Professional Documents
Culture Documents
LUẬT ĐẤT ĐAI (TG)
LUẬT ĐẤT ĐAI (TG)
=====================
1
Tháng 9/2012
2
MỤC LỤC
3
- Một số nước Châu Phi......................................................................................................44
4
I. KHÁI NIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Đất đai có một vị trí đặc biệt đối với con người, xã hội, dù ở bất kì quốc gia nào
và chế độ nào. Không một quốc gia nào không có lãnh thổ, không có đất đai của mình,
nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế - xã hội của quốc gia. Dù ở đâu hay làm gì, thì các
hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người đều là trên đất đai. Bởi thế, đất đai luôn
được coi là vốn quý của xã hội, và luôn được chú tâm gìn giữ và phát huy tiềm năng từ
đất.
Quản lý đất đai là một khái niệm có thể liên quan đến những nỗ lực
của chính phủ để quản lý tài nguyên đất. Các định nghĩa về quản lý đất đai và những nỗ
lực quản lý đất đai được quốc tế chấp nhận bao gồm:
Quản lý đất đai (Land management) bao gồm các quy trình để sử dụng tài
nguyên đất có hiệu quả. Đây chủ yếu là trách nhiệm của chủ sở hữu đất. Chính
phủ cũng có mục tiêu tăng cường quản lý đất đai hiệu quả như là một phần của mục tiêu
thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội bền vững
Quản lý hành chính về đất đai (Land administration) liên quan đến việc xây
dựng cơ chế quản lý quyền đối với đất đai và sử dụng đất, quá trình sử dụng đất và giá
trị của đất đai thuộc thẩm quyền của Chính phủ để thúc đẩy quản lý đất đai hiệu quả,
bền vững và bảo đảm quyền về tài sản.
Quản trị đất đai (Land governance) thể hiện trách nhiệm của Chính phủ trong
quản lý đất đai thông qua việc tập trung vào các vấn đề chính sách và tầm quan
trọng của việc quản lý hiệu quả. Quản trị đất đai có thể được hiểu là cách chính
phủ điều hành cơ chế quản lý đất đai
Quản lý Nhà nước về đất đai có thể có nhiều nghĩa khác nhau tại các nước khác
nhau. Quản lý nhà nước về đất đai có thể đồng nghĩa với quản lý đất đai, tập trung
vào cách thức chính phủ xây dựng và thực hiện các chính sách đất đai và quản lý đất
đai cho tất cả các loại đất không phân biệt quyền sử dụng đất. Cụ thể hơn, đây là quá
trình Nhà nước quản lý đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước và giao đất cho các mục
đích sử dụng khác nhau.
Địa chính là hệ thống thông tin đất đai, cung cấp thông tin cho quản lý đất
đai về quyền đất đai, sử dụng đất và giá trị đất đai. Địa chính là một hệ thống thông
tin địa lý trong đó thông tin được kết nối với phạm vi và vị trí địa lý thông qua tọa độ và
bản đồ. Địa chính cũng bao gồm nội dung mô tả một đơn vị cơ bản trong hệ
thống thông tin, thường là một mảnh đất và đưa ra một nhận dạng duy nhất cho đơn
vị đó.
Đất đai không chỉ giới hạn là bề mặt trái đất, mà còn được hiểu như là khái niệm
pháp lý về bất động sản. Tài sản hợp pháp được định nghĩa là không gian bên trên,
dưới hoặc trên mặt đất và bao gồm một số công trình xây dựng về mặt vật
chất hoặc pháp lý gắn với tài sản đó, ví dụ một tòa nhà. Khái niệm đất đai cũng bao
gồm các khu vực có nước bao phủ.
Bản chất của quản lý đất đai hiệu quả là sự dễ dàng tiếp cận thông tin đáng
tin cậy và cập nhật về quyền sử dụng, mục đích sử dụng và giá đất. Do đó, kết
quả của quá trình quản lý đất đai là phải xây dựng được hệ thống thông tin được liên tục
cập nhật và có thể được phổ biến rộng rãi đến các chủ thể thị trường và chính phủ để
quản lý đất đai bền vững. Những thông tin về đăng ký trong nhiều trường hợp mang
5
lại quyền lợi hoặc cung cấp thông tin về quyền lợi, do vậy, cần phải đáng tin cậy và
mang tính độc lập. Đồng thời, đó là lí do tại sao ở hầu hết các nước, trách nhiệm đối
với hệ thống thông tin thuộc về chính phủ.
Quản lý nhà nước là một thuật ngữ được sử dụng chủ yếu là ở các nước nơi đất
đai thuộc sở hữu của Nhà nước để mô tả cách Nhà nước quản lý đất đai và kiểm soát
việc sử dụng đất. Tại các quốc gia có sở hữu chủ yếu tư nhân về đất đai, sự kiểm soát
của Chính phủ trong việc sử dụng đất được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống quy
hoạch sử dụng đất và hệ thống địa chính.
Một thuật ngữ khác về quản lý nhà nước đã được giới thiệu bởi các tổ chức quốc
tế trong những năm gần đây là quản lý đất đai, được định nghĩa là quá trình phát triển và
thực hiện các chính sách đất đai đối với các loại hình sử dụng đất và quản lý các tổ chức
quản lý đất đai.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.1 Chế độ sở hữu đất đai của nhóm các nước phát triển (nhóm G7)
Nhóm G7 bao gồm các nước: Anh, Đức, Canađa, Ý, Mỹ, Nhật Bản và Cộng hoà
Pháp. Xét về chế độ sở hữu nói chung, tại tất cả các quốc gia G7 đều thừa nhận quyền
tư hữu là quyền cơ bản nhất. Xét về chế độ sở hữu đất đai, các nước thuộc nhóm G7 đều
thực hiện mô hình sở hữu đất đai đa sở hữu. Đó là vừa thừa nhận sở hữu đất đai của tư
nhân và vừa thừa nhận đất đai sở hữu của nhà nước.
Tại Anh, quyền tư hữu về đất đai được pháp luật thừa nhận. Cùng với đó, luật
pháp nước Anh cũng thừa nhận đất đai thuộc sở hữu của nữ hoàng Anh (hình thức sở
hữu này chỉ mang tính tượng trưng, nặng về ý nghĩa chính trị, không có ý nghĩa về mặt
kinh tế và pháp luật). Bên cạnh đó nữ hoàng cũng có những diện tích đất thuộc QSH của
hoàng gia mà không phải là sở hữu của Nhà nước.
Tại Pháp, cũng như các nước thuộc G7 khác, chế độ sở hữu đất đai gồm hai
dạng: thứ nhất là đất đai thuộc SHNN và thứ hai là đất đai thuộc SHTN. Đối với đất đai
thuộc SHTN thì Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể sở hữu và khi
Nhà nước lấy đất thì phải trả cho chủ đất tiền theo giá quy định. Bộ phận đất đai thuộc
SHNN bao gồm nhà nước trung ương và chính quyền các địa phương.
Tại Đức, quyền tư hữu đất đai được chính quyền cộng hoà LB bảo hộ. Đồng thời,
khu vực đất công được coi thuộc sở hữu của Nhà nước bao gồm nhà nước LB và chính
quyền các bang.
Đối với Nhật Bản cũng gần như mô hình các quốc gia G7 khác, chế độ sở hữu
đất đai thừa nhận sở hữu và thừa kế của tư nhân. Các giao dịch về đất được tiến hành
thông qua thị trường. Việc giao dịch đó đặt dưới sự kiểm soát của các cơ quan quản lý.
Đất đai cũng được quy định thuộc sở hữu của Nhật Hoàng.
Trường hợp Canađa, chế độ sở hữu được cấu trúc thành SHTN, sở hữu của chính
quyền các vùng và sở hữu của Nhà nước.
1.2. Chế độ sở hữu đất đai của nhóm các quốc gia thuộc khối XHCN cũ (Liên Xô cũ và Đông
Âu)
Các quốc gia thuộc khối XHCN (hệ thống XHCN hay còn gọi là phe XHCN)
trong thời kỳ chiến tranh lạnh (sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến khi Liên Xô sụp
6
đổ năm 1991) bao gồm: Đông Âu gồm 8 quốc gia XHCN ở Châu Âu là Ba lan, Tiệp
khắc, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari, Rumani, Bungari, Nam Tư và Anbani (Thực ra
các nước Đông Âu nằm ở vị trí ĐN và Trung Âu); Liên Xô (gồm có 15 nước cộng hòa:
Nga; Ukraina; Belarus; Uzbekistan; Kazakhstan; Gruzia; Azerbaijan; Litva; Moldova;
Latvia; Kirghiztan; Tajikistan; Armenia; Turkmenistan; Estonia); Trung Quốc; Cu Ba;
Bắc Triều Tiên; Việt Nam; Lào. Hiện nay, chỉ còn có 5 quốc gia là Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, Cuba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Lào và Việt Nam tiếp tục lựa
chọn thể chế nhà nước XHCN, do các Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tuy nhiên, mô hình
CNXH của các nước này cũng khác nhau và khác với mô hình CNXH hiện thực của
Liên Xô cũ, khác với mô hình CNXH theo quan điểm của C.Mác. Trong đó, Trung
Quốc tự nhận là mô hình CNXH mang đặc sắc Trung Quốc (nhưng thực chất là mô hình
CNTB nhà nước toàn trị một Đảng), các quốc gia còn lại không có chủ thuyết riêng, về
tổ chức bộ máy và hình thái kinh tế xã hội cũng không rõ ràng theo mô hình nào. Đặc
trưng của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây là nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, dựa trên chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu
(trong đó đặc biệt là đất đai). Tuy nhiên, chế độ công hữu về đất đai của các nước thuộc
khối XHCN cũng không hoàn toàn giống nhau: Ở Trung Quốc trước năm 1978 là
SHTD, sau này Hiến pháp năm 1982 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Điều 10 quy
định rõ ràng: Đất đai đô thị thuộc SHNN, đất đai nông thôn và khu ngoại ô đô thị, đất
làm nhà ở và đất tự lưu, đồi núi tự lưu cũng thuộc về sở hữu tập thể; Ở Liên Xô, trong
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN LB Xô Viết Nga thông qua ngày 10 tháng 6 năm
1918 nêu rõ: “Để thực hiện xã hội hóa đất đai, công bố bãi bỏ SHTN về đất đai và toàn
bộ quỹ đất được công bố là tài sản chung của toàn dân và được chuyển giao miễn phí
cho nhân dân lao động sử dụng, trên cơ sở phân phối bình quân. Toàn bộ đất rừng, lòng
đất, mặt nước đều thuộc về Sở hữu toàn dân (SHTD)” 1. Chế độ SHTD về đất đai ở Liên
xô trước đây và SHNN về cơ bản được hiểu đồng nhất, nhưng sau này, ở LB Nga,
SHNN về đất đai được làm rõ hơn.
LB XHCN Nam Tư không đi theo mô hình kinh tế của khối các nước XHCN lúc
đó, chế độ sở hữu nói chung, trong đó có đất đai thuộc sở hữu của nhiều thành phần
kinh tế, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, cho phép SHTN về đất đai.
1.3. Chế độ sở hữu đất đai của các nước có nền kinh tế chuyển đổi - Các nước thuộc
Liên Xô cũ và Đông Âu
Các nước có nền kinh tế chuyển đổi thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu hiện nay thực
hiện chế độ đa sở hữu về đất đai. Sau khi chuyển đổi sang hệ thống chính trị TBCN từ
năm 1991, chế độ sở hữu đất đai của LB Nga cũng thay đổi theo. SHTD về đất đai được
thay thế bởi chế độ đa sở hữu gồm sự thừa nhận QSH của tư nhân về đất đai và sở hữu
của nhà nước. Hiện nay, nước Nga có khoảng 10 triệu hộ gia đình đang sở hữu và sử
dụng một số lượng lớn diện tích đất vườn và đất thuộc trang trại gia đình; gần 12 triệu
nông dân đang sở hữu đất dưới hình thức cổ phần với mức cổ phần trung bình là 10 ha
và còn có rất nhiều hình thức sử dụng, sở hữu khác như thuê đất, sử dụng đất thừa kế.
Cuộc cải cách đất đai ở nước Nga được tiến hành trên cơ sở bãi bỏ sự độc quyền của
Nhà nước, để chuyển sang hình thức phải trả tiền và công khai hóa hoạt động của thị
trường đất đai.
Thừa nhận QSH của tư nhân. Tuy nhiên, phần đất đai thuộc SHNN vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số quỹ đất của các quốc gia này. Việc giao dịch QSH đối với loại tài
sản là đất đai được thừa nhận và phải thực hiện đăng ký với cơ quan quản lý đất và quy hoạch
1
Hiến pháp nước CHXHCNLBXV Nga năm 1918.
7
cấp quận, huyện. Các hoạt động giao dịch chuyển nhượng QSH tài sản đất đai phải thực hiện
đóng thuế chuyển nhượng tài sản.
Tên nước QSH tư nhân Chiến lược tư nhân Chiến lược Khả năng chuyển
hoá phân bổ nhượng
Albani Tất cả đất đai Phân phối Chia khoảnh Mua bán, cho thuê
Bungari Tất cả đất đai Hoàn trả Chia khoảnh Mua bán, cho thuê
CH Séc Tất cả đất đai Hoàn trả Chia khoảnh Mua, bán, thuê
Hungari Tất cả đất đai Hoàn trả, phân phối Chia khoảnh Mua, bán, thuê
Ba Lan Tất cả đất đai Bán đất của nhà nước Chia khoảnh Mua, bán, thuê
Rumani Tất cả đất đai Hoàn trả và phân phối Chia khoảnh Mua, bán, thuê
Nguồn: World Bank, Chính sách đất đai cho phát triển và nghèo đói, 2003, trang 185
Hungari và Rumani là các ngoại lệ, vì hai nước này thực hiện chế độ sở hữu đất
đai mang tính hỗn hợp, thông qua chiến lược tư nhân hoá đất đai. Ngoài việc được hoàn
trả cho chủ cũ, đất đai cũng được phân chia cho công nhân nông nghiệp để đảm bảo
công bằng xã hội. Đó là cách thức thực hiện chế độ tư nhân đa sở hữu về đất đai của các
nước này nói riêng và của các nước Đông Âu nói chng. Như vậy, khái quát lại, sau giai
đoạn chuyển đổi, hiện các nước Đông Âu đang thực hiện chế độ SHTN về đất đai.
1.4. Chế độ sở hữu đất đai của các nước đang phát triển
Nhóm các nước đang phát triển hiện nay chiếm đa số các quốc gia trên thế giới,
có trình độ phát triển kinh tế vẫn ở mức trung bình và thấp. Về chế độ chính trị, các
nước đang phát triển theo đuổi những mô hình chế độ chính trị hết sức đa dạng. Tuy
nhiên, khái quát nhất có thể thấy nổi lên hai loại hình chế độ sở hữu đất đai, đó là chế độ
SHTN và chế độ SHNN về đất đai. Trong số đó, Trung quốc, Việt Nam và Lào được
xem là các trường hợp ngoại lệ.
Riêng đối với chế độ SHTN hoàn toàn, trên thực tế rất khó có quốc gia đang phát
triển nào thực hiện chế độ SHTN tuyệt đối về đất đai. Vì vậy, hình thức sở hữu còn lại
cơ bản là chế độ đa sở hữu về đất đai. Tức là, đất đai đồng thời có thể thuộc sở hữu của
tư nhân hoặc của nhà nước. Điều này được ghi nhận trong luật pháp của rất nhiều quốc
gia đang phát triển thuộc các khu vực địa lý khác nhau. Chẳng hạn trong luật đất đai của
các quốc gia như: Apghanistan, Belarut, Indonexia, Kazakhstan, Ả rập, Singapore, Thái
Lan… đều quy định đất đai thuộc SHNN và tư nhân.
Đối với Trung Quốc, chế độ sở hữu về đất đai là chế độ công hữu. Nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa thi hành chế độ công hữu XHCN về đất đai - đó là chế độ
SHNN và chế độ sở hữu tập thể của quần chúng lao động.
Ở Ixraen, hầu hết đất đai thuộc SHNN, Nhà nước thực hiện cho thuê đối với các
nông dân hoặc những doanh nghiệp, với hợp đồng thuê đất có thời hạn từ 49 đến 99
năm2. Như vậy, đối với trường hợp Ixraen, chế độ sở hữu là chế độ SHNN về đất đai.
Tại Nam Phi, Luật CCRĐ 1997 của nước này quy định: đất đai thuộc sở hữu của người
lao động, đất công thuộc SHNN, đất của các chính quyền địa phương. Như vậy, về cơ
bản, Nam Phi thực hiện chế độ SHNN về đất đai. Đối với Mozambich, đất đai thuộc
SHNN và nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai. Tại Mông Cổ, đất đai
thuộc sở hữu của Nhà nước và tư nhân. Các loại đất có thể thuộc QSH của các cá nhân
người Mông Cổ hoặc các công ty, tổ chức người nước ngoài. Như vậy, Mông Cổ thực
2
Nguồn: World Bank, Chính sách đất đai cho phát triển và nghèo đói, 2003, trang 72
8
hiện chế độ đa sở hữu, trong đó có thừa nhận cả SHTN của người nước ngoài về đất
đai3.
Đối với khu vực Mỹ Latinh, hầu hết các quốc gia đang phát triển ở khu vực này
thực hiện chế độ đa sở hữu về đất đai, trong đó sở hữu của nhà nước không phải là phần
cơ bản.
1.5. Chế độ sở hữu đất đai của một số nước ASEAN
STT Tên nước Văn bản luật quy định Hình thức sở hữu
Luật thu hồi đất 1949, Luật đất đai
1 Brunây Tư hữu, Quốc Vương
2000
Sở hữu quốc vương
SHTN
2 Campuchia Luật đất đai 2001
Sở hữu chính phủ
Sở hữu tập thể
Quy định của Tổng thống về đất đai SHNN
3 Đông Timo
2006 SHTN
SHNN
Quy định của Chính phủ về quản lý SHTN
4 Indônexia
đất đai 2004 Đất nông nghiệp thuộc
SHNN
5 Lào Luật đất đai 1997 SHTD
SHNN
6 Malaixia Luật đất đai 1960
SHTN
7 Mianma Hiến pháp (điều 18) SHNN
SHNN
8 Singapore Luật đất đai 1978
SHTN
SHNN
9 Thái Lan Luật đất đai 2008
SHTN
Hiến pháp 1980; 1992
10 Việt Nam SHTD
Luật đất đai 1988;1993; 2003
3
Luật Đất đai của Mông Cổ - Chương II, phần 6, năm 2002
9
đất cơ sở dịch vụ công cộng và thư giãn, Giao thông vận tải, các cơ sở lắp đặt kỹ thuật,
và các loại đất xây dựng khác.
Ngoài ra còn có loại đất khác được điều tra là những loại mà không thể gán vào
phân loại được sử dụng nào được trình bày ở trên. Ví dụ, "các vị trí” có phần đất xây
dựng cũng như đất rừng. Đất đai trong “Vườn quốc gia” thường là đất rừng, vũng bùn
hoặc bãi đá trần. Ví dụ về loại sử dụng đất đặc biệt được giám sát bao gồm được các
vùng, vùng nhỏ, đất tập trung cho nghỉ dưỡng cuối tuần và các kỳ nghỉ, và của các nơi
làm việc bên ngoài địa phương, công viên quốc gia, những vùng núi cao, đất chăn thả
tuần lộc, các đảo, và các trạm năng lượng gió, vùng rủi ro và khu tiếng ồn.
- Trung Quốc
Có 2 văn bản Luật chính điều chỉnh về điều tra đất đai: Luật về quản lý đất đai,
ban hành năm 1986 và Văn bản quy định việc thi hành Luật quản lý đất đai.
Luật quản lý đất đai nêu rõ: “Hệ thống điều tra đất đai sẽ được thiết lập trong
cả nước. Điều tra đất đai được tiến hành bởi các cơ quan hành chính quản lý về đất đai
trực thuộc chính quyền địa phương ở các cấp, cùng với các cơ quan khác có liên quan
cùng cấp. Chủ sở hữu đất đai hoặc người sử dụng đất sẽ phối hợp trong quá trình điều
tra, và cung cấp các thông tin và dữ liệu liên quan”.
Kết quả của cuộc điều tra đất đai liên quan đến hiện trạng sử dụng đất sẽ được
công bố rộng rãi tới người dân sau khi đã được chính quyền địa phương kiểm tra tính
chính xác và được chính quyền địa phương cấp cao hơn phê duyệt. Đối với kết quả điều
tra toàn quốc, kết quả sẽ được công bố rộng rãi sau khi được Hội đồng Nhà nước phê
duyệt. Các quy định về điều tra đất đai sẽ do Cơ quan hành chính phụ trách đất đai
thuộc Hội đồng Nhà nước, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng.
- Rumani:
- Việc quản lý sản phẩm đo đạc bản đồ địa chính bởi Cơ quan Địa chính và Đăng
ký đất đai quốc gia Rumani. Để quản lý tốt sản phẩm và thống nhất trên toàn quốc, Cơ
quan Địa chính và Đăng ký đất đai quốc gia Rumani thực hiện các công việc sau:
+ Ban hành quy định về Quy phạm kỹ thuật đo vẽ lập bản đồ trên phạm vi cả
nước;
+ Cấp giấy phép hoạt động đo đạc lập bản đồ địa chính cho tổ chức và cá nhân;
+ Tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm.
- Hoạt động đo đạc lập bản đồ địa chính ở Rumani do các đơn vị tư nhân thực
hiện.
- Để thực hiện việc đo đạc thống nhất, Chính phủ đầu tư các nội dung sau:
Thiết lập hệ quy chiếu Quốc gia;
Xây dựng hệ thống lưới tọa độ thống nhất trên phạm vi cả nước phục vụ
cho công tác đo vẽ thửa đất;
Thiết kế và xây dựng mô hình cơ sử dữ liệu thống nhất từ Trung ương.
11
Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất được duyệt, Chính phủ giao chỉ
tiêu chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích khác cho từng tỉnh. Trên
cơ sở đó, các tỉnh giao chỉ tiêu này cho từng huyện, xã để thực hiện.
Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất:
a. Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia: Tổ chức lập và thực hiện quy hoạch đất
đai quốc gia, quy hoạch tổng thể sử dụng đất và các quy hoạch chuyên ngành khác;
tham gia vào việc thẩm tra quy hoạch tổng thể đô thị trình Quốc vụ viện phê chuẩn, chỉ
đạo và thẩm tra quy hoạch tổng thể sử dụng đất của địa phương.
b. Cơ quan quản lý đất đai thuộc UBND cấp tỉnh: Tổ chức lập và thực hiện quy
hoạch đất đai quốc gia, quy hoạch tổng thể sử dụng đất và các hạng mục chuyên ngành
khác trong khu vực hành chính của mình; tham gia vào việc thẩm định quy hoạch tổng
thể đô thị trình Quốc vụ viện, UBND cấp tỉnh phê duyệt, chỉ đạo và thẩm định quy
hoạch tổng thể sử dụng đất của thành phố (thuộc tỉnh – sau đây gọi là “thị xã”), huyện.
c. Cơ quan quản lý đất đai thuộc UBND 2 cấp huyện: Căn cứ vào quy hoạch
tổng thể sử dụng đất của cấp trên, tổ chức lập và thực hiện quy quy hoạch tổng thể sử
dụng đất và các quy hoạch chuyên ngành có liên quan trong khu vực hành chính của
mình.
d. Phòng tài nguyên đất đai cấp xã (thị trấn): Căn cứ vào quy hoạch tổng thể sử
dụng đất của cấp trên tham gia vào việc lập và thực hiện quy hoạch tổng thể sử dụng đất
trong khu vực hành chính của mình, hợp tác và hỗ trợ làm tốt công tác lấy ý kiến quần
chúng đối với quy hoạch.
Thẩm quyền phê duyệt quy hoạch sử dụng đất:
Chính phủ phê duyệt quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, các thành phố thuộc tỉnh nhưng có trên 1 triệu dân (như: Nam
Ninh, Quảng Châu), các đặc khu kinh tế (như: Thâm Quyến, Chu Hải). UBND cấp tỉnh
phê duyệt quy hoạch sử dụng đất của các đơn vị hành chính cấp huyện và quy hoạch sử
dụng đất của cấp xã.
Sơ đồCơ
thẩm
Cơ quanquyền
quan chịu phê
chịu
trách
tráchnhiệm
nhiệm
CẤP THỊ XÃ
CẤP HUYỆN
Phê chuẩn
Văn phòng Đất đai và Tài
nguyên Phê chuẩn
15
Huyện thường thực thi một "chính sách đất đai tích cực" có nghĩa là thu mua đất,
xây dựng hạ tầng và đưa vào phát triển. Khi huyện cần đất để tiến hành một dự án, có
thể các chủ sở hữu đất từ chối không bán lại đất. Trong trường hợp này, huyện có thể
cưỡng chế thu mua đất (theo quy định của Luật Cưỡng chế thu mua).
Nói chung, trên thực tế việc cưỡng chế mua ít khi xảy ra. Huyện sẽ đề xuất giá mua
lại đất dựa trên giá đất phải trả khi cưỡng chế. Giá này vào khoảng 2 lần giá trị hiện tại
của đất vì còn được tính thêm cả chi phí di chuyển, mất hoa lợi ...
Huyện có quyền thu mua đất với giá trước khi công bố quy hoạch. Điều này đã
được quy định trong Luật. Giá đất có thể dựa theo giá thị trường, giá thoả thuận hoặc do
toà án quyết định. Nếu huyện tạo ra các dịch vụ hoặc xây cơ sở hạ tầng, nhờ đó các chủ
liên quan được hưởng lợi thì huyện có quyền đòi hỏi các chủ sở hữu phải trả một phần
hoặc toàn bộ các chi phí cho việc phát triển dịch vụ và hạ tầng.
- Hoa Kỳ
Bộ trưởng Bộ Nội vụ cùng với sự tham gia của công chúng phải thống nhất với các
thuật ngữ và điều kiện trong đạo luật này, từ đó phát triển, duy trì, và duyệt lại khi tích
hợp các kế hoạch sử dụng đất ở các vùng hay diện tích sử dụng đất công. Cần phát triển
kế hoạch sử dụng đất công mà không cần tính tới việc đất đai trước đó đã được phân
loại, thu hồi, dành riêng hoặc chỉ cho một hoặc nhiều lợi ích khác.
Trong việc phát triển và duyệt lại kế hoạch sử dụng đất, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
cần phối hợp kế hoạch sử dụng đất thuộc hệ thống rừng quốc gia với quy hoạch sử dụng đất
và các chương trình quản lý dành cho các tộc người Ấn Độ, cùng với các thứ khác, xét đến
chính sách ủng hộ cho các chương trình quản lý tài nguyên đất thuộc bộ lạc.
Trong việc phát triển và duyệt lại kế hoạch sử dụng đất, nên:
(1) Sử dụng và tuân theo việc sử dụng cân đối và hài hòa cũng như duy trì sản
lượng liên tục;
(2) Sử dụng cách tiếp cận đa ngành mang tính hệ thống có suy xét tích hợp các
yếu tố vật lý, sinh học, kinh tế và các khoa học khác;
(3) Ưu tiên chọn lựa và bảo vệ các diện tích có lợi ích môi trường thiết yếu;
(4) Dựa vào sự đánh giá sẵn có trong bản tóm tắt về đất công, tài nguyên đi kèm
cũng như các ý nghĩa khác;
(5) Xem xét việc sử dụng hiện tại và tiềm năng sử dụng đất công;
(6) Xem xét tính khan hiếm tương đối của các giá trị liên quan và sự sẵn sàng của
các phương thức lựa chọn (bao gồm cả tái chế) cũng như nơi nhận thực rõ được những
giá trị đó;
(7) Cân nhắc ích lợi dài hạn so với ích lợi trong ngắn hạn;
(8) Tạo ra sự tuân thủ các luật về kiểm soát ô nhiễm có thể áp dụng bao gồm
không khí, nước, tiếng ồn và các tiêu chuẩn ô nhiễm khác hoặc các kế hoạch thực hiện
của Liên bang; và
(9) Trong chừng mực phù hợp với các luật quy định về quản lý đất công, phối
hợp kiểm kê sử dụng đất, quy hoạch và các hoạt động quản lý đất công cùng với quy
hoạch sử dụng đất và các chương trình quản lý của các Bộ và cơ quan Liên bang, chính
quyền các bang và địa phương.
Bất kỳ sự phân loại đất công hay kế hoạch sử dụng đất công nào có hiệu lực vào
ngày ban hành đạo luật này đều phải được xem xét lại trong quá trình quy hoạch sử
16
dụng đất được tiến hành trong mục này, và mọi loại đất công bất kể việc phân loại ra
sao đều phải tính vào mọi kế hoạch sử dụng đất được phát triển theo mục này. Bộ
trưởng Bộ Nội vụ có thể sửa chữa hoặc hủy bất kỳ phân loại nào cho phù hợp với kế
hoạch sử dụng đất như trên.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thể đưa ra các quyết định quản lý để triển khai các kế hoạch
sử dụng đất đã phát triển hoặc sửa đổi lại trong mục này tuân theo những điều sau:
(1) Những quyết định đó bao gồm (nhưng không giới hạn) ở việc loại trừ (loại bỏ
hoàn toàn) một hoặc nhiều hơn một quyền hoa lợi cơ bản hoặc chính yếu (principal or
major uses) thông qua một quyết định quản lý nằm dưới sự phê duyệt lại, sửa chữa và
thậm chí hủy bỏ liên quan đến kế hoạch sử dụng đất bởi Bộ trưởng hoặc đại diện của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ.
(2) Bất cứ quyết định hay hành động quản lý nào đi theo một quyết định quản lý
loại trừ (loại bỏ hoàn toàn) một hoặc nhiều quyền hoa lợi cơ bản hoặc chính yếu trong
hai hoặc nhiều năm từ một trăm nghìn mẫu trở lên Bộ trưởng Bộ Nội vụ cần báo cáo tới
Hạ nghị viện và Thượng nghị viện. Nếu trong vòng 90 ngày kể từ ngày đưa ra thông
báo (trừ những ngày nghị viện nghỉ làm hơn ba ngày liên tiếp), Quốc hội sẽ tiếp nhận
một giải pháp nhất trí về việc không tán thành các hành động hay quyết định quản lý,
sau đó Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ nhanh chóng hủy bỏ các hành động hay quyết định quản
lý đó. Nếu trong khoảng thời gian 90 ngày nói trên, ủy ban tìm kiếm giải pháp không
báo cáo muộn nhất là 30 ngày làm việc sau khi được chuyển giao, cần giải tán ủy ban
không cho xem xét giải pháp đó sâu hơn nữa hoặc giải tán ủy ban không cho xem xét
thêm bất cứ giải pháp nào khác cho các hành động hay quyết định đã nêu. Kiến nghị về
việc giải tán có thể do cá nhân ủng hộ một giải pháp, và cần được ban đặc quyền (ngoại
trừ việc kiến nghị không được đưa ra sau khi ủy ban đã báo cáo về giải pháp đó), và cần
giới hạn việc tranh cãi trong thời gian tối đa là một giờ, nhằm chia đều giữa bên ủng hộ
và bên phản đối giải pháp. Không nên đưa vào trình tự sửa đổi kiến nghị nhằm xem xét
lại việc bỏ phiếu tán thành hay không tán thành bản kiến nghị. Trường hợp bản kiến
nghị giải tán được chấp thuận hoặc không chấp thuận, sẽ không lập kiến nghị các giải
pháp khác về cùng hành động hay quyết định quản lý. Khi ủy ban tái bản, hoặc bị giải
tán không cho xem xét sâu hơn một giải pháp, vẫn cần đưa vào trình tự (bất kể việc một
bản kiến nghị trước đó cho cùng một vấn đề không được thông qua) đi đến việc cân
nhắc giải pháp. Bản kiến nghị cần được ban đặc quyền và không thể có bàn cãi. Không
nên đưa việc sửa đổi kiến nghị vào trật tự, và không nên tạo ra tiền lệ dẫn tới việc xem
xét lại mức bỏ phiếu tán thành hay không tán thành kiến nghị.
(3) Có thể sử dụng việc thu hồi nêu trong mục 204 trong đạo luật này để thực
hiện các quyết định quản lý, nhưng cần bỏ hoặc phục hồi đất công khỏi Luật Mỏ 1872
(Mining Law of 1872) đã sửa đổi trong (R.S. 2318–2352; 30 U.S.C. 21 et seq.) hoặc
chuyển tới một Bộ, vụ hoặc cơ quan khác chỉ bằng hành động thu hồi thực hiện theo
mục 204 hoặc các hành động khác theo luật: Từ đó chỉ ra rằng, không gì trong mục này
có thể ngăn một công ty sở hữu chính phủ toàn bộ khỏi việc bị thu hồi và giữ các quyền
giống như một công dân theo Luật Mỏ 1872.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ cần tạo cơ hội cho công chúng tham gia và thông qua quy định
xây dựng các thủ tục bao gồm cả việc lắng nghe công chúng khi phù hợp nhằm tạo đủ sự
chú ý cho chính quyền Liên bang, bang và khu vực cũng như tạo cơ hội phê bình và tham
gia vào việc lập kế hoạch và chương trình liên quan đến quản lý đất công.
17
- Canada
Canada là một liên bang có 10 tỉnh, trong đó mỗi tỉnh có độc quyền về đất đai và
tài nguyên, do đó chính phủ trung ương không có vai trò trong việc lập quy hoạch sử
dụng đất. Mỗi tỉnh đều có hệ thống quy hoạch riêng. Các hệ thống này có sự khác biệt,
nhưng nguyên tắc là khá giống nhau.
Thành phố và chính quyền địa phương xây dựng kế hoạch phát triển (như quy
hoạch tổng thể) và các quy hoạch vùng (zoning plan). Các chính quyền cấp tỉnh xây
dựng khuôn khổ pháp lý cho việc lập kế hoạch và quy hoạch và đóng vai trò hoạch định
chính sách và giám sát. Trong trường hợp tỉnh có sự quan tâm mạnh mẽ trong một vấn
đề, tỉnh sẽ quy định các hoạt động một cách trực tiếp. Ví dụ như bảo vệ đất nông
nghiệp. Thông thường chính quyền cấp tỉnh kiểm soát trực tiếp việc phân chia đất đai.
Công tác quy hoạch sử dụng đất được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật của
cơ quan lập pháp tỉnh, với một đạo luật đặc biệt cho thành phố thủ đô và một Luật Quy
hoạch cho 200 thành phố còn lại. Theo Luật Quy hoạch chính quyền tỉnh xây dựng
chính sách sử dụng đất, khu quy hoạch hoặc mỗi thành phố lập kế hoạch phát triển, và
các thành phố xây dựng bản quy hoạch đất đai (zoning by law) trong đó bao gồm kế
hoạch chi tiết và các quy định về sử dụng đất và các tiêu chuẩn phát triển.
Quá trình tư vấn và phê duyệt kế hoạch phát triển được thiết kế để đảm bảo phối
hợp với các kế hoạch của các bộ và cơ quan khác. Thứ nhất, kế hoạch phát triển phải
tuân thủ các chính sách chính thức của tỉnh, mà một số trong đó bảo vệ lợi ích của các
Bộ khác. Thứ hai, các cơ quan khác phải được tham vấn trong quá trình chuẩn bị kế
hoạch. Thứ ba, nếu họ không đồng ý với một kế hoạch phát triển được đề xuất, họ có
thể khiếu nại đến một hội đồng đặc biệt. Thứ tư, Chủ tịch Chính quyền địa phương phải
phê duyệt kế hoạch, và thường kế hoạch sẽ không được phê duyệt nếu có phản đối từ
một cơ quan chính quyền khác. Trong thực tế, xung đột giữa chính quyền địa phương và
các cơ quan khác trong nhiều trường hợp được giải quyết bằng thỏa thuận trong quá
trình tham vấn và thực hiện.
Mức độ Tài liệu Thủ tục và phê chuẩn
quy hoạch
Trung ương Các chính Có một quy định của Nội các.
(Tỉnh) sách sử Không có thủ tục được quy định cụ thể.
dụng đất
cấp tỉnh
Khu vực (hai Chiến lược - Do các khu quy hoạch và thành phố cùng chuẩn bị;
hay nhiều hơn vùng - Tham khảo ý kiến Chủ tịch Chính quyền địa phương; Họp
khu quy công khai; Được phê chuẩn bằng nghị quyết của khu quy
hoạch hoặc hoạch hoặc Hội đồng thành phố.
thành phố) -
tùy chọn
Khu quy Kế hoạch -
Do khu quy hoạch hay thành phố chuẩn bị.
hoạch hay phát triển -
Nghiên cứu và khảo sát; Tham vấn với các Bộ; Họp công
một thành phố khai; Trình Bộ trưởng phê duyệt; Kế hoạch phát triển phải
phù hợp với các chính sách sử dụng đất cấp tỉnh; Phê duyệt
cuối cùng bằng nghị quyết của khu quy hoạch hoặc Hội
đồng thành phố.
Khu quy Kế hoạch Tương tự như bản quy hoạch đất đai (zoning by law).
hoạch hay thứ cấp
một thành phố
- tùy chọn
18
Thành phố Bản quy - Do thành phố chuẩn bị.
hoạch đất - Họp công khai; Phê duyệt cuối cùng bằng nghị quyết Hội
đai đồng thành phố; Những người phản đối có thể khiếu nại với
hội đồng khu quy hoạch hoặc một hội đồng đặc biệt của
tỉnh; Bản quy hoạch đất đai phải phù hợp với kế hoạch phát
triển.
Đối với kỳ quy hoạch, Luật quy hoạch không quy định khoảng thời gian này.
(Cho đến năm 2005 khoảng thời gian này là năm năm, mà đã được chứng minh là
không thực tế.) Sau khi xem xét, Hội đồng có thể thay đổi kế hoạch, nhưng phải đi qua
các thủ tục phê duyệt quy định ở trên.
Lưu ý rằng kế hoạch phát triển không hết hạn sau một khoảng thời gian mà vẫn
có hiệu lực cho đến khi được thay thế bằng một kế hoạch mới.
- Úc
Công tác quy hoạch sử dụng đất của Úc được quy định trong pháp luật về đất đai, nhà
ở, nhà chung cư, pháp luật về ngân hàng và thế chấp tài sản liên quan đến đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất được lồng ghép trong quy hoạch tổng thể phát triển địa
phương và quy hoạch xây dựng. Quy hoạch sử dụng đất được duyệt có vai trò rất lớn
trong việc phát triển kinh tế - xã hội:
Quy hoạch sử dụng đất, cùng với quy hoạch hệ thống hạ tầng (cấp điện, cấp
nước, vệ sinh môi trường,…) được tích hợp đồng bộ trên nền bản đồ địa chính và khai
thác phục vụ cho công tác quản lý đất đai nói chung, cụ thể như: cung cấp thông tin, cấp
giấy chứng nhận,…
4. TÀI CHÍNH, ĐỊNH GIÁ ĐẤT, THU HỒI, BỒI THƯỜNG ĐẤT ĐAI, TÁI ĐỊNH CƯ
4.1. Khái quát những quy định của Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc
19
Quốc cho các công trình • Xác định danh mục các công trình công cộng và tiến
công cộng (2009) hành khảo sát cơ bản về các đối tượng và tài sản bj ảnh
hưởng
• Đàm phán về các điều khoản và điều kiện của LAR với
các bên liên quan
• LAR bao gồm thời hạn áp dụng các biện pháp tái định
cư, thời gian, địa điểm, và các vấn đề liên quan đến hồ
sơ đăng ký
Úc Đạo luật quản lý đất đai • Chuẩn bị kế hoạch khảo sát
WA1997 điều. 170 • Chuẩn bị kế hoạch triển khai
Ngày công bố dự án (Ngày thông báo)
21
Hình thức bồi thường
Ấn Độ Đạo luật thu hồi đất đai, • Các gia đình bị ảnh hưởng có thể lựa chọn nhận một
Phần III, điều 23 (1), khoản tiền đền bù, thay vì một hay nhiều lợi ích được
(2) quy định trong luật (đất, nhà ở,..) khi có sự chấp thuận
Chính sách quốc gia về của cơ quan nhà nước
tái định cư và ổn định
cuộc sống sau tái định
cư 2007,(điều 48)
Hàn Đạo luật về thu hồi đất • Bồi thường được trả bằng tiền mặt. Các chủ sở hữu tài
Quốc cho các công trình sản bị thu hồi có thể lựa chọn các hình thức khác, không
công cộng (2009), Điều phải tiền mặt, bao gồm đất thay thế hoặc nhà ở xã hội
63
Úc Luật về thu hồi tài • Bồi thường được trả bằng tiền mặt
sản1989
Luật quản lý đất đai
WA1997 (Art. 189 (2)
Bồi thường Đất nông nghiệp
Ấn Độ Đạo luật thu hồi đất đai, • Giá thị trường của thửa đất tại thời điểm thông báo sẽ
Phần III, điều 23 được cân nhắc để quyết định mức bồi thường
Chính sách quốc gia về
tái định cư và ổn định
cuộc sống sau tái định
cư 2007,(điều 20)
Hàn Đạo luật về thu hồi đất • Giá thị trường
Quốc cho các công trình
công cộng (2009), điều
71(2)
Úc Luật về thu hồi tài • Giá thị trường
sản1989
Luật quản lý đất đai
WA1997 (Điều. 189 (2)
Bồi thường Công trình xây dựng
24
Bồi thường đối với Người thuê đất
Giám sát
28
Nước Quy định Nội dung
Trung Luật quản lý đất đai • Tranh chấp về quyền chủ sở hữu hoặc quyền sử dụng
Quốc của TQ (2004) đất sẽ được giải quyết thông qua đàm phán giữa các
Điều 16 bên, nếu đàm phán không thành công, sẽ do chính
Quy định về trưng quyền địa phương giải quyết
mua nhà trên đất • Tranh chấp giữa các đơn vị sẽ được giải quyết bởi chính
thuộc sở hữu nhà quyền địa phương ở cấp trên cấp quận, tranh chấp giữa
nước và bồi thường cá nhân hoặc giữa cá nhân và đơn vị sẽ được giải quyết
(2011), ở cấp thị xã hoặc cấp quận hoặc cấp cao hơn
• Nếu các bên liên quan không chấp nhận quyết định của
chính quyền địa phương, tranh chấp sẽ được đưa ra tòa
án trong vòng 30 ngày sau khi các bên nhận được thông
báo về quyết định
• Người nông dân được phép đưa khiếu kiện ra tòa, tuy
nhiên, theo báo cáo năm 2007 của ADB, hiện tại, các
khiếu kiện này không thể xử lý ở tòa do mức phí cao và
các hạn chế khác
Ấn Độ Đạo luật thu hồi đất • Ombudsman: được chỉ định để giải quyết khiếu kiện
đai, Phần II, điều 4 • Ombudsman được quyền cân nhắc và xử lý các khiếu
Chính sách quốc gia kiện liên quan đến tái định cư – các quyết định của cơ
về tái định cư và ổn quan quản lý
định cuộc sống sau tái
định cư 2007,(điều
20)
Hàn Đạo luật về thu hồi • Thành lập Ủy ban về bồi thường với vai trò là cơ quan
Quốc đất cho các công trình tư vấn về quyền của người dân
công cộng (2009) • Thành viên của Ủy ban này là quan tòa, luật sư, cơ quan
công chứng, giáo sư và quan chức của các cơ quan liên
quan, ít nhất 1/3 số thành viên phải là người dân bị ảnh
hưởng
• Hầu hết các khiếu kiện về kinh tế và sức khỏe được xử
lý ở Ủy ban này
Úc Luật về thu hồi tài sản • Úc có tòa án riêng về đất đai
1989 (điều 52- 65) • Luật cũng quy định rõ đối tượng được đòi bồi thường,
những gì có thể được bồi thường và cách xử lý bồi
thường, theo đó, chỉ những người có lợi ích bị ảnh
hưởng mới có quyền đòi bồi thường
29
Ấn Độ Đạo luật thu hồi đất Định nghĩa hộ gia đình bị ảnh hưởng bao gồm những người
đai, Phần II, điều 4 dân bị mất đất ở, đất nông nghiệp hoặc 1 trong 2 trường
Chính sách quốc gia hợp, những người đã có thời gian ở, kinh doanh liên tục
về tái định cư và ổn trong thời gian từ 5 năm trở lên trong khu vực bị ảnh
định cuộc sống sau tái hưởng trước ngày công bố dự án, và những người mà
định cư 2007 (điều nguồn thu nhập của họ bị ảnh hưởng
3(iii)
Hàn Đạo luật về thu hồi • Các tòa nhà được xây dựng không phép thì không được
Quốc đất cho các công trình bồi thường. Các tòa nhà nhà xây không phép trước hoặc
công cộng (2009) vào ngày 24/1/1989 thì được coi là hợp pháp và do đó
chi phí xây dựng lại được bồi thường
• Những người được sắp xếp địa điểm tái định cư là chủ
sở hữu của tòa nhà hợp pháp và những người (kể cả
người đi thuê) đã sống trong tòa nhà trước ngày công bố
dự án. Và do đó, những đối tượng sau sẽ không được
xét
a. Chủ sở hữu tòa nhà không phép. Tuy nhiên, những
tòa nhà xây không phép trước 24/1/1989 vẫn được
bồi thường
b. Chủ sở hữu tòa nhà không sinh sống trong tòa nhà
ấy trước ngày công bố dự án. Tuy nhiên, điều này
không áp dụng khi người chủ sở hữu có lí do hợp lý
như điều trị về y tế, phục vụ trong quân đội, các dịch
vụ công, giáo dục hoặc lí do hợp pháp khác
• Để có thể được nhận bồi thường, người kinh doanh cần
phải có cơ sở kinh doanh đầy đủ trang thiết bị (bao gồm
cả nhân công) và có mặt bằng sản xuất, kinh doanh hợp
pháp trước ngày công bố dự án
Úc Luật về thu hồi tài • Những công trình xây dựng bất hợp pháp sẽ không được
sản1989 bồi thường. Tuy nhiên, do việc quản lý đất đai khá chặt
Luật quản lý đất đai chẽ, nên những trường hợp như vậy không nhiều
WA1997 (Điều 189
(2))
+ Hình thức giá: Qua nghiên cứu cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đều sử
dụng giá thị trường làm cơ sở để xác định giá của đất đai. Bảng dưới sẽ cho chúng ta
thấy một số ví dụ về hình thức giá, quy định trong các bộ luật liên quan đến tài chính
đất của các nước trên thế giới. Trong số đó, Úc là nước sử dụng rất nhiều loại giá đất
khác nhau tùy theo từng mục đích.
+ Cơ quan thẩm định giá, kiểm soát giá đất: Trong tổng số 27 nước có quy định về
định giá đất trong các luật có liên quan cho thấy: Có 12 nước không có quy định về cơ
quan, tổ chức định giá đất; Có 9 nước có quy định Nhà nước có vai trò trong định giá
đất; 4 nước quy định cơ quan định giá độc lập và 1 nước quy định cả Nhà nước và cơ
quan độc lập có vai trò trong định giá đất là Úc.
35
Sau khi thửa đất chuẩn được định giá, căn cứ vào thông tin giá đất thị trường để
xây dựng hệ số phân vùng, hệ số cụ thể của các thửa đất trong khu vực định giá hoặc
hợp phần định giá, làm cơ sở để định giá đến từng thửa đất áp dụng vào quá trình định
giá hàng loạt quy mô lớn. Để áp dụng định giá hàng loạt đến từng thửa đất từ thửa đất
chuẩn, tại Úc đã xây dựng phần mềm CAMA để hỗ trợ cho việc phân tích thông tin giá
đất thị trường, hỗ trợ định giá.
Các thửa đất sau khi được định giá đều được thẩm định, kiểm tra bằng các thông
tin về giá đất thị trường đã thu thập, giá hiện hành để bảo đảm chất lượng của kết quả
định giá.
Quy trình định giá riêng lẻ
Việc định giá đất cụ thể đối với từng thửa đất trong trường hợp tính bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất, thế chấp quyền sử dụng đất/bất động sản và các giao dịch dân
sự khác. Việc định giá đất riêng lẻ được thực hiện theo loại đất, từng mục đích định giá.
Căn cứ vào loại đất, thông tin giá đất thị trường, giá thuê đất, sau đó áp dụng các
phương pháp định giá đất để xác định giá đất.
Các tổ chức định giá đất độc lập sử dụng giá đất thị trường từ nguồn các trang
web chuyên cung cấp thông tin giao dịch bất động sản, thông tin từ Văn phòng đăng ký
đất đai để xác định sơ bộ giá của thửa đất cần định giá. Sau đó, định giá viên sẽ kiểm tra
thực địa đối với hồ sơ thửa đất, hiện trạng đất và các tài sản gắn liền với đất, các công
trình kết cấu hạ tầng và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá trị bất động sản để thực hiện
việc định giá.
Giải quyết khiếu kiện về giá đất
Việc khiếu kiện về giá đất là quyền của các chủ sở hữu bất động sản. Việc khiếu
kiện và giải quyết khiếu kiện thực hiện qua các bước:
Bước 1. Khiếu kiện đối với kết quả định giá
Nếu một tổ chức, cá nhân cho rằng một giá trị định giá của Nhà nước là không
chính xác thì tổ chức, cá nhân cần gửi một đơn khiếu kiện (bằng văn bản) tới Văn phòng
định giá. Việc khiếu kiện được thực hiện trong vòng 60 ngày, kể từ ngày tổ chức, cá
nhân nhận được thông báo về thuế lần đầu tiên từ các cơ quan có thẩm quyền.
Bước 2. Giải quyết khiếu kiện
Tổng định giá chỉ đạo Văn phòng định giá xem xét, giải quyết khiếu nại của tổ
chức, cá nhân về giá đất trong thời gian 45 ngày. Kết quả giải quyết do Tổng định giá
ký gửi cho tổ chức, cá nhân. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của Tổng định
giá, tổ chức, cá nhân có thể thuê tổ chức tư vấn giá đất để tiến hành định giá độc lập như
miêu tả trong Bước 3.
Bước 3. Định giá đất độc lập
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết, trong vòng 21 kể từ ngày nhận được
văn bản giải quyết của Tổng định giá, tổ chức, cá nhân có thể thuê chuyên gia định giá
độc lập để xem xét lại kết quả định giá. Khi nộp đơn xem xét định giá, tổ chức, cá nhân
cần nộp một khoản phí theo quy định.
Nếu kết quả của chuyên gia định giá độc lập lớn hơn 10% so với kết quả định giá
thì giá trị định giá đó sẽ được chấp thuận và phí nộp đơn khiếu nại sẽ được hoàn lại cho
người khiếu nại.
Bước 4. Lựa chọn khiếu kiện khác
36
Nếu vẫn không hài lòng với kết quả xem xét lại giá trị định giá của chuyên gia
độc lập, tổ chức, cá nhân đó có thể khởi kiện lên Tòa án về đất đai và định giá theo quy
định của Tòa án tối cao.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất
Tại Úc, cơ sở dữ liệu về giá đất bao gồm dữ liệu giá đất do Nhà nước quy định,
dữ liệu giá đất thị trường được cập nhật hàng ngày lên hệ thống thông tin đất đai (LIS)
do cơ quan quản lý và dịch vụ đất đai của từng bang quản lý đã được đầu tư xây dựng
hoàn thiện, thường xuyên được cập nhật; đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho Nhà
nước, tổ chức và người dân.
- Anh:
Hệ thống đăng ký đất đai của Anh là hệ thống đăng ký bất động sản (đất đai và
tài sản khác gắn liền với đất) tổ chức đăng ký theo một hệ thống thống nhất có Văn
phòng chính tại Luân Đôn và 14 văn phòng khác phân theo khu vực (địa hạt) phân bổ
đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ Anh Quốc và Xứ Wales. Mọi hoạt động của hệ thống
đăng ký hoàn toàn trên hệ thống máy tình nối mạng theo một hệ thống thống nhất (máy
làm việc không kết nối với INTERNET, chỉ nối mạng nội bộ để bảo mật dữ liệu).
37
Cơ sở của đăng ký được quy định rất chặt chẽ trong Luật đăng ký đất đai (Land
Registration Act) được sửa đổi và ban hành mới vào năm 2002, có hướng dẫn chi tiết
vào năm 2003 (Registration Rules) và được cập nhật, chỉnh sửa bổ sung vào năm 2009.
Trước năm 2002 Văn phòng đăng ký đất đai hoạt động theo địa hạt. Bất động sản thuộc
địa hạt nào thì đăng ký tại Văn phòng thuộc địa hạt đó. Tuy nhiên, từ khi có Luật đăng
ký mới (năm 2002) và khi hệ thống đăng ký hoạt động theo hệ thống đăng ký điện tử thì
khách hành có thể lựa chọn bất kỳ Văn phòng đăng ký nào trên lãnh thổ Anh.
Một điểm nổi bật trong Luật đất đai và Luật đăng ký có quy định rất chặt chẽ về
đăng ký, bất kỳ người nào sở hữu đất đai và bất động sản trên lãnh thổ Anh đều phải
đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai; Nhà nước chỉ bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp
của chủ sở hữu có tên trong hệ thống đăng ký.
Cho đến năm 1994, Anh đã chuyển toàn bộ hệ thống đăng ký từ hệ thống đăng
ký thủ công trên giấy sang hệ thống đăng ký tự động trên máy tính nối mạng, dùng dữ
liệu số. Dữ liệu số là dữ liệu có tính pháp lý nếu dữ liệu đó do Văn phòng đăng ký đất
đai cung cấp. Điều này được quy định cụ thể trong Luật đăng ký và Luật đất đai.
Về đối tượng đăng ký: Theo Luật đất đai của Anh lấy đơn vị thửa đất làm đơn vị
đăng ký, các tài sản khác gắn liến với đất được đăng ký kèm theo thửa đất dưới dạng
thông tin thuộc tính. Về chủ sở hữu chỉ phân biệt sở hữu cá nhân và sở hửu tập thể (sở
hữu chung, đồng sở hữu...)
- Hoa Kỳ
Các bang ở Hoa Kỳ đều có luật đăng kí và hệ thống thi hành hoàn chỉnh. Bất kì
yếu tố nào về quyền sở hữu của một thửa đất ở một hạt nào đó đều có thể tiến hành đăng
kí ở hạt đó. Quy định này là để bảo vệ quyền lợi cho người sở hữu đất đai. Mục đích đăng
kí là nói cho người khác biết người mua đất đã có quyền sở hữu đất đai. Nếu mua đất
không đăng kí thì có thể bị người bán đất thứ hai gây thiệt hại. Luật đăng kí bảo vệ quyền
lợi người mua đất cho quyền ưu tiên đối với người đăng kí. Ví dụ A chuyển nhượng
mảnh đất cho B sau đó lại chuyển nhượng cho C như vậy về mặt lí thuyết thì B có quyền
ưu tiên, tuy nhiên theo luật cộng đồng ai đăng kí trước người đó được ưu tiên trước. Nếu
C đăng kí trước B thì C có quyền ưu tiên về mảnh đất đó. Luật đăng kí đất yêu cầu người
mua đất lập tức phải tiến hành đăng kí để chứng tỏ quyền sở hữu của đất đã thay đổi,
đồng thời cũng để ngăn chặn người đến mua sau tiếp tục mua, kể cả việc đi lấy sổ đăng kí
trước. Yêu cầu có liên quan về việc đăng kí là: Về nội dung, có thể đăng kí được bất kì
các yếu tố nào có liên quan như khế ước, thế chấp hợp đồng chuyển nhượng hoặc yếu tố
có ảnh huởng đến quyền lợi đất đai; Phía bán đất phải thừa nhận hợp đồng mua bán qua
công chứng, cung cấp điều kiện để ngăn chặn giả mạo; về mặt thao tác thì người mua đất
hoặc đại diện của mình theo hợp đồng, khế ước nộp cho nhân viên đăng kí huyện để vào
sổ đăng kí, tiến hành chụp khế ước và xếp theo thứ tự thời gian.
Đăng ký chứng thư của Mỹ có mục tiêu "tránh những vụ chuyển nhượng có tính
gian lận, để đảm bảo cho bất kỳ người nào muốn thực hiện giao dịch cũng có thể biết có
những quyền tài sản và lợi ích nào thuộc về hoặc liên quan tới mảnh đất hoặc ngôi nhà
cụ thể". Việc đăng ký văn tự giao dịch được triển khai lần đầu tiên theo Luật Đăng ký
của Mỹ năm 1640 và đã được phát triển ra toàn Liên bang.
Các điều luật về Đăng ký được phân loại theo cách thức mà nó giải quyết các vấn
đề về quyền ưu tiên và nguyên tắc nhận biết. Các điều luật được chia thành 3 loại: quy
định quyền ưu tiên theo trình tự, quy định về quyền ưu tiên theo nguyên tắc nhận biết và
quy định hỗn hợp.
38
Điều luật theo nguyên tắc trình tự dành quyền ưu tiên cho giao dịch đăng ký
trước. Một giao dịch được đăng ký sẽ thắng một giao dịch chưa được đăng ký dù cho
giao dịch chưa đăng ký được thực hiện trước. Điều này dễ bị lợi dụng để thực hiện các
giao dịch có yếu tố gian lận.
Điều luật theo nguyên tắc nhận biết: không dành quyền ưu tiên cho trình tự đăng
ký. Người mua nếu không biết được (không được thông tin) về các tranh chấp quyền lợi
liên quan tới bất động sản mà người ấy mua thì vẫn được an toàn về pháp lý.
Điều luật hỗn hợp phối hợp cả 2 nguyên tắc trên và là một bước phát triển lô gic
với các quy định như sau: Một người mua sau được quyền ưu tiên so với người mua
trước nếu không biết về vụ giao dịch trước và người mua sau phải đăng ký trước.
Cũng như đặc điểm chung của đăng ký chứng thư, hệ thống này ở Mỹ, dù theo
nguyên tắc ưu tiên trình tự đăng ký hay theo nguyên tắc khác, vẫn là một hệ thống đăng
ký chứng cứ về các quyền chứ chưa phải bản thân các quyền. Người mua vẫn phải điều
tra một chuỗi các văn tự của các vụ mua bán trước và phải điều tra tại chỗ xem người
bán có đúng là chủ sở hữu và hoàn toàn có quyền bán hay không.
- Scotland
Hệ thống đăng lý giao dịch Scotland triển khai năm 1617 theo một đạo luật của
Thượng viện Scotland, hệ thống đăng ký chứng thư có mục tiêu đảm bảo an toàn pháp
lý cho các giao dịch, đảm bảo tính công khai và tiếp cận dễ dàng. Sự an toàn pháp lý
được bảo đảm thông qua luật dành quyền ưu tiên pháp lý cho các giao dịch đã đăng ký.
Tính công khai được đảm bảo bằng luật quy định bất kỳ công dân nào cũng có quyền
khảo cứu sổ đăng ký để lấy thông tin cần thiết. Tính dễ tiếp cận thể hiện qua việc chính
quyền tạo điều kiện để việc cung cấp thông tin được nhanh chóng và rõ ràng. Tương
phản với hệ thống đăng ký của Anh vốn duy trì "bí mật cá nhân" tới năm 1990, hệ thống
đăng ký đất đai ở Scotland là hệ thống công khai ngay từ buổi đầu hình thành và phát
triển.
Quy trình đăng ký theo hệ thống tại Scotland:
- Đăng ký thông tin khai báo;
- Lập biên bản và đăng ký vào Sổ Biên bản;
- Hồ sơ gốc;
- Bảng tra cứu.
Các Hồ sơ gốc và các Sổ biên bản được gửi tới Văn phòng Đăng ký Scotland để
cho công chúng có thể tra cứu lấy thông tin. Như vậy một lượng lớn hồ sơ và giấy tờ
phải được lưu giữ lâu dài. Trong hệ thống đăng ký quyền, các văn tự chỉ cần lưu trữ một
thời gian cần thiết để nhập thông tin vào hệ thống sổ đăng ký và phục vụ thẩm tra.
Văn tự giao dịch sau khi được đóng dấu đăng ký sẽ được đóng dấu chính quyền
(official stamp) trên từng trang và trao lại cho người nộp hồ sơ.
- Hà Lan
Hệ thống đăng ký đất đai ở Hà Lan là một hệ thống đăng ký chứng thư phát triển.
Trên cơ sở Hệ thống hồ sơ đăng ký văn tự giao dịch đã được duy trì hàng trăm năm, khi
có một giao dịch được đăng ký, hệ quả pháp lý của giao dịch đó là tình trạng pháp lý
hiện hành của đất đai sau khi thực hiện giao dịch (actual legal situation) được rút ra và
đăng ký vào một hệ thống hồ sơ riêng biệt một cách có hệ thống và theo trình tự chặt
chẽ (theo hệ thống thửa đất), hệ thống đăng ký này gọi là Hệ thống địa chính Hà Lan.
Sự chuẩn xác của hệ thống đăng ký chứng thư kết hợp với hồ sơ địa chính mang lại hiệu
39
quả tương tự như một hệ thống đăng ký quyền. Sự chuẩn xác của hệ thống đăng ký văn
tự giao dịch phụ thuộc chủ yếu vào 2 yếu tố, đó là việc duy trì hệ thống hoạt động liên
tục và quy trình pháp lý xác định chủ quyền. Việc xác định chủ quyền ở đây được hiểu
là một quá trình mà tất cả các quyền đang tồn tại liên quan đến một thửa đất được khẳng
định một cách dứt khoát, đúng thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký. Cần phân biệt
khái niệm xác định quyền và xác lập quyền. Xác định chủ quyền được thực hiện đối với
quyền đang tồn tại, còn xác lập quyền là việc tạo ra một quyền mới mà trước đó chưa
có. Hệ thống đăng ký đất đai hiện nay ở Hà Lan là một hệ thống đăng ký nhà nước, do
cơ quan nhà nước thực hiện. Tuy nhiên, do hệ thống này vận hành có hiệu quả kinh tế,
phí dịch vụ thu được của hệ thống (không tính thuế đất đai nộp vào ngân sách) lớn tới
mức đủ để hệ thống cơ quan này hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.
- Thụy Điển
Tại Thụy Điển, toàn bộ quá trình từ quyết định ban đầu tại Quốc hội về việc cải
cách đến khi hoàn thiện mất khoảng 25 năm. Trong đó, khoảng 10 năm dành để điều tra
bằng các câu hỏi đưa ra về việc cải cách này. Các câu hỏi liên quan đến việc có thể tách
riêng hệ thống đăng ký đất và hệ thống tài sản hay không, cấu trúc của cơ sở dữ liệu, tập
trung ở cấp trung ương hay theo các vùng, và hệ thống định danh tài sản.
Hệ thống thông tin đất đai (LIS) tích hợp các thông tin đăng ký đất đai và địa
chính vào một hệ thống bao gồm những phần sau: Đăng ký tài sản, xác định các đối
tượng trong hệ thống (thửa đất, các đơn vị tài sản), Đăng ký đất đai, xác định các quyền
đối với các đối tượng, Thiết lập và địa chỉ, Thuế và giá trị, Lưu trữ dạng số.
Là một hệ thống tích hợp nên LIS mang lại hai ưu thế nổi trội như sau:
- Về phổ biến thông tin : nguồn thông tin có liên quan đến đất đai được phổ
biến tới người dùng theo một cách thống nhất
- Về quản lý hệ thống: việc quản lý các thông tin liên quan đến đất đai được
thực hiện một cách tiết kiệm, hiệu quả
Mô hình hệ thống dựa trên một thiết kế kiến trúc mà môi trường quản lý/cập nhật
quản lý đất đai được tối ưu hóa cho các quy trình làm việc kết hợp với các thủ tục pháp
40
lý và Hệ thống phân phối được tối ưu hóa cho việc cung cấp, trao đổi và trình diễn dữ
liệu. Mô hình này bao gồm 4 phần về nền tảng tương kết và giao tiếp bằng các định
dạng tệp cụ thể dựa trên XML/GML.
- Rumani:
Cơ sở dữ liệu BDUST:
Cơ sở dữ liệu đất đai Rumania (BDUST) nhằm mục đích quản lý ở các cấp quốc
gia, huyện và xã, được phân cấp tổ chức thực hiện theo xã, huyện và tỉnh.
Nội dung dữ liệu được xác định bằng các yêu cầu sử dụng ở các cấp độ khác
nhau (quốc gia, huyện, xã, trang trại) và khả năng tương thích trong hệ thống chung của
châu Âu. Mô hình dữ liệu được xác định phù hợp với từng loại đất và xác lập mã cho
từng loại, nhưng cũng có một số mô hình mô phỏng các loại đất. Đặc tính của đất được
xác định theo phương pháp khảo sát hiện có với một số chi tiết kỹ thuật, mở rộng và các
khái niệm mới. Tổ chức không gian sơ cấp là đơn vị thửa đất (UT), mang lại từ sự
chồng lớp của các lớp không gian / đơn vị: về khí hậu đồng nhất khu vực (ACO) - địa
lý, khí hậu, đất đơn vị (Mỹ) và "sinh thái đồng nhất lãnh thổ (Teo)”, do đó UT hoàn
toàn được đặc trưng bởi ba ACO-US-teo.
Tiêu chuẩn cho việc thiết lập nội dung dữ liệu BDUST và định dạng dữ liệu thiết
lập nội dung dữ liệu của các cơ sở dữ liệu BDUST, ba yêu cầu cơ bản đã được đưa vào
mã hóa:
(1) các dữ liệu theo yêu cầu của các phương pháp / mô hình và các thuật toán
được sử dụng cho quá trình xử lý dữ liệu và giải thích để đáp ứng cho người sử dụng
yêu cầu hiện tại (Florea et al, 1987; Vlad năm 2001; MAAP, 2002.): Đánh giá sự phù
hợp đất cho mục đích sử dụng, đánh giá khả năng sử dụng đất chính và xây dựng báo
cáo cụ thể khác nhau theo yêu cầu của các quy định về khảo sát đất;
(2) dữ liệu theo yêu cầu của dữ liệu khác trong tương lai có thể là cho người sử
dụng khác nhau, đặc biệt là dựa trên một số mô hình mô phỏng quá trình sử dụng đất;
(3) các dữ liệu khác theo yêu cầu của hệ thống hỗ trợ quyết định quản lý đất đai
bền vững (Vlad, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005)
Về việc thiết lập định dạng dữ liệu, một số nguyên tắc được sử dụng:
(a) sử dụng các con số như mã số cho các đặc điểm và các chỉ số khác nhau, để
làm giảm nguy cơ lỗi điều hành người dùng và tăng lưu trữ xử lý;
(b) sử dụng, nếu có thể, các giá trị của dữ liệu thay vì các lớp học của các giá trị,
để sử dụng dễ dàng và chính xác hơn dữ liệu khác nhau (hiện tại hoặc tương lai) các
phương pháp được áp dụng, hoặc trong các trường hợp thay đổi mô hình, cũng như để
loại bỏ các công việc hệ thống hóa và rủi ro lỗi của thiết lập lớp học;
(c) sử dụng pedo-chuyển giao chức năng để xác định nguồn gốc các dữ liệu, để
có thể giảm thiểu số lượng dữ liệu chính phải được khảo sát thực địa để loại bỏ các lỗi
tính toán và các rủi ro của người sử dụng ;
(d) bao gồm một số dữ liệu backup, để sử dụng trong các trường hợp của một số
dữ liệu bị mất;
(e) giới thiệu các chỉ số mới (không được sử dụng trong phương pháp luận hiện
có), được coi là cần thiết để sử dụng cơ sở dữ liệu trong tương lai;
(f) lưu trữ một số dữ liệu thu được có giá trị quan trọng hoặc được sử dụng
thường xuyên, để tăng hiệu quả xử lý.
41
- Úc
Bang Tây Úc
Hệ thống thông tin đất đai Tây Úc (WALIS) được thiết lập từ năm 1981, đã trở
thành hệ thống thông tin đất đai sớm nhất tại Úc sử dụng công nghệ hệ thống thông tin
địa lý trong việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai. Để xây dựng một hệ thống thông
tin đất đai hiện đại và hiệu quả, một số nguyên tắc chính đã được đề ra khi tiến hành xây
dựng hệ thống, bao gồm: thông tin là tài sản có giá trị; hệ thống phải đáp ứng mục tiêu
đề ra và người khai thác hệ thống trở thành mục tiêu quan tâm; thông tin thu thập một
lần, sử dụng nhiều lần; phải có sự kết hợp thông tin, chia sẻ tài nguyên với giá trị gia
tăng; chi phí duy trì, bảo dưỡng hợp lý, hiệu quả; có đăng ký phân quyền, bảo mật, duy
trì mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý thông tin.
Với lịch sử gần ba mươi năm, WALIS đã đạt được nhiều thành công trong việc
xử lý các vấn đề liên quan đến quản lý thông tin địa lý cũng như thông tin đất đai, hỗ trợ
tích cực cho cơ chế truy cập thông tin đất đai. Điều này được thể hiện qua mối quan hệ
giữa công tác quản lý, lưu trữ thông tin, thương mại, siêu dữ liệu và phân quyền truy
cập thông tin của hệ thống.
Mô hình quản lý và các thành phần chính của WALIS: sơ đồ dưới đây mô tả về
mô hình quản lý của WALIS và giới thiệu sơ bộ về các thành phần chính làm nên thành
công của WALIS.
Bang Victoria
Tại Victoria, một hệ thống thông tin đất đai đã được phát triển với mô hình hiện đại
nhằm cung cấp dịch vụ đăng ký đất đai, bất động sản trực tuyến qua mạng Internet.
Theo thống kê, chỉ có khoảng 10% lượng giao dịch hàng năm được thực hiện theo hình
thức “mặt đối mặt” giữa cán bộ thực hiện giao dịch và người dân, tổ chức có nhu cầu,
khoảng 90% số giao dịch còn lại được thực hiện trong vòng 24h qua hệ thống cung cấp
dịch vụ hệ thống thông tin đất đai.
Trung tâm thông tin đất đai là một đơn vị dịch vụ của ngành quản lý đất đai Bang
Victoria, cung cấp các dịch vụ truy cập thông tin và các dịch vụ có liên quan như thực
hiện các giao dịch đất đai và bất động sản, quy hoạch và phát triển quỹ đất. Ngoài ra,
Trung tâm cũng là đơn vị cung cấp các dịch vụ về ảnh hàng không, anh viễn thám nhằm
các mục đích từ thương mại đến kiểm soát ô nhiễm, chống khủng bố và các dịch vụ
khác cho các tổ chức có nhu cầu.
42
Hệ thống đăng ký đất đai Bang Victoria được thực hiện dựa trên nguyên tắc bảo hộ
của nhà nước về những gì nhà nước đã chứng nhận trên giấy chứng nhận quyền sở hữu.
Hệ thống đăng ký có vai trò và chịu trách nhiệm về quản lý giấy chứng nhận sở hữu đất
đai theo Bộ Luật chuyển nhượng đất đai năm 1958, được sửa đổi, bổ sung năm 1998.
Hệ thống cung cấp dữ liệu đất đai LANDATA ® là dịch vụ trực tuyến cung cấp
thông tin về đất đai ở tiểu bang Victoria. Các lĩnh vực hoạt động của LANDATA® bao
gồm: tìm kiếm thông tin về giấy chứng nhận quyền sở hữu đất và các giấy tờ liên quan
theo quy định của pháp luật, các chỉ số liên quan, giấy chứng nhận về tài sản, thông tin
về tài sản, giấy chứng nhận quy hoạch và chất lượng dữ liệu.
Trong những năm vừa qua, đã có những gia tăng đáng kể trong hoạt động của
LANDATA® về tìm kiếm các thông tin về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ 10%
tương đương với 0,8 triệu lượt tìm kiếm năm 1998 tăng lên 100% tương đương với 2,2
triệu lượt tìm kiếm gần đây.
Hệ thống giao dịch đất đai điện tử tại Victoria đã được xây dựng và vận hành
trong nhiều năm với các thành tựu đặc biệt. Theo thống kê, có trên 90% các giao dịch
đất đai được thực hiện thông qua công cụ điện tử trực tuyến, chỉ có dưới 10% giao dịch
được thực hiện thông qua tiếp xúc trực tiếp giữa người giao dịch với các cán bộ của
ngành quản lý đất đai Victoria. Hệ thống giao dịch đất đai điện tử cho phép việc tổ chức
các giao dịch được minh bạch, hiệu quả, tăng cường cải cách thủ tục hành chính của
chính quyền địa phương.
Mục tiêu chính của hệ thống là cung cấp các dịch vụ đăng ký giao dịch bất động
sản thông qua việc giải quyết các giao dịch bất động sản, các dịch vụ về đăng ký định
cư cũng như tái định cư.
Các thành phần chính của hệ thống giao dịch đất đai điện tử gồm:
Quy trình xử lý nghiệp vụ, nhằm xác định xem một giao dịch bất động sản phải
qua những bước xử lý nào, đồng thời gán trách nhiệm của từng cá nhân, nhóm cá nhân
trong các bước giao dịch đó. Quy trình xử lý nghiệp vụ được xác định cho từng loại
giao dịch bất động sản như chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, góp vốn liên
danh trong thương mại.
Dịch vụ khách hàng, xác định các nhóm dịch vụ được gắn với các nhóm khách
hàng của hệ thống, gồm người thực hiện giao dịch, các luật sư và các đo đạc viên được
cấp phép. Hệ thống cũng cung cấp dịch vụ cho các đối tượng khác có quan tâm gồm các
công tư kinh doanh bất động sản, cấp chính quyền địa phương, các trường đại học. Sản
phẩn bao gồm có sản phẩm bản đồ và sản phẩm giao dịch từ các giao dịch.
Các giải pháp đối với các vấn đề phức tạp, được xác định cho từng trường hợp
cụ thể và thông thường cần phải có ý kiến tư vấn của một hội đồng tư vấn được thành
lập khi vấn đề xuất hiện.
Phân phối sản phẩm: sản phẩn bản đồ, sản phẩn của các giao dịch điện tử được
cung cấp từ hệ thống sau khi các giao dịch được thực hiện như giấy chứng nhận sở hữu,
các hợp đồng giao dịch được xác lập.
Bang New South Wales
Hệ thống đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu Torrens có
nguồn gốc từ Bang NSW. Tại bang này, hệ thống đăng ký đã được quản lý toàn bộ qua
mạng, là một phần cơ bản của Hệ thống thông tin đất đai của bang NSW. Hệ thống
thông tin đất đai tại NSW có các đặc điểm và chức năng, nhiệm vụ như sau:
43
- Quản lý và cập nhật dữ liệu không gian và phi không gian;
- Chuẩn bị và chia sẻ các sản phẩm và dịch vụ dữ liệu không gian chất lượng cao
từ các ứng dụng dữ liệu không gian;
- Đảm bảo dữ liệu không gian và phi không gian tương thích và có thể tích hợp với
các hệ thống khác;
- Quản lý, xây dựng và phát triển các ứng dụng dữ liệu không gian;
- Cung cấp tư vấn kỹ thuật, hướng dẫn, hỗ trợ người dùng hệ các thống dư liệu
không gian khác nhau;
- Thiết kế, thực thi và hỗ trợ các giải pháp trên thiết bị di động và các ứng dụng
Web.
- Xây dựng và duy trì các tiêu chuẩn, chính sách và quy trình của tổ chức liên quan
tới việc vận hành hệ thống dữ liệu không gian và phi không gian.
Về lưu giữ/biên tập dữ liệu:
- Dữ liệu quan trọng nhất là cơ sở dữ liệu địa chính số được cập nhật hàng ngày;
- Các dữ liệu khác được xây dựng dựa trên yêu cầu hoặc một phần của dự án mới
hoặc đang tiến hành (bao gồm hệ thống GIS di động, ví dụ ArcPad);
- Biên tập các dữ liệu hiện có từ rất nhiều nguồn khác nhau bao gồm các nhà quản
lý tài sản, các dự án thương mại, nhân viên bất động sản,...
- Một số dữ liệu được xây dựng/duy trì bởi những người dùng có thẩm quyền tại
các bộ phận khác trong hội đồng thành phố (ví dụ dữ liệu LEP cho phòng kế
hoạch).
- Đài Loan
Theo Luật Đất đai Đài Loan, đất đai được chia thành 4 loại như sau:
- Loại I. Đất sử dụng cho mục đích xây dựng bao gồm nhà ở, văn phòng làm
việc, tòa nhà công, trường học, nhà máy, kho hàng, công viên, trung tâm giải trí, câu lạc
bộ, đất từ đường, đình đền, nhà thờ, doanh trại, pháo đài, cầu cảng, căn cứ không quân,
nghĩa trang,…
- Loại II. Đất sử dụng cho mục đích sản xuất, bao gồm đất nông nghiệp, đất
rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất đồng cỏ, khu vực săn bắn, đất khai thác mỏ, đất làm
muối, nguồn nước, ao hồ,…
- Loại III. Đất sử dụng cho mục đích giao thông liên lạc và bảo tồn nước, bao
gồm các tuyến đường, kênh mương, đường thủy, hồ, cảng, vịnh, bờ biển, đê…
- Loại IV. Các loại đất khác như sa mạc, núi tuyết…
Nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách về đất đai cho nhà đầu tư đã được
ban hành dựa trên nguyên tắc đặc quyền (chỉ những nhà đầu tư có quốc tịch tại các nước
cho phép công dân Đài Loan thực hiện các quyền về đất đai thì mới được thực hiện
quyền về đất đai tương tự tại Đài Loan - Điều 18, Luật Đất đai).
Mục đích sử dụng đất của người nước ngoài: Người nước ngoài có thể mua đất
sử dụng cho mục đích cá nhân, đầu tư hoặc phúc lợi xã hội để xây nhà, văn phòng công
ty, cửa hàng, nhà máy, nhà thờ, bệnh viện, trường học cho trẻ em người nước ngoài, đại
sứ quán hay lãnh sự quán, công trình phúc lợi xã hội, nghĩa trang. Ngoài ra, người nước
ngoài cũng được phép mua đất để đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng lớn, các dự án phát
triển kinh tế tổng thể hay phát triển nông nghiệp và công nghiệp chăn nuôi nếu được cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt. (Điều 19, Luật Đất đai).
Các loại đất nhà đầu tư nước ngoài không được sử dụng, chuyển nhượng, thuê
bao gồm: Đất lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, khu vực săn bắn, đất làm muối, khai thác
mỏ, nguồn nước, các khu vực và căn cứ quân sự, đất liền kề khu vực biên giới quốc gia.
(Điều 17, Luật Đất đai).
45
- Thụy Điển
Thụy Điển không có quy định riêng về việc cho sở hữu đất đai của người nước
ngoài (người nước ngoài có quyền tương đương với công dân Thụy Điển).
Đa phần các nước thuộc Liên minh Châu Âu (Đức, Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Bỉ, …) không có bất cứ hạn chế nào về sở hữu và sử dụng đất và không có quy
định đặc biệt đối với người nước ngoài sở hữu, sử dụng đất đai so với công dân trong
nước. Một nhà đầu tư nước ngoài có thể mua đất và đầu tư theo những quy định áp dụng
cho công dân bản địa.
- Một số nước Châu Phi
Hầu hết các nước Châu Phi đang áp dụng các biện pháp hạn chế về quyền sở
hữu đất đai đối với nhà đầu tư nước ngoài. Khi ký kết các hợp đồng với nhà đầu tư nước
ngoài, các nước thường giao những loại đất ít có giá trị sử dụng hoặc không sử dụng
đến.
Trừ Mauritus là nước có yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài phải có được sự phê
duyệt ở cấp Bộ trưởng, ở các nước khác, đất đai hoặc là thuộc sở hữu của Nhà nước,
hoặc là có nhiều hình thức sở hữu khác, thì các giao dịch đất đai chỉ được giới hạn cho
người dân trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể có được quyền sử dụng đất
thông qua các hợp đồng thuê, thông thường có thể gia hạn, nhưng tổng thời hạn thuê
không vượt quá 99 năm. Ngoài ra, trong việc phê duyệt giao quyền sử dụng đất cho nhà
đầu tư nước ngoài, có rất nhiều các cơ quan của Chính phủ và các tổ chức cộng đồng
mang tính truyền thồng cùng tham gia. Và ở một số nước, việc xác định được người chủ
thực sự của thửa đất đã làm gia tăng chi phí, rủi ro và gánh nặng thủ tục hành chính đối
với nhà đầu tư nước ngoài.
Ở Botswana: có 3 loại đất là đất của các bộ tộc, đất của nhà nước và đất thuộc
sở hữu công cộng (freehold land). Loại thứ 3 có thể sử dụng cho mục đích kinh doanh.
Đất của nhà nước và của các bộ tộc có thể sử dụng cho mục đích kinh doanh thông qua
việc cho thuê (và trong một số trường hợp, có thể chuyển đổi thành đất thuộc sở hữu
công cộng). Đất của các bộ tộc thường được cho thuê ngắn hạn (ít hơn 10 năm) và
không được sử dụng làm tài sản thế chấp để vay. Đất của nhà nước có thể chuyển đỏi
thành đất cho thuê dài hạn hoặc đất sở hữu công cộng (và có thể đăng ký). Riêng đất
nông nghiệp không được bán cho người nước ngoài, hoặc những công ty mà người
nước ngoài sở hữu phần lớn nếu không có sự phê duyệt của cấp Bộ trưởng. Đối với việc
ký kết hợp đồng cho thuê đất thuộc sở hữu bộ tộc vì mục đích kinh doanh, việc phê
duyệt ở cấp Bộ trưởng.
Ở Madagasca, Luật quy định rằng “các tổ chức, cá nhân nước ngoài không thể
tiếp cận trực tiếp với đất đai”. Tuy nhiên, các bên có thể tự do thỏa thuận (không cần
phê duyệt trước) để gia hạn thời gian, với tổng thời gian không vượt quá 99 năm.
Tương tự, ở Etiopia, Chính phủ sở hữu đất đai, và đất có thể được cho thuê trong
thời gian từ 20 đến 45 năm.
46