Professional Documents
Culture Documents
Biên bản thảo luận TT HCM
Biên bản thảo luận TT HCM
NHÓM: 02
MÃ LỚP HỌC PHẦN: 2121HCMI0111
TÊN HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4. NỘI DUNG
Phản biện nhóm 1: Nội dung nhận xét:
o Hình thức: + Slide đẹp, dễ nhìn
+ Slide đảm bảo độ dài
1
o Nội dung: Đảm bảo đầy đủ nội dung, rõ ràng
o Bạn thuyết trình to, rõ ràng không phụ thuộc vào tài liệu
Phản biện nhóm 7: Nội dung nhận xét
o Hình thức: Slide đẹp, dễ nhìn, tuy nhiên chữ hơi nhỏ khó nhìn
o Nội dung: Rõ ràng, đầy đủ nội dung
o Bạn thuyết trình nói to, rõ ràng, dễ hiểu
Câu 2. Trong thời gian hoạt động cách mạng tại các nước Pháp, Liên Xô, Trung
Quốc, Hồ Chí Minh đã gặp những khó khăn gì?
Trả lời
Trong thời gian sống, làm việc và hoạt động cách mạng tại các nước Pháp, Liên
Xô, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã gặp không ít những khó khăn và phải đổi tên vô số
lần.
Tại Pháp:
Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, Bác trang trải cuộc sống bằng cách
làm việc nửa ngày. Để mưu sinh, ban ngày Nguyễn Ái Quốc làm thợ chụp ảnh, chấp
nhận sống kham khổ trong căn phòng nhỏ ở ngõ Compoint và dùng hầu hết số tiền
kiếm được để mua các tờ báo cánh tả cấp tiến, đặc biệt là báo “Nhân đạo”, ban đêm
hoạt động cách mạng. Ngoài ra, do có sự bất đồng ngôn ngữ, Bác phải học ngoại ngữ
3
trong lúc vừa lao động kiếm sống vừa tìm hiểu cuộc sống các nước và vừa tìm hiểu
đường lối cách mạng.
Giữa năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi
"Bản yêu sách tám điểm "của nhân dân An Nam tới Hội nghị các nước đế quốc họp tại
Vécxây. Mặc dù Yêu sách chỉ nêu những yêu cầu tối thiểu trong khuôn khổ cải cách,
nhưng các tác giả của bản Yêu sách ấy đã không nhận được một lời phúc đáp. Từ thực
tế ấy, Người kết luận: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào
mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình".
Sau khi gửi bản yêu sách, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn bị đeo bám, giám sát, lục
soát nơi ở, bị đe đọa và các mật thám chuyên trách còn đều đặn gửi báo cáo về Bộ
Thuộc địa, trong đó ghi chép mọi di biến động trong đời sống hàng ngày của Người.
Ngày 19-1-1922, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp thuộc địa đã họp quyết định lập
ra Hội Hợp tác người cùng khổ và ra tờ báo cùng tên. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ, Hội
Hợp tác là hội kinh doanh sản xuất, mỗi cổ phần đóng 100 phơ-răng, hùn vốn 15.000
phơ-răng để ra tờ báo “Người cùng khổ”. Tuy nhiên, về sau, số người đóng cổ phần
không đủ nên Hội Hợp tác người cùng khổ không thành lập được nhưng báo Người
cùng khổ vẫn được ra.
Ngày 1-2-1922, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí trong Hội Liên hiệp thuộc
địa ra lời kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung, ủng hộ Hội Liên hiệp thuộc địa, đoàn kết với nhân dân “chính quốc”. Việc
tìm ra đường lối cách mạng đúng đắn đã khó thì việc tuyên truyền, kêu goị, lấy được
lòng người càng khó hơn.
Tháng 4-1922, Báo “Người cùng khổ” ra đời. Nguyễn Ái Quốc là người phụ
trách chính trong việc xuất bản báo “Người cùng khổ”, từ việc tổ chức ban biên tập,
tòa soạn, viết bài, sửa chữa, đi in, đem báo về tòa soạn, cho đến việc gửi báo đi các
thuộc địa. Bác đã phải làm rất nhiều việc và hầu như không có thời gian nghỉ ngơi.
Việc xuất bản báo “Người cùng khổ” là một vố đánh vào bọn thực dân ở các
nước thuộc địa, nhất là ở Đông Dương, ai đọc báo “Người cùng khổ” đều bị bắt. Điều
này đã gây cản trở lớn đối với việc tiêu thụ báo cũng như tuyên truyền tư tưởng cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc. Và để duy trì, Bác đã ủng hộ rất đều mỗi tháng 25 phơ-
răng.
Năm 1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông ra tranh cử vào Hạ
viện Pháp, nhưng thất bại.
Tại Liên Xô:
Từ nửa cuối năm 1923 Nguyễn Ái Quốc chính thức hoạt động trong Quốc tế
cộng sản. Một mặt, Người tập trung nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản cả về lý luận và thực tiễn từ đất nước Liên Xô, mặt khác, chú trọng nghiên cứu về
4
vấn đề dân tộc và thuộc địa, về cách mạng giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc quan
tâm đến tư tưởng của Lênin và quan điểm, đường lối của Quốc tế cộng sản về cách
mạng thuộc địa.
Cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc vào học tại Trường Đại học Phương Đông tại
Mátxcơva. Cùng thời điểm này, Lênin ốm nặng, nên Nguyễn Ái Quốc không có cơ hội
được gặp Lênin.
Sau khi Lênin qua đời (21.1.1924) trong Quốc tế cộng sản có những quan điểm
khác nhau cả về xây dựng chủ nghĩa xã hội và về cách mạng ở các thuộc địa. Chính
sách kinh tế mới của Lênin lùi dần. Vấn đề dân tộc và thuộc địa cũng không được các
Đảng thật sự quan tâm như ở Đại hội II của Quốc tế cộng sản 1920. Điều đó đòi hỏi
Nguyễn Ái Quốc thể hiện bản lĩnh chính trị và có cách nhìn nhận riêng.
Tại Trung Quốc
Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở ba lớp huấn luyện chính trị cách mạng cho lớp
thanh niên ưu tú của Việt Nam đang có mặt tại Quảng Châu với tổng số 75 người.
Giảng viên chính của các lớp là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có một
số giảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô. Để tổ chức được ba lớp học
đó, Nguyễn Ái Quốc đã phải vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, trước hết là về trụ
sở, tài chính và các mối liên lạc.
Ngày 10/10/1929, tòa án Vinh - Nghệ An mở phiên tòa số 115 xét xử 45 chiến sĩ
cách mạng, trong đó có 7 án tử hình. Biên bản phiên tòa có ghi: "Nguyễn Ái Quốc tức
Nguyễn Tất Thành, 30 tuổi (nghĩa là sinh năm 1899), lưu vong. Án do tòa án tỉnh đề
nghị là tử hình, án do Viện cơ mật đề nghị là khổ sai chung thân". Kèm theo đó là lời
phê của Khâm sứ Trung Kỳ: "Sẽ xét xử ngay sau khi bị bắt".
Sau khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam tháng 2/1930 ở Hương Cảng, chính quyền Pháp ra thông báo số 1116 với nội
dung truy nã Nguyễn Ái Quốc. Từ đó mà Bác Hồ cũng gặp nhiều khó khăn để tiếp tục
hoạt động cách mạng.