơ ghẻ lạnh thể hiện cá tính xấu, con
người vỊ kỉ, vô tâm với đồng loại, đi ngược lại đạo lí truyền thông của người xưa
mà ông bà ta thường nhắc nhở: “lá lành đùm lá rách" hoặc “một miếng khi đói
bằng một gói khi no”. Và nói đến lòng vị tha, tình đoàn kết là những đức tính
tôt, thế hiện con người tôl, họ luôn luôn ý thức về cộng đồng, ý thức về môi
trường, biết đồng cảm chia sẻ trước nỗi đau kẻ khác. Như vậy ý kiến trên thể
hiện hai thái độ sống khác nhau cần phê phán đế khắc phục tính vỊ kỉ và ca
ngợi tính vị tha nhằm phát huy lòng nhân ái. Như vậy, giữa việc phê phán thờ ơ
ghẻ lạnh của con người và ca ngợi lòng vỊ tha, tình đoàn kết trong cộng đồng là
điều cần thiết quan trọng mà mỗi người trong chúng ta phải thực hiện triệt để,
nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp.
2. Để làm sá n g tỏ đề b ài, ta c ầ n b àn lu ận m ở rộ n g đưa r a nhữ ng luận
điểm để g iải th ích :
a. Luận điểm 1. Tại sao ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết là quan
trọng và cần thiết? Nói đến lòng vị tha, tình đoàn kết là nói đến những đức tính
tôl, phẩm chất cao đẹp của con người. Nó biểu hiện lòng yêu thương tình nhân ái,
sông phải biết đùm bọc, chia sẻ nhằm tạo thành một sức mạnh trong cuộc sống.
Dân tộc ta giàu lòng vị tha nhân ái, có tình đoàn kết yêu thương mới tạo nên một
tâm hồn Việt Nam thật đẹp, tạo nên một sức mạnh Việt Nam vô địch để cùng
chiến đấu chinh phục thiên nhiên, chống lại bao kẻ thù từ phương Bắc, phương
Tây điển hình là dân tộc ta đã chiến thắng hai kẻ thù thực dân Pháp và Đế quốc
Mỹ, chính nhờ vào tinh thần đại đoàn kết của một dân tộc và hiểu rõ phương
châm: “Đoàn kết thì sống, chia rể thi chết” hay “một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại thành hòn núi cao". Chính tinh thần đoàn kết của dân tộc và lòng
yêu thương giữa con người và con người không phân biệt kinh hay thượng, giàu
hay nghèo, nông dân hay trí thức, dân tộc ta đã làm nên biết bao chiến công hiển
hách như chiến thắng Bạch Đằng, Lam Sơn, Đống Đa, Điện Biên Phủ... đều xuất
phát từ lòng yêu thương của một dân tộc. Hiện nay, việc xóa đói giảm nghèo, giúp
đỡ nạn nhễưi chất độc màu da cam do chiến tranh để lại hay phong trào cứu giúp
đồng bào thiên tai bão lụt ở miền Trung và miền Bắc được nhân rộng và xây dựng
những mái ấm tình thương, giúp đỡ những trẻ em mồ côi cùng những việc bảo trợ
giúp học sinh nghèo hiếu học, phát huy lòng vị tha, thể hiện tình đoàn kết là thực

290
hiện phương châm: “Người trong một nước phải thương nhau cùng” là việc làm rất
Cần thiết và quan trọng để xây dựng một cuộc sông mới, một xã hội mới, văn
minh, công bàng, dân chủ tiến bộ.
ò. Luận điểm 2. Tại sao việc p h ê p h á n thái độ thờ ơ, g h ẻ lạnh đối vởi
con người cũ n g quan trọng và cần thiết trước cuộc sống hiện nay?: Việc
phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người là một việc làm rất đúng
đắn,vì kẻ nào thờ ơ, ghẻ lạnh là những kẻ vô cảm quay lưng trước nỗi đau kẻ
khác, có khác gì là một thứ quái vật vì đã là con người thì phải có nhận thức, phải
biết yêu ai và căm ghét ai, phải có tình thương, có tinh thần đoàn kết, đùm bọc,
không sống lối sông vỊ kỉ vì: “Hạnh phúc không chỉ dựng trong một tà áo đẹp hay
hạnh phúc không chi một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” mà hạnh phúc,
phải hiểu một cách rộng hơn là khi mọi người được sông tốt, đời sống vật chất và
tinh thần được nâng cao đó là niềm hạnh phúc chung. Việc lên án phê phán kẻ
nào thờ ơ ghẻ lạnh đối với con người là một việc làm rất cần thiết và quan trọng
nhằm giúp cho những ai còn sống thờ ơ ích kỉ hãy sáng mắt, sáng lòng không còn
là một thứ rô bô, một loại người máy vô cảm khi nhìn nhà hàng xóm cháy mà vẫn
“bình chân như vại”. Những kẻ đó chỉ biết “đèn nhà ai nấy sáng” đó là lôl sống
“niackeno” (mặc kệ nó) thì loại người này, cần phải phê phán, phải lên án vì họ
dã tự tách rời cuộc sông cộng đồng với mọi người xung quanh, hình thành một
lôi sông khép kín, vị kỉ. Lôl sông ấy không thể chấp nhận được, điển hình là
nạn xà xẻo tiền tết của những người dân nghèo tại Quảng Nam, Quảng Bình, Cà
Mau mà xót xa thay! Mỉa mai thay! Những con người xà xẻo ấy là những kẻ có
trách nhiệm ở địa phương, đó là cách sống cần phê phán và lên án.
c. Đ ảnh g iá ch u n g luận điểm 1 và 2: Việc thờ ơ, ghẻ lạnh đôl với con
người và ca ngợi lòng vị tha tình đoàn kết là những yêu cầu rất cần thiết, quan
trọng trong cuộc sông hiện nay của chúng ta. Có thực hiện được những vấn đề
ấy thì mới xây dựng được tính tập thể, tính cộng đồng, lòng vị tha, tình đoàn kết
nhằm mục đích giúp cho con người sống gần nhau hơn biết yêu thương, đồng cảm
dế xây dựng một cuộc sống mới, sống có vàn hóa, xây dựng một xã hội tốt đẹp vì:
“Có gi đẹp trên đời hơn thế; người yêu người, sống để yêu nhau”. (Tố Hữu)

III. PHẦN KẾT BÀI


Thông qua những luận điểm mà chúng ta đã giải thích, càng thấy rõ ý kiến
trên hoàn toàn hợp lí và đúng đắn. Nó phù hợp cho mọi người, mọi thời đại vì
muôn xây dựng một xã hội tôt đẹp lành mạnh, tất cả mọi người phải thể hiện
tình đoàn kết gắn bó yêu thương, phát huy lòng nhân ái là phẩm châ't quan
trọng, thước đo giá trị con người đồng thời phê phán những cá tính xấu từ lòng
vị kỉ hẹp hòi, thờ ơ ghẻ lạnh của con người là nhằm cải thiện, xây dựng một xã
hội tô"t đẹp đế cuộc sông có ý nghĩa. Ý kiến trên như một phương châm, một
ngọn đuôh soi đường, giúp mọi người tự soi rọi lòng mình nhằm phát huy tình

291
yêu thương, lòng nhân ái để đời sông nội tâm phong phú và loại bỏ những cá
tính xấu, lô'i sông vị kỉ, hẹp hòi, hình thành con người tô't, có ích cho xã hội.

Để tuyến sinh: A nh (ch ị) h iểu th ế nào là sự cô n g bằn g. Sự cô n g b ằn g


ả n h h ư ởn g đ ến b ản th â n tro n g cu ộ c sống c ủ a m ỗi ch ú n g ta
r a sao?

Ị32 ững kiến thức cầ n nắm :


1. Lời cô' nhân có nói: “Pháp bất vị thân” ý nói, phải đứng trên pháp luật giải
quyết xử lí nghiêm minh, công bằng dù thân hay không thân. (Lời người xưa)
2. Có ý cho rằng: “Chia cái gì cho một nhóm, chúng ta thường nói, không sợ
thiếu mà chỉ sợ thiếu công bằng”. (Lời nhận định)
3. Có ý kiến rằng; “Sự công bằng phổ biến sáu rộng mọi nơi sẽ đem lại cho con
người cuộc sống an vui hạnh phúc. Ngược lại sự công bằng bị giới hạn, phân
biệt, thiên vị đem lại cho con người lo sợ, cuộc sống đe dọa không an tâm.”.
(Lời nhận định)
4. Có ý kiến rằng: “Sự công bằng là thước đo giá trị nhân cách con người”. (Lời
nhận định)
5. Có ý kiến: “Sự công bằng được trau dồi, bồi đắp thì “tính người” phát triển
hoàn thiện hơn”. (Lời nhận định)

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀ I
“Pháp bất vị thân”
(Lời cổ nhân)
- Lời cố nhân có nói: “Pháp bất vị thân” cho chúng ta nhận thức rằng, phải
đứng trên pháp luật, công lí, không dựa vào sự thân quen để giải quyết xử lí và
xử lí nghiêm minh khách quan. Nếu có tội phải bị trừng phạt, có công phải được
trọng thưởng là thể hiện sự công bằng. Vậy công bằng là gì? Sự công bằng, ảnh
hưởng đến bản thân của mỗi chúng ta trong cuộc sống hiện nay ra sao? Chúng
ta cần giải thích để làm sáng tỏ.

II. PHẦN THÂN BÀ I


Những bước cần thực hiện:
1. T rư ớ c tiê n g iải th ích th ê n ào là sự cô n g b ằn g?; NóiMến sự công bằng
là xác định, đánh giá đúng đắn thực chất của một vấn đề, một công việc, một
con người, không thiên vị, không bóp méo sự thật, không giải quyết theo cảm
tính, không trù dập mà phải dựa vào lẽ phải, hợp tình hợp lí, hợp với quy luật
đạo đức, quy luật của xã hội đế xử phạt nghiêm minh. Thực hiện được điều đó là

292
thế hiện sự công bằng, quyền lợi con người được tôn trọng, được bảo vệ của luật
pháp. Điển hình như ở một lớp học, người học sinh thuộc bài, làm bài đúng thì
phải được điểm cao. Nếu không thuộc bài, không làm bài được, điểm phải thấp
đó là việc đánh giá đúng đắn biểu hiện sự công tâm của người thầy, nếu ngược
lại là bất minh, bâ't công, chứng tỏ người thầy thiên vị, thiếu phẩm chất đạo
đức, sông lừa dối với học trò của mình. Khi tiếp cận với môi trường của xã hội,
nhu cầu trong cuộc sông, ai đến trước xếp hàng trước, ai đến sau xếp hàng sau.
Khi gặp đèn đỏ mọi người đều dừng lại, không được chạy qua nhằm bảo vệ trật
tự xã hội là thể hiện sự công bằng cho mọi người. Vậy sự công bằng nếu được
phổ biến sâu rộng khắp mọi nơi, thực thi nghiêm minh ở mọi lúc, thì đời sông
con người cảm thấy an tâm, hạnh phúc vì quyền lợi của họ được bảo vệ và tôn
trọng. Ngược lại sự công bằng bị giới hạn, phân biệt, đôì xử không hợp lí sẽ làm
cho con người lo sợ luôn luôn cảm thấy cuộc sống của mình bị đe dọa. Như vậy
sự công bằng mang ý nghĩa rất lớn có tầm quan trọng để con người phát huy
“tính người", để được sông hoàn thiện.
2. Sự cô n g b ằn g ả n h hưởng đ ến b ản th â n tro n g c u ộ c sô"ng c ủ a m ỗi
ch ú n g ta n h ư th ế n ào?; Bản thân mỗi con người khi trưởng thành thì ý thức
về sự công bằng luôn luôn được đặt ra để tự hỏi, tôi sống như thế nào là hợp với
lẽ phải? chúng ta sông như thế nào là hợp với lương tâm đạo đức của một con
người? và chúng ta luôn luôn tự hỏi, làm sao phải sông công bằng với mọi người?
Nếu là một học viên, chúng ta không có đủ năng lực, không đủ sức học thì chúng
ta không sử dụng tiền bạc, giá trị vật chất để mua bằng cấp là biểu hiện lòng tự
trọng, sự công bằng. Vì thực hiện theo năng lực sẽ được hưởng theo nhu cầu.
Nếu chúng ta đi ngược lại, dựa vào kẻ khác, một tha lực khác, chúng ta trở
thành kẻ lừa dôl với chính chúng ta và với mọi người, khác gì là một kẻ sống
hèn, vô liêm sĩ. Nếu là một viên chức, chúng ta không thể nào bòn rút của công
đế hưởng lợi cho cá nhân, đó cũng là sự bòn rút của tập thể của nhân dân là một
kẻ sông dôl trá, bất chính. Bản thân của mỗi chúng ta, không thể đặt quyền lợi
của mình lên trên quyền lợi của mọi người. Nếu sông chỉ biết quyền lợi riêng,
xem thường quyền lợi chung thì con người ấy là kẻ sống trên x,ương máu của
người khác, là kẻ hèn, kẻ ăn gian, kẻ chơi gian. Như vậy sự công bằng được thực
thi, được nhân lên ở mỗi người chúng ta, được phổ biến sâu rộng, chúng ta sẽ
cảm thấy một cuộc sông an vui, thanh thản, hình thành một người sống có văn
hóa. Một xã hội thực thi sự công bằng, sẽ xây dựng một xã hội tốt đẹp, phát
triển về dân chủ, tự do bình đẳng, văn minh, tiến bộ, đất nước sẽ phồn vinh
giàu đẹp.

III. PHẦN K ẾT BÀI


Sự công bằng là phạm trù đạo đức, một lẽ sống đẹp. Nếu được thực thi đúng,
nghiêm minh thì con người sẽ sống tốt, phát huy “tính người”, quyền lợi được

293
đảm bảo, cuộc sô'ng an vui hạnh phúc, hình thành một xã hội tô't đẹp lành
mạnh, đất nước phồn vinh, phù hợp xu thế phát triển của thời đại của nhân loại.

Đề tuyển sinh: A nh (ch ị) g iải th ích lời nói sau đ ây c ủ a người xư a:


“Một câu n h ịn, ch ín câu là n h ”.

igỉ?ững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Lời cổ nhân có nói: “Dĩ hòa vi quý”. Ý nói, trước tình huông xảy ra phải có
thái độ ôn hòa, nhã nhặn, bình tĩnh sẽ đem lại sự tô't đẹp. (Lời người xưa)
2. Lời cố nhân có nói: “Đi với Bụt mặc áo cà sa. Đi với Ma mặc áo giấy”. (Lời
người xưa)
3. Quan niệm của Marx: “Hạnh phúc là đấu tranh". (Marx)
4. Lời người xưa: “ớ hiền gặp lành”. (Lời người xưa)
5. Quan niệm nhà Phật có nói: “Từ bi hl xả”.
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP Dà n ý
I. PHẦN MỞ BÀI:
- Có thể giới thiệu lời nói của người xưa hay lời nhận định nào đó phù hợp
với nội dung đề bài.
- Sau đó giới thiệu đề bài và viết câu chuyển ý (nếu cần).
II. PHẦN THÂN BÀI:
- Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích: “Một câu nhịn chín câu lành” có ý nghĩa như thế
nào? (Nêu lí lẽ và dẫn chứng).
2. Trước thực tế cuộc sông trong mọi tình huông xảy ra đều có hướng giải
quyết như vậy không? (Giải thích và dẫn chứng nếu có).
III. PHẦN KẾT BÀI:
- Khẳng định giá trị đề bài.
- Liên hệ bản thân (nếu có).

B. PHẦN THựC HÀNH


I. PHẦN MỞ BÀI
“Dĩ hòa vi quý”.
(Lời cổ nhân)
- Lời cổ nhân từng nói: “Dĩ hòa vi quý”, chỉ có bốn từ ngắn gọn nhưng mang một
ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống con người. Khi gặp những tình huống xảy ra, phải
có thái độ hòa nhã, sẽ đem lại hướng giải quyết tốt đẹp, hiệu quả tốt đẹp, đưa chúng
ta liên tưởng lời nói: “Một câu nhịn chín câu lành” cũng mang một ý nghĩa, nội
294
dung tương tự như thế. Chúng ta cần giải thích ý kiến trên để thấy rõ ý nghĩa và
giá trị đề bài.

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. T rư ởc tiên c ầ n giải thích: “Một câu nhịn chín câu là n h ” có ý nghĩa
như th ế nào?
Trong cuộc sôhg, mỗi chúng ta đều có sự quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với gia đình, xã hội hay những công việc trong doanh
nghiệp, công ty, cơ quan của Nhà nước. Đôl diện với thực tế, đều xảy ra những
tình huông, những vâ'n đề cần giải quyết, có lúc đưa đến sự mâu thuẫn, đôl
kháng không phù hợp ý kiến giữa người này, người khác, chúng ta cần xử lí
thế nào để đem lại sự tô't đẹp? Trước tiên cần bình tĩnh, biết kiềm chế, có thái
độ hòa nhã, điềm đạm trong cử chỉ, hành động, lời nói của mình để từng bước
giải quyết vấn đề nhằm đem lại kết quả tô"t đẹp, thỏa đáng là thể hiện: “Một
câu nhịn chín câu lành”. Lời nói này hàm ẩn, chỉ một câu nhịn nhưng có giá
trị đến chín câu lành, chứng tỏ sự nhẫn nhịn, hòa nhã, điềm đạm đem lại giá
trị thiết thực cho chính bản thân. Ví dụ, một sinh viên vừa mới ra trường
nhận vào làm cho một doanh nghiệp hay công ty nào đó. Trước sự sơ xuất công
việc, người ta góp ý, giải thích nhưng nếu biết cầu thị, bình tĩnh, lắng nghe ý
kiến khách quan là cách xử lí tốt nhâ't, hợp lí nhất sẽ đem lại sự thiện cảm
của mọi người đối với mình, rồi dần dần tạo được sự quý mến của tập thể,
mang lại kết quả tô't đẹp cho bản thân là do cách đôì nhân xử th ế có văn hóa
và phải biết “nhẫn” của mỗi chúng ta. Ngược lại, vì tự ái cá nhân, cho mình là
người có học vị, luôn luôn đề cao cái tôi của mình và cố chấp, sẽ đưa đến sự cãi
vã, dùng những lời lẽ khiếm nhã, kém văn hóa nhằm biện minh cho hành
động của mình, sẽ làm cho người khác khó chịu, đánh giá thấp về cách ứng xử
thiếu văn hóa của mình và sẽ đem lại sự thiệt thòi cho bản thân. Hay trường
hợp thường xảy ra hằng ngày chỉ vì một va chạm rất nhỏ giữa đôi bên như
vấn đề “quẹt xe", “đụng xe”, nhưng ai cũng tỏ thái độ cộc cằn, nóng nảy không
biết kiềm chế, dùng lời lẽ thiếu văn hóa, thái độ, cử chỉ thô lỗ để nói cho thỏa
mãn tự ái cá nhân của mỗi người, cuôl cùng sẽ đưa đến sự ẩu đả rồi có thể
dùng dao, búa đâm chém lẫn nhau, đem lại hậu quả nghiêm trọng, đáng tiếc vì
không biết kiềm chế, mất bình tĩnh, nóng nảy của mỗi người.
2. Như v ậ y trư ớ c cu ộ c sôTng th ự c tế , g ặp nhữ ng tìn h h u ô n g x ả y r a
đ ều dựa v ào lời nói: “Một câu n h ịn ch ín câu là n h ” đ ể g iải q u y ết hay
không?; vấn đề cơ bản là cần phải bình tĩnh, phải biết kiềm chế, thái độ hòa
nhã, điềm đạm là những đức tính tốt nhằm mang lại hiệu quả tốt đẹp trước
những tình huôhg xảy ra. Nhưng nếu gặp phải những tình huôhg trái với quy
luật của đạo đức, chà đạp lên nhân phẩm con người một cách trắng trợn thì

295
chúng ta không thể im lặng, cam chịu, nhẫn nhịn mà phải có cách ứng xử hợp lí
để có hướng giải quyết đúng đắn, hợp với lẽ phải, hợp với lẽ công bằng nhằm
bảo vệ danh dự, uy tín cho bản thân. Đúng như lời người xưa từng nói: “Đi với
Bụt mặc áo cà sa. Đi với Ma mặc áo giấy”. Như vậy một khi nhân phẩm bị chà
đạp mà vẫn tiếp tục: “một câu nhịn chín câu lành” thì sẽ bị lấn áp, coi thường
và tiếp tục bị kẻ khác “đè đầu, cỡi cổ” mà chúng ta phải có cách để giải quyết
nhằm bảo vệ cho bản thân và uy tín của chính mình.

III. PHẦN KẾT BÀI


Như vậy ý kiến trên chỉ có giá trị tương đối trong cuộc sông. Mỗi người phải
nhận thức, hiểu rõ những tình huông, những công việc, những vấn đề xảy ra để
tìm hướng giải quyết tô"t đẹp mà cơ bản vẫn là sự bình tĩnh, phải biết kiềm chế,
ôn hòa, phải biết “nhẫn” trước những tình huông, để đem lại sự tô"t đẹp cho bản
thân, gia đình và cộng đồng xã hội.
Bản thân em, cần phải nhận thức rõ điều ấy để có hướng giải quyết tô"t có lợi
cho bản thân. Chứng tỏ ý kiến trên không phải là một chân lí có giá trị tuyệt
đôi nhưng vẫn là bài học vô cùng quý báu cho mọi người.

Đế tuyển sinh: V ăn h ào P h á p “R a b e la ise ” có nói: “K hoa học không


lương tâm là s ự hủy hoại tâm h ồ n ”. A nh (chị) có n h ận x é t gì về ý
k iến trê n ?

icĩ? ững k iến th ứ c c ầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng: “Quay lưng trước nỗi đau của người khác là một thứ quái
vật”. (Lời nhận định)
2. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, thước đo giá trị
nhân cách con người”. (Lời nhận định)
3. Có lời ca ngợi rằng: “Vợ chồng nhà bác học Marie Curie hi sinh cả cuộc đời
cho khoa học cho hạnh phúc của nhân loại”. (Lời nhận định)
4. Nhà bác học Pasteur đã tìm ra chất “vác xin” chống bệnh chó dại cứu biết bao
nhiêu sinh mạng con người trên toàn cầu.
5. Có ý kiên rằng: “Nhà khoa học có lương tâm như con ong luôn luôn biết đem
hương thơm mật ngọt đến cho đời cho nhân loại”. (Lời nhận định)

HƯỚNG DẪN
A. CÁCH L Ậ P DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI
- Sử dụng một đoạn văn ngắn hay một ý kiến có nội dung phù hợp yêu cầu
đề bài.
Từ đó giới thiệu đề bài và viết câu chuyển ý (nếu cần).
296
II. PHẪN THÂN BÀI
Những bước thực hiện
1. Trước tiên giải thích: “T h ế nào là khoa học không lương tâm?” (vận dụng lí
lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ)
2. Tại sao khoa học không lương tâm là sự hủy hoại tâm hồn? (vận dụng lí lẽ
và dẫn chứng để làm sáng tỏ)
3. Như vậy khoa học có lương tâm đem lại cho con người những thành quả gì?
(vận dụng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ)

III. PHẦN KẾT BÀI


- Khẳng định giá trị đề bài.

B. PHẦN TH ựC HÀNH
I. PHẦN MỞ BÀI
Đề cập về lĩnh vực khoa học, chúng ta nghĩ ngay đến sự phát minh, sáng tạo
của các nhà khoa học nhằm mục đích phục vụ cho con người, cộng đồng cho
hạnh phúc của nhân loại. Nhưng có lĩnh vực khoa học chỉ nhằm mục đích vì lợi
nhuận, vì quyền lợi của cá nhân, của một nhóm người hay một tập đoàn nào đó,
đó là thứ khoa học chỉ có tài năng, trí tuệ mà không có đạo đức, không đem lại
hạnh phúc cho con người, làm hủy hoại tâm hồn, hủy diệt nhân cách. Vì thế,
văn hào Pháp “Rabelaise” có ý kiến rằng: “Khoa học không lương tâm là sự hủy
hoại tâm hồn”. Chúng ta cần đi sâu từ ý kiến trên để làm sáng tỏ và khẳng định
giá trị của đề bài.

II. PHÂN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trư ớc tiên c ầ n giải thích: “Thê nào là khoa học không lương tâm?”:
Chỉ có năm từ “khoa học không lương tâm” là khoa học không có đạo đức, không
nhằm phục vụ cho con người cho cộng đồng cho hạnh phúc của nhân loại mà chỉ
biết phục vụ cho mục đích vì lợi nhuận vì doanh thu cho một cá nhân, một nhóm
người hay một tập đoàn nào đó. Nói đến khoa học không lương tâm, ta nghĩ
ngay đến những nhà chế tạo vũ khí, đạn dược có thể giết hàng loạt sinh mạng
con người, tạo nên guồng máy chiến tranh, gây bao hậu quả đau thương cho
nhân loại. Hay một nhà khoa học phát minh những sản phẩm, những dược
phẩm có tính chất độc hại, tác hại cho sức khỏe con người, người tiêu dùng
không an tâm kể cả mạng sông của họ bị xem thường, đe dọa. Điển hình như vụ
sữa của Trung Quô'c bị nhiễm độc, làm cho người dân hoang mang, lo sợ ảnh
hưởng đến tâm lí, sức khỏe của cộng đồng là khoa học không lương tâm, sản
sinh những con người không lương tâm, chính họ đã hủy hoại tâm hồn.

297
2. T ại sao k h o a h ọ c k h ôn g lương tâm là sự h ủ y h o ại tâ m h ồn ?: Phải
nói rằng: '"khoa học không lương tâm” là khoa học không có đạo đức, không dựa
vào tính người, tình người, không có lòng yêu thương đôl với cộng đồng, hạnh
phúc của nhân loại. Họ chỉ biết lợi nhuận và sức mạnh của đồng tiền là trên tất
cả và sần sàng bán rẻ lương tâm, trách nhiệm. Họ sẵn sàng “sống ác, sống tàn
nhẫn đế' được tồn tại”, được hưởng lợi cho cá nhân, cho nhóm người hay tập
đoàn nào đó và sẽ quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác, kể cả sinh mạng con
người, chứng tỏ họ là kẻ vô cảm, vô tâm, mất cả lương tri, hủy hoại cả tâm hồn.
Đúng như lời nhận định: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau kẻ khác, xem thường
sinh mạng của kẻ khác chí là thứ quái vật”. Chúng ta cần lên án, nguyền rủa,
ghê tởm.
3. V ậy k h o a h ọ c có lương tâm đem lại nhữ ng h iệu q u ả gì?: Nghĩ về
khoa học có lương tâm, luôn luôn dựa trên nền tảng của đạo đức vì mục đích
cộng đồng vì sự phát triển cho hạnh phúc của nhân loại nhằm mang lại giá trị
thiết thực cho con người và cho cả nhân loại thì khoa học ấy được ngưỡng mộ
tôn vinh. Tiêu biểu như Vợ chồng nhà bác học Marie Curie hi sinh cả cuộc đời
mình và tìm ra chất Uranium phục vụ cho khoa học, phục vụ cho hạnh phúc của
nhân loại hay nhà bác học Pasteur đã tìm ra chất văcxin chông bệnh chó dại, đã
cứu hàng vạn, hàng triệu con người khắp toàn cầu. Họ là những người có cái tầm
và có cái tâm cao quý và tên họ gắn liền với mọi quôh gia trên toàn cầu. Như
vậy khoa học không lương tâm là khoa học không dựa trên nền tảng đạo đức chỉ
có cái tầm, nhưng thiếu cái tâm là thiếu đạo đức, thiếu tính người, tình người là
sự hủy hoại tâm hồn đáng lên án. Với khoa học có lương tâm là sự kết hợp hài
hòa giữa cái tầm và cái tâm, giữa tài năng và trí tuệ, giữa đạo đức và nhân cách.
Họ luôn luôn được ngưỡng mộ, khâm phục của mọi người của cả nhân loại vì họ
là những nhà khoa học chân chính.
III. PHẦN KẾT BÀI
- Ý kiến của văn hào Pháp Rabelaise: “Khoa học không lương tâm là sự hủy
hoại tâm hồn” hoàn toàn hợp lí, đúng đắn. Vì thứ khoa học ấy không nhằm phục
cho cuộc sông của con người, của nhân loại, chỉ sản sinh ra những loại vũ khí
giết người, những sản phẩm độc hại, độc tố giết người đó là thứ khoa học phi
đạo đức, phi nhân tính, hủy hoại tâm hồn. Chúng ta cần lên án, triệt để lên án.

Để tuyển sinh: A nh (chị) h iểu th ế n ào về lòng tự trọ n g ? L ò n g tự trọ n g


ả n h hư ớng đ ến b ản th â n c ủ a m ỗi ch ú n g t a trư ớ c c u ộ c sống
r a sa o r

ỊHỈững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. (Lời người xưa)
2. Lời người xưa có nói: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. (Lời người xưa)

298
3. Lời cố nhân có nói: “Bần tiện bất năng di”. Ý nói, sông trong nghèo khổ vẫn
không thay lòng đối dạ. “Phú quý bất năng dâm". Ý nói, giàu sang không
ham dục vọng tầm thường. “Uy vũ bất năng khuất”. Ý nói, trước bạo lực
không hề cúi đầu. (Lời người xưa)
4. Lời cố nhân có nói: “Bần cùng sinh đạo tặc". (Lời người xưa)
5. Dũng tướng Trần Hưng Đạo khẳng định: “Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì hãy
chém đầu thần trước đã”. (Trần Hưng Đạo)
6. Danh tướng Trần Bình Trọng từng dõng dạc rằng: “Thà làm quỉ nước Nam
còn hơn làm vương đất Bắc”. (Trần Bình Trọng)
7. Những dẫn chứng để làm sáng tỏ lòng tự trọng:
- Nạn động đất và sóng thần xảy ra tại nước Nhật là một thảm họa nghiêm trọng.
- Nhà máy điện nguyên tử Pukushima Nhật bị rò rỉ phóng xạ, sau nạn động
đâ4 và sóng thần. Một số chuyên gia, kĩ sư của Nhật từng tuyên bô": “Cao hơn
cá cái chết và nỗi sợ hãi là phải có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng và
trách nhiệm với thê hệ dời sau”.
8. Có ý kiến rằng; “Con người, nếu đánh mất lòng tự trọng, chỉ còn là cái chết,
cái chết tâm hồn. (Lời nhận định)
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH L Ậ P DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI
Có thể nêu lên một dẫn chứng hay lời nhận định nào đó liên quan đến nội
dung yêu cầu của đề bài. Sau đó giới thiệu đề bài.
II. PHẦN THÂN BÀI
Những bước thực hiện:
1. Cần giải thích thế nào là “Lòng tự trọng?” (Lí lẽ và dẫn chứng).
2. Lòng tự trọng ảnh hưởng đến bản thân của mỗi chúng ta trong cuộc sôhg
như thế nào?
3. Nếu đánh mất lòng tự trọng sẽ ra sao?
III. PHẦN KẾT BÀI
- Khẳng định giá trị của đề bài.
- Liên hệ bản thân (nếu có).
HƯỚNG DẪN
B. PHẦN TH ựC HÀNH
I. PHẦN MỞ BÀI
“Lòng tự trọng là thước do giá trị nhân cách con người”
(Lời nhận định)

299
Quả thật, có được lòng tự trọng, chúng ta cảm thấy đời sống nội tâm phong
phú, cuộc sông có ý nghĩa. Vậy lòng tự trọng cần phải hiểu như thế nào? Lòng tự
trọng ảnh hưởng đến bản thân của mỗi chúng ta trước cuộc sông ra sao?
II. PHẦN THÂN BÀI
Những bước cần thực hiện:
1. T rư ớ c tiê n c ầ n g iải th ích “L òng tự trọng có ý n g h ĩa n h ư t h ế nào"!”-.
Nói đến lòng tự trọng là nói đến tinh thần trách nhiệm của mỗi con người
trước cuộc sôhg, trách nhiệm đôl với bản thân, trách nhiệm đôl với người khác
với cộng đồng. Lời nói cùng việc làm phải luôn luôn đi đôi với nhau phải “tri
hành hợp nhất". Lòng tự trọng không nói một đằng, làm một nẻo hay nói và hứa
suông, nhưng không làm gì cả. Người có lòng tự trọng luôn luôn tự tin và cảm
thấy hạnh phúc trước cuộc sông, luôn luôn tôn trọng chính mình và tôn trọng kẻ
khác. Lòng tự trọng giúp cho con người có những tác động mạnh mẽ trong hành
động trước mọi tình huông và lòng tự trọng thường thể hiện “tính người” trong
mọi cách ứng xử. Nói đến lòng tự trọng luôn luôn xác định đúng giá trị bản thân
của mình, biết nhược điểm và ưu điểm của mình để đánh giá bản thân mà
không cần sự đánh giá của người khác của xã hội, vì lòng tự trọng luôn luôn thể
hiện tính tự giác rất cao. Hàng loạt những dẫn chứng sau đây càng làm rõ về
phẩm chất đáng quý của lòng tự trọng. Chúng ta còn nhớ một bà lão bán rau
muống vì giữ đúng lời hứa của người thanh niên tốt bụng qua lời nói: “Bà cho
con gởi chiều con đến lấy" nhưng rồi buổi chiều ấy, bà lão vẫn ngồi đợi trong cơn
mưa nặng hạt. Sau đó bà lâm bệnh rồi chết. Một cái chết thương tâm để nói lên
tinh thần trách nhiệm vì lời hứa với người khác. Hay cơn động đất và sóng thần
xảy ra tại nước Nhật vừa qua là một thảm khốc vô cùng nghiêm trọng đối với nước
Nhật. Nhưng nước Nhật đã đứng dậy trong tang thương và phục hồi thật là kì
diệu. Cho dù đó là một thảm họa vô cùng thảm khốc đối với nước Nhật nhưng tinh
thần trách nhiệm của người dân Nhật và tình đoàn kết yêu thương gắn kết của
họ, họ đã vượt qua và đứng lên một cách tự hào. Điển hình nhất là nhà máy điện
nguyên tử hạt nhân Pukushima bị rò rỉ chất phóng xạ do thảm họa động đất và
sóng thần gây nên nhưng một số chuyên gia, kĩ sư, công nhân lành nghề, họ vẫn
bám vào nhà máy với tinh thần trách nhiệm rất cao để chu toàn nhiệm vụ nhằm
bảo vệ môi trường. Đối với họ: “Cao hơn cả cái chết và nỗi sợ hãi là phải có tinh
thần trách nhiệm đối với cộng đồng và trách nhiệm đối với các thế hệ đời sau”. Đó
là vẻ đẹp về lòng tự trọng của người dân Nhật thật đáng khâm phục. Ngược dòng
lịch sử làm sao quên được dũng tướng Trần Hưng Đạo dõng dạc thốt lên rằng:
“Nếu bệ hạ hàng giặc thì hãy chém đầu thần trước đã” hay danh tướng Trần Bình
Trọng thốt lên với quân xâm lược phương Bắc rằng: “Thà làm quỉ nước Nam còn
hơn làm vương đất Bắc”. Những lời nói của dũng tướng Trần Hưng Đạo, danh
tướng Trần Bình Trọng là thể hiện tinh thần trách nhiệm của bản thân đối với
dân tộc, đất nước rất cao, đặt dân tộc lên tất cả và sẵn sàng đón nhận cái chết.

300
Nhận xét: Hàng loạt những dẫn chứng từ những con người bình thường đến
những nhân vật lịch sử kết hợp những dẫn chứng tiêu biểu về nạn động đất,
sóng thần tại Nhật, càng cho chúng ta thấy rõ lòng tự trọng là một phẩm chất
vô cùng cao quý đôl với con người với mọi người, mọi thời đại dù Châu Âu, Châu
Mỹ, Châu Phi, Châu úc, Châu Á cũng thế. Nói đến lòng tự trọng đều có tác
dụng, ảnh hưởng đến mọi người, khẳng định giá trị bản thân, giá trị cho cuộc
sông. “Nếu đánh mất lòng tự trọng chỉ còn là cái chết, cái chết tâm hồn”.
2, L òn g tự trọ n g ả n h hướng đ ến b ản th â n c ủ a m ỗi ch ú n g ta trư ớ c
cu ộ c sông nh ư th ê nào?:
Lòng tự trọng luôn luôn ảnh hưởng, chi phôi đến bản thân mỗi chúng ta trước
cuộc sông. Trước cuộc sông, mỗi con người là một chủ thể có ý thức, không phải
là một rôbôl, một người máy mà mỗi người luôn luôn tự đưa ra câu hỏi “sống để
làm gì? và sống như thế nào?”. Để trả lời và thực hiện những câu hỏi ấy là thể
hiện tinh thần trách nhiệm với bản thân với mọi người với cộng đồng. Sự hiện
hữu của mỗi người trước cuộc sôhg, phải luôn luôn tự tranh đấu để tồn tại vì mục
đích cho bản thân, cho sự phát triển của xã hội. Vì thế, tinh thần trách nhiệm
luôn luôn được đặt ra và làm sao thực hiện đúng nhằm đem lại giá trị cho bản
thần cho cộng đồng là biểu hiện lòng tự trọng của mỗi người được nâng cao,
hình thành một nhân cách sôhg đẹp. Đôl diện trước cuộc sồhg, mỗi người có một
hoàn cảnh, một sô' phận. Lòng tự trọng phải luôn luôn tuân thủ theo quy tắc đạo
đức trong cuộc sông: “Giấy rách phải giữ lấy lề”; “Nghèo vẫn sạch, rách vẫn
thơm”. Đó là những nguyên tắc chuẩn mực, thể hiện lòng tự trọng, không bị tha
hóa, biến chất đánh mất chính mình. Lời cô nhân từng nói: “Bần tiện bất năng
di. Phú quỷ bất năng dâm. Uy vũ bất năng khuất”. Đó là những phương châm
đúng đắn biếu hiện lòng tự trọng. Dù cho cuộc sông nghèo khổ nhưng không
thay lòng đổi dạ, biến chất “bần cùng sinh đạo tặc”. Dù sô'ng trong giàu sang,
không vì thế mà dựa vào sức mạnh của đồng tiền, uy lực để làm con người tha
hóa bởi dục vọng tầm thường. Dù đôl diện trước bạo lực uy quyền nhưng không
hề khiếp sợ, khuât phục, cúi đầu, đi bằng hai đầu gô'i. Mà trước mọi tình huông
như thế, phải có một cái đầu lạnh, một trái tim nóng và đôi bàn tay sạch để
quyết định và hành động với tinh thần trách nhiệm, lương tâm của chính mình.
Có được những yếu tô' ấy mới biểu hiện lòng tự trọng nhằm khẳng định chính
mình trước cuộc sông để cuộc sô'ng có ý nghĩa.
3. N ếu đ án h m ấ t lòng tự trọ n g 'th ì ch ú n g ta sẽ r a sao?: Nếu con người
đánh mất lòng, tự trọng, họ trở thành kẻ dối trá, kẻ lừa đảo, kẻ bất tín, bất
nhân, kẻ ngụy tạo là những con sâu mọt đục khoét xã hội, bào mòn xã hội.
Những con người â'y phải lên án triệt để, phải khử trừ, phải triệt tiêu không còn
đất sông để cái ác, cái xấu không còn hiện hình. Chúng ta có đọc một bài báo
cábh đây không lâu ở hai tỉnh Quảng Nam và Cà Mau, những người dân nghèo
được hỗ trợ bằng tiền bạc đế hưởng một cái tết ấm áp với gia đình, người thân.

301
Nhưng có người, họ lại xà xẻo, bớt xén, trên số tiền ấy. Đó là hành động đáng
xấu hổ, cần lên án vì họ đánh mất lòng tự trọng. Như vậy, người có lòng tự
trọng luôn luôn cảm thấy tự tin, hạnh phúc, một gia đình mà các thành viên đều
có lòng tự trọng là một gia đình đoàn kết yêu thương hướng đến một xã hội tốt
đẹp, đất nước phồn vinh.
III. PHẦN K ẾT BÀI
Được đề cập về lòng tự trọng là một đề bài rất hay, ý kiến luôn luôn phù hợp
với mọi người, mọi thời đại. Nhắc đến lòng tự trọng là thước đo giá trị, nhân
cách của con người nhằm thực hiện lẽ sống đẹp. Đây là một phẩm chất cao quý,
làm cho đời sông nội tâm con người thêm phong phú, cuộc sông có ý nghĩa. Nói
đến lòng tự trọng, giúp cho mỗi chúng ta tự nhìn lại chính mình, cần phải sông
như thế nào để đem lại giá trị thiết thực cho bản thân cho cộng đồng, cho sự
phát triển một xã hội tôt đẹp và sông làm sao đế “tính người" mỗi ngày được
nhân lên trong tâm hồn đế thấy lòng thanh thản và hạnh phúc. Đó là ý nghĩa
của cuộc sống.

Đề tuyển sinh: Anh (chị) giải thích ý kiến sau:


“Mất n gh ị lực, mất tất c ả ”

S E ững kiến thức cần nắm:


1. lỉồ Chí Minh có nói: “Sống ở trên đời người cũng vậy. Gian nan rèn luyện mới
thành công". (Hồ Chí Minh) hay “Không có việc khó. Chỉ sợ lòng không bền.
Dào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên”. (Hồ Chí Minh)
2. Tục ngữ Việt Nam có nói: “Có công mài sát có ngày nên kim” hay “Có chí thi
nên”. (Tục ngữ)
3. Nhà văn Nguyễn Khải nhận định “ơ dời này không có con đường cùng chỉ có
những ranh giới, diều cốt yếu phải có sức mạnh đ ể bước qua những ranh giới
ấy”. (Nguyễn Khải)
4. Có ý kiến rằng: “Nghị lực là thước đo giá trị nhân cách cứa con người”. (Lời
nhận định)
5. Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký sôhg tại Thành phô" Hồ Chí Minh là tấm gương
sáng của nghị lực.
6. Nghệ sĩ Thê Vinh mât cả hai bàn tay nhưng anh vừa thổi Harmonica rât giỏi,
vừa đàn ghita râ"t hay. Tô"t nghiệp Đại học kinh tế Thành phô" Hồ Chí Minh
và mở trung tâm dạy nghề cho những em khuyết tật.
7. Anh Nick-Vujicic (người úc) không có đôi tay, cả đôi chân nhưng với sự khổ
luyện, “sống không giới han”, anh trở thành một nhân chứng sông của thời
đại về nghị lực phi thường, tuyệt vời. Anh từng đi thuyết giảng nhiều nước
trên thế giới. Anh đã đến Việt Nam thuyết giảng tại Hà Nội, Thành phô" Hồ

302

J
Chí Minh vào năm 2013 (Anh có cả vỢ đẹp, con ngoan, thành lập gia đình
năm 2012).
8. Lời cố nhân có nói; “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI
- Giới thiệu một đoạn văn hay một lời nhận định, một câu tục ngữ, ca dao có
liên quan đến nội dung yêu cầu của đề bài. Sau đó giới thiệu đề bài và viết câu
chuyến ý (nếu cần).
II. PHẦN THÂN BÀI
Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích “nghị lực là gì?”.
2. Sau đó dựa vào đề bài, đưa ra những những luận điểm đế’ giải thích;
- Luận điểm 1; Tại sao mất nghị lực là mất tất cả?
- Luận điểm 2: Tác dụng của nghị lực trong đời sông con người như thế nào?
(vận dụng lí lẽ và dẫn chứng để giải thích).
III. PHẦN KẾT BÀI
- Khẳng định giá trị đề bài.
- Liên hệ bản thân (nếu có).
HƯỚNG DẪN
B. PHẦN THựC HÀNH:
I. PHẦN MỞ BÀI:
“ơ đời này không có con đường cùng chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu
phải có sức mạnh đ ể bước qua những ranh giới ấy”. (Nguyễn Khải)
Quả thật, cuộc đời là một trường tranh đấu không ngừng, con người phải đối
đầu với bao gian nan, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, đem lại thành
công tốt đẹp cho bản thân, gia đình, cộng đồng. Sự thành công đó, một phần lớn
do yếu tô" nghị lực. Nếu thiếu nghị lực, mất nghị lực, con người sẽ khuất phục,
đầu hàng trước hoàn cảnh, ước mơ sẽ tan vỡ, uy tín sẽ mât, mất tất cả đúng
như ý kiến: “Mất nghị lực, mất tất cà".

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần giải thích “n g h ị lự c l à g ì? ”:
Hai tiếng nghị lực cho chúng ta những ý nghĩ đẹp, nghị lực là một ý niệm
trừu tượng, không nắm bắt, không nhìn thấy, nhưng là một yếu tô" vô cùng quan
trọng trong đời sô'ng của mỗi con người. Nói đến nghị lực là nói đến sức mạnh

303
nội lực, sức mạnh tinh thần của con người để tạo nên ý chí, bản lĩnh, tự tin,
quyết đoán, sự chịu đựng để vượt qua mọi gian khổ, khó khán trên con đường đi
tới. Nghị lực là một chất xúc tác, nhằm hỗ trợ cho năng lực, củng cố niềm tin,
làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh nhằm thực hiện những ước mơ, hoài bảo
mà mình đang hướng tới.
2. Tại sao m ât nghị lực là m ất tấ t cả?:
Mỗi người đều có một vị trí, một công việc, ước mơ, hoài bão để đi đến sự
thành công tô"t đẹp. Điều trước tiên cần phải có năng lực kết hợp với tài lực để
thực hiện. Nhưng muôn đem lại sự thành công, hiệu quả nhâ't định, biến ước mơ
thành hiện thực, ngoài những yếu tô' tiên là điều kiện cần nhưng chưa đủ mà
con người cần phải có “nghị lực” là sức mạnh tinh thần, là ý chí, cùng sự quyết
tâm để tạo nên dũng khí, nhuệ khí, niềm tin, tạo nên sức mạnh vượt qua những
khó khăn trên con đường mình đang đi. Phải: “Có công mài sát có ngày nên
kim”. Chính nghị lực là thước đo giá trị con người, hình thành nhân cách con
người. Ngược lại, nếu thiếu nghị lực hay mất nghị lực sẽ mất niềm tin, mất dũng
khí, nhuệ khí và trở thành kẻ yếu mềm, bất lực, bế tắc trước công việc và hoàn
cảnh, có thể buông xuôi, phó mặc thì uy tín sẽ mất đi và sẽ mâ't tâ't cả, thân bại
danh liệt.
3. Như vậy tá c dụng của nghị lực đôl với con người như th ế nào?:
Qua phần lí giải trên, chúng ta nhận thấy, nghị lực là một yếu tố quan trọng,
quyết định trong đời sống con người. Chính nghị lực giúp ta thăng hoa, làm cho
đời sông tinh thần mạnh mẽ, tạo dũng khí để chúng ta vượt qua bao nhiêu khó
khăn trước mặt vì đường đi gian nan bao nhiêu thì nghị lực càng cao bây nhiêu.
Lúc ấy, niềm tin và sự thành công sẽ càng lớn, càng nhiều. Như vậy, nghị lực là
thứ tài sản vô hình quý báu làm nên tài sản hữu hình, đem lại giá trị cho bản
thân cho cộng đồng xã hội. Một điều đáng khâm phục là khi ta ngã gục nhưng
ta phải biết đứng dậy, đi tới để đạt đến sự thành công, làm lại cuộc đời, đó là
nghị lực, khẳng định giá trị con người, thước đo nhân cách con người, ngược lại
nếu ta ngã gục nhưng thiếu nghị lực, mất nghị lực, ta sẽ khuât phục, buông xuôi,
phó mặc, đầu hàng cuôi cùng'ta sẽ mât tât cả.
D an ch ứ n g : Những tấm gương chúng ta cần học tập là nhà giáo ưu tú
Nguyễn Ngọc Ký đang sông và công tác tại thành phô' Hồ Chí Minh dù ông có
sô' phận bất hạnh khi hai bàn tay không còn để cầm được viết, nhưng ông đã
rèn luyện,'khổ luyện bằng đôi chân để viết và trở thành người kĩ sư tâm hồn,
đại biểu của thành phố Hồ Chí Minh đó là tấm gương sáng của nghị lực. Nghệ sĩ
Thê' Vinh dù hai bàn tay không còn, nhưng anh đã tập luyện, khổ luyện và đạt
đến sự thành công, itrở thành một nghệ sĩ vừa thổi Harmonica hay vừa đánh
đàmgiỏi. Anh tô't nghiệp Đại học kinhitê' Thành phô' Hồ Chí Minh và mở trung
tâm dạy nghề cho những em khuyết tật. Anh Nick-Vujicic (người úc) một người
không có đôi tay, đôi chân nhưng anh vẫn sông bằng nghị lực của chính mình

3m
và thực hiện những ước mơ “sống không giới hạn”. Anh đã đến Việt Nam vào
nàm 2013 và có chương trình giao lưư tại Hà Nội và Thành phô' Hồ Chí Minh về
tấm gương nghị lực phi thường của anh nhằm củng cô' niềm tin cho thế hệ trẻ.

III. PHẦN K ẾT BÀI


Ý kiến trên là bài học quý báu, thiết thực cho mọi người, mọi thời đại, là
chân lí sông sáng ngời, luôn luôn giúp cho con người đi đến sự thành công trước
cuộc sông. Đó cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai còn do dự, hoài nghi,
thiếu tự tin trước cuộc sông. Đế có một nghị lực vững chắc, khẳng định giá trị
bản thân trước cuộc sông. Chúng ta phải biết gìn giữ sức khỏe, sô'ng lành mạnh,
xây dựng một tinh thần minh mẫn, một nghị lực sô'ng cùng niềm lạc quan tin
yêu trước cuộc sông để đưa đến sự thành công, cuộc sô'ng có ý nghĩa.

Để tuyển sinh: Anh (chị) giải thích ý kiến sau: “N iềm lạ c q u a n g ó p


p h ầ n d e m lạ i g i á tr ị c h o co n n gư ời trư ớ c c u ộ c s ố n g ”

ÌSỈững kiến th ứ c cầ n nắm:


1. Có ý kiến rằng: “Tinh thần lạc quan sẽ đem lại thành công năm mươi phần
trăm (50%)”.(hời nhận định)
2. Trong nhật kí của bác sĩ Đặng Thùy Trâm có ghi: “Đời trải qua nhiều giông tổ
nhưng chớ cúi đầu trước giông tổ” (Đặng Thùy Trâm).
3. Có lời nhận định; “Mất tiền bạc mất ít. Đánh mất niềm lạc quan là đáĩih mất
một phần lớn giá trị của con ngitòi trước cuộc sông”. (Lời nhận định)
4. Thủ tướng Anh Churchil trong những ngày đen tô'i của chiến tranh thế giới
lần thứ hai nhưng trước mọi người, ông vẫn khẳng định; “Nước Anh sẽ chiến
thắng”. (Đồng minh đã thắng Phát xít trong Chiến tranh Thê' giới lần Thứ
hai từ 1939 - 1945).
5. Triết gia người Áo - bà Nayrac có nói: “Niềm vui là hương thơm của cuộc đời,
làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ”. (Bà Nayrac)
6. Lời người xưa có nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, hay “ơ bầu thì
tròn, ở ông thì dài”. (Lời người xưa)

HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI
- Sử dụng đoạn văn ngắn hay một lời nhận định liên quan đến đề bài. Sau đó
giới thiệu đề bài và viê't câu chuyến ý (nếu cần).

305
II. PHÂN THÂN BÀI: Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích hai từ “lạc quan là gìT’ đôl lập với lạc quan là “hi quan”
có ý nghĩa gì?
2. Sau đó dựa vào đề bài đưa ra những những luận điểm:
+ Luận điểm 1: Tại sao niềm lạc quan góp phần đem lại giá trị cho con người
trước cuộc sông?
+ Luận điểm 2: Đế củng cô niềm lạc quan, chúng ta cần có biện pháp gì?
(vận dụng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ).
III. PHẦN KẾT BÀI
- Khẳng định giá trị của đề bài.
- Liên hệ bản thân (nếu có).

B. PHẦN THựC HÀNH


I. PHẦN MỞ BÀI:

“Tinh thần lạc quan sẽ đem lại thành công năm mươi phần trăm (50%)”.
(Lời nhận định)
Phải chăng, niềm lạc quan là một trong những yếu tô' quyết định sự thành
công đôi với con người trước cuộc sô'ng. Lời nhận định ấy, phù hợp với ý kiến của
đề bài: “Niềm lạc quan góp phần đem lại giá trị cho con người trước cuộc sống”.
Đế hiểu rõ giá trị về ý kiến trên, chúng ta lần lượt giải thích.

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện;
1. Trước tiên cầ n giải thích hai từ “lạc quan là g i7 ” Từ “lạc” theo nghĩa
chữ Hán là “vui, hi vọng, tin yêu, hoan hỉ”. Vậy lạc quan là quan niệm sông
bằng niềm tin yêu, hi vọng ở phía trước, luôn luôn tự tin chính mình. Đô'i lập
với “lạc quan” là “bi quan”. Bi là sầu là buồn lo âu bế tắc. Thể hiện một quan
niệm sông buồn chán, mất phương hướng, tiêu cực dẫn đến thất bại.
2. Tại sao niềm lạc quan góp phần đem lại giá trị cho con người
trước cuộc sông?
Niềm lạc quan đem lại sự thành công trong công việc, không phải là yếu tố
quyết định mà ngoài niềm lạc quan, con người phải có năng lực, trí tuệ, bản lĩnh
cùng sự quyết tâm. Niềm lạc quan như là chất xúc tác, một thứ nhu cầu tinh
thần, nguồn động viên trợ lực giúp cho con người tin yêu hi vọng trước cuộc
sống, trước công việc hay nhiệm vụ của chính mình đang thực hiện. Nó tạo cho
con người thêm tự tin, hưng phấn để có sự quyết đoán, đúng đắn mang lại hiệu
quả nhất định. Ngược lại nếu con người do dự, hoài nghi thiếu tự tin trước công
việc, thì dễ đánh mất phương hướng và đưa đến sự thất bại. Như vậy niềm lạc
quan là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công, góp phần đem lại
giá trị cho con người trước cuộc sông.
306
Dần chứng: Thủ tướng Anh - Churchil trước tình thế khó khăn của Đồng
minh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945). Nhưng đứng trước mọi
người, ông vẫn tin “nước Ánh sẽ chiến thắng” vì ông nắm rõ được thế cờ, thế
nước với niềm hi vọng lạc quan và cuôl cùng Đồng minh đã thắng Phát xít hay
người chiến sĩ Cộng sản Hồ Chí Minh trong những ngày tháng tù đày tại Trung
Quô'c nhưng Người vẫn tin yêu một ngày mai tươi sáng, “ánh hồng trước mặt đã
bừng soi”. Chẳng bao lâu, cuộc cách mạng tháng tám thành công, nhân dân ta
đã giành lại chính quyền từ tay Phát xít Nhật để viết lên bản “Tuyên ngôn Độc
lập” trong niềm sung sướng tự hào của dân tộc. Như vậy, bất cứ mọi công việc,
mọi dự định sẽ thực hiện, ta luôn luôn tự tin ở chính bản thân mình, tin vào
công việc đang thực hiện với tinh thần chủ động, sẽ tạo cho ta niềm lạc quan
trước công việc. Khi bước vào công việc, nếu được giao việc, ta không nên rút lui,
từ chô'i, thôi thác. Nếu ta từ chôl, ta sẽ trở thành kẻ thiếu tự tin, và không ai tin
tưởng giao việc cho ta nữa. Nếu gặp thất bại, ta chỉ xem đó là trường hợp “nhất
thời, cá biệt” không mang tính phổ biến, lâu dài. Ta vẫn xem đó là chuyện nhỏ
và luôn luôn nghỉ rằng: “thất bại là sự trải nghiệm đ ể dẫn đến thành công”,
“thua keo này bày keo khác” từ đó sẽ tạo cho ta vững tin và bản lĩnh hơn để
khẳng định chính mình trước cuộc sông.
3. Đê củng cô niềm lạc quan ở mỗi con người, ta cần phải làm gì?
Để tạo chất lửa, niềm tin yêu, hi vọng trước mọi công việc, mọi dự định sẽ
đem lại sự thành công, mang tính khả thi, mỗi chúng ta cần lưu ý. Phải tránh
xa những vấn đề tiêu cực, những kẻ hoài nghi, tránh xa những con người thường
kêu ca, than vãn, buông xuôi, bê tắc trước công việc vì “gần mực thì đen, gần
đèn thì sáng”. Phải tạo cho chúng ta một tinh thần chủ động, tránh dựa vào
người khác, ỷ lại vào gia đình và những thế lực khác. Phải luôn luôn tin tưởng ở
chính mình. Phải tạo cho mình một sức khỏe tô't nhằm phát huy hết năng lực,
thực lực, tạo sự hưng phấn cho tâm hồn vì: “Niềm vui là hương thơm của cuộc
đời, làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ” (Nayrac). Chứng tỏ niềm lạc quan góp
phần đem lại sự thành công.

III. PHẦN KẾT BÀI


Qua phần giải thích ý kiến trên, cho chúng ta một bài học quý báu về niềm
lạc quan. Lạc quan mãi mãi là thứ nhu cầu tinh thần là nguồn động viên tiếp
sức trợ lực cho mồi người trước mọi công việc trong cuộc sống. Dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào, khó khàn nào, chúng ta cần bình tĩnh, tự tin, lạc quan, để từng
bước giải quyết công việc thì sẽ mang lại sự thành công nhất định. Đây là ý
kiến có giá trị thiết thực. Quả thật: “Mất tiền bạc mất ít nhưng đánh mất niềm
lạc quan là đánh mất một phần giá trị của con người trước cuộc sống”.

307
Đề tuyển sinh: “T ự ti v à tự p h ụ l à h a i t h á i đ ộ t r á i n g ư ợ c n h a u đ ều
ả n h h ư ở n g k h ô n g tố t d ế n tư c á c h số n g c ủ a m ột c o n n g ư ờ i”. Anh
(chị) giải thích ý kiên trê n và nêu lên suy nghĩ củ a bản thân.

iỉĩìững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng; “Tự tin tạo cho ta tính tự chủ, một yếu tố quan trọng đưa đến
sự thành công". (Lời nhận định)
2. SêKhôp (văn hào Nga) có nói: “Tự ti biến con người thành hèn nhát, yếu đuối
thành một kẻ thất bại". (SêKhôp)
3. Cố nhân có nói: “Cao nhân tất hữu, cao nhân trị". Ý nói, đừng tự cho ta là cao
là hơn người, sẽ có kẻ khác cao hơn ta, trị ta. (Lời người xưa)
4. Binh pháp của Tôn Tử (Trung Quôh) có nói: “Biết mình, biết người trâm trận
trăm thắng". (Tôn Tử)
5. Ngạn ngữ phương tây có nói: “Con người là một lữ hành đang tìm về tuyệt dối".
6. Có lời rằng: “Con voi dữ sẽ có người nài hay". (Lời nhận định)
7. Có ý kiến rằng: “Tính khiêm tốn tạo nên sự thân thiện, quý mến của mọi
người". (Lời nhận định)

HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI:
- Sử dụng một nhận định, một ý kiến có liên quan đến đề bài.
- Sau đó giới thiệu đề bài và viết câu chuyến ý (nếu cần).
II. PHẦN t h â n BÀI: Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích những từ ngữ chính: “Tự ti là gì? Tự phụ là gì?”.
2. Tác hại của “tự ti và tự phụ” đến tư cách sống của một con người là thế nào?
(vận dụng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ).
3. Cần phải có biện pháp gì nhằm khắc phục hai thái độ trên?
4. Liên hệ bản thân.
III. PHẦN KẾT BÀI:
- Khẳng định giá trị đề bài.

B. PHẦN THựC lĩÀNH


I. PHẦN MỞ BÀI
“Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng".
(Tôn Tử).
Phải chăng, đứng trước cuộc sôhg, nếu chúng ta có thái độ tự ti thái quá sẽ
trở nên kẻ tiêu cực hèn nhát, nếu ta có thái độ tự phụ, kiêu ngạo, chúng ta sẽ
308
trở thành kẻ tự đắc, hông hách là những căn bệnh của thời đại, cần phải tránh
vì nó ảnh hưởng không tôt đến tư cách sông của con người. Đúng như ý kiến đề
bài: “Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược nhau nhưng đều ảnh hưởng
không tốt đến tư cách sống của một con người".

II. PHÂN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần giải thích “tự ti và tự phụ là gì?”
Tự ti là tự đánh giá thấp về mình, không tin tưởng mình, thiếu tự tin ở bản
thân. Nó trở thành thụ động, nhu nhược, tiêu cực và hèn nhát, ngược lại, tự phụ
là tự đề cao bản thân, đánh giá quá cao về năng lực, thành tích của mình, không
đúng với thực chất cửa bản thân, xem thường người khác, xem mình là cái rôn
của vũ trụ, huênh hoang, tự kiêu, tự mãn.
2. Vậy th ái dộ tự ti và tự phụ tá c hại ra sao đến tư cá ch sống của
một con người?
“Thái độ tự ti" là biểu hiện sự yếu kém của mình, không tự tin trước công
việc hay một vấn đề nào đó, biến mình thành kẻ thụ động, tiêu cực, hèn nhát.
Dẩn ch ứ n g : Một học sinh không giải được bài toán khó, có định kiến, cho
rằng mình kém về toán, đâm ra mặc cảm, lo sợ, mất tự tin, hụt hẫng, tạo nên
một khoảng cách về môn học và càng làm cho mình yếu kém hơn, thua thiệt
bạn bè.
N hân m ạnh: Chúng ta cần hiểu rằng trên đời này không ai là hoàn toàn
tuyệt đôi vì: “Con người là một lữ hành đang tìm về tuyệt đối”. Như vậy, mỗi
người đều có mặt mạnh, mặt yếu, mặt tô"t, mặt xấu nhâ't định. Nếu biết nắm bắt
điếm mạnh đế phát huy, khai thác ta sẽ trở nên hoàn thiện, tiến bộ, bên cạnh
đó cần phải tôi luyện, rèn luyện mặt yếu, phải phấn đâu, học hỏi, tìm tòi từng
bước khắc phục những yếu điểm như lời ông bà ta thường nói: “Có công mài sắt
có ngày nên kim”. Nếu mình bi quan về mặt yếu, rồi đâm ra lo lắng thì càng
lúng túng và bế tắc hơn, đánh mất niềm tin và đánh mất cả những mặt tích cực,
mặt mạnh khác, là đánh mất giá trị và tư cách sông của chính bản thân. Chúng
ta cần hiếu rằng giữa mặt tô't và mặt xấu, tích cực hay hạn chế cũng là sự hiển
nhiên ở mỗi con người, nhưng vấn đề là biết khắc phục như thế nào? và chúng
ta nên nhớ rằng khi mình không tin tưởng ở chính mình thì làm sao người khác
tin tưởng vào mình, bạn sẽ tự cô lập vì có ai tin tưởng, dám giao công việc cho
bạn khi bạn đã đánh mất niềm tin. Chính thái độ tự ti, sẽ làm cho mình khi
đứng trước mọi người, chúng ta cảm thấy nhỏ nhoi thấp bé, tự biến mình thành
con ôc, co cụm trong vỏ bọc của nó như “một kiểu người trong bọc”, như “êch
ngồi đáy giếng” càng khiến chúng ta trở nên nhu nhược, thụ động, hèn nhát cuôì
cùng chỉ biết dựa vào người khác như lời nhận định của Sê Khô"p (Văn hào Nga):
“Tự ti biến con người thành hèn nhát, yếu đuối, thành một kẻ thất bại”. Như

309
vậy: “thái độ tự phụ” được hiểu như thê nào? Thái độ tự phụ là luôn luôn tự đề cao
mình, đánh giá quá cao, không đúng với năng lực, thực chất của chính bản thân,
xem thường người khác. Thái độ tự phụ làm cho con người tự kiêu, tự mãn, hài
lòng với chính mình, hài lòng với những gì mà mình đã có, không cần cố gắng
phấn đấu, học hỏi, khám phá trước cái mới và nếu quá tự phụ sẽ dễ rơi vào ảo
tưởng, lệch lạch ở bản thân. Và thái độ tự phụ còn đề cao quá mức về bản thân,
cho mình cái ^ cũng đúng, coi thường người khác. Nhưng ta phải hiểu rằng, trong
binh pháp Tôn Tử đã từng nói: “Biết minh, biết người, trăm trận trăm thắng”.
Như vậy, khi biết tự đánh giá đúng về khả năng của mình và nắm bắt, đánh giá
về khả năng của người khác thì mới có cách ứng xử hợp lí để đưa chúng ta đến
thành công.
3. Cần phải có biện pháp gì để khắc phục về hai thái độ trên ?
- Về thái độ tự ti: Phải phá vỡ định kiến tự ti mặc cảm ở chính mình, nếu
không ta sẽ trở nên hèn nhát, thụ động không dám đối mặt với thách thức và
không có cơ hội khẳng định chính mình, không khám phá những năng lực tiềm
tàng của chính mình. Phải biết đối mặt với mọi thử thách để khẳng định chính
mình trước cuộc sống. Không nên đánh giá quá thấp về bản thân. Nếu có thái độ
như thế, sẽ hạ thấp hình ảnh của mình trong mắt mọi người. Phải soi rọi ở chính
bản thần để từng bước xóa đi định kiến cũ về tự ti. Nếu không tự mình đánh mất
cơ hội trước cuộc sống, đồng thời tự cô lập, sống khép kín cuô'i cùng có thể đưa đến
căn “bệnh trầm cảm”.
Về thái độ tự phụ: Nếu còn thái độ tự phụ sẽ không có tinh thần cầu tiến, học
hỏi, nghiên cứu thì làm sao tài năng phát huy tô"t đẹp theo xu thế phát triển của
xã hội, của thời đại. Nếu ngọc không mài, không giũa thì làm sao ngọc sáng, ngọc
quý. Nếu con người không tôi luyện, cầu thị sẽ đưa đến sự tụt hậu ở chính mình.
Phải tự nhìn lại và soi rọi ở bản thân vì cuộc sống là vô cùng, mà sự hiểu biết của
con người là giới hạn. Như vậy phải biết cầu tiến, học hỏi những kiến thức mới,
phải “học, học nữa, học mãi” phải biết cập nhật hóa để bản thân khỏi tụt hậu.
Phải mạnh dạn xóa bỏ thái độ tự phụ để thích nghi, hòa nhập vào cuộc sống. Nếu
không sẽ biến mình thành kẻ lập dị, phô trương, khoác lác trong mắt mọi người
và cuôl cùng chuôh lấy sự thất bại. Như vậy, nếu thái độ tự ti và tự phụ không
khắc phục được, sẽ trở thành kẻ tụt hậu, lạc hậu ngay trong xã hội mình đang
sông và chuốc lấy thất bại.
4. Liên hệ bản thân; Qua phần giải thích về thái độ tự ti và tự phụ, giúp cho
mỗi chúng ta cần phải có một suy nghĩ đúng đán trước cuộc sôhg. Mỗi người, phải tự
nhìn lại chính bản thân, phải biết yêu quý bản thân, yêu quý những gì mà mình có
và tin tưởng những gì mình có thế làm được và phải luôn luôn tự tin trước cuộc
sống, tự đánh giá đúng đắn chính bản thân mình, là thể hiện lòng tự trọng. Và phải
luôn luôn nhớ rằng trong cuộc sống này, “không có ai dại để cho mình khôn bao
giơ”, “con voi dữ sẽ có người nài hay”. Những ai còn có thái độ tự phụ, tự kiêu, tự

310
cao, tự đại, tự cho mình là nhất thiên hạ thì hãy nên nhớ lời người xưa có nói:“Coo
nhân tất hữu, cao nhân trị”.

III. PHẦN K ẾT BÀI:


Quả thật, ý kiến trên là bài học thiết thực cho mọi người, mọi thời đại để mỗi
chúng ta biết nhìn lại mình mà điều chỉnh mặt mạnh cần phát huy cho tô"t hơn
và mặt yếu cần phải khắc phục sửa sai, xóa bỏ định kiến, mặc cảm, cùng tính tự
cao, tự đại, từng bước hoàn thiện bản thân để cuộc sông có ý nghĩa.

Đề tuyển sinh: Có ý kiến rằng:


“N ếu k h ô n g có m ục đích, bạn sẽ k h ông làm được g ì cả và bạn
cũ n g k h ô n g làm dược n h ữ n g điều vĩ đại với cả n h ữ n g m ục đích
tầm th ư ờ n g ”. (Điđơrô)
Anh (chị) giải thích ý kiến trê n và từ ý kiến ây, cho anh (chị)
những suy nghĩ gì về quan niệm sông của bản th ân hiện nay?

5SĨững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Người thanh niên tiêu biểu của Thành phô" Hồ Chí Minh năm 2007, anh
Nguyễn Hữu Ân đã chia chiếc bánh thời gian thật hợp lí với mục đích sông vì
mọi người.
2. Lời hay ý đẹp trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh: “Làm sao được tan ra...
Giữa biển lớn tình yêu”. (Sóng - Xuân Quỳnh)
3. Nhà bác học Pasteur đã tìm ra chất văcxin chông lại bệnh chó dại.
4. Vợ chồng nhà bác học Marie-Curie tìm ra chất Uranium nhằm phục vụ cho
nhân loại.
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP d à n ý
I. PHẦN MỞ BÀI:
- Sử dụng đoạn văn ngắn hay một lời nhận định có nội dung liên quan đên
đề bài. Sau đó giới thiệu đề bài.
II. PHẦN THÂN BÀI:
1. Trước tiên cần giải thích “mục đích ỉà gỉ?”. Tiếp đến nêu lên “mục đích cao
đẹp” và “mí/c đích tầm thường” là thế nào?
2. Tại sao không có mục đích thì không làm được gì cả? (Vận dụng lí lẽ và
dẫn chứng đế làm sáng tỏ).
3. Tại sao bạn sẽ không làm những điều vĩ đại nếu chỉ có mục đích tầm
thường? (Vận dụng lí lẽ và dẫn chứng đế làm sáng tỏ).

311
4. Liên hệ bản thân. Ý kiến trên cho anh (chị) những suy nghi ^ về quan
niệm sông của bản thân hiện nay?
III. PHẦN KẾT BÀI:
- Khẳng định giá trị của đề bài.
HƯỚNG DẪN
B. PHẦN TH ựC HÀNH
I. PHẦN MỞ BÀI:
- Trong xã hội, có người thành đạt, toại nguyện trong công việc, có người
thất bại cho đến cuôl đời. Có người lại sống vô tâm, vô tư không cần biết sông
để làm gì? Và sông như thế nào? Phải chăng, sự thành công trước công việc xuất
phát từ những nguyên nhân mà nguyên nhân sâu xa, chủ yếu là “tính mục đích".
Đúng như ý kiến: “Nếu không có mục đích, bạn sẽ không làm được gì cả và bạn
củng không làm được những điều vĩ đại với những mục đích tầm thường”. Để
hiểu rõ ý kiến trên, chúng ta cần giải thích từ đó nêu lên những suy nghĩ về
quan niệm sông của mỗi chúng ta hiện nay.

II. PHÂN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiê n cầ n g iả i th ích từ ngữ “m ục đ ích là g ì? ” “Mục đích” là mục
tiêu để hướng tới xuất phát từ nhận thức và hành động con người, khác gì như
một kim chỉ nam giúp cho con người đi đúng đường, đúng hướng, thực hiện hoài
bão, lẽ sôhg. “Tính mục đích” là hướng cho con người vươn đến sự thành công
dựa vào mục đích đã chọn lựa. Nghĩ về mục đích sẽ có những mục đích cao
thượng, những lẽ sông đẹp điển hình như những nhà khoa học, bác học bằng
năng lực, trí tuệ, tâm huyết, họ khám phá những sản phẩm, nghiên cứu những
công trình khoa học nhằm phục vụ cho con người cho nhân loại như nhà bác học
Pasteur tìm ra loại vắcxin chôhg bệnh chó dại hay vợ chồng nhà bác học Marie
Curie họ đã hi sinh cả cuộc đời và hạnh phúc để tìm ra châ"t Uranium nhằm
phục vụ cho nhân loại. Nghĩ về tính mục đích có hai loại, mục đích cao đẹp và
mục đích tầm thường.
- Mục đích cao đẹp: thể hiện lẽ sông đẹp, hướng con người đến chân thiện mỹ,
như hình ảnh người lính cứu hỏa xông vào đám cháy để bảo vệ tài sản sinh mạng
cho nhân dân, hình ảnh chiến dịch “Mùa hề xanh" của thanh niên, sinh viên
Thành phố Hồ Chí Minh, họ thực hiện vì mục đích cho cộng đồng cho môi trường.
- Mục đích tầm thường: Thể hiện lôi sôhg ích kỉ, chỉ biết phục vụ cho mục
đích cá nhân, cho “cái tôi”, cho gia đình riêng của họ. Họ không nghĩ về cộng
đồng về người khác. Họ sông theo lôi “Mackeno” (Mặc kệ nó) chỉ biết: “Hạnh
phúc đựng trong một tà áo đẹp” hay “Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”.
Họ chỉ biết “đèn nhà ai nấy sáng”.
312
2. T ại sao k hông có m ục đích th ì ta sẽ không làm đưỢc gì cả?: Vì mục
đích là phương hướng là kim chỉ nam dẫn đường đưa lôl cho mọi hoạt động của
con người trước cuộc sống như ngọn đèn soi đường hướng đến sự thành công. Có
mục đích, con người mới có động lực thúc đẩy trong công việc, mới có niềm tin
và niềm vui trong công việc. “Tính mục đích” khác gì như một chất xúc tác, chất
men luôn luôn trợ lực, giúp con người vươn tới sự thành công. Nếu không có mục
đích là không có phương hướng, định hướng, con người có khác ^ như thuyền
không lái, ngựa không cương, đàn không dây, không biết đâu là bến bờ, bãi đậu
rồi sẽ đi vào con đường lầm lạc, tăm tôl. Lúc ấy, con người trở nên thụ động, bất
lực, bế tắc, trở thành kẻ vô dụng, bạc nhược có khác gì như những kẻ sông thừa,
sông không có ngày mai.
3. T ạ i sao b ạn sẽ không làm đưỢc những điều vĩ đại nếu ch ỉ có mục
đích tầm thường?: cần hiểu rõ cụm từ “mục đích tầm thường" mà ta vừa đề
cập ở phần trên nhằm ám chỉ những kẻ chỉ biết sôhg cho riêng mình, cho quyền
lợi cá nhân, hay cho gia đình mà không hề nghỉ đến những người xung quanh,
đó là lôl sông ích kỉ tầm thường, lôl sông chật hẹp, nhỏ nhoi thì làm sao những
con người ấy, có những ý nghĩ rộng lớn để thực hiện những điều cao đẹp. Chúng
ta luôn luôn nhớ rằng, muôn làm những gì to lớn vĩ đại thì bạn phải có một trí
tuệ vĩ đại, một trái tim vĩ đại nhưng với lôì sông tầm thường, mục đích nhỏ
nhoi, hạn hẹp thì làm sao nghĩ đến điều vĩ đại, cao siêu, chỉ là mơ hồ ảo tưởng.
Mở rộng: Chúng ta còn nhớ, có những con người rất bình dị, mộc mạc trước
cuộc sông nhưng họ có lôl sông đẹp, tâm hồn đẹp, vì mục đích cao quý, họ biết
đem “cái tôi” hòa cùng với “cái ta”, biết sống cho cộng đồng và muốn được cống
hiến đế mang lại sự tốt đẹp cho xã hội và những hành động của họ bao giờ cũng
làm đẹp cho đời. Họ là ai? Hình ảnh người thanh niên Nguyễn Hữu Ân tiêu biểu
cho thanh niên Thành phô' Hồ Chí Minh năm 2007, anh là một người sinh viên
nghèo trên vùng đất Quảng Trị nhưng vẫn thê hiện một lẽ sông đẹp vì cộng
đồng hay nghệ sĩ Thế Vinh trước hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận, khi hai
bàn tay không còn nguyên vẹn nhưng anh trở thành một người nghệ sĩ tài năng,
tâm huyết biết sông cho cộng đồng vì những trẻ em nghèo khuyết tật không nơi
nương tựa.
4. Từ ý k iến trên, mỗi chúng ta đề ra quan niệm sống cho bản th ân như
thê nào?
Hiện nay bản thân em còn ngồi ở ghê nhà trường và tiếp tục sẽ bước vào
giảng đường đại học. Em bận tâm điều trước mắt về mục đích hiện nay của em
là “học đ ể làm gỉ?" và “học như thế nào?” đế mang lại giá trị cho cuộc sông. Đây
là một mục đích, định hướng là lẽ sôhg để em hướng về tương lai. Với em cần
xác định rõ “Học” không chỉ làm vui lòng cha mẹ, gia đình, học không chỉ là

313
cuộc vui chơi với bạn bè, học không phải đế đánh bóng cho tên tuổi, bản thân
mình mà phải xác định là “học" để mở mang kiến thức, trau dồi kiến thức từ
sách vở nhà trường, giảng đường. Học phải tự rèn luyện, tự học để tạo cho bản
thân một nàng lực nhất định, phải biết sử dụng, phải biến kiến thức từ sách vở
ở giảng đường thành những “tri thức sông" đế ứng dụng vào cuộc sông khi bước
vào đời, góp phần đem lại giá trị cho bản thân cho xã hội đó là “mục đích sống"
của em hiện nay và việc học tập của em hôm nay sẽ quyết định tương lai của đất
nước ngày mai. Chứng tỏ bản thân em đã có một định hướng đúng để hướng đến
những điều cao đẹp trước cuộc sông, và làm sao trở thành những con ong luôn
luôn biết đem hương thơm, mật ngọt đến cho đời để cuộc sông có ý nghĩa, đó là
giá trị thiết thực cũng là điều vĩ đại đôl với bản thân em.

III. PHẦN KẾT BÀI


Quả thật, ý kiến trên là bài học vô cùng quý báu cho mỗi con người trước cuộc
sông. Chúng ta phải có một nhận thức đúng để làm sao thực hiện mục đích cao
đẹp vì cộng đồng, vì sự phát triển của xã hội, sự giàu đẹp của đất nước, là biết
đem “cái tôi" hòa cùng với “cái ta", hòa vào biển lớn tình yêu, biển lớn cuộc đời
là mục đích sông đẹp là những điều vĩ đại của mỗi chúng ta hiện nay.

Để tuyển sinh: Anh chị hiểu th ế nào là “c o n n g ư ờ i c ó v ă n h ó a ? ”.


Theo Anh (chị) thích làm con n g ư ờ i có văn hóa hay con n g ư ờ i có
học thức?

ỊSÌ ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Người xưa có câu: “Chim khôn hót tiếng rãnh rang. Người khôn nói tiếng dịu
dàng dễ nghe". (Lời người xưa)
2. Danh ngôn có câu: “Văn hóa là những gì còn lại sau khi người ta quên tất cả".
(Danh ngôn)
3. Quan niệm vàn hóa của Unesco; “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người và loài người sáng tạo ra trong lịch sử ’. (Lời nhận định)
4. Quan niệm vàn hóa theo nghĩa thông thường; “Văn hóa là cách ứng xử trong
cộng dồng sao cho là phải, là đúng, là hay”.
5. Lời cố nhân có nói: “ồn cố nhi tri tân". Ý nói: “Biết đón nhận cái mới nhưng
phải biết gìn giữ cái cũ có giá trị tốt dẹp". (Lời người xưa)
6. Có ý kiến rằng: “Ăn đ ể nuôi người, học đ ể nuôi đời”.
7. Lời người xưa có nói: “Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau”. (Lời người xưa)

314
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH L Ậ P DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI
Vận dụng một nhận định hay một lời nói nào đó phù hợp với đề bài. Sau đó
giới thiệu đề bài (viết chuyến ý nếu cần).
II. PHẦN THÂN BÀI
Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần giải thích hai từ “Văn hóa" là thế nào?
2. Sau đó dựa vào đề bài đế bàn luận mở rộng;
a. Luận điểm 1: Một con người có văn hóa là con người biểu hiện như thế
nào? (Lí lẽ và dẫn chứng).
b. Luận điểm 2: Làm thế nào để bảo vệ, gìn giữ và phát huy những yếu tô
văn hóa trong mỗi con người? (Lí lẽ và dẫn chứng).
c. Luận điểm 3: Như vậy, muốn làm người có văn hóa hay làm người có học thức?
HI. PHẦN KẾT BÀI
Khẳng định giá trị của đề bài.

B. PHẦN TH ựC HÀNH
I. PHẦN MỞ BÀI:
“Chim khôn hót tiếng rảnh rang.
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.
(Ca dao)
Phải chăng, người ăn nói dịu dàng, dễ nghe thuyết phục người khác là biểu
hiện nét văn hóa, con người có văn hóa. Vậy văn hóa có ý nghĩa như thế nào?
Và thế nào là con người có văn hóa? Mỗi chúng ta thích làm người có văn hóa
hay con người có học thức? Những câu hỏi trên chúng ta lần lượt giải thích.
II. PHẦN THÂN BÀI
Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên cần hiểu rõ hai từ “Văn hóa” là gì?: Văn hóa là một phạm trù
rất rộng. Theo quan niệm thông thường: “Văn hóa là cách ứng xử trong cộng dồng
sao cho là phải, là đúng, là hay”. Và theo quan niệm của Unesco về hai chữ văn
hóa: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con ngiứn và loài
người sáng tạo ra trong lịch sử ’. Như vậy văn hóa bao gồm những giá trị thuộc về
vật thế và phi vật thể.
2. Sau đó dựa vào đề bài để bàn luận mở rộng:
Luận diểm 1: Như vậy người có vàn hóa biểu hiện như thế nào trước cuộc sống?
- Sự hiện hữu của con người trước cuộc sông gắn với nhiều hoạt động như nói
năng, cử chỉ, cách ăn mặc. Trước mỗi hành động đó, văn hóa của con người sẽ
315
thể hiện, lộ ra bên ngoài. Như vậy con người có vàn hóa là người biết cách ứng
xử làm sao hài hòa thích nghi với mọi người, đem lại sự quý mến của những
người xung quanh.
- Về cách ăn nói: Người có vàn hóa bao giờ cũng nói năng điềm đạm, chân
thành, nhã nhặn, phải “uốn lưỡi nhiều lần trước khi nói”. Đế phân biệt sự giàu
nghèo trong xã hội, người ta dựa vào tài sản và đế phân biệt nét văn hóa của
con người, người ta dựa vào ngôn ngữ. Người có văn hóa thường biết sử dụng từ
vựng tinh tế, đẹp đẽ và sử dụng đúng nơi, đúng chỗ. Ngược lại kẻ không có văn
hóa, lúc nào cũng có thể ăn nói cộc lóc, thô lỗ, văn tục, thiếu suy nghĩ.
- Về cách ăn mặc: Người có văn hóa bao giờ cũng biết ăn mặc tươm tâi, phù hợp
với công việc, tuổi tác, mức sống, phù hợp với không gian sinh hoạt. Người có văn
hóa sẽ không mặc bộ váy ngắn, hở hang, cũn cỡn đến những nơi tôn nghiêm như
nhà thờ, đền, chùa, miếu thờ. Người có vàn hóa cũng không đi dự đám cưới bằng áo
thun, quần bó hay đi dự đám tang với chiếc áo sặc sỡ nhiều màu. Chúng ta trở nên
vô duyên, lạc lõng nếu không biết cách ăn mặc, việc trang điểm phải phù hợp với
không gian, môi trường, hoàn cảnh sống. Lời người xưa từng nói: “quen sợ dạ, lạ sợ
áo quần” đó sao!
- Về cử chỉ, thái độ: Người có văn hóa là người có cử chỉ, thái độ đúng mực,
không kiều cách giả tạo cũng không quá buông tuồng, cũng không khúm núm, sợ
sệt hay hông hách, phách lối. Trong mọi cử chỉ ăn uô'ng, đi đứng, nằm, ngồi,
người có văn hóa thường giữ cho mình một phong thái đường hoàng, chuẩn mực.
Chúng ta nên hiểu rằng, nếu ai đó hồn nhiên, vô tư nói chuyện điện thoại quá
lớn giữa phòng họp, lớp học, hay giảng đường là cử chỉ thiếu văn hóa hay một
thanh niên trẻ trung lại dửng dưng vô cảm khi thấy một cụ già không có chỗ
ngồi trên xe buýt là cử chỉ phi văn hóa hay có một sô" người chặt phá cây xanh,
bỏ rác, phóng uế bừa bãi không đúng nơi quy định, tất cả những người ấy làm gì
là người có văn hóa. Lời danh ngôn có nói: “Văn hóa là những gì còn lại sau khi
người ta quên tất cả”. Như vậy những gì còn lại là “những giá trị chuẩn mực”,
cao đẹp thuộc về con người. Vậy người có văn hóa có ảnh hưởng rất lớn đến
người khác. Họ luôn luôn mang đến cho người được tiếp xúc một sự thân thiện,
quý mến, ngưỡng mộ.
Luận diểm 2: Vậy làm thế nào để bảo vệ, gìn giữ và phát huy những yếu tố
văn hóa trong mỗi con người?
Theo chúng ta, cuộc sống hiện đại ngày nay, sẽ mang nhiều điều mới mẻ, hấp
dẫn làm thăng hoa cho cuộc sông nhưng cũng kéo theo nhiều thứ độc hại và có
những thứ đã xâm hại nét văn hóa của con người. Vậy trước tiên, chúng ta
phải nhận thức đâu là “những giá trị văn hóa đích thực” và đâu là “những giá
trị phi văn hóa”. Nhận thức được điều đó, chúng ta sẽ xác định cho mình một
thái độ đúng đắn phù hợp trước cuộc sông. Cái gì cần phải học tập, noi gương,
phát huy và điều gì cần bài trừ, lên án. Chúng ta phải luôn luôn ý thức, hướng

316
đến những giá trị vàn hóa của loài người, những tinh hoa văn hóa của nhân
loại, phải biết; “ôn cố nhi tri tân”, phải ra sức nỗ lực học tập, nâng cao trình
độ hiểu biết đế chủ động trong việc ứng xử đúng mực với cộng đồng, tập thể,
phải đôi nhân xử th ế khéo léo, tế nhị, tầm lí với mọi người nhằm tạo niềm tin,
sự quý mến và ngưỡng mộ của người khác, những người xung quanh mình,
chính là con người có văn hóa.
Luận điếm 3: Trước cuộc sống hiện nay, bản thân của mỗi chúng ta muôn
làm người có văn hóa hay làm người có học thức?
Theo em hiện nay, để làm người có văn hóa là một vấn đề thiết thực đôi với
bản thân nhằm khẳng định giá trị của chính mình trước cuộc sông. Người có
văn hóa bao giờ cũng nhận thức đúng đắn, chuẩn mực về cách ứng xử, giao tiếp
trước mọi người xung quanh như cách àn nói, cử chỉ, thái độ kể cả trang phục
nhằm tạo sự thân thiện, quý mến đôl với mọi người, tạo cho mình một tư thế
đường hoàng trước cuộc sông đó là những yếu tô" cần thiết nhằm nâng cao giá trị
cho bản thân, đem lại những hiệu quả thiết thực trong cuộc sông. Vì thế, được
làm một người có văn hóa là niềm vinh dự, hạnh phúc của chính mình. Cuộc
sông được thăng hoa, đời sông nội tâm phong phú, cuộc sông có ý nghĩa. Bên
cạnh đó, làm một người có học thức cũng là điều râ"t quan trọng và cần thiết của
mỗi chúng ta hiện nay trước cuộc sông. Có học thức là có sự hiểu biết, có sự
phân biệt giữa đúng và sai, giữa chân và giả, giữa thiện và ác. Cái gì cần làm,
phát huy, gìn giữ và cái gì cần phê phán, lên án, loại bỏ. Những vấn đề ấy cần
phải có sự hiếu biết, phải có học thức, trí thức đế nắm bắt, biến những kiến thức
đã học thành những “tri thức sống" nhằm áp dụng vào cuộc sông trong quan hệ
ứng xử, giao tiếp được hoàn thiện. Lênin có nói; “Học, học nữa, học mãi”, việc
học là vô tận, kiên thức là vô cùng, mỗi người cần phải học vì “ăn d ể nuôi người,
học d ể nuôi đời”. Như vậy, làm một con người có học thức cũng là niềm vinh dự,
sung sướng, hạnh phúc như được làm một con người có văn hóa đế hình thành
một con người hoàn thiện.

II. PHẦN KẾT BÀI


Đề bài thật hay, thật gần gũi, thú vị bổ ích cho mọi người, mọi thời đại. Nó
giúp cho mỗi người tự nhìn lại chính mình trước cuộc sống trong vấn đề giao tiếp,
ứng xử như nói năng, cử chỉ, thái độ, cách ăn mặc làm sao mang lại sự quý mến,
yêu thương của mọi người, làm cho cuộc sống có ý nghĩa là người có văn hóa. Văn
hóa làm nên những ấn tượng tốt đẹp về con người. Mỗi chúng ta luôn luôn cô' gắng
mang đến cho người khác những ấn tượng tốt và đẹp từ chính bản thân mình đó
là người có văn hóa. Muốn làm một con người hoàn thiện, đời sống được thăng hoa
từ giá trị vật chất đến tinh thần, mang lại giá trị cho bản thân, cho cộng đồng thì
mỗi chúng ta cần phải biết kết hợp, song hành giữa con người có văn hóa và con
người có học thức là một.

317
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

Đề tuyển sinh: Anh (chị) nêu lên nguyên nhân cùng hậu quả và đưa
r a biện pháp để góp phần hạn chế, giảm thiểu về tai nạn giao
thông hiện nay tại thành phô chúng ta.

ÌCỈ7 ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có ý kiến rằng: “Thương hại là tự sát”. (Lời nhận định)
2. Có lời dặn dò rằng: “An toàn là bạn, tai nạn là thủ”. (Lời nhận định)
3. Có ý kiến rằng: “Nói không với phóng nhanh vượt ẩu”. (Lời nhận định)
4. Tô chức y tê thê giới WHO có dưa ra con sô" về tai nạn giao thông của thế
giới: “Trung bình trên thế giới, mỗi năm có trên mười triệu người chết do
tai nạn giao thông. Việt Nam là quốc gia dược đánh giá là tai nạn giao
thông cao nhất thế giới. Hằng ngày cả nước có ba mươi ba người chết vì tai
nạn giao thông”.
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN MỞ BÀI
Hiện nay tai nạn giao thông tại Thành phô" Hồ Chí Minh của chúng ta gia
tăng đáng báo động đem lại sự mất mát, tổn hại về người và tài sản cho gia
đình, xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước. Chúng ta cần tìm
hiểu do nguyên nhân nào? Hậu quả để lại fa sao? Và có biện pháp ^ để khắc
phục nhằm hạn chế, giảm thiểu về tai nạn giao thông tại thành phô" chúng ta
hiện nay?

II. PHẦN THÂN BÀI


A. Nguyên nhân hình thành: Tai nạn giao thông xuất phát do các phương
tiện giao thông gây nên như về đường bộ, đường thủy, đường sắt... phần lớn tai
nạn giao thông là do đường bộ.
1. Nguyên nhân khách quan; Cơ sở vật chất hạ tầng yếu kém chưa được tu
sửa đồng bộ thêm vào đó thiên tai gây nên. Con người sử dụng phương tiện càng
lúc càng tăng nhưng cơ sở hạ tầng không phát triển đồng bộ. Nếu có chỉ là phần
nhỏ chưa đáp ứng đúng với thực tế.
2. Nguyên nhân chủ quan: Ý thức tham gia giao thông ở một sô" bộ phận
người dân còn hạn chế. Họ chưa có ý thức tự giác, tự giác chưa cao nếu có cũng rất
ít, nhậu nhẹt từ ngoài đường, con hẻm đến góc phô", rượu bia có loại sản xuất không
được kiểm chứng quản lí chặt chẻ, nồng độ cao làm cho người sử dụng phương tiện
không tự chủ được. Xử lí chưa nghiêm, chưa triệt để, người sử dụng phương tiện
xem thường. Trong việc xử lí còn xảy ra hiện tượng tiêu cực.

318
B. Hậu quả của tai nạn giao thông:
- Gây tử vong, tàn phế, châh thương sọ não... theo thôhg kê của tổ chức y tế
thế giới (WHO) trung bình mỗi năm thế giới có mười triệu người chết vì tai nạn
giao thông.
- Tồ chức Y tế Thế giới (WHO) đặt Việt Nam vào quôh gia có số tử vong tỉ lệ
cao nhất thế giới. Mỗi ngày có ba mươi ba trường hợp tử vong cho cả nước. Tai
nạn giao thông trở thành "một quô'c nạn" ảnh hưởng xâu đến nhiều mặt trong
cuộc sống người dân.
- Tai nạn giao thông ảnh hưởng lâu dài đến đời sông tâm lí.
- Gia đình có người thân chết hoặc để lại di chứng nặng nề vì tai nạn giao
thông sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần và tình cảm.
- Tai nạn giao thông tăng nhanh sẽ gây tâm lí hoang mang bất ổn cho người
tham gia giao thông.
- Tai nạn giao thông đưa đến tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông.
- Tai nạn giao thông gây thiệt hại khổng lồ về kinh tế như chi phí mai táng
cho người chết, chi phí khắc phục, chi phí điều tra.
- Tai nạn giao thông tiêu hao thời gian lao động, nhân lực lao động. Vì tai
nạn giao thông gây ra tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông dẫn đến trễ giờ làm
việc, giảm năng suâd lao động. Tai nạn giao thông làm chết hoặc bị thương, ảnh
hưởng đến nguồn lực lao động của xã hội.
c . B iện pháp kh ắc phục
- Tuyên truyền cho mọi người biết về tác hại và hậu quả nghiêm trọng của
tai nạn giao thông trên các báo, đài, tivi...
- Tự giác chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ an toàn giao thông khi tham gia là
trách nhiệm của mỗi công dân.
- Phải biết quý mạng sông cùng tài sản, phương tiện do chính mình hay gia
đình tạo ra bằng mồ hôi, năng lực.
- Tồ chức các cuộc thi tìm hiểu về "luật giao thông" hay những cuộc triển lãm
về hậu quả do tai nạn giao thông gây ra. Giương cao khẩu hiệu: "Nói không với
phóng nhanh vượt ẩu"; "An toàn là bạn, tai nạn là thù".
- Lập các đội thanh niên thiện nguyện xung kích, xuống đường làm nhiệm vụ
nhằm phổ biến sâu rộng cho người dân thông hiểu về luật lệ giao thông.
- Phải báo cáo kịp thời với cơ quan, chính quyền đoàn thể nơi gần nhất
những trường hợp vi phạm an toàn giao thông như tình trạng đua xe của một sô'
thanh niên hiện nay.
- Về phía chính quyền cần xử lí nghiêm minh, triệt để, kịp thời, những
trường hợp vi phạm. Vì: "thương hại là tự sát", "tiêu cực trong hướng giải quyết
cũng là tự sát".

319
III. PHÂN K ẾT BÀI
- Tai nạn giao thông hiện nay tại thành phố của chúng ta đáng báo động.
- Mỗi người dân cần phải ý thức tự giác cao, phải biết quý mạng sông cũng
như tài sản, phương tiện đang sử dụng nhằm đảm bảo cuộc sông gia đình, hạn
chế tai nạn là việc làm khẩn thiết nhằm đem lại an sinh cho cộng đồng cho sự
phát triển của xã hội.

Đế tuyển sinh: Anh/ chị nghĩ gì về tình trạn g ô nhiễm môi trường
sống hiện nay và trá ch nhiệm của mỗi chúng ta cần phải làm gì
đế bảo vệ môi trường?

gỉ? ững kiến th ứ c cầ n nắm


1. Biến Mỹ Khê tại Thành phố Đà Nẵng bị ô nhiễm do khai thác dầu.
2. Kênh Ba Bò tại Thành phô' Hồ Chí Minh dòng nước đen ngòm, hôi thôi do
nước thải của các nhà máy.
3. Dòng sông Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu do nhà máy Vedan làm vẩn đục ô
nhiễm nặng.
4. Đế môi trường sông tôt đẹp: “Làm sao bầu trời vẫn xanh. Dòng sông vẫn
trong lành. Con đường vẫn tỏa bóng hàng cây ...”
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN MỞ BÀI
Nghĩ về môi trường sông là nghĩ đến thế giới xung quanh ta, nó giúp cho con
người sông tôt về thế chất lẫn tinh thần là tầm quan trọng râ't cần thiết cho sự
phát triển cộng đồng. Vâ'n đề môi trường được thế giới quan tâm vì nó liên quan
đến sự sông con người trên toàn cầu. Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường ở
thành phô chúng ta đang ở mức báo động và mỗi chúng ta có trách nhiệm gì đế
bảo vệ môi trường?

II. PHẦN THÂN BÀI


Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích cụm từ “môi trường sống” là thê nào?
Nói đến môi trường sông, chúng ta nghĩ ngay đến các yếu tô' tự nhiên, thiên
nhiên và yếu tô' vật châ't đang bao quanh cuộc sông con người như đất đai, cây
côi, đời sông... Nó ảnh hưởng đến cuộc sống đến sản xuất đến sự tồn tại và phát
triên của con người,j SÌnh vật trong đời sông xã hội điển hình như dòng nước
sông Đồng'Nai cung cấp nguồn nước cho người dân thành phô' qua bao thê' hệ,
cây côi ở các công viên đem lại không khí trong lành, thoát mát cho một thành
phô công nghiệp, đem lại những phút giây thư giãn cho con người sau một ngày
làm việc mệt nhọc, hay rừng đã ngăn chặn những cơn lũ tràn xuông đồng bằng.

320
2. Cần nêu lên vấn đề bị ô nhiễm hiện nay củ a môi trường:
Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay ở thành phô" nói riêng và cả nước
nói chung là tình trạng báo động, tiêu biểu như:
- Rừng bị đô"n chặt bừa bãi vì lòng tham và sự tàn nhẫn của con người.
- Biển ô nhiễm do khai thác dầu, điển hình là tại bờ biển Mỹ Khê ở Đà Nẵng.
- Ô nhiễm nguồn nước đã giết chết các dòng sông vì nước thải công nghiệp từ
các nhà máy đã làm vẩn đục, ô uế như dòng sông Thị Vải do nhà máy Vedan
làm ô nhiễm nặng.
- Bầu không khí và đâ"t cũng rơi vào sự ô nhiễm do bụi khói nhà máy, ôtô, xe
gắn máy cùng sự tập trung của người dân ở các thành thị cũng gây ra ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng.
- Đặc biệt ở các thành phô", chất thải công nghiệp và động cơ xe ôtô, xe gắn
máy đã làm chết các dòng sông, vẫn đục bầu khí quyển điển hình là “kênh Ba
Bò”, dòng nước đen ngòm, bẩn thỉu, hôi thô"i là bằng chứng rõ nhất do chất thải
công nghiệp.
- ớ nông thôn các làng nghề thủ công dùng bao ni lông hằng ngày, đổ rác
thải bừa bãi.
- Nguồn nước bị cạn kiệt dần.
- Cây côi bị chặt đôn thưa dần, có những công viên không phải là nơi để
người dân đến để thư giãn tinh thần mà trở thành địa điểm kinh doanh trục lợi.
N guyên n h ã n và biện p h á p khắc p h ụ c :
* Về nguyên nhân:
- Chủ yếu vẫn do con người.
- Kinh tế đang phát triển.
- Cách quản lí của chính quyền các cấp chưa có hiệu quả.
- Ý thức bảo vệ môi trường của người dân còn yếu kém.
- Pháp luật chưa đủ mạnh.
- Dân sô" tăng nhanh.
* Về biện pháp khắc phục
- Phải tác động ý thức của mỗi người dân, tập thể, chính quyền các cấp.
- Phải có giải pháp khoa học, kĩ thuật hiện đại mang tầm vĩ mô để cứu vãn
tình trạng ô nhiễm hiện nay.
- Phải có hệ thông pháp luật nghiêm minh để bảo vệ môi trường.
- Phải mở rộng kiến thức truyền thông, thông tin đại chúng để người dân
hiểu rõ nhằm bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sông chính mình.
- Phải có nền khoa học hiện đại tiên tiến trong phát triển kinh tê", gắn bó
với việc bảo vệ môi trường.

321
III. PHẤN K ẾT BÀI
—Khẳng định “vấn đề ô nhiễm môi trường” hiện nay là hiển nhiên do thiếu ý
thức, thiếu hiểu biết của con người, vấn đề quản lí thiếu trình độ, không có kinh
nghiệm gây hậu quả nghiêm trọng cho con người và sự phát triển của xã hội.
- Phải có thái độ kiên quyết nhằm bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sông
của chúng ta: “Làm sao bầu trời vẫn xanh. Dòng sông vẫn trong lành. Con
đường vẫn tỏa bóng hàng cây.Công viên vẫn thoáng mát tĩnh lặng”. Đó là nhiệm
vụ của mỗi chúng ta, không của riêng ai.

Đế tuyển sinh: A nh! chị suy n g h ĩ g ì về nạn bạo lực tro n g học d ư ờng
h iện nay? Qua đó n êu lên n h ữ n g hiện p h á p nhằm k h ắ c p h ụ c.

ỊHỈữti£f kiến thức c ầ n nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Dĩ hòa vi quý". (Lời người xưa)
2. Tục ngữ có nói: “Một câu nhịn, chín câu lành”. (Tục ngữ)
3. Lời dạy của người xưa: “Tiên học lễ, Hậu học văn”. (Lời người xưa)
4. Có ý kiến rằng: “Tình thương là thước do giá trị nhân cách con người”. (Lời
nhận định)
5. Có ý kiến rằng: “Nhục mạ bằng lời nói và thô bạo bằng hành động là kẻ hèn
nhất, vô liêm sĩ”. (Lời nhận định)
6. Lời người xưa: “Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”. (Lời người xưa)
7. Quan niệm xưa: “Thương cho roi cho vọt”. (Lời người xưa)
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP DÀN Ý
I. PHẦN MỞ BÀI:
- Sử dụng một đoạn văn ngắn, một lời nhận định có liên quan đến đề bài.
Sau đó giới thiệu đề bài và chuyển ý.
II. PHẦN THÂN BÀI:
Những bước cần thực hiện:
1. Trước tiên giải thích “Thê nào là bạo lực?”
2. Nạn bạo lực trong học dưòfng hiện nay thể hiện bằng hình thức nào?
- Bạo lực xảy ra giữa các thầy cô giáo.
- Bạo lực xảy ra giữa thầy cô và học sinh.
- Bạo lực xảy ra giữa học sinh và học sinh (Vận dụng lí lẽ và dẫn chứng để
làm sáng tỏ).
3. Nêu lên nguyên nhân về nạn bạo lực trong học đường hiện nay.
- Về phía thầy cô.
- Về phía học sinh.
322
4. Nêu lên những biện pháp kh ắc phục về nạn bạo lực tron g học
đường hiện nay.
- Kêu gọi cơ quan chức năng và đoàn thế vào cuộc.
- Kêu gọi ngành giáo dục phải nhìn thẳng vào sự thật và tìm biện pháp khả
thi đế khắc phục.
- Trách nhiệm của gia đình và nhà trường.
- Trách nhiệm của đoàn thanh niên hiện nay.
II. PHẦN KẾT BÀI
Khẳng định giá trị của đề bài.

B. PHẦN THựC HÀNH


I. PHẦN MỞ BÀI
- Ta vẫn thường nghĩ rằng, nhà thờ đền chùa là nơi tôn nghiêm chỗ dựa tinh
thần của con người. Trường học là môi trường giáo dục lành mạnh an toàn của
bao lớp trẻ nhằm xây dựng sự phát triển cho đâ't nước. Nhưng một vấn nạn thật
phức tạp hiện nay tại nhiều trường học là nạn bạo lực trong nhà trường vẫn xảy
ra thường xuyên, đáng báo động tạo nên sự lo lắng cho phụ huynh và toàn xã
hội. Vậy chúng ta cần tìm hiểu vì nguyên nhân gì? và cần có biện pháp gì để
khắc phục vấn nạn trên?
II. PHẦN THÂN BÀI
1. Trước tiên cầ n giải thích thê nào là nạn bạo lực?
- Nói đến bạo lực là hành động cưỡng bức, tạo áp lực căng thẳng lên người
khác kế cả lời nói nhằm nhục mạ đôi phương về thế chất lẫn tinh thần.
- Nạn bạo lực có nhiều hình thức như; Bạo lực về thể xác, bạo lực về tình dục
và bạo lực về tâm lí. Tất cả trở thành vấn nạn của xã hội hiện nay làm đảo lộn
về đời sông đạo đức của con người vô"n có từ lâu mà ở đây thuộc lĩnh vực giáo dục
là nỗi đau chung của toàn xã hội.
2. Nạn bạo lực trong học dường hiện nay thể hiện bằng hình thức nào?
- Nạn bạo lực trong học đường hiện nay xảy ra giữa các thầy cô giáo, giữa
thầy cô với học sinh và nổi bật phổ biến nhất là giữa học sinh với học sinh cùng
lớp hay cùng trường, có khi nhóm học sinh trường này sang gây hấn, xách động
nhóm học sinh trường khác.
- Nạn bạo lực xảy ra đủ mọi cấp học từ mầm non đến tiểu học, trung học kể cả
đại học. Những hành vi bạo lực trong học đường mang nhiều thức, đa dạng từ hành
động đánh đập, mắng chửi, mạt sát, khủng bố, đe dọa làm khủng hoảng tinh thần
tuổi thơ của một nhóm thầy cô giáo không thể hiện tính sư phạm, nóng nảy, mất
bình tình đi ngược lại thiên chức của một người thầy, một cô giáo làm tổn thương
xúc phạm đến các em đáng tuổi con, tuồi cháu của mình, một cách thô bạo, trắng
trợn. Điển hình nhất là cô giáo bảo mẫu Quảng Thị Kim Hoa mà báo chí đã đưa ra
và cô giáo đă chịu một hình thức xử phạt thích đáng của pháp luật.
323
- Một sô" trường lớp khi thầy cô giáo phát hiện các em ngồi nói chuyện trong
lớp, không ghi bài kể cả viết lỗi chính tả ... lúc ấy các thầy cô không dùng hình
thức khuyên bảo, dặn dò, nhắc nhở bằng những lời nói ôn tồn, nhã nhặn mà thể
hiện những hành vi khiếm nhã, thiếu tế nhị, khéo léo không có tâm lí với học
trò của mình, xúc phạm đến nhân thân các em, một cách phi văn hóa bằng
những hình thức như đánh bằng thước, bằng roi mây, bằng tay gõ lên đầu, chỉ
tay vào trán các em hăm dọa, xỉ vã và dùng lời lẽ thô lỗ, thiếu văn hóa để mắng
chửi các em cho thỏa dạ như: “mày dốt quá", “ngu quá”, “ăn cái gì mà ngu thêĩ”
“nghỉ học đi, học cho uổng công lao của cha mẹ và thầy cô..”. Các hình thức dạy
bảo và giáo huấn cho các học sinh mà các thầy cô áp dụng như thế, hoàn toàn đi
ngược lại tính chất sư phạm, phi giáo dục, phi văn hóa, phi đạo đức, làm xúc
phạm, tổn thương đến tâm hồn trong sáng của các em và qua cách dạy bảo bằng
những hình thức như thế càng làm cho các em lo sợ, hoảng loạn về mặt tình
thần và dẫn đến tình trạng, các em có thể bỏ học và ngày càng tránh né xa
lánh các thầy cô, như thế là hậu quả của việc giáo dục phi sư phạm.
- Nạn bạo lực trong học đường còn diễn ra giữa các thầy cô trong nhà trường
với nhau, đây cũng là hình thức bạo lực chỉ chiếm một phần nhỏ của các thầy cô
giáo xuất phát từ “cái tôi" cho là cao siêu của mình hay vì tự ái nghề nghiệp
mang tính cạnh tranh không lành mạnh, có thể gây ra sự đấu đá với nhau bằng
hành động thô bạo, bằng “mồm”, bằng những lời lẽ tục tiễu thô lỗ để mạt sát
nhau cho thỏa dạ, thỏa mãn lòng ý kỉ thì thật là xấu hổ của một người thầy,
người cô giáo được xã hội tôn vinh là một “kĩ sư tâm hồn”.
- Nạn bạo lực trong học đường còn diễn ra giữa học sinh với học sinh có thể
cùng lớp, khác lớp, có thể từ học sinh trường này với học sinh trường khác. Tất
cả đều xuất phát từ sự đô" kỵ, muôn làm “anh hùng cá nhân”, “anh hùng của một
nhóm” hay vì một chút tự ái nào đó khi bị xúc phạm, có khi vì một “cái nhìn
đểu” ... đã dẫn đến sự đấu đá với nhau, xô xát đưa đến sự đâm chém, gây án
mạng với những hung khí chuẩn bị sẵn như dao, mã tấu, ống nước, búa, ... tình
trạng này hiện nay đáng báo động là một vấn nạn của toàn xã hội.
3. Nguyên nhân về nạn bạo lực hiện nay tron g học đường: Xuất phát
từ nhiều phía:
- Về phía thầy cô vẫn còn giữ một quan niệm cũ, lỗi thời không còn phù hợp
trước xu thê' phát triển của thời đại hiện nay. Họ đã dùng hình thức dạy dỗ, uốn
nắn học trò bằng cách “thưcnig cho roi cho vọt” với họ phải dùng biện pháp mạnh
như thế thì học sinh mới nghe mới sợ, nhưng thật sự hình thức xử phạt này hiện
nay hoàn toàn đi ngược lại tính chất sư phạm, sai nguyên tắc sư phạm, lạc hậu.
- Thầy cô và học sinh vẫn chưa ý thức rằng, tác hại và hậu quả của việc bạo
hành đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách của
con người, đưa đến một di chứng bệnh lí như hoảng sợ, hoảng loạn về mặt tinh
thần và cảm thấy mình như bị bỏ rơi của xã hội là một gánh nặng cho gia đình
và xã hội.
324
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trước cuộc sô"ng thực dụng được đề
cao, nhiều thầy cô không còn có tâm huyết với nghề, yêu nghề, vì th ế ở họ đã
mất đi lòng yêu thương, tình nhân ái vô'n có của người thầy là mất đi phẩm chất
cao quý của một kĩ sư tâm hồn và họ đã trở thành một rôbôt, người máy.
- Về phía học sinh, lứa tuổi “ổn chưa no lo chưa tới” còn nông nổi, bất đồng,
khó tự chủ, dễ bị kích động, muốn tự khẳng định mình.
- Ánh hưởng từ phim ảnh, thông tin bạo lực đầy rẫy trên internet, game và
chưa xác định một lẽ sống đúng đắn của tuổi trẻ.
- Gia đình, cha mẹ vì chạy theo miếng cơm, tấm áo, có người muốn làm ra
tiền thật nhiều để dành cho con, không có thời gian quan tâm dạy dỗ con em
mình, phó mặc cho nhà trường và xã hội.
4. B iện pháp kh ắc phục n ạn bạo lực tron g học đường hiện nay:
- Cần đến phương tiện truyền thông, báo đài, báo chí, v.v... nhằm phổ biến
sâu rộng nạn bạo lực trong học đường hiện nay là một vấn nạn của xă hội. Qua
đó kêu gọi cơ quan chức năng, đoàn thể vào cuộc, phải tìm ra biện pháp khả thi
nhất để có hướng giải quyết tốt, có hiệu quả.
- Ngành giáo dục phải nhìn rõ vào sự thật, đi sâu đi sát vào tình trạng bạo lực
hiện nay tại nhà trường để có biện pháp đúng đắn thích hợp từng bước khắc phục.
- Trách nhiệm của gia đình và nhà trường phải có sự liên kết chặt chẽ, cùng
lắng nghe và tìm biện pháp hữu hiệu nhất, khả thi nhất để khắc phục.
- Đoàn thanh niên hiện nay trong nhà trường hay ngoài xã hội phải lắng
nghe, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của giới trẻ, ở đây là học sinh sinh viên,
tạo những sân chơi lành mạnh và ca ngợi, khen thưởng những tấm gương tô"t
trong học đường nhằm củng cố đem lại niềm tin cho các em.
III. K ẾT BÀI
- Đề bài trên cũng là tiếng chuông cảnh báo cho toàn xã hội và các cơ quan
chức năng về tình trạng bạo lực trong học đường, đặc biệt là ngành giáo dục từ
đó cùng tìm ra biện pháp đúng đắn thích hợp mang tính khả thi để từng bước
khắc phục, là nhiệm vụ của toàn xã hội, của mọi người để mái trường, giảng
đường là môi trường tốt nhất an toàn nhất chính là cơ sở, bệ phóng vững chắc
cho sự phát triển của đất nước.

Để tuyển sinh; A nh/ ch ị p h á t biểu cảm n g h ĩ về vấn đ ề bạo h à n h trong


g ia đ ìn h h iện n a y . __________________________________________________

iHỈững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Một câu nhịn, chín câu lành”. (Lời người xưa)
2. Có ý kiến rằng: “Hoàn cảnh hình thành tính cách, thay đổi tính cách”.
(Lời nhận định)

325
3. Lời dạy người xưa có nói: “Nóng mất ngon, giận mất khôn”. (Lời người xưa)
4. Lời cố nhân có nói: “Dĩ hòa vi quý” hay “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”.
(Lời người xưa)
5. Thành ngữ có câu: “ớ bầu thì tròn, ở ống thì dài”. (Thành ngữ)
6. Có nhận định rằng: “Văn hóa là những gì còn lại sau khi người ta quên tất cả”.
(Lời nhận định)
7. Có ý kiến rằng: “Ăn đ ể sống, d ể hiện hữu d ể cuộc sống có ý nghĩa”. (Lời
nhận định)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Một câu nhịn, chín câu lành”.
(Lời người xưa)
Nhưng cuộc sông trong gia đình không phải lúc nào, ai nấy cũng biết nhường
nhịn nhau, tạo nên không khí ấm cúng trong gia đình mà xuâ't phát từ những
mâu thuẫn, lòng “tham, sân, sỉ” của con người mà có những lời nói khiếm nhã,
thô lỗ, cộc cằn và dẫn đến hành động ấu đả, xúc phạm lẫn nhau gây ra nạn bạo
hành trong gia đình, hình thành tệ nạn của xã hội. Đây là vấn đề đáng báo
động trong cả nước hiện nay.

II. PHẦN THÂN BÀI


N h ữ n g bư ớ c c ầ n th ự c h iệ n :
1. Trước tiên phải hiểu thê nào là “N ạ n b ạ o h à n h tr o n g g i a đ ìn h ? ”
- Hai tiếng “bạo hành” là dùng sức mạnh, bạo lực, xúc phạm đến nhân thân
kẻ khác từ tinh thần và thân xác. Nói đến bạo hành trong gia đình là biếu
hiện sự hành hung giữa các thành viên trong gia đình với nhau như chồng
đánh vỢ, vỢ đánh chồng, con cái xô xát nhau, con cái bạc đãi cha mẹ hay anh
chị om xung đột, đấu đá nhau... mà báo chí, truyền hình đã phản ảnh những
hiện tượng phi đạo đức thường xuyên như thế. Một trường hợp thương tâm,
một thảm cảnh của gia đình, khi chồng đánh vỢ, đánh đến chết rồi chặt từng
khúc bỏ vào bao bô', quăng xuông hầm cầu, hay vỢ díìng xăng đô't chồng phóng
viên nhà báo “Người Lao Động” xảy ra tại Long An hoặc cha ruột, cắt gân
chân của con ruột mới có sáu tuổi hay con xiềng xích cha mẹ, nhôt vào củi sắt
nhiều năm liền kế cả con cái đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, hay con cái nghiện
ngập ma túy, cờ bạc, về nhà vòi tiền cha mẹ không được nên giết cha mẹ ... tâ't
cả là những thảm cảnh đau thương trong gia đình hiện nay là vấn nạn của xã
hội đáng báo động trong cả nước.
2. Nguyên nhân nào hình thành những thảm kịch đau thương?
- Xuất phát từ hoàn cảnh của xã hội, chính hoàn cảnh đã hình thành tính
cách, thay đổi cả tính cách. Bản thân con người, khi sinh ra mang bản tính

326
thiện “nhân chi sơ, tính bổn thiện” nhưng chính hoàn cảnh của xã hội, khi sức
mạnh của đồng tiền ngự trị, khi đời sông thự dụng được đề cao thì giá trị đạo
đức suy đồi, ảnh hưởng tác động rất lớn đến tâm tính con người, làm con người
tha hóa, biến chất, từ những tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, trai gái, ma
túy, cách ứng xử bạo lực bên ngoài và ảnh hưởng phim ảnh bạo lực, internet,...
- Xuât phát từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bế tắc, con cái nheo nhóc, phân
chia tài sản đâ't đai nhà cửa không đồng đều, và chứng kiến thường xuyên
những bạo hành trong gia đình từ đó hình thành mặc cảm tội lỗi, ức chế, bất
cần và thể hiện bằng hành động như một cách giải tỏa áp lực, ức chế tâm lí.
- Xuất phát từ lòng “tham, sân, sỉ" đã chi phối rất lớn trong mỗi thành viên
của gia đình và nạn bạo hành là để thỏa mãn và chứng minh “cái tôi” của mình.
- Xuâ't phát, do ý thức về nhân cách quá kém, có lôì sông đua đòi, đánh mất
lòng tự trọng, trình độ văn hóa yếu kém ...
3. Hậu quả dể lại.
- Gia đình tan vỡ hạnh phúc, chia lìa, tan nát đưa đến những bi kịch và dẫn
đến những thảm kịch thật đau lòng.
- Vợ chồng li dị, li thân bỏ nhau.
- Mất mát về người thân vì bị chết, tù tội sau những cuộc xung đột bạo hành.
- Mất mát về vật châ't lẫn tinh thần (dư luận lên án, xem thường, khinh bỉ).
4. Biện pháp khắc phục
- Phải xác định, khẳng định vai trò của gia đình là yếu tô quan trọng đế
hình thành nhân cách của những thành viên trong gia đình.
- Phải biết: “ôn cô' nhi tri tân” biết gìn giữ bảo vệ nền tảng đạo đức, truyền
thông, giá trị văn hóa dân tộc nhằm duy trì những chuẩn mực về giá trị văn hóa
vì: “vă?i hóa là những gì còn sót lại sau khi người ta quên tất cả”.
- Các tố’ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ thường xuyên phát động phong
trào xây dựng gia đình văn hóa, khu phô văn hóa, nếp sông văn minh nhằm tác
động ý thức cho con người cần phải sông như thê nào để cuộc sông có ý nghĩa.
- Ca ngợi những tấm gương thủy chung của người phụ nữ, của những bà mẹ
và những tấm gương tôt như con hiếu thảo, biết phụng dưỡng cha mẹ, đề cao
lòng hi sinh, ca ngợi trách nhiệm bổn phận của người chồng, người vỢ, con cái
trong gia đình tiêu biểu như tấm gương hiếu thảo của anh Nguyễn Hữu Ân
(người con của vùng đâ4 nghèo Quảng Trị) trở thành người thanh tiêu biểu
thành phô Hồ Chí Minh năm 2007 ...

II. PHẦN K ẾT BÀI


Gia đình là một thành phần của xã hội, là một tế bào của xã hội, là bệ
phóng, điểm tựa nhằm phát triển xã hội. Đế’ xây dựng một gia đình êm ấm,
hạnh phúc, yêu thương, mỗi thành viên trong gia đình phải tự hoàn thiện về
nhân cách, luôn luôn ý thức rằng “ăn đ ể sống” để tồn tại và trở thành người

327
sông có ích cho gia đình và xã hội. Phải luôn luôn tự nhắc nhở bản thân
rằng, sông là cho là chia sẽ đồng cảm không chỉ nghĩ riêng mình mà phải
“làm sao được tan ra”, giữa biển lớn cuộc đời để cuộc sống có ý nghĩa. Thực
hiện được cách sông như thế, thì nạn bạo hành dần dần khắc phục, cái ác
không còn đất sông.

Đề tuyển sinh: Anh/ chị hãy v iết một bàỉ văn nghị luận, p h át biểu cảm
nghĩ về vấn đề “vệ s in h a n to à n th ự c p h ẩ m ” ở nước ta hiện nay.

sĩỉữnư kiến thức cần nám:


1. Có ý kiến rằng: “Sức khỏe quý hơn vàng”. (Lời nhận định)
2. Có lời nhận định: “Lòng tham của con người đã hủy hoại cả tâm hồn và nhân
cách”. (Lời nhận định)
3. Có lời rằng: “Chính lòng tham của con người đã giết chết con người”.
(Lời nhận định)
4. Có lời rằng: “Con người sống cần phải có tấm lòng”. (Lời nhận định)
5. Lời dân gian thường nói: “Của rẻ là của hôi” hay “Tiền nào của nấy”. (Lời dân gian)
6. Có lời nhận định: “Sản phẩm tiêu dùng của Việt Nam phải có thương hiệu để
mang lại niềm tin cho người tiêu dùng”. (Lời nhận định)
7. Các dẫn chứng cụ thể:
- Theo thông kê của Đại biểu Quôc hội khóa X có nói; Hằng năm có từ 250
đến 300 triệu lít rượu, bia và đồ uông không đảm bảo về “chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm”.
- Việc trồng rau an toàn chỉ đạt 8,5% về diện tích trồng.
- Trồng cây ăn quả đạt sự an toàn chiếm tỉ lệ khoảng 20%.
- Kiểm soát về gia súc, gia cầm giết mổ chỉ kiểm soát ở khoảng 58,1%.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Sức khỏe quý hơn vàng”.
(Lời nói dân gian)
Để có một sức khỏe tốt, phải có thực phẩm tốt, nguồn thức ăn hăng ngày
phục vụ cho con người phải tô4. Nhưng hiện nay, vấn đề “vệ sinh an toàn thực
phẩm” đã có chiều hướng xấu, tác hại đến sức khỏe con người, gây hoang mang,
lo lắng cho mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước hiện nay.

II. PHẦN THÂN BÀ I


N h ữ n g bước cầ n thực h iện :
1. Trước tiên cần giải thích “Vệ sinh an toàn thực phẩm ” là th ế nào?
Nói đến thực phẩm là những sản phẩm do con người làm ra, chế biến ra
nhằm phục vụ cho con người, dưới dạng tươi sông hay qua chế biến, về “vệ sinh

328
an toàn thực phẩm" là thực hiện các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo
đảm thực phẩm không gây tác hại cho sức khỏe con người, phải làm sao cho
thực phẩm không bị nhiễm độc hại, đưa đến tình trạng ngộ độc do thức ăn. Như
vậy, thực phẩm an toàn là thực phẩm không bị nhiễm chất độc hại, không có
hại cho sức khỏe con người. Nhưng vì lòng tham của con người vì lợi nhuận, họ
sẽ làm ra, chê biến những sản phẩm gây độc hại làm chết người. Chứng tỏ, vấn đề
“vệ sinh an toàn thực phẩm” là sự quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng hiện
nay từ thành thị đến thôn quê đều lo lắng về vấn đề này. Nó trở thành vấh nạn
của xã hội, đáng báo động trong cả nước. Cụ thể như dạo qua các chợ, các quán xá
hay các cửa hàng tạp hóa, nhiều loại thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế biến
được bày bán nhưng không được bảo quản hợp vệ sinh. Có nhiều mặt hàng hết
thời hạn sử dụng nhưng vẫn ngang nhiên bày bán công khai, có nhiều mặt hàng
không rõ nguồn gốc, xuất xứ, có những mặt hàng mà các thành phẩm, chất bảo
quản, chất phụ gia vượt quá mức cho phép. Thông kê mới nhất của Quốc hội khóa
X, hăng năm ở nước ta có từ 250 đến 300 triệu lít rượu, bia, đồ uống không bảo
đảm chất lượng “vệ sinh an toàn thực phẩm”, có những đồ uô"ng đóng chai không
có nhãn mác, xuất xứ nhưng vẫn bày bán tự do, công khai trên thị trường. Và
những sản phẩm, thực phẩm, chất lượng không an toàn, có nhiễm độc hại lại đưa
đến các vùng sâu, vùng xa để bán cho các đồng bào dân tộc thiểu sô", còn nghèo
khổ, không hiểu biết nhằm dễ tiêu thụ và trục lợi, xuất phát là do lòng tham của
con người đã xem thường sinh mạng con người. Thật đáng lên án, nguyền rủa.
2. Nguyên nhân củ a những tồn tại và yếu kém tron g vân đề “vệ sinh
an toàn thực phẩm ” hiện nay ở nước ta?
* Về mặt khách quan:
- Bộ máy quản lí của nhà nước về “vệ sinh an toàn thực phẩm” ở nước ta
chưa phân định rõ ràng, thiếu cơ chế, phôi hợp không đồng bộ, thiếu cả nguồn
lực và cả nhân lực. về công tác quản lí an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan
đến nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không có sự phôi hợp thường xuyên, đồng bộ
nhiều lúc đưa đến tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt”.
- Chúng ta chưa có hệ thông Thanh tra ngành “vệ sinh an toàn thực phẩm”.
Các địa phương thực hiện việc quản lí, kiểm nghiệm còn thiếu các điều kiện về
kĩ thuật, thiếu máy móc hiện đại, thiếu cả nhân lực về chuyên môn về điều hành
nên chỉ thực hiện xét nghiệm, kiểm nghiệm ở dạng thông thường, còn vấn đề gì
có tính phức tạp thì rơi vào sự bế tắc.
* Về mặt chủ quan:
- Việc vi phạm về “vệ sinh an toàn thực phẩm” xuất phát từ những nhà trồng
trọt, những chủ đầu tư về chăn nuôi về chế biến về kinh doanh thực phẩm, phần
lớn gây ra là do lòng tham của con người, làm sao để đạt hiệu quả cao nhất, đem
lại lợi nhuận nhiều nhất rồi họ bất châp tất cả cho dù là sinh mạng con người.
Chứng tỏ, sức mạnh đồng tiền, họ xem thường cái chết, họ sẵn sàng sông ác,

329
sông tàn nhẫn để được tồn tại và trục lợi, đó là cách sống phi đạo đức không có
tính người, tình người. Như vậy, vân đề xuất phát từ lòng tham của con người
không có đáy.
- Người tiêu dùng thiếu hiểu biết thông tin về sản phẩm, thực phẩm và người
tiêu dùng có tâm lí thích mua hàng rẻ, chuộng hàng rẻ mà “của rẻ là của hôi”,
hàng rẻ là hàng kém chât lượng vì “tiền nào của nấy” sẽ gây tác hại đến sức
khỏe người tiêu dùng và tạo sự bất an, lo lắng trong cuộc sống của mọi người.
3. Hậu quả xảy r a và còn lại:
- Báo chí vẫn đưa tin, hàng chục, hàng trăm người hầu hết là công nhân, học
sinh bị ngộ độc do thức ăn.
- Các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm có chứa độc tô' gây ung thư cùng
những bệnh lạ khác vẫn tiếp tục thực hiện, chưa có biện pháp chế tài, nghiêm
trị thích đáng.
- Buôn bán và sản xuất các động vật có chứa mầm bệnh như heo tai xanh, bò
lở mồm long móng, gà bị dịch cúm... vẫn không có sự quản lí, kiểm soát chặt chẽ
và biện pháp đế ngăn chặn khắc phục kịp thời.
- Việc trồng rau an toàn phục vụ cho người tiêu dùng mới chỉ đạt 8,5% tổng
diện tích trong cả nước.
- Việc trồng cây ăn quả, đạt sự an toàn chỉ chiếm khoảng 20%.
- Việc gia súc, gia cầm giết mổ chỉ được kiểm soát ở khoảng 58,1%. Đó là
những hậu quả và con số đã gây lo lắng, bất an cho người tiêu dùng hiện nay.
4. B iện pháp kh ắc phục:
- Các cơ quan có chức năng về “ưệ sinh an toàn thực phẩm” phải tích cực
phát huy triệt đế cùng nhiệm vụ, quyền hạn của mình và đưa ra những biện
pháp cụ thể, kịp thời như thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền các nơi sản xuất chế
biến, mua bán thực phẩm, sản phẩm phải thường xuyên đồng bộ, xử phạt thật
nặng những nơi vi phạm kể cả biện pháp thích đáng nhằm răn đe.
- Người tiêu dùng cần nâng cao nhận thức về “vệ sinh an toàn thực phẩm”,
xây dựng nếp sông “ăn uống phải hợp vệ sinh”.
- Người tiêu dùng phải nhớ rằng “của rẻ là của hôi”, “tiền nào của nấy” và
phải thận trọng, cảnh giác, chọn lựa sản phẩm, thực phẩm trước khi sử dụng và
phải lưu ý đến các sản phẩm, thực phẩm có thương hiệu, “hàng Việt Nam chất
lượng cao”.

III. PHẦN K ẾT BÀI


- Vấn đề ăn uô'ng là nhu cầu cần thiết đôì với con người, mọi người vì “ăn để
sống”, do đó “vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm” phải xem là một phương châm
sông của mỗi chúng ta, chúng ta phải đặt lên hàng đầu trong chiến lược bảo vệ
sức khỏe con người, vì con người là nhân tô' quyết định sự phát triển của xã hội,
sự tồn vong của đất nước.
330
/^ếỂỂỂnt

CẤU TRÚC ĐỂ THI ĐẠI HỌC THEO HƯỚNG MỚI


CỦA BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NÃM 2014

Để tuyển sinh:
Câu 1: (2d) B ài thơ Yỉệt B ắ c của Tô Hữu có đoạn viết:
“Ta với m ình, m ình với ta
L òng ta sau trước m ặn mà đ in h ninh
Mình di m ình lại n h ớ m ình
N guồn bao n h iêu nước, n gh ĩa tình bấy n h iê u ”.
(Trích Việt Bắc - Tô Hữu)
Anh, chị đọc đoạn thơ trê n và thực hiện cá c yêu cầu sau:
1/ Đoạn thơ nói lên ý nghĩa như thê nào?
2/ Từ gọi “m ình” trong đoạn thơ trê n có gì dặc sắc qua thi pháp
củ a tá c giả?
3/ Tại sao đoạn thơ trê n đậm đà tính dân tộc?
Câu 2: (3đ) (Nghị luận x ã hội)
Có ý kiến rằn g: “K hông vì s ự tham vọng của một nước lớn, một kẻ
m ạnh m à n g a n g n h iên xâm p h ạ m tước đoạt quyền lợi củ a người
khác hay củ a một quốc g ia khác dế thỏa m ãn lòng ích kỉ, tự tôn
củ a ch ín h m ìn h ”.
Anh, chị giải thích ý kiến trê n từ đó nêu lên cảm nhận củ a anh,
chị trư ớc hành động ngang ngưỢc xâm chiếm củ a Trung Quốc
tron g vùng lãnh hải đ ất nước của chúng ta.
Câu 3: (5đ) (Nghị luận văn học)
v ề nhân v ật Mỵ trong tá c phẩm “Vợ ch ồ n g A P h ủ ” củ a nhà văn
Tô Hoài, có ý kiến cho rằng: “Dó là h ìn h ảnh người p h ụ n ữ nghèo
Tây Bắc, p h ả i cam ch ịu sô p h ậ n trước cuộc số n g ”. Có ý kiến khác
thì khẳng định: “Dó là hìn h ảnh người p h ụ n ữ Tây B ắc có n h ữ n g
p h ẩ m chất dẹp trong cuộc số n g”.
Từ cảm nhận củ a anh, chị về nhân v ật Mỵ tron g tá c phẩm, anh,
chị hãy bình luận cá c ý kiến trê n để làm sáng tỏ nhân v ậ t Mỵ.

331
HƯỚNG DẪN
Câu 1: (2đ)
1/ Đoạn thơ nói lên ý nghĩa như thê nào?
Đoạn thơ biểu hiện tình cảm thương yêu gắn bó thật sâu đậm giữa người ở lại
(người dân Việt Bắc) và người ra đi (người cán bộ sắp về xuôi) của những năm
dài trong kháng chiến chôhg Pháp đâu dễ nào quên.
2/ Từ gọi “m ình” tron g đoạn thơ trê n có gì dặc sắc qua thi pháp của
tác giả?
Từ “Mình” là đại từ nhân xưng, ở đây muôh nói về hình ảnh người ra đi và
người ở lại, họ là những cán bộ, chiến sĩ cùng người dân Việt Bắc đoàn kết yêu
thương trong kháng chiến đế làm nên chiến thắng. Đặc biệt lời thơ “Mình di
mình lại nhớ mình” ở đây chỉ có một từ gọi đại nhân xưng “mình” nhưng lại thể
hiện hai hình ảnh, hai đôl tượng của kẻ ở lại và người ra đi. Tiếng gọi: “mình
đi” ở đầu câu nói lên hình ảnh tâm tư, nỗi lòng của người ra đi và tiếng gọi:
“nhớ mình” ở cuôd câu nói lên hình ảnh người ở lại, người dân Việt Bắc với bao
nghía tình trong kháng chiến, chỉ một câu thơ lục, ngắn gọn, giàu sắc biểu cảm,
giàu chất suy tưởng đã nói được môi tình trong kháng chiến giữa hai miền ngược
và xuôi thật tha thiết, mặn nồng là thi pháp đặc sắc của Tô' Hữu để làm nên sức
sông, giá trị hồn thơ Việt Bắc hơn nửa thế kỉ qua.
3/ Tại sao đoạn thơ trê n đậm đà tính dân tộc?
- Thể thơ lục bát, âm hưởng ca dao đậm nét.
- Tiếng gọi “Ta” và “Mình” là tiếng gọi gần gũi quen thuộc của nhân dân
tượng trưng cho một tình yêu kháng chiến giữa người dân Việt Bắc và người cán
bộ, người chiến sĩ cách mạng cùng mang nặng một môi thù trên vai đốì với quân
xâm lược Pháp.
- Lời tự sự ví von ở câu cuôl cùng của đoạn thơ: “Nguồn bao nhiêu nước,
nghĩa tình bấy nhiêu” kết hợp cùng với từ gọi “mặn mà”, “đinh ninh” là tiếng
nói chân chất mộc mạc, chân quê thắm đẫm tình người, tình tự quê hương đất
nước vì thê đoạn thơ trên đậm đà tính dân tộc.
Câu 2: (3đ) (Nghị luận xã hội)

ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Có lời rằng: “Mạnh được yếu thua”.
2. Có ý kiến rằng: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kể khác đ ể thỏa mãn
lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
3. Có ý kiên rằng: “Phải biết tôn trọng người khác hay một quốc gia khác là thể
hiện nét đẹp văn hóa”.
4. Có lời rằng: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn nhằm thực hiện ý đồ bất minh, bất
chính là hành động của kẻ vô liêm sỉ”. (Lời nhận định)

332
5. Có nhận định rằng: “Tâm binh thế giới bình. Nếu tâm không bình, còn tham
sân, si thì luôn luôn tạo ra sự xung đột, bất an cho nhân loại". (Lời nhận định)
6. Bộ trưởng Quô'c phòng Mỹ (Hagel) đã nói: “Mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều
xứng dáng nhận được sự tôn trọng”. (Hagel)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI:
Có ý kiến rằng: “Kẻ mạnh phải biết giúp dỡ người khác trển đôi vai mình”.
(Nam Cao)
Đó là lẽ sông đẹp biểu hiện sự tương trợ giúp đỡ cùng tồn tại và phát triển,
như vậy: “Không ui tham vọng của một nước lớn, một kể mạnh mà ngang nhiên
xâm phạm, tước đoạt quyền lợi của người khác, của một quốc gia khác đ ể thỏa
mẫn lòng ích kỉ, tự tôn của chinh mình”.
Chúng ta cần giải thích để làm sáng tỏ qua đó thấy rõ hành động ngang ngược
xâm chiếm của Trung Quô'c trong vùng lãnh hải của đất nước chúng ta hiện nay.

II. PHẦN THÂN BÀI:


N h ữ n g bước cầ n thực h iện :
1. Trước tiên giải thích những từ ngữ quan trọng như: ‘Hham vọng”; ‘Hước
đoạt quyền lợi”; ‘Hhỏa mãn lòng ích k ỉ”; “tự tôn” có ý nghĩa thê nào?
- “Tham vọng” là biểu lòng tham lam, khao khát thực hiện một ý đồ nào đó
muôn thuộc về sở hữu của mình nhưng thực chất không phải của mình.
- “Tước đoạt quyền lợi” là đặt quyền lợi của mình lên trên hết, là tất cả và
sẵn sàng xem thường mọi quyền lợi của kẻ khác.
- “Thỏa mãn lòng ích ki” là làm sao phải thực hiện mọi ý đồ của mình đưa
ra, nhằm thực hiện tham vọng.
- “Tự tôn” là luôn luôn đề cao về mình, cho mình bao giờ cũng phải hơn thiên hạ.
2. Chúng ta đưa ra luận điểm để giải thích, bình luận làm sáng tỏ.
- Luận điểm 1: “Không vi tham vọng của một nước lớn, một kẻ mạnh mà
ngang nhiên xâm phạm, tước đoạt quyền lợi của người khác hay của một quốc
gia khác là thế nào?”. Đế trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải hiểu rằng: “Một
quốc gia dù lớn hay nhỏ đều xứng đáng nhận được sự tôn trọng”. Đây là một
quan niệm đúng đắn thể hiện tính nhân vãn sâu sắc. Vì trước xu thế phát triển
của thời đại, không còn cảnh nước lớn hà hiếp xem thường nước nhỏ, không còn
cá lớn nuô't cá bé mà tất cả đều phải có sự tôn trọng, bình đẳng, hữu nghị, hợp
tác, đôì thoại... đế đôi bên cùng có lợi và phát triển chung cho khu vực hay cho
toàn cầu, hay nói cách khác, kẻ mạnh không được hà hiếp kẻ yếu, xem thường
kẻ khác mà kẻ mạnh phải biết giúp đỡ, nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Đây
là quan niệm sông đúng đắn hợp với lòng người, đề cao tính nhân văn. Như vậy,
không một lí do nào, nguyên tắc nào mà kẻ mạnh lại lợi dụng thê lực, uy lực của
mình mà ngang nhiên xem thường quyền tự do, quyền lợi của kẻ khác để tạo ưu
333
thế, chỗ đứng, vị trí của mình. Nếu kẻ nào lợi dụng thế lực, uy lực mà uy hiếp,
tước đoạt quyền lợi của kẻ khác đế bảo vệ cho quyền lợi của mình, kẻ đó là kẻ vô
liêm sỉ đáng khinh bỉ, hay một nước lớn, một quô'c gia có dân sô đông, đất đai
rộng, kinh tế phát triển lại cố tình ngang nhiên xâm chiếm lãnh hải của một
nước nhỏ mà luật pháp quôc tê đà công nhận, công ước luật biển đã đề ra, thì rõ
ràng nước lớn đó dù ở tầm cỡ nào chăng nữa cũng đều bị lên án trước công luận
quốc tế và cái nhìn của các quốc gia trên thế giới vẫn xem thường, khinh thường
là một nước thiếu văn hóa, thiếu tính nhân vàn, nó có chiều rộng nhưng không
có chiều sâu.
- Luận điểm 2: Vậy sự tham vọng của một nước lớn hay của một kẻ mạnh là
hoàn toàn xấu hay không? Chưa hẳn là như thế! Một con người ai cũng có tham
vọng đế hướng tới nhiều điều cao đẹp, ai cũng muôn mình được biết đến, có tên
tuổi đế khẳng định mình trước cuộc sông thì một quô"c gia dù nhỏ hay lớn cũng
thế, mỗi quốc gia đều có quyền mong cho đât nước mình, dân tộc mình giàu đẹp
hơn, rộng lớn hơn phù hợp trước xu thế phát triển của thời đại đề quô’c gia đó có
chỗ đứng vững vàng trên trường quôc tế. Nhưng muôn thực hiện được điều đó
phải do thực lực của một con người, do năng lực, tài lực, tài nguyên cụ thể của
một quôc gia đã có sẵn dựa theo luật pháp quôc tê công nhận, thừa nhận, thì con
người muôn nâng cao đời sông vật chât, tinh thần đế thỏa mãn khát vọng chính
đáng của mình thì vâ"n đề đó ai cũng tán thành kể cả một quô'c gia đã có tài
nguyên, đất đai được tạo hóa ưu đãi, được công nhận của luật pháp quô"c tế thì
quốc gia đó có quyền phát triển, mở rộng cho đất nước mình là điều tất yếu đáng
khuyên khích. Ngược lại, dù một nước lớn hay nhỏ mà muôn phát triển cho đất
nước mình vì quyền lợi cho đất nước mình mà xâm hại đến quyền lợi, lãnh thố
của quôb gia khác là điều trái với luật pháp, trái với lương tâm là kẻ cướp cạn
tài nguyên xương máu của quôb gia khác đê thực hiện tham vọng bành trướng có
lợi cho quốc gia mình là điều phải lên án, không thế châ"p nhận hành động
ngang ngược, phi đạo đức, phi nhân bản như thế.
Con người cũng vậy, muôn tạo cho bản thân mình có quyền lợi, có ưu thế, chỗ
đứng nhưng không do năng lực, thực lực của mình mà lại xâm phạm quyền lợi
người khác đế thực hiện cho ý đồ, quyền lợi riêng tư của mình nhằm hưởng lợi,
thì kẻ đó đáng lên án là kẻ vô liêm sỉ.
3. Cảm nghĩ của em trư ớc hành động ngang ngưỢc, xâm chiếm của
Trung Quốc trong vùng lãnh hải củ a đât nước chúng ta
Nhắc đến Trung Quôh là nước anh em của chúng ta trong khôi xã hội chủ
nghĩa nhưng nói đến Trung Quôh là nói đến chủ nghĩa bành trướng bá quyền,
chúng muôh biến lãnh hải Việt Nam, biển Đông là lãnh hải riêng của chúng.
Chúng tự sáng lập đưa ra “Đường lưỡi bò” nhằm phủ nhận Quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa của Việt Nam là hành động ngang ngược, ngang nhiên xâm chiếm
lãnh hải Việt Nam mà công ước của Liên Hiệp quôc đã công nhận và Luật biển

334
năm 1982 là cơ sở pháp lí quôc tế mà Trung Quôh đã ngang nhiên phủ nhận,
điển hình nhất là đầu tháng 5 năm 2014, Trung Quô'c ngang nhiên đưa giàn
khoan Hải Dương 981 vào hải phận Việt Nam cùng máy bay, tàu chiến hiểm
trợ. Đây là hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền lãnh hải Việt Nam, xem
thường luật pháp quôh tế và công ước về Luật biển năm 1982, hành động của
Trung Quôc phải lên án triệt đê trước cộng đồng Asean và cộng đồng quôc tế.
- Hiện nay, Việt Nam muôn tạo sự ôn hòa đế dàn xếp tô't đẹp trên con đường
hòa bình và đôi thoại nhưng Trung Quôc đã phớt lờ thiện chí của Việt Nam,
xem thường luật pháp quôh tế, công ước Luật biển (1982) bắt buộc chúng ta phải
có biện pháp đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế xét xử.
- Việt Nam phải có đường lôi ngoại giao khôn khéo làm sao cộng đồng Asean
và cộng đồng quốc tế sẽ cùng hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của Việt Nam đế
giành lại chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông.
4. Về bản th ân em:
Em hoàn toàn lên án chủ nghĩa bành trướng bá quyền của Trung Quôc vì
tham vọng bâ't chính, bất minh, Trung Quôh đã hành động thật đê hèn, chúng
ngang nhiên chà đạp mọi quyền lợi của nước bạn nhằm thực hiện “mưu bá đồ
vương” của Trung Quốc tại Biển Đông. Hành động của chúng đi ngược lại với
chính nghĩa, phi đạo đức, phi nhân bản thì chúng phải chuốc lấy thất bại. Việt
Nam dù là nước nhỏ, nhưng con đường tranh đấu về chủ quyền, lãnh hải hoàn
toàn chính đáng, có chính nghĩa, luật pháp quôh tế thừa nhận, cộng đồng Asean
và cộng đồng các nước trên thế giới ủng hộ, đồng tình thì cuộc đấu tranh của
Việt Nam sẽ thành công, chân lí phải tâ't thắng.
II. PHẦN K ẾT BÀI:
Đề bài trên là một bài học nhằm cảnh tỉnh cho những ai chỉ biết nghĩ đến
quyền lợi riêng của mình mà cố tình xem thường, chà đạp lên quyền lợi của
người khác và cũng là hồi chuông đánh thức quô'c gia nào có ý đồ tham vọng,
bành trướng cho nước của mình phải biết thức tỉnh, phải đánh thức lương tri,
phải tôn trọng luật pháp quôh tế, công ước quôh tế đã đề ra cùng xây dựng cho sự
phát triển toàn cầu và sẵn sàng đập tan mọi ý đồ xâm lược của quôc gia nào có
tham vọng, bành trướng, xâm chiếm tài nguyên lãnh hải của nước khác đế làm
của riêng mình, chúng phải chuôc lấy thất bại nhục nhã vì chúng đã đi ngược lại
xu thế phát triển của thời đại.
Câu 3: (5đ) (Nghị luận ván học)
iSỈững kiến th ứ c cẩ n nắm :
1. Đại thi hào Nguyễn Du có nói: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời ràng bạc
mệnh củng là lời chung”. {Truyện Kiều - Nguyễn Du).
2. Lời người xưa có nói: “Thân em như tấm lụa đào. Phất phơ giữa chợ biết vào
tay ai”.

335
3. Lời tự sự của Mỵ trong tác phẩm: “Mỵ sống trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi”.
4. Lời người xưa có nói: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm” hay “Bần cùng sinh
đạo tặc”.
5. Có lời nhận định rằng: “Cuộc đời trải qua nhiều giông tố nhưng không cúi
đầu trước giông tổ”.
6. Lời bày tỏ của Mỵ trong tác phẩm: “Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi
chơi” ý nói khát vọng tự do của Mỵ để vượt lên sô" phận khắc nghiệt của
chính mình.
7. Ca dao Việt Nam có câu: “Một lòng thè mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là
đạo con”. (Ca dao)
8. Có lời nhận định rằng: “Thề hiện lòng tự trọng là thể hiện nhân cách của một
con người”.
9. Lời ca dao có nói: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. (Ca dao)
10. Lời cổ nhân có nói: “Thương người như thể thương thân”. (Tục ngữ)
11. Có lời nhận định rằng: “Mỵ quên đi nỗi đau của chính mình, quên mình vi
sự sống cho người khác là hành động cao thượng”. (Lời nhận định)
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU;
“Nghèo vẫn sạch, rách vẫn thơm”.
(Lời cổ nhân)
Khi trang sách cuôl trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài
khép lại, hình ảnh in sâu trong lòng người đọc không ai khác hơn là nhân vật
Mỵ, người phụ nữ nghèo Tây Bắc phải gánh chịu bao nghiệt ngã của cuộc đời và
có ý kiến rằng: “Đó là hình ảnh người phụ nữ nghèo Tây Bắc phải cam chịu số
phận trước cuộc sống”. Có ý kiến khác thì khẳng định rằng: “Đó là hình ảnh
người phụ nữ nghèo Tây Bắc có những phẩm chất đẹp trước cuộc sống”.
Chúng ta lần lượt bình luận các ý kiến trên để làm sáng tỏ nhân vật Mỵ.

II. PHẦN TRỌNG TÂM:


Cần làm sáng tỏ các ý kiến trên để khẳng định nhân vật Mỵ.
A. Ý kiến 1: “Đó là h ìn h ảnh người p h ụ n ữ n gh èo Tây B ắ c p h ả i cam
chịu sô p h ậ n trước cuộc số n g”.
- Chi tiết 1:
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã khắc hoạ thành công nhân
vật Mỵ, người con gái Tây Bắc sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh của một gia
đình nghèo. Nhắc đến Mỵ, chúng ta nghĩ ngay về một người thiếu nữ Tây Bắc
đẹp, có tài thổi sáo và thổi lá cũng thật hay làm cho bao trai làng mỗi khi nghe
tiếng sáo của Mỵ, họ “đứng nhẵn cả buồng vách”. Mỵ có tài, có sắc nhưng cuộc
đời của Mỵ không mỉm cười với chính mình. Xót xa thay! Vì “món nợ hôn nhân”
của bố mẹ Mỵ ngày trước, có mượn gia đình thông lí Pá Tra một khoản tiền và

336
cho đến bây giờ vẫn chưa trả xong, chính “món nợ hôn nhân” ấy là sợi dây oan
nghiệt trói chặt cuộc đời số phận của Mỵ với gia đình thông lí. Mỵ trở thành
“con dâu gạt nợ” chứng tỏ cuộc hôn nhân biến thành cuộc mua bán đổi chác, Mỵ
trở thành một thứ hàng hóa để trao đổi, chà đạp lên nhân phẩm người thiếu nữ
Tây Bắc thật trắng trợn chỉ vì gia cảnh nghèo. Thương thay cho Mỵ, xót thương
cho thần phận làm người dưới chế độ thực dân phong kiến ở Tây Bắc thuở ấy.
Rồi đêm nào Mỵ cũng khóc, Mỵ khóc nhiều tháng như thế và những giọt nước
mắt của Mỵ như chảy ngược vào trong tim mình. Ngày ngày Mỵ quần quật với
bao công việc nặng nhọc nào “quay sợi; chẻ củi; bẻ bắp; thái cỏ ngựa; xuống suối
cõng nước lên...” Mỵ sông trong đoạ đày, tủi buồn cho sô' phận, lúc nào Mỵ cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Nhưng Mỵ có cam chịu sô' phận trước cuộc sông như
thê' hay không? Không! Mỵ không cam chịu sô' phận như thế! Thời kì đầu, Mỵ
cảm thấy khổ và tủi nhục cho sô' phận, Mỵ quyết định tìm đến cái chết bằng
“nám lá ngón” nhưng Mỵ nghĩ đến bô' của Mỵ, Mỵ không đành chết, nếu “Mỵ
chết đi bố Mỵ sẽ khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”, thê' rồi Mỵ quyết định
“ném nám lá ngón xuống đất” tiếp tục lặng lẽ trở lại nhà thô'ng lí làm thân trâu
ngựa. Chứng tỏ Mỵ không phải cam chịu sô' phận trước cuộc sô'ng, Mỵ đã thể
hiện tinh thần phản kháng bằng cái chết dù đó là hành động tiêu cực.
- Chi tiết 2:
Rồi ngày tháng đi qua, cứ đi qua, Mỵ vẫn sông trong cái khổ và lâu ngày Mỵ
cảm thấy như quen dần đi rồi Mỵ tự bày tỏ với riêng mình: “Mỵ sống trong cái
khổ, Mỵ quen khổ rồi”. Dù Mỵ nghĩ như thế! và cũng quen với cái khổ nhưng
không phải Mỵ nghĩ vì quen với cái khố mà phải cam chịu sô' phận của chính
mình trước cuộc sông mà cuộc đời, sô' phận của Mỵ giờ này có khác ^ như bếp
lạnh tro tàn nhưng không chỉ là bếp lạnh với trò tàn mà trong cái bếp lạnh ấy,
trong đám tro tàn ấy vẫn nhen nhóm một ánh lửa, một ngọn lửa và khi có cơ
hội, nó sẽ bùng lên, cháy lên để thắp sáng cuộc đời của Mỵ sau này. Đó là lúc
làng Hồng Ngài ăn tết, Mỵ cũng ăn tết, khi Mỵ nghe được tiếng sáo vọng lại,
tiếng sáo từ cuộc chơi, đám chơi của trai gái trong làng, Mỵ lại nhớ về hoài
niệm, nhớ về tiếng sáo của ngày xưa đang vọng lại bên tai Mỵ và Mỵ đã bừng
tỉnh, Mỵ khao khát tự do, khao khát được tìm về bao kỉ niệm của thời con gái,
Mỵ tự thì thầm: “Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi”. Lời nói của Mỵ
thôt ra là thế hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh chông lại thần quyền và
cường quyền, Mỵ còn nghĩ, có biết bao phụ nữ có chồng, họ cũng đi chơi huông
hồ gì Mỵ và A Sử có tình ý với nhau đâu mà phải sô'ng với nhau và Mỵ quyết
định vào buồng khêu đèn sáng, lấy chiếc váy hoa đẹp bước ra ngoài đi theo cuộc
chơi. Quá trình diễn biến về suy nghĩ và hành động của Mỵ lúc bấy giờ, chứng
tỏ Mỵ không phải cam chịu sô' phận trước cuộc sông, Mỵ không buông xuôi, đầu
hàng trước sô phận của cuộc đời mình. Phải chăng, Mỵ đang đôi đầu với phong
ba bão táp nhưng Mỵ không cúi đầu châ'p nhận trước bão táp.
337
- Chỉ tiết 3:
Và chúng ta không quên hình ảnh của Mỵ thật dũng cảm và quả cảm đó là
tình huông Mỵ quyết định cứu A Phủ và sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả nếu
cha con thống lí biết Mỵ cởi trói cho A Phủ, Mỵ sẽ chết trên chiếc cọc ấy, Mỵ
không sợ. Khi A Phủ được cứu thoát, A Phủ vùng dậy xuông triền dôh núi, trôn
khỏi gia đình thông lí cũng chính là giây phút đã khơi dậy trong tâm hồn Mỵ
niềm khao khát tự do, khao khát được sông với chính mình và Mỵ cũng chạy
theo A Phủ cùng với tiếng nói: “A Phủ cho tôi đi với, ở đây thi chết mất”. Tiếng
nói của Mỵ là tiếng nói của người đi tìm tự do, đi tìm cuộc sông mới của chính
mình, chứng tỏ Mỵ không cam chịu sô' phận trước cuộc sông, Mỵ không đầu
hàng sô' phận, không buông xuôi cuộc đời mình cho con tạo xoay vần mà Mỵ đã
có một sức sông tiềm tàng, một niềm khao khát tự do sẫn sàng vượt lên sô' phận
nghiệt ngã đế tìm lại con người của chính mình là vẻ đẹp trong tâm hồn Mỵ, là
cánh sen trong bùn “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chứng tỏ ý kiến thứ
nhất: “Đó là hình ảnh người phụ nữ nghèo Tây Bác phải cam chịu số phận trước
cuộc sống” là chưa hoàn toàn hợp lí đúng đắn với tính cách của nhân vật Mỵ.
B. Ý kiến 2: “Đó là hình ảnh người phụ nữ nghèo Tây B ắ c có những
phẩm ch ất dẹp trước cuộc sống”.
* Phẩm chất đẹp củ a Mỵ:
- Phẩm chất 1.
Mỵ vẫn biết rằng, Mỵ sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, bố mẹ Mỵ
nghèo, không có tiền làm đám cưới, vay nhà thống lí Pá Tra một món tiền để làm
đám cưới từ đó gia đình Mỵ phải mang một “món nợ hôn nhân” của gia đình thống
lí. Khi mẹ Mỵ qua đời, bố Mỵ vẫn tiếp tục trả món nợ ấy. Ý định của tên thống lí
Pá Tra là muốn Mỵ làm vỢ A Sử, con dâu nhà thống lí thì món nợ ấy sẽ xóa hết.
Khi tên thống lí Pá Tra đến nhà bố Mỵ và hắn đã nói: “Cho tao đứa con gái mày về
làm dâu, tao xóa hết nợ cho”. Qua lời nói của tên thống lí, Mỵ cảm thấy nhân phẩm
của Mỵ bị xem thường, chà đạp, tên thống lí đã biến cuộc hôn nhân thành cuộc mua
bán, đổi chác, hắn muốn biến Mỵ trở thành món hàng hóa tính bằng tiền, Mỵ cảm
thấy bị xúc phạm và lòng tự trọng của Mỵ không cho phép Mỵ im lặng, đồng tình
trước ý định ngang ngược của tên thống lí. Lúc ấy, Mỵ dõng dạc trả lời với bô' rằng:
“Con nay biết cuốc nưởng, làm ngô, con phải làm nưcmg ngô, giả nợ thay cho Bố, Bố
đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói của Mỵ là thể hiện lòng tự trọng, ý thức về
nhân phẩm và sẵn sàng đem sức lao động để kiếm tiền trả nợ cho Bô' là phẩm chất
đáng quý của Mỵ.
- Phẩm chất 2.
Những ngày tháng Mỵ sông trong gia đình thông lí, Mỵ cảm thấy thân phận
đoạ đày tủi nhục hơn cả con trâu, con ngựa trong nhà này, Mỵ không muôn tiếp
tục sông trong tủi phận, xót xa cho cuộc đời của chính mình, Mỵ muô'n tìm đến
cái chết bằng “nắm lá ngón” như là một sự giải thoát, một lô'i thoát dù đó là

338
hành động tiêu cực. Lúc Mỵ về nhà trình với Bô' để tìm cái chết, khi ấy, Bô' của
Mỵ như có linh cảm là con gái mình về lạy Bô' để đi chết. Nhưng khi Mỵ nghe
được tiếng nói của Bô: “Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ
người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Lời nói của Bô' đã làm cho
Mỵ chợt tỉnh ra rằng: “Mỵ chết thì Bố Mỵ còn khổ hơn bao nhiêu lần hây giờ
nữa”. Mỵ sợ Bố khố khi mình chết đi, Mỵ quyết định “ném nám lá ngón xuống
đất” và trở lại nhà thống lí làm thân trâu ngựa để Bố của Mỵ yên tâm trong cuộc
đời còn lại của tuổi xê' chiều. Hành động “ném nắm lá ngón xuống đất” là hành
động dũng cảm của Mỵ, sẵn sàng tiếp tục chấp nhận hi sinh là thể hiện người con
hiếu thảo, “một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
- Phẩm chất 3.
Làng Hồng Ngài mỗi lần sau vụ gặt xong là họ ăn tết, cuộc vui trai gái trong
làng với bao hình thức, nào là “thổi sáo, đu quay, ném bao...”. Khi Mỵ nghe được
tiếng sáo lửng lờ vọng lại bên tai, Mỵ khao khát được đi chơi được hòa nhập cùng
với trai gái trong làng ngoài kia để cùng hòa với cuộc chơi, được sốhg lại bao kỉ
niệm đẹp của một thời con gái và Mỵ tự độc thoại: “Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẫn còn trẻ.
Mỵ muốn đi chơi” đó là tiếng nói của ý thức của khát vọng tự do thể hiện tinh
thần phản kháng đấu tranh của Mỵ trước cường quyền và thần quyền.
- Phẩm chất 4.
Mỵ đồng cảm, thương cảm những giọt nước mắt của A Phủ, lúc bị tên thống lí
trói đứng vì anh để mất bò của thống lí. Mỵ sẵn sàng ra tay cứu A Phủ khi nhìn
thấy A Phủ như kiệt sức rồi Mỵ nói: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chét,
chết đau, chết đói, chết rét, phải chết... người kia việc gì mà phải chết thế”. Tình
thương người đã thật sự khơi dậy trong tâm hồn Mỵ và Mỵ quyết định cứu A Phủ
dù cho mạng có đổi mạng, Mỵ không sợ rồi Mỵ nghĩ: “Nếu bố con Pá Tra sẽ bảo là
Mỵ cởi trói cho nó, Mỵ liền trói thay vào đấy, Mỵ phải chết trên chiếc cọc ấy”. “Mỵ
cũng không thấy sợ”. Cuô'i cùng Mỵ đã cởi trói, cứu thoát A Phủ, đó là hành động
dũng cảm quên mình của Mỵ để cứu A Phủ là phẩm chất đẹp, một tấm lòng yêu
thương con người sâu sắc của Mỵ.

II. PHẦN K Ế T THÚC:


về n gh ệ thuật: Cô't truyện mạch lạc, xây dựng tình huông đầy kịch tính,
hâ'p dẫn lôi cuô'n người đọc, đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, (Mỵ) lời thoại
của nhân vật râ't thật, gần gũi với tiếng nói của nhân dân...
v ề nội d u n g : Tác phẩm khắc hoạ thành công nhân vật Mỵ, người phụ nữ
nghèo, có tài, có sắc của núi rừng Tây Bắc nhưng phải gánh chịu bao sô' phận
khắc nghiệt của cuộc đời dưới chê' độ thực dân phong kiến thuở ấy. Đẹp thay!
Mỵ vẫn sông, vẫn sô'ng đẹp, vẫn ý thức về tự thân, vẫn hiểu lẽ đạo làm con, làm
người, có tình thương người sâu sắc và sẵn sàng vượt lên sô' phận nghiệt ngã của
339
chính mình để thay đổi sô' phận, tìm thấy hạnh phúc, chứng tỏ Mỵ không cam
chịu sô phận trước cuộc sông, đầu hàng, buông xuôi, an phận trước cuộc sông
như ý kiến thứ nhất đã nhận định. Ngược lại Mỵ là người phụ nữ nghèo Tây Bắc
có một sức sông tiềm tàng thật mãnh liệt đế khẳng định chính mình trước cuộc
sông cùng những phẩm châ't đáng quý. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
nghèo Tây Bắc thông qua nhân vật Mỵ. Quả thật: “Mỵ là con người của nghị lực
của lòng tự trọng, ý thức về nhân phẩm cùng với cái tâm trong sáng” là một
nhân cách sông đẹp.

Đề tuyển sinh:
Câu 1: (2đ) B ài thơ “Đ ấ t N ư ớ c” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có
đoạn viết:
“K h i h a i đ ứ a c ầ m tay
Đ ấ t N ư ớc tr o n g c h ú n g t a h à i h ò a n ồ n g th ắ m
K h i c h ú n g t a c ầ m tay m ọ i n gư ời
Đ ấ t N ư ớc vẹn trò n to lớn . ”
(Trích Đất N ư ớ c- Nguyễn Khoa Điềm)
Anh, chị đọc đoạn thơ trê n và thực hiện cá c yêu cầu sau:
1/ Đoạn thơ nêu lên ý nghĩa như thê nào?
2/ Hình ảnh nào tron g câu thơ th ể hiện ý trọn g tâm của đoạn
thơ? Hãy giải thích.
3/ Nêu lên vài n ét thi pháp đặc sắc củ a đoạn thơ
Câu 2: (3d) (Nghị luận x ã hội)
Có ý kiến rằn g: “K ẻ n à o q u a y lư n g trư ớc n ỗ i đ a u c ủ a k ẻ k h á c
v à c h ỉ b iế t s ố n g su n g sư ớn g c h o b ả n th â n đ ề u l à n h ữ n g k ẻ
đ á n g k h i n h ”.
Anh, chị giải thích ý kiến trê n và nói lên suy nghĩ, cá ch sống
củ a con người với con người hiện nay ra sao?
Câu 3: (5đ) (Nghị luận văn học)
v ề nhân v ật Hồn Trương Ba trong kịch bản; “H ồn T rư ơn g B a
d a h à n g t h ịt ” củ a nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, có ý kiến cho
rằng: “Đ ó l à co n n gư ời c ỏ ý th ứ c về c h ín h m ìn h v à b iế t b ả o vệ
tư c á c h s ố n g c ủ a b ả n t h â n ”.
Ý kiến kh ác thì khẳng định rằng: “D ó l à co n n g ư ời s ô n g b iế t
k h o a n d u n g v à c ó tấ m lò n g n h â n h ậ u ”. Từ cảm nhận củ a anh,
chị về nhân vật Hồn Trương Ba, anh, chị hãy bình luận ý
kiến trê n để làm sáng tỏ nhân vật Hồn Trương Ba.

340
HƯỚNG DẪN
Câu 1: (2d)
1. Đoạn thơ nêu lên ý nghĩa như thê nào?
Đoạn thơ nói lên tình cảm yêu thương gắn bó giữa anh và em, khơi nguồn
cho niềm vui chung của Đất Nước và tình yêu ấy phải biết gắn kết với tình yêu
cộng đồng, quê hương, nhân dân, tô quô"c thì Đất Nước mới “vẹn tròn to lớn”.
2. Hình ảnh nào trong câu thơ th ể hiện ý trọn g tâm củ a đoạn thơ?
Hãy giải thích.
Hình ảnh trong lời thơ: “Khi hai đứa cầm tay mọi người” biểu hiện ý trọng
tâm của đoạn thơ. Tiếng gọi: “Khi hai đứa cầm tay mọi người” là nói lên tình
yêu riêng, tình yêu của anh và em, của chúng ta phải biết nôl kết, gắn kết với
tình yêu cộng đồng, tình yêu giai cấp, tình yêu của những con người cùng khổ
giữa lòng què hương dân tộc đế nôi thành một vòng tay lớn, tạo nên một sức
mạnh mới, sức mạnh tổng hợp hình thành tình chiến hữu, tình đồng chí góp
phần xây dựng bảo vệ đất nước.
3. Nêu lên vài n ét thi pháp d ặc sắc củ a đoạn thơ.
Đoạn thơ thể hiện lời tự sự chân tình, giọng thơ rắn ròi, khẳng định, hình
ảnh ẩn dụ ví von, giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng nói lên tình yêu riêng,
phải biết kết hợp với tình yêu chung, tình yêu cộng đồng, tình yêu nhân dân,
quê hương, dân tộc nhằm tạo sự to lớn vững bền cho Đất nước.
Câu 2 : (3d) (Nghị lu ận xã hội)
ÌSỈững kiến th ứ c cầ n nắm :
1. Có lời nhận định rang: “Quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác chỉ là thứ quái vật”.
2. Có lời bày tỏ rằng: “Tình thương là lẽ sống cao nhất của con người”.
3. Lời người xưa có nói: “Thương người như thể thương thân”.
4. Lời cổ nhân có nói: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải
thương nhau cùng” hay “Bầu ơi thương lấy Bí cùng. Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”.
5. Có ý kiến răng: “Khỉ sức mạnh dồng tiền được đề cao, cái xấu, cái ác hiện hình”.
6. Có lời rằng: “Kẻ giàu có nhưng vô cảm trước nỗi đau của kẻ khác cũng là
người dáng khinh”.
7. Đại thi hào Nguyễn Du từng nói: “Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài”. (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
8. Pascal đã nói: “Co7i người là cây sậy biết suy tư”. (Pascal)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI:
Có ý kiến rằng: “Quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác là một thứ quái vật”.

341
Phải chăng, quái vật là loại dị hình, dị tướng, dị nhân, ai ai cũng ghê tởm.
Nếu là con người mà sống vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ trước nỗi đau của kẻ khác
cũng là thứ quái vật đáng ghê tởm, đáng khinh, đúng như lời nhận định: “Kẻ
nào quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác, chỉ biết sống sung sướng cho bản thân
đều là kẻ đáng khinh”, cần giải thích để làm sáng tỏ ý kiến trên và ngày nay
giữa con người và con người thể hiện qua cách sông ra sao?
II. PHẦN THÂN BÀI:
N h ữ n g bước cần thực h iện :
1. Cần giải thích cụm từ; Quay liùig trước nỗi đau của kẻ khác là thế
nào? và sống cho bản thân là sống ra sao? Kẻ đáng khỉnh là kẻ th ế nào?
- Cụm từ “Quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác” có ý nói, khi đôi diện, trực
diện những người gặp hoạn nạn vì cháy nhà, vì tai nạn xe cộ, vì bệnh tật hiểm
nghèo... mà ngoảnh mặt làm ngơ, thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm không nghĩ đến, sợ
đụng chạm đến quyền lợi, ảnh hưởng đến bản thân là kẻ quay lưng.
- “Sống cho bản thân” là ý nói: chỉ biết sông vị kỉ, sôhg cho riêng mình, ích
kỉ với mọi người kể cả người thân yêu là lôl sôhg “Mackeno”. “Kẻ đáng khinh” là
kẻ mọi người xem thường, khinh bỉ vì chỉ biết sôhg hưởng thụ, sung sướng cho
bản thân mà không cần biết đến ai xung quanh mình.
2. Tại sao kẻ quay lưng trước nỗi đau của kẻ kh ác chỉ biết sô"ng cho
bản th ân là kẻ đáng khinh?
- Chúng ta còn nhớ lời nói của Pascal: “Con người là cây sậy biết suy tư” là
con người phải có nhận thức, sông để làm gì? và sôhg như thế nào? Không phải
con người sinh ra đế mà ăn, sôhg để mà ăn, hưởng thụ cho bản thân sung sướng,
phì nộn chẳng khác gì như khôi thịt thừa vô cảm, vô giác không linh hồn, cuôl
cùng cũng mục nát tan rã như cỏ cây thì chúng ta tự hỏi, sông như thế để làm
gì? Mà chúng ta phải luôn luôn nhận thức rằng, con người hơn con vật là vì
chúng ta có nhận thức, có lí trí, có tình cảm yêu thương, vui buồn giận hờn và tự
đưa ra câu hỏi và trả lời rằng: “Con người sống đ ể làm gì? Sông đ ể học đ ể hiểu
biết đem kiến thức đã học và kinh nghiệm trong cuộc sống đ ể giúp đỡ, chia sẻ
nỗi đau của người khác, của cộng đồng đ ể “làm sao được tan ra” “giữa biển lớn
tinh yêu, biển rộng của cuộc đời để cuộc sống có ý nghĩa” là thể hiện con người
có nhân cách đáng trân trọng, ngược lại đà là con người mà chỉ biết sông để ăn,
sông đế hưởng thụ, sung sướng cho bản thân của riêng mình, không biết nghĩ
đến ai, sông theo lôl ích kỉ, hẹp hòi sôhg theo “lối sống Mackeno”, “chuyện ai
nấy biết, đèn nhà ai nấy sáng” đó là lôl sông lạnh lùng, thờ ơ, ghẻ lạnh, vô cảm
là những kẻ đáng khinh, đáng ghê tởm. Chúng ta làm sao quên được lời dạy của
cố nhân: “Thương người như thể thương thân”; “Chị ngã em nâng”; “Lá lành
đùm lá rách”; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” hay “Bầu ơi thương lấy bi cùng.
Tuy rằng khác giống như chung một giàn” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng” đó mới là cách sôhg của con

342
người, lôl sông của con người có văn hóa, có tính nhân văn. Chúng ta không nhớ
lời nhạc của cô" nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hay sao! “Ngày sau sỏi đá cũng cần có
nhau” khi sỏi đá vô tri, vô giác, vô cảm vô hồn mà cũng cần có nhau bên nhau
đế cùng chia sẻ vui buồn thì thử hỏi là con người có nhận thức, có lí trí để nhận
định tốt xấu, phân biệt đúng sai, đâu là chân lí đâu là sai lầm, thì con người
phải biết sông chia sẽ, đồng cảm, yêu thương con người, yêu thương đồng loại đó
mới là cách sống của con người. Khi con người gặp hoạn nạn về xe cô, tai nạn,
thiên tai, tật bệnh hiểm nghèo hay rơi vào tình trạng khó khăn trước cuộc sông,
mỗi chúng ta phải biết chung nhau chia sẽ, tương trợ, giúp đỡ, hàn gắn từ giá trị
vật chất đến tinh thần nhằm an ủi, xoa dịu nỗi khổ đau của những người gặp
hoạn nạn thì đó là cách sông của con người, những con người ấy đều đáng trọng,
đáng quý còn ngược lại đều là kẻ đáng khinh, đáng ghê tởm, lên án nguyền rủa.
3. Ngày nay, giữa con người với con người th ể hiện cá ch sống ra sao?
Ngày nay, trước cuộc sống thực dụng, lôl sông tiền trao cháo múc, khi sức
mạnh đồng tiền được đề cao, trọng dụng thì giá trị tinh thần, đạo đức bị lung
lay, xem nhẹ, cái xấu, cái ác lại hiện hình, phát triển và cách sông, cách quan
hệ giữa con người cũng lạnh lùng, khoảng cách, người ta đến với nhau, đánh giá
về nhau cũng xác định bằng vật chất, tiền bạc là thước đo giá trị của con người,
có tiền đen cũng thành trắng, đá cũng thành kim cương, không tiền trắng cũng
phải thành đen, đạo đức, nhân nghĩa cũng chỉ là tiếng cười trong thiên hạ, nghi
đời mà ngán cho đời, “niột con cá lội mấy người buông câu” hay “còn tiền còn
bạc còn đệ tử, hết cơm, hết rượu hết ông tôi” đúng là tình đời, tình người là “thê
thái nhân tình gớm chết thay, mặn nồng trong chiếc túi vơi đây, hễ không điều
lợi khôn thành dại, hễ có đồng tiền dở hóa hay”. Ngày nay, khi sức mạnh đồng
tiền được đề cao, cách sông, lôl sông của con người là như thế đó, con người sẵn
sàng quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác vì sợ đụng chạm đến quyền lợi, tiền
bạc, địa vị, thanh danh, giá trị vật chất của họ, nếu thế, họ là con người thật
dáng khinh ghê tởm.
N hấn mạnh'. Nhưng không phải tất cả mọi người trước cuộc sông hiện naj" là
như thế! Ngày nay, vẫn không thiếu người tô"t, người có tâm đạo, họ sẵn sàng
chia sẻ, đồng cảm, giúp đỡ những người hoạn nạn, nỗi đau của kẻ khác và có
biết bao mạnh thường quân ra tay giúp đỡ một cách tự nguyện, không mưu cầu
tính toán hơn thiệt cho bản thân mình như “chương trình ngôi nhà mơ ước”;
“vượt lên chính mình” “mái ấm tình thương”; “làng SOS của những trẻ mồ côi”;
“người già neo đơn không nơi nương tựa” được chăm sóc chu đáo từ con người, từ
những tấm lòng nhân ái thì những con người đó thật đáng trân trọng, đáng quý,
đáng ca ngợi.
Và ngày nay, vẫn còn có hạng người khi kẻ khác đánh rơi của cải trên đường,
họ xúm vào, mỗi người nhặt và bỏ vào túi, lạnh lùng quay mặt như một kẻ man
dại, hay thấy một xe hàng chở bia trên đường gặp sự cố, bia vung vãi trên

343
đường, rồi một sô' người gần đó, xúm nhau mà tranh giành giật lấy, ôm lấy
mang đi, không một chút ngượng ngùng thương xót. ô i thôi! Tình người và tình
đời ngày nay khi sức mạnh đồng tiền và giá trị vật chất được đề cao đã làm cho
con người trở thành những kẻ đáng khinh vô liêm sỉ.

II. PHẦN K ẾT BÀI:


Đề bài trên là lời nhận định thật đanh thép, lời tô' cáo những kẻ chỉ biết
sông lô'i sông ích kỉ, thực dụng “tiền trao cháo múc”, xem trọng giá trị vật chất
tiền bạc và cũng là lời cảnh tỉnh, đánh thức lương tâm con người phải sông như
thê' nào để được gọi là con người đáng trọng thay cho đáng khinh vì con người,
hai tiếng ấy (con người) đẹp thật, đáng yêu thật vì hai tiếng â'y đã từng làm nên
lịch sử.
Câu 3: (5đ) (Nghị luận văn học)

3 0 ững kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Triết gia người Đức - Nietzsche có nói: “Deviens ce que tu es”. Ý nói: “Anh
phải trở về, cái gì của chinh anh”.
2. Kịch bản: “Người trong cõi nhớ” của tác giả Lưu Quang Vũ có nói: “Chúng tôi
là những người đã chết. Nhưng những người còn sống vẫn nhớ đến. Như vậy,
chúng tôi vẫn còn được sống”. (Lưu Quang Vũ)
3. Có ý kiến rằng: “Đánh mất lòng tự trọng là tự đánh mất chính mình”.
4. Lời cổ nhân có nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” hay “ơ bầu thì tròn,
ở ống thì dài”.
5. Có ý kiến rằng: “Hoàn cảnh làm thay đổi, biến dạng tính cách của con người”.
6. Có nhận định rằng: “Không có gì đau đớn, xót xa khi tôi không phải là tôi
toàn vẹn”.
7. Có nhận định rằng: “Không có gì hạnh phúc hơn khi được sống đúng với thực
thể của chính mình”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU:
“Không có gì hạnh phúc hơn khi được sống đúng với thực thể của chính
mình”. (Lời nhận định)
Lời nhận định trên đưa chúng ta nghĩ đến kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng
thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, tác giả ưu tư về nhân vật Hồn Trương Ba
đã đánh mất chính mình, khi hồn thì của người này nhưng xác thì của người
khác, lại xác lập trong cùng một con người Trương Ba. Và có ý kiến cho rằng;
“Đó là con người có ý thức về chính mình và biết bảo vệ tư cách sống của bản
thân”. Còn ý kiến khác thì khẳng định: “Đó là con người sống biết khoan dung
và có tấm lòng nhăn hậu”. Chúng ta cần bình luận thông qua các ý kiến trên đề
làm sáng tỏ nhân vật Hồn Trương Ba.
344
II. PHẤN TRỌNG TÂM:
Cần bình luận các ý kiến trên để làm sáng tỏ nhân vật Hồn Trương Ba.
A. Ý kiến 1: “Đ ó l à c o n n gư ời c ó ỷ th ứ c về c h ín h m ìn h v à b iế t b ả o vệ
tư c á c h s ố n g c ủ a b ả n t h â n ”.
1. Nhân v ật Hồn Trương B a đánh m ât chính mình. Vì sao?
C h i tiế t 1:
Nhân vật Hồn Trương Ba từ một nhà làm vườn, yêu thiên nhiên, cỏ cây hoa
lá, yêu thương gia đình, hòa nhă, vui vẻ với mọi người lại có tài đánh cờ hay.
Cuộc sông của ông Trương Ba thật êm đềm, một sự cô" do tắc trách của Nam Tào
và Bắc Đẩu đã gạch tên ông Trương Ba ở hạ giới, ông phải chết oan, lúc ấy Đế
Thích cũng là quan nhà trời, muôn sửa sai muôn làm cho ông Trương Ba sông
lại bằng cách nhập hồn ông Trương Ba vào xác anh hàng thịt vừa mới chêt, từ
đây ông Trương Ba sông lại nhưng không còn là ông Trương Ba của ngày trước
nữa vì hồn là của ông Trương Ba nhưng xác thì lại của anh hàng thịt. Thế là
trong một con người mà hồn của người này mà xác của người kia, hai thực thể
trong một con người hoàn toàn khác nhau, đôl lập nhau, một bên hồn là ông
Trương Ba, biểu tượng cho hiền hậu, vui vẻ, tôt lành, trong khi đó anh hàng thịt
là một tay giết lợn hàng ngày, ăn nói lỗ mãng, ham rượu, ham đàn bà, cộc cằn,
biểu tượng cho cái xấu cái ác. Từ hai thực thế của hai con người hoàn toàn khác
nhau, đôi nghịch nhau mà lại hòa nhập, xác lập trong một con người, là hoàn
toàn trái với quy luật của tạo hóa, một sự áp đặt tùy tiện, máy móc đã xem
thường con người, xem thường thực thể chính đáng của con người, không phù
hợp với quy luật đạo đức. Cuôl cùng, hồn Trương Ba đã biến chất, tha hóa một
cách thẳm hại, đau đớn, xót xa. về hành động: Trương Ba không còn đánh cờ
hay nữa, trí tuệ không còn minh mẫn, sáng suô't, Trương Ba lại phá hoại, giẫm
nát cây côi trong vườn, ông làm hỏng cả cái diều của thằng cu Tỵ, ông làm gãy
cả nan, rách cả giấy kể cả Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu
mũi. Về cách sông: Tính cách của Trương Ba không còn hiền lành, vui vẻ tốt
bụng với những người trong gia đình kế’ cả mọi người xung quanh. Trương Ba trở
nên thô lỗ, cộc cằn, lại ham vỢ anh hàng thịt, lúc đứng cạnh vỢ anh hàng thịt
“tay chân run rẫy, hơi thở nóng rực”. Từ hành động và cách sống của Hồn
Trương Ba đã thực sự biến chất, tha hóa đó là nỗi đau đớn thấy nhất của Hồn
Trương Ba đã đánh mất chính mình.
C h i tiế t 2:
Nhân vật Hồn Trương Ba còn đau đớn khi gia đình xa lạ, nghi ngờ và xem
thường vì tất cả người thân yêu trong gia đình từ vỢ, con trai cả, cháu nội gái và
người con dâu ai ai cũng xa lạ, nghi ngờ và xem thường ông vì họ không còn tìm
thấy ông Trương Ba làm vườn ngày trước nữa mà thay vào đó là một con người
cộc cằn, thô lỗ, ham rượu, ham đàn bà và “sự hiền hậu vui vẻ, tốt lành” của ông
Trương Ba ngày trước không còn nữa đến nỗi người vỢ đã thô"t lên: “ông đâu còn

345
là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”... với người con trai cả,
trước kia đều vâng lời nghe theo ý kiến chỉ bảo của ông Trương Ba nhưng hôm
nay “anh đã quyết định dứt khoát sẽ bán ngôi vườn để có tiền mở thêm vốn
liếng cửa hàng thịt” dù ông Trương Ba không chấp nhận và người cháu nội gái
cũng không thừa nhận ông Trương Ba là ông nội của mình và còn lên án ông ấy
thô lỗ, tàn nhẫn chỉ còn người con dâu dù râd hiểu và thông cảm cho ông Trương
Ba nhưng trong thâm tâm người con dâu vẫn nghi ngờ về ông hiện nay và tự nói
rằng: “Thầy ơi! Làm sao, làm sao giữ được ở lại sự “hiền hậu, vui vẻ, tốt lành”
như Thầy của chúng con ngày xưa”. Đây là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba từ
phía gia đình cũng là nỗi xót xa đau đớn thứ hai của ông.
2. Hồn Trương B a ý thức về chính mình và biết bảo vệ tư cách sống
của bản thân.
Từ hành động và tính cách sông của Hồn Trương Ba từ khi nhập vào xác anh
hàng thịt, Hồn Trương Ba dần dần đã nhận ra bản thân con người của mình đã
thay đổi, biến chất. Trước tình trạng như thế, Hồn Trương Ba đã ý thức được
điều đó, hiểu ra rằng: Ai đã làm cho con người của mình phải đau khổ như thế
này? Ai đã làm cho Hồn Trương Ba giờ này gia đình phải xa lạ, nghi ngờ và
xem thường đế rồi Hồn Trương Ba phải thốt lên: “Không! Không! Tôi không
muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm
rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này ta bắt đầu sợ mi, ta muôn
xa mi ngay tức khắc”. Lời nói của Hồn Trương Ba là tiếng nói của ý thức, tự
nhận biết chính bản thân đã không còn là mình nữa, thay vào đó là một con
người đã biến dạng về nhân tính về tính cách sôhg và hành động không còn là
ông Trương Ba làm vườn của ngày xưa, rồi Hồn Trương Ba thôt lên như một
phản ứng, một sự phản kháng đế đòi quyền làm người của mình đã bị cướp mất,
Hồn Trương Ba nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được.
Tôi muốn dược là tôi toàn vẹn” và: “Nếu cái hồn ta có hình thù riêng” ta sẽ
“tách ra khỏi cái xác này dù chỉ là một lát”. Hàng loạt tiếng nói của Hồn Trương
Ba càng thấy rõ, Hồn Trương Ba không đồng tình với cái xấu, cái ác, cái thô lỗ,
cộc cằn, ham rượu, ham đàn bà của tên hàng thịt và quyết liệt phủ nhận, cắt đứt
ngay tức khắc đế trả lại con người thật, nhà làm vườn ngày trước của ông
Trương Ba đó là tinh thần phản kháng của Hồn Trương Ba để bảo vệ tư cách
sông của một con người mà hồn nào thì xác nấy. Hồn Trương Ba còn đưa ra
những lời lẽ thật chính xác, hợp lí, hoàn toàn đúng đắn phù hợp với quy luật tự
nhiên của tạo hóa khi trực diện với quan Đê Thích và Hồn Trương Ba nói: “Sống
nhờ vào dồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến
cái thân tôi sống nhờ vào anh hàng thịt, ồ ng chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống,
nhưng Sống như thê nào thi ông chẳng cần biết”. Chứng tỏ nhà viết kịch Lưu
Quang Vũ đã đi sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật Hồn Trương Ba để thấy
rõ lẽ sống chính đáng của Hồn Trương Ba là hoàn toàn hợp lí, hợp với lẽ phải,
lẽ đạo làm người, lẽ tự nhiên của tạo hóa và thấy rõ sự tắc trách, vô trách
346
nhiệm của các quan nhà trời, càng sửa thì càng sai, càng làm cho con người rơi
vào sự đau khổ, bức xúc, bế tắc, đánh mâ't chính mình.
N hấn m ạnh:
Đế thấy rõ tinh thần đấu tranh phán kháng của Hồn Trương Ba với Đế Thích
nhằm bảo vệ tư cách sông và nhân cách sông của một con người, Hồn Trương Ba
chỉ có một khát vọng chính đáng trước sau như nhất là quyết liệt tìm đến cái
chết và chỉ có cái chết mới là cách giải quyết hợp lí đúng đắn nhất đế Hồn
Trương Ba tìm lại con người ngày xưa của chính mình, và Hồn Trương Ba nói
với Đế Thích: “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã chết rồi hãy để
tôi chết hắn”. Rồi Hồn Trương Ba càng quyết liệt bày tỏ thái độ dứt khoát: “Nếu
ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát vào cổ, lúc đó thì
hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”. Những lời nói quả quyết là thể
hiện tinh thần phản kháng đấu tranh của Hồn Trương Ba đế trở về con người
thật của ông là bảo vệ tư cách của một con người, của nhà làm vườn ngày xưa là
thể hiện sức sông tiềm tàng mãnh liệt trong con người của Hồn Trương Ba để
“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là phẩm chât đẹp của nhân vật Hồn Trương Ba.
Đúng như lời nhận định: “Đó là con người có ý thức về chính mình và biết bảo
vệ tư cách sống của bản thân”.
A. Y kiến 2: “Dỏ là con người biết khoan dung và có tấm lòng nhăn hậu”.
Hồn Trương Ba hiểu rằng, từ khi nhập vào xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba
đã từng đôi thoại với tên hàng thịt để mong tìm được một lôi thoát cho chính
mình nhưng đành bất lực, bế tắc và Hồn Trương Ba cũng đã từng bị tên hàng thịt
ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba và hắn từng cho rằng, nhờ xác
của hắn mà Hồn Trương Ba mới được sống mới hành động và còn bêu xấu Hồn
Trương Ba, hắn nói: “Khi ông ở bèn nhà tôi... khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay
chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì...” và
hắn còn miệt thị bêu xấu Hồn Trương Ba, hắn nói: “Tâm hồn là thứ lắm sỉ diện!
Hà hà, miễn là... ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi”.
Hàng loạt những lời thói mạ của tên hàng thịt về nhân vật Hồn Trương Ba, lúc ấy
Hồn Trương Ba tuy đau đớn, ray rứt, dày vò nhưng nguyện vọng của Hồn Trương
Ba vẫn một mực xin Đế Thích, yêu cầu Đê Thích cho anh hàng thịt được sống,
được đoàn tụ cùng gia đình vỢ con là thế hiện tấm lòng khoan dung rộng mở của
Hồn Trương Ba vì ông đã biết “lấy ăn báo oán” xóa bỏ hận thù trong quá khứ đế
cùng hướng đến sự tốt đẹp chung vừa cho chính mình và cho cả anh hàng thịt là
thể hiện tấm lòng bao dung, nhân hậu của Hồn Trương Ba. Và Hồn Trương Ba
không những xin Đế Thích mà xin cho cả thằng cu Tỵ (con trai của chị Lụa) người
hàng xóm được sống lại đế trở về đoàn tụ với gia đình, chứng tỏ Hồn Trương Ba
vừa hiểu được nỗi đau của người vỢ mất chồng, người con mất cha và Hồn Trương
Ba cũng hiếu được nỗi lòng xót thương đau khổ của người mẹ khi mất đứa con núm
ruột của mình vì thế mà Hồn Trương Ba vẫn tha thiết yêu cầu Đế Thích vì lòng

347
trách ấn của con người mà trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cháu cu Tỵ để hai
gia đình trùng phùng hội ngội từ cõi chết được trở về với cuộc sông là thế’ hiện
tấm lòng khoan dung, nhân hậu thật cao đẹp biết nhường nào là phẩm chất đáng
quý, đáng trân trọng của Hồn Trương Ba là thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc
của kịch bản. Đúng như lời nhận định về Hồn Trương Ba: “Đó là con người biết
sống khoan dung và có tấm lòng nhân hậu”.

III. PHẦN K ẾT THÚC:


về n gh ệ thuật: Tác giả xây dựng những tình huông đầy kịch tính qua các
cuộc đôl thoại của các nhân vật, lời thoại của nhân vật rất thật, gần gũi tiếng
nói của nhân dân; đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật...
về nội d u n g : Kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nêu lên vấn đề về con
người, tác phẩm như một thông điệp nhằm gửi đến những ai có trách nhiệm đối
với con người, phải luôn luôn tôn trọng quyền làm người, quyền sông của con
người và làm sao đem lại cuộc sông hạnh phúc cho con người đó là vấn đề thiết
thực trước cuộc sông là thể hiện tinh thần nhân đạo là sức sông có giá trị cho
tác phẩm.
Thông qua ý kiến thứ nhất và thứ hai của đề bài giúp cho người đọc thây rõ
nhân vật Hồn Trương Ba thật đáng thương nhưng cũng thật đáng quý vì Hồn
Trương Ba đã ý thức về chính mình, biết nhận rõ sự tha hóa biến chất của
chính bản thân mình mà thể hiện tinh thần phản kháng đấu tranh đế đòi lại
quyền làm người, đòi lại con người ngày trước của Hồn Trương Ba là: “Tôi muốn
được là tôi toàn vẹn” đó là phẩm chất đẹp, ý thức về lòng tự trọng về nhân
phẩm của chính mình và Hồn Trương Ba đã có một tấm lòng khoan dung, tấm
lòng nhân hậu thật cao quý biết bao. Tất cả đã làm nên giá trị cho kịch bản.

Để tuyển sinh:
Câu 1: (2d) B ài thơ “Đất N ư ớ c” trích “T rư ờ ng Ca Mặt Đ ường Khát
V ọ n g” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có đoạn viết:
“Em ơi em, Đất N ước là m áu xư ơ ng củ a m ình
P hải biết g ắ n bó và san sẻ
P hải biết hóa thân d á n g h ình x ứ sở
Làm n ên Đất N ước m uôn đ ờ i”.
(Trích Đất N ư ớ c- Nguyễn Khoa Điểm)
Anh, chị đọc đoạn thơ trê n và thực hiện cá c yêu cầu sau:
1/ Đoạn thơ nêu lên tâm tư của tá c giả như th ế nào?
2/ Giải thích điệp từ “P h ải” ở đầu hai câu thơ có ý nghĩa gì?
3/ C ác từ ngữ: “gắn bó, san sẻ, hóa th ân ” anh chị có suy nghĩ gì
về ý thơ trên ?

348
Câu 2: (3đ) (Nghị luận xã hội)
Tô Hữu có viết: “Sống là cho đâu chỉ nhận riên g m ìn h ”. (Tố Hũfu)
Anh, chị giải thích ý kiến trên và câu nói ây có còn phù hỢp
tron g hoàn cảnh xã hội củ a chúng ta hiện nay hay không? (Liên
hệ bản thân của anh chị).
Câu 3: (5đ) (Nghị luận văn học)
Hình tưỢng nhân vật ông Huấn Cao trong tru yện ngắn: “C h ữ
N gười T ử T ù ” của nhà văn Nguyễn Tuân, có ý kiên cho rằng:
“Dó là m ẫu người n gh ệ sĩ, người sĩ p h u yêu nước, th ương dân
sẵn sà n g đâ u tranh vì quyền lợi cho người n ô ng dâ n n ên ông bị
triều d in h h à nh quyết”.
Có ý kiến kh ác cho rằng: “ô n g H uấn Cao vì k h ôn g được trọng
d ụ n g dăm ra bất m ãn, nổi dậy cù n g với n ô ng dâ n ở Mỹ L ư ơng và
p h ả i dón n h ậ n cái ch ết”. Từ cảm nhận của anh, chị về nhân vật
ông Huân Cao, anh, chị hãy bình luận cá c ý kiến trê n để làm
sáng tỏ nhân v ật (ông Huân Cao).

HƯỚNG DẪN
Câu 1: (2d)
1. Đoạn thơ nói lên tâm tư của tá c giả như thê nào?
Đoạn thơ bày tỏ tâm tư của tác giả trước hoàn cảnh đau thương của Đâ"t Nước
khi Đê quốc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam. Tác giả đưa ra lời kêu gọi
đôì với tuổi trỏ miền Nam đang sống trong vùng tạm chiếm, hãy nhận thức nỗi
đau của Đất Nước mà đứng lên cứu nước, bảo vệ Tồ’ quốc.
2. Giải thích điệp từ “P h ả i” ở đầu hai câu thơ có ý nghĩa gì?
Điệp từ “Phái” ở đầu hai câu thơ như một hiệu lệnh, một mệnh lệnh là lời
kèu gọi, khẳng định các bạn trẻ đang sông trong vùng tạm chiếm tại miền Nam
thời trước cần phải làm gì để bảo vộ Đâ’t nước lúc lâm nguy và làm sao đem lại
sự vẹn toàn cho đâ't nước.
3. Các từ “gắn bó, san sẻ, hóa thân” có ý nghĩa ^ trong đoạn thơ trên?
Hàng loạt từ gọi “gán bó, san sẻ, hóa thân” như là lời kêu gọi của nhà thơ với
tư cách, một người anh đi trước, nhắc nhở, kêu gọi lớp đàn em cần phải biết
đoàn kết, liên kê't đê cùng chia sẻ trước mọi đau thương của Đất Nước đế đem
lại sự thông nhâd cho Đâd nước.
Câu 2.1 (3d) (Nghị luận xã hội)

Ị3Ỉững k iế n thứ c cần nắm


1. Có ý kiến rằng: “Cuộc sông có ý nghĩa khi mỗi chúng ta phải biết công hiến”.

349
2. Cô' tổng thô'ng Hoa Kì John-Kennedy đã nói: “Các bạn đừng hỏi rằng Tổ quốc
phải làm gi cho các bạn, mà các bạn phải tự hỏi ràng các bạn đã làm gì cho
Tổ quốc hay chưa?”.
3. Có lời thơ rằng: “Khi chúng ta cầm tay mọi người. Đất Nước vẹn tròn to lớn”.
(trích “Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm).
4. Có lời thơ rằng: “Làm sao được tan ra... giữa biển lớn tình yêu”, (trích “Sóng”
- Xuân Quỳnh).
5. Nhà thơ xưa Nguyễn Công Trứ đã nói: “Làm trai đứng ở trong trời đất. Phải
có danh gì với núi sông”. (Nguyễn Công Trứ)
6. Tô Hữu từng bày tỏ: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người. Để tình trang trải với
trăm nơi”, (trích “Từ ấy” - Tô' Hữu)
7. Có ý kiên rằng: “Để cuộc sống có ý nghĩa, mỗi chúng ta phải là con ong luôn
luôn biết đem hương thơm mật ngọt đến cho dời”.
8. Có lời bày tỏ rằng: “Cuộc sống hạnh phúc khi biết cống hiến”.
9. Lời ngạn ngữ phương Tây có nói: “Khi con sinh ra đời, mọi người đều cười
nhưng riêng con thì khóc, nhưng con phải sống làm sao khi con ra đi, mọi
người đều khóc nhưng riêng con mỉm cười” (Ngạn ngữ phương Tây).
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI:
Có ý kiến rằng: “Để cuộc sống có ý nghĩa, mỗi chúng ta như con ong luôn
luôn biết đem hương thươm mật ngọt đến cho đời”. (Lời nhận định)
Lời nhận định trên thể hiện một lẽ sông đẹp, sông là phải biết đồng cảm,
san sẻ và công hiến đưa chúng ta nghĩ đến câu nói: “Sống là cho đâu chỉ nhận
riêng mình” cũng nói lên một lí tưởng sông đẹp như thế.
Cần giải thích đế làm sáng tỏ và câu nói ấy có còn phù hợp với hoàn cảnh
Đất nước của chúng ta hiện nay hay không? Qua đó, anh chị liên hệ bản thân
trước cuộc sông hiện nay.

II. PHẦN THÂN BÀI:


N h ữ n g bư ớ c c ầ n th ự c h iệ n :
1. Trước tiên cần giải thích những cụm từ khó: “S ố n g l à c h o ” c ó ý
nghĩa như th ế nào? và “đ â u c h ỉ n h ậ n r iê n g m ìn h ” là như thê nào?
Cụm từ “Sống là cho” có nghĩa là sống giữa cuộc đời này phải biết tương thân,
tương trợ lẫn nhau, chia sẻ đồng cảm, đùm bọc yêu thương nhau, làm những điều gì
mà trong khả năng mình có thể làm được từ vật chất hay tinh thần.
Cụm từ “đâu chỉ nhận riêng ìnình” là như thế nào? Ý nói, cuộc sô'ng của mình
ổn định, khá giả nếu gặp ai đó sa cơ lỡ bước, hoạn nạn như thiên tai, bệnh tật
hiểm nghèo, v.v... thì mình phải đồng cảm chia sẻ dù “Một miếng khi đói bằng
một gói khi no” để họ vượt qua cơn hoạn nạn là thể hiện “Lá lành đùm lá rách”,
“Thương người như thể thương thân”.

350
2. N hư vậy “S ố n g l à c h o đ â u c h ỉ n h ậ n c h o r iê n g m ìn h ” có ý nghĩa
như th ê n ào?
Cuộc sôhg trên đời này thật vô cùng, mỗi chúng ta sôhg giữa cộng đồng của
xã hội đều có sự liên đời, gắn kết với nhau giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân
với cộng đồng, tập thề nói rộng ra là có sự kết nôì với quê hương, dân tộc, đất
nước là thể hiện trách nhiệm cộng đồng, trách nhiệm với xã hội là thể hiện giá
trị đạo đức của con người trong cuộc sôhg là lẽ sôhg đẹp. Vì thế, nếu chúng ta
thấy những người đang sôhg xung quanh ta, nếu gặp sự cố không may nào đó,
thì chúng ta sẵn sàng mở rộng tấm lòng nhân ái để cùng chia sẻ giúp đỡ trong
phạm vi khả năng của mình dưới mọi hình thức từ giá trị vật chất lẫn tinh thần
nhằm an ủi, động viên, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, hoạn nạn là thể hiện lí
tưởng sông đẹp, cách sông đẹp nhằm đem lại niềm vui cho họ trong cơn hoạn
nạn là niềm hạnh phúc của chính mình là thể hiện cách sống vị tha đúng như
lời nhận định: “Cuộc sống hạnh phúc khi biết cống hiến”.
3. NgưỢc lại, nếu “s ô n g c h ỉ b iế t n h ậ n c h o r iê n g m ìn h ” thì th ế nào?
Nếu cuộc sông này mà chỉ biết sông cho cá nhân, cho riêng mình đó là lối
sôhg ích kỉ, hẹp hòi, nhỏ nhen, ti tiện, tầm thường vì họ không hiểu rằng, cuộc
đời là vô thường là cõi tạm, có đó rồi mất đó, có gì bền vững mà lo tích lũy, ngay
cả thân xác mình, con người của mình cũng không giữ được thì nói chi đến giá
trị vật chất tiền bạc, nhà cửa, giàu sang, chỉ là cát bụi và cuôd cùng cũng trở về
với cát bụi, “nấm mồ là nơi trú ngụ cuối cùng của một đời người” thì chỉ biết
sống cho riêng mình để làm gì? ích kỉ, hẹp hòi, nhỏ nhen, ti tiện để làm gì? Khi
nằm xuông có mang theo cho riêng mình một cái gì? Mà chỉ còn một thân xác
chết rồi tan rã hòa với đất cùng cỏ cây. Nếu hiểu được như thế thì chúng ta
“sống chi biết nhận cho riêng mình đ ể làm gì?” tất cả là là vô nghĩa, vô thường.
4. Lời nói ấy có còn phù hợp trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta hiện nay
hay không?
Y kiến trên: “Sống là cho đâu nhận chỉ riêng mình” vẫn phù hợp với hoàn
cảnh xã hội của chúng ta hiện nay và sau này. Lời nói ấy là một lẽ sôhg đẹp,
một chân lí sống đẹp cho mọi con người, mọi thời đại. Thời đại nào, dân tộc nào
hay quốc gia nào cũng đều có lẽ sôhg như thế, không ai có thể tự sông cô lập với
chính mình mà phải biết yêu thương, đoàn kết, gắn bó để cùng tồn tại, hiện hữu
là sôhg đẹp. Trong phạm vi gia đình, xã hội, dân tộc đều cần phải sông như thế,
“sống là cho” sông là phải biết chia sẻ, phải biết gắn bó thể hiện bằng hành
động cụ thể sẽ tạo một tình yêu thương đoàn kết thì gia đình mới hạnh phúc xã
hội mới phát triển tô"t đẹp, dân tộc mới hùng mạnh vững bền. Chúng ta nên nhớ
rằng: “cuộc sống có ý nghĩa khi mỗi chúng ta biết chia sè và cống hiến” đó là
niềm hạnh phúc là nhân cách sống đẹp mà mỗi chúng ta phải làm sao “như con
ong luôn luôn biết đem hương thơm mật ngọt đến cho đời”. Chúng ta còn nhớ lời
thơ: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người. Đ ể tình trang trải với trăm nơi”, sẽ đem

35 1
lại cho chúng ta cuộc sông ấm áp hơn tình người hơn, yêu thương và đoàn kết để
tạo sức mạnh khi xã hội cần đến, đâ"t nước cần đến. Chúng ta phải “làm sao
được tan ra” giữa biển lớn tình yêu, giữa biển lớn cuộc đời cùng hòa nhập với
cộng đồng, nhân dân, quê hương đất nước nhằm tạo sự bền vững, tạo sức mạnh
tổng hợp, nôl thành một vòng tay yêu thương nhân ái để “Đất Nước vẹn tròn to
lớn”. Những quan niệm trên là thể hiện lẽ sông đẹp, “sống là cho đâu nhận chỉ
riêng mình”. Từ quan niệm giữa con người và con người, con người với cộng đồng
xã hội, con người với quê hương dân tộc, đất nước, phải biết “sống là cho” là chia
sẻ, là công hiên, không chỉ biết lôl sống vị kỉ hẹp hòi, chỉ biết “hạnh phúc đựng
trong một tà áo dẹp. Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”. Chúng ta không
đồng tình lôl sông như thế mà chúng ta phải biết đem cái riêng hòa nhập với
cái chung đó mới là cách sông đẹp, lẽ sông đẹp trên cuộc đời này.
5. L iên hệ b ả n th â n củ a chú ng ta trư ớc cuộc sống h iệ n nay.
Hiện nay, chúng ta là một học sinh, một sinh viên trong tương lai, trước mắt
là con đường học vấn gắn liền với chúng ta. Để “sống là cho” thì mỗi chúng ta
phải ra sức học tập, chọn cho mình một ngành, một nghề nào đó phù hợp với
năng lực, năng khiếu, phù hợp với hoàn cảnh kinh tê của gia đình đề có một
hướng đi đúng đắn, một ngành nghề phù hợp và khi ra trường sẽ biến kiến thức
ở nhà trường, ở giảng đường thành những “tri thức sống” nhằm ứng dụng vào
công việc, cuộc sông đê mang lại kết quả nhất định đem lại giá trị cho bản thân,
cho gia đình, cho sự phát triển của xã hội là chúng ta thực hiện lời nói: “sống là
cho dâu chỉ nhận riêng mình” đó là lẽ sông đẹp, mang lại ý nghĩa cho cuộc sông
cùa mỗi chúng ta hiện nay và trong tương lai.

II. PHẦN KẾT BÀI:


Ý kiến trên là bài học quý báu cho mọi người, mọi thời đại. Nó là phương
châm đúng đắn là cách sông đẹp, lẽ sống đẹp giúp cho mỗi chúng ta nhìn lại
chính mình đế có một nhận thức đúng, một hành động đúng trước cuộc sống vì
hạnh phúc khi chúng ta biết chia sẻ và công hiến cho người thân, cộng đồng,
quê hương đất nước.
Câu 3: (5d) (Nghị lu ận văn học)

ịSĨữnsr kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Lời cô nhân có nói; “Hùm chết đ ể chết, người ta chết d ể tiếng”, (lời cổ nhân)
2. Tô" Hữu ca ngợi về cái chết đẹp: “Có cái chết hỏa thành bất tử”. (Tố Hữu)
3. Lời cô nhân có nói: “Uy vũ bất năng khuất. Ý nói: trước uy quyền bạo lực
không hề khuất phục”.
4. Quan niệm sông của ông Huấn Cao: “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Y nói:
Đời ta chỉ biết cúi đầu trước hoa mai mà thòi.
5. Nhà văn Pháp Musset có nói; “Không có gi cao cả hơn một sự đau đớn lớn”
(Musset).

352
6. Có ý kiến rằng: “Đứng về phía bị áp bức, bất công d ể cùng tranh đấu là thể
hiện tình yêu giai cấp”.
7. Có nhận định rằng: “Nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người
tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân là sự kết hợp giữa cái tài và cái tâm”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU:
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân trích trong tập
truyện “Vang bóng một thời” tác giả đã khắc hoạ thành công nhân vật ông Huân
Cao, một nghệ sĩ tài hoa, một trang anh hùng dũng khí mãi mãi là hình tượng
nghệ thuật khó quên trong lòng người đọc. Có ý kiến cho rằng: “Đó là mẫu
người nghệ sĩ tài hoa, một sĩ phu yêu nước, thương dân dân sẵn sàng tranh dấu
vì quyền lợi cho người nông dân nên ông bị triều đình hành quyết”. Ý kiến khác
cho rằng: “Ong Huấn Cao vì không được trọng dụng nên bất mãn và nổi dậy
cùng với nông dân Mỹ Lương nên phải đón nhận cái chết”, cần bình luận các ý
kiến trên đế làm sáng tỏ và có một cái nhìn đúng đắn về ông Huấn Cao.

II. PHẦN TRỌNG TÂM:


A. Ý k iến 1: Có ý k iến rằ n g : “Dó là m ẫu người n g h ệ sĩ, người sĩ p h u
yêu nước, th ương d â n sẵn sà n g đấu tranh vì quyền lợi cho người nông
dân n ên ôn g bị triều đ ìn h h à nh quyết”.
Nhớ về ông Huấn Cao trong truyện ngắn: “Chữ người tử tù” của nhà văn
Nguyễn Tuân, chúng ta chợt nghĩ ra ngay đó là nhà thơ lớn Cao Bá Quát, thơ
của ông rất hay, uyên bác, ông làm một chức quan dưới triều Tự Đức. Nói về ông
chúng ta nghĩ ngay, ông là một nghệ sĩ tài hoa với chữ viết đẹp, chữ của ông
“vuông lắm”; “đẹp lắm” ngoài nét đẹp về hình thức nghệ thuật trên nét chữ và ý
nghĩa trong từng con chữ cũng toát lên một tư tưởng cao đẹp về lẽ sông cách
sông, nhân cách làm người mà có biết bao người ngưỡng mộ về chữ viết của ông,
có người thầm nghe rằng: “Được chữ viết của ông cho như là báu vật trên đời”.
Nói rõ hơn, chữ viết của ông mang một ý nghĩa, nội dung cao đẹp là xuất phát
từ cái tâm của ông, cái tâm trong sáng, nhân hậu của một bậc quân tử, một sĩ
phu yêu nước thương dân. Ngoài một nghệ sĩ tài hoa, ông Huấn Cao còn là một
viên quan trong triều Tự Đức, con người của ông ngay thẳng cương trực, không
biết vào luồn ra cúi, ông luôn luôn bảo vệ quyền lợi cho người nông dân, ông có
một cái tâm, một cái tình với nhân dân sâu sắc và ông đã nhìn thấy đám quan
lại trong triều chỉ biết nịnh bợ, cúi đầu, khúm núm, ra sức vơ vét bóc lột đời
sông người nông dân. Ong cảm thấy bất mãn cuòi cùng ông bị triều đình chuyển
đồi lên vùng núi thuộc tỉnh Sơn Tây làm “Giáo thụ quốc oai” một chức quan về
lĩnh vực giáo dục, giáo huấn ở miền núi. Từ đây, ông đã liên kết với đám nông
dân Mỹ Lương thuộc tỉnh Sơn đứng lên làm cuộc nổi dậy đòi lại quyền lợi chính
đáng của người nông dân. Cuộc đấu tranh thất bại và ông bị bắt, triều đình kết
tội “khi quân”, ông bị tử hình và tru di tam tộc. Dù ông Huấn Cao phải bị hành
353
quyết, đón nhận cái chết nhưng cái chết của ông là để đấu tranh cho quyền lợi
của người nông dân, chông lại sự áp bức hà hiếp bóc lột người dân lành đó là cái
chết đẹp của một sĩ phu yêu nước thương dân, đúng như lời nhận định “đứng về
phía bị áp bức, bất công đ ể cùng tranh đấu là thể hiện tình yêu giai cấp” là
nhân cách sông đẹp. ông Huấn Cao là con người như thế. Quả thật: “Không có
gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”.
Mở rộ n g: Vì sao ông Huấn Cao có một cái chết đẹp?
Nhắc đến ông Huấn Cao, ta nghĩ ngay một nhà thơ lớn Cao Bá Quát, một
nghệ sĩ tài hoa, ông đảm nhận một chức quan trong triều Tự Đức vừa là con
người có tài năng thơ phú, văn hay chữ đẹp, mọi người mến mộ. Nếu ông bằng
lòng với cuộc sông hiện tại, ông biết vào luồn ra cúi thỏa hiệp cùng đám quan lại
trong triều đình thì tất nhiên ông sẽ có một cuộc sông sung sướng cho cá nhân
ông, cho gia đình ông ngay cả họ hàng cũng được ăn theo vì “một người làm
quan cả họ được nhờ”. Nhưng ông Huấn Cao không sống như thế! và không
bằng lòng với lôl sông, cách sông của đám quan lại thói nát trong triều, ông
không biết thỏa hiệp, đồng tình những sai sót của bọn nịnh thần, ông có một
quan niệm sông rõ ràng, khí khái như lời ông nói: “Nhất sinh đê thủ bái hoa
mai”. Ý nói, đời ta chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai mà thôi. Vì lẽ đó, khi ông
nhìn thấy sự bất công, bóc lột, áp bức đời sôhg quyền lợi của người nông dân,
ông sẵn sàng đứng về phía bị áp bắt, những người nông dân cô thế, thấp cỏ bé
miệng để nổi dậy, vùng lên đấu tranh mong được cải thiện để họ có một đời
sông tô't. Nhưng rất tiếc, cuộc đấu tranh nổi dậy của nông dân do ông khởi
xướng đã thất bại vì chưa có được sự hậu thuẫn sâu rộng, nhân dân còn e dè lo
sỢ nhưng cho dù thất bại, cuộc đấu tranh ấy cũng lời cảnh tỉnh, đánh thức, báo
động cho đám quan lại tự nhìn rõ sự sai trái của mình trong triều mà có hướng
giải quyết tô"t cho quyền lợi của người nông dân vì “hạnh phúc là đấu tranh”. Vì
thế, mà cái chết của ông Huấn Cao là cái chết đẹp của một sĩ phu yêu nước
thương dân nhưng “sinh bất phùng thời” đúng như lời nhận định: “Đó là mẫu
người nghệ sĩ tài hoa, một sĩ phu yêu nước thương dân sẵn sàng đấu tranh ui
quyền lợi cho người nông dân nên ông bị triều dinh hành quyết”.
B . Ý k iến 2; “ô n g H uấn Cao vì k h ông dược trọ n g d ụ n g n ên bất mãn
và nổi dậy cù n g với n ô ng dâ n Mỹ L ư ơng n ên p h ả i đón n h ậ n cái c h ế t”.
Chúng ta vẫn biết rằng, ông Huấn Cao là người có tài và có tâm, thơ hay chữ
đẹp, người đời ngưỡng mộ và mong ước “có được chữ của ông Huấn Cao cho như
báu vật trên đời”. Một con người như thế mà không được triều đình trọng dụng
cân nhắc để làm đúng với năng lực và ước nguyện tốt đẹp của mình thì quả là
đáng tiếc bâ't công, ông cảm thấy mình như “sinh bất phùng thời” rồi ông lại đôi
diện, hợp tác với đám quan lại hèn nhát, tham nhũng thói nát, chỉ biết nịnh bợ,
chỉ biết và luồn ra cúi để mong được vinh thân phì da cho bản thân ông đâm ra
bất mãn, bất mãn vì không được sử dụng, trọng dụng đúng năng lực cùng phẩm

354
chất của mình đó cũng là chuyện bình thường cũng là tâm lí cá nhân chung của
mọi con người nhưng ở đây, chúng ta muốn nhấn mạnh và làm sáng tỏ về con người
của ông Huấh Cao là không phải vì ông bất mãn không được triều đình trọng dụng
và chuyến công tác đi xa, vùng sâu vùng xa miền núi mà ông bực tức, phản đối bằng
con đường nổi dậy cùng với nông dân ở Mỹ Lương làm cuộc đấu tranh chống lại
triều đình đòi quyền lợi cho người nông dân. Chúng ta nên nhớ rằng, trước kia ông
vẫn là một nghệ sĩ tài hoa, có một cái tâm trong sáng, tốt bụng là một viên quan
chính trực trong triều đình, có tấm lòng thương dân mến nước, ông từng căm ghét
bọn quan lại tham nhũng, thối nát, hà hiếp, bóc lọt đời sống, quyền lợi của người
nông dân. ông đã căm giận phẫn uất từ lâu là xuất phát từ cái tâm của ông, nhân
cách sống của ông, lòng tự trọng của một con người thì việc ông bất mãn là một
chuyện nhỏ nhất thời có tư cách cá nhân riêng tư mà thôi.
Còn việc ông khởi xướng làm cuộc nổi dậy, đấu tranh cùng với nông dân Mỹ
Lương là chuyện đại sự, chuyện liên quan đến vận nước, hoàn cảnh xã hội, muôn
thay đỏi hoàn cảnh, thay đổi một bộ mặt mới của triều đình phong kiến lúc ấy.
Như vậy cuộc đâu tranh này mang tính chiến lược, có tầm quan trọng đôi với
ông để mong cải tạo được hoàn cảnh đế người nông dân sông tôt đẹp, quyền lợi
được đảm bảo không còn hà hiếp bóc lột, đó là ý nguyện đúng đắn của ông Huấn
Cao nhằm thực hiện cuộc đâh tranh mang lại quyền lợi thiết thực cho người
nông dân, đây là cuộc đấu tranh có chính nghĩa, hoàn toàn không phải là cuộc
đấu tranh để thỏa mãn tự ái cá nhân của ông Huấn Cao hay để giải quyết sự bất
mãn ức chế của ông Huấn Cao mà cuộc nổi dậy đấu tranh của ông Huân Cao
cùng nông dân Mỹ Lương là để đòi lại quyền lợi chính đáng cho người nông dân
đem lại sự công bằng, hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy, ý kiến thứ hai cho
rằng: “Ong Huấn Cao vì không dược trọng dụng nên bất mẫn và nổi dậy cùng
với nông dân Mỹ Lương nên phải đón nhận cái chết” là chưa hợp lí, chưa thể
hiện đúng về ước nguyện, khát vọng chính đáng của ông Huấn Cao đây cũng là
hạn chế của ý kiến thứ hai như đề bài đã nêu trên.
III. PHẦN K Ế T THÚC:
Thông qua hai ý kiến trên:
Y kiến 1: “Đó là mẫu người nghệ sĩ tài hoa, một sĩ phu yêu nước, sẵn sàng
tranh dấu vì quyền lợi cho người nông dân nên ông bị triều đình hành quyết”, là
ý kiến hoàn toàn hợp lí, đúng đắn như chính con người và nguyện vọng của ông
Huân Cao.
ý kiến 2: “Ông Huấn Cao không được trọng dụng nên bất mãn và nổi dậy
cùng với nông dân Mỹ Lương nên phải đón nhận cái chết”, là ý kiến chưa hợp lí
vì mang tính cách cá nhân riêng tư và không thế hiện đúng nguyện vọng chính
đáng của ông Huân Cao, đó là cuộc đấu tranh đế mang lại quyền lợi thiết thực,
chính đáng cho người nông dân, cho hạnh phúc của nhân dân. Đó là cũng hạn
chế của ý kiến thứ hai như đề bài đã nêu trên.

355
Đề tuyển sinh:
Câu 1: (2đ) B ài thơ “Sông núi nước Nam ” củ a danh tướng Lý Thường Kiệt
có viết:
“S ô n g núi hước Nam vua Nam ở
R ành rà n h đ ịn h p h ậ n tại sách trời
Cớ sao lũ g iặ c sa n g xăm p h ạ m
C h ú n g bây sẽ bị đ á nh tơi bời”.
{“Sông núi nước Nam’’ - Lý Thường Kiệt)
Anh, ch ị đ ọ c b ài th ơ tr ê n v à th ự c h iện c á c y ê u c ầ u sau :
1. B ài th ơ nói lên ý ngh ĩa như th ê n ào?
2. C âu th ơ n ào nh ư m ột lu ận chứng, cơ sở p h áp lí n h ằm phơi bày
ý đồ xâ m lược c ủ a q u ân phương B ắ c đôi với đ ấ t nước ch ú n g ta
lú c b ấy giờ? Anh ch ị liên hệ th ự c tê h iện n ay.
3. Tinh th ầ n đ ấu tra n h b â t k h u ât c ủ a d ân tộ c ta đưỢc b iểu h iện
qua lời th ơ n ào ? Anh ch ị h ãy n êu lên vài sự k iện lịch sử vẻ van g
c ủ a d ân tộ c đ ể làm sán g tỏ.
C âu 2: (3d) (Nghị lu ận x ã hội)
Có ý kiến rằng: “S ự cẩu thả trong bất c ứ nghề g ì củng là một sự bất
lương”. (Nam Cao)
Anh, ch ị h ãy g iải th ích ý k iến trê n v à tro n g cu ộ c số n g củ a x ã hội
ch ú n g ta h iện n ay, an h , ch ị có nhìn th ấ y sự c ẩ u th ả ấy h ay
không? Vì sao ?
C âu 3: (ỗđ) (Nghị lu ận v ă n học)
T rư ớc vẻ đẹp c ủ a Đ ất nước, hình ản h con sôn g Đà c ủ a n h à văn
N guyễn T u ân v à hình ản h co n sông H ương c ủ a n h à v ă n H oàng
P h ủ N gọc Tường đưỢc k h ắ c h oạ qua h ai b ài kí “N gười lái đò sông
D à ” v à “Ai đ ã đặt tên cho d ò ng sông?”.
Có ý k iến ch o rằ n g : “Con sông D à và con sông H ư ơ n g đ ều m ang
vẻ d ẹp từ cô n g trìn h n gh ệ thuật củ a tạo hó a ”.
Có ý k iến k h á c ch o rằ n g : “Con sông H ương ngoài vẻ đ ẹp thiên
n h iên củ a tạo hóa, sông H ương còn m ang vẻ đ ẹp từ góc n h ìn lịch
s ử và văn hóa khác với con sông D à ”.
Anh, ch ị h ãy p h ân tích c á c ý k iến tr ê n d ể lảm sán g tỏ .____________

HƯỚNG DẪN
Câu 1: (2đ)
1. B à i th ơ nói lên ý n gh ĩa như th ế n ào?

356
Bài thơ “Sông núi nước Nam” của danh tướng Lý Thường Kiệt là khẳng định
nước Nam là của người nước Nam, sách trời đã phân định rõ ràng như là cơ sở
pháp lí, luận chứng để nói lên chủ quyền của đất nước ta. Nếu kẻ nào xâm
chiếm, chúng sẽ chuôc lấy thất bại nhục nhã ê chề.
2. C âu th ơ n ào nh ư m ột lu ận chứ ng, c ơ sở p h áp lí n h ằm phơi b ày ý
dồ xâm lược c ủ a q u ân phư ơng B ắ c đối với d ấ t n ư ớc ch ú n g ta lú c bấy
giờ? Anh ch ị liên hệ th ự c tê h iện nay.
Lời thơ: “Rành rành định phận tại sách trời” như một luận chứng, cơ sở pháp
lí nhằm khẳng định đất nước ta là một nước có chủ quyền, sách trời đă phân
định rõ ràng minh bạch thì không ai có thể phủ nhận đảo ngược. Nếu quân
phương Bắc ngang nhiên xâm chiếm, chúng muôn lật ngược sự minh định của
sách trời là hành động đê hèn, ỷ nước mạnh ức hiếp nước yếu, chạ đạp lên chủ
quyền của nước khác là hành động đáng lên án nguyền rủa. Thực tế hiện nay,
Đất nước ta cũng lặp lại tình hình tương tự như thế. Đó là vào đầu tháng 5 năm
2014, Trung Quô"c ngang nhiên đặt giàn khoan Hải Dương 981 của chúng trên
phần lãnh hải vùng biển của đất nước ta, chúng còn ra sức uy hiếp tấn công tàu
cảnh sát biển trên đường thi hành nhiệm vụ cùng tàu thuyền đánh cá của ngư
dân Việt Nam đã gây một làn sóng bất bình, phẫn nộ từ cộng đồng Asean, cộng
đồng quôc tê nhằm lên án hành động ngang ngược của Trung Quô"c đã xâm
chiếm hải phận của đất nước chúng ta mà luật pháp quô'c tế và công ước luật
biển năm 1982 đă công nhận. Một lần nữa, Trung Quô"c đã xem thường và ngang
nhiên phủ nhận cả luật pháp quôc tế và công ước về luật biển 1982, hành động
của Trung Quô'c là hành động mang chủ nghĩa bành trướng, bá quyền đi ngược
lại xu thế phát triển của thời đại của toàn cầu thì chúng phải chuốc lấy thất bại.
3. T inh th ầ n d ấu tra n h b ấ t k h u ất c ủ a d ân tộ c ta đưỢc b iểu h iện qua
lời th ơ n ào? A nh ch ị h ã y n êu lên vài sự k iện lịch sử vẻ v an g c ủ a d ân
tộ c đ ế làm sá n g tỏ.
Tinh thần bất khuất của dân tộc trong bài thơ “Sông núi nước Nam” của
danh tướng Lý Thường Kiệt là lời thơ: “Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời”. Lời thơ
như lời khẳng định, dứt khoát về tinh thần yêu nước đâu tranh bất khuất của
dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quô"c suô"t một chiều dài lịch
sử qua nhiều thời đại, triều đại. Với một dân tộc luôn luôn thể hiện ý chí tranh
đấu quật cường bất khuất trước ngoại xâm: “thà hi sinh tất cả chứ không bao giờ
chịu mất nước, không bao giờ chịu làm nô lệ” và “nước chúng ta, nước của
những người chưa bao giờ khuất” biểu tượng cho tinh thần yêu nước nồng nàn
của một dân tộc “thà chết vinh hơn sống nhục”, “thà làm quỉ nước Nam còn hơn
làm vương đất Bắc” đó là sức mạnh của một dân tộc sẵn sàng đập tan bao ý đồ
xâm lược của quân phương Bắc để bảo vệ chủ quyền cho đất nước. Và có biết bao
nhiêu chiến thắng vẻ vang của dân tộc mà sử sách vẫn còn ghi, nào là chiến
thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, chiến thắng Lam Sơn của Lê Lợi để làm nên

357
“Bình Ngô Đại Cáo” và phong trào Tây Sơn với chiến thắng Đông Đa của người
anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đánh tan tác quân Thanh... là những chiến công
hiển hách của dân tộc ta trong sự nghiệp bảo vệ Tố quô'c thật tự hào mà có lời
rằng: “Nực cười châu chấu đá xe. Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”.
Câu 2: (3d) (Nghị lu ận x â hội)
Sĩỉững kiến th ứ c c ẩ n nắm :
1. Có ý kiến rằng: “Sự cẩn thận trong bất cứ nghề gì đều mang lại sự an tâm
cho mọi người là phẩm chất tốt”.
2. Có Ịời châm biến mỉa mai rằng: “Chất lượng đảm bảo được sáu tháng nhưng
sáng lại tháo”.
3. Có ý kiến rằng: “Lối sống cẩu thả trong bất cứ nghề gì bao giờ cũng mang lại
sự lo âu, nguy hại cho người khác”.
4. Có ý kiến rằng: “Bất cứ công việc gi, sự cẩu thả sẽ đánh mất niềm tin uy tín
đối với người khác”.
5. Có lời nói rằng: “Một lần bất tín, vạn lần bất tin”.
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN MỞ BÀ I:
Có ý kiến rằng: “Lối sống cẩu thả trong bất cứ nghề gì bao giờ cũng mang lại
sự lo âu, nguy hại cho người khác”. Chính vì thế, mà có ý kiến: “Sự cẩu thả trong
bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương”. Chúng ta cần giải thích ý kiến trên đề
làm sáng tỏ và trong cuộc sống thực tê của xã hội chúng ta hiện nay có sự cẩu thả
ấy hay không?
II. PHẦN THÂN BÀ I:
N h ữ n g bước cần thực h iện :
1. T rư ớc tiê n c ầ n giải th ích “s ự cẩu thả là thê nào?” v à “thê nào là sự
bất lư ơ ng?”.
- “Sự cẩu thả” nói lên cách làm dôì trá, tùy tiện không cần nghĩ đến hậu quả,
lối sông vô trách nhiệm. “Sự bất lương là gì?” là việc làm thiếu trách nhiệm,
không có lương tâm, không có trách nhiệm với công việc hay ngành nghề mà
mình đã và đang thực hiện sẽ mang lại thiệt hại, nguy hại cho người.
2. T ại sao sự c ẩ u th ả tro n g b ấ t cứ nghề gì cũ n g là m ột sự b ấ t lương?
Nói đến “sự cẩu thả” là nói đến việc làm vô trách nhiệm, vô lương tâm, làm
thì vẫn làm nhưng không chú tâm, để ý có sự cô' gì xảy ra chỉ làm cho qua loa,
xong việc mà không cần kiểm tra, kiểm chứng công việc ấy có tô't không? có đạt
hiệu quả không? có gì xảy ra gặp sự cố nguy hại không? Sự cẩu thả sẽ đưa đến
những hậu quả không lường được. Ví dụ: Một tài xế cầm trong tay bao sinh
mạng con người nhưng lúc qua đèo, dành tài, phóng nhanh, vượt ẩu có thể đưa
chiếc xe xuông đèo, vực sâu, thung lũng, giết chết bao sinh mạng con người. Một
bác sĩ, đốn ca mổ của mình nhưng chưa chuẩn bị kỹ, tinh thần chưa tỉnh táo vì
358
còn men rượu sẽ dẫn đến sự sơ xuất, khinh xuất giết chết bệnh nhân... như vậy
“sự cấu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương” vì họ xem thường
không chú tâm vào công việc thì sẽ đưa đến bao hậu quả không lường vì “sai
một li di một dặm”, “sai con toán bán cả con trâu”, kẻ nào sống cẩu thả, tùy
tiện, vô trách nhiệm đều bị lên án của dư luận vì họ đã xem thường con người,
sinh mạng con người, họ là kẻ bất lương, phi đạo đức.
3. T rong th ự c tế , xã hội ngày nay chú ng ta đang sông. S ự cẩu th ả có
h iện hình dể tạo n ê n c á i xấu, cái ác hay không?
Thật sự, xã hội ngày xưa hay ngày nay, sự cẩu thả của con người bất cứ trong
ngành nghề gì cũng đều xảy ra chỉ có ít hay là nhiều mà thôi. Ngày nay, khi đời
sông thực dụng, khi sức mạnh đồng tiền được đề cao, chú trọng thì đạo đức của
con người bị xói mòn, tha hóa, biến chất, họ không biết thế nào là trách nhiệm
bản thân, trách nhiệm với cộng đồng xã hội vì lòng tham của con người, vì đồng
tiền là trên hết làm choáng mắt, mờ mắt, mờ cả lương tâm. Có những kẻ có
trách nhiệm về công trình giao thông vận tải nhưng họ vẫn ăn bớt, ăn xén, ăn
chặn rút ruột công trình, biến con đường, chiếc cầu đi chưa bao lâu đã xuông
cấp, hư hỏng và có thể gây bao tai nạn cho con người, sinh mạng của nhân dân.
Có những bác sĩ phẫu thuật, khi phẫu thuật xong vẫn còn để dao, kéo trong
bụng bệnh nhân, gây hậu quả khôn lường, có thể đưa đến cái chết và trong cơ
quan nhà nước có những nhân viên, cán bộ, v.v... khi ra về họ vẫn lạnh lùng, vội
vă ra đi, khi quạt vẫn còn chạy, đèn vẫn còn sáng và có thể gây sự cố chập điện,
cháy cơ quan thiệt hại biết bao. Khi sức mạnh đồng tiền được đề cao, việc phân
hóa giàu nghèo rõ nét, con người sông thiếu thốn, thì càng sông cẩu thả, bất cẩn
lan rộng nhanh hơn, có khi đồng tiền làm cho con người sống bất chấp cả đạo lí,
luật lệ, kỉ cương đưa đến sự tha hóa biến chất, biến tướng. Chứng tỏ sự cẩu thả
trong bất cứ nghề gì cũng đều là sự bâ't lương, chúng ta cần lên án triệt để.
4. M uôn trá n h sự cẩu th ả, k h ắc phục sự cẩ u th ả, m ỗi chú ng ta cần
phải làm gì?
Nhằm tránh sự cẩu thả, khắc phục sự cẩu thả thì mỗi chúng ta phải tự
nghiêm khắc chính bản thân mình, phải có một lôl sông nghiêm túc, thận trọng
mọi công việc, ngành nghề, đặt tinh thần trách nhiệm đôl với bản thân, cộng
đồng xã hội là trên hết và phải có một cái tâm, cái tình giữa con người và con
người đế sông có trách nhiệm nhằm đem lại sự tô4 đẹp cho bản thân, cộng đồng,
xã hội thì con người sẽ bớt khố tránh được bao rủi ro, mất mát trong cuộc sốhg
nhằm xây dựng một xã hội lành mạnh tốt đẹp “mình vỉ mọi người”.
II. PHẦN K Ế T BÀ I:
Ý kiến của đề bài trên có giá trị thiết thực đôi với mọi người trước cuộc sông,
áp dụng cho mọi thời đại, nó như một lời răn đe, cảnh tỉnh cho những ai còn có
lối sông cẩu thả, tính cẩu thả sẽ gây bao thiệt hại cho bản thân cho cộng đồng
đế từ đó khắc phục, sửa đổi hình thành những phẩm chất tô4 để cuộc sống có ý

359
nghĩa, ngược lại của sự cẩu thả là tính cẩn thận là phẩm chất tốt của con người
đúng như lời bày tỏ: “Sự cẩn thận trong bất cứ nghề gỉ đều mang lại sự an tâm cho
mọi người, cộng đồng xã hội là phẩm chất tốt”, chúng ta cần đề cao và nhân rộng.
Câu 3: (5đ) (Nghị lu ận v ă n h ọc)

52ững kiến th ứ c c ầ n nắm :


1. Lời bày tỏ về con Sông Đà: “Ai về Tây Bắc chớ quên. Sông Đà thơ mộng trữ
tình đáng yêu”, (lời bày tỏ)
2. Nhà thơ Tế Hanh có viết: “Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi. Tôi nhớ mãi mối
tình mới mẻ”. (“Nhớ con sông quê hươn“g - Tế Hanh)
3. Ca dao Tây Bắc có ghi: “Đường lên Mường Lễ bao xa. Trăm bảy cái thác trăm
ba cái ghềnh” (ca dao Tây Bắc)
4. Nhà thơ Tản Đà ca ngợi con sông Đà: “Dãi sông Đà bọt nước lênh bênh. Bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” (Tản Đà).
5. Nhà thơ Nguyễn Quang Bích nói về đặc điểm con sông Đà: “Chúng thủy gia
đông tẩu. Đà Giang độc bắc lưu”, ý nói: những con sông hầu hết chảy về biển
Đông riêng con sông Đà lại xuôi dòng về hướng Bắc.
6. Ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước và con sông Đà: “Không nơi đâu đẹp tuyệt
vời. Như sông như núi như dòng Đà Giang”.
7. Nhà thơ Cao Bá Quát từng ca ngợi dòng sông Hương: “Trường Giang như
kiếm lập thiên thanh”. Ý nói: dòng Hương Giang mang vẻ đẹp thật uy nghi
lẫm liệt như thanh kiếm giữa bầu trời xanh.
8. Nhà thơ Tản Đà ca ngợi dòng sông Hương; “Dòng sông tráng, lá cây xanh”.
9. Nhà thơ Thu Bồn từng ca ngợi dòng sông Hương như mang một tâm trạng:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên H uế rất
sâu”. (Thu Bồn).
10. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn con sông Hương cũng mang nỗi niềm
tâm trạng bâng khuâng xao xuyến trước giờ phút chia ly; “Còn non còn nước
còn dài. Còn về còn nhớ...” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
11. Có lời ca ngợi về con sông Hương: “Không nơi đâu đẹp tuyệt vời. Sông
Hương trầm mặc nghìn đời mến yêu”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI T H IỆU :
“Không nơi đâu đẹp tuyệt vời.
Sông Đà Tây Bắc gợi tình sông Hương”, (lời bày tỏ)
Ai có về Tây Bắc làm sao quên được con sông Đà thơ mộng trữ tình với bao
núi non hùng vĩ và ai có về cố đô, một thời vang bóng của triều đại nhà Nguyễn
làm sao không gợi thương gợi nhớ dòng sông Hương êm đềm, hiền hòa với màu
xanh biêng biếc trầm mặc nhớ thương ai, đợi chờ ai. Có ý kiến rằng: “Con sông
Đà và con sông Hương đều mang vẻ đẹp từ công trình nghệ thuật của tạo hóa”.

360
Và có ý kiến khác cho rằng: “Con sông Hương ngoài vẻ đẹp của thiên nhiên tạo
hóa, sông Hương còn mang vẻ đẹp từ góc nhìn lịch sử và văn hóa khác với con
sông Đà”.
Cần tìm hiểu các ý kiến trên để tìm thấy vẻ đẹp của hai con sông đáng yêu,
đáng nhớ ấy và có sự khác nhau như thế nào?

II. PHẦN TRỌNG TÂM:


Vẻ đẹp con sô n g Đ à và con sông H ương
A. Ý k iến 1: Có ý k iến cho rằ n g : “Con sông Dà và con sông H ư ơ n g đều
m ang vẻ đ ẹp từ cô n g trình n gh ệ thuật của tạo h óa”.
1. Vẻ đẹp co n sôn g Đà T ây B ắ c ;
+ Thơ m ộng t r ữ tình d á n g yêu:
“Ai về Tây Bắc chớ quên,
Sông Đà thơ mộng, trữ tình, dáng yêu”, (lời bày tỏ)
Ai một lần đã về thăm Tây Bắc, làm sao quên được hình ảnh con sông Đà
vừa thơ mộng, trữ tình đáng yêu vừa hùng vĩ, hung bạo đáng sợ mãi mãi là hình
tượng nghệ thuật là công trình kiến trúc của tạo hóa dành trọn cho người dân
Tây Bắc từ bao đời nay. Nhà thơ Nguyễn Quang Bích từng nói về con sông Đà:
“Chúng thủy giai đông tẩu. Đà Giang độc bắc lưu” ý nói hầu hết các con sông
đều chảy về hướng đông nhưng riêng con sông Đà lại xuôi dòng về hướng bắc,
chứng tỏ con sông Đà mang một vẻ đẹp rất riêng giữa vùng trời Tây Bắc.
Nguyễn Tuân với cái nhìn của một người nghệ sĩ tài hoa, tác giả đã thi vị hóa,
hình tượng hóa con sông Đà mang một diện mạo, dáng vẻ như một con người,
người thiếu nữ miền sơn cước thật đáng yêu. Dòng sông Đà như một áng tóc,
suôi tóc “tuôìi dài, tuôn dài” mượt mà thướt tha giữa đất trời Tây Bắc lúc vào
xuân, bờ sông Đà, “hoang dại như một bờ tiền sử” có lúc “bờ sông hồn nhiên như
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” gợi cho chúng ta tìm thấy nét đẹp bờ sông Đà vừa
hoang sơ vừa hồn nhiên tĩnh tại thật quyến rũ, nhìn về nước sông Đà lại có
nhiều sắc màu biến đổi theo bước đi của thời gian, mỗi mùa mỗi vẻ, khi mùa
xuân về nước sông Đà với “dòng xanh ngọc bích” như màu của lá cây rừng vừa
đâm chồi nảy lộc rồi khi mùa thu trở lại, nước sông Đà với sắc màu “lừ lừ chín
dỏ như da mặt người bầm di vì rượu bữa”, chứng tỏ Nguyễn Tuân có một cái
nhìn thật tinh tế sinh động từng trạng thái dáng vẻ của thiên nhiên. Tác giả
tiếp tục thổi vào lòng sông như một sinh thể có hồn, có cảm xúc nhớ thương,
buồn vui lẫn lộn như một con người thực thể với hình ảnh: “dòng sông quãng
này lửng lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi còn ở lại với thượng
nguồn Tây Bác”. Chứng tỏ bút pháp Nguyễn Tuân, ông đã thi vị hóa lòng sông
Đà cũng biết nhớ thương những hòn đá thác như người bạn đồng hành mà bây
giờ vẫn còn khoảng cách chia xa và lòng con sông Đà cũng biết vui khi nhìn
thấy “bãi sông Đà, bờ sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông, chao ôi!

361
trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau ki mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng'’. Một lôi so sánh thật độc đáo, thật gần gũi quen thuộc
càng thấy rõ niềm vui của con sông E)à vô cùng sung sướng khó tả khi nhìn thấy
nắng đã lên rồi và con sông như đang lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi
khơi gợi trong lòng chúng ta một cái nhìn thật sâu lắng! Phải chăng, con sông
Đà đang giao hòa tiếp cận tiếng nói của người Kinh, những người đi xây dựng
cho Tây Bắc đẹp giàu, cho Tây Bắc thay da đổi thịt cho đất Tây Bắc nở hoa, trời
Tây Bắc mỗi ngày một sáng. Đáng nhớ hơn, tác giả còn khám phá vẻ đẹp về
cảnh vật sòng Đà vừa mang vẻ đẹp tĩnh lặng, vừa mang vẻ đẹp sông động. Với
hình ảnh “dòng sông quãng này lặng tờ, hình như từ đời Lí, đời Trần, dời Lê
quăng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Tác giả đã mượn chiều dài của
lịch sử, bước đi của thời gian đế’ khám phá vẻ đẹp của không gian. Phải chăng,
cảnh vật con sông Đà thuở trước cũng lặng tờ thì hôm nay cũng vẫn thế. Nhà
văn đã mượn quá khứ để nói về hiện tại, chứng tỏ dù bước đi của thời gian có
đổi thay, thay đổi từng triều đại này sang triều đại khác nhưng vẻ đẹp không
gian vẫn không hề đổi thay, đó là bút phát tài hoa của Nguyễn Tuân để làm
những trang văn giàu chất thơ, giàu chất suy tưởng đáng nhớ. Tiếp đến cảnh vật
con sông Đà lại mang một cảnh sắc mới tươi đẹp đáng yêu với hình ảnh:
'‘Thuyền tôi trôi qua một nương ngô, nhú lên mấy lá ngô no đầu mùa. Mà tịnh
không một bóng người, cỏ gianh dồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một dàn hươu
cúi đầu ngón búp cỏ gianh dẫm sương đêm”. Hàng loạt hình ảnh sinh động,
hiện thực thâ'p thoáng hình bóng con người, càng toát lên cảnh đẹp thiên nhiên
của Tây Bắc thật thơ mộng và thấy được đất Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi
dã anh hùng” đã thay da đổi thịt từ tình yêu lao động của con người của mọi
người trên các miền đất nước đã hội tụ về đây, về với Tây Bắc để xây dựng và
hàn gắn là thế tấm lòng “Uống nước nhớ nguồn; Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để
“bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” ôi con sông Đà
thơ mộng quá, trữ tình quá mãi mãi là mảnh hồn thiêng liêng của Tố quốc.
+ H ù n g vĩ h u n g bạo d á n g sỢ:
Ngoài vẻ đẹp thơ mộng đáng yêu, con sông Đà còn mang một diện mạo, một
dáng vẻ hùng vĩ, hung bạo đáng sợ vì giữa lòng con sông Đà lắm thác nhiều
ghềnh, những lớp đá xếp chồng lên nhau còn gọi là “trùng vi thạch trận” là
chướng ngại vật nguy hiếm có thể xé nát con thuyền không một chút thương
tiếc, có những khúc sông hẹp như một cái yết hầu cùng những cái hút nước xoáy
mạnh, sâu như cái giếng bê tông mà “mỗi lần chiếc thuyền nào di ngang qua, nó
kéo tụt xuống, trồng cây chuối ngược rồi dim vào lòng sông đến mười phút sau '
thấy tan tát ở khuỷu sông dưới”. Hàng loạt hình ảnh nhân hóa, ngôn ngữ tạo
hình độc đáo qua nét bút tài hoa của Nguyễn Tuân, chứng tỏ lòng con sông Đà
thật vô cùng nguy hiểm nếu người lá đò không kinh nghiệm, bản lĩnh thì sinh
mạng chỉ là ngàn cân treo sợi tóc.

362
* S ự h u n g bạo củ a thác đá, thác nưởc và âm thanh g h ê rỢ n củ a con
sông Dà: Nguyễn Tuân tiếp tục khám phá hình ảnh con sông Đà từ công trình
nghệ thuật của tạo hóa thật sông động qua ngòi bút độc đáo của ông với hình
ảnh nhân hóa, giàu ngôn ngữ hình tượng: “Đá ở đây từ nghìn năm vẫn mai phục
hết trong lòng sông, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là
một số hòn bèn nhổm cả dậy đ ể vồ lấy thuyền” với đoạn văn miêu tả đầy kịch
tính gợi cho chúng ta hình dung những hòn đá, tản đá nằm giữa lòng sông Đà
mang diện mạo như một con người, một người du kích đang mai phục đế đánh
lén, tấn công con thuyền không một chút xót thương nhưng đó là vẻ đẹp của
thiên nhiên là công trình nghệ thuật của tạo hóa thật ấn tượng. Hình ảnh thác
nước sông Đà cũng thế, nó cũng dữ dằn hung hãn như một tên đô vật trong tư
thê tấn công, uy hiếp người lái đò và đập nát thuyền không một chút do dự được
khắc hoạ qua đoạn văn miêu tả sông động đầy kịch tính giữa thiên nhiên và con
người đang chiến đàu có khác gì như một cuộc thủy chiến trên sông với hình
ảnh: “mặt nước hò la vang dậy quanh mình ùa vào mà bẽ gẫy cán chèo, sóng
nước như thế quân liều mạng mà đá trái mà thúc gối vào hông vào bụng thuyền.
Có lúc chúng đội cả thuyền lên, nước bám lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt
lưng ông Đò dõi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”.
Qua đoạn văn miêu tả, ngòi bút Nguyễn Tuân đã khéo léo vận dụng mọi kiến
thức thật sinh động, giàu ngôn ngữ hình tượng càng giúp cho người đọc thấy rõ
thác nước sông Đà như một tên đô vật đầy hung hãn trong tư thế thượng phong,
hoàn toàn chủ động trên sông nước đang ra sức uy hiếp tấn công người lái đò
thật hung bạo nhưng trách gì thác nước ấy đó là vẻ đẹp của tạo hóa là uy lực kì
bí, hùng vĩ của thiên nhiên. Đặc biệt âm thanh từ thác nước sông Đà dội về như
tiếng vọng của con người, tiếng vọng của quá khứ của hồn thiêng sông núi lúc
thì nghe như “oán trách điều g ì” lúc thì nghe như “van xin điều g ì” có lúc như
“khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo” cho chúng ta hồi tưởng về những cuộc thủy
chiến trên sông của ông cha ta từng đôi đầu với quân thù ngoại xâm phương Bắc
thuở trước, có lúc thành, có lúc bại trong sự nghiệp bảo vệ xây dựng đất nước
mãi mãi là vẻ đẹp của thiên nhiên là công trình nghệ thuật của tạo hóa không
dễ nào quên.
2. Sông H ương từ góc nhìn địa lí:
Chi tiết 1:
Sông Hương với cái nhìn đầu tiên giữa thượng nguồn, nó mang nhiều trạng
thái đầy cá tính, có lúc “hùng vĩ” như một bản trường ca giữa rừng Trường Sơn
có lúc “rầm rộ” giữa bóng cây đại ngàn, có lúc “mãnh liệt” vượt qua những thác
ghềnh và có lúc “cuộn xoáy” như những cơn lôh thật mạnh mẽ đầy ấn tượng và
có lúc sông Hương như người thiếu nữ Digan diễm kiều của đất nước Tây Ban
Nha thật đáng yêu.
363
Chi tiết 2:
Sông Hương mỗi lúc mang một diện mạo mới hoàn toàn chủ động khi sắp
xuôi về đồng bằng lúc ấy “nó đóng chặt các cửa rừng và ném chìa khóa trong
hang đá dưới chân núi Kim Phụng” với nét miêu tả đầy tính sáng tạo, nhà văn
đã hình tượng hóa con sông Hương như một con người thực thê đang làm chủ cả
một không gian bao la của sông núi hữu tình, rồi dòng sông uô'n mình theo
những đường cong thật mềm, “dòng sông mềm như tấm lụa” và ôm chân đồi
Thiên Mụ xuôi dòng về thành phố Huế, chảy ra các lăng tẩm của các vua Triều
Nguyễn đang chìm sâu trong giấc ngủ nghìn năm giữa rừng thông u tịch và dòng
sông cùng hòa nhịp với “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia
giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, o hay! chỉ một vài nét chấm
phá của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khấc hoạ một bức tranh thật đẹp đậm màu
sắc của Huế, Huế xưa thật thiêng liêng cồ kính giàu chất tâm linh của một thời
vang bóng đưa chúng ta tìm thấy hình ảnh dòng sông Hương mang một dáng vẻ
rất riêng, thơ mộng trữ tình đáng nhớ làm sao.
Chi tiết 3: Sông Hương xuôi về thành phô' Huế, thành phô' yêu dâu của dòng
sông và dòng sông lúc này “trôi đi chậm, thật chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên
tĩnh” như đế được ngắm nhìn trọn vẹn thành phô yêu dâu của dòng sông, o kìa!
con sông lại rộ lên một niềm vui khi “nó dã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời” đó là chiếc cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp,
mỗi nhịp cầu như từng nhịp đập, hơi thở của người dân xứ Huê' từ bao đời nay và
đẹp thay, mỗi nhịp cầu được thi vị hóa như “một vành trăng non” nghiêng mình
soi bóng trên dòng sông xanh biêng biếc, trầm mặc nhớ thương ai, đợi chờ ai!
Toát lên một vẻ đẹp rất riêng rất Huế.
Chi tiết 4: Sông Hương lại tiếp tục xuôi về cồn Hến, một địa danh của Huê'
với bao cảnh đẹp thật nên thơ, nơi đây “quanh năm mơ màng trong sương khói”
hòa với một màu xanh biếc, màu xanh của tre của trúc của những hàng cau vùng
ngoại ô Vĩ Dạ như hòa quyện cùng với dòng sông Hương toát lên cảnh đẹp thơ
mộng tràn đầy sức sông của thiên nhiên và tình yêu lao động của con người Vĩ
Dạ thật đáng quý. Lạ thay! khi dòng sông quay gót về lại với biển cả về lại với
cội nguồn, sông Hương không xuôi dòng hướng thẳng, “nó đột ngột đổi dòng, rẽ
ngoặt sang hướng dông tây d ể gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao
Vinh” như muôn được ngắm nhìn vẻ đẹp của thành phô' Huế trước giờ phút chia
tay. Chứng tỏ, nhà văn đã thi vị hóa, thổi vào dòng sông Hương như một nhân
vật trữ tình, mang tâm trạng người con gái xứ Huê' trước giờ phút chia ly cũng
bận lòng lưu luyến về thành phô', thành phô' Huê' dấu yêu có khác gì như người
tình trong mộng, người bạn tri âm tri kỉ đã in sâu trong tâm thức của dòng sông
để rồi trước giờ phút chia tay, dòng sông cũng bận lòng vương vấn vì “còn về là
còn nhớ, còn lưu luyến còn vấn vương”. Vậy! dòng sông nhớ ai? vương vấn ai?

364
phải chăng, dòng sông nhớ về thành phô' Huế, thành phô' mộng mơ như một
người tình, một người bạn tri âm, tri kỉ đã in sâu trong tâm thức của dòng sông
mà dòng sông được thi vỊ hóa, hình tượng hóa như người con gái xứ Huê' cũng
“lãng mạn mà chung tình”, một hình ảnh đầy sức thuyết phục mãi mãi là nét
thơ mộng của Huế, là vẻ đẹp thiên nhiên từ công trình nghệ thuật của tạo hóa
đã dành cho Huế cho cô đô dòng sông Hương hiền hòa, êm đềm, sâu lắng đã ôm
trọn vào lòng thành phô Huê' từ bao đời nay. Huế ơi! Hương Giang ơi! mãi mãi
là hồn thiêng sông núi của xứ Huế, ta ơi!
B. Ý k iến 2: Có ý k iến k h á c ch o rằ n g : “Con sông H ương ngoài vẻ đẹp
củ a thiên n h iên tạo hóa, sông H ương còn m ang vẻ dẹp từ gó c n h ìn lịch
s ử và văn hóa k h ác với con S ô ng D à ”.
1. Sông H ương từ góc nhìn lịch sử:
Hình ảnh con sông Hương xuất phát từ công trình nghệ thuật của tạo hóa, vẻ
đẹp của thiên nhiên, ngoài vẻ đẹp ấy sông Hương còn mang một vẻ đẹp khác
đầy kiêu hãnh tự hào, đó là hình ảnh dòng sông Hương còn là nhân chứng của
lịch sử, dòng sông là những trang sử vẻ vang của dân tộc vừa đau thương vừa
anh hùng của thời đại dựng nước và giữ nước. Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa chúng
ta tìm về chiều dài lịch sử của dòng sông Hương qua thời đại các vua Hùng:
“Sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước” là tấm lá chắn nhằm
bảo vệ tồ quốc. Đến thời kì trung đại, “dòng sông Hương từng chiến đấu oanh
liệt bảo ưệ biên giới phía Nam của dân tộc Đại Việt”. Đến thê kỉ XVIII, “dòng
sông Hương từng chứng kiến những chiến công hiển hách lững lẫy của người
anh hùng Nguyễn Huệ và dòng sông Hương từng soi bóng kinh thành Phú
Xuân” biểu tượng niềm tự hào của đại đê' Quang Trung. Đến thế kỉ XIX, dòng
sông Hương từng gắn liền với bao cuộc khởi nghĩa, đẫm máu của dân tộc, tiếp
đến là cuộc cách mạng tháng tám. Và dòng sông Hương, cùng những di sản văn
hóa của Huế đã oằn mình chịu đựng bao nhiêu bom đạn của đê' quô'c Mỹ vào mùa
xuân năm Mậu Thân 1968 mà “thành phố H uế dã nhận những lời chia buồn sâu
sắc của thế giới về sự tàn phá mà Đế Quốc Mỹ đã chụp lên những di sản văn
hóa của nó”.
2. Sông H ương từ gó c nhìn v ăn hóa:
a. S ô ng H ư ơ n g - d ò ng sông củ a âm nhạc.
Sông Hương là dòng sông của âm nhạc ư? Phải có một tình yêu quê hương,
yêu dòng sông Hương thắm đẫm với một cảm nhận tinh tế, óc trừu tượng phong
phú, giàu tính trí tuệ, am hiểu nhiều lĩnh vực, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
mới khắc hoạ cho chúng ta tìm thấy dòng sông Hương là dòng sông của âm
nhạc. Phải chăng từ âm thanh tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga rền mặt
nước, tiếng mái chèo khua nước giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn
thuyền... hàng loạt những âm thanh ấy tạo nên những giai điệu, làn điệu, âm
điệu đế hình thành “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế”.

365
- Giữa dòng nước sông Hương, đêm đêm câ't lên những điệu họ vừa bồi hồi
xao xuyến vừa êm đềm bâng khuâng lắng đọng làm nên những làn điệu dân ca
Huế trữ tình ngọt ngào ru lòng bao du khách ai đã từng đến Huế. Dòng sông
Hương được thi vị hóa, hình tượng hóa “như một tài nữ đánh dàn giữa đêm
khuya” gợi lôn cảnh đẹp thơ mộng gợi tình, say đắm như ru lòng người vào thế
giới âm nhạc cung đình Huế. Đặc biệt, đại thi hào Nguyễn Du đã từng sông tại
cô" đô Huế, nhà thơ từng nghe âm thanh của làn nước, những điệu hò, những câu
hát dân gian tạo nên nguồn cảm hứng cho nhà thơ viết lên những trang thơ
thấm đẫm nhạc cung đình mãi mãi là vẻ đẹp của dòng sông ỉĩương, vẻ đẹp của
âm nhạc làm nên nét đẹp rất riêng cho Huế, góp phần đem lại sự đa dạng
phong phú cho nền âm nhạc của dân tộc.
6. S ô ng H ương - d ò ng sông củ a thơ ca:
Sông ílương còn là nguồn cảm hứng đôi với người thi sĩ qua từng thờ đại từng
giai đoạn lịch sử để làm những hồn thơ bất hủ cho đời, đem lại sự phong phú đa
dạng cho thơ ca Việt Nam. Nhà thơ Cao Bá Quát vào cuô"i thê kỉ thứ XVIII từng
nhìn dòng sông Hương mang vẻ đẹp vừa uy nghi, hoành tráng vừa hiên ngang
lẫm liệt như thanh kiếm giữa bầu trời xanh với thi ảnh: “Trường Giang như
kiếm lập thiên thanh”. Nhà thơ Tản Đà nhìn dòng sông Hương toát lên một
không gian đầy sương khói Huế hòa quyện với màu xanh biêng biếc tràn đầy sức
sông thiên nhiên cùng tình yêu lao động cần mẫn của con người xứ Huế với hình
ảnh: “Dòng sông trắng lá cây xanh”. Nhà thơ Thu Bồn của vùng đất Quáng Nam
nhìn dòng sông Hương lại mang một tâm trạng, một nỗi niềm lưu luyến nhớ
thương với hình ảnh: “Con sông dừng dằng, con sông không chảy. Sông chảy vào
lòng nên Huê rất sâu”. Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn con sông Hương
như một nhân vật trữ tình, người con xứ Huế cũng mang “nỗi vương vấn cả một
chút lẳng lơ, kín đáo trong tình yêu” qua lời thì thầm: “Còn non, con nước còn
dài. Còn về, còn nhớ...” gợi lên một nỗi niềm một tâm trạng lưu luyến vâ"n vương
của người con xứ Huê cũng “là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở”. Làm sao chúng ta quên được nhà thơ Tô" Hữu,
một người con sinh ra và lớn lên giữa lòng thành phô Huê cũng yêu dòng sông
quê hương, dòng sóng tự tình mà hình ảnh dòng sông Hương đã in sâu trong
tâm thức nhà thơ trong từng bước đi theo chiều dài của cuộc kháng chiến qua lời
bày tỏ chân tình tha thiết của thi nhân: “Hương Giang ơi! Dòng sông êm. Quả
tim ta vẫn ngày đêm tự tình”. Rồi nhớ về thi nhân Hàn Mặc Tử trong “Đây
Thôn Vĩ Dạ” chúng ta bắt gặp dòng sông Hương còn là dòng sông trăng lung
linh huyền ảo với thi ảnh: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” và dòng sông qua
cái nhìn của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh, có lúc dòng sông lại buồn thiu, dòng
sông trầm mặc u hoài như nhớ thương ail đợi chờ ai! với thi ảnh “dòng nước
366
buồn thiu hoa bắp lay”. Quả thật, hình ảnh dòng sông Hương là công trình nghệ
thuật của tạo hóa đã dành riêng cho Huế, mãi mãi là hình tượng nghệ thuật là
nhân chứng của lịch sử, là nguồn cảm hứng của người thi sĩ qua nhiều thời đại
đã làm nên những vần thơ, trang thơ bất hủ cho đời cho nền thơ ca Việt Nam.
c. Cảm n h ậ n về d ò ng sông D à và sông H ương qu a hai ỷ k iến trên:
Qua những trang kí của nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường về
dòng sông Đà và dòng sông Hương, mỗi dòng sông đều mang những vẻ đẹp
riêng, sắc thái riêng mãi mãi là những vẻ đẹp của quê hương đất nước là công
trình nghệ thuật của tạo hóa là niềm tự hào về phong cảnh giàu đẹp của Tổ
quốc, chúng ta lại càng yêu quê hương đất Việt của chúng ta hơn. Nhưng mỗi
dòng sông vẫn có những sắc thái riêng, vẻ đẹp riêng của chính nó. Nếu nhìn về
con sông Đà, nó mang vẻ đẹp từ công trình nghệ thuật của tạo hóa rõ nét hơn
vừa thơ mộng trữ tình đáng yêu vừa hùng vĩ, hung bạo đáng sợ đã đập vào mắt
chúng ta nét đẹp thiên nhiên thắm đẫm của vùng đất Tây Bắc. Riêng, cái nhìn
về con sông Hương cũng là công trình nghệ thuật của tạo hóa, dành trọn cho
mảnh đất cô' đô Huế, nhưng sông Hương nó mang vẻ đẹp đa dạng, phong phú
hơn so với con sông Đà. Với sông Hương từ góc nhìn địa lí toát lên vẻ đẹp về
công trình nghệ thuật của tạo hóa, của thiên nhiên vừa thơ mộng hùng vĩ, có lúc
yêu kiều như cô gái Digan đầy duyên dáng của đất nước Tây Ban Nha có lúc
mang diện mạo của bà mẹ phù sa đầy chất trí tuệ và có lúc như người con gái
Huế có chút lửng lơ, kín đáo trong tình yêu, đặc biệt dòng sông Hương còn là
dòng sông của lịch sử, nhân chứng của lịch sử qua các triều đại, thời kì, thăng
trầm thịnh suy của dân tộc và con sông Hương còn là dòng sông của âm nhạc
mang lại cho Huế một nét đặc thù riêng, rất riêng và sông Hương còn là dòng
sông của thơ ca là nguồn cảm hứng dành cho các thi nhân làm nên những trang
thơ bất hủ cho đời, cho văn học nghệ thuật.

II. PHẦN K Ế T THÚC:


về n gh ệ thuật: Qua hai bài kí về con sông Đà và con sông Hương của nhà
văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường toát lên những đặc trưng:
- Giàu hình ảnh tiêu biếu, ngôn ngữ tạo hình độc đáo, sáng tạo, tình huông
hấp dẫn, các biện pháp nhân hóa đặc sắc cùng am hiểu nhiều lĩnh vực...
về nội d u n g : Khắc hoạ dòng sông Đà và dòng sông Hương thật â'n tượng,
mỗi dòng sông mang một vẻ đẹp riêng, mảnh hồn riêng đem lại sự giàu đẹp cho
quê hương đất nước mãi mãi để lại trong lòng người vẻ đẹp đáng nhớ không dễ
nào quên. Quả thật: “Sông Đà ơi! Sông Hương ơi! Dòng sông Đất nước nghìn đời
mến yêu”.

367
Để tuyển sinh:
Câu 1: (2đ) B ài thơ “S ó n g ” củ a nữ sĩ Xuân Quỳnh có đoạn viết:
“Làm sao dược tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
G iữa biến lớn tình yêu
D ể ngà n năm còn vỗ”.
(trích “Sóng” - X u â n Quỳnh)
Anh, chị đọc đoạn thơ trên và thực hiện cá c yêu cầu sau:
1. Đoạn thơ nói lên ước vọng c ía nhà thơ như th ế nào?
2. Lời thơ nào th ể hiện ý trọng tâm của đoạn thơ? Hãy giải thích
đế làm sáng tỏ?
3. Thi pháp để làm nên cái hay cái đẹp, ý nghĩa cho đoạn thơ là
biện pháp nghệ th u ật gì?
Câu 2: (3đ) (Nghị luận xã hội)
Có ý kiên rằng: “Tại sao cái xấu cái ác vẫn hiện hình và tác dộng vào
dời sông của chúng ta hiện nay?”.
Anh, chị giải thích ý kiến trê n và dưa ra hướng giải quyết để
khắc phục.
Câu 3: (5đ) (Nghị luận vàn học)
T ác phẩm “C hiếc thuyền ngoài x a ” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, có ý kiến rằng: “Dó là hìn h ảnh người p h ụ n ữ h à n g chài,
sống cam chịu, n h ẫn n h ụ c d ể thực h iện thiên ch ứ c củ a người m ẹ”.
Có ý kiến khác-cho rằng: “Đó là hình ảnh người p h ụ n ữ h à ng chài
có n h ữn g phẩm chất dáng quý n h ư n g cũ n g có p h ầ n đ á ng trá ch ”.
Từ cảm nhận của anh, chị về hình ảnh người phụ nữ hàng chài
tron g tá c phẩm “C hiếc thuyền ngoài x a ” củ a nhà văn Nguyễn
Minh Châu. Anh, chị hây bình luận ý kiên trê n để làm sáng tỏ
nhân vật.

HƯỚNG DẨN
Câu 1: (2đ)
1. Đoạn thơ nói lên ước vọng c ủ a rihà thơ nh ư th ế nào?
Đây là đoạn thơ cuôì của bài “Sóng” qua ngòi bút của nữ sĩ Xuân Quỳnh, đoạn
thơ biểu hiện ước vọng một tình yêu vĩnh hằng bất tử trong tâm hồn người phụ nữ
là phải biết đem tình yêu riêng, tình yêu của chúng ta hòa vào tình yêu chung,
tình yêu cộng đồng, quê hương, đất nước thì tình yêu ấy mãi mãi muôn đời.

368

J
2. Lời thơ nào th ể hiện ý trọn g tâm củ a đoạn thoT? H ãy giải thích để
làm sáng tỏ?
Lời thơ: “Làm sao được tan ra” là thể hiện ý trọng tâm của đoạn thơ, đó là
ước vọng chính đáng của nhà thơ. Xuân Quỳnh ghi lại một lời tự sự ngắn gọn (5
chữ) nhưng bày tỏ một quan niệm sông đẹp “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng
mình”. Vì cuộc sông của một đời người cũng chỉ là hữu hạn, giới hạn, mỗi ngày
đi qua theo bước đi của thời gian, chúng ta lại thấy cuộc đời mình ngắn lại, hẹp
lại gần kề với cái chết mà quan niệm của nhà Phật cũng đã nói: “Sinh, Lão,
Bệnh, Tử”, cuộc đời là vô thường và quan niệm của Thiên Chúa giáo cũng thế:
“Con người căng chỉ là cát bụi, nấm mồ là nơi trú ngụ cuối cùng của một đời
người” nếu thế thì tình yêu cũng lãng quên, cũng mất khi chúng ta không còn
hiện hữu trên cuộc đời như lời bày tỏ của nhà thơ: “Em đâu dám nghĩ tình yêu
là vĩnh viễn. Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”. Vì thế chúng ta phải sông như thế
nào? Phải làm như thế nào để cuộc sông có ý nghĩa. Với nữ sĩ Xuân Quỳnh,
chúng ta không thể sông với tình yêu cá nhân ích kỉ, hẹp hòi, chật chội tầm
thường, chúng ta không chỉ biết “hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp” hay
hạnh phúc là “một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” mà phải có hạnh phúc
chung, niềm vui chung và muôn có hạnh phúc chung ấy, chúng ta phải “làm sao
được tan ra” phải biết đem “cái tôi” hòa chung vào “cái ta”, phải biết đem tình
yêu riêng của chính mình hòa vào tình yêu cộng đồng, tình yêu đồng bào, tình
yêu nhân dân, quê hương, đất nước thì tình yêu của chúng ta, tình yêu của em
mới bất tử vĩnh hằng. Đây là một quan niệm sông đẹp, lẽ sông đẹp để cuộc sông
có ý nghĩa làm nên giá trị sức sông cho bài thơ “Sóng” suốt bao nhiêu năm qua.
3. Thỉ pháp để làm cái hay cái đẹp, ý nghĩa cho đoạn thơ là biện
pháp nghệ th u ật gì?
Cái hay, cái đẹp ý nghĩa cho đoạn thơ trên là biện pháp ẩn dụ kết hợp so
sánh, sử dụng hình ảnh thơ giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng,: giàu tính
triết lí. Kết hợp với lời thơ tự sự, thể thơ ngắn gọn (5 chữ) đã giúp cho người đọc
tìm thấy ước vọng chính đáng của nhà thơ có một quan niệm về tình yêu thật
đẹp “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” đó là tình yêu bất tử vĩnh hằng là
giá trị sức sông cho bài thơ “Sóng” gần nửa thế kỉ qua.
Câu 2: (3đ) (Nghị luận xã hội)
Những kiến th ứ c cầ n nắm :
1. Lời cố nhân: “Tiên học lễ, hậu học văn” (lời cổ nhân).
2. Quan niệm của nho giáo - Khổng Tử có nói: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” (Ngũ
thường: năm nhân tô' quan trọng của con người cần phải có để hình thành
một nhân cách sông đẹp).
3. Lời cồ nhân có nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (lời cổ nhân)
4. Có ý kiến rằng: “Sức mạnh đồng tiền đã hủy hoại nhân cách giá trị đạo đức
con người” (lời nhận định).
369
5. Tô" Hữu có viết: “Có gì đẹp trên đời hơn thế. Người yêu người sống đ ể yêu
nhau”. (Tô" Hữu)
6. Có ý kiến rằng; “Con người biết xấu hổ và có lòng tự trọng thì mới xây dựng một
nhân cách sống đẹp từ đó mới hình thành một xã hội lành mạnh, tốt đẹp”.
7. Có ý kiến rằng: “Con người đánh mất lòng tự trọng chỉ còn là cái chết, cái
chết tâm hồn”. (Nguyễn Khải)
8. Có nhận định rằng: “Một xã hội phát triển tốt đẹp khi mọi người được sống
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”.
9. Những nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp vì cộng đồng;
- Nhà nghiên cứu sử học hiện đại Việt Nam người Nhật Odaka.
- Ca sĩ tài tử người Nhật Kyo-York.
- Thái tử Charles và hoàng tử William của Anh Quô"c, họ đã sử dụng tiếng
Việt để truyền đi thông điệp: “Hãy đoàn kết vì động vật hoang dã” ý nói, người
Việt Nam đã xem thường sự sông của các loài động vật bằng hình thức bắn, giết
vô tội vạ nên đã sử dụng bằng tiếng Việt cho cả thê" giới biết để chứng tỏ rằng
người Việt Nam đã giết hại nhiều loài cầm thú.
HƯỚNG DẪN
A. CÁCH LẬP d à n Ý:
I. PHẦN MỞ BÀI:
Mượn một lời nhận định, một ý kiến, một lời thơ có liên quan đến yêu cầu đề
bài, sau đó giới thiệu đề bài và viết câu chuyển ý (nếu cần).
II. PHẦN THÂN BÀI:
Những bước cần thực hiện:
1. Giải thích từ ngữ quan trọng của đề bài như: “cái xấu và cái ác” có ý nghĩa
như thê" nào? Dẫn chứng: Đưa ra những vân đề cụ thể để làm sáng tỏ.
2. Tại sao ngày nay cái xấu và cái ác vẫn hiện hình và tác động vào đời sông
của chúng ta thật đáng lo ngại?
- Tìm nguyên nhân
- Đưa ra biện pháp khắc phục
HI. PHẦN KẾT BÀI;
Khẳng định giá trị đề bài.
B. PHẦN THựC HÀNH;
I. PHẦN MỞ BÀI:
“Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. (Tục ngữ)
Lời của người xưa thể hiện một cách sống đẹp, sống trong tình yêu thương, chia
sẻ dù cho loài động vật cũng biết xót thương, đồng cảm và sẵn sàng sẽ chia với đồng
loại khi gặp hoạn nạn. Nhưng tại sao ngày nay, cái xấu và cái ác vẫn hiện hình và
tác động vào cuộc sông của chúng ta thật đáng lo ngại? Vì đâu? Do đâu?
Chúng ta hãy đi tìm nguyên nhân cùng đưa ra biện pháp để khắc phục.
370
II. PHÃN THÂN BÀI;
N h ữ n g bước cần th ực h iện :
1. Giải thích cái xấ u và cái ác như thê nào?
а. về cái xấ u : Là thể hiện cách sôhg, lôl sông không đẹp, không có văn hóa,
văn hóa sông, văn hóa người, làm ảnh hưởng đến cuộc sông của người khác.
Những hiện tượng về cái xấu như; không nghiêm khắc, tuân thủ về giờ giấc, vẫn
tùy tiện, lề mề, không tôn trọng người khác, tiêu biểu như trong hội họp, liên
hoan hay dự tiệc đám cưới. Nói đến cái xấu là nói đến sự tham lam, vô kỉ luật
và không dám chịu trách nhiệm những việc mình đã làm mang lại hậu quả xấu.
Người ta còn lừa bịp nhau tác hại đến người khác miễn sao đem lại lợi ích thiết
thực cho bản thân mình. Một chuyện thật đau lòng, thay vì giúp người bị nạn lại
lao vào hôi của, nhặt tiền bỏ vào túi với một thái độ vô tư, tinh thần man dại...
hay đi dự tiệc buffet thay vì lấy thức ăn vừa đủ ăn, lại cố lấy cho thật nhiều như
một kẻ thèm ăn, đói ăn. Hay vô tư, vô cảm, vô tâm giết hại động vật hoang dã
vì lợi ích cá nhân hay vì nhu cầu ăn nhậu cho thỏa thích.
б. v ề cái ác: sẵn sàng giết hại, đâm chém, thủ tiêu kẻ khác nhằm thực hiện
ý đồ bất chính một cách lạnh lùng vô cảm với con người. Những hành động cụ
thế biểu hiện cái ác trong cuộc sông hiện nay như:
- Anh em, cha con, vợ chồng giết nhau, tranh giành của cải, nhà cửa, ruộng đất.
- Bác sĩ phẫu thuật, sẵn sàng giết hại bệnh nhân nhằm phi tang chạy tội.
- Thầy cô giáo sẵn sàng đẩy học sinh yếu của mình vào ngõ cụt, bế tắc, hủy
diệt một tương lai vì chạy theo thi đua, thành tích.
- Các cô bảo mẫu, hành hạ tuổi thơ một cách dã tâm cho đến chết như ở:
Bình Dương, Thủ Đức, Cà Mau,...
2. Nguyên nhân hình thành cái xấu và cái ác:
- Khi nền kinh tế thị trường thâm nhập vào Việt Nam, từ nền kinh tế bao
cấp chuyển sang, cả xã hội từ người dân cho đến bộ máy quản lí nhà nước phải
đôì mặt với trạng thái quá đột ngột, mới mẻ và trong công việc tiến hành nhằm
phát triển một nền kinh tế mới mang tính cạnh tranh nhưng trong thực tế lại
nảy sinh “tính cạnh tranh không lành mạnh” làm cho con người bất chấp mọi
đạo lí để kiếm tiền từ đó cái xấu, cái ác hiện hành.
- Cách quản lí về kinh tế chưa mang lại hiệu quả, khoảng cách giàu nghèo
ngày một lớn, giá trị đồng tiền được đề cao thì đạo đức bị giảm sút, xem nhẹ từ
đó phát sinh hiện tượng tiêu cực như trộm cắp, tham nhũng vặt, lập băng
đảng... từ đó cái xấu cái ác hiện hình.
- Cách quản lí về xã hội còn nhiều kẻ hở, lỏng lẽo, dễ phát sinh sự bất hợp lí
từ đó làm mầm móng dễ tạo điều kiện cho cái xấu ngày càng phát triển.

37 1
- về lãnh vực giáo dục, nhà trường chủ trương chạy theo “thi đua lập thành
tích” biến người học, người chủ tương lai của đất nước trở thành cái máy chỉ biết
thu nhận kiến thức từ sách vở không còn phù hợp với hoàn cảnh thực tế của
cuộc sống, không phát triển về mặt tâm hồn, về nhân cách, về lòng tự trọng.
Đặc biệt cần phải áp dụng hai chữ “Lễ, Nghĩa” phải là những bài học sinh động,
thiết thực từ cuộc sông thì lớp trẻ mới có một “văn hóa sống, văn hóa người”.
Nếu thiếu những điều cơ bản ấy thì điều xấu cái xấu phải phát sinh.
- Nền văn minh khoa học của thế giới hội nhập vào Việt Nam, vào đời sống
nhân dân ta, đặc biệt là thế hệ trẻ, phần nhiều là những mặt tốt, tinh hoa của
nhân loại của thời đại mà chúng ta cần phải học tập, nghiên cứu có chọn lọc
nhưng bên cạnh đó cũng có những độc hại, di hại cho con người mà chúng ta
phải biết chọn lọc, sàng lọc mà tránh, nếu không dễ đưa đến cái xấu, hành vi
xấu hiện hình.
- Khi sức mạnh đồng tiền được đề cao, chú trọng được xem là vạn năng là
cứu cánh trong cuộc sông thì rất dễ biến con người làm bâ't cứ điều gì để kiếm
tiền để tồn tại và hưởng thụ thì cái xấu, cái ác sẽ hiện hình.
3. B iện pháp kh ắc phục cái xấu và cái ác:
- Phải làm sao nâng cao đời sôhg của người dân, mức sôhg của người dân
phải được đảm bảo, quyền lợi, quyền sôhg của con người phải được tôn trọng,
được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
- Không chỉ xóa đói giảm nghèo bằng hình thức cứu trợ, giúp đỡ bằng tiền
bạc, hiện vật mà phải làm sao tạo cho họ “chiếc cần câu cơm”, phải có một
chính sách hợp lí mang tính khả thi.
- Phải có một nền giáo dục mà thực chất là phát triển về mặt tâm hồn về
nhân cách, về nhân phẩm, phải có lòng tự trọng, phải biết xấu hổ.
- Hệ thống pháp luật phải nghiêm minh, phải nhất quán, không thể thay đổi
tùy tiện làm cho con người đánh mất niềm tin. Người có công phải được trọng
thưởng xứng đáng, người có tội phải bị trừng trị thích đáng dù kẻ đó là ai.
- Những người làm công tác quản lí phải là tấm gương đạo đức vì dân và lo
cho dân và trách nhiệm cao cả của họ là làm sao mang lại đời sông yên bình,
hạnh phúc cho nhân dân.
- Phải tôn vinh ca ngợi những tấm gương tô't, người tô't, việc tô"t, thường
xuyên phổ biến sâu rộng trên báo đài, tivi, trên mạng xã hội để mọi người dân
tự nhìn lại mình mà phải sông tô"t.

II. PHẦN KẾT BÀI:


Ý kiến trên nói lên nỗi đau của toàn xã hội, nó như một thông điệp, một
hồi chuông cảnh báo cho toàn xã hội về những hiện tượng tiêu cực hiện nay và

372
cũng giúp cho những ai làm công tác quản lí tự nhìn lại mình để có hướng giải
quyết trong công việc có hiệu quả, khả thi từng bước khắc phục cái xấu và cái
ác. Theo em nghĩ, đó là nhiệm vụ của toàn xã hội, nhiệm vụ của mọi người
dân, của mỗi chúng ta phải làm sao chung tay vào, góp sức vào để cái xâ'u và
cái ác lùi dần, xa dần.
Câu 3: (5d) (Nghị luận văn học)
ígỉ?ữnsr kiến th ứ c cầ n nắm:
1. Có ý kiến rằng: “Không có gì cao cả hơn một sự hi sinh thầm lặng”.
2. Cô" nhạc sĩ Y Vân có viết trong nhạc phẩm “Lòng Mẹ”: “Lòng Mẹ bao la như
biển Thái Bình dạt dào. Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”.
(Lòng Mẹ - Y Vân).
3. Lời Phật có dạy: “Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ. Mây trời
lồng lộng không phủ kín công cha”. (Lời Phật dạy).
4. Lời người xưa thường nói: “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”, (lời người xưa)
5. Nhận định về tấm lòng người mẹ trong truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân
có viết: “Đàng sau tấm áo vá của người mẹ nghèo là một tấm lòng vàng”.
6. Có nhận định về tâ'm lòng người mẹ hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Đằng sau tấm lưng áo bạc phếch
và rách rưới của người phụ nữ hàng chài là một tấm lòng vàng”.
7. “Ngày xưa có mẹ” của nhà thơ Thanh Nguyên có viết: “Mẹ! Có nghĩa là mãi
mãi. Là cho đi không đòi lại bao giờ”. (Thanh Nguyên)
8. Lời ca dao từng nói: “Công Cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong
nguồn chảy ra”. (Ca dao)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU:
“Mẹ!
Có nghĩa là mãi mãi.
Là cho đi không đòi lại bao giờ”.
{Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên)
ô hay quá! Những vần thơ “Ngày xưa có Mẹ” của nhà thơ Thanh Nguyên
giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng đưa chúng ta liên tưởng tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà vàn Nguyễn Minh Châu, tác giả đã khắc hoạ
thành công hình ảnh người phụ nữ hàng chài thật đáng thương, đáng quý, cảm
phục. Có ý kiến rằng: “Đó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài phải sống cam
chịu, nhẫn nhục đ ể thực hiện thiên chức của người mẹ”. Có ý kiến khác lại cho
rằng: “Đó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài có những phẩm chất đáng quý
nhưng cũng có phần đáng trách”.

373
Chúng ta lần lượt bình luận các ý kiến trên để làm sáng tỏ nhân vật người
phụ nữ hàng chài.

II. PHẦN TRỌNG TÂM:


Cần làm sáng tỏ các ý kiến trên để khẳng định nhân vật ngưòi phụ nữ hàng chài.
A. Y kiến 1: “Đ ó l à h ìn h ả n h n gư ời p h ụ n ữ h à n g c h à i p h ả i s ố n g c a m
ch ịu , n h ả n n h ụ c đ ế th ự c h iệ n th iê n ch ứ c c ủ a n g ư ời m ẹ ”.
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khép
lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng chúng ta một hình tượng nghệ thuật khó quên
đó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài tại vùng ven biển miền Trung đầy nắng
và cát cháy với một niềm xót thương vô hạn, mến phục.
C h i tiế t 1: Người phụ nữ hàng chài ngoài 40 tuồi sống bằng nghề lưới vó, chị
có gần cả chục đứa con, sông trên một chiếc thuyền chật hẹp tù túng, nheo nhóc,
cơ cực và cũng từ trên chiếc thuyền này, nạn bạo lực trong gia đình lại hiện
hình mà chị là nạn nhân phải gánh chịu. Oái ăm thay, lúc nào lão chồng, hắn
thấy bực bội trong người là hắn cảm thấy khố do áp lực của công việc và cuộc
sông khó khăn, tù túng là hắn lại lôi chị ra đánh, hắn đánh chị như một sự giải
tỏa ức chế trong lòng của hắn và trở thành một quán tính lặp đi lặp lại thường
xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ” “năm ngày một trận nặng” chị khác gì như một
trái banh lông để hắn hành xử vô tội vạ nhằm thõa mãn lòng ích kỉ, cá nhân
của hắn, hắn đánh tới tấp trên tấm lưng áo bạc phếch rách rưới của chị bằng
chiếc thắt lưng thật lớn của quân đội Sài Gòn cũ, vừa đánh hắn vừa chửi với hai
hàm răng nghiến ken két, hắn chửi thật tàn nhẫn: “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Trước hành động tàn bạo vũ phu, dã man
của lão chồng như thế nhưng chị: “không hề kêu một tiếng” “cũng không chống
trả” “cũng không tìm cách chạy trốn”. Tại sao chị phải chấp nhận chịu đựng sự
tàn bạo đến như thế? Hay chị đã trở thành vô cảm? Không! Vì chị nghĩ rằng,
trước tình cảnh này, chị biết kêu than với ai đây giữa bô"n bề mênh mông sông
nước của biển khơi, chị kêu than dể được gì? Hay chông trả trước một người
chồng bạo lực, hung hãn như thế thì chỉ càng thêm khổ mà thôi và nếu chạy
trôn thì chạy đi đâu, làm gì, lấy gì để nuôi các con gần cả chục đứa? Theo chị
nghĩ, tất cả những phản ứng hay hành động nào của chị trong tình huống này
cũng đều không mang tính khả thi, không đem lại hiệu quả thiết thực để rồi chị
phải cam chịu, nhẫn nhục, đau đớn cả thân xác lẫn tâm hồn để được sông gần
con, lo cho các con, có cơm ngày hai bữa là trách nhiệm, bổn phận của người mẹ
và chị cũng hiểu được rằng, sống trong bạo lực cùng cái khổ và bạo hành như
thế này, chị cũng quen dần với nó rồi, thì thôi cam chịu, nhẫn nhục để được gần
con, sôhg bên con tiếp tục theo cái nghề này mà nuôi con, biết làm gì hơn bây

374
giờ. Phải chàng, đây là những dòng suy nghĩ thực tế nhất để chị cam chịu, chấp
nhận nhằm thực hiện trách nhiệm và bổn phận của một người mẹ là tấm lòng
hi sinh cao quý của người phụ nữ hàng chài đúng như lời nhận định: “Đó là hình
ảnh người phụ nữ hàng chài phải sống cam chịu, nhẫn nhục đ ể thực hiện thiên
chức của người mẹ” là một tâ'm lòng vàng.
C h i tiế t 2: Chúng ta đã từng học nhiều tác phẩm văn học lớp 10, 11, 12,
chưa có một tác phẩm văn học nào mà người vỢ lại đề nghị với người chồng là
thay đổi cách hành xử tàn bạo với vỢ mình bao giờ! Nhưng trong tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, hình ảnh người phụ
nữ hàng chài lại đề nghị với lão chồng rằng: “Các con đã lớn đừng đánh tôi trên
thuyền, hãy đưa tôi lên bờ mà đánh”. Lời yêu cầu của người vỢ hàng chài sao lại
tội nghiệp, xót xa đến như thế! Việc hành hạ của lão chồng mà cũng phải đề
nghị, van xin với lão ấy hay sao? Sao lại oái ăm đến thế, xót xa đến thế? Vì
người phụ nữ hàng chài cũng là người mẹ, của đàn con gần chục đứa, chị sợ các
con nhìn thấy bô' đánh mẹ trên thuyền thường ngày mà chị lo sợ cho chúng sẽ bị
tốn thương về mặt tinh thần về tâm hồn thơ ngây trong sáng của chúng, chị sẵn
sàng yêu cầu lão chồng và đưa ra lời đề nghị như thế! Chứng tỏ vì cuộc sông của
các con vì tương lai sinh mạng của các con mà chị phải khép mình, hạ mình
chấp nhận những điều tưởng chừng như vô lí nhưng đó là tấm lòng người mẹ,
tình mẹ cao quý biết nhường nào!
Và ngay cả trước tòa án, chị cũng đưa ra một lời bày tỏ rất chân tình càng
thấy rõ ý thức về trách nhiệm và bổn phận của người mẹ sông bằng nghề lưới vó
là phải biết hi sinh, chấp nhận tất cả vì cuộc sốhg của các con, chị nói: “õn g trời
sinh ra người đàn hà là đ ể đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con, chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được”. Quả thật, “không có gì cao cả hơn một
sự hi sinh thầm lặng” của người phụ nữ hàng chài, người mẹ hàng chài đúng
như ý kiến thứ nhất của đề bài: “Đó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài phải
sống cam chịu, nhẫn nhục đ ể thực hiện thiên chức của người mẹ”.
B. Ý kiến 2; “D ó l à h ìn h ả n h n g ư ời p h ụ n ữ h à n g c h à i c ó n h ữ n g p h ẩ m
c h ấ t đ á n g qu ỷ n h ư n g c ủ n g c ó p h ầ n đ á n g t r á c h ”.
Người đọc khi khép lại trang sách cuô'i cùng trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, làm sao quên được hình ảnh người
phụ nữ với tấm áo bạc phếch rách rưới kia mà lại “có một phẩm chất đáng quý”
vì sao lại có ý kiến như thế? Trong cuộc sông, nhằm khẳng định trách nhiệm và
bổn phận của mỗi con người là khi chúng ta thể hiện bằng hành động, cách sông
hướng đến mục đích một lẽ sông đẹp đế cuộc sông có ý nghĩa mà người phụ nữ

375
hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu là tượng trưng cho vẻ đẹp ấy.
Phẩm chất 1: Trước áp lực của công việc, khó khăn của cuộc sông, đời sông
tù túng, chật hẹp trên một chiếc thuyền nhỏ, con cái đông đúc, nheo nhóc đã
làm cho lão chồng bực dọc, ức chế về mặt tâm lí, lão lại nghĩ ra cách hành hạ vợ
để giải tỏa sự ức chế, cứ “ba ngày một trận nhẹ” “năm ngày một trận nặng”
người vỢ hàng chài cam chịu, nhẫn nhục, chấp nhận sự hành hạ của chồng bằng
những trận đòn thật tàn bạo, dã man, lão chồng dùng dây thắt lưng thật lớn của
quân đội Sài Gòn cũ, lão cứ quất trên tấm lưng với chiếc áo bạc phếch rách rưới
của chị thật xót xa cho thân phận đoạ đày của người phụ nữ hàng chài! nhưng
chị nào “kêu than, chống trả hay tìm cách chạy trốn”, chị đành chịu trận và cứ
tiếp tục cam chịu như thế để được sống gần con được bám với nghề mà nuôi con,
lo cho con cơm ngày hai bữa là người mẹ yên vui trong lòng là phẩm chất đẹp
của người phụ nữ hàng chài.
Phẩm chất 2: Chị nhìn một đàn con gần cả chục đứa, mỗi ngày một lớn
khôn, nhất là thằng Phác, con trai lớn của chị, chị lo sợ nếu các con, chúng thấy
bố đánh mẹ trên thuyền cứ thường xuyên như thế, chúng sẽ hận bô', thương mẹ
và các con sẽ bị tổn thương về mặt tinh thần về mặt tâm lí làm ảnh hưởng đến
tâm hồn thơ ngây trong sáng của chúng vì thế chị đã gởi thằng Phác lên rừng ở
cùng với ông ngoại và chị đề nghị với lão chồng rằng: “các con dã lớn, đừng
đánh tôi trên thuyền mà hãy đưa tôi lên bờ mà đánh”. Lời yêu cầu của chị sao
mà xót xa, tội nghiệp cho thân phận người phụ nữ, người vỢ hàng chài đến thế!
Nhưng, cũng từ bên trong lời yêu cầu của chị với lão hàng chài là thể hiện một
tấm lòng yêu thương bao lao của người mẹ, sần sàng hi sinh để bảo vệ cho các
con không bị tổn thương về mặt tinh thần bằng tất cả sự chịu đựng của chị dù
cho thân xác bị đoạ đày, tinh thần đau đớn thế nào đi chăng nữa, chị cũng cam
. chịu là phẩm chất đáng quý của người mẹ hàng chài.
Phẩm chất 3: Dù cho lão chồng tàn bạo dã man đô'i với chị trong cuộc sông
như thế, nhưng thâm tâm của chị vẫn không hề suy nghĩ là bỏ chồng, trước tòa
án chị vẫn khăng khăng là không có ý định ly hôn. Chị nói trước tòa án rằng:
“con lạy quý tòa... quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được đừng bắt
con bỏ nó”.
- Rồi chị mượn quá khứ để bảo vệ cho chồng, trước tòa án chị nói: “Lão chồng
tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh
đập tôi” là thể hiện tấm lòng bao dung nhân ái của người vỢ. Rồi chị lại mượn
hiện tại để bênh vực tiếp cho chồng, trước tòa án chị nói: “Vả lại, ở trẽn chiếc
thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái chúng tôi hòa thuận vui vẻ”cũng là thể hiện

376
tấm lòng bao dung nhân ái của người vỢ. Rồi chị cũng tự trách mình nhằm đế
bênh vực cho chồng. Trước tòa án chị nói: “Giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm
được chiếc thuyền rộng hơn”. Những dòng suy nghĩ chân thật chân tình của chị là
thế hiện tâ'm lòng bao dung nhân ái của người vợ hàng chài.
H ìn h ả n h n g ư ời p h ụ n ữ h à n g c h à i t ạ i s a o c ũ n g c ó p h ầ n đ á n g trá c h ?
Nói về hình ảnh người phụ nữ ngày xưa thể hiện sự chịu thương chịu khó,
tảo tần đôi gánh trên vai sớm hôm lo cho chồng cho con cho gia đình được tươm
tất đầy đủ và hình ảnh người phụ nữ xưa ví von như hình ảnh “con cò lặn lội bờ
sông” hay “lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông” là vẻ
đẹp về sự chịu đựng hi sinh thầm lặng của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ
Việt Nam bao giờ cũng muốn đem hương thơm mật ngọt cho cuộc sông gia đình.
Về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam ngày nay cũng thế, có
biết bao người phụ nữ Việt Nam cũng lo toan việc gia đình, chịu thương chịu khó
nhất là người phụ nữ nông thôn. Nhưng ngày nay, vai trò của người phụ nữ
ngoài việc lo cho gia đình riêng còn lo toan việc của xã hội của đâ't nước, từng
được tôn vinh là “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Nói về hình ảnh
người phụ nữ hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn
Nguyễn Minh Châu thế hiện sự hi sinh thầm lặng, sự cam chịu, nhẫn nhục, chịu
đựng dù sự hành hạ tàn bạo của lão chồng hàng chài cứ “ba ngày một trận nhẹ”
“năm ngày một trận nặng” nhưng chị “không kêu than, không chống trả, không
chạy trốn” vì chị nghĩ đến cuộc sôhg của đàn con trước mặt, chị hiếu được chồng
đánh mình không phải vì ghét bỏ chị, oán hận điều gì mà xuất phát từ nghèo
khổ, lam lũ, tù tùng trước cuộc sông trên một chiếc thuyền quá nhỏ nên chị chấp
nhận chịu đựng đế sông mà lo cho con, cho gia đình.
Nhấn mạnh: Nhưng sự hành hạ đánh đập của lão chồng vẫn tiếp tục trong
cuộc sông theo bước đi của thời gian rồi trở thành quen thuộc, thành một thông
lệ và sự nhẫn nhục cam chịu của chị biến chị thành “nạn nhân của bạo lực” đây
là điều có phần đáng trách ở chị vì chị chấp nhận những trận đòn là nạn bạo
lực tiếp tục hoành hành từ người lớn rồi đến trẻ con, cái ác vẫn tiếp tục nảy
sinh, hiện hình trở thành hiện tượng xấu đáng lên án của xã hội.
Cần phải có một cái nhìn đúng đắn, khách quan là người phụ nữ hàng chài
không thế trở thành là “nạn nhân của bạo lực trong gia đình được” vì cuộc sông
của gia đình hàng chài kia, không thế thiếu được sự hiện diện của chị trong gia
đình vì chị vẫn cùng chồng cùng các con lao động lam lũ, cật lực với bao khó
nhọc giữa lòng biển khơi đế cùng mưu cầu cho cuộc sông và cũng có những giây
phút hạnh phúc cùng với chồng, khi nhìn thấy đàn con được ăn no và “củng có
lúc vợ chồng con cái sông hòa thuận vui vẻ” thì không có lí do gì, người phụ nữ

377
hàng chài là “nạn nhân của bạo lực trong gia đình”. Như vậy, tại sao chị lại tiếp
tục và tiếp tục châ'p nhận chịu đựng những trận đòn vô lí của chồng như thế?
Chứng tỏ sự nhẫn nhục cam chịu của chị, người phụ nừ hàng chài cũng là người
vỢ, người mẹ vừa đáng thương lại vừa đáng trách. Vì theo sự nhận thức chung
hiện nay, người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam không chỉ biết thương
con là đủ, chăm lo gia đình là đủ mà phải có một phần trách nhiệm là khi cùng
đồng hành với chồng để lo toan, vun xới cho cuộc sông gia đình mà còn phải biết
vận dụng “mọi sự khéo léo, tế nhị, mềm mỏng” của người phụ nữ, của người vợ
mà cảm hóa giúp cho người chồng nhận thức hành động tàn bạo của mình là sai
mà phải tránh xa, khắc phục đế mang lại cuộc sông ổn định cho gia đình. Hơn
nữa người vỢ phải biết “đối kháng bằng tình thương” bằng sự cảm hóa trước
hành động không đúng của chồng thì người vỢ hàng chài sẽ không trở thành
“nạn nhân bạo lực của gia dinh” và từng bước sẽ khắc phục nạn bạo hành trong
gia đình thì cuộc sông gia đình dần dần sẽ khơi mầm yêu thương ấm áp trở lại
đó mới là vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn hảo trong tâm hồn người phụ nữ hàng chài
đúng như ý kiến thứ hai của đề bài: “Đó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài
cũng có phần đáng trách”.

III. PHẦN KẾT THÚC:


v ề n gh ệ thuật: Cô’t truyện mang tính hiện thực, sinh động; xây dựng tình
huông đầy kịch tính, hấp dẫn, đi sâu vào đời sông nội tâm của nhân vật, lời
thoại nhân vật rất thật gần gũi tiếng nói của nhân dân.
về nội d u n g : Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu khắc hoạ thành công hình ảnh người phụ nữ hàng chài tại vùng ven biển
miền Trung đầy nắng và cát cháy cùng với cái nghèo khổ của nơi này nhưng
người phụ nữ cũng cam chịu, nhẫn nhục trước nạn bạo lực trong gia đình để được
sông gần con mà lo cho con thực hiện thiên chức của người mẹ đúng như ý kiến
thứ nhát: “Dó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài phải sông cam chịu, nhẫn
nhục đ ể thực hiện thiên chức của người mẹ” đồng thời người phụ nữ hàng chài
cũng thế hiện những phẩm chất đáng quý của một tình mẹ bao lao cùng sự bao
dung nhân ái của người vỢ, nhưng cũng thật đáng trách vì người phụ nữ ấy là
“nạn nhân cứa bạo lực” đó cũng là niềm ưu tư của người đọc, đúng như lời bày tỏ
trong ý kiến thứ hai: “Đó là hình ảnh người phụ nữ hàng chài có những phẩm
chất đáng quý nhưng cũng có phần dáng trách”.

378
^ h ằ n d iứ lự

CÂU TRÚC ĐÊ THI TRUNG HỌC PH ổ THÔNG QUÔC GIA


THEO HƯỚNG MỚI CỦA BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO NĂM 2015

Đề tuyển sinh 1:
I. PHẦN ĐỌC HIỂU: (3đ)
A. Anh (chị), dọc đoạn thơ dưới đây và trả lời cá c câu hỏi sau. (l,5đ)
Đời lính đảo sóng ghềnh cát trắng.
Nhuốm phong ba mưa nắng gió trời
v ẫ n ca khúc hát yêu đời
Hòa thêm muối mặn cho người yêu thêm
Phút sóng lặng êm đềm trăng rọi
v ẫ n bóng ai chưa mỏi chân nào
Vượt qua con sóng trùng cao
Gác canh đảo vắng giữa màu thầm dương
Đã là lính quê hương là trọng
Sao trên đầu trọn sống nghiệp binh
Giữ cho đất nước quang vinh
Tô thêm cờ đỏ yên bình núi sông...
(Trích bài thơ "Con sóng đẩu khơi' của tác giả Trần Thanh Toàn)

Câu hỏi:
Câu 1: Anh (chị) nêu lên nội dung đoạn thơ trên .
Câu 2: Những từ ngữ, hình ảnh nào trong đoạn thơ th ể hiện sự chịu
dựng gian khổ củ a người lính hải đảo?
Câu 3: Đoạn thơ thuộc thể thơ gì?
- Lời thơ nào tro n g đoạn thơ thế hiện trá ch n hiệm cao quỷ của
người lính hải đảo?
- Lời thơ nào tro n g đoạn thơ th ể h iện niềm lạc quan tro n g tâm
hồn người lính hải đảo?

379
TRẢ LỜ I

Câu 1:
Đoạn thơ thể hiện trách nhiệm của người lính hảl đảo phải chịu đựng mọi
gian khổ, khắc nghiệt của thiên nhiên nhằm bảo vệ biên cương Tổ quốc với
niềm lạc quan thật đáng ca ngợi.
Câu 2:
Những từ ngữ và hình ảnh trong đoạn thơ thể hiện sự gian khổ chịu đựng
của người lính hải đảo như:
- Về từ ngữ có từ: “nhuốm; vượt qua...”
- Về hình ảnh có: “phong ba mưa nắng gió trời”; “chưa mỏi chân nào, con
sóng trùng cao”...
Câu 3:
- Đoạn thơ thuộc thể thơ tự do hỗn hợp.
- Lời thơ thề hiện trách nhiệm cao quý của người lính hải đảo là:
“Đã là lính quê hương là trọng”.
Lời thơ thể hiện niềm lạc quan của người lính hải đảo là:
- “Vẫn ca khúc hát yêu đời”.
hay: “Tô thêm cờ đỏ yên bình núi sông”.
B. Anh (chị), đọc đoạn văn dưới đây và giải thích cá c câu hỏi sau: (l,5đ)
...“Một vùng đất không dấu chân người, chỉ có những đầm lầy và rừng rậm
kế tiếp nhau. Khi con người xuất hiện thì đó là sự ăn nhập tuyệt vời đối với
thiên nhiên hoang dã; một tráng đinh thô kệch, không nguồn gốc xuất xứ,
không thân nhân quyến thuộc, không sở hữu gì hết ngoài chính sức lao động
của mình. Anh ta đến để tìm một nơi sinh sống. Và bằng nghị lực mạnh mẽ và
đôi bàn chân luôn luôn bám chặt vào đất, anh ta đã lao tác trên đất đai, đã
phát quạng bụi rậm, đã cày bừa và gieo trồng, dã vác đá, đã đốn gỗ, đã làm
nhà, đă chăn nuôi gia súc, đã lấy vỢ và sinh con, đã xây dựng nên một trang
trại trù phú sau bao năm tháng miệt mài. Tóm lại, từ đất và với đất ISAK -
tên của tráng đinh nọ đã trở thành Chúa trời của chính mình. Anh ta đã tạo cả
một thế giới của con người đầy sự sống giữa thế giới của một hoang địa khô
cằn...” (trích tiểu thuyết “Phúc lành của đất” của nhà văn Na Uy - Knut Hamsun
- 1859-1952 - Giải Nobel 1920).
Câu hỏi:
Câu 1: Nêu lên tư tưởng chủ đạo của đoạn văn trên .
Câu 2: Ý nghĩa nội dung của đoạn văn trên.
Câu 3: C ách sử dụng từ ngữ nào cùng kết hỢp những hình ảnh nào
đã làm nên ý nghĩa giá trị của đoạn văn trên?

380
TRẢ LỜ I

Câu 1:
Tư tưởng về đất như là nguồn cội của cuộc sống và nguồn cội của hạnh phúc
là tư tưởng chủ đạo của đoạn văn trên.
Câu 2:
Nêu cao ý chí quyết tâm cùng nghị lực mạnh mẽ của con người sẽ làm nên
tất cả cho cuộc sông và hạnh phúc. Quả thật: “Bàn tay ta làm nên tất cả. Có
sức người sỏi đá cũng thành cơm”. (Hoàng Trung Thông)
Câu 3:
Từ ngữ đã làm nên ý nghĩa giá trị của đoạn văn trên là từ: “đã” được lặp đi
lặp lại rât nhiều lần kết hợp với những hình ảnh hiện thực liệt kê khác nhau
đă cho chúng ta thâV được ý chí, nghị lực, sức sông mạnh mẽ, sự quyết tâm
của con người trong lao động miệt mài cùng với hai bàn tay, khôi óc đã làm
thay dổi môi trường thiên nhiên để đem lại cuộc sông và hạnh phúc tôl dẹp
cho con người.
* Hàng loạt hình ảnh tiêu biểu mà đoạn văn trên thể hiện:
- “Đã lao tác trên đất đai”
- “Đã phát quang bụi rậm”
- “Đã cày bừa và gieo trồng”
- “Đã vác đá, đã đốn gỗ, đã làm nhà”
- “Đã lấy vợ và sinh con”
- “Đã xây dựng nên một trang trại trù phú”

II. PHẦN LÀM VĂN; (7đ)


A. PHẦN NGHỊ LUẬN XẢ HỘI: (3đ)______________________________________
Để bài: Anh (chị) hiểu th ế nào là “văn hóa ứng xử”?
Trước thực trạ n g xã hội h iện nay, “văn hóa ứ n g x ử ” có còn th ể
h iện tro n g cuộc sống củ a ch ú n g ta hay không? A nh (chị) hãy vận
d ụ n g lí lẽ và dẫ n ch ứ n g trong thực tê d ể làm sá n g tỏ.

+ N hững k iến th ứ c c ầ n nắm :


1. Lời cổ nhân có nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”. (Lời cố nhân).
2. Lời người xưa có nói: “Ẩn xem nồi, ngồi xem hướng”. (Lời người xưa).
3. Lời cổ nhân có nói: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. (Lời cổ nhân).
4. Lời cổ nhân có nói; “ôn cố nhi tri tân”. (Lời cổ nhân).
5. Khổng Tử có nói; “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. (Khổng Tử).
6. Có ý kiến cho rằng: “Đánh mất lòng tự trọng chỉ là cái chết tâm hồn”.
381
7. Lời cổ nhân có nói: “Bần tiện bất năng di; Phú quý bất năng dâm; Uy vũ bất
năng khuất”. (Lời cổ nhân).
8. Lời người xưa có nói; “Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”. (Lời người xưa).
9. Lời người xưa có nói: “Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau”. (Lời người xưa).
10. Lời người xưa có nói: “Nghèo cho sạch rách cho thơm”. (Lời người xưa).
11. Có ý kiến rằng: “Lối sống ích kỉ, xem thường người khác là lối sống phi văn
hóa”. (Lời nhận định).
12. Có lời nhận định rằng: “Văn hóa là những gì còn sót lại, sau khi người ta
quèn tất cả”. (Lời nhận định).
13. Những quy luật trong cuộc sông thể hiện nét văn hóa;
- Làm điều gì sai thì phải biết xin lỗi
- Nhận cái gì của ai thì phải biết cám ơn
- Có hành động xấu thì phải biết hố’ thẹn...
14. Những dẫn chứng nói lên hành động phi văn hóa:
- Triển lãm hội chợ Hoa anh đào tại Hà Nội, sau đó người đi xem đã bẻ
cành, giành giật nhau, đạp gãy...
- Một người đi xe gắn máy làm rơi giỏ đựng tiền xuống đường, tiền văng vãi
ra đường, những người xung quanh tranh nhau lượm bỏ vào túi rồi lặng lẽ đi
về mỗi phía.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI:
“Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
(Lời người xưa)
Thật sự: “Làm điều gì sai thì phải biết xin lỗi. Nhận của ai cái gì thì phải
biết cảm ơn...” là thể hiện nét văn hóa, văn hóa ứng xử. Vậy thế nào là văn
hóa ứng xijf? Văn hóa ứng xử thể hiện trong cuộc sống của chúng ta hiện nay là
những vấn đề gì? Tác dụng của nó ra sao? Làm thế nào để gìn giữ phát huy
văn hóa ứng xử trong mỗi con người? Hàng loạt những lời hỏi có giá trị thiết
thực cho con người trước cuộc sống. Chúng ta cần giải thích và bình luận để
làm sáng tỏ.

II. PHẦN THÂN BÀI:


1. Thế nào là “văn hóa ứng xử ”?
Trong cuộc sông phải cần có mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con
người, con người với cộng đồng, tập thể được thể hiện từ cách ăn mặc, đi đứng,
nói năng, làm việc, học tập,... làm thế nào cho đúng cách, cho phù hợp đem lại

382
sự hài hòa thân thiện là biểu hiện nét đẹp văn hóa là văn hóa ứng xử. Muôn có
văn hóa ứng xử, con người phải được giáo dục kỹ lưỡng từ trong gia đình về
cách sông, lôì sông, phải có tình yêu thương, có tinh thần trách nhiệm với bản
thân, cộng đồng, xã hội, phải có lòng tự trọng, phải biết xấu hổ những điều sai
trái do mình tạo ra đó là cô"t lõi, giá trị đích thực của con người mà thời nào
cũng phải đặt ra và tự hoàn thiện trong cuộc sông.
2. Văn hóa ứng xử th ể hiện trong cuộc sông chúng ta hiện nay là
những vân đề gì? T ác dụng của nó ra sao?
Điển hình như không được vứt rác bừa bãi, không được làm ngơ khi có người
cần giúp đỡ, không được nói lớn khi trong nhà có khách hay người lớn đang nói
chuyện, không được quên nói câu cảm ơn khi được giúp đỡ, không được quên
nói câu xin lỗi khi làm sai, không được bỏ bê công việc cần phải làm và đã
nhận làm, không được lấy những gì không phải là của mình, không được làm
những gì luật pháp không cho phép... Tất cả phải luôn trau dồi để trở thành
một nếp Sống, nếp nghĩ đúng đắn, như thế mới gọi là giá trị văn hóa, con người
có vàn hóa.
Chúng ta cần phải hiểu rằng, các giá trị khác như: tiền bạc, chức vụ, danh
tiếng, sắc đẹp, không phải là giá trị văn hóa mà thuộc về giá trị vật chất hữu
hình vì “Văn hóa là những gì còn sót lại sau khi người ta quên tất cả” đó mới
là chuẩn mực đạo đức, phẩm chất đạo đức là văn hóa sống, văn hóa người tiêu
biểu là nhân vật bà Hiền trong tác phẩm “Người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn
Khải là người ứng xử có văn hóa, không phải gió chiều nào theo chiều nấy, trở
thành kẻ xu nịnh tha hóa biến chất tự đánh mất chính mình.
Tác d ụ n g củ a văn hóa ứ n g x ử trong cuộc sống?
“Văn hóa ứng xử” khi đã thành nếp sống quy củ, thành một quán tính thì dễ
thích nghi, hòa nhập trước cuộc sống, đi đến đâu cũng được mọi người yêu mến
kể cả đi ra nước ngoài cũng dễ dàng hòa nhập với môi trường văn minh, cảm
thấy tự tin. Một quốc gia, một đất nước khi văn hóa ứng xử được quan tâm, chú
trọng, đề cao cùng với sự tàng trưởng kinh tế của đất nước thì sự phát triển của
quô'c gia đó mới bền vững. Nếu có sự tăng trưởng về kinh tế của đất nước mà
không có một nền văn hóa ứng xử đúng mực, xem nhẹ, coi thường thì quốc gia
đó, đất nước đó sẽ bị suy thoái, lệ thuộc và đi đến chỗ diệt vong.
3. Trước thực trạn g x ã hội hiện nay, văn hóa ứng xử có còn th ể hiện
trong cu ộc sông củ a chúng ta hay không?
Nhìn lại thực trạng xã hội hiện nay, văn hóa ứng xử vẫn còn thể hiện trong
cuộc sống của chúng ta nhưng rất mờ nhạt, không còn mang một nếp sống, một
nếp nghĩ có giá trị chuẩn mực về đạo đức, không còn được phổ biến sâu rộng, đi
đâu chúng ta vẫn nghe lời than vãn: tại sao con người ngày nay lại ứng xử với
nhau như thế? Tại sao con người ngày nay phải đôi xử tàn nhẫn, thủ đoạn như

383
thế? Tại sao con người ngày nay không còn nét văn hóa thanh lịch như ngày
xưa? Và hàng loạt tình cảnh đau thương đầy phẫn nộ, bức xúc xảy ra hàng
ngày trong cuộc sông hiện nay như: con giết cha, giết mẹ, cháu giết ông, giết
bà, vợ giết chồng, chồng chặt vỢ thành khúc bỏ vào bao bô' phi tang... tại sao
con người lại hành động dã man rùng rợn đầy thú tính như thế? Tại sao con
người lại phá hoại, hủy diệt môi trường thiên nhiên mà chúng ta đang sống?
nào phá rừng, đốt rừng trở thành tên lâm tặc đáng nguyền rủa. Tại sao có
những điều đơn giản nhât như xin lỗi khi làm sai hay nhận của ai cái gì không
biết dùng lời lẽ cảm ơn mà phớt lờ như không có gì xảy ra? Tại sao con người
vì sự khoái khẩu mà phải tàn sát những loài động vật hoang dã quý hiếm như
thế? Thế giới đã lên án kịch liệt về hành động giết hại, hủy diệt các loại động
vật của người Việt chúng ta hiện nay thật là đáng xâu hổ. Chứng tỏ con người
của chúng ta hiện nay đã suy thoái về đạo đức, tha hóa, biến chất. Phải chăng,
cuộc sống thực dụng được đề cao, giá trị vật chất, tiền bạc được trọng dụng đã
biến con người thành một thứ rô bô't lạnh lùng, vô cảm như một cỗ máy. Chứng
tỏ văn hóa ứng xử trong xã hội ngày nay đã mất dần, đã đến mức báo động,
đáng sợ.
4. Vậy làm th ế nào để gìn giữ, bảo vệ, phát huy văn hóa ứng xử trong
mỗi con người củ a chúng ta hiện nay?
Nói đến văn hóa ứng xử là nói đến sự chuẩn mực về đạo đức, phẩm chất đạo đức
làm cho đời sống chúng ta thêm phong phú cuộc sống được thăng hoa, có ý nghĩa.
Vì vậy, mỗi chúng ta phải luôn luôn trau dồi để trở thành một nếp sống, một nếp
nghĩ đúng đắn mà “mỗi người cần phải có một cái tâm và phải có một chữ nhẫn”
thì mới gìn giữ, bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa, con người có văn hóa.
Liên hệ: Cuộc sống hiện đại ngày nay sẽ mang lại nhiều điều mới mẻ, hấp
dẫn, làm thăng hoa cho cuộc sông nhưng cũng kéo theo nhiều thứ độc hại và có
những thứ đã xâm hại nét văn hóa của con người. Và chúng ta phải có một
nhận thức rõ ràng, đúng đắn đâu là những “giá trị văn hóa đích thực” và đâu là
những “giá trị phi vàn hóa”. Nhận thức được điều đó, chúng ta sẽ xác định cho
mình một thái độ đúng đắn, phù hợp trước cuộc sống. Cái gì cần phải học tập,
noi theo phát huy gìn giữ và điều gì cần phải bài trừ, phê phán, lên án. Chúng
ta phải luôn luôn ý thức hướng đến giá trị văn hóa loài người, những tinh hoa
văn hóa của nhân loại, phải biết: “ôn cô' nhi tri tân” phải ra sức học tập, nâng
cao trình độ hiểu biết đế' chủ động trong công việc ứng xử đúng mực với mọi
người, cộng đồng xã hội, phải đối nhân xử thê khéo léo, tế nhị, tâm lý với mọi
người xung quanh nhằm tạo niềm tin, sự thân thiện yêu mến của người khác,
những người xung quanh mình là thể hiện nét “văn hóa ứng xử” chính là người
có văn hóa.

384
III. PHÂN K ẼT BÀI
“Văn hóa ứng xử” là một đề bài rất hay, là bài học quý báu của mọi người
của mọi thời đại. Văn hóa ứng xử là cái gốc của con người là giá trị chuẩn mực
về đạo đức, là thước đo nhân cách con người, đó là văn hóa sống, văn hóa người
là nhân tố quan trọng quyết định cho sự phát triển bền vững của xã hội, sự văn
minh giàu đẹp cho đất nước.

B. PHẦN NGHỊ LUẬN VÁN HỌC: (4đ)

Để bài: Anh (chị) đọc đoạn văn trích dưới đây tron g truyện ngắn
“Vợ N h ặ t” củ a nhà văn Kim Lân:
H ắn g iư ơ n g mắt n h ìn thị, k h ông hiểu. Thật ra lúc ấy hắn
c ủ n g ch ư a n h ận ra thị là ai. Hôm nay thị rá ch quá, áo quần tả
tơi n h ư tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn m ặt lưỡi cày
xám xịt ch ỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy, leo lẻo cái mồm h ẹn xuống, thê m à mất mặt.
À, h ắn n h ớ ra rồi, hắn toét m iệng cười.
- Chả hôm ấy thi hôm nay vậy. Này h ẵ n g ngồi x u ố n g ăn m iếng
g iầ u đă.
- Có ăn g ì thi ăn, ch ả ăn giầu.
Thị vẫn đ ứ n g cong cớn trước mặt hắn.
- Dấy, m uốn ăn g ì thì ăn.
H ắn vỗ vào túi.
- R ích hô cu^*^ h ở !
Hai con mắt trũ n g hoáy củ a thị tức thì sá n g lên, thị đon đả:
- Ăn thật n h á ! ừ ăn thi ăn sỢ g ì .
Thê là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầ u ăn một ch ặ p bốn
bát bánh đ ú c liền ch ẳ n g chuyện trò gì. Ă n xo n g thị cầm dọc đôi
đ ũ a quệt n g a n g m iệng, thở:
- Hà, ngon ! v ề chị ấy thấy hụt tiền thi bỏ bô !
H ắn cười.
- Làm đ ếch g ỉ có vỢ. Này nói đù a c h ứ có v ề với tớ thì ra khuân
h à n g lên x e rồi cù n g v ề .
Nói t h ế T rà n g c ủ n g tưởng là nói đùa, ai n g ờ thị về thật. Mới đầu
anh ch à n g củ n g chợn, n g h ĩ: thóc gạo này đ ến cái thân m ình

(*)
Rích bố cu: Tiếng Pháp bồi, ghép từ riche (giàu có) và beaucoup (nhiều): nhiều tiền.

385
cũ n g ch ả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sa u không
biết n g h ĩ thê nào hắn tặc lưỡi một cái:
- Chậc, kệ ỉ
Hôm ấy hắ n đ ư a thị vào ch ợ tỉnh bỏ tiền ra m ua cho thị cái
th ú n g con d ự n g vài th ứ lặt vặt và ra h à n g cơm đ ả nh một bữa
thật no nê rồi cù n g đẩy xe bò về...”
(T rích truyện ngắn “Vợ nhặt - Kim L â n ” sách N g ữ văn 12).
Anh (chị) phân tích phẩm ch ấ t của Thị - người Vợ Nhặt cùng
nhân v ật Tràng. Qua đoạn văn trên , nhà văn muôn gửi đến cho
người đọc những vấn đề gì trước hoàn cảnh củ a d ất nước lúc
bấy giờ? ___ ______________________________________________

+ Những kiến thức cầ n nắm :


1. Tục ngữ có câu: “Một miếng khi đói bàng một gói khi no”. (Tục ngữ).
2. Lời người xưa có nói: “Thương người như thề thương thân”. (Lời người xưa).
3. Có nhận định rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người
là thước đo giá trị nhân cách con người” (Lời nhận định).
4. Có ý kiến rằng: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau khổ của kẻ khác chỉ là thứ
quái vật”. (Lời nhận định)
5. Có lời bày tỏ về nhân vật người Vợ Nhặt: “Bên trong khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt của Thị là một sức sống mạnh mẽ, một khát vọng sổng đẹp”. (Lời bày tỏ)
6. Có lời bày tỏ về nhân vật Tràng: “Bên trong con người thô kệch xấu xí của
Tràng là thể hiện một nhân cách sống đẹp”. (Lời bày tỏ).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU:
“Thương người như thể thương thăn”. (Lời người xưa)
Tình thương là nguyên tắc sông cao nhất của con người qua mọi người thời
đại. Đọc đoạn trích trên trong truyện ngắn “Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân” để
lại trong lòng chúng ta những hình ảnh thật đáng thương, đáng quý về nhân
vật Thị - người Vợ nhặt cùng nhân vật Tràng. Qua đó, nhà vàn muốn gửi đến
cho người đọc những vấn đề gì trước hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ?

II. PHẦN TRỌNG TÂM:


A. Phẩm ch ấ t củ a người “Vợ n h ặ t”:
Thể hiện m ột khát vọng sống chính đáng.
Chi tiết 1: Nạn đói năm 1945, vùng đồng bằng Bắc Bộ phải gánh chịu một
nạn đói vô cùng khủng khiếp, hơn hai triệu con người Việt Nam phải chết vì

386
đói. Xuất phát là do âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp và phát xít Nhật gây
ra. Đứng trước cái đói, nhà văn đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ nông thôn
có tên gọi là Thị với: “áo quần tả tơi như tố đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Phải chăng, vì đói, vì
muốn được sống Thị không còn ý tứ, e dè gì cả, chỉ qua một lời nói của một
người đàn ông tôt bụng (Tràng), anh nói: “Muốn ăn gì thì ăn” liền tức khắc:
“Thị ngồi sà xuống, ăn thật”. “Thị cắm đầu ăn một chặp bôn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì” không cần biết xung quanh mình có ai. Tại sao một người
phụ nữ nông thôn chân quê, mộc mạc lại sỗ sàng trơ trẽn đến như thế? Xuất
phát từ cái đói, nguyên nhân vì đói và muôn được ăn, Thị không còn e dè ngại
ngùng, xấu hổ gì cả, miễn làm sao là được có cái ăn cho qua cơn đói, Thị bâ't
chấp tất cả là thể hiện một khát vọng sống, để được sống là phẩm chất đáng
thương lẫn đáng quý của Thị. Chúng ta còn nhớ truyện ngụ ngôn của Pháp có
tựa đề: “Cái chết và lão tiều phu” (La mort et le bucheron) của La-phông-ten,
cũng thể hiện một khát vọng sông như thế.
Chi tiết 2: Người Vợ nhặt vẫn hiểu rằng, vì đói, vì muôn được sống Thị đã
theo không về làm vợ một người đàn ông chỉ gặp có hai lần thoáng qua, Thị
không hiểu về gia cảnh của người ây, không biết họ thế nào! Nhưng Thị đã
mạnh dạn theo về làm vợ từ một câu nói đùa của người đàn ống tốt bụng:
“Này nói đùa, chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Một điều
hết sức ngạc nhiên: tại sao một câu nói đùa và trong thâm tâm Thị cũng hiểu,
cũng biết đó là câu nói đùa nhưng tại sao Thị đã hành động thật, “Thị về thật”?
Xét cho tận cùng con người của Thị lúc ây, chẳng qua vì cái đói , cái chết như
đang bủa vây và Thị đã hành động thật, Thị theo không về làm vợ Tràng như
muốn tự cứu mình như tìm được chỗ dựa, tìm được cái phao để tìm lấy sự sống.
Thị biết đó là hành động trơ trẽn là điều xấu hố nhưng Thị bất chấp kế cả
đánh mất lòng tự trọng cùng điều thị phi của người đời. Chứng tỏ Thị đã vượt
lên tất cả để tìm đến sự sống, được sống là một suy nghĩ tích cực, một hành
động táo bạo rất con người xuất phát từ sức sống mạnh mẽ tiềm tàng trong con
người của Thị là một phẩm chất đáng quý thấm đẫm tính nhân văn. Quả thật:
“Bên trong khuôn mặt lưỡi cày xám xịt của Thị là một sức sống mạnh mẽ, một
khát vọng sống đẹp”.
B. Phẩm ch â t củ a nhân v ật Tràng:
1. Thế hiện m ột tâm lòng nhân hậu:
Nghĩ về nhân vật Tràng cũng thuộc dân cùng dinh, nghèo khổ trong Xóm
ngụ cư: “Ngày nào có việc thì mới có cái ăn, ngày nào không việc thì mẹ con
cùng chịu đói.” Rồi cái dói, cái chết luôn luôn đe dọa rình rập sinh mạng con
người. Nhưng đẹp thay, Tràng vẫn có tấm lòng thương người, thương người
hoạn nạn và anh đã tự nguyện chia sẻ người đàn bà mà Tràng chỉ gặp có hai
lần trong khoảnh khắc, không bà con thân thích nhưng anh sẵn sàng dành cho

387
Thị bốn bát bánh đúc trước cơn đói là thể hiện tấm lòng tô't của anh. Anh đã
không quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác, Tràng đã chia sẻ trước cái đói của
họ dù biết rằng, Tràng cũng nghèo khốn khó, không hơn gì họ, đặc biệt trước
tình huông ấy: “Tràng vỗ vỗ vào túi” và nói: “Rích bố cu” là anh muôn nói với
Thị, anh có tiền nhiều, cứ ăn đi, đừng ngại gì cả là thể hiện một tấm lòng đến
với một tấm lòng, tấm lòng của những con người nghèo khổ nhưng vẫn yêu
thương chia sẻ lúc hoạn nạn là phẩm chất đẹp trong tâm hồn Tràng, một con
người nhân hậu.
2. Khao khát một m ái gia đình riêng:
- Nhà văn đã xây dựng một tình huôhg đầy kịch tính, sông động, hiện thực
giữa hai con người xa lạ nhưng cuôl cùng họ lại đến với nhau thật tình cờ, ngẫu
nhiên nhưng rất thật, rất con người. Xuất phát từ câu nói đùa của Tràng: “Này
nói đùa, chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Không ngờ câu
nói đùa của Tràng, người phụ nữ mà Tràng vừa dành cho bốn bát bánh .đúc, Thị
đã hành động thật, “Về thật”. Lúc ấy, Tràng hơi bất ngờ, lúng túng trước hành
động táo bạo của Thị, Tràng: “cũng chọn” có nghĩa là trong thâm tâm của anh
cũng lo lắng trước cuộc sống mà cái đói, cái chết đang đe dọa rình rập. Tràng
nghĩ, nếu Thị theo mình về thì lấy gì mà nuôi: “thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chẳ biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Đây là dòng suy nghĩ
rất thật, rất chính đáng của một người đàn ông tôt bụng như Tràng. Nhưng rồi,
dòng suy nghĩ lo lắng bỗng vụt tắt, tan biến và khơi dậy trong tâm hồn anh
một suy nghĩ mới, một cái nhìn mới đã hiện hình rồi Tràng: “tặc lưỡi một cái”
với hai tiếng: “chậc, kệ !”. Chỉ có hai từ ngắn gọn (chậc, kệ) là biểu hiện một
quyết định táo bạo, một hành động dũng cảm của Tràng và cuôl cCỉng Tràng đã
mở rộng cánh cửa của trái tim và dang dôi cánh tay của anh để đón nhận người
phụ nữ kia theo Tràng cùng về với gia đình là thể hiện niềm khao khát một
mái ấm, một hạnh phúc nhỏ nhoi bình dị như bao người đàn ông khác cũng
chính là lúc Tràng đã vượt lên mọi khắc nghiệt của hoàn cảnh, vượt lên trên cả
cái đói, cái chết để được có một tổ ấm, một mái gia đình là thể hiện sức sống
tiềm tàng mãnh liệt, một nghị lực sông mạnh mẽ là phẩm chất đẹp của tâm
hồn Tràng. Vì Tràng không vì hoàn cảnh khôn khó, nghiệt ngã mà tự hủy diệt
niềm khát vọng sông chính đáng của anh. Quả thật: “Bên trong con người thô
kệch xấu xí của Tràng là thể hiện một nhân cách sông đẹp”.
B. Qua đoạn văn trích , nhà văn muốn gửi dến cho ngưởi đọc những
vân đề gì?:
- Từ nạn đói năm 1945, làm cho con người tàn tạ, xác xơ, xót xa, thương
cảm qua hình ảnh người “Vợ Nhặt”, nhưng họ vẫn tìm mọi cách để được sống
dù phải đánh mất lòng tự trọng, thị phi của người đời càng thể hiện khát vọng
sống, khát vọng chính đáng của con người thật là đáng quý, qua đó thấy được

388
âm mưu thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp và phát xít Nhật đối với nhân
dân ta lúc bấy giờ.
- Trước nạn đói hoành hành, cái chết luôn luôn đe dọa rình rập, những
người lao động nghèo họ vẫn yêu thương, chia sẻ, đùm bọc: “Lá rách biết đùm
lá nát” để cùng sống, cùng hướng đến cuộc sống mới trong niềmrìin yêu cách
mạng. Chứng tỏ nhà văn đã đi sâu vào đời sống nhân vật cùng hòa nhập, chia
sẻ trước nỗi khốn khổ của tầng lớp nhân dân lao động nghèo và tìm thấy ở họ
những phẩm chất đẹp đó là tình người, tình yêu giai cấp cùng khát vọng sống
của con người thấm đẫm tính nhân văn đã làm nên giá trị cho tác phẩm.

II. PHẦN K ẾT BÀI


* v ề n g h ệ thuật
- Đoạn văn miêu tả vừa sinh động, vừa hiện thực. Đi sâu vào đời sống nội
tâm nhân vật, sử dụng từ ngữ thật gần gũi với cuộc sống. Xây dựng tình huống
sống động, kịch tính, lôi cuốn người đọc.
* về nội d u n g
- Thể hiện niềm khao khát được sống, khát vọng sống chính đáng cùng ước
vọng tìm kiếm một mái ấm gia đình, một hạnh phúc đơn sơ bình dị của những
người lao động nghèo thật đáng yêu biết bao.

Đề tuyển sinh 2:
I. PHẦN ĐỌC HIỂU: (3đ)
A. Anh (chị), đọc những đoạn thơ dưới đây và giải thích cá c câu hỏi
sau: (l,5đ )
Con nhớ anh con người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con
Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn ! chưa mất một phong thư
Con nhớ M ế ! lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau Mế thức một mùa dài
Con với Mé không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn dời, con nhớ mãi ơn nuôi.
(Trích bài thơ “Tiếng hát con tàu" của nhà thơ Chế Lan Viên)

389
Câu hỏi:
Câu 1: Đoạn thơ trên thuộc th ể thơ nào? Nhịp thơ có gì đặc biệt.
Câu 2: Ý nghĩa đoạn thơ trên nhằm nêu lên vân để gì? Hãy ghi lại
một câu tụ c ngữ nào dó để làm sáng tỏ ý nghĩa đoạn thơ.
Câu 3: Phong cách củ a đoạn thơ trên.
Câu 4: Đoạn thơ có còn tá c dụng dến mỗi người chúng ta tron g cuộc
sông hiện nay hay không?

TRẢ LỜI
Câu 1:
Đoạn thơ trên trong bài: “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế Lan Viên
thuộc thế thơ tự do, hỗn hợp, nhịp thơ có lức 2-2-4, có lúc 3-2-3... dồn dập, liên
hoàn, hối hả, lôi cuốn người đọc.
Câu 2:
Đoạn thơ trên khắc họa về một thời kháng chiến chông Pháp, khơi dậy
trong lòng nhà thơ bao nỗi nhớ với những hình ảnh khó quên của người dân
Tây Bắc, nào anh du kích thật xúc động, tự hào, nào chú bé liên lạc nhiệt tình
trách nhiệm cùng bà mẹ Tây Bắc một lòng với cách mạng đâu dễ nào quên.
Lời người xưa có nói: “Uống nước nhớ nguồn” hay “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
đã làm sáng tỏ ý nghĩa đoạn thơ trên.
Câu 3:
- Đoạn thơ trên giàu tính triết lí, giàu tính nhân văn sâu sắc kết hợp những
hình ảnh sinh động, hiện thực giàu chất thơ, lời thơ gần gũi với cuộc sông có
sức thuyết phục người đọc.
Câu 4:
- Đoạn thơ vẫn là bài học đáng quý cho mỗi người trong chúng ta hiện nay,
nó giúp cho chúng ta có một nhận thức đúng dắn trong vấn đề chịu ơn và phải
biết nhớ ơn là đạo lí sống của con người vì: “Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Phải không các bạn !
B. Anh (chị), đọc đoạn văn trích dưới đây và trả lời các câu hỏi sau: (l,5đ)
... “Cuộc sông của chúng ta vốn dĩ không hề đơn giản. Những khó khăn
thách thức xảy đến với mỗi người là điều hết sức tự nhiên. Chúng ta không
phải thần thánh để chỉ có tiên đoán và né tránh chúng. Những sai lầm có thể
xảy đến khi lần đầu tiên ta đương đầu với khó khăn và nó có thể tái diễn
nhiều lần. Điều đó có nghĩa, không phải lúc nào chúng ta cũng thành công
ngay lập tức. Nếu sợ sai lầm, bạn sẽ không dám đối diện với khó khăn, thử
thách và như vậy làm sao bạn có thể đi hết con đường của mình? Bạn đành
lòng khước từ cơ hội mới đang đến? Nếu Ê-di-son sợ hãi trước những vụ nổ

390
kinh hoàng ông đã gây ra trong phòng thí nghiệm của mình thì liệu rằng ngày
nay chúng ta có được thừa hưởng những phát minh kì diệu của ông? Nếu những
cầu thủ trên sân bóng luôn bị ám ảnh bởi những trận thua trước đây, liệu rằng
họ có thể lập nên những chiến công, những kỳ tích mới? Nếu cậu học trò sợ
mình tiếp tục thất bại, liệu rằng cậu có thể tự tin thi tiếp một năm nữa để đạt
được ước mơ của mình? (Trích sách tham khảo).

Câu hỏi:
Câu 1: Đoạn văn trê n viết theo thể loại gì? C ách viết th ế nào?
Câu 2: Ý nghĩa của đoạn văn trên nhằm nêu lên vân đề gì? Tác dụng
củ a nó ra sao?
Câu 3: Lời văn nào trong đoạn trích , anh (chị) tâm đắc nhất? Vì sao?
Câu 4; Cám nghĩ của anh (chị) về đoạn văn trên .

TRẢ LỜI
Câu 1:
Đoạn văn viết theo thể vàn nghị luận. Cách viết ngắn gọn, dễ hiểu lí lẽ rất
logic, lập luận vững vàng kết hợp những dẫn chứng tiêu biểu cụ thể đã làm
sáng tỏ ý trọng tâm.
Câu 2:
Y nghĩa của đoạn văn là khuyên chúng ta không nên sợ sai lầm, thất bại mà
do dự né tránh công việc. Phải mạnh dạn, đương đầu dù cho khó khăn thử
thách kể cả sự thâ't bại cũng là những kinh nghiệm thực tiễn quý báu để đạt
đến thành công vì thất bại mới có những kinh nghiệm thiết thực để đi đến
thành công dù cho: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ khó
vì lòng người ngại núi e sông”. Vậy muốn đạt đến thành công hạnh phúc phải
hiện hình từ trong hy sinh gian khổ.
Câu 3:
Lời văn sau đây trong đoạn văn trên mà tôi thích nhất là: “... Nếu sợ sai lầm,
bạn sẽ không dám đối diện với khó khăn thử thách và như vậy làm sao bạn có
thể đi hết con dường của mình?”... Thông qua lời văn trên cho chúng ta một suy
nghĩ là bất cứ công việc gì muốn thực hiện, ngoài năng lực, kinh nghiệm, phải
cần có một ý chí quyết tâm, không ngại khó, không sợ thất bại, sai lầm, dám
làm, dám chịu là chất xúc tác sẽ tạo nên sức mạnh để đi đến thành công.
Câu 4:
Đoạn văn trên tuy ngắn gọn nhưng có một giá trị rất lớn, một bài học quý
báu cho mọi người. Nếu cứ sợ sai lầm phải tránh né, không dám làm, không
dám thực hiện thì làm gì có sự tốt đẹp thành công đem đến cho mình. Cuôì
cùng sẽ bị đào thải theo quy luật phát triển của cuộc sông. Vì cuộc sống hiện
nay mang tính cạnh tranh rất cao. Các bạn ạ !

391
II. PHÂN LÀM VĂN: (7đ)
A. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI: (3đ)

Đề bài: Theo anh (chị) lí tưởng của thanh niên hiện nay là gì? Có
phải khi vào Đoàn (Đoàn Thanh niên Cộng sản) là thực hiện lí
tưởng ấy không? Anh (chị) hãy giải thích để làm sáng tỏ.

+ Những k iến th ứ c c ầ n nắm :


1. Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói; “Không có việc gì khó. Chi sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên”. (Hồ Chí Minh) hay “Đâu cần
thanh niên có. Đâu khó có thanh niên”. (Hồ Chí Minh)
2. Tô" Hữu có viết: “Sống là cho đâu nhận chỉ riêng mình”. (Tô" Hữu)
3. Tục ngữ có câu: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. (Tục ngữ).
4. Xuân Quỳnh có viết: “Làm sao được tan ra. Thành trăm con sóng nhỏ. Giữa
biển lớn tình yêu. Để ngàn năm còn vỗ”. (Xuân Quỳnh)
5. Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Khi chúng ta cầm tay mọi người. Đất nước vẹn
tròn to lớn”. (Nguyễn Khoa Điềm).
6. Nhà tỉ phú Kim Woo Choong (Hàn Quô'c) có nói: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi
đau của người khác và chỉ biết sống hưởng thụ, sung sướng cho riêng mình
đều là những kẻ vô liêm sỉ, đáng khinh”. (Kim Woo Choong)
7. Sống theo lối “mackeno” (Mặc kệ nó).
8. Có ý kiến cho rằng: “Sống vì hạnh phúc cộng đồng vì tha nhân là thể hiện
cách sống đẹp”.
9. Cô" tổng thông Hoa Kỳ Jonh-Kennedy từng nói: “Các bạn đừng hỏi ràng, Tổ
quốc phải làm gì cho các bạn mà các bạn phải tự hỏi rằng, các bạn đã làm
gi cho Tổ quốc hay chưa?”. (Jonh-Kennedy)
10. Có ý kiến cho rằng; “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con
người, thước đo giá trị nhân cách con người”.
11. Có ý kiến rằng: “Mỗi chúng ta phải tự hỏi rằng, sống d ể làm gì và sống
như thế nào đ ể cuộc sống có ý nghĩa?”.
12. Có ý kiến rằng: “Mỗi chúng ta như con ong luôn luôn biết đem hương thơm
mật ngọt đến cho đời”.
13. Có ý kiến rằng: “Ăn đ ể nuôi người, học đ ể nuôi đời”.
14. Nhà thơ Chê" Lan Viên có viết: “Lủ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp.
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con. Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp. Một
mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”. (Chế Lan Viên)

392
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”.
(Chế Lan Viên)
Phải chăng, đó là lôi sông vị kỉ, chỉ biết sông cho nhu cầu bản thân, hưởng
thụ riêng mình mà quay lưng trước nỗi đau của cộng đồng, quê hương, dân tộc
đó là những kẻ sống vô trách nhiệm, lối sôhg “mackeno” phi lí tưởng. Vậy lí
tưởng của thanh niên hiện nay là gì? Có phải gia nhập vào Đoàn - Đoàn thanh
niên cộng sản là thực hiện lí tưởng ấy không?

II. PHẦN THẢN BÀI


1. Trưởc tiên cần phải hiểu về hai chữ “lí tưởng” là gì?
Lí tưởng là việc chưa có thật mà tin rằng sẽ có và hy vọng sẽ đạt đến,
hướng tới mục đích tốt đẹp cho bản thân, cộng đồng quê hương đất nước. Nói
đến hai chữ “lí tưởng” là con đường hướng đến mục đích tốt đẹp cho cái riêng
và cái chung, biếri nhận thức đúng thành hành động đúng để mang lại hiệu quả
nhất định, đem lại giá trị cho bản thân, cộng đồng, xã hội cho sự phát triển
của đất nước là thực hiện lí tưởng.
2. Vậy “lí tưởng” củ a thanh niên hiện nay là gì?
Nói đến lí tưởng của thanh niên hiện nay là phải biết sống tự chủ, phải có
nhận thức đúng đắn trước cuộc sông để tự đưa ra những câu hỏi; “Sống để làm
gì? Sống phải như thế nào, để cuộc sông có ý nghĩa?”. Chúng ta phải hiểu rằng,
con người sinh ra là để sống, để tồn tại hiện hữu trên cuộc đời này nhưng sôhg
không phải để ăn, để mặc chỉ biết hưởng thụ cho cá nhân riêng mình mà phải
hiểu rằng, sông là phải có trách nhiệm, với bản thân, gia đình và xã hội. Phải
biết trau dồi về đạo đức, ý thức về cá nhân, phải có lòng tự trọng, phải sông
trung thực, phải biết bảo vệ thể chất cho khỏe mạnh tráng kiện để có một tinh
thần minh mẫn và luôn luôn trau dồi tri thức, kinh nghiệm trong cuộc sông,
phải có một nhân sinh quan vững vàng, không thể: “Đứng núi này trông núi
nọ”, thiếu lập trường. Phải có một thế giới quan lành mạnh để làm chủ bản
thân, vượt lên chính mình, khẳng định mình để cuộc sống có ý nghĩa như:
“Con ong luôn luôn biết đem hương thơm mật ngọt đến cho đời”. Ngược lại, nếu
thanh niên ngày nay không có những tô" chất trên là tự đánh mất chính mình
là kẻ sống không có lí tưởng, mất định hướng như thuyền không lái, ngựa
không cương, rồi con thuyền sẽ theo gió lênh đênh, nói như nhà thơ Vũ Hoàng
Chương: “Thuyền ơi thuyền ! Theo gió hãy lênh đênh”. Kẻ sông không có lí
393
tưởng là sông buông thả trước cuộc sống trần tục, ái dục, rượu chè, cờ bạc kể cả
ma túy. Ngày nay một số thanh niên rơi vào cuộc sông như thế, không phải là
ít. Bên cạnh đó còn có một cuộc sông, lôi sống thực dụng, một nhân sinh quan
vị kỉ chỉ biết: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp. Một mái nhà yên rủ bóng
xuống tâm hồn” là sống theo lôi “mackeno”, “đèn nhà ai nấy sáng”, “sông chết
mặc bay” chỉ biết sông hưởng thụ, sung sướng cho riêng mình. Thật là đáng
phê phán, đúng như lời nhận định của nhà tỉ phú Hàn Quôc (Kim Woo Choong)
có nói: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau của người khác và chỉ biết sống hưởng
thụ, sung sướng cho riêng mình đều là những kẻ vô liêm sỉ, đáng khinh”. (Kim
Woo Choong)
3. Như vậy khi người thanh niên vào Đoàn, gia nhập Đoàn Thanh niên
Cộng sản là thực hiện “lí tưởng” ấy không?
Thật sự, Đoàn là một tổ chức của Đảng, kết nạp những thanh niên có phẩm
chất đạo đức tôt, ý thức về cách mạng về quan điềm chính trị đúng đắn là cơ sở
môi trường cho những đoàn viên thực hiện những vấn đề của xã hội của đất
nước, làm sao phát triển tốt đẹp, hướng đến sự văn minh công bằng, tự do, dân
chủ. Quả thật, khi vào Đoàn là con đường đi đúng hướng nhưng điều quan
trọng người thanh niên gia nhập vào Đoàn có mang một mục dích, một lí tưởng
trong sáng hay không? Vào Đoàn là để trở thành một đoàn viên tốt, có phẩm
chất đạo đức, có năng lực và biết vận dụng tài năng, tâm huyết của tuổi trẻ để
phục vụ cho cộng đồng, phải biết san sẻ tình yêu thương đồng loại, phải biết:
“Làm sao được tan ra, giữa biển lớn tinh yêu” giữa biến lớn cuộc đời góp phần
cho cuộc sống tôt đẹp và; “Phải biết cầm tay mọi người” nối thành vòng tay
lớn, làm sao cho bầu trời vẫn xanh, dòng sông vẫn trong lành, môi trường sống
lành mạnh... biến nhận thức thành hành động cụ thể, phải biết “sống vì mọi
người” và đem lại giá trị thiết thực có hiệu quả cho xã hội là thực hiện lí tưởng
sống đẹp của thanh niên, khẳng định chính mình trước cuộc sống.
Ngược lại, thanh niên vào Đoàn - Đoàn Thanh niên Cộng sản nhưng với
một mục đích không đúng đắn là tham gia vào Đoàn, kết nạp Đoàn là để thực
hiện cho một mục đích vì quyền lợi bản thân, cá nhân, là con đường để tiến
thân, mưu cầu tự thân cho riêng mình thì đó là phi lí tưởng, phi văn hóa, là kẻ
sống dựa vào tha lực để tạo chỗ đứng, uy quyền nhằm hưởng lợi, trục lợi là kẻ
sông cơ hội cần phải phê phán lên án triệt để.

III. PHẦN KẾT BÀI


- Đề bài trên là bài học quý báu để mọi người chúng ta là những lớp thanh
niên trẻ phải chọn cho mình lí tưởng sông đúng đắn, một nhân sinh quan vững
vàng, một thế giới quan lành mạnh, không vì lợi ích mưu cầu cá nhân tầm
thường, vị kỉ mà đánh mất chính mình.

394
- Gia nhập vào Đoàn là để thực hiện lí tưởng sông đẹp “Sống là cho đâu
nhận chỉ riêng mình”. Nếu kẻ nào tham gia vào Đoàn vì mục đích cá nhân, tìm
danh phận bât chấp danh dự là kẻ sống cơ hội đáng lên án. Vì các bạn nên nhớ
rằng, Tổ quôc là máu xương của mình. Vì thế: “Các bạn đừng hỏi rằng, Tổ quôc
phải làm gì cho các bạn mà các bạn phải tự hỏi rằng, các bạn đã làm gì cho Tổ
quốc hay chưa?”. (Jonh-Kennedy).

B. Phần nghị luận văn học: (4đ)

Đề bài: Có ý kiến rằ n g ; “B ả n Tuyên ngôn Độc lập c ủ a tác g iả


H ồ C h í Minh th ể hiện nét dộc dáo, sáng tạo, khéo léo, giàu tính trí
tuệ cù n g sự am hiểu sâu rộng về tình hình thê giới kết hỢp n h ữn g
bằng ch ứ n g cụ th ể tiêu biểu làm nên giá trị cho tác phẩm . ”
Anh (chị) vận dụng Bản Tuyên ngôn Dộc lập qua ngòi bút của tác
giả Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Những vân đề chính củ a đề bàỉ cần nắm:


-I-

- Nét độc đáo, sáng tạo, khéo léo giàu tính trí tuệ là: Phần mở đầu tác giả
giới thiệu hai Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 nhằm khẳng định tự do độc lập
của dân tộc ta vừa mới giành được là chân lý, lẽ phải.
- Sự am hiểu sâu rộng về tình hình thế giới là: Đưa hai hội nghị ở Tê-hê-răng
- Iran năm 1943 và hội nghị Cựu Kim Sơn - Mỹ năm 1945 buộc Đồng minh
phải thừa nhận nền tự do, độc lập của dân tộc ta vừa mới giành được.
- Những bằng chứng cụ thể tiêu biểu như:
+ Về chính trị...
+ Về kinh tế...
+ Về những sự kiện lịch sử nhằm tô cáo tội ác, thủ đoạn thâm độc của
thực dân Pháp và phát xít Nhật trên đâ't nước ta như: Mùa thu năm 1940, phát
xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh. Ngày
9/3/1945, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp.

+ Những kiên thức cầ n nắm :


1. Hồ Chủ tịch có nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. (Hồ Chí Minh)
2. Nhà thơ Tố Hữu có viết; “Tự do đã nở hoa hồng. Trên dòng máu dỏ, trên
đồng Việt Nam”. (Tô Hữu).
3. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ có ghi: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền hình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
dược; trong những quyền ấy, có quyền được sổng, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”, (trích Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ - 1776).

395
4. Bản Tuyển ngôn Nhăn quyền và Dân quyền của Pháp có ghi: “Người ta sinh
ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bỉnh
đẳng về quyền lợi”, (trích Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp - 1791).
5. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam có ghi: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dãn tộc nào củng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. (Hồ Chí Minh - 1945).
6. Mùa thu năm 1940 Pháp mở cửa rước Nhật vào nước ta.
7. Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp, Pháp đầu hàng.
8. Tội ác của Pháp:
- Về chính trị...
- về kinh tế...
- Giết các tù nhân chính trị của ta tại Yên Bái và Cao Bằng khi chúng
tháo chạy.
9. Hai hội nghị:
- Têhêrăng (Iran - 1943)
- Cựu Kim Sơn (Mỹ - 1945)
10. Giáo sư Nhật Shingo-Shibata có nhận định: “Cống hiến nổi tiếng của cụ
Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đã biết vận dụng quyền lợi của con người
thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, các dân tộc đều có quyền tự quyết
định vận mệnh của mình”. (Shingo-Shibata).

HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU:
“Độc lập, tự do là khát vọng chính đáng tối thượng của mỗi dân tộc qua mọi
thời đại”. (Lời nhận định)
Đúng vậy ! Hơn 80 năm qua, dân tộc ta đứng lên tranh đấu nhằm mục đích
giành lại độc lập, tự do mà thực dân Pháp cùng phát xít Nhật đã cướp đoạt.
Ngày 19-8-1945, nhân dân ta đứng lên cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 02-09-1945, Chiỉ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đọc Bản Tuyên ngôn
Độc lập tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội trước hàng vạn nhân dân thủ đô
nhằm tuyên bố nền tự do, độc lập của dân tộc ta đã giành lại được và mở ra
một kỉ nguyên mới từ nô lệ sang tự do.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của tác giả Hồ Chí Minh đã có ý kiến cho rằng:
“Bản Tuyên ngôn Độc lập thề hiện nét độc đáo, sáng tạo, khéo léo, giàu tinh trí
tuệ cùng sự am hiểu sâu rộng về tình hình thế giới kết hợp những bằng chứng
cụ thể tiêu biểu đã làm nên giá trị cho tác phẩm”.

396
c ầ n đi sâu tìm hiểu về nội dung Bản Tuyên ngôn Độc lập của tác giả
Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ ý kiến trên.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


Ý 1. Nét độc đáo, sáng tạo, giàu tính trí tuệ qua nét bút của Hồ Chí Minh
làm nên giá trị cho Bản Tuyên ngôn được thể hiện như thế nào?
- Phần mở đầu của Bản Tuyên ngôn, tác giả đã giới thiệu hai Bản tuyên
ngôn của Mỹ năm 1776 và của Pháp năm 1791. Bản tuyên ngôn của Mỹ có ghi:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (trích Bản Tuyên ngôn Độc
lập của Mỹ - 1776) và Bản Tuyên ngôn của Pháp có ghi: “Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”, (trích Bần Tuyên ngôn Nhân quyển và Dân quyền của Pháp -
1791). Đây là hai Bản tuyên ngôn có giá trị và lâu đời nhất nhằm đề cao tính
ưu việt của con người, không phân biệt màu da, tôn giáo, chủng tộc, nước nhỏ
hay nước lớn. Nội dung hai bản tuyên ngôn nêu ra là tôn trọng quyền con
người, con người được tự do, bình đẳng, sung sướng, hạnh phúc không một ai
xâm phạm. Như vậy, các quyền đã nêu trên như một luận chứng không ai phủ
nhận được. Qua đó, tác giả khéo léo, đưa ra một ý tưởng thật mới, thật tiến bộ,
giàu tính nhân văn, nội dung có ghi: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình dẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. (Trích Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam - 1945). Nội dung Bản
Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã nêu lên quyền con người là tối thượng, ưu
việt từ hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp. Nhưng tác giả đã khéo léo chuyển
sang một ý tưởng mới, một cái nhìn mới là quyền lợi con người được thay bằng
quyền lợi dân tộc. Vì thế các dân tộc trên thế giới cũng có quyền sông, quyền
sung sướng và quyền tự do. Và hơn 80 năm qua, dân tộc Việt Nam đã đứng lên
đấu tranh dưới mọi hình thức cũng là mục đích đế dân tộc Việt Nam giành lại
*tự do độc lập là giành lại quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do cho dân
tộc mình mà từ lâu đã bị cướp đoạt từ tạy thực dân Pháp và phát xít Nhật.
* N hận xét ý 1: Chứng tỏ ngòi bút của Hồ Chí Minh đã vận dụng khéo léo,
sáng tạo, tài tình, giàu tính trí tuệ, tính luận chiến cùng lời lẽ hùng hồn, lập
luận vững chắc là cơ sở pháp lý, là luận chứng nhằm khẳng định trước nhân
dân và thế giới hiểu rằng, cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do của dân tộc
Việt Nam hơn 80 năm qua là cuộc đấu tranh có chính nghĩa, có chân lý là lẽ
phải không aiicó thể phủ nhận được. Đây cũng là cách đặt vấn đề thật logic,
thật tài tình, giàu tính trí tuệ qua ngòi bút của Hồ Chí‘Minh đã làm nên giá trị
cho. tác phẩm.
Ý 2. Sự am hiểu sâu rộng về tình hình thê giới qua ngòi bút của
Hồ Chí Minh trong Bản Tuyên ngôn Độc lập đưỢc thể hiện như thê nào?
Tác giả đưa vào Bản tuyên ngôn là thông qua hai hội nghị Têhêrăng ở Iran
vào năm 1943 và Hội Nghị Cựu Kim Sơn ở Mỹ vào năm 1945. Hai hội nghị
này, Đồng minh đã công nhận nguyên tắc, quyền bình đẳng của các dân tộc
trên thế giới là để chứng tỏ rằng, dân tộc Việt Nam đã giành lại được tự do và
độc lập từ tay phát xít Nhật chính là giành lại quyền bình đẳng cho dân tộc
mình cũng là điều hợp với lẽ phải mà Đồng minh đã công nhận thông qua hai
hội nghị trên.
Đồng thời, suô't bao nhiêu năm qua, dân tộc Việt Nam đã đứng về phía Đồng
minh cùng chông lại phát xít Nhật, nay Nhật đầu hàng thì không có lý do gì
Đồng minh không thừa nhận nền tự do độc lập của dân tộc ta vừa mới giành
được. Đây cũng là bằng chứng cụ thể, chính xác đế’ buộc Đồng minh phải thừa
nhận quyền tự do độc lập của nhân dân ta vừa mới giành được.
* N hận xét ỷ 2: Chính sự am hiểu sâu rộng về tình hình thế giới được kết
hợp khéo léo tài tình qua ngòi bút của Hồ Chí Minh đã làm nên giá trị của Bản
tuyên ngôn.
Ý 3. Những bằng chứng cụ thể cùng những sự kiện lịch sử nào qua
ngòi bút của Hồ Chí Minh đã làm nên giá trị cho Bản tuyên ngôn?
Tác giả nêu lên những bằng chứng cụ thể như:
- về ch ín h trị: Thực dân Pháp chia nước ta làm 3 miền Trung, Nam, Bắc
đế dễ bề cai trị, xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học, đầu độc thê hệ trẻ
bằng rượu cồn và thuôc phiện...
- Về' kinh tế: Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, độc quyền
xuất cảng, nhập cảng, in giấy bạc, đưa ra hàng trăm thứ thuế nhằm vạch trần
tội ác của thực dân Pháp trước nhân dân ta và thế giới. Đồng thời, lên án “thực
dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng bác ái”, khai hóa văn minh đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta, nhằm tạo sự căm thù trong nhân dân.
Tác giả còn nêu lên những sự kiện lịch sử như: Mùa thu năm 1940, Pháp mở
cửa rước Nhật vào nước ta, nhân dân ta phải chịu một cổ hai tròng và ngày 9-
3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp đầu hàng bỏ chạy. Chứng tỏ nhân dân ta
đã đứng lên đấu tranh giành lại tự do độc lập từ tay phát xít Nhật, không phải
từ thực dân Pháp. Qua đó, nhằm đập tan âm mưu đê hèn của thực dân Pháp
đang có ý đồ lăm le trở lại chiếm nước ta qua lời rêu rao xảo quyệt của chúng
như: “Đông Dương là đất bảo hộ của Pháp, Nhật chiếm dóng, nay Nhật dầu
hàng thi Đông Dương đương nhiên phải thuộc quyền bảo hộ của người Pháp”.
* N hận xét ý 3: Tất cả những dẫn chứng tiêu biếu, chính xác kết hợp những
sự kiện lịch sử cụ thể, lập luận vững vàng, lời văn ngắn gọn, hùng hồn đanh
thép cùng sự am hiểu sâu rộng của tác giả đã mang lại tính thuyết phục cao

398
làm nên giá trị cho Bản tuyên ngôn. Đúng như ý kiến của đề bài: “Bản Tuyên
ngôn độc lập của tác giả Hồ Chí Minh thể hiện nét độc đáo, sáng tạo, khéo léo,
giàu tính trí tuệ cùng sự am hiểu sâu rộng về tinh hình thế giới kết hợp những
bằng chứng cụ thể tiểu biểu làm nên giá trị cho tác phẩm.”

II. PHẦN KẾT BÀI


- Bản Tuyên ngôn Độc lập của tác giả Hồ Chí Minh là một tác phẩm chính
luận đặc sắc, một tác phẩm mang dấu ấn của thời đại, một văn kiện lịch sử quý
báu là niềm tự hào của dân tộc. Tác giả Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn.

Đề tuyển sình 3:
I. PHẦN ĐỌC HIỂU: (3đ)
A. Đoạn thơ trích tron g bài thơ “Tây T iế n ” củ a nhà thơ Quang Dũng có
viết: (l,5đ)
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
(Trích “Tày Tiến” - Quang Dũng)
Câu hỏi:
Anh (chị) hãy giải thích cá c câu hỏi sau đây:
Câu 1: Nêu lên ý nghĩa nội dung của đoạn thơ.
Câu 2: Nhịp điệu của những vần thơ trên và cách ngắt nhịp như thê
nào? Tác dụng ra sao?
Câu 3: Từ nào tron g đoạn thơ trên là từ “Hán Việt cổ ” và có tác
dụng như thê nào?
Câu 4: Lời thơ nào tron g đoạn thơ trên , anh (chị) tâm đắc nhất?
Vì sao?

TRẢ LỜI
Câu 1:
Đoạn thơ khắc họa cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc từ
đó thấy được ý chí kiên cường, quyết tâm của người lính trẻ trong đoàn quân
Tây Tiến. Họ đã vượt qua mọi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, làm chủ hoàn
cảnh để hoàn thành nhiệm vụ của người lính trong chiến đấu.

399
Câu 2:
Đoạn thơ sử dụng nhịp thơ 2-2-3 đều đặn, nhịp nhàng, trầm bổng tạo cho
người đọc một cảm giác êm ái đầy sức thuyết phục.
Câu 3:
Từ “Hán Việt cổ” trong đoạn thơ là: “biên giới”, “kiều thơm” tạo cho đoạn
thơ toát lên nét truyền thống sâu lắng hấp dẫn người đọc.
Câu 4:
Lời thơ, em tâm đắc nhất trong đoạn thơ trên qua bài thơ “Tây Tiến” của
nhà thơ Quang Dũng là: “Đêm mơ Hà ỉĩội dáng kiều thơm”. Vì lời thơ mang vẻ
đẹp rất thật, rất con người, rất tự nhiê.i theo quy luật tình cảm mà mỗi người,
ai cũng đều có và cảm nghĩ như thế. Vì người lính ngoài tình yêu Tổ quô’c với:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”\Họ vẫn còn có tình yêu riêng, tình yêu của
một góc tâm hồn đó là tình yêu quê hương nơi họ sinh ra và lớn lên và đặc biệt
là tình yêu mà họ đã dành trọn cho một người, người con gái đẹp của đất Hà
thành với tiếng gọi: “dáng kiều thơm”. Phải chăng, họ lại nhớ về, nhớ về hoài
niệm một tình yêu đẹp trong sáng trong tâm hồn người lính trẻ lúc ra đi. Đây
là nỗi nhớ rất thật, rất con người với tiếng gọi: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm”. Lời thơ cũng là một hồn thơ mới trong thơ ca kháng chiến chống Pháp
mà em tâm đắc nhất.
B. Anh (chị), đọc đoạn văn ngắn dưới dây và trả lời các câu hỏi sau: (l,5đ)
... “Văn chương mang đến cho con người bao giá trị lớn lao. Văn chương giúp
cho con người nhận thức được hiện thực cuộc sống và bản chất con người.
Không chỉ có vậy, văn chương còn góp phần hình thành phát triển đạo đức con
người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Làm sao không thấy yêu quê
hương, đất nước hơn khi đọc những vần thơ:
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre”
(Trích "Nhở con sông quê hương" - Tế Hanh)
Văn chương còn hun đúc cho con người nghị lực, rèn luyện cho con người
ý chí bản lĩnh. Không chỉ có vậy, văn chương còn viết về những cảnh đời,
những sô' phận éo le trong cuộc sống. Các nhà văn không chỉ bày tỏ lòng cảm
thương xúc động mà còn muôn khẳng định sức chịu đựng, sức sông mãnh liệt
của con người như khi đọc tác phẩm: ‘“Vợ chồng A phủ” của nhà văn Tô Hoài;
“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Văn chương còn là thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh giành độc lập tự do cho
dân tộc. Các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hồ Chí Minh... chính là những lưỡi gươm, mũi súng chĩa thẳng vào kẻ
thù xâm lược.” (Trích sách tham khảo văn học)

400
Cẳu hỏi:

Câu 1; Đoạn văn trê n thuộc th ể loại nào? Nhận x é t cách hành văn
củ a đoạn văn trên .
Câu 2: Ý nghĩa nội dung đoạn văn trên nhằm nêu lên vấn đề gì?
T ác dụng ra sao?
Câu 3: Anh (chị) có suy nghĩ gì về tá c dụng củ a văn chương đôl với
_______con người và cuộc sô"ng qua đoạn văn trên ?

TRẢ LỜI
Câu 1:
Đoạn văn trên thuộc thể văn nghị luận. Lời vàn ngắn gọn, súc tích, vận
dụng lí lẽ dễ hiểu rõ ràng, lập luận vững vàng kết hợp những dẫn chứng tiêu
biểu, chọn lọc từ kiến thức văn học. Có tính logic, một phong cách viết rất
riêng làm nên giá trị cho đoạn văn.
Câu 2:
Đoạn văn trên đề cao giá trị to lớn của văn chương đối với con người và cuộc
sông. Văn chương giúp cho con người nhìn lại chính mình để sông tót hơn, gần
gũi gắn bó với quê hương, khơi dậy tình yêu đất nước. Văn chương còn giúp cho
con người và con người cảm thông nhau, thấy được sức sông mạnh .mẽ của con
người luôn luôn tự tranh đấu, không cam chịu. Đặc biệt, văn chương còn là thứ
vũ khí sắc bén chống ngoại xâm. Như vậy, văn chương có một giá trị to lớn
thiết thực đôì với con người và cuộc sống qua mọi thời đại.
Câu 3:
- Văn chương làm cho đời sông nội tâm con người thêm phong phú.
- Văn chương là chất xúc tác giúp cho con người hình thành một nhân cách
sống đẹp.
- Văn chương là thứ vũ khí chông ngoại xâm.
Ngày nay, con người lại thờ ơ, quay lưng lại với văn chương khi sức mạnh
đồng tiền trở thành vạn năng, nền công nghệ hiện đại cùng giá trị vật chất
được trọng dụng, đề cao thì văn chương trở nên mờ nhạt, sản phẩm của văn
chương trở nên rẻ mạt chỉ còn là: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”. Đây là điều
thật xót xa là nỗi đau của thời đại. Và cũng từ đó cái xâu, cái ác hiện hình và
hoành hành trong đời sống của chúng ta hiện nay. Chúng ta mong sao văn
chương phải được nhìn nhận đúng đắn, phải được đề cao đánh giá đúng về giá
trị lớn lao của văn chương đôl với con người và cuộc sông thì xã hội sẽ dần dần
trở lại tốt đẹp, đất nước sẽ được phồn vinh.

401
II. PHÂN LÀM VĂN: (7đ)
A. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI: (3đ)
* Để bài: Anh (chị) hiểu th ế nào về lời hỏi: “học dể làm gì?”. Lời hỏi
ấy có tác dụng đến anh (chị) như thê nào trước cuộc sống hiện nay?
Hây giải thích, bình luận để làm sáng tỏ những câu hỏi t r ê n .__ _

+ N hững k iến th ứ c c ầ n nắm :


1. Lời cổ nhân có nói: “Nhân bất học, bất tri lí”. (Lời cổ nhân).
2. Lời người xưa có nói: “Đi một ngày dàng, học một sàn khôn”. (Lời người xưa).
3. Lời người xưa dặn dò: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. (Lời người xưa)
4. Có ý kiến rằng: “Ăn đ ể nuôi người; Học đ ể nuôi đời”. (Lời nhận định)
5. Ngạn ngữ phương Tây có nói: “Khi ta sinh ra đời, mọi người đều cười nhưng
riêng ta thì khóc. Nhưng ta phải sống như thế nào đ ể khi ra đi, mọi người
đều khóc nhưng riêng ta lại mỉm cười”. (Ngạn ngữ phương Tây)
6. Có ý kiến cho rằng: “Để tìm thấy hạnh phúc rộng lớn là phải sống cho người
khác cho tha nhân, cộng đồng, quê hương đất nước”. (Lời nhận định)
7. Có ý kiến rằng: “Được làm người, phải là như con ong luôn luôn biết dem
hương thơm mật ngọt đến cho đời” (Lời nhận định)
8. Có lời bày tỏ; “Mình vì mọi người thì cuộc sống mới thật sự là hạnh phúc”.
(Lời bày tỏ)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Nhân bất học, bất tri lí”. (Lời cổ nhân)
Lời người xưa từng nói, người nào không học thì không biết lí luận, nhận
thức những gì trước cuộc sống, sẽ mù tàm mù tịt trước thế giới xung quanh bên
ngoài như: “Êch ngồi đáy giếng” xót xa cho một kiếp làm người. Vậy “học để
làm gì?”. Học phải như thế nào? Và học ở nhà trường, giảng đường đã được
trang bị đầy đủ kiến thức hay chưa? Đây là những vấn đề chúng ta cần giải
thích và bình luận để làm sáng tỏ.

II. PHẦN THÂN BÀI


1. Trước tiên cần phải tìm hiểu từ “h ọc” là th ế nào?
Học là đưa chúng ta tiếp cận với sách vở, kiến thức của từng môn học,
ngành học phù hợp với năng lực, sở thích của chúng ta để có một kiến thức
nhất định từ nhà trường, giảng đường do thầy cô truyền đạt và đến lúc ra
trường cho chúng ta có một ngành, một nghề chuyên môn riêng nhằm ứng
dụng vào cuộc sống, phục vụ cộng đồng xã hội cho sự phát triển của đất nước để
cuộc sống có ý nghĩa.

402
Nói đến con đường học vấn là nghĩ đến sự vô tận của kiến thức, rất đa dạng
phong phú. Chúng ta phải có một quyết định đúng đắn, chọn lựa một ngành
học thích hợp với năng khiếu, năng lực nhằm phát huy hết khả năng thực lực
của bản thân nhằm giúp cho việc học có một kết quả tốt đẹp.
2. Vậy! Học để làm gì?
Quan niệm của UNESCO - (cơ quan giáo dục thuộc Liên hợp quốc) cho rằng:
học để biết (learning to know)
học để làm (learning to do)
học để chung sông hòa nhập với người khác (learning to live together)
và học để sống và có ý nghĩa với cuộc sống (and learning to be)
Từ quan niệm “học để làm gì?” của UNESCO đã đưa ra những vấn đề rất rõ
giúp cho chúng ta hiểu rằng: học là để có sự hiểu biết về các môn học như toán
học, văn học, vật lý học, triết học... nhằm giúp cho chúng ta có một kiến thức
nhất định, một năng lực nhất định để ứng dụng vào cuộc sông và nói học để
làm gì? Em xin thưa rằng: khi chúng ta có một kiến thức, năng lực cần thiết
thì lúc ra trường bước vào cuộc sông thực tế sẽ mang kiến thức năng lực ấy ứng
dụng vào công việc, vị trí mà mình đã đảm nhận tùy theo ngành học, nghề học
để đi vào thực tiễn và mang lại hiệu quả nhất định, có giá trị cho cộng đồng
cho sự phát triển của xã hội, đem lại giá trị cho bản thân, mang lại ý nghĩa
cho cuộc sống chính là: “học để nuôi đời” và “học để nuôi mình” cũng là thước
đo giá trị nhân cách con người.
Vậy, nếu chúng ta không “học” không tha thiết “học”, không muôn tạo cho
mình một năng lực nhất định, một ngành nghề nhất định trong xã hội thì con
người đó chỉ còn là một khối thịt thừa, một khối u sẽ ô nhiễm môi trường sống,
trở thành những ký sinh trùng đục khoét, bào mòn xã hội, mục nát như cỏ cây
rồi người đời dèm pha xem thường, coi rẻ.
3. Vậy ! Học phải như thê nào? Học ở nhà trường, giảng đường đã
đưỢc tran g bị dầy đủ kiến thức hay chưa?
- Trước hết cần tìm hiểu, học p h ả i n h ư thê nào?
Trước tiên chúng ta cần phải xác định năng lực, nàng khiếu, sd trường của
mình thuộc về lĩnh vực nào: “khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội”, ngành
nào phù hợp năng lực và năng khiếu thì mới quyết định chọn. Đây cũng là định
hướng cho tương lai, cho cuộc sống thiết thực sau này.
Tiếp đến, phải có một nhận thức đúng đắn về việc học, học như thế nào để
mang lại hiệu quả. Không thể học để chạy theo bằng cấp, thành tích, học vì sĩ
diện, học vì gia đình cho cha mẹ vui lòng hay là học để làm cậu ấm, cô chiêu,
cô tú, cậu cử,... nghênh ngang với đời. Nếu có suy nghĩ như thế thì việc học
không phải là mục đích tất yếu, không phải là cứu cánh mà nó chỉ là phương
tiện để thỏa mãn tính vị kỉ tầm thường, khoe khoang, đua đòi bên ngoài. Như

403
vậy, sẽ tạo nên những kiến thức chết, những tri thức chết, kỹ năng chết và khi
bước vào đời sẽ hụt hẫng về kiến thức không thể ứng dụng vào cuộc sống thực
tế, không mang lại hiệu quả. Chứng tỏ việc học trở nên vô dụng, cuộc sông trở
nên vô nghĩa chỉ là kẻ “hữu danh vô thực”. Vậy, phải xác định việc học một
cách đúng đắn từ thực lực, sở thích của chính bản thân mình bằng cả sự quyết
tâm, ý chí, nghị lực, sự cần mẫn của chính mình thì việc học mới có hiệu quả,
đem lại giá trị nhất định cho bản thân, cho sự phát triển của xã hội.
- Vậy, học ở n h à trường, g iả n g d ư ờn g đã dược tra n g bị đầy đủ kiến
thức hay chưa?
Thật sự, học ở nhà trường, giảng đường vẫn là học chưa đầy đủ vì kiến thức,
tri thức là vô hạn, vô cùng mà mỗi chúng ta chỉ là sự giới hạn, hữu hạn, chỉ là
hạt cát giữa sa mạc, là giọt nước giữa lòng đại dương. Vì thế, ngoài kiến thức
sách vở đã học từ nhà trường, giảng đường, chúng ta cần phải học từ bạn bè,
người thân, học từ những kinh nghiệm sông ở ngoài đời vì: “Đi một ngày đàng,
học một sàng khôn”. Mỗi chúng ta không bao giờ bằng lòng những gì mình
đang có mà phải: “học, học nữa, học mãi” phải biến kiến thức ở nhà trường,
giảng đường thành những: “tri thức sông” để khi bước vào đời sẽ ứng dụng vào
công việc vị trí của chính mình càng thêm tự tin và sẽ đem lại sự thành công.
Đó là học để sống, học để làm, học đế mang lại hiệu quả cho cuộc sông thì cuộc
sống mới có ý nghĩa. Vì: “học để nuôi đời”. Phải không các bạn.

III. PHẦN KẾT BÀI:


Đề bài; “học để làm gì?” là bài học vô cùng quý báu cho mọi người, nhất là
những người trẻ, thê hệ trẻ. Mỗi chúng ta phải có một nhận thức đúng đắn về
việc học. Mục đích của việc học là học đế hiểu biết, để hành động để hòa nhập
với cuộc sông, cộng đồng và làm sao mang lại hiệu quả, giá trị tốt đẹp cho bản
thân, cho sự phát triển của xã hội, của đất nước đế cuộc sống có ý nghĩa.

B. PHẦN NGHỊ LUẬN VÁN HỌC: (4đ)

Để bài: Có lời hỏi rằng: “Bài thơ Việt B ắc củ a n h à thơ Tô H ữu có


còn p h ù hỢp trước hoàn cả n h đất nước củ a ch ú n g ta h iện nay
hay k h ô n g?”.
Anh (chị) vận dụng bài thơ “Việt B ắ c ” cùng lí lẽ củ a mình để
làm sáng tỏ ý kiến t r ê n . ____________________

+ Lưu ý: Những ý trọn g tâm của bài thơ “Việt B ắ c ” cần nắm rõ:
1. Ca ngợi tình sâu nghĩa nặng giữa người ở lại và kẻ ra đi.
2. Ca ngợi tinh thần đoàn kết của dân tộc ta trong kháng chiến.
3. Ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên Việt Bắc.

404
+ Những k iến th ứ c c ầ n nắm :
1. Lời Hồ Chủ tịch có nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”. (Hồ Chủ tịch)
2. Lời cổ nhân có nói: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn
núi cao”. (Lời cổ nhân)
3. Có ý kiến rằng: “Quá khứ hiện tại và tương lai như một sợi dây liên kết
trong cuộc sống đ ể hoàn thiện sự tốt đẹp”. (Lời nhận định)
4. Lời cồ nhân có nói: “ồn cố nhi tri tân”. (Lời cố nhân)
5. Có lời nhận định rằng: “Một quá khứ đẹp bao giờ cũng là chất xúc tác nuôi
dưỡng tâm hồn con người”. (Lời nhận định)
6. Lời cố’ nhân có nói: “Uống nước nhớ nguồn. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. (Lời
cổ nhân).
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Ôn cố nhi tri tán”. (Lời cổ nhân)
Biết đón nhận cái mới, cái hiện đại cần phải biết bảo tồn, gìn giữ cái đẹp,
vẻ đẹp truyền thống. Có lời hỏi rằng: “Bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu có
còn phù hợp trước hoàn cảnh đất nước của chúng ta hiện nay hay không?”.
Chúng ta cần vận dụng ý thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu cùng
lí lẽ để làm sáng tỏ lời hỏi trên.

II, PHẦN TRỌNG TÂM


A. Ý 1: Ca ngợi tình sâu nghĩa nặng giữa người ở lại (người dân Việt Bắc)
và người ra di (người cán bộ) của một thời kháng chiến, ý thơ ấy
ngày nay có còn phù hỢp hay không?
Đọc và tìm hiểu bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu đã nêu lên những ý
thơ đẹp nhằm ca ngợi đạo lí, tình người tình yêu thương gắn bó suốt mười lăm
năm dài trong kháng chiến giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ, người
lính Cụ Hồ qua lời bày tỏ của người ở lại: “Mình về mình có nhớ ta. Mười lăm
năm ấy thiết tha mặn nồng”. Và người ra đi đối lại bằng một tình cảm thắm
thiết, chân thành, ở đây là tâm lòng của những cán bộ, những người con cách
mạng trong kháng chiến qua lời bày tỏ: “Ta với mình, mình với ta. Lòng ta sau
trước mặn mà đính ninh”. Và có biết bao lời đối đáp chân tình trong hồn thơ
Việt Bắc về tình sâu nghĩa nặng giữa người ở lại và kẻ ra đi là thể hiện phẩm
chất đạo đức của con người, sống có trước có sau, có tình có nghĩa, tình yêu
thương trong kháng chiến đã hiện hình bao nỗi nhớ trong tâm hồn người ở lại
và kẻ ra đi là đạo lí, nhân cách sông đẹp là thước đo giá trị con người thấm
đẫm tính nhân văn nhằm hướng đến một xã hội tô’t đẹp thì thời nào cũng cần

405
phải có. Và chúng ta phải biết bảo vệ và gìn giữ những phẩm chất tốt đẹp ấy.
Đó là vẻ đẹp văn hóa. Như vậy, bài thơ Việt Bắc vẫn còn phù hợp với hoàn
cảnh đất nước của chúng ta hiện nay và cả sau này.
B. Ý 2: Ca ngợi tinh thần đoàn kết gắn bó sâu đậm củ a dân tộc ta
trong kháng chiến và ngày nay có còn phù hỢp hay không?
Chúng ta vẫn còn nhở trong hồn thơ Việt Bắc có viết: “Thương nhau chia củ
sắn lùi. Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” là thể hiện tình yêu thương đoàn
kết sẻ chia của những người trong kháng chiến, giữa người dân Việt Bắc và
những người cán bộ miền xuôi, họ sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ trong
kháng chiến để hướng đến mục đích cao đẹp vì tự do độc lập của dân tộc, sự
tồn vong của Tổ quô'c. Họ hiểu rằng, có đoàn kết mới tạo thêm sức mạnh trong
chiến đấu, như: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
và lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ghi: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”. Như vậy, sự đoàn kết yêu thương
gắn bó tạo thêm sức mạnh thì thời nào cũng rất cần thiết dù trong xây dựng
hay trong chiến đấu cũng cần phải có đó là yếu tố quyết định sự thành công
trong mọi hoàn cảnh của đất nước. Như vậy, ý thơ trong hồn thơ Việt Bắc vẫn
còn phù hợp trong hoàn cảnh của đâ't nước ta hiện nay và cả sau này.
c . Ý 3: Ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên Việt B ắc:
Bức tranh Việt Bắc với hàng loạt hình ảnh thật đáng yêu như: “Rừng xanh
hoa chuôi đỏ tươi... Ngày xuân mơ nở trắng rừng... Ve kêu rừng phách đổ
vàng... Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Những vần thơ trên thể hiện một bức
tranh thiên nhiên bô'n mùa ở Việt Bắc với Đông, Xuân, Hạ, Thu, mỗi mùa có
mỗi vẻ đẹp khác nhau rất riêng, rất Việt Bắc. Nếu ngày nay, chúng ta có một
tầm nhìn về chiến lược cho sự phát triển ngành du lịch ở Việt Bắc là một điều
rất cần thiết, sẽ quảng bá sự giàu đẹp về quê hương đất nước Việt Nam trên
khắp mọi miền và có dịp du khách nước ngoài và kể cả trong nước, họ sẽ đến
tham quan những thắng cảnh đẹp của Việt Bắc để nhớ lại một thời kháng
chiến đầy gian khổ nhưng cũng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nhằm
củng cố tình yêu quê hương đất nước thì hồn thơ Việt Bắc ngày nay qua nét bút
của Tố Hữu vẫn còn phù hợp, vẫn còn sức sống trước sự phát triển của đất
nước. Tác phẩm là một tài sản văn học nghệ thuật quý báu.

II. PHẦN KẾT BÀI:


Qua phần trình bày và lí lẽ đã nêu trên, chứng tỏ bài thơ Việt Bắc như một
bức tranh nghệ thuật vẫn sống mãi giữa lòng quê hương đất nước trong chiến
đấu cũng như trong xây dựng thời chiến cũng như thời bình.
Thầm cảm ơn! cô" nhà thơ Tố Hữu đã để lại cho đời một bài thơ đặc sắc
thấm đẫm tính nhân vàn. Chứng tỏ ý kiến của đề bài trên không thể đứng
vững và không thể đồng tình.

406
Đề tuyển sinh 4:
I. PHẦN ĐỌC HIỂU: (3đ)
A. Bài thơ “Đ ất N ư ớc” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có đoạn viết: (l,5đ)
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”.
(Trích "Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)

Câu hỏi:
Anh (chị) dọc đoạn thơ trên và giải thích cá c câu hỏi sau:
Câu 1: Đoạn thơ nói lên ý nghĩa gì?
Câu 2: Từ nào tron g đoạn thơ thể hiện ý trọn g tâm ? Hãy giải thích.
Câu 3: Nêu lên nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ.__________________

TRẢ LỜI
Câu 1:
Đoạn thơ cho chúng ta hiểu rằng, tiếng gọi “Họ” ở đây là con người, là nhân
dân, là ông cha ta thuở trước đã sáng tạo ra giá trị vật chất nào là hạt lúa, hòn
than, con cúi... cùng những giá trị tinh thần như giọng điệu, tập nói, tên xã,
tên làng... cho con cháu đời sau tiếp nối xây dựng hình thành Đất Nước.
Câu 2:
Từ gọi “Họ” trong đoạn thơ lặp đi lặp lại nhiều lần ở đầu câu thể hiện ý
trọng tâm cho đoạn thơ. Tiếng gọi “Họ” hàm ẩn nói về con người, về nhân dân
ông cha ta thuở trước đã có công xây dựng, bồi đắp, sáng tạo ra những sản
phẩm vật chất lẫn giá trị tinh thần để có được ngày hôm nay.
Câu 3:
Hàng loạt điệp từ đại nhân xưng “Họ” kết hợp những động từ mạnh gợi hình
như: “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, gánh,...” cùng những hình ảnh tiêu biểu cụ
thể, lời thơ hôi hả dồn dập đã tái hiện bức tranh sinh động về sự sáng tạo của
con người, của nhân dân từ giá trị vật chất hữu hình đến giá trị tinh thần vô
hình để hình thành Đất Nước.
B. Anh (chị), đọc đoạn văn trích dưới đây và trả lời cá c câu hỏi sau:
(l,5đ)
... “Trái đất của chúng được bao bọc bởi những màu xanh thân thiện, màu
xanh của nước biển, màu xanh của cây lá, của núi rừng. Nhưng đã khi nào bạn
nghĩ đến một ngày không còn màu xanh của cây lá mà thay vào đó chỉ là màu
407
xanh của nước biển? Ngày đó, sẽ đến, thậm chí đến rất nhanh nếu chúng ta
không ý thức được vai trò của rừng trong môi trường sông. Sự sông của chúng
ta chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên khách quan trong đó có rừng.
Không ai có thể phủ nhận được giá trị to lớn mà rừng đã mang đến. Trong
chiến tranh, rừng luôn luôn che chở bảo vệ quân dân ta khỏi bao đòn thù khốc
liệt với hình ảnh: “Rừng che bộ dội, rừng vây quân thù”. (Tô Hữu). Rừng như
dũng sĩ vươn mình hứng đỡ những cơn mưa bom, bão đạn của bao kẻ thù xâm
lược: Rừng như “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. (Nguyễn
Trung Thành). Đối với môi trường sông, rừng điều hòa khí hậu, hạn chê thiên
tai, chống xói mòn, chắn gió, điều tiết dòng chảy trên mặt đất. Rừng còn cung
cấp gỗ, củi, hoa quả, dược liệu quý cho con người là nơi sinh sống của các loài
động vật thậm chí là nơi trú ngụ của con người, nhất là đồng bào các dân tộc
thiểu sô'. Có thể tìm ở rừng những sản vật quý hiếm mà những vùng miền khác
không thể có được như các loại gỗ đinh, lim, sếu, gụ... các loại thú quý như: voi,
hổ, báo, các loài chim chóc,... các loại dược liệu như linh chi, quế, hồi,... Có thể
nói, từ những sản vật ở rừng, đời sông, cuộc sông con người thêm phong phú
hơn rất nhiều”. (Trích sách tham khảo văn học)
Câu hỏi:

Câu 1: Nêu lên phong cách viết của đoạn văn trích trên .
Câu 2: Nêu rõ ý nghĩa nội dung củ a đoạn văn trên .
Câu 3: Để bảo vệ môi trường sống của rừng, chúng ta cần phải làm gì?
Câu 4: Hình ảnh rừng đã đi vào văn học nghệ th u ật là m ột hình
tưỢng nhân hóa sinh động qua n ét bút củ a cá c nhà thơ, nhà văn.
Anh (chị) hãy nêu lên vài lời thơ tiêu biểu hay đoạn văn trích
đã học tron g chương trình Văn 12

TRẢ LỜI
Câu 1:
Đoạn văn trên thuộc dạng nghị luận văn học, viết theo thể văn xuôi, lời văn
trong sáng, lí lẽ ngắn gọn rõ ràng súc tích, lập luận vững vàng kết hợp những
dẫn chứng cụ thể chính xác tiêu biểu, thuyết phục người đọc.
Câu 2:
Đoạn văn nêu lên giá trị lớn lao của rừng đôi với môi trường sông của con
người và đem lại những sản phẩm quý giúp cho đời sông con người thêm phong
phú và nâng cao tuổi thọ.
Câu 3:
Để bảo vệ môi trường sống của rừng, chúng ta cần có những biện pháp sau:

408
- Mỗi người phải nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng đặc biệt của
rừng đối với đời sống con người từ đó có những biện pháp thiết thực để bảo vệ
tài nguyên quý giá này.
- Phải ra sức tuyên truyền cổ động nhân dân cần phải thấy rõ sự lợi ích
thiết yếu của rừng đối với con người để cùng nhau bảo vệ gìn giữ rừng.
- Phải có hành động tích cực trong việc trồng rừng, phủ xanh những đồi trọc.
- Nhà nước cần có biện pháp răn đe, trừng trị thích đáng những hành vi
khai thác rừng bừa bãi của bọn lâm tặc đã phá hoại rừng thật tàn nhẫn.
Câu 4:
Hình ảnh núi rừng đã đi vào văn học nghệ thuật qua hai thời kỳ kháng
chiến chông Pháp và chống Mỹ là những hình tượng thật khó quên với những
vần thơ sau:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rửng che bộ đội, rừng vây quân thù”.
(Trích “Việt Sác” - Tố Hữu)
Rừng với những hình ảnh qua đoạn văn trích:
- Hình ảnh rừng với biện pháp nhân hóa đã toát lên một hình tượng sinh
động như một tên hộ pháp lực lưỡng với hình ảnh: “Rừng Xà Nu ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra che chở cho làng” trong truyện ngắn “Rừng Xà Nu” của nhà
văn Nguyễn Trung Thành.
- Càng đẹp hơn, qua nét bút: “Không có cây gì mạnh bầng cây Xà Nu đất ta,
cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đô nó giết hết Rừng Xà Nu này”. (Trích “Rừng Xà
Nu” - Nguyễn Trung Thành”.

II. PHẦN LÀM VÃN: (7đ)


A. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI: (3đ)

« Đề bài: Anh (chị) hiểu th ế nào về “Uy tín của m ột con người?”.
Vấn đề uy tín có ảnh hưởng gì đến giá trị củ a con người trước
cuộc sông hiện nay? Anh (chị) hãy giải thích để làm sáng tỏ.

+ Những kiến thức cầ n nắm:


1. Ngạn ngữ phương Tây có nói: “Mất tiền bạc mất ít. Mất danh dự mất nhiều.
Mất uy tín, mất tất cả”. (Ngạn ngữ phương Tây).
2. Có lời nhận định rằng: “Uy tín là thước đo giá trị nhân cách con người”.
(Lời nhận định).

409
3. Lời cổ nhân có nói: “Một lần bất tín. Vạn lần bất tin”. (Lời cổ nhân)
4. Lời cổ nhân có nói: “Có công mài sắt có ngáy nên kim”. (Lời cổ nhân)
5. Có ý kiến rằng; “Uy tín là một tài sản vô hình khẳng định giá trị nhân cách
con người”. (Lời nhận định)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Mất tiền bạc mất ít. Mất danh dự mất nhiều. Mất uy tín mất tất cả”.
(Ngạn ngữ phương Tây)
Quả thật, uy tín là yếu tô' quan trọng, thước đo giá trị con người tạo cho con
người sự hoàn thiện và niềm tin yêu của mọi người trước cuộc sông. Vậy uy tín
của một con người được hiểu như thế nào? Uy tín ảnh hưởng đến giá trị con
người trong cuộc sông hiện nay ra sao? Để bảo vệ uy tín chúng ta cần phải làm
gì? Hàng loạt các câu hỏi trên, chúng ta cần giải thích để làm sáng tỏ yêu cầu
của đề bài.

II. PHẦN THÂN BÀI


1. Trước tiên cần giải thích từ ngữ “Uy tín” có ý nghĩa là th ế nào?
Uy tín là một khái niệm trừu tượng, không nhìn thấy bằng ánh mắt, bằng
giác quan mà bằng sự cảm nhận của ý thức. Uy tín là lời nói và việc làm đi đôi
với nhau, không làm khác đi những gì đã nói, dù tình huống nào cũng giữ đúng
và thực hiện đúng như đã nói, uy tín là niềm tin, là sự tín nhiệm.
2. Vậy “Uy tín ả n h h ư ở n g d ế n g iá tr ị co n n g ư ời tr o n g c u ộ c s ố n g h iệ n
n ay r a s a o ? ”
Uy tín của một con người là niềm tin, sự ngưỡng mộ của mọi người, của xã
hội về một con người mà người đó đã sông và làm việc, thực hiện đúng những
gì mình đã nói đã đề ra trước sau như một, lời nói luôn luôn đi đôi, kết hợp với
công việc mang lại kết quả như đã nói. Người có uy tín là người luôn luôn giữ
đúng lời hứa không nói nhiều lời, dù tình huống xảy ra có như thế nào, họ vẫn
thực hiện đúng như đã hứa đã hợp đồng cho dù có bị thiệt thòi về phần mình,
họ cũng sẵn sàng vui vẻ chấp nhận đó là con người có uy tín.
Ngược lại, với người có “uy tín” là kẻ “bất tín”, kẻ đánh mất niềm tin ở
người khác vì họ không thực hiện đúng như lời đã nói, đã hứa, họ sẵn sàng phủ
nhận, chô'i bỏ những gì mình đã hứa. Họ sần sàng xâm phạm quyền lợi của kẻ
khác để đem lại lợi ích cho bản thân là kẻ sông dối trá, kẻ lừa đảo, sông nhiều
bộ mặt thì sẽ đánh mất niềm tin đôì với người khác, kẻ đó sẽ bị đào thải, loại
khỏi sân chơi theo quy luật của cuộc sống, của giá trị đạo đức.
Xây dựng uy tín là vấn đề không phải một sớm, một chiều, một ngày, một
bữa là có được. Uy tín đối với một con người là cả một quá trình trong cuộc
sông khi hòa nhập với cộng đồng, xã hội, trong việc giao tiếp, làm ăn, mua

410
bán,... Uy tín không tự có, không do bẩm sinh hay do thế lực bên ngoài tạo nên
cho mỗi con người mà uy tín là tự mỗi người tạo nên bằng hành động, việc làm,
lời nói của chính bản thân mình trước một công việc nào đó, một hợp đồng nào
đó đối với người khác và lúc nào cũng giữ đúng, sông đúng và thực hiện đúng
như thế trong một quá trình làm việc lâu dài thì mới tạo cho mình một uy tín,
một niềm tin của người khác hay của tập thể.
Uy tín hình thành do thực lực của mỗi người đó là năng lực, trí tuệ, phẩm
chất đạo đức thông qua lời nói, hành động để mang lại hiệu quả nhất định thì
uy tín mới có được như; “Có công mài sắt có ngày nên kim” hay “Lửa thử vàng”;
“Gian nan thử sức”. Để hiểu rõ trong vấn đề uy tín là phải có sự hợp tác làm
ăn, quan hệ với nhau trong công việc thì mới biết được con người đó sông như
thê nào ! Có uy tín hay bất tín. Như vậy, hình thành xây dựng uy tín cho mỗi
con người phải có một quá trình thực hiện và thể hiện trong công việc hay một
hợp đồng nào đó bằng cả tấm lòng, tâm huyết, trách nhiệm của mình qua
những việc làm cụ thể, có hiệu quả, đôi bên cùng có lợi. Phải: “Tri hành hợp
nhất” thì mới tạo nên được uy tín cho con người. Đó mới là uy tín thật sự đáng
quý của con người.
Ngược lại, nếu dựa vào thế lực, thê lực của người khác để tạo ra uy tín thì uy
tín đó được gọi là “uy tín giả”, “uy tín ảo”. Vậy uy tín thật sự sẽ đem lại giá trị
thiết thực trong cuộc sống hiện nay đối với con người. Khi đã có uy tín, con
người sẽ nhận được nhiều sự tốt đẹp từ giá trị vật chất đến giá trị tinh thần.
về mặt gia đình, được mọi thành viên trong gia đình từ ông bà, cha mẹ,
anh, chị em ai nây đều quý mến tôn trọng.
Về mặt nhà trường, được thầy cô, bạn bè yêu quý. Nếu là một thành viên
trong một doanh nghiệp, một công ty khi có uy tín thì tập thể mến phục, ban
lãnh đạo tin dùng, trọng đãi và có cơ hội sẽ được đề bạt cho đi học thêm ở nước
ngoài, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ để lúc trở về sẽ phục vụ tốt hơn, có vị
trí chỗ đứng tốt hơn, bậc lương được nâng cao...
Về mặt xã hội, được mọi người tin yêu, quý trọng. Vậy, khi đã có được uy tín,
chúng ta sẽ phát huy hết tài năng, khả năng sẵn có của mình một cách toàn diện
như một nghệ sĩ nổi tiếng, có phẩm chất đạo đức tốt thì các nhà đầu tư có thể
mời đóng quảng cáo, đóng phim hay mời hợp tác ở một lĩnh vực khác sẽ càng
tăng thêm giá trị vật chất lẫn tinh thần. Như vậy, có uy tín là có tất cả.
3. Đế bảo vệ “Uy tín” chúng ta cần phải làm gì?
Nói đến uy tín là nói đến vấn đề nhạy cảm rất thiết thực đôi với con người
trong cuộc sống. Muốn bảo vệ uy tín, mỗi chúng ta cần phải trau dồi nàng lực,
phẩm chất đạo đức thể hiện qua việc làm, lời nói thì uy tín được nâng cao đem
lại giá trị cho con người trước cuộc sống, là thước đo giá trị nhân cách con người,
mang lại niềm tin yêu của mọi người. Ngược lại, nếu chủ quan, cứ nghĩ đã có uy

411
tín rồi mà không trau dồi học hỏi, cầu tiến ở chính bản thân mình thì uy tín của
ta sẽ bị giảm đi và có thể mất dần nếu chúng ta tiếp tục xem thường.
Liên hệ bản thân: Hiện nay, vấn đề uy tín có ảnh hưởng rất lớn cho chính
bản thân em. Uy tín sẽ tạo cho ta sự ngay thẳng, minh bạch trước mọi vấn đề,
mọi công việc. Nếu không sẽ trở thành kẻ dối trá, kẻ lừa đảo đánh mất niềm
tin của mọi người sẽ làm tổn thương về mặt tinh thần và cả giá trị vật chất vì:
“Mất uy tín, mất tất cả”.

III. PHẦN K ẾT BÀI:


Qua phần trình bày trên, chứng tỏ uy tín là yếu tô" quan trọng thiết thực cho
mọi người qua mọi thời đại. Nó là một phẩm chất đạo đức cao quý để hướng
đến một cuộc sông đẹp, một lẽ sông đẹp được mọi người quý mến, tin yêu để
cuộc sống có ý nghĩa, hình thành một xã hội tôt đẹp văn minh.
B. Phần nghị luận văn học: (4đ)
* Đề bài:
Có ý kiến cho rằng: “B à i t h ơ “Tây T iế n ” c ủ a n h à t h ơ Q u an g
D ũ n g t h ể h iệ n lẽ s ố n g đ ẹ p c ủ a n g ư ời lín h th ờ i k h á n g c h iế n
c h ố n g P h á p ”.
Cũng có ý kiến khác lại cho rằng: “B à i t h ơ “T ây T iế n ” c ủ a n h à
t h ơ Q u an g D ũ n g b iể u h iệ n tìn h c ả m r iê n g tư, c á n h â n , c ó tín h ủy
m ị tr o n g tâ m h ồ n n gư ời lín h , k h ô n g p h ù hỢp trư ớc h o à n c ả n h
đ ấ t n ư ớc lú c b ấ y g iờ ”.
Anh (chị) vận dụng thơ văn tiêu biểu có chọn lọc tron g bài thơ
“T ây T iế n ” củ a nhà thơ Quang Dũng kết hỢp lí lẽ để giải thích
làm sáng tỏ cá c ý kiến trên .

+ Những kiến thức cầ n nắm :


1. Nhà phê bình Phong Lan có nhận định về bài thơ “Tăy Tiến”: “Tây Tiến
một tượng đài nghệ thuật bất tử về người lính vô danh”. (Phong Lan)
2. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Họ đã sống và chết. Giản dị và bình tâm.
Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. (Nguyễn Khoa Điềm)
3. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết: “Những đèm dài hành quân nung nấu.
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”. (Nguyễn Đình Thi)
4. Nhà thơ Tô Hữu có viết: “Có cái chết hóa thành bất tử”. (Tó Hữu)
5. Nhà thơ Giang Nam có bày tỏ về bài thơ “Tây Tiến” như sau: “Tây Tiến biên
cương mờ lửa khói. Quân đi lớp lớp động cây rửng. Và bài thơ ấy con người
ẩy. v ẫ n sống muôn đời với núi sông”. (Giang Nam)

412
HƯỚNG DẪN
I. PHẨN GIỚI THIỆU
Nhận định đánh giá về bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng lại có
hai ý kiến trái chiều với nhau.
- Ý kiến 1 cho rằng: Bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng thể hiện
lẽ sống đẹp của người lính thời kháng chiến chông Pháp.
- Ý kiến 2 lại nói rằng: Bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng biểu
hiện tình cảm riêng tư, cá nhân, có tính uỷ mị trong tâm hồn người lính không
phù hợp trước hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
Cần nắm rõ nội dung, ý thơ trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng
để làm sáng tỏ các ý kiến trên.

II. PHẦN TRỌNG TÂM


A. Ý kiến 1: Lẽ sống đẹp của người lính “T áy T iế n ” thời kháng chiến
chông Pháp qua bài thơ “T ăy T iế n ” của nhà thơ Quang Dũng.
+ P h ẩ m c h ấ t 1: Sự chịu đựng gian khổ và niềm lạc quan của người lính.
Chúng ta vẫn còn nhớ lời nói của học giả Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó,
không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Quả thật, người lính “Tây Tiến” qua nét bút tài hoa của nhà thơ Quang Dũng
trong bài thơ cùng tên của ông, tác giả khắc họa hình ảnh người lính thật đẹp,
họ đã xem thường gian khổ, chấp nhận mọi hi sinh khi bước vào cuộc chiến
đấu, sông chết với quân thù xâm lược Pháp. Địa bàn hoạt động của đoàn quân
thật rộng với nhiều địa danh hiểm trở nào Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch,
Pha Luông,... Nhưng bước chân người lính, họ đã vượt qua với thi ảnh: “Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Lời thơ cho chúng ta hình dung trên đường
hành quân, đoàn quân đang di chuyển đến Sài Khao, sương rừng như đang bao
phủ, che lấp cả đoàn quân trong trạng thái mệt mỏi trước thực tế khắc nghiệt
của chiến trường càng chứng tỏ sự chịu đựng của người lính thật vô cùng. Rồi
đoàn quân vẫn bước tiếp, tiến về địa danh Mường Lát, đêm đã xuông, hương
hoa rừng giữa đất trời Tây Bắc lan tỏa khắp không gian và tâm hồn người lính
vẫn mở rộng để đón nhận mùi hương thơm của núi rừng như hòa quyện cùng
hơi thở người lính toát lên một tình yêu thiên nhiên thấm đẫm là thể hiện
niềm lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống trong tâm hồn người lính trẻ mãi mãi đế
lại trong chúng ta niềm trân quý, tự hào.
+ P h ẩ m c h ấ t 2: Chinh phục trước sự hùng vĩ, hiểm trở của thiên nhiên.
Hàng loạt từ láy gợi hình với “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút” cho chúng
ta hình dung người lính đang đối diện trước cái hùng vĩ, hiểm trở của thiên
nhiên. Nếu không có sự quyết tâm, một ý chí vững mạnh, ngại khó thì bước
chân người lính không thể vượt qua, không thể chinh phục thiên nhiên. Nhưng

413
đẹp thay, với hình ảnh nhân hóa độc đáo, sáng tạo “súng ngửi trời” nhà thơ đã
cho chúng ta hình dung đầu súng của người lính như tiếp cận với trời cao, mũi
súng như đang khám phá trước cái bao la rộng lớn, choáng ngợp của vũ trụ
cùng với thi ảnh: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Với hai hình ảnh
hoàn toàn đối lập cho chúng ta nhìn từ dưới chân núi nhìn lên, thấy độ cao vời
vợi, chót vót của đỉnh núi rồi từ đỉnh núi nhìn xuống, thấy độ sâu thăm thẳm,
hun hút, một không gian choáng ngợp trước sự hữu hạn nhỏ bé của con người,
trước cái vô cùng bao la của vũ trụ. Nhưng đẹp thay, hình ảnh người lính
không hề nhỏ bé, hữu hạn. Họ đã vượt qua, họ đã chinh phục và tìm thấy vẻ
đẹp trước cuộc sông của người dân bản Pha Luông thật êm đềm, yên ả như
đang bồng bềnh giữa sương rừng cùng mây núi với thi ảnh: “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Đó là vẻ đẹp của lòng dũng cảm, sự kiên cường trong tâm hồn
người lính trẻ gợi chúng ta nhớ lại lời thơ của tác giả Hồ Chí Minh trong bài
“Đi đường” với hình ảnh: “Núi cao lên đến tận cùng. Thu vào tầm mắt muôn
trùng nước non” cũng mang một vẻ đẹp kiêu hùng như thế.
+ P h ẩ m c h ấ t 3: Nét hào hoa lãng mạn tron g tâm hồn người lính.
Trên đường hành quân chiến đấu, dù họ phải đối diện bao nhiêu gian khổ,
hi sinh mất mát trước thực tế khắc nghiệt của chiến trường. Nhưng vẫn không
làm cho người lính khô cằn, nhụt chí. Họ vẫn yêu đời, vẫn tạo cho mình một
lối sôhg vui nhộn, trẻ trung. Khi đoàn quân ngừng nghỉ, họ tổ chức những đêm
lửa trại bừng lên một sức sông mới với những tiếng khèn, điệu múa của các dân
tộc bản và nhiều sắc màu với những xiêm y lộng lẫy từ các cô gái Thái, Lào,
Mường,... như cùng hòa chung với những chàng lính trẻ, làm nên bức tranh
sông động của một đêm liên hoan thật tưng bừng, vui nhộn, rộn rã là thể hiện
nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn người lính là vẻ đẹp đáng nhớ.
+ P h ẩ m c h ấ t 4: Tình yêu chung hòa nhịp cùng tình yêu riêng.
Trước sự chịu đựng mọi gian khổ nào rừng thiêng nước độc, bệnh tật nhất là
bệnh sốt rét rừng quái ác, cùng lương thực, thuôc men,... mọi thứ cần thiết cho
cuộc chiến đấu của người lính đều thiếu đã để lại một hình ảnh thật xúc động
với tiếng gọi: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Nhưng đẹp thay, họ không
than van, không đòi hỏi, họ vẫn tin vào cách mạng vào cuộc chiến đấu với lòng
căm thù giặc sâu sắc qua hình ảnh: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”.
Lời thơ chính là thước đo lòng yêu nước trong tâm hồn người lính trẻ thật đáng
yêu biết bao.
Ngoài vẻ đẹp tình chung, lại hòa nhập vẻ đẹp của tình riêng với thi ảnh;
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Lời thơ giàu cảm xúc, hình ảnh sâu lắng,
trữ tình như đưa chúng ta tìm thấy người lính trong những giây phút hành
quân ngừng nghỉ, khi đêm về họ lại liên tưởng, mơ về quá khứ, về Hà Nội thân
yêu đã in sâu trong tiềm thức của họ. Và họ đã nhớ về hoài niệm, về Hà Thành
như những thước phim quay chậm đang hiện rõ trong tâm hồn người lính và họ

414
nhớ nhất với hình ảnh “dáng kiều thơm” là giây phút họ đang nhớ về hình
bóng người con gái đất Hà Thành thật đáng yêu đã in sâu trong tâm hồn người
lính lúc ra đi là thể hiện một tình cảm thật đẹp đó là tình riêng, một góc riêng
trong tâm hồn người lính như cùng hòa nhịp với tình chung tạo thành một sức
mạnh mới trong chiến đấu là phẩm chất đẹp và lẽ sống đẹp của người lính thời
đại Hồ Chí Minh thuở ấy.
Liên hệ: Và chúng ta còn nhớ trong hồn thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn
Đình Thi cũng khắc họa một nỗi nhớ của tình riêng của một góc tâm hồn riêng
trong trái tim người lính cũng thật thắm thiết, thấm đẫm tính nhân văn như
thê với lời thơ: “Những đêm dài hành quân nung nấu. Bỗng bồn chồn nhớ mắt
người yêu”. (Nguyễn Đình Thi)
+ Phẩm chất 5: T hà quyết tử cho Tổ quôc quyết sinh.
Chi tiết 1: Quả thật, trong gian khổ người lính đã vượt qua để chiến đấu và
trong hi sinh mất mát, họ không nản lòng cùng một quyết tâm vững tin, kiên
định với thi ảnh: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Phải chăng, dù họ nhìn thấy
đồng đội đã nằm xuống bên chân đèo, góc núi nơi biên giới Việt - Lào. Họ cũng
bùi ngùi thương tiếc cho tình đồng đội đã bỏ mạng tại chiến trường nhưng họ
đã biến đau thương thành sức mạnh, hành động quyết liệt, quyết trả thù với
tiếng gọi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Lời thơ như một lời thề:
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Với họ vẫn hiểu rằng, khi bước vào chiến
trường là phải chiến đâu, chấp nhận hi sinh, mất mát đó là quy luật trong
chiến tranh là lẽ thường tình. Và họ nghĩ rằng, muôn giành lại độc lập tự do
cho Tổ quô'c phải trả bằng máu và quãng đời xanh, quãng đời trai trẻ của họ
nào tiếc gì. Với họ, quãng đời xanh là quãng đời hữu hạn, nhỏ bé mà quãng đời
dân tộc, tổ quốc, đất nước mới là quãng đời rộng lớn, vô hạn cần phải gìn giữ,
bảo vệ cho đến hơi thở cuôl cùng là thể hiện lẽ sông đẹp của người lính thời
kháng chiến. Đúng như lời bày tỏ của nhà thơ Thanh Thảo cũng mang một vẻ
đẹp như thế với tiếng thơ: “Tuổi hai mươi làm sao không khỏi tiếc. Nhưng ai
cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi là Tổ quốc”.
Chỉ tiết 2: Càng đẹp hơn ! Người lính Tây Tiến khi ra đi dấn thân vào
chiến trường, họ có một quan niệm dứt khoát. Với họ: “Tây Tiến người đi
không hẹn ước”, ra đi không nói câu trở lại bao giờ. Vì họ hiểu rằng, bước vào
chiến trường để chiến đấu với quân thù là chấp nhận hi sinh, mất mát thương
tật, phải có hi sinh mới đem lại vinh quang chiến thắng, có bỏ mạng tại chiến
trường mới làm nên những vòng hoa nguyệt quế. Với họ “Hạnh phúc hiện hình
trong hi sinh và gian khổ” muốn giành lại tự do độc lập thì phải trả bằng máu
và nước mắt, vì thế họ thanh thản để nói lên lời thề ước lúc ra đi. Và họ cũng
hiểu rằng, từ xưa ông cha ta cũng từng quan niệm như thế với: “Nhất khứ bất
phục hoàn” hay “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” là có ý nghĩa một đi không
trở lại và xưa nay khi bước vào chiến trận thì có ai nói câu trở lại bao giờ. Và

415
xúc động hơn, thương tiếc hơn với thi ảnh; “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Lời thơ chùng xuống, gợi cho mỗi chúng ta niềm bùi ngùi, xúc động vì người
lính đã bỏ mạng ở chiến trường nơi biên giới Việt - Lào. Lời thơ: “Hồn về sầm
Nứa chẳng về xuôi” giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng. Phải chăng, linh
hồn người lính giờ này đang phảng phất, vương vấn trên cành cây ngọn cỏ của
một tĩnh Sầm Nứa trên đất bạn Lào. Chứng tỏ, sự hi sinh của người lính ngoài
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quô'c, biên cương cho Đất nước, họ còn mang một nghĩa vụ
quốc tế thật cao cả là bảo vệ cho đất bạn Lào cho tình hữu nghị Việt - Lào.
Cao đẹp thay, người lính Tây Tiến ! Anh đă nằm xuông: “Anh đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt dặt tên. Nhưng anh đã làm ra Đất
nước”. Quả thật: “Tây Tiến một tượng đài nghệ thuật bất tử về người lính vô
danh”. (Phong Lan)
B. Ý kiến 2: B ài thơ “T ây T iế n ” của nhà thơ Quang Dũng biểu hiện
tìn h c ả m r iê n g tư , c á n h â n , có tín h u ỷ m ị tr o n g tâ m h ồ n n g ư ờ i lín h
k h ô n g p h ù hỢp tr ư ớ c h o à n c ả n h đ â t n ư ớ c lú c b â y g iờ .
Nhận x é t khách quan:
Quy luật tình cảm của mỗi con người ai ai cũng đều phải có. Nghĩ về tình
yêu bao giờ cũng hiện nỗi nhớ, nhớ về kỉ niệm, về hoài niệm đều là tình cảm
chính đáng của con người qua mọi thời đại. Vì đã là tình yêu bao giờ cũng song
hành cùng nỗi nhớ dù ở đây là tình yêu gia đình hay tình yêu cá nhân, tình
cảm riêng tư cũng là chuyện bình thường trong cuộc sống và trong chiến đấu
của người lính. Vì: “Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” là một quy luật tình cảm
thiêng liêng không ai có thể phủ nhận và từ xưa cho đến nay cũng thế. Vậy
người lính có những giây phút mơ về Hà Nội; nhớ về “dáng kiều thơm” trong
bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng là biểu hiện tình cảm riêng tư,
tình cảm cá nhân cũng là lẽ tự nhiên, thường tình trong tâm hồn người lính
trước hoàn cảnh Đất nước lúc bấy giờ.
- Nhấn mạnh: Thật sự người lính có những giây phút hành quân ngừng
nghỉ khi đêm về, họ lại mơ về Hà Nội, nhớ về “dáng kiều thơm” với bao kỉ
niệm đẹp chỉ trong một khoảnh khắc phút giây nào đó rồi họ vẫn tiếp tục chịu
đựng mọi gian khổ với dáng vẻ “Quân xanh màu lá” và họ vẫn tiếp tục chiến
đấu với lòng căm thù giặc sâu sắc cùng một quyết tâm cao với hình ảnh: “Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới”. Và cho dù họ thấy đồng đội đã nằm xuống nơi
trận mạc, nơi biên giới Việt - Lào với thi ảnh: “Rải rác biên cương mồ viễn
xứ”. Nhưng họ đã biến đau thương thành hành động căm thù giết giặc cùng
một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” thì ai dám bảo rằng người
lính “Tây Tiến” chỉ nghĩ đến tình cảm riêng tư, cá nhân, có tính ủy mị. Đây là
một quan niệm quá khe khắt, bảo thủ, duy ý chí không phù hợp với tâm tư
nguyện vọng, trung thực của người lính trẻ. Quả thật, nỗi nhớ của họ rất chân
thật, rất con người thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc. Chúng ta không quên

416
trong hồn thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng có nỗi nhớ như thê và còn
tha thiết hơn với lời thơ: “Những đêm dài hành quăn nung nấu. Bỗng bồn
chồn nhớ mắt người yêu”. Như vậy, nỗi nhớ của người lính “Tây Tiến” lúc ấy là
nỗi nhớ của một góc tâm hồn riêng, nhớ để rồi quên và họ tiếp tục chiến đấu
chấp nhận bao thực tê khắc nghiệt của chiến trường kể cả sự hi sinh mất mát.
Vì họ luôn luôn nghĩ rằng: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”. Họ sẵn sàng bỏ
mạng tại chiến trường để: “Hồn về s ầ m Nứa chẳng về xuôi” thì làm sao có thể
nói rằng, người lính biểu hiện tình cảm riêng tư, cá nhân có tính ủy mị. Họ
đâu vì nhớ “dáng kiều thơm” mơ về Hà Nội để chạy trôn thực tế, chạy theo
tình cảm riêng tư, cá nhân mà gác súng lại chiến trường. Họ nhớ là thể hiện
tình riêng cùng hòa với tình chung đan xen vào nhau, nôi kết nhau tạo thêm
một sức mạnh trong chiến đấu nhằm tiêu diệt quân thù thì không thế nói rằng
người lính thể hiện một tình cảm riêng tư, cá nhân ủy mị không phù hợp trước
hoàn cảnh Đất nước lúc bấy giờ. Như vậy ý kiến thứ hai có vẻ khập khiễng,
chủ quan, duy ý chí không thể đứng vững được.

II. PHẦN KẾT BÀI


Qua hai ý kiến mà đề bài đã nêu. Em đồng tình với ý kiến thứ nhất về hình
ảnh người lính có những phẩm chất đáng trân quý trong cuộc sống và trong
chiến đấu là vẻ đẹp tâm hồn về tình yêu Tổ quôc, tình yêu quê hương đất nước
là thước đo lòng yêu nước trong trái tim người lính trẻ,
Với ý kiến thứ hai, em không đồng tình vì người lính vẫn thể hiện một tình
cảm riêng, rất riêng, rất thực, rất con người và cũng rất lính, chất trẻ của
người lính. Nếu không có tình riêng, tình cảm cá nhân từ một góc trong tâm
hồn người lính thì họ sẽ trở thành một cỗ máy, người máy, duy ý chí thì điều
đó lại không thật, không phù hợp quy luật tình cảm của con người qua mọi thời
đại. Vì tình riêng cũng là tiếng nói của trái tim của muôn thuở. Vì “Khi ta đi
đất đã hóa tâm hồn” là một quy luật tình cảm cho muôn đời, là chất xúc tác
tiếp thêm sức mạnh cho người lính trong chiến đấu cũng là vẻ đẹp thật đáng
yêu đáng nhớ biết bao !

Đê tuyển sinh 5:
I. PHẦN ĐỌC HIỂU: (3đ)
A. Anh (chị) dọc bài thơ “ô n g T iến s ĩ g iấ y ” của nhà thơ Nguyễn
Khuyên và giải thích những câu hỏi sau đây: (l,5đ )
“Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông Nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ

417
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ghế tréo lọng ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”.
(Ông Tiến s ĩ giấy - Nguyễn Khuyến)
Câu hỏi:
C âu 1: Anh (chị) có nhận x é t gì về nghệ th u ật, cấu trú c củ a bài thơ
trê n ?
C âu 2: Ý nghĩa nội dung củ a bài thơ.
C âu 3: Những từ ngữ và lời thơ nào th ể hiện sự mỉa mai châm biếm
“Ô ng T iến s ĩ g iấ y ”?
C âu 4: Ngày nay, hình ảnh “ô n g T iến s ĩ g iấ y ” có còn hiện hình trong
cuộc sông củ a chúng ta hay không?

TRẢ LỜI
Câu 1:
- Bài thơ “Ông Tiến sĩ giấy” thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài
thơ gồm có hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận và hai câu kết. Hai câu luận
là thể hiện ý nghĩa trọng tâm của bài thơ.
- Với nghệ thuật ẩn dụ, so sánh ngầm nhằm mượn hình ảnh “ô ng Tiến sĩ
giấy” để mỉa mai, châm biến những ông Tiến sĩ thật, có bằng thật nhưng là
học giả, không có năng lực, phẩm chất là loại “hữu danh vô thực”.
Câu 2:
Nhà thơ mượn hình ảnh “ô ng Tiến sĩ giấy” để nói về ông Tiến sĩ thật lúc
bấy giờ. Nhà thơ nhằm vạch trần bộ mặt giả dối của nhân vật “ôn g Tiến sĩ
giấy” bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng
nhưng thực chất bên trong là sáo rỗng, thảm hại của nhân vật chỉ là kẻ “hữu
danh vô thực”.
Câu 3:
Những từ ngữ mỉa mai, châm biếm “ôn g Tiến sĩ giấy” là: “Sao mà nhẹ”;
“Thế mới hời” và lời thơ thật xấu hổ, đáng thương cho nhân vật: “Nghĩ rằng đồ
thật hóa đồ chơi”.
Câu 4:
Thật sự mà nói, hình ảnh “ông Tiến sĩ giấy” không chỉ có ý nghĩa nhất
thời, không chỉ diễn ra trong thời đại của nhà thơ Nguyễn Khuyến mà hình
ảnh trên vẫn là hình tượng nghệ thuật mang tính phổ biến trong thực trạng xã
hội hiện nay của chúng ta. Có những kẻ bề ngoài mang danh nghĩa là người có
học thức, có học vị cao nhất nào là Thạc sĩ, Tiến sĩ,... học giả mà lại bằng thật

418
với: “Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng” nhưng thực chất bên trong lại không
tương xứng với cái học vị, học hàm mà mình đã mang đó là kẻ “hữu danh vô
thực” có tiếng nhưng không có năng lực, trí tuệ tầm cao, phẩm chất đạo đức
đúng như cái học vị Tiến sĩ, Thạc sĩ của mình. Những kẻ đó là loại người dôl
trá, mua bằng cấp để tiến thân, hưởng quyền lợi từ vị trí của mình trong xã hội
là loại người đánh mất “lòng tự trọng, vô liêm sỉ”. Đáng mỉa mai, khinh bỉ !
B. Anh (chị) dọc đoạn văn dưới đây và giải thích những câu hỏi sau: (l,5đ)
... “Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự phát triển đến chóng mặt của
các công nghệ hiện đại của nền kinh tế thị trường đã đưa đến nhiều mặt trái
đáng phê phán. Dường như thói quen hành xử với nhau bằng giá trị vật chất,
tiền bạc đã khiến cho con người quên đi cách yêu thương. Hơn khi nào hết, mỗi
người cần nhận thức rằng: lòng yêu thương mới là đích đến, mục đích cao quý
của con người còn mọi thứ vật chất, tiền bạc chỉ là các phương tiện để chúng ta
thể hiện tình cảm nào đó mà thôi.
Trong một bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có viết: “Hãy yêu nhau đi
khi rừng thay lá. Hãy yêu nhau đi, dòng nước đã trôi xa...”. Tôi nghĩ rằng, đó
cũng chính là thông điệp có ý nghĩa nhất cần được gởi đến tất cả chúng ta,
những con người đang sống trong một cộng đồng vô cùng rộng lớn”. (Trích Sách
tham khảo văn học).
Câu hỏi:
Câu 1: Anh (chị) có suy nghĩ gì về đoạn văn trên ?
Câu 2: Vì sao cá c công nghệ hiện dại củ a nền kinh t ế thị trường đã
hình thành nhiều m ặt trá i đáng phê phán tron g xã hội của
chúng ta ngày nay?
Câu 3: Tại sao khi con người hành xử với nhau bằng v ật ch ất, tiền
bạc đã khiên cho con người quên đi cách yêu thương?
Lời người xưa đã từng nói như thê nào về cách hành xử như thế?
Câu 4: Anh (chị) thích cách diễn đạt nào nh ất trong đoạn văn trên ?
Vì sao?

TRẢ LỜI
Câu 1:
Khi nền kinh tê thị trường thâm nhập vào Việt Nam, các công nghệ hiện
đại phát triển quá nhanh và được đề cao thực dụng, sức mạnh đồng tiền là vạn
năng đã làm cho con người lạnh lùng vô cảm, quay mặt với tình thương, tình
người. Nhưng giá trị cuộc sống là tình thương, tình thương là cứu cánh là văn
hóa sông, văn hóa người. Còn giá trị vật chất, tiền bạc chỉ là phương tiện. Qua
đó giúp cho chúng ta có một nhận thức và hành động đúng đắn để hình thành
nhân cách, phẩm chất đạo đức của con người.

419
Câu 2:
Khi công nghệ hiện đại của nền kinh tế thị trường phát triển thì lôi sống
thực dụng, hưởng thụ lại hiện hình, khơi dậy để thỏa mãn nhu cầu dục vọng
của con người từ đó dễ phát sinh những mặt tiêu cực, mặt xấu cho xã hội. Và
khi đồng tiền là sức mạnh vạn năng trong cuộc sống thực dụng ngày nay, thì
con người sẽ làm bất cứ điều để kiếm ra tiền nhằm đáp ứng nhu cầu cho sự
thỏa mãn cá nhân, gia đình thì sự dôi trá, trở mặt, ăn cắp, cướp giật, đâm
chém sẽ hiện hình.
Câu 3:
Nếu con người hành xử với nhau bằng vật chất, tiền bạc thì sẽ đặt nặng giá
trị vật chất, tiền bạc lên trên hết và xem nhẹ giá trị tinh thần, tình thương và
con người sẽ quay lưng không bao giờ nghĩ đến tình thương, lòng nhân ái đôl
với kẻ khác cũng là lẽ thường tình, là thê thái nhân tình.
Lời người xưa cũng từng nói: “Tiền trao cháo múc”. Hay “Còn tiền còn bạc
còn đệ tử. Hết cam hết rượu hết ông tôi”. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Câu 4:
Tôi thích cách diễn đạt trong đoạn văn trích trên là đưa lời nhạc của cố
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào để làm sáng tỏ ý trọng tâm như: “Hãy yêu nhau di
khi rừng thay lá. Hãy yêu nhau đi, dòng nước dã trôi xa...” như là một thông
điệp, một lời kêu gọi con người hãy yêu thương nhau, đồng cảm, chia sẻ trước
cuộc sông để; “Làm sao được tan ra. Thành trăm con sóng nhỏ. Giữa biển lớn
tình yêu. Để ngàn năm còn vỗ”. Phải không các bạn !

II. PHẦN LÀM VĂN: (7đ)


A. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI: (3đ)

Đề bài:
Có ý kiến rằng: “H ạ n h p h ú c k h ô n g th ế x â y d ự n g trên n ỗ i đ a u
c ủ a n gư ời k h á c ? ”. Ngày nay, có kẻ nào lại xây dựng hạnh phúc
trên nỗi đau khố của người khác hay không?
Anh (chị) hãy bình luận đế làm sáng tỏ.

+ Những kiến thức cầ n nắm :


1. Lời người xưa có nói: “Thương người như thề thương thăn”. (Lời người xưa)
2. Tục ngữ có câu: “Lá lành đùm lá rách”. (Tục ngữ)
3. Có nhận định rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người
là hạnh phúc chính đáng của con người”. (Lời nhận định)

420
4. Có ý kiến rằng: “Kể nào sống vô cảm, không cỏ tình thương chỉ là một thứ
quái vật”. (Lời nhận định)
5. Nhà tỉ phú Kim Woo Choong có nói; “Cuộc sống, nếu quay lưng trước nỗi
đau của kẻ khác chỉ biết hưởng thụ sung sướng cho riêng mình là kẻ vô liêm
sỉ đáng khinh”. (Nhà tỉ phú Kim Woo Choong)
6. Triết gia Niezsche (người Đức) có nói: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sông
mạnh mẽ”. (Niezsche - người Đức)
7. Lời nhạc của cô' nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có viết: “Ngày sau sỏi đá cũng cần
có nhau” (Trịnh Công Sơn).
8. Nhà thơ Xuân Quỳnh có viết: “Làm sao được tan ra. Thành trăm con sóng nhỏ.
Giữa biển lớn tình yêu. Để ngàn năm còn vỗ”, (trích Sóng - Xuân Quỳnh).
9. Có ý kiến rằng: “Kẻ mạnh phải biết nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
(trích Đời Thừa - Nam Cao)

HƯỚNG DẨN
I. PHẦN MỞ BÀI
“Hạnh phúc là khát vọng niềm mơ ước chinh đáng của con người
mà ai ai củng mong cầu tìm kiếm”.
(Lời bày tỏ)
Nhưng kẻ nào xây dựng hạnh phúc trên nỗi đau của kẻ khác, họ là kẻ bất
nhân, vô liêm sỉ, đáng nguyền rủa. Vậy hạnh phúc là gì? Vì sao hạnh phúc là
niềm mơ ước khát vọng chính dáng của con người? Và tại sao hạnh phúc không
thể xây dựng trên nỗi đau của người khác? Ngày nay có kẻ nào xây dựng hạnh
phúc trên nỗi đau của người khác hay không?
Đế làm sáng tỏ các câu hỏi trên, chúng ta cần bình luận.

II. PHẦN THÂN BÀI


1. Trước tiên chúng ta cần tìm hiếu hạnh phúc là gì?
Có người sẽ trả lời rằng: hạnh phúc là khi mơ ước một vấn đề nào đó đã trở
thành hiện thực hay hạnh phúc là tìm gặp được đôi tượng cùng đồng cảm và có
quan niệm sống như mình hay hạnh phúc là làm ra được nhiều tiền, hạnh phúc
là được hiến máu nhân đạo làm một việc từ thiện hay hạnh phúc là nhìn thấy
dàn con của mình được ăn no, mặc ấm, khôn lớn trưởng thành.
Vậy hạnh phúc được hiểu và cảm nhận theo nhiều cách, nhiều câu trả lời
khác nhau nhưng nhìn chung, chúng ta đều hiếu rằng, hạnh phúc là một trạng
thái cảm xúc sung sướng khi con người thỏa mãn mọi ước nguyện đúng đắn
chính đáng của chính mình.

421
2. Tại sao hạnh phúc là niềm mơ ước khát vọng chính đáng của con người?
Thật sự, ai ai cũng mong cầu được sống, một cuộc sống hạnh phúc. Có người
muôh có thật nhiều tiền để sống sung sướng theo ý thích, có người thích được
sẻ chia đồng cảm trước những khó khăn của người khác, có người bằng lòng
thanh thản những gì mình đang có hay có người được đi lễ chùa, lễ nhà thờ,
làm từ thiện cũng cảm thấy hạnh phúc... Vậy hạnh phúc bao giờ cũng làm cho
con người cảm thấy được sông đầy đủ thỏa mãn những ý nguyện của chính
mình trước cuộc sông, không cảm thấy bị ràng buộc lệ thuộc, áp đặt mà được
sông với một tinh thần tự nguyện, thoải mái, thanh thản của tâm hồn đó là
hạnh phúc là một trạng thái sung sướng, là khát vọng chính đáng của con
người từ xưa cho đến nay.
3. Và tại sao hạnh phức không thế xây dựng trên nỗi đau của người khác?
Đã nói là hạnh phúc, tìm thấy hạnh phúc là khi tâm hồn cảm thấy thoải
mái, sung sướng, khi ước nguyện, ý nguyện của con người được thực hiện cho
chính bản thân và cho người khác, cho cộng đồng.
Nhưng cũng có kẻ lại mưu cầu hạnh phúc, xây dựng hạnh phúc cho chính
bản thân mình cho gia đình mình trên những nỗi đau khổ của người khác. Họ
bất châ'p tất cả để đạt được ý muốn, họ: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn, để sông
mạnh mẽ” (Niezsche) để mưu cầu hạnh phúc trên nỗi đau của người khác, họ là
những kẻ vô lương tâm, phi nhân tính.
4. Ngày nay, có kẻ nào lại xây dựng hạnh phúc trê n nỗi dau khổ của
người kh ác hay không?
Trong xã hội hiện nay mà chúng ta đang sống, không thiếu những con người
đó. Chúng là những kẻ tham tiền, hám tiền, hám lợi như bọn người mua bán
ma túy, chất trắng, chúng có thể hủy diệt bao tâm hồn trong sáng, bao lớp
người trẻ không một chút suy tư, xót thương, hôi tiếc vì mục đích là có được
nhiều tiền để sống sung sướng, hưởng thụ trên nỗi đau cùng sự hủy diệt thân
thể của người khác hay bọn người buôn bán trẻ em, phụ nữ sẵn sàng cho đàn
em bắt cóc để làm con tin hay buôn bán sang Trung Quốc làm nô lệ tình dục
cho những kẻ nhiều tiền lắm của chỉ biết sống theo dục vọng thấp hèn của
chúng. Để có được món tiền béo bở mà tha hồ ăn chơi phè phỡn trên nỗi đau
của người khác, của đồng loại thì bọn chúng sẵn sàng ra tay bâ't chấp tâ't cả.
Những hạng người này không thiếu trong cuộc sông của chúng ta hiện nay hay
những kẻ muốn ăn trên ngồi trước, tham ô, hối lộ, những kẻ lạm dụng chức
quyền để được sung sướng, hưởng lợi hay chúng có thể là những tên chủ nhà
cho thuê mướn với những căn nhà ọp ẹp, tồi tàn, ẩm thấp mà người nghèo khổ
phải đành chấp nhận thuê với một giá cắt cổ và còn biết bao hiện tượng xấu,
mặt trái khác ngày nay đang ra sức hoành hành, bóc lột, vơ vét trên nỗi đau
của những người dân nghèo. Thế mà bọn chúng vẫn hả hê, thoả thích, ung

422
dung, sung sướng và cho đó là hạnh phúc. Thực chất cảm giác của bọn người đó
được nêu ra mà chúng cho là niềm hạnh phúc nhưng thực chất không phải thế.
Vì để có được hạnh phúc, hạnh phúc đích thực và đúng nghĩa của nó là khi
chúng ta có được một trạng thái cảm xúc tích cực, việc làm của chúng ta phải
hướng đến cái thiện, cái đẹp, cái chân tình thấm đẫm tính nhân văn chứ
không thể hành động để đẩy con người xuông vực thẳm, vũng bùn của tội lỗi
của cái xấu, cái ác là hành động phi nhân tính, phi đạo đức của một bọn người
độc ác nhẫn tâm như chúng ta đã nêu. Chúng ta lên án và nguyền rủa những
con người như thế, bọn người như thế. Vì hạnh phúc không thể xây dựng trên
nỗi đau của người khác mà hạnh phúc là; “Làm sao được tan ra. Thành trăm
con sóng nhỏ. Giữa biển lớn tình yêu. Để ngàn năm còn vỗ”, (trích Sóng -
Xuân Quỳnh). Đó mới là hạnh phúc đích thực là ước vọng chính đáng của con
người. Đúng như lời ngạn ngữ phương Tây đã nói: “Khi ta sinh ra đời, mọi
người đều cười nhưng riêng ta thì khóc. Nhưng ta phải sông như thế nào để khi
ra đi, mọi người đều khóc nhưng riêng ta vẫn mỉm cười”.

III. PHẦN K ẾT BÀI


Ý nghĩa của đề bài trên là bài học vô cùng quý báu cho mọi người khi tìm
đến hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có được đó là niềm vui, sự thanh thản, niềm
sung sướng trong tâm hồn khi ý nguyện, ước nguyện đã trở thành hiện thực.
Không bao giờ xây dựng hạnh phúc, có được hạnh phúc trên nỗi đau của đồng
loại mà hạnh phúc chỉ có sự chủ động, tự nguyện thành tâm để cùng đồng cảm
chia sẻ trước nỗi đau khổ của người khác, của đồng loại cũng chính là cách để
chúng ta tìm thây hạnh phúc trong cuộc đời này.

B. PHẦN NGHỊ LUẬN VÃN HỌC: (4đ)

Đề bài: T ro n g tru y ệ n n gắn “R ừ n g X à N u ” c ủ a n h à v ăn N guyễn


T ru n g T h àn h có đoạn tríc h sau đây:
... “N ó h ấ t h à m r a h iệ u th ằ n g lín h to b é o n h ấ t. C h ú n g n ó đ ã
c h u ẩ n b ị s ẵ n c ả . T h ằ n g lín h m ở tú i se ( b a o đ ạ n ) lấ y r a m ột n h ú m
g iẻ đ ã tẩ m d ầ u X à Nu. N ó q u ấ n g iẻ lê n m ư ời đ ầ u n g ó n tay TNÚ.
R ồ i n ó c ầ m lấ y m ộ t c â y lử a. N hư n g th ằ n g D ục b ả o :
- Đ ể đ ó c h o ta u
N ó g iậ t lấ y c â y lử a.
TNú k h ô n g k ê u lê n m ột tiế n g n ào. A nh trỢn m ắ t n h ìn th ằ n g Dục.
N ó cư ờ i s ằ n g s ặ c . N ó g í câ y lử a lạ i s á t m ặ t a n h :

423
- C oi k ĩ c á i m ặ t th ằ n g c ộ n g s ả n m u ốn c ầ m vũ k h í n ày x em s a o
n à o ! S ô k i ế p c h ú n g m ày k h ô n g p h ả i l à c ầ m g iá o , m ác.
- B ỏ c á i m ộ n g c ầ m g iá o m á c đ i n g h e k h ô n g !
Một n g ón tay TNú b ố c ch á y , h a i n gón , b a n g ón . K h ô n g c ó g ì
đư ợm b ằ n g n h ự a X à Nu. L ử a b ắ t r ấ t n h a n h . Mười n g ón tay đ ã
th à n h m ư ời n g ọn đ u ốc.
TNÚ n h ắ m m ắ t lạ i, r ồ i m ở m ắ t ra , trừ n g trừng.
T rờ i ơi ! C h a m ẹ ơ i ! A nh k h ô n g c ả m th ấ y lử a ở m ư ời đ ầ u n g ón
tay nữ a. A nh n g h e lử a c h á y tr o n g lò n g ngực, c h á y ở bụ n g. M áu
a n h m ặ n c h á t ở d ầ u lưỡi. R ă n g a n h đ ã c ắ n n á t m ô i a n h rồ i. A nh
k h ô n g k ê u lên . A nh Q uyết n ó i: “N gư ời c ộ n g s ả n k h ô n g th è m k ê u
v a n ...” TNú k h ô n g th èm , k h ô n g th èm k ê u van. N h ư n g trờ i ơi !
C háy, C h áy c ả ru ộ t d ấ y r ồ i ! A nh Q uyết ơi ! C h áy ! TNú sẽ k h ô n g
k ê u ! K h ô n g ! ”.
(T rích “R ừ n g X à N u ” - N guyễn T ru n g T h ành).
Anh (chị) p h ân tích đ oạn tríc h trê n đế làm sán g tỏ phẩm c h ấ t
đẹp c ủ a người ch iến sĩ trẻ TNÚ trê n vùng đ ấ t T ây N guyên thời
ch ố n g Mỹ.

+ Những kiến th ứ c cầ n nắm :


1. Nhà thơ Tô Hữu có viêt: “Chúng muốn đôt ta thành tro hụi. Ta hóa vàng
nhăn phấm lương tâm. Chúng muốn biển ta thành ô nhục. Ta làm sen thơm
ngát giữa đầm”, (trích Máu và Hoa - Tô Hữu).
2. Nhà văn Musset - Pháp có nói: “Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”.
(Musset - Pháp)
3. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết: “Xiềng xích chúng hay không khóa được.
Trời đầy chim và đất đầy hoa. Súng đạn chứng hay không bắn dược. Lòng
dân ta yêu nước thương nhà”, (trích Đất Nước - Nguyễn Đình Thi)
4. Lời cố nhân có nói: “Uy vã bất năng khuất”. (Lời cố nhân)
5. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết; “Đất Nước là máu xương của mình.
Phái biêt găn bó và san sẻ. Phai biết hỏa thăn cho dáng hình xứ sở. Làm
nên Đất Nước muôn đời”, (trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm).
6. Có lời bày tỏ về nhân vật TNú rằng: “Mười ngón tay của TNú như mười
ngọn duôc sông, toát lên sự kiên cường, dũng cảm bất khuất của người chiến
sĩ trẻ trên vùng đất Tây Nguyên thời chống Mỹ”. (Lời bày tỏ)

424
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn biến ta thành ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm”.
(Trích Máu và Hoa - Tô Hữu).
Những vần thơ trên của nhà thơ Tô' Hữu như đưa chúng ta nhớ đến truyện
ngắn “Rừng Xà Nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành trích trong tập truyện
“Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Tác giả đă khắc họa hình ảnh
TNú, người chiến sĩ trẻ trên vùng đất Tây Nguyên thời chống Mỹ cũng mang
một vẻ đẹp, một phẩm chát đáng trân quý như thế !

II. PHÂN TRỌNG TÂM


Phẩm ch ât dẹp củ a TNÚ trong đoạn văn trích trên .
+ Vẻ đẹp 1:
- TNú vì quá bức xúc, phẫn nộ trước hành động tàn bạo, dã man của bọn
giặc đối với vợ con anh, cuối cùng TNú đã rơi vào tay giặc đúng như âm mưu đê
hèn của kẻ thù. TNú ! Anh bị bọn giặc tra tấn như thê nào? Bọn giặc đã dự
tính muốn dốt hai bàn tay của TNú bằng nhựa Xà Nu nhằm khủng bô, uy hiếp
tinh thần người dân Xô Man sẽ không còn dùng giáo, mác đế chống lại bọn
chúng. Rồi chúng quân giẻ đã tẩm nhựa Xà Nu lên mười đầu ngón tay của anh
rồi dùng một cây lửa đôt lên. Nhựa Xà Nu bắt lửa rất nhanh, rất nóng và hai
bàn tay của TNú phựt cháy như mười ngọn đuốc sông. Nhưng lạ thay ! Lúc ấy:
“TNú không kêu lên một tiếng nào”. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục - tên tiếu
đội trưởng như biểu hiện lòng căm thù sôi sục dâng lên cao độ trong tâm hồn
anh. Dù nhựa Xà Nu rất nóng vô cùng nhưng anh vẫn cô chịu đựng: “Không
kêu lên một tiếng nào” là thể hiện sự kiên cường, gan dạ, bâ't khuất của người
chiến sĩ trẻ TNú. Anh đã bấm bụng chịu sự đau đớn của thân xác đế giữ đúng
lời dặn dò của anh Quyết đã từng nói với anh: “Người cộng sản không thèm kêu
van”. Và thật sự trước hành động dã man như thế, nhựa Xà Nu nóng dến
khủng khiếp như thê nhưng TNú vẫn giữ một thái độ điềm tĩnh: “TNú không
thèm, không thèm kêu van”. Đây là một hành động gan dạ, dũng cảm để giữ
tròn phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản trước kẻ thù là vẻ đẹp: “Uy vũ bất
năng khuất”.
- Nhấn mạnh: Mặc dù TNú đang ở thê bị động, bị tra tấn hết sức dã man
nhưng anh vẫn thể hiện sự kiên cường, dũng cảm không khuât phục trước kẻ
thù dó chính là thước đo lòng yêu nước là tình yêu cách mạng đã thấm đẫm
trong tâm hồn anh. Hình ảnh của TNú mãi mãi là tấm gương sáng, ngọn đuôc

425
sáng tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội của anh cho người dân Xô Man trong
chiến đấu mãi mãi là một phẩm chất đẹp của người chiến sĩ trẻ. Quả thật:
“Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”. (Musset - Pháp). TNú là con
người mang vẻ đẹp như thế.
+ Vẻ d ẹp 2
Một hình ảnh thật xúc động lẫn căm phẫn trong lòng người đọc, khi nhìn
thấy: “Mười ngón tay của TNú thành mười ngọn đuốc”. Sức nóng của nhựa
Xà Nu đã thấm vào mười ngón tay của anh quả là sức nóng khủng khiếp nhưng
đôi mắt của TNú lúc ấy vẫn mở ra “trừng trừng” vào kẻ thù là biểu hiện sự
phẫn nộ, căm thù giặc lên đến đỉnh điểm trong tâm hồn TNÚ. Đặc biệt, nhà
văn đã di sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, cảm nhận được trong con
người của TNú, anh đang chịu đựng sức nóng của nhựa Xà Nu, anh đang chông
lại nó, chế ngự nó để làm chủ bản thân bằng cách: “Răng anh đã cắn nát môi
anh rồi”. Lạ thay ! lúc ấy: “Anh không cảm thấy lửa cháy ở mười dầu ngón tay
nữa”. Chứng tỏ anh đang cô chịu đựng và không chế sự đau đớn của cảm giác
của thân xác và: “Anh đã nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng”. Quả
thật lúc này, lờng căm thù giặc đã dâng lên như sóng trào, sục sôi trong tâm
hồn TNú, vì anh đã nhận thức, hiểu rõ âm mưu thâm độc, thủ đoạn đê hèn và
hành động tàn bạo, dã man của giặc đối với anh, vợ con anh cùng người dân
làng Xô Man của anh. Chính vì thê lòng căm thù của TNú đối với bọn giặc lại
càng sục sôi hơn, căm phẫn hơn và TNú mới cảm nhận: “Nghe lửa cháy trong
lồng ngực, cháy ở bụng”. Như vậy, trong tình huống này, sự cảm nhận của TNú
không còn thuộc về cảm giác về thân xác mà sự cảm nhận thuộc về ý thức, ý
thức về lòng căm thù giặc sâu sắc của TNú chính là vẻ đẹp, thước đo lòng yêu
nước, yêu cách mạng, yêu quê hương đã thấm đẫm trong tâm hồn Tnú tự bao
giờ. TNú mãi mãi là hình tượng nghệ thuật đẹp về hình ảnh người du kích,
người chiến sĩ trẻ trên vùng đất Tây Nguyên thời chống Mỹ thật đáng trân quý
tự hào.

II. PHẦN KẾT BÀI


Đoạn văn trên mang khuynh hướng sử thi. Nhà văn đã đi sâu vào đời sống
nội tâm nhân vật, xây dựng những tình huống gây cấn đầy kịch tính, ngôn ngữ
giàu tính nhân văn. Lời thoại của nhân vật rất thật.
Nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật TNú, người chiến sĩ trẻ của vùng
đất Tây Nguyên thời chông Mỹ thật gan dạ, kiên cường, bất khuất trước hành
động tàn bạo dã man đê hèn của kẻ thù. Dù: “Chúng muốn dốt TNú thành tro
bụi. TNú vẫn hóa vàng nhân phẩm lương tăm”. Phải chăng, TNú là biểu tượng
cho lương tâm của thời đại của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong
chiến đấu và trong niềm kiêu hãnh tự hào.

426
M ỤC LỤ C
Trang
Lời nói đầu .......................................................................................................................... 3
Phần thứ nhất: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
VĂN HỌC THỜI KÌ 1930 - 1945
1. Những bài thơ của Hồ Chí Minh trong tập thơ “ Nhật kí trong tù" ......................................... 5
- Hoàn cảnh ra đời của tập thơ........................................................................................... 5
- Tấm lòng yêu thương con người sâu sắc của chính nhà thơ.................................................6
- Chiều tối (Mộ.) .............................................................................................................. 7
- Lai T ă n .......................................................................................................................... 9
2. Từ âý (Tố H ữu)....................................................... ^ ...................................................... 11
3. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích kịch Vũ Như Tô)(NguyễnHuy Tưởng)..................................... 16
4. Chí Phèo (Nam Cao) ......................................................................................................... 21
5. Đời thừa (Nam Cao) ..........................................................................................................30
6. Hạnh phúc của một tang gia (Trích tiểu thuyết trào phúng Số đỏ)(Vũ Trọng P h ụ n g )............. 38
7. Hai đứa trẻ (Thạch Lam) .................................................................................................. 43
8. Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) ......................................................................................... 50
9. Vội vàng (Xuân Diệu) ........................................................................................................ 57
10. Tràng Giang (Huy Cận) ................................................................................................... 64
11. Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) ........................................................................................ 71
12. Tí/ơng fí/(Nguyễn Bính) ................................................................................................. 79
VĂN HỌC THỜI KÌ 1945 - 1975
13. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí M in h ..................................................................................... 86
14. Tuyên ngôn Độc lập ...................................................................................................... 89
15. Nguyễn Đinh Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Vãn Đồng) ............ 94
15. Tây Tiến (Quang Dũng) ................................................................................................ 101
16. l//ệf eắc (Tố Hữu) ........................................................ ^ ............................................. 120
17. Đất Nước (Trích Trường ca Mặt đườngkhát vọng) - (Nguyễn Khoa D iề m ).......................... 137
18. Sóng (Xuân Q u ỳnh)....................................................................................................... 154
19. Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) .................................................................................. 164
20. Người lái đò sõng Đã (Nguyễn Tuân) ............................................................................. 175
21. Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) ............................................................................................ 186
22. VỢ nhặt (Kim Lân) ...... ................ . ...... .................... 198
23. Phân tích hưổng giải quyết về số phận con người thông qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ
của Tô Hoài và vợ nhặt của Kim Lân .............................................................................211
24. Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) .............................................................................. 214
25. Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) ..................................................................223
VĂN HỌC THỜI KÌ 1975 - 2000
26. Nguyên nhân hình thành, sự thành tựu cùng mặt tích cực và mặt hạn chế của vãn học
giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỉ XX ..............................................................................230
27. Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) .............................................................................. 232
28. Ai đã đặt tên cho dòng sông? (HoàngPhủ ngọc Tường) ................................................... 237
29. Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh C hâu).................................................................... 243
30. Hồn Trưdng Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) ................................................................. 257
31. Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) .................................................................................. 269

427
Phần thứ hai: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

NGHỊ LUẬN VỀ Tư TƯỞNG ĐẠO LÍ


1. Anh (chị) hiểu thế nào là lẽ sống đ ẹ p ? ........................................................................... 273
2. Giải thích ý kiến của Nguyễn Bá Học: "Đường đi khó, không khó vi ngăn sông cách
núi mà khó vi lòng người ngại núi e sông” ................................................................... 275
3. Giải thích ý kiến: "Ăn để nuôi người. Học để nuôi đờỉ' ..................................................... 279
4. Nêu ý kiến vê' câu nói: "Đứng trước nhiều ngả đường, ... ngoại lực(kháchquan)?. .............. 281
5. Giải thích lời hỏi sau: "Tại sao con người cần phải sống khiêm tốn?” ............................... 283
6. Giải thích ý kiến sau: "Tình thương là hạnh phúc của con người” ...................................... 285
7. Suy nghĩ thế nào về ý kiến: "Phê phán thải độ thờ ơ ... vị tha, tình đoànk ế t ....................288
8. Anh (chị) hiểu thế nào là sự công bằng? Sự công bằng ảnh hưởng đến cuộc sống
của m ỗi người chúng ta ra s a o ? ................................................................................... 292
9. Giải thích câu nói: “ Một câu nhịn, chín câu lành" ............................................................ 294
10. Nhận xét ý kiến của Rabelaise - văn hào Pháp: “ Khoa học không lương tâm là sự
hủy hoại tãm hồn” ....................................................................................................... 296
11. Anh (chị) hiểu thế nào là lòng tự trọng? Lòng tự trọng ảnh hưởng đến cuộc sống
của mỗi chúng ta như thế nào?” .................................................................................. 289
12. Giải thích ý kiến: “ Mất nghị lực, mất tất cả" ................................................................... 302
13. Giải thích ý kiến: “ Niềm lạc quan góp phần ... con người trước cuộc sống" ..................... 305
14. Giải thích và nêu lên suy nghĩ vể ý kiến: “ Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược
nhau, đều ảnh hưởng không tốt đến tư cách sống của m ột con người” ............................ 308
15. Suy nghĩ về quan niệm sống hiện nay của bản thân qua ý kiến của Đi-đơ-rô: “ Nếu
không có mục đích bạn ... điểu v ĩ đại với cả những mục đích tẩm thường" ..................... 311
16. Anh (chị) hiểu thế nào là con người có vẫn hóa? ........................................................... 314
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
17. Nêu nguyên nhân cùng hậu quả và đưa ra biện pháp để góp phần giảm thiểu tai nạn
giao th ô n g ..................................................................................................................... 318
18. Chúng ta cần phải làm gi để bảo vệ môi trường?............................................................ 320
19. Phát biểu cảm nghĩ về vấn đề bạo lực trong học đường .................................................... 322
20. Phát biểu cảm nghĩ về vấn đề bạo hành trong gia đình .................................................... 325
21. Phát biểu cảm nghĩ về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay ....................328

Phần thứ ba: CÂU TRÚC ĐỂ t h i đ ạ i h ọ c t h e o h ư ớ n g m ớ i


CỦA BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NĂM 2014
Đề tuyển sinh số 1 ................................. .'.......................................................................... 331
Đề tuyển sinh số 2 ............................................................................................................340
Đề tuyển sinh số 3 ............................................................................................................348
Đề tuyển sinh số 4 ............................................................................................................356
Đề tuyển sinh số 5 ............................................................................................................368
Phần thứ tư: CÂU TRÚC ĐỂ t h i THPT QUỐC g ia t h e o HLÍỚNG m ớ i
CỦA BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NÃM 2015
Để tuyển sinh số 1 ...............'.......................................... ' ..................................................379
Đề tuyển sinh số 2 ............................................................................................................ 389
Đề tuyển sinh số 3 ............................................................................................................399
Đề tuyển sinh số 4 ............................................................................................................407
Đề tuyển sinh số 5 ............................................................................................................417

42B
áÁcA. u c ^ Cr
'W W W . n h a ^ s a . c : H l i o n ^ í i r - i . .v n
E m a il: n h a s a c h h o n g a n @ h o t m a i l .c o m
2 0 C N g u y ễ n T h ị M in h K h a i - Q .1 - T P . H C M
ĐT: 38 24 67 06-3 91 073 71 -3 9 10 709 5 ♦F ax: 39107053
ca ./é ca
Quý khách ở xa liên hệ: w w w .h o n g a n t r u c t u y e n .v n
đ ể chúng tôi được phục vụ.

B íq u y ế t LỜI CỦA TÁC GIẢ

TEÍIĐẬU Suốt bốn mưdi năm qua, đứng trên bục giảng, lòng
yêu nghề và sự tận tâm học hỏi đã cho tôi có một món
THPT QUỐC GIA quà tinh thần quý bdu, đó là cuốn sách "BÍ QUYỄT
THI ĐẬU THPT QUỐC GIA MÔN VĂN". Cuốn sách như

VÃN
một người bạn tốt sẽ giúp cdc em củng cố lại kiến
thức Văn học và phường phdp làm bài, chuẩn bị cho
) thi Đại học, định hướng tưong lai...

tì> n v đ ọ o :

8 935092 772967
Giá: lOS.OOOđ

You might also like