Professional Documents
Culture Documents
Cân nhắc của chủ lao động và người lao động trước khi đi đến trả lương
Cân nhắc của chủ lao động và người lao động trước khi đi đến trả lương
THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI:
Cân nhắc của chủ lao động và người lao động trước khi đi đến trả
lương. Nêu khái niệm về thông tin bất cân xứng giữa chủ lao động
và người lao động. Mối quan hệ giữa giám sát và năng suất lao
động, mối quan hệ giữa năng suất và tiền công
Lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ nhưng có năng suất lao động
như nhau thì phải được trả công
Người lao động đi làm ngoài mục đích nhận tiền công còn cân nhắc các mục
đích khác:
Công việc thích hợp như nhau
Điều kiện làm việc
Sự thăng tiến trong nghề nghiệp
Mức độ rủi ro của công việc
Các lợi ích khác (phúc lợi ngoài lương, được đào tạo,…)
Các nhu cầu căn bản như không khí, nước, thức ăn, chỗ ở, nhu cầu được an
toàn, nhu cầu sở hữu, yêu thương, liên hệ với người khác và được chấp nhận; nhu cầu
được tôn trọng, được tán thành, được biết đến; nhu cầu vươn tới cái đẹp; tự hòan thiện,
tự khẳng định; giúp người khác tự khẳng định giá trị của họ.
So với việc trả lương theo sản phẩm thì người lao động sẽ thích được trả lương
theo thời gian lao động hơn, bởi:
o Sản lượng không chỉ phụ thuộc vào năng lượng người công nhân bỏ ra hay
cam kết của anh ta mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
o Thu nhập bất ổn định không hấp dẫn đỗi với người lao động.
o Người lao động có nghĩa vụ tài chính hàng tháng như : tiền thuê nhà, bảo
hiểm, tiền điện nước, thực phẩm,…
o Giai đoạn bị trả lương thấp diễn ra dồn dập sẽ gây khó cho người lao động
trả các nghĩa vụ tài chính.
1
Động cơ của người lao động quyết định việc họ sẽ lựa chọn công ty hoặc thể
chế nào và những mong muốn của họ đối với các công ty hay thể chế đó. Thông
thường những mong muốn của người lao động là:
o Hãng có quy mô và lợi nhuận lớn
o Công lao và thành tích của họ được đánh giá và trả công xứng đáng
o Được đối xử công bằng
o Có nhiều cơ hội khẳng định bản thân và thăng tiến
o Được đào tạo, được chia sẻ thông tin và được tham gia vào các quyết định
chung
Những người thích hình thức trả lương theo thời gian là những người tin rằng
họ có khả năng làm việc với năng xuất cao hơn mức trung bình và là người cam kết
làm việc với hết khả năng của họ.
2.2. Cân nhắc của chủ lao động.
Mục tiêu của hãng là tối đa hóa lợi nhuận
Tiền công trả cho người lao động được coi là chi phí trong quá trình sản xuất
nên hãng luôn có mục tiêu điều chỉnh chi phí sao cho ở mức thấp nhất
Đồng thời, hãng còn cân nhắc các mô hình trả lương làm cho năng suất của
người lao động và mức độ hài lòng của khách hàng tăng, từ đó làm tăng lợi nhuận
Đối xử công bằng với người lao động
Tiền công phải có mục tiêu khuyến khích thành tích cá nhân và thành tích của
nhóm
Tiền lương của hãng phải có tính cạnh tranh trên thị trường lao động (nhằm thu
hút lao động chất lượng cao hoặc có cam kết lâu dài)
Hệ thống tiền công phải tuân thủ các quy định của pháp luật
Vấn đề của ông chủ là quyết định cơ sở trả lương liên quan tới khuyến khích nỗ lực làm
việc của người lao động. Vấn đề này liên quan tới 3 kiểu kế hoạch khuyến khích dưới
đây:
Trả lương theo sản lượng: các biện pháp khuyến khích cá nhân
Lợi thế :
o Khuyến khích công nhân chấp nhận các mục tiêu lớn gắn với mục tiêu của
ông chủ.
o Người lao động có động lực để làm việc rất nhanh tạo ra nhiều sản phẩm
hơn.
Khó khăn :
2
o Cả cách chia theo tỷ lệ sản phẩm và tỷ lệ hoa hồng đều có thể làm giảm đi
lòng trung thành đối với nhóm.
o Máy móc dụng cụ thường bị hỏng do sử dụng quá mức và không cẩn thận.
o Khó khăn trong việc thiết lập ra tỷ lệ sản phẩm để trả lương như thế nào
o Các công nhân được trả lương theo tỷ lệ thường chú trọng số lượng hơn
chất lượng sản phầm một cách vô thức.
o Trong nhiều hoạt động, thậm chí sản lượng cũng khó có thể đo lường khách
quan.
Ví dụ: Người ta thường khẳng định rằng các công nhân được trả lương theo tỉ lệ
sản phẩm thường tháo các thiết bị an toàn ra khỏi máy sản xuất để có thể sản xuất
được mức sản lượng cao nhất. Vấn đề này chỉ được giảm nhẹ khi máy móc bị hỏng
khiến không sản xuất được và làm mất thu nhập của người lao động. Nhiều hãng dùng
các cách trả lương theo tỷ lệ sản phẩm đòi hỏi công nhân phải tự cung cấp các thiết bị
dụng cụ sản xuất
Trả lương theo sản lương: cơ chế khuyến khích nhóm.
Lợi thế:
o Được áp dụng khi khó giám sát sản lượng cá nhân, khi cơ chế khuyến khích
cá nhân gây bất lợi cho chất lượng sản phẩm hoặc khi sản phẩm chỉ được
sản xuất ra bởi 1 nhóm công nhân.
Khó khăn :
o Nguyên nhân gây nên các hành động lời biếng hay trốn việc.
o Gây khó khăn về việc đo lường.
o Việc chia lợi nhuận hàng năm cho mỗi thành viên quản trị có thể khiên ban
quản trị mưu cầu thiết kế chiến lược chỉ nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở thời
điểm hiện tại có thể gây bất lợi cho tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn.
Trả lương theo thời gian làm việc kèm hình thức trả lương tăng dần:
Cơ chế trả lương theo thời gian làm việc có thể thỏa mãn được mong ước của
người lao động đó là tạo thu nhập ổn định nhưng nó lại tạo ra vấn đề về nguy cơ đạo
đức bởi lương công nhân không bị ảnh hưởng bởi sản lượng nên động lực sản xuất của
họ bị giảm. Vì vậy cơ chế trả lương tăng dần sẽ giải quyết được vấn đề nêu trên:
Lợi thế:
o Tạo động lực cho công nhân tăng năng suất lao động.
o Hấp dẫn hầu hết các công nhân có ý định gắn bó lâu dài với ông chủ và làm
việc chăm chỉ để nhận được thành quả của họ.
o Ông chủ không cẩn bỏ ra quá nhiều nguồn lực cho việc giám sát do hãng có
thời gian dài để đánh giá sự thiếu chăm chỉ của người lao động.
3
Khó khăn:
o Phải đánh giá khách quan nỗ lực của người lao động do một số yếu tố bên
ngoài.
o Phải quản lý được quỹ tiền thưởng nếu không mô hình này sẽ thất bại.
o Thiếu gắn kết nhất quán trong việc đánh giá giữa những người quản lý khác
nhau.
o Các cơ chế thưởng tăng dần đặc biệt không được tin tưởng bởi những người
lao động không làm về quản lý
IV. Mối quan hệ giữa năng suất và tiền công; năng suất lao động và giám sát
4.1. Một số khái niệm.
Năng suất lao động
Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu về hiệu quả hữu ích của hoạt động có
mục đích của con người trong quá trình sản xuất.
Mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm.
Như Mác đã viết: “Sự tăng lên của mức sản xuất hay năng suất của lao động,
chúng ta hiểu nói chung là sự thay đổi trong cách thức lao động ,một sự thay đổi làm
giảm ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một
số lượng ít hơn lại có được một sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn”.
Giám sát:
Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên,
liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để nâng cao năng suất lao
động tránh tình trạng lười biếng, mất hàng hóa, mất tiền, sai quy chế sản xuất, thái độ
phục vụ với khách hàng,... ảnh hưởng đến uy tín của cả doanh nghiệp..
4.2. Các nhân tố tác động tới năng suất lao động
Cá nhân người lao động:
Trình độ tay nghề, kỹ năng
Tinh thần trách nhiệm
5
Sức khỏe, trạng thái tinh thần
Sự gắn bó với doanh nghiệp
Từ phía doanh nghiệp, công ty, chủ lao động
Tiền lương: chủ lao động phải đưa ra mức lương hợp lí để kích thích tinh thần
làm việc của người công nhân
Cơ chế hoạt động: cơ chế quản lí hiệu quả cũng như nguyên lí hoạt động
thông minh sẽ giúp nâng cao năng suất lao động
Các nhân tố khác:
Nguồn vốn, máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất,... một doanh nghiệp có
nguồn vốn hạn hẹp, trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ sở vật chất nghèo
nàn thì công nghệ hiện đại, tiên tiến và vấn đề về tài chính mạnh sẽ có năng
suất lao động cao hơn rất nhiều
Điều kiện môi trường lao động: ánh sáng, tiếng ồn,…
4.3. Mối quan hệ giữa năng suất lao động và tiền công
Trước khi tìm hiểu về mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa tiền công và NSLĐ,
ta hiểu thực chất về mối quan hệ này là gì và nó là sợi dây xuyên suốt mối quan hệ
này.
Thực chất của mối quan hệ giữa tiền công và NSLĐ là mối quan hệ giữa ăn và
làm hay cái được hưởng và cái làm ra hay xét trong phạm vi toàn xã hội là tiêu dùng
và sản xuất.
Giữa tiền công và NSLĐ có một điểm gắn kết như sợi dây dàng buộc, đó là quá
trình lao động. Quá trình lao động gồm nhiều hoạt động lao động, sử dụng sức lao
động để tạo ra NSLĐ làm ra sản phẩm. Quá trình lao động đã làm hao phí sức lao
động của người lao động để tạo ra sản phẩm nên người lao động phải được nhận một
khoản tiền để bù đắp lại lượng lao động đã hao phỉ trong quá trình lao động,đó là tiền
6
công. Đây chính là cái mà người lao động được hưởng sau khi đã sử dụng sức lao
động của mình tạo ra NSLĐ để tạo ra sản phẩm.
Ngoài ra, trong mối quan hệ giữa tiền công và NSLĐ, tốc độ tăng của tiền công
thấp hơn tốc độ tăng của năng suất lao động. Như trên đã nói, giữa tiền công và NSLĐ
có mối quan hệ nhưng mối quan hệ đó như thế nào, làm ra bao nhiêu hưởng bấy nhiêu
hay chỉ hưởng một phần của cải làm ra, khi NSLĐ tăng lên thì tiền lương cũng tăng
lên một lượng tương ứng hay chỉ tăng lên thêm một phần của làm ra. Thực tế cho thấy
tốc độ tăng năng suất lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân. Tức là lượng vật chất
làm được thêm phải nhiều hơn phần được hưởng thêm do một số nguyên nhân sau:
Do yêu cầu tăng cường khả năng cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, trong
sản xuất để cạnh tranh được thì giá thành sản phẩm phải thấp tức là phải giảm chi phí
cho một đơn vị sản phẩm. Tiền lương là một chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm,
giảm chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm làm giảm giá thành sản phẩm. Tăng
NSLĐ làm giảm hao phí sức lao động cho một đơn vị sản phẩm hay giảm chi phí tiền
lương cho một đơn vị sản phẩm.
Do NSLĐ chỉ là một bộ phận của tổng năng suất. NSLĐ tăng lên do nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan như công nghệ sản xuất, môi trường lao động, tài nguyên
thiên nhiên, con người... trong đó có tiền lương. Như vậy tiền lương chỉ góp một phần
làm tăng NSLĐ. Khả năng tăng NSLĐ là lớn hơn so với khả năng tăng tiền lương.
Do yêu cầu của tích luỹ nên NSLĐ tăng lên có một phần do công nghệ sản xuất
vậy cần thiết phải trích một phần lợi nhuận từ kết quả do tăng NSLĐ để tích luỹ nhằm
không ngừng đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ để quay trở lại phục vụ sản
xuất,làm tăng NSLĐ. Như vậy, sản phẩm làm thêm được do tăng NSLĐ không được
dùng hoàn toàn cho tăng thêm tiền lương làm tốc độ tăng của tiền lương luôn bé hơn
tốc độ tăng NSLĐ
4.4. Mối quan hệ giữa giám sát và năng suất lao động
Chủ lao động lại muốn tăng NSLD để tăng lợi nhuận cho mình nên áp dụng
phương pháp giám sát chặt chẽ người lao động tác động bằng các biện pháp của mình
hoạt động đạt được NSLD cao nhất.
Sự giám sát chặt chẽ, phù hợp → tích cực lên người lao động → năng suất lao
động tăng
Sự giám sát chặt chẽ gây ra áp lực → tiêu cực lên người lao động → năng suất
lao động giảm
Năng suất lao động cũng tác động đến người giám sát:
7
Năng suất lao động cao → người giám sát có xu hướng buông lỏng hơn sự giám
sát
Năng suất lao động cao → người giám sát có xu hướng giám sát chặt chẽ tạo áp
lực