Professional Documents
Culture Documents
Tailieunhanh Chuong 15 Lam Phat 6403
Tailieunhanh Chuong 15 Lam Phat 6403
Tailieunhanh Chuong 15 Lam Phat 6403
LẠM PHÁT
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội. Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát là thời kỳ siêu lạm phát
mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã phá
huỷ toàn bộ hệ thống chính phủ dân chủ mà nước Đức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại trong
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự tăng cường quyền lực của Đảng
phát xít do Hitler đứng đầu. Một loạt các nước Mỹ La-tinh đã lâm vào lạm phát rất cao trong
những năm 1980 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ vào năm 1982. Việt Nam
cũng như phần lớn các nước trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế
hoach hoá tập trung sang kinh tế thị trường đều trải qua lạm phát cao.
Trong phần đầu của chương chúng ta sẽ đề cập đến định nghĩa và cách đo lường lạm phát.
Sau đó, chúng ta sẽ giới thiệu các lý thuyết giải thích nguyên nhân gây ra lạm phát. Một lý
thuyết về lạm phát chỉ thực sự có í nghĩa, khi nó giải thích được thực tế là lạm phát thường
xuyên biến động và liên kết được sự tăng/giảm lạm phát với sự tăng/giảm của các biến độc
lập hay các nhân tố quyết định lạm phát. Trong phần cuối của chương, chúng ta sẽ bàn về
những tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội và mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
1. Khái niệm
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất
thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ,
mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số hàng
hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong bối cảnh
lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói
một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền hơn để
mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định.
Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là sức mua
của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong thời
kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng các cá
nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay
không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giá hơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh hơn tốc
độ tăng giá.
Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia
tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc
xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại
mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát.
Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do
đó có thể gây ra lạm phát. Chúng ta sẽ xét một tình huống như được mô tả trong Bảng 9-1.
Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, song các nhà kinh tế vẫn còn những bất
đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát mà dưới đây chúng ta sẽ
giới thiệu những lý thuyết chính.
1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây
ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này
nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực
sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao
chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các thành tố của tổng
cầu.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và
đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của
những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát
cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm
tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương
trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư
nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt
giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức
giá sẽ giảm.
P
AS0
E2
P2
P1 E0 AD2
P0
AD0 AD1
Y0 Y*Y2 Y
1
Sachs, J.D. and Larrain, F. (1993), Macroeconomics in the Global Economy, Harvester Wheatsheaf, New
York.
2
Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, khi dòng vốn từ nước ngoài chảy vào sẽ làm tăng cung về ngoại tệ. Để
ngăn cản đồng nội tệ lên giá, ngân hàng trung ương cần tung nội tệ ra để mua ngoại tệ. Kết quả là dự trữ ngoại tệ
của ngân hàng trung ương tăng, đồng thời cung tiền cũng tăng.
P
AS1
E1 AS0
P1
P0 E0
AD0
Y1 Y* Y
Hình 9-2 Lạm phát do chi phí đẩy
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công
nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do giá quốc tế
thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát
trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá
mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm
phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng hợp,
làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua các chính
sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình của nhiều
nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
3. Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu
hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ
lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước.
Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán
trong tương lai. P
AS2
AS1
P2 E2
AS0
P1 E1
AD2
P0 E0
AD1
AD0
Hình 9-3 Lạm phát ỳ Y* Y
Hình 9-3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu
cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở mức tự nhiên,
trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
3
Lạm phát ở Trung Quốc là 3,4% (năm 2003: 1,2%), Đài Loan là 1,5% (năm 2003: -0,3%), Malaixia là 1,5%
(năm 2003: 1,1%), và Thái Lan là 2,8% (năm 2003: 1,8%).
4
Trong cơ cấu của giỏ hàng tính CPI hiện tại, nhóm hàng thực phẩm chiếm 27%. Trong năm 2004, giá của
nhóm hàng này tăng 17,1%, đóp góp 53% vào sự gia tăng của CPI.
5
Tốc độ tăng cung ứng tiền tệ và dư nợ tín dụng lần lượt là 25% và 30,4% năm 2002; 21% và 27% năm 2003;
22% và 25% năm 2004. Chi ngân sách năm 2004 tăng 19% so với năm 2003 và vượt dự toán 12%. Tuy nhiên,
do thu ngân sách tăng 20,2% so với năm 2003, nên thâm hụt ngân sách vẫn được kiềm chế dưới 5% so với GDP.
6
Friedman, M. (1970) 'The Counter-Revolution in Monetary Theory', Institute of Economic Affair, Accasioanl
Paper, No 33.
89
91
93
95
97
99
01
03
05
07
19
19
19
19
19
19
19
20
20
20
20
Lạm phat M2
Hình 9-4. Tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng tiền hàng năm ở Việt Nam, 1987-2007
Tại sao người dân lại không thích lạm phát? Nếu như thu nhập danh nghĩa luôn tăng cùng với
mức giá, thì thu nhập thực tế giữ nguyên không thay đổi. Song điều này thường khó xảy ra.
Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội.
Theo tính chất người ta phân biệt lạm phát được dự tính trước và lạm phát không được dự
tính trước.
1. Đối với lạm phát được dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước là trường hợp lạm phát xảy ra đúng như dự tính từ
trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản vay, tiền lương cũng như
hợp đồng về các biến danh nghĩa khác nhìn chung được điều chỉnh thích ứng với tốc độ trượt
giá. Loại lạm phát này gây ra những tổn thất gì cho xã hội?
Thứ nhất, lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những người giữ tiền và
được gọi là thuế lạm phát. Tuy nhiên chúng ta cần thận trọng phân biệt thuế lạm phát với
thuế đúc tiền. Như chúng ta đã biết thâm hụt ngân sách xảy ra khi chính phủ chi nhiều hơn
thu nhập từ thuế. Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng đi vay hoặc in tiền. Tương tự như
thuế, tiền mới phát hành cũng là một nguồn thu của chính phủ bởi vì chi phí phát hành tiền
mới rất nhỏ, trong khi chính phủ có thể sử dụng số tiền đó để mua hàng hóa và dịch vụ. Thu
nhập mà chính phủ nhận được bằng cách in tiền được gọi là thuế đúc tiền. Tuy nhiên, một số
người phải trả cho khoản thu nhập đó của chính phủ. Thực ra, khi in tiền mới, chính phủ đã
đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được cung ứng nhiều hơn thường gây ra lạm phát và do đó
làm giảm giá trị của những đồng tiền đang lưu hành.
Có một điều chúng ta cần nhận thức đúng là bản thân thuế không phải là chi phí đối với xã
hội, nó chỉ là sự chuyển giao nguồn lực từ các hộ gia đình sang cho chính phủ. Nhưng kinh tế
học vi mô lại chỉ ra rằng hầu hết các loại thuế đều làm cho mọi người có động cơ thay đổi
hành vi để tránh thuế và gây biến dạng các kích thích này làm cho xã hội với tư cách một
tổng thể bị tổn thất. Giống như các loại thuế khác, thuế lạm phát cũng gây ra tổn thất cho xã
hội bởi vì mọi người lãng phí nguồn lực khan hiếm khi tìm cách tránh thuế. Lạm phát làm
tăng lãi suất danh nghĩa, và do đó làm giảm cầu tiền. Nếu bình quân mọi người giữ ít tiền
hơn, họ cần đến ngân hàng thường xuyên hơn để rút tiền. Sự bất tiện của việc giữ ít tiền hơn
tạo nên chi phí mòn giày, vì việc đến ngân hàng nhiều hơn làm cho “giày” của bạn chóng
mòn hơn. Tuy nhiên, không nên hiểu khoản chi phí này theo nghĩa đen của nó: chi phí thực tế
mà bạn bỏ ra để giữ ít tiền hơn không chỉ ở chỗ giày của bạn nhanh mòn, mà là thời gian và
sự tiện lợi mà bạn phải hy sinh khi giữ ít tiền hơn – cái mà bạn không phải trả khi không có
lạm phát.
Tóm tắt
Lạm phát xảy ra khi mức giá chung tăng lên. Ngược lại, nền kinh tế có giảm phát khi mức
giá chung giảm xuống. Ngày nay, chúng ta tính toán lạm phát bằng cách sử dụng chỉ số
giá. Hai chỉ số giá được sử dụng rộng rãi để đo lường mức giá chung là chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP.
Lạm phát trong mỗi thời kỳ có xu hướng dao động xung quanh một mức nhất định, đó
chính là tỷ lệ lạm phát ỳ hay tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đó là tỷ lệ lạm phát mà mọi người đã
dự đoán trước và được đưa vào trong các hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác.
Trong thực tế, các cú sốc cung và cầu thường xuyên tác động đến nền kinh tế, đẩy nền
kinh tế trệch khỏi thế cân bằng dài hạn và lạm phát trệch khỏi mức dự tính. Lạm phát do
cầu kéo xuất hiện là do tổng cầu tăng lên, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
mức tự nhiên. Lạm phát do chi phí đẩy là một hiện tượng mới của các nền kinh tế hiện
đại, xuất hiện là do chi phí sản xuất tăng và kết quả là nền kinh tế trải qua đồng thời cả
lạm phát và suy thoái.
Trong dài hạn lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ: lạm phát chỉ xảy ra khi lượng tiền
cung ứng tăng nhanh hơn sản lượng thực tế. Do đó, biện pháp cơ bản và lâu dài để chống
lạm phát là kiểm soát tốc độ tăng cung ứng tiền tệ.
Rất nhiều người nghĩ rằng lạm phát làm cho họ trở nên nghèo hơn vì nó làm tăng giá
hàng hoá mà họ mua. Tuy nhiên, quan niệm như vậy là sai lầm vì lạm phát thường cũng
làm tăng thu nhập danh nghĩa.
Các nhà kinh tế đã chỉ ra 6 tác hại của lạm phát: chi phí mòn giày liên quan đến việc cắt
giảm lượng tiền nắm giữ; chi phí thực đơn liên quan đến việc điều chỉnh giá thường
xuyên hơn; làm tăng sự biến động của giá tương đối; làm tăng gánh nặng thuế vì luật thuế
không áp dụng chỉ số trượt giá; gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện phát sinh từ sự thay đổi
đơn vị hạnh toán; và tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện giữa người đi vay và người
cho vay. Trong thời kỳ siêu lạm phát, đa số các chi phí này lớn, nhưng qui mô của các chi
phí này không rõ ràng lắm khi lạm phát ở mức vừa phải.